Robert A. Sirico
Văn hóa của đức hạnh, Văn hóa của thương trường
Dẫn nhập
Tôi chọn Văn hóa của đức hạnh, Văn hóa của thương trường làm chủ đề cho bài viết này vì quan hệ giữa chúng là tâm điểm của Viện Acton. Người ta thường coi văn hóa của thương trường và văn hóa của đức hạnh là những tập hợp giá trị “mềm” đối chọi nhau và đã lỗi thời và có lý do xác đáng để làm như thế. Những người tuyên xưng nền văn hóa của đức hạnh thường phê phán thị trường tự do vì nó hạ thấp đời sống của con người và biến con người thành Con người kinh tế [Homo economicus], nó chỉ có giá trị vì khả năng kiềm tiền hoặc khả năng sản xuất mà thôi.
Tôi cho rằng quan điểm phê phán như thế – rất thịnh hành trong giới hàn lâm và tăng lữ – là thiển cận, mặc dù nó xuất phát từ thực tiễn và là mối quan tâm chính đáng đối với phẩm giá của đời sống và ước muốn nâng cao nền văn hóa nhằm bảo vệ cá nhân con người trong tất cả những biểu hiện phức tạp của anh ta. Nó là thiển cận vì không đưa ra được những điểm khác biệt chủ yếu và quan trọng – mà tôi sẽ lần lượt thảo luận – và như vậy là nó loại bỏ cái có thể trở thành công cụ đầy sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng nền văn minh hướng vào sự bất tử và hướng vào tiềm năng của mỗi cá nhân con người.
Thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại không tôn trọng phẩm giá của con người. Nhưng nếu ta coi những người có thể trở thành đồng minh của chúng ta trong cuộc đấu tranh chống lại những lực lượng làm băng hoại phẩm giá của con người khi họ gặp khó khăn là do họ đã hiểu sai nền kinh tế thị trường thì đấy là một đại họa. Tôi tin rằng có thể sử dụng sự năng động của nền kinh tế thị trường nhằm củng cố văn hóa của đức hạnh. Sự tương tác, mâu thuẫn và sự hài hòa chung cuộc giữa văn hóa của thương trường và văn hóa của đức hạnh là những đề tài cần được tìm hiểu một cách căn cơ hơn.
Văn hóa của đức hạnh
Trước hết phải là rõ các định nghĩa. Văn hóa của đức hạnh là sự công nhận rằng đời sống của con người trên mặt đất không phải là thực tại tối hậu mà là thực tại áp chót (Evangelium Vitae, ch. 2)[1], và cuộc sống trên trần gian của chúng ta có mục đích vượt xa chính nó, mục đích là cuộc sống vĩnh hằng của chúng ta. Cuộc đời này chỉ là giả tạm, chỉ là giai đoạn chuyển tiếp đến cuộc sống vĩnh hằng, sao cho những gì có trong ta sẽ trở thành hạt giống cho sự sống đời đời. C. S. Lewis đã thể hiện một cách đầy thơ mộng như sau:
“Không có ai là người bình thường. Bạn chưa bao giờ nói chuyện với một người hữu sinh hữu tử. Quốc gia, nền văn hóa, nền văn minh – tất cả đều là sinh tử; so với cuộc sống của chúng ta, chúng chỉ là phù du. Nhưng những người mà bạn chơi bời cùng, làm việc cùng, sống cùng, những người bạn khinh thường và bóc lột – tất cả đều là những nỗi kinh hoàng không bao giờ mất hay là sự tráng lệ bất tử… Kẻ đứng cạnh Thánh thể, hàng xóm của bạn là báu vật thiêng liêng nhất dành cho bạn[2].”
Cuộc sống là món quà mà Thượng Đế đã ban cho chúng ta. Chúng ta phải giữ gìn cuộc sống với một trách nhiệm và sự cẩn trọng tối đa. Vì cuộc sống là quà tặng của Tạo Hóa cho nên nó mang theo giá trị linh thiêng ngay từ lúc còn trong bụng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, và mỗi người đều có quyền có một đời sống được tôn trọng ở mức cao nhất, có thể. Vì vậy mà chúng ta phải chống lại những tôn giáo không thể hiện phẩm giá của con người vì chúng đe dọa ngay chính cơ sở của nền văn minh, chúng chống lại tự nhiên và phá hoại chính bối cảnh, mà trong đó người ta được hưởng những quyền của mình.
Bất kỳ quy tắc đạo đức nào mà cho phép, thí dụ như: giết người, diệt chủng, kể cả diệt chủng nhiễm sắc thể (chromosonal genocide) và những trò hề kinh tởm của bác sỹ Kevorkian ở Mĩ, đều là trái với nền văn hóa của đức hạnh. Bất kỳ quy định đạo đức nào mà cho phép sự xúc phạm đối với phẩm giá của con người, như chế độ nô lệ, cầm tù một cách bất công và làm điếm cũng đều là trái với nền văn hóa của đức hạnh. Ta có thể nói tương tự như thế về những hệ thống chỉ coi con người là phương tiện cho những mục đích cao hơn chứ không phải là những con người tự do với phẩm giá vốn có của mình (Evangelium Vitae, ch. 2).
Nền văn hóa của đức hạnh đấu tranh nhằm bảo vệ cá nhân con người, kể cả những người yếu đuối nhất và không có khả năng tự vệ nhất. Đấy là nền văn hóa của sự bảo bọc, của lòng khoan dung và hòa bình. Nó là câu trả lời “Có” cho câu hỏi của Kinh Thánh: “Tôi có phải là người bảo vệ của người anh em của tôi hay không?” Nền đạo đức này quan tâm trước hết đến khía cạnh tinh thần, đồng thời còn chú ý đến cả chất lượng sống của con người nữa. Nó phải đấu tranh nhằm làm nhẹ bớt những nỗi khổ đau của con người và quan tâm đến việc phân bố một cách rộng rãi nhất, có thể, những nguồn lực của trái đất.
Văn hóa của đức hạnh và trật tự xã hội
Chỉ có trật tự xã hội đức hạnh – quy tắc hành xử của nó giữ cho xã hội không rơi vào hỗn loạn – mới có thể bảo vệ được phẩm giá của đời sống. Trật tự xã hội, như Russell Kirk nói[3], lớn hơn là luật pháp, mặc dù luật pháp được sinh ra từ đấy. Trật tự xã hội còn bao gồm cả phong tục, tập quán và đức tin của xã hội nữa. Muốn hiểu đúng nó thì chúng ta phải công nhận rằng xã hội dân sự gắn bó một cách không thể tách rời với tính cách của các cá nhân làm nên xã hội đó. Nếu xảy ra hiện tượng xuống cấp đạo đức, nghĩa là sự hỗn loạn trong tâm hồn của các cá nhân nằm trong xã hội đó, thì trật tự xã hội sẽ bị xấu đi.
Chúng ta có thể nung nấu trong lòng ước muốn cháy bỏng là phẩm giá của con người phải được thể hiện một cách rõ ràng trong các điều luật, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Đôi khi tôi sợ rằng những cố gắng chính đáng của chúng ta nhằm bảo đảm rằng những điều luật khuyến khích nền văn hóa nhằm củng cố và tăng cường phẩm giá của con người được thông qua, thì sự chú ý của chúng ta đã bị đi chệch hướng, đã không hướng vào trách nhiệm căn bản hơn nhằm đảm bảo rằng tự thân nền văn hóa của chúng ta (bao gồm cả các quy tắc xã hội và những định chế trung gian) – là bối cảnh cho sự hình thành luật pháp – góp phần củng cố phẩm giá của đời sống của con người.
Thương trường khuyến khích nền hòa bình giữa người với người
Liệu những người tôn trọng đạo đức có được tự do lựa chọn một trong những hệ thống kinh tế hiện hữu nhằm thúc đẩy những giá trị của họ hay không? Tôi không tin là như thế. Thí dụ, ta hãy xem xét xem chủ nghĩa xã hội quan niệm về con người như thế nào. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mọi người và mọi tài sản đều là sở hữu của nhà nước, mọi hoạt động kinh tế đều nằm dưới quyền kiểm soát của tập thể. Điều này đã dẫn tới những hậu quả khủng khiếp.
Thí dụ, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhà nước coi trẻ con như chúng vốn là trên thực tế: tiêu tốn nguồn lực của xã hội. Ludwig von Mises từng viết: “Không thể tưởng tượng được cộng đồng xã hội chủ nghĩa mà lại không có sự điều tiết một cách cưỡng bức sự phát triển dân số… ngay cả nếu cộng đồng xã hội chủ nghĩa có thể cho người ta “tự do luyến ái” thì nó cũng không thể nào cho người ta tự do sinh đẻ được.[4]”
Và ông đã nói đúng: mọi cuộc thí nghiệm xã hội chủ nghĩa đều dẫn đến những vụ cưỡng bức phá thai và hạn chế số nhân khẩu trong từng gia đình. Theo tôi, ưu việt lớn nhất của kinh doanh tự do là tính năng động đủ sức đáp ứng cho sự gia tăng một cách nhanh chóng dân số mà không bị nạn đói đe dọa. Chỉ có nền kinh tế tự do và sự gia tăng của cải mà nó mang lại mới có thể làm cho điều này trở thành khả thi mà thôi. Chủ nghĩa xã hội không thể nào làm được như thế.
Đặc điểm của thời đại ngày nay, xét về mặt kinh tế, là thu nhập gia tăng, niềm tin của người sản xuất và tiêu dùng tăng lên, cơ hội kinh doanh tăng, và sự phát triển đến kinh ngạc của công nghệ. Mặc dù các đảng phái đang tranh nhau xem ai là người đáng được khen vì những giai đoạn bùng nổ kinh tế như thế, nhưng thực ra lời khen đang hiện diện khắp nơi. Nguồn gốc của sự thịnh vượng hiện nay cũng như mãi mãi vẫn là nền kinh tế thị trường.
Thị trường không chỉ là khái niệm trừu tượng hay hệ thống sản xuất và phân phối. Thị trường còn là người dân, những người thực hành tiết kiệm và đầu tư, gánh chịu rủi ro, hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng, quan sát thương trường và thực hiện những giấc mơ của mình. Trong hoạt động kinh tế, họ là những nhà sản xuất, những người công nhân và người tiêu dùng đang cùng nhau hợp tác trong một mạng lưới trao đổi quốc tế rộng lớn, trong đó những người sống cách xa họ nửa vòng trái đất, mà họ chẳng bao giờ gặp, mua sản phẩm của họ và làm ra những sản phẩm mà họ sử dụng.
Trong một thời gian dài, các nhà triết học đã tìm cách trả lời cho câu hỏi chủ yếu của lý thuyết xã hội: xây dựng xã hội như thế nào để có thể có một nền hòa bình giữa các dân tộc, dù họ là những người khác nhau? Sự thành công của nền kinh tế thị trường cung cấp cho ta một câu trả lời: họ trao đổi. Từ những vụ trao đổi đơn giản nhất cho đến những vụ trao đổi phức tạp nhất trên thương trường người ta đều làm một việc giống nhau: những người tự nguyện trao đổi với nhau – đây chính là bản chất của thị trường – nghĩa là họ đang làm công việc nhằm làm cho ai cũng đều được thỏa mãn.
Đấy được gọi là “sự kỳ diệu của thương trường”. Không thể nào tưởng tượng nổi là hàng tỷ và hàng ngàn tỷ dollar trong quá trình trao đổi lại có thể đi khắp thế giới và đấy chính là nguồn gốc của sự thịnh vượng của gia đình chúng ta, vậy mà chúng ta chẳng cần để ý đến hoạt động của hệ thống này. Không có gì ngạc nhiên là cuối cùng thế giới đã nhận ra điều kỳ diệu của hệ thống hợp tác kinh tế toàn cầu. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy ý tưởng cho rằng nước nghèo sẽ càng nghèo hơn, còn nước giàu sẽ giàu thêm là sai.
Sự thật là trừ những nước còn tiếp tục tiến hành thí nghiệm với nền kinh tế kế hoạch hóa như Cuba và Bắc Triều Tiên, các nước nghèo đang giàu lên (thí dụ như Argentina và Trung Quốc) trong khi một số nước giàu – do việc bành trướng các kế hoạch do trung ương lập ra – mà đã gặp khó khăn (thí dụ như Đức và Pháp). David Dollar và Aart Krasy, trong một báo cáo gần đây do Ngân hàng Thế giới xuất bản, đã chứng minh rằng kinh tế phát triển làm cho thu nhập của người nghèo gia tăng theo cùng tỷ lệ với tất cả những người khác[5].
Nhưng thương trường không hoạt động một cách tự động, thị trường không được gắn la bàn đạo đức để người ta theo, văn hóa thương trường cần phải có điều kiện tiên quyết về mặt đạo đức, đấy là công nhận một số giá trị nền tảng. Những người tôn trọng thị trường cũng cần phải tôn trọng tính thiêng liêng của mỗi con người, tôn trọng sự phân phối một cách rộng rãi nhất tài sản, tôn trọng cơ hội rộng rãi nhất cho tính sáng tạo trong hoạt động kinh tế và vị trí cho mỗi người trong nền sản xuất của xã hội.
Điều đó có nghĩa là phải đặc biệt quan tâm tới định chế cực kỳ quan trọng là sở hữu tư nhân, tự do ký kết hợp đồng, cạnh tranh và sáng kiến trong kinh doanh; cũng cần phải hiểu rằng những định chế này không phải là mục đích tự thân mà là những công cụ được sử dụng nhằm vinh danh đấng Hóa Công, nhằm theo đuổi đức hạnh và lợi ích chung, nghĩa là sử dụng những cơ hội rộng rãi và thuận lợi trong khuôn khổ an toàn, tự do và tinh thần công dân.
Thị trường là định chế mạnh mẽ nhất mà ta có thể tưởng tượng được nhằm làm cho sự thịnh vượng và tính hiệu quả trở thành khả thi, nhằm thực hiện việc tính toán và phối hợp các nguồn lực trong xã hội, và đương nhiên là những điều kiện tiên quyết này là yếu tố cần thiết trong việc giúp đỡ người nghèo vì hiệu quả là điều kiện tiên quyết của quá trình phân phối. Nhưng tính hiệu quả phải được gắn vào trong khuôn khổ xã hội vì nó không chỉ là lời và lỗ. Xã hội tự do đòi hỏi những nền tảng đạo đức ngay từ nguyên tắc căn bản của chúng: sự cống hiến, lòng nhân từ, tinh thần trách nhiệm, hướng tới tương lai và tinh thần hy sinh.
Trái ngược với những khuôn mẫu do các phương tiện thông tin đại chúng dựng lên, người doanh nhân thành đạt hiểu rõ tất cả những tiêu chuẩn đó. Thành công trên thương trường xuất phát từ ước muốn phục vụ người khác, cả người tiêu dùng lẫn cổ đông; lợi nhuận bằng tiền có thể là động cơ hành động, nhưng tự bản thân, nó không thể là nền tảng của thắng lợi về mặt tài chính. Thị trường cạnh tranh buộc các doanh nhân lúc nào cũng phải nhìn ra bên ngoài và sẵn sàng phục vụ, nếu không họ sẽ mất thị phần.
Việc hướng ra bên ngoài như thế sẽ hình thành nên quan điểm xã hội của những doanh nhân thành đạt nhất; không phải ngẫu nhiên mà lĩnh vực từ thiện to lớn ở Mĩ lại do những người giàu có nhất trong xã hội tạo ra bằng cách hiến tặng tài sản của mình. Việc đóng góp cho quỹ từ thiện cũng gia tăng trong những giai đoạn kinh tế phát đạt. Đóng góp cho quỹ từ thiện là khẳng định rằng ích kỷ là không tốt, và cuối cùng thì tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm đáp ứng những nhu cầu rộng lớn hơn của con người chứ không chỉ những thứ chúng ta bắt gặp trên thương trường.
Điều đặc biệt cần nhớ là mỗi người tham gia thị trường đều không phải là do áp lực mà là hành động một cách tự nguyện. Khi hành động của chúng ta mang lại lợi ích cho người khác thì mỗi người đều được lợi. Và ngược lại, nếu thị trường tỏ ra tàn nhẫn với bất kỳ một người nào đó thì nó cũng sẽ tàn nhẫn với kẻ coi thường nhu cầu và giá trị của cộng đồng và chỉ theo đuổi tư lợi một cách mù quáng. Như vậy là, thị trường và lòng vị tha là những thực thể gắn bó với nhau và có tác dụng tăng cường lẫn nhau, nhưng không phải là chỉ cho các ông chủ tư bản mà sự liên kết còn mở rộng phạm ảnh hưởng lên toàn bộ hệ thống lao động và trao đổi nữa.
Văn hóa của thương trường giúp chúng ta làm trọn ý Chúa
Văn hóa của đức hạnh buộc chúng ta phải ước mong rằng tất cả những người có thiên hướng hoạt động đều được phép làm như thế. Trong Sáng Thế Ký, Chúa đã kêu gọi gia đình nhân loại đến với điều có thể được gọi là thiên hướng kinh doanh – Hãy sinh sản, thêm nhiều, làm cho đầy rẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng (Sáng Thế Ký, 1: 28, Kinh Thánh, Cựu Ước và Tân Ước, United Bibble Societies, bản in năm 1992 – ND) – một lời răn rõ ràng là phải làm việc và sáng tạo.
Thị trường cung cấp cơ hội tốt nhất cho người ta sử dụng khả năng sáng tạo trời cho của họ và trở thành người tham gia vào công việc xã hội một cách trọn vẹn. Những rào cản về mặt pháp lý và những sáng kiến trái khoáy do chính phủ dựng lên đẩy người dân ra khỏi nơi làm việc; ngăn cản nhiều người, không cho họ hoàn tiện khả năng của mình và không thể trở thành một phần sống động của quá trình phân công lao động của xã hội.
Văn hóa của thương trường còn có thể củng cố văn hóa của đức hạnh bằng một con đường khác nữa. Thị trường tự do – sự hợp tác một cách có kỷ luật và tự phát giữa hàng triệu triệu tác nhân riêng lẻ – tạo ra sự cải thiện điều kiện vật chất của nhân loại. Nó đã tạo ra nền y khoa hiện đại, cung cấp điện năng, nước sạch và bây giờ là khả năng tiếp cận thông tin đến những thành phần dân cư rộng rãi nhất trên thế giới.
Văn hóa thương trường thường được người ta mô tả như là “khả năng sống sót của những người phù hợp nhất”, trong đó đa số người hoặc là phải làm ra nhiều của cải hoặc là sẽ bị thương trường loại bỏ và trở thành thân tàn ma dại. Những người theo tư tưởng tập thể sẽ thuyết phục chúng ta rằng trên thực tế thị trường rất có hại đối với người nghèo. Nhưng sự thật là, nền kinh tế không bị chính trị nhúng mũi vào là phương tiện hiệu quả nhất trong việc sử dụng các nguồn lực và đáp ứng các nhu cầu của con người .
Để minh họa, tôi xin được trích dẫn một vài đoạn trong bài báo cuối cùng[6] của ông Julian Simon – một người bạn đã quá cố của tôi. Ông viết rằng mình đã tham dự một đám cưới và quan sát những người tham dự, từ những giám đốc các doanh nghiệp giàu có đến những người ăn mặc bình thường nhất. Ông nghĩ rằng cách đây hai trăm năm tổ tiên của mười chín trong số hai mươi người có mặt tại đó là những kẻ “vắt mũi chỉ đủ bỏ miệng”. Từ năm 1750 tất cả các chỉ số về điều kiện sống của người dân trong phần lớn các khu vực trên thế giới đã được cải thiện một cách đáng kể. Thí dụ như ở Anh, tuổi thọ trung bình lúc đó là khoảng 35, năm 1985 đa số dân Anh, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều sống đến khoảng 70 tuổi.
Simon chỉ ra rằng thị trường không chỉ mang đến cho chúng ta các công cụ và những món đồ tinh xảo, rằng sự phồn vinh là biểu tượng của sức mạnh chinh phục thiên nhiên nhằm mang lại lợi ích cho chúng ta. Nó còn – thông qua những ngành công nghệ do trời phú cho – cho phép chúng ta cải thiện và kéo dài cuộc sống nữa. Những khám phá làm người ta sửng sốt trong lĩnh vực y khoa rõ ràng là nhằm phục vụ con người.
Do sự gia tăng của những định chế thị trường mà những tiến bộ về mặt vật chất như thế không chỉ dành cho những dân tộc hiện đang giàu có. Theo tính toán của nhà kinh tế học Richard Easterlin[7], trong thập kỷ tới, thu nhập bình quân của các nước gọi là Thế Giới Thứ Ba sẽ bằng khoảng 80% thu nhập trung bình trên đầu người của Mĩ vào năm 1990. Còn trong xã hội của chúng ta, những người sống dưới mức nghèo khổ cũng có khẩu phần ăn khá hơn là tầng lớp quý tộc châu Âu thế kỷ XVIII. Trong suốt 100.000 năm nhân loại chỉ tìm được cách ăn đủ no, còn bây giờ vấn đế đối với đa số lại là làm sao ăn ít đi[8].
Sự phát triển của trao đổi tương đối tự do còn làm cho xã hội trở thành vô cùng năng động. Mô hình trước đây của phải tả – trong đó mỗi tác nhân kinh tế đều hoặc là người làm thuê, người chủ hay người nghèo – đã không đưa ra được bức tranh kinh tế chính xác nữa. Cách đây hai mươi năm, chỉ những người giàu có nhất mới đầu tư vào thị trường chứng khoán, còn hiện nay, một nửa giới trung lưu tham gia vào lĩnh vực này. Càng ngày càng có nhiều người có quyền sở hữu hơn. Nghĩa là lợi nhuận của công ty đã được dân chủ hóa. Hy vọng rằng nền kinh tế đang phát triển nhanh hơn bao giờ hết sẽ lôi cuốn càng ngày càng đông người tham gia hơn.
Những vấn đề của thị trường
Nhưng thị trường cũng có một số vấn đề.
Thật bất hạnh và cực kỳ nguy hiểm là nhiều người lớn tiếng ủng hộ nhất cho thị trường đã không nhìn thấy nền tảng đức hạnh của tự do. Chúng ta phải gửi tới những người cho rằng xã hội có thể coi tài khoản ngân hàng là mối bận tâm chủ yếu thông điệp mạnh mẽ sau đây: trong nền kinh tế thị trường cũng còn cả những động cơ xấu xa nữa. Mục sư, Tiến sĩ Edmund Opitz nói như sau: “Thị trường còn cho thấy những người thiếu đạo đức, thể hiện trong suy nghĩ và hành động của họ – vì theo nghĩa rộng nhất của từ này – nó vẫn chỉ là thị trường mà thôi.[9]” Không phải tất cả các phương tiện kiếm tiền đều là đức hạnh cả, còn có những giá trị lớn hơn là lợi nhuận và sự thành công trên thương trường. Trong đó giá trị của cuộc sống phải giữ vị trí hàng đầu.
Như tôi đã nói, sự bùng nổ của các ngành công nghệ trong lĩnh vực y học góp phần nâng cao phẩm giá của con người. Chúng ta có những loại thuốc làm cho người ta sống lâu hơn, chúng ta có những biện pháp phẫu thuật có thể giúp cả những đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ, chúng ta có những loại thuốc có thể làm dịu những cơn đau không thể nào chịu đựng nổi. Thị trường làm cho tất cả những tiến bộ như thế trở thành khả thi, tất cả đều nhằm nâng cao đời sống của con người.
Xin xem xét một trường hợp: Giáo sư Stephen Hawking. Cách đây ba mươi năm có thể ông đã phải nằm trong khu điều trị của bệnh viện của nhà nước, nhưng nhờ có công nghệ tiên tiến mà ông có thể trình bày trí tuệ và hiểu biết của mình (xin nói thêm là không phải tôi tán thành tất cả những điều ông nói) cho cử tọa rộng rãi trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ của công nghệ cũng lại xuất hiện những phương tiện có thể đe dọa chính cuộc sống. Khả năng tạo ra người bằng nhân bản vô tính là một trường hợp. Việc công nghệ có thể làm được một cái gì không có nghĩa là chúng ta phải làm cái đó, Acton từng nói: “Tự do mà chúng ta đang nói tới không phải là tự do muốn làm gì thì làm mà là tự do làm điều chúng ta nên làm.” Cho nên tất cả những cố gắng của chúng ta đều cần phải được hướng dẫn bởi chữ “nên” huyền bí.
Mục đích và tính chính đáng của công nghệ là nó phục vụ cộng đồng nhân loại. Nhưng nếu nhân bản vô tính con người đi quá xa ý nghĩa của nó đến mức là nhân loại có thể không còn là cha mẹ của những đứa con của mình nữa mà họ sẽ tạo ra chúng, và tất cả những gì chúng ta làm ra hay tạo ra đều là của chúng ta thì điều đó sẽ hạ thấp phẩm giá đời sống của con người và dẫm đạp lên quan niệm về tính bất khả xúc phạm nhân quyền và phẩm giá của con người.
Thị trường phải dựa trên cơ sở đạo đức của đời sống hay đạo đức của tôn giáo. Và trong khi những câu hỏi mang tính đạo đức về cuộc sống và sự chết chắc chắn không phải bao giờ cũng dễ hiểu, nhưng những câu hỏi này không xuất hiện trong chân không đạo đức vì nhiều người còn phải sống và chết với những nguồn lực giới hạn. Đức hạnh trong ngành y và công nghệ y học là những vấn đề khác nhau, và đạo đức phải thâm nhập vào công nghệ.
Sự tiến bộ của công nghệ không chứa đứng trong nó nguyên lý đạo đức nội tại làm kim chỉ nam cho chính nó. Nếu đúng là nó cải thiện điều kiện sống của nhân loại thì nó phù hợp với đạo đức của cuộc đời, nó phải có tiêu chuẩn đạo đức khách quan làm kim chỉ nam.
Chủ nghĩa tiêu thụ
Chủ nghĩa tiêu thụ – được nhiều người coi là nền văn hóa do thị trường tạo ra – thì sao? Đây đúng là vấn đề nhức nhối. Nó phát sinh khi mục đích của cuộc đời là gom góp tài sản và những thú vui vật chất. Theo nghĩa này thì nó đúng là hình thức mới của lời báng bổ thánh thần xưa cũ. Nhưng xin nhớ rằng khi nói về chủ nghĩa tiêu thụ và sự sùng bái vật chất là chúng ta đang nói về những vấn đề của văn hóa chứ không phải những vấn đề của kinh tế học.
Nói cho ngay, trong khi thị trường tạo ra nhiều sự cám dỗ thì nó cũng cung cấp cho chúng ta những biện pháp giúp khắc phục được chúng. Nó cung cấp cho chúng ta những phương tiện cụ thể nhằm giúp chúng ta hướng đến một đời sống vượt lên trên những mối lo lắng tại đây và lúc này.
Thí dụ như cuộc cách mạng thông tin đưa đến cho chúng ta những cơi hội mới nhằm củng cố đức tin của chúng ta: qua mạng. Cũng cần nhớ rằng sáng kiến đã giúp chúng ta đọc Kinh thánh nữa: trước đây chỉ trong nhà thờ mới có những cuốn sách đắt tiền và đa số người trên 40 hay 50 tuổi không thể nào đọc được. Bây giờ đèn điện cho phép ta đọc ngay cả khi trời tối. Xin hãy suy nghĩ về sự kiện sau đây: đọc sách trước khi đi ngủ, một cái thú mà phần lớn ông bà tổ tiên của chúng ta không được hưởng vì không có điện và không có những cuốn sách hợp túi tiền.
Quảng cáo
Xin được nói đôi lời về quảng cáo như một chức năng của thị trường. Quảng cáo có thể được coi là một công cụ giáo dục, một phương tiện cạnh tranh hợp pháp và một phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu. Nó đáng được bảo vệ. Nhưng người sử dụng cũng phải có tinh thần trách nhiệm.
Thí dụ, không được khuyến khích người tiêu dùng coi tha nhân chỉ là những đối tượng. Xu hướng gợi dục thường được sử dụng trong lĩnh vực quảng cáo là một vấn đề. Nó khuyến khích người xem, thường là đàn ông, coi người đàn bà ăn mặc hở hang như là đối tượng – chỉ có thể xác mà không có linh hồn, coi thường nhân phẩm của người đó – mà không cần biết người phụ nữ ấy là ai.
Đây có thể là nhận thức mới đối với chân lý trong giới quảng cáo! Xếp sang một bên sự kiện là đã có nhiều vụ kiện tụng về thuốc lá ở Mĩ, tôi cho rằng có lý do để lo lắng về những chiến dịch quảng cáo nhằm tung ra thị trường những sản phẩm có hại cho sức khỏe của thanh niên.
Một hai năm trước nhiều người đã lên tiếng phê phán gay gắt ngành công nghiệp thời trang dị hợm gọi là: “heroin look” [tạm dịch: Vẻ ngoài ma cô – ND]. Đấy là sử dụng một cách vô trách nhiệm quảng cáo nhằm lôi kéo người ta vào những con đường có hại cho chính cuộc sống. Thông tin là một chuyện, còn lôi kéo người ta vào những việc xấu xa lại là chuyện khác.
Cũng cần phải nói rằng thị trường không chỉ là mua và bán. Nó còn là thuyết phục về mặt đạo đức, là sự xúc phạm đối với xã hội, sự tẩy chay và bảo vệ nữa. Tất cả những điều đó đều có chức năng xã hội. Thí dụ, những người theo tôn giáo truyền thống tẩy chay những người quảng cáo khi họ tung ra những hình ảnh bất công về tôn giao là hoàn toàn hợp pháp và đúng đắn. Nói cho ngay, ta phải có trách nhiệm – và rất cần – sử dụng tiếng nói của họ trong xã hội tự do.
Và những vụ phản đối chống lại những nhà quảng cáo sử dụng những kỹ thuật thiếu đạo đức đã làm cho ngành công nghệ thay đổi đột ngột cách tiếp cận của họ, bất ngờ tạo ra cái mà họ gọi là: “the happy look” [tạm dịch: Vẻ ngoài hạnh phúc]. Chỉ cần áp lực xã hội là ngành công nghiệp này, trong đa số trường hợp, đã từ bỏ những kỹ thuật hào nhoáng bề ngoài nhưng vô tích sự và tiếp thu cách tiếp cận thị trường gần gũi với cuộc đời hơn.
Tổng thống Mĩ, ông Bill Clinton, là một trong những người phê phán kiểu quần áo “vẻ ngoài ma cô”, điều thú vị là lúc đó ông đã đưa ra những nhận xét rất thích hợp và rất có sức thuyết phục. Nền tảng triết lý của những nhận xét đó là gì? Cơ sở của nó là triết lý cộng đồng luận, một phong trào trí thức xuất hiện đúng vào giai đoạn cầm quyền của Clinton. Phong trào này – thu phục được cả những người tân tự do lẫn tân bảo thủ – khẳng định rằng hiện nay chúng ta thảo luận quá nhiều về quyền nhưng lại ít thảo luận về trách nhiệm. Chúng ta nghe nói về “xã hội phải có trách nhiệm gì với tôi”, nhưng không nghe thấy nói về trách nhiệm của chúng ta đối với xã hội.
Phong trào này đã cung cấp cho đất nước biện pháp chỉnh lý hữu ích đúng vào lúc nó phải suy nghĩ về sự kết hợp kỳ quặc giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chúng ta cũng phải thận trọng đối với những giải pháp của triết lý cộng đồng luận. Nếu quan niệm đạo đức của họ đối với xã hội thúc giục chúng ta quan tâm hơn nữa đến lợi ích chung và ít đòi hỏi chính phủ phải làm cho cá nhân chúng ta hơn thì đấy là phong trào tốt.
Nhưng nếu nó chỉ được sử dụng nhằm bao che cho sự can thiệp vào công việc kinh doanh của chúng ta, can thiệp vào đời sống cộng đồng và đời sống của gia đình chúng ta thì đấy là một phong trào nguy hiểm. Nhưng cần ghi nhận rằng đa số những vấn đề mà những người theo phái cộng đồng luận nêu ra đều là do sự can thiệp quá đáng của chính phủ vào hoạt động của xã hội vì chính phủ thường có xu hướng chia rẽ chứ không gắn kết con người lại với nhau.
Kết luận
Mặc dù chủ nghĩa xã hội – như một hệ thống kinh tế – đã thất bại, chúng ta vẫn thường nghe thấy người ta chê bai chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường vì những thất bại của chúng trong việc phục vụ quyền lợi của cộng đồng nhân loại. Một số thành tích của thị trường bị mang ra phê phán. Hệ thống lời và lỗ không phải là toàn bộ cộng đồng nhân loại, nhưng một số người ủng hộ thị trường lại nghĩ như thế.
Thiếu ý thức văn hóa về những giá trị cao hơn là sự thịnh vượng về kinh tế thì văn hóa không thể phát triển trong dài hạn được. Muốn cho sự thịnh vượng về vật chất có ý nghĩa nào đó thì những giá trị như tính trung thực, lương thiện và lòng nhân hậu ngay từ khởi thủy phải xuất phát từ nền tảng đạo đức.
Điều thường bị người ta đánh giá thấp – vì phải suy nghĩ nghiêm túc thì mới hiểu được quan hệ nhân quả của nó – đấy là quan hệ trực tiếp giữa thành công trong lĩnh vực kinh doanh, sự thịnh vượng ngày càng gia tăng và những bước tiến đầy ấn tượng trong việc nâng cao sức khỏe và hạnh phúc của con người.
Văn hóa của thương trường có thể củng cố văn hóa của đức hạnh. Thông điệp này cần được đem ra thảo luận công khai. Những người theo trường phái tự do cấp tiến phủ nhận điều này là đang làm những việc không có lợi cho nguyên tắc tự do kinh tế.
Đồng thời, chúng ta cũng phải giúp những trợ thủ của chúng ta, những người đang cổ vũ cho văn hóa của đức hạnh để họ hiểu rằng chúng ta không cỗ vũ cho chủ nghĩa tư bản chỉ biết đến lợi nhuận, tức là chủ nghĩa tư bản phó mặc con người cho những lực lượng kinh tế mù quáng và không ăn sâu bén rễ vào đạo đức nền tảng của cuộc đời, của con người và tài sản.
Điều chúng ta đề nghị là một nền kinh tế tự do, tức là nền kinh tế đặt con người vào chính trung tâm của những hoạt động kinh tế đơn giản là vì con người là nguồn gốc của mọi sáng kiến kinh tế. Cho phép tôi được nói một cách dứt khoát rằng thị trường thấm đẫm những giá trị của tự do và đức hạnh là người trợ thủ cực kỳ cần thiết của trật tự xã hội tôn trọng phẩm giá của con người.
Tôi xin kết thúc ở đây với một vài trích dẫn của Alexis de Tocqueville và Lord Acton.
Tocqueville viết: “Chế độ chuyên chế có thể cai trị mà không cần đức tin, nhưng tự do thì không…. Trong chế độ cộng hòa, tôn giáo còn cần thiết hơn các chế độ khác. Nếu những liên kết đạo đức không được củng cố khi những mối liên kết chính trị được buông lỏng ta thì làm sao xã hội không bị hủy diệt cho được?[10]”
Còn Lord Acton thì tuyên bố: “Không có tôn giáo thì không nước nào có thể được tự do. Tôn giáo tạo ra và củng cố khái niệm về nghĩa vụ. Nếu không dùng nghĩa vụ thì phải dùng sự sợ hãi để kiềm chế người ta. Mà càng bị kiềm chế bằng sợ hãi thì càng ít tự do. Tinh thần trách nhiệm càng cao thì càng nhiều tự do hơn.[11]”
Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Capitalism, Morality and Markets