16.1 C
Da Lat
Thứ Bảy, 13 Tháng 9, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 59

Tôi đã từng là một người vô thần

1

Nếu có một điều gì đáng kể nhất trong cuộc đời này mình muốn chia sẻ với tất cả mọi người thì đó là chuyện mình đã từng là một người vô thần. Tại sao mình muốn nói về điều này, vì mình nghĩ suy cho cùng vô thần chính là căn bệnh lớn nhất của nhân loại, nó sản sinh ra nhiều những loại bệnh khác như vô cảm, vô ơn, vô ý thức và vô Đạo. Nó là nguyên nhân khiến con người trở nên thoái hóa, chia rẽ và xa rời tự nhiên. Trong tham-sân-si thì vô thần thuộc loại si, vô minh, không nhìn ra sự thật. Vì vô minh bao phủ, con người sẽ luôn theo đuổi những hạnh phúc giả tạo điên rồ. Đặc biệt trong giai đoạn gần đây, thế giới đang rơi vào biến động vì bệnh dịch và sự suy thoái kinh tế, nỗi sợ hãi của con người trồi lên đặc sệt trong bầu không khí. Chính đây là thời điểm thích hợp nhất để một người nhìn ra nguồn gốc của nỗi sợ ấy: Sự vô thần.

Quan sát thế giới, mình thấy số người vô thần, duy vật ngày nay chiếm tỷ lệ rất lớn. (Ngay cả một số người tự nhận là hữu thần cũng chưa hề có trải nghiệm “thần” là gì, chưa một lần biết cầu nguyện và vẫn thường trực sống trong sự tiêu cực mỗi ngày.) Thế rồi, người nọ nhìn người kia bắt chước và coi rằng vô thần là điều tự nhiên bình thường. Để khi có ai đó đứng lên nói về Thượng Đế thì người đó sẽ bị đám đông phỉ báng, giễu nhại, thậm chí là treo cổ. Chuyện này giống như một người bị tẩy não rằng thủ dâm là tốt cho sức khỏe, trong khi sự thật rằng đó là hành động đánh mất lòng tự trọng và tự hủy hoại chính mình trên mọi mặt: thể xác, tâm trí, tâm linh. Khi sự dối trá và vô minh này không được phá bỏ thì loài người sẽ vẫn tiếp tục phải sống trong thực tại của dối trá và vô minh vậy.

Trước kia, khi sống như một người vô thần, mình đã không tin vào sự sắp đặt của cuộc đời và luôn muốn làm mọi thứ theo ý mình. Nhưng sau tất cả, trong mọi cuộc đua, mình luôn là kẻ về sau, hoặc là kẻ chịu sự thiệt thòi mất mát. Mình đã không hề tin rằng có Thượng Đế, có một kế hoạch lớn cho cuộc đời, có một năng lực siêu nhiên nằm đằng sau tất cả mọi vận động của thế giới. Mình đã không tin vào sự cầu nguyện và lòng thành kính, nên mọi lời cầu nguyện của mình đã từng thốt ra đều hời hợt và mang tính giễu nhại. Mình đã không tin vào trí tuệ bên trong của mỗi con người, mà chỉ quan tâm đến những gì đã được khoa học kiểm chứng, đã được tận mắt nhìn thấy, hay được ai đó cầm tay dẫn dắt. Mình đã từng chống cự lại mọi sự biến đổi của thế giới, chống cự lại mọi cơn đau đớn và chống cự lại mọi điều tốt đẹp nhất mà tận sâu bên trong vẫn hằng khao khát. Mình đã hay lý sự kiểu cách, suy tính so đo, cằn nhằn bất mãn, lo lắng căng thẳng, nóng giận buồn phiền, hay quan tâm đến thế giới của người khác. Mình đã không tin ai cả và cũng không tin vào chính mình. Tóm lại, mình đã từng sống như một kẻ chỉ biết đầu tư vào những suy nghĩ mà cắt giảm sự chú ý cho thánh địa tâm hồn, một kẻ thường sống trong sự mơ tưởng mà không bao giờ dám dấn thân hành động để biến chúng trở thành hiện thực.

“Chỉ có những kẻ vô tín ngưỡng, những kẻ thậm ngu, những kẻ thấp hèn nhất nhân loại, những kẻ bị ảo tưởng đánh cắp tri thức và những kẻ có bản chất vô thần của loài quỷ quái là không muốn quy phục Ta.” — Sri Krishna, Chí Tôn Ca (15:7)

>>> [THĐP Translation™] 8 câu nói trong Chí Tôn Ca về sự vô thần

>>> 12 trích dẫn trong Kinh Thánh về những người vô thần

Để rồi trong một lần giận dữ sôi sục đến đỉnh điểm, mình đã không còn muốn kiểm soát hoàn cảnh đã khiến mình bất mãn nữa mà chỉ muốn rằng bản thân được thoát khỏi hỏa ngục đã lỡ sa vào. Chuyện là buổi tối hôm đó, người bạn của mình đã lái xe vào nhầm đường khiến bọn mình phải đi lòng vòng quanh thành phố rất lâu, trong khi mình đã rất mệt mỏi sau một ngày dài đi xe đò từ Đà Lạt về Sài Gòn. Khi trên xe mình cũng đã bị nôn 3 trận lả người. Lúc đó mình cảm thấy quá sức chịu đựng, bắt đầu thể hiện sự nóng giận và trút hết sự bất mãn lên người bạn đó. Tội nghiệp. Mình đã từng xem phim Star Wars và nhớ lại những gì tồi tệ nhất mà nhân vật Darth Vader phải hứng chịu khi ông ta gia nhập phe tối với thức ăn là sự nóng giận. Mình đã hiểu số phận đau khổ ấy như thế nào khi toàn bộ thân thể mình nóng ran như nằm trên giàn hỏa thiêu. Lúc đó, mình thấy đây không phải là một cuộc đời đáng sống và mình muốn chết, chết đi khỏi cái thực tại sục sôi điên cuồng này. Dường như, mình cảm thấy một sự bất lực to lớn bên trong không tài nào diễn đạt nổi. Có một cảm giác rằng tất cả những khổ đau này mình sẽ chẳng thể tự cứu lại được mà phải nhờ đến một Đấng tối cao đưa tay cứu vớt. Ngay lập tức, mình đã cầu nguyện Thượng Đế với một lòng khẩn khoản và thành kính nhất từ trước đó đến lúc bấy giờ. Và cơn giận ấy đã tan biến chỉ trong vỏn vẹn vài phút, để lộ ra bên trong mình một khoảng không thanh thản đến vô cùng.

“Vì sau cùng, đó là chuyện giữa bạn và Thượng đế. Đó không bao giờ là chuyện giữa bạn và họ.” — Mẹ Teresa

Kể từ đó, đã có rất nhiều lần nữa mình cầu nguyện, không phải được cái nhà thật to hay được cái xe hơi thật ngầu, mà chỉ đơn giản là được ở gần Thượng Đế và được tỉnh táo thường trực để làm đúng ý của Người. Đôi khi, mình chỉ muốn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc. Và với mỗi lần hướng tâm trí về God, mình cảm nhận thấy tính thiêng liêng của cuộc đời (trước kia đã từng có một khoảng thời gian mình rơi vào trầm cảm và sống với một sự trống rỗng khổ sở). Mình đã hiểu được tại sao có từ “thức thần” (trong thuật ngữ “chất thức thần” được anh Huy Nguyen founder THĐP dịch ra từ chữ “psychedelics”), đã được chứng kiến hàng loạt những sự kiện đồng nhịp (synchronicity) diễn ra. Cuộc đời mình đã vần xoay như một giấc mơ kỳ diệu. Đây không phải là điều xa vời và tự khuếch đại, đây là sự thật mà mình muốn càng nhiều người nhận ra nó trong chính cuộc đời của người đó càng tốt. Vì chúng ta đã sống với nỗi sợ hãi và sự hoài nghi quá lâu. Chúng ta đã quên hết cội nguồn thần thánh của chính mình, quên hết những năng lực vô hạn, quên hết tình yêu. Trong khi tình yêu mới là công nghệ tiên tiến nhất mà vũ trụ có. Tiên tiến đến mức khoa học hiện đại còn chưa nghiên cứu ra và mới chỉ đang lò dò ở vài hạt sóng.

Thế là số phận của mình đã hoán đổi, từ một kẻ vô thần, thành một người có đức tin tâm linh dào dạt sau những lần biến động dữ dội. Khi quay nhìn lại mình đã không thể tin rằng trước kia mình đã có thể sống trong một cuộc đời u mê đến thế. Những luồng suy nghĩ vô lối của mình được biến đổi hết thành những lời cầu nguyện và sự biết ơn cuộc đời. Mình cho rằng mỗi người chúng ta đều có thể nhớ lại những điều tuyệt vời nhất nếu bên trong phát sinh một đức tin, dù chỉ bằng hạt cải cũng đủ.

“Ngài trả lời họ, “Vì các ngươi yếu đức tin. Quả thật, Ta nói với các ngươi, nếu các ngươi có đức tin chỉ lớn bằng hạt cải, các ngươi có thể bảo hòn núi này, ‘Hãy dời từ đây qua đó,’ thì nó sẽ dời qua, và không việc chi các ngươi chẳng làm được.” (Matthew 17:20)

Đức Krishna đã không nói sai khi bảo Arjuna hãy phục vụ Thượng Đế với toàn bộ tâm hồn và lý trí, Đức Jesus cũng không hề ngoa khi rao giảng rằng hãy hết lòng với Đức Chúa thì ngươi sẽ vào được Nước Trời. Vấn đề to lớn nhất của loài người không phải là nền kinh tế suy sụp, dịch bệnh lan tràn hay thiếu thốn nơi ăn chốn ở, mà là sự vắng mặt lòng tin – tin vào Thượng Đế, vào sự sắp xếp hoàn hảo của vũ trụ, vào những phẩm hạnh đạo đức tốt đẹp bên trong mỗi con người. Vì chỉ đức tin mới làm nên cây cầu dẫn một người sang thực tại mới mà không làm người đó bị hề hấn bởi hoang mang hay lo sợ.

“Sau khi chẳng còn quyến luyến, sợ hãi và tức giận, sau khi đã dồn toàn bộ tâm trí vào Ta, tìm được chốn nương náu nơi Ta, rất nhiều người ở thời trước đã trở nên thanh sạch nhờ thấu hiểu Ta và vì thế có được tình yêu siêu việt đối với Ta.” — Sri Krishna, Chí Tôn Ca (4:10)

Có một điều rằng những nghệ sĩ, nhà khoa học, những triết gia lỗi lạc nhất trong lịch sử đều là những người có đức tin vào Thượng Đế. Và cũng chính bởi đức tin đó, họ mới làm nên những tác phẩm bất hủ, khám phá ra những quy luật kỳ diệu của tự nhiên và truyền đạt lại những sự thật quan trọng nhất.

“Là một người đã dành cả đời để nghiên cứu về vật chất bằng phương pháp khoa học tỉnh táo nhất có thể, tôi có thể nói cho bạn biết kết quả nghiên cứu của tôi về nguyên tử rằng là: Chẳng có thứ vật chất nào cả. Tất cả vật chất có được nguồn gốc và tồn tại đều nhờ vào một lực mang đến sự rung động của các hạt trong một nguyên tử, và giữ chúng lại với nhau như hệ Mặt Trời. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đằng sau nguồn lực này tồn tại một Tâm Trí có ý thức và thông minh. Tâm Trí này là ma trận của tất cả vật chất.” — Max Planck, Das Wesen der Materie, 1944

“Món quà của sức mạnh tinh thần đến từ Trời, Thực Thể Thiêng Liêng, và nếu chúng ta tập trung tâm trí vào chân lý đó, chúng ta trở nên đồng nhịp với năng lực vĩ đại này.” — Nikola Tesla

“Khối óc là một cỗ máy tính toán được liên kết với một thần khí (spirit).” — Kurt Godel (Cha đẻ của định lý Bất toàn)

>>> [THĐP Translation™] Các nhà vật lý lượng tử nói gì về chủ nghĩa duy vật (materialism)

Mình dự đoán rằng sẽ tồn tại nhiều người trong số các bạn khi đọc những dòng này sẽ cảm thấy khó chịu, nghi ngờ vì mọi thứ mình mô tả tốt đẹp quá mức tưởng tượng (too good to be true). Bạn không dám tin vì tâm trí vẫn đang đòi hỏi một dấu hiệu để tin mà không chịu khuất phục. Giống như câu chuyện trong Kinh Thánh khi những người Pha-ri-sêu tranh luận với Đức Jesus và đòi một dấu lạ từ trời để thử Người. Nhưng Người thở dài não ruột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.”

Trong huyền học, bài học về đức tin thuộc về khu vực luân xa 6, con mắt thứ ba. Đây chính là nơi linh hồn ngự trị, là nơi Thượng Đế “giáng trần” tại thân xác con người và cũng là nơi con người “thăng thiên” về cội nguồn Thượng Đế. Nên nếu bạn nhún mình khiêm hạ, chỗ ngồi của God sẽ được trả lại cho God. Đôi mắt “thần” của bạn sẽ sáng trở lại để nhìn thấy những sự thật nằm sau những tấm màn che của ảo giác. Và con mắt ấy chính là Thượng Đế đến trong niềm tin của những kẻ thống khổ.

“Nếu bạn đang gặp vướng mắc về lòng tin, bạn đang sống vì điều gì? Tình yêu đúng là khó tin, cứ hỏi những người đang yêu. Sự sống đúng là khó tin, cứ hỏi các nhà khoa học. Thượng Đế đúng là khó tin, cứ hỏi những người đang tin. Bạn có vấn đề gì với những chuyện khó tin?” — Life of Pi

Tác giả: Vũ Thanh Hòa


🎯 Đặt mua tạp chí Aloha của THĐP để trau dồi kiến thức trí tuệ, những nội dung được chọn lọc chỉ có tại THĐP, từ nay sẽ không đăng full các bài dịch trong tạp chí nữa ➡️ bit.ly/THDPmembership
🎯 All Volumes ➡️ http://bit.ly/THDP_ALOHA
🎯 Aloha Volume 1-2-3 FREE ➡️ bit.ly/33u4hkX
🎯 Donate ủng hộ các hoạt động của THĐP ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

Amor Fati — Phương thức hàn gắn sự bình yên trong thực tại

Chủ Nghĩa Khắc Kỷ và Amor Fati: Sự Giao Thoa Giữa Chấp Nhận và Tạo Tác

Amor Fati

Chủ nghĩa khắc kỷ của Seneca không chỉ là một hệ thống tư tưởng đề cao sự tự lập và tự chủ, mà còn là một cách tiếp cận đối với cuộc sống, trong đó “Amor Fati” – tình yêu số phận, đóng vai trò trung tâm. Đây không phải là một sự đầu hàng mù quáng trước số phận, mà là việc chấp nhận nó như một phần không thể tách rời của hành trình cá nhân. Nó là sự công nhận rằng mọi sự kiện, dù tốt hay xấu, đều mang lại cho chúng ta cơ hội để học hỏi, phát triển và trưởng thành.

“Amor Fati” không phủ nhận quyền năng của ý chí tự do. Trái lại, nó khích lệ chúng ta hành động một cách có ý thức, sau đó chấp nhận kết quả một cách không luyến tiếc. Bằng cách này, nó bổ sung cho quan điểm về ý chí tự do bằng cách khuyến khích chúng ta không chỉ tập trung vào những hành động mà chúng ta có thể kiểm soát, mà còn học cách đón nhận những kết quả không lường trước được một cách tích cực và trân trọng.

Khi chúng ta thực hành “Amor Fati”, chúng ta được nhắc nhở rằng mọi nỗ lực của mình, dù kết quả ra sao, đều là đáng quý. Điều này không có nghĩa là chúng ta ngừng nỗ lực hay không còn mục tiêu, mà là chúng ta tiếp tục hành động với niềm tin rằng mọi điều xảy ra đều có lý do của nó và mỗi kết quả, dù không như ý, cũng là một phần của quá trình lớn lao hơn mà chúng ta đang trải qua.

Qua lăng kính của “Amor Fati”, cuộc sống không còn là chuỗi những sự kiện đen trắng mà trở thành bức tranh đa sắc mà mỗi màu sắc đều có giá trị và ý nghĩa riêng. Chúng ta học được cách yêu thương mỗi phút giây hiện hữu, mỗi thử thách và mỗi niềm vui, bởi vì tất cả đều là những điểm sáng tạo nên bản ngã thực sự và sâu sắc của chúng ta. Đó là sự tổng hợp giữa hành động và chấp nhận, giữa sự tạo tác và sự chấp thuận, một bài học quý báu mà Seneca muốn chúng ta ghi nhớ và áp dụng vào mọi khía cạnh của cuộc sống.

Amor Fati – Quan Điểm Triết Học

Amor Fati

Amor Fati cần bạn tách ra khỏi kết quả nhưng đồng thời muốn bạn trân trọng và biết ơn bất cứ kết quả nào diễn ra. Dù là một kết quả tồi tệ đi chăng nữa. Mọi thứ đều có ý nghĩa sâu xa của nó và thời gian sẽ trả lời những câu hỏi của bạn. Việc bạn cần làm là làm việc của bạn và cứ để cho nó diễn ra.

Bằng cách tách bản thân khỏi kết quả, sự sáng tạo của bạn sẽ được nâng lên bởi sự thoải mái trong tâm trí. Và ngay khi vừa hoàn thành một giá trị nào đó, việc tách bản thân khỏi kết quả sẽ một lần nữa mang lại bình yên. Bình thường trước đây là bạn sẽ gán kỳ vọng của người khác lên giá trị mình vừa tạo ra. Kết quả bạn có là sự thư thái trong khi làm việc và sáng tạo. Không phải ham muốn có được sự công nhận rồi sau đó là thất vọng.

Một lợi ích khác

Quan điểm của bạn về việc bạn làm sẽ khó bị lung lay. Câu hỏi ở đây là liệu bạn có thể giữ được sự sáng tạo hay không nếu mục đích bạn muốn là kiểm soát kết quả dựa trên ham muốn được công nhận hoặc tán dương?

“Bí quyết của tự do cho loài người là lao động hết mình mà không dính mắc vào thành quả lao động.” — Chí Tôn Ca

Thực hành Amor Fati Trong Quá Trình Sáng Tạo Nghệ Thuật

Trước đây, tôi thường viết và sáng tác với áp lực phải được người khác công nhận và tán dương. Tôi thấy mình mắc kẹt trong một vòng luẩn quẩn của sự so sánh và cạnh tranh, luôn khao khát sự chú ý và sự xác nhận từ người nghe. Tuy nhiên, sự thực là không phải lúc nào công việc của tôi cũng nhận được phản hồi như mong đợi, điều này thường xuyên dẫn tới cảm giác thất vọng và mất phương hướng.

Khi bắt đầu thực hành “Amor Fati”, tôi đã học được cách chấp nhận và thậm chí yêu thương mọi khía cạnh của quá trình sáng tạo – từ những ý tưởng ban đầu chưa hoàn thiện cho đến những lần biểu diễn không như ý. Tôi nhận ra rằng mỗi nốt nhạc, mỗi câu từ, mỗi giai điệu, dù hoàn hảo hay không, đều là một phần của hành trình nghệ thuật mà tôi đang theo đuổi.

Thay vì coi trọng phản hồi và kết quả, tôi giờ đây xem trọng cảm xúc và thông điệp mà tôi muốn truyền đạt qua nghệ thuật. Điều này không chỉ giúp tôi giữ được tinh thần lạc quan và sự kiên định trong mọi hoàn cảnh, mà còn thúc đẩy tôi tạo ra những tác phẩm chân thực và có ý nghĩa sâu sắc hơn.

“Amor Fati” dạy tôi rằng sự tự do sáng tạo đích thực đến từ việc buông bỏ mong đợi và chấp nhận mỗi trải nghiệm như một phần không thể thiếu của cuộc sống. Khi tôi không còn chờ đợi hay đòi hỏi, mỗi tác phẩm trở thành một phần của câu chuyện lớn hơn – câu chuyện về sự phát triển, hòa nhập và chia sẻ với thế giới. Và chính trong khoảnh khắc tự do đó, tôi như được giải phóng khỏi mọi ràng buộc, tạo nên những sáng tác có sức sống và ý nghĩa riêng biệt, đồng thời phản ánh chân thực nhất về tâm hồn và tầm nhìn của mình.

Amor Fati

Áp Dụng Amor Fati trong Cuộc Sống Hiện Đại

Chúng ta thường bị mắc kẹt trong những mục tiêu và kết quả mà quên mất rằng quá trình là điều quan trọng. “Amor Fati” không chỉ là một triết lý về việc chấp nhận số phận mà còn là một lời kêu gọi để ôm lấy và trân trọng mọi khía cạnh của cuộc sống.

Seneca, một nhà triết học Stoic nổi tiếng, đã chỉ ra rằng việc tập trung vào những gì chúng ta kiểm soát và buông bỏ những gì nằm ngoài tầm với chính là chìa khóa để sống một cuộc sống đầy đủ và bình an. Điều này không nghĩa là chúng ta bất lực trước số phận, mà là chúng ta hành động một cách chủ động và quyết đoán trong việc tạo ra tương lai của mình, nhưng không để bị lôi kéo bởi những lo lắng về kết quả.

Trong thời đại hiện đại, nhiều người thấy khó khăn trong việc tìm kiếm ý nghĩa và hạnh phúc trong cuộc sống. Amor Fati đề xuất một cách tiếp cận khác: trân trọng mọi khoảnh khắc, dù tốt hay xấu, và xem chúng như một phần của cuộc sống giàu ý nghĩa.

Kết Luận: Bài Học Sâu Sắc từ Seneca và Ý Nghĩa của Amor Fati

Cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng hay theo ý muốn của chúng ta. Nhưng qua lăng kính của Seneca và triết lý Amor Fati, chúng ta được nhắc nhở rằng sức mạnh thực sự nằm ở việc chấp nhận và yêu thương số phận. Khi ta học cách ôm lấy mọi khía cạnh của cuộc sống, từ niềm vui đến nỗi đau, từ thành công đến thất bại, ta không chỉ tìm thấy sự bình an trong tâm hồn mà còn phát triển được sức mạnh nội tâm để vượt qua mọi thử thách.

Triết lý này không chỉ là lời nhắc nhở về việc sống một cuộc sống có ý thức và trân trọng từng khoảnh khắc. Nó còn là một lời khích lệ để chúng ta không ngừng phát triển bản thân, không chỉ ở mặt tinh thần mà còn ở mặt vật chất và xã hội. Amor Fati là lời mời gọi chúng ta không chỉ quy phục trước số phận, mà còn là động lực để chia sẻ và phụng sự cộng đồng, lan truyền chân lý và kiến thức mà chúng ta đã học được.

Thực hành Amor Fati đồng nghĩa với việc ta luôn tìm kiếm ý nghĩa và bài học trong mọi sự kiện của cuộc sống, đồng thời lan tỏa tinh thần lạc quan và kiên định. Đây không chỉ là bài học cho cá nhân mỗi chúng ta, mà còn là tư duy mà Triết Học Đường Phố hướng tới: sự phát triển toàn diện, đồng thanh tương ứng và đồng khí tương cầu trong mọi hoàn cảnh.

Như vậy, thông qua việc thấu hiểu và áp dụng triết lý của Seneca, mỗi chúng ta có thể trở thành phiên bản tốt nhất của bản thân, đồng thời đóng góp một cách có ý nghĩa vào hành trình tinh thần chung của nhân loại.

Tác giả: Cristian
Biên tập: THĐP

[THĐP Translation™] 8 câu nói trong Chí Tôn Ca về sự vô thần

thdp translation 4
  1. “Khi sự vô thần thắng thế trong tôn tộc, Krishna ơi, phụ nữ trong gia đình sẽ đâm ra hư hỏng, và sự sa đọa của phụ nữ sẽ dẫn đến sự ra đời của lớp con cháu không mong muốn, thưa dòng dõi của Vrishni.” (1:40)
  2. “Hỡi người nối dõi của Bharata, bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu, khi tôn giáo suy tàn và sự vô thần thắng thế, Ta đều thân chinh giáng thế. Để giải thoát cho những người mộ đạo và tiêu diệt những kẻ hung ác, cũng như để phục hồi các nguyên tắc tôn giáo, Ta thân chinh giáng thế từ thời đại này sang thời đại khác.” (4:7-8)
  3. “Chỉ có những kẻ vô tín ngưỡng, những kẻ thậm ngu, những kẻ thấp hèn nhất nhân loại, những kẻ bị ảo tưởng đánh cắp tri thức và những kẻ có bản chất vô thần của loài quỷ quái là không muốn quy phục Ta.” (7:15)
  4. “Những kẻ ngốc nhạo báng Ta khi Ta giáng thế trong dung mạo người. Chúng chẳng biết bản thể siêu việt của Ta và rằng Ta là Đấng Tối Cao của muôn loài. Bị lầm lạc như vậy nên họ ham mê những quan điểm quỷ quái và vô thần. Bởi họ ở trong ảo tưởng nên niềm hy vọng được giải thoát của họ chẳng bao giờ thành hiện thực, hoạt động để hưởng thành quả của họ luôn bị thất bại, còn tri thức họ có thì chẳng mang giá trị gì.” (9:11-12)
  5. “Con trai của Pritha, lý trí giúp con người hiểu biết điều gì nên làm và điều gì không, điều gì nên sợ và điều gì không, điều gì trói buộc và điều gì giải thoát là lý trí ở hiền tính. Con trai của Pritha ơi, lý trí không có khả năng phân biệt tôn giáo với sự vô thần, điều gì nên làm và điều gì nên tránh là lý trí ở dục tính. Lý trí làm con người tưởng sự vô thần là tôn giáo, còn tôn giáo là vô thần; lý trí đắm chìm trong bóng tối ảo tưởng và lôi kéo con người khỏi chính đạo là lý trí ở si tính, hỡi con trai của Pritha.” (18:30-32)

Đọc bản full, 700 câu, 66 trang, Free PDF, THĐP hiệu đính >>> http://bit.ly/CTC_THDP

screenshot-triethocduongpho.net-2020.03.22-11_05_50

3 bài viết đạt điểm cao nhất cuộc thi viết 2019 của THĐP về Chí Tôn Ca

🥇Giải Nhất: Nguyễn Bá Tiến – Hơi thở từ Trời – Bài ca giác ngộ
🥈Giải Nhì: Trần Tùng – Bài ca bất diệt
🥉Giải Ba: Phạm Văn Thiên – Bản hùng ca về con đường trở thành một chân nhân

Deep Work – Cuốn sách mình đọc 5 lần trong năm 2019

3

“Thành công không phải phép màu hay sự lừa gạt, nó chỉ đơn giản là học cách tập trung.”

Lý do tại sao mình trì hoãn viết review thật ra là khá xấu tính. Vì mình muốn tận dụng lợi ích của Deep Work trước khi chia sẻ nó với mọi người. Nó rất đơn giản để thực hiện. Và một khi các bạn thực hiện Deep Work, tin mình đi, các bạn sẽ rất ngạc nhiên vì những gì nó đem lại.

1. DEEP WORK LÀ GÌ?

Deep Work là trạng thái làm việc sâu, tập trung nhất có thể, không bị phân tán tư tưởng để thúc đẩy khả năng nhận thức đi tới điểm giới hạn. Những nỗ lực này tạo ta giá trị mới, cải thiện kỹ năng (theo mình thấy là không có giới hạn) và rất khó để sao chép.

Đối lập với Deep work là: Công việc không yêu cầu cao về nhận thức, thuộc dạng công việc hậu cần, thường được thực hiện khi bị phân tâm. Cách làm việc hời hợt này thường không tạo ra nhiều giá trị mới và dễ bị sao chép.

Tác giả Deep WorkCal Newport, giáo sư chuyên ngành máy tính tại đại Học Georgetown. Cũng chính Cal là người đặt cho việc trạng thái một ai đó tập trung toàn bộ tư duy, sức lực, cắt đứt mọi kết nối để làm việc gói gọn là Deep work.

Thành quả là anh vừa giải quyết được rất nhiều công việc chuyên môn khi là giáo sư môn khoa học máy tính, nhưng vẫn viết sách, xuất bản các bài báo nghiên cứu đòi hỏi rất nhiều kiến thức, thời gian và chơi với vợ con vào buổi tối mà chỉ làm việc đến 5,6 giờ chiều. Deep Work là 1 trong 5 cuốn sách Cal Newport viết. Carl không dùng smartphone cho tới tận 2012-2013 do vợ bắt anh phải sử dụng để còn nói chuyện với con cái.

2. TẠI SAO BẠN PHẢI CẦN DEEP WORK?

Deep work mở đầu bằng những nhân vật như Carl Jung, Bill Gates, Woody Allen, J.K Rowling đã tạo ra những tác phẩm, sản phẩm tốt và hái ra tiền thế nào khi đưa mình tới trạng thái cực đoan nhất là Deep work.

Nhưng chưa hết, trong Deep work còn đề cập đến Benn, một người từ bỏ một công việc kinh doanh sang viết mã. Nhưng vấn đề là Benn đã gần 30 tuổi và không biết viết mã. Trong khi lập trình máy tính là một công việc khó khăn (Cal nói như vậy trên tư cách là giáo sư môn khoa học máy tính.) Nhưng với Deep work, Benn đã học nhanh nhất có thể mà không cần đến 4 năm học lập trình. Benn chỉ cần 2 tháng trong trạng thái tập trung sâu – Deep Work.

Benn học ở nhà, tự khoá mình trong phòng không máy tính, chỉ có sách, bảng ghi chép và một cây bút đánh dấu. Anh đã đọc 18 cuốn sách về lập trình tính đến lúc tự học xong. Sau 2 tháng tự nhốt mình trong nhà, Benn tham dự một khoá học cấp tốc về lập trình ứng dụng web kéo dài 100 giờ mỗi tuần. Hơn một nửa người trong khoá học không hoàn thành. Còn Benn thì đứng nhất.

Sau đó Benn kiếm được một công việc lập trình với mức lương hơn 100 nghìn đôla 1 năm, gấp đôi số tiền trước đây Benn làm ở công ty tài chính. Nhưng quan trọng hơn, nhờ Deep Work, Benn cảm thấy mình không có giới hạn với công việc lập trình và khi kỹ năng được nâng cao anh sẽ kiếm được nhiều hơn nữa.

3. DEEP WORK LÀ CÁCH BẠN LÀM CHỦ TƯƠNG LAI

Cal Newport cho rằng có hai kiểu người sẽ làm chủ tương lai khi Trí tuệ nhân tạo và máy học phát triển sẽ đào thải rất nhiều công việc của hiện tại.

  1. Những ai có thể làm việc sáng tạo với AI và Machine Learning.
  2. Những người đang là ngôi sao trong lĩnh vực của mình.

Và cũng có hai khả năng cốt lõi để phát triển trong thời đại mới là :

  1. Khả năng nhanh chóng nắm bắt những vấn đề khó.
  2. Khả năng tạo ra sản phẩm ở mức độ cao cấp, xét về cả chất lượng và tốc độ thực hiện.

Cuối cùng, hai khả năng này đều phụ thuộc vào khả năng làm việc sâu của mỗi người – Deep Work. Nói đơn giản, hãy để tâm trí bạn biến thành thấu kính nhờ tia hội tụ chú ý.

Quy luật của Deep Work như sau :

Thành quả của công việc có chất lượng cao = thời gian bỏ ra X cường độ tập trung.

Nhưng đơn giản như thế tại sao ít người có thể làm việc sâu được?

4. LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẬP TRUNG SÂU?

Hạn chế internet nhiều nhất có thể để tránh xao nhãng và tự kỉ luật chính mình. Đó là cách duy nhất để Deep work.

Deep work là trạng thái vắt kiệt từng giọt giá trị cuối cùng từ năng lực trí tuệ của bạn. Bạn có thể chọn một không gian kín, chỉ mỗi mình có thể bước vào và toàn tâm toàn ý với công việc và học tập. Trước khi bước vào đó, ngắt hết mọi kết nối internet, cất smartphone vào balo hay ném nó ra ngoài thì càng tốt.

Các thiết bị và công cụ kết nối intetnet đã làm phân tán sự chú ý của con người tốt đến nỗi chúng ta không hề cảm nhận được điều đó. Vì thế việc xao nhãng và khó tập trung một phần không phải là lỗi của bạn. Facebook, Instagram liên tục thay đổi, chỉnh sửa giao diện cũng như các tương tác để người dùng bị tẩy não, không thể ngừng việc truy cập. Bản thân mình đã có những hôm dù rất cố gắng kiểm soát, nhưng vẫn như một con robot ấn vô thức vào Instagram để xem ảnh đẹp.

Cách tốt nhất là ngắt kết nối intetnet khi mình đọc sách, viết một cái gì đó hay chấp nhận sự buồn chán khi bắt đầu học Deep work. Nhưng ai có thể chịu được sự cô đơn và nhàm chán khi ngắt internet trong ít nhất 2 tiếng đồng hồ?

Vì thế bạn phải trả lời một câu hỏi là bạn có muốn tiến lên trong một tương lai cực kì cạnh tranh, không chỉ với người mà cả máy móc? Tốc độ đào thải rất nhanh đối với những ai không thể tập trung và làm việc sâu được.

Phần thưởng không dành cho những ai cảm thấy thoải mái khi lướt Facebook, Instagram (rất dễ làm nhưng hiệu quả đem lại rất ít) và dành cho một số ít tôi luyện được kỹ năng làm việc sâu mà Cal mô tả là “sức mạnh siêu phàm của thế kỉ 21.”

Vậy đấy, Deep Work chỉ thực hiện được khi bạn chấp nhận với một không gian không có kết nối intetnet, buồn chán và phải tự giác về hành vi của mình trong từng giây phút. Nếu không, chỉ 5 phút sau là bạn lại cầm điện thoại để lướt Facebook và đọc tin trên web.

5. MÌNH ĐƯỢC GÌ KHI TẬP TRUNG SÂU?

Năm 2019 là một trong những năm hiệu quả nhất đối với mình khi đọc được 293 cuốn sách. Năm 2018 thì là 175. Nhờ việc học hỏi từ Deep work mình đã sắp xếp thời gian hợp lý, ngắt kết nối intetnet nhiều hơn nữa để đọc. Ngoài ra khi mình viết các truyện ngắn chỉ trong 1-2 ngày. 5 năm trước thì mình mất 3 tuần để viết xong một truyện như thế.

Năm ngoái có bên thuê mình viết 10 bài báo với độ dài 3000 chữ trong thời hạn 1 tháng. Mình mất 11 ngày để viết xong. Thậm chí còn nhanh hơn nữa nếu mình đưa bản thân làm việc sâu hơn.

Cái khó nhất khi thực hiện Deep Work là tâm trí liên tục phát ra các tín hiệu “Trên internet, facebook đang xảy ra chuyện gì đó và mình sẽ bỏ lỡ mất thôi.” Đúng, chắc chắc 2 giờ tập trung làm việc sâu sẽ vô số thứ xảy ra trên intetnet rồi.

Nhưng mình tự nhủ rằng biết mấy chuyện để làm gì khi bản thân lại trì hoãn công việc và sự tiến bộ của chính mình? Quên tất cả đi, tập trung làm việc mình làm và thế giới vẫn ổn khi không có mình quan tâm đến.

Đến bây giờ, điều đó vẫn đúng đối với mình.

Tác giả: Đức Nhân

“Vô Ngã” (Anatman/Anatta) vs. Chân Ngã (Atman)

thdp translation 4

(Trích) “Vô ngã” [3] (anatta hay anatman) không có nghĩa “vô hồn” hay “không có linh hồn”, “không có Atman/Chân Ngã”. Đây là một quan niệm sai lầm. Thuật ngữ chính xác trong tiếng Pali [4] để nói “vô hồn” hoặc “không có linh hồn” là “naatthiatta” chứ không phải “anatta”. Do đó, thuật ngữ anatta có nghĩa là “không phải Chân Ngã” (không phải linh hồn / not soul) (TN: dịch đúng phải là “phi Ngã”, không phải “vô ngã”), giống như ananta có nghĩa là “không phải đang kết thúc” (not ending) chứ không có nghĩa là “không có kết thúc” (there is no end).

* * *

“Vô ngã” (anatta hay anatman) có phải là không có chân ngã không?

Thật thú vị khi nhận ra rằng có rất nhiều quan điểm về khái niệm “Vô ngã” (Anatta hay Anatman) của Phật giáo. Và cũng thật đáng ngạc nhiên khi mọi người vẫn thường nhầm lẫn với một khái niệm rất dễ hiểu. Tôi không phải là một người theo Thượng tọa bộ (Nam Tông/Theravada), cũng không phải Đại thừa (Mahayana), Mật tông (Vajrayana) hay còn gọi là Kim cương thừa (Tây Tạng).

Tôi không thuộc về một trong những trường phái Phật giáo này bởi vì tôi là một nhà sư đã từ bỏ mọi ý thức thuộc về. Đối với vấn đề đó, tôi thậm chí còn không thể được xem như là một Phật tử – mà chỉ là một người theo Chánh Đạo (Arya Dhamma).

Ngay từ đầu tôi xin được nói rõ rằng tôi không có ý định thuyết phục ai, nhưng vì vấn đề này đã được phép đưa ra để thảo luận, nên tôi xin trình bày quan điểm của mình ở đây. Tôi sẽ rất cảm kích nếu các thành viên trực tiếp gửi các vấn đề thắc mắc của mình cho tôi thay vì suy đoán trong nhóm với nhau, vì tôi sẽ không thích hợp để thảo luận về một cái gì đó ngoài phạm vi quan điểm của Shankara [1] về Advaita Vedanta [2].

Tôi hy vọng mình được phép đăng bài này và các thắc mắc sẽ được gửi trực tiếp cho tôi trong trường hợp các thành viên cần nhận được phản hồi (Gửi cho THĐP cũng được). Tuy nhiên, nếu bạn chỉ muốn suy đoán và chỉ trích Phật giáo, bạn có thể làm theo ý muốn.

“Vô ngã” [3] (anatta hay anatman) không có nghĩa “vô hồn” hay “không có linh hồn”, “không có Atman/Chân Ngã”. Đây là một quan niệm sai lầm. Thuật ngữ chính xác trong tiếng Pali [4] để nói “vô hồn” hoặc “không có linh hồn” (vô ngã) là “naatthiatta” chứ không phải “anatta”. Do đó, thuật ngữ anatta có nghĩa là “không phải Chân Ngã” (không phải linh hồn / not soul) (TN: dịch đúng phải là “phi Ngã”, không phải “vô ngã”), giống như ananta có nghĩa là “không phải đang kết thúc” (not ending) chứ không có nghĩa là “không có kết thúc” (there is no end).

Amor Fati

Đức Phật đã giải thích rất tường tận và ở một số nơi trong Chánh tạng Pali, Ngài đã nói rõ rằng vô ngã không phải là một học thuyết. Đó không phải là một lời khẳng định siêu hình tuyệt đối như nhiều người vẫn nghĩ. Đó là một phương pháp phát triển trí tuệ [5]. Điều quan trọng là cần xác định được địa điểm và cách thức để thấu hiểu giáo lý của Đức Phật. Trong mối liên hệ này, Ngài nói rằng những người suy luận nơi không có ý định và những người không biết suy luận nơi có ý định, đều có cái nhìn sai lệch về lời giảng của Ngài.

Có nhiều tín đồ Phật giáo tin, thậm chí còn thẳng thắn đưa ra những bình luận về Chánh tạng như vô ngã là một học thuyết và là một lời khẳng định siêu hình tuyệt đối của cái gọi là “không có Chân Ngã” (there is no Self). Đây là một cách nhìn đầy bất công với một giáo lý không nên đưa ra suy luận. Tại sao ư? Bởi vì chính Đức Phật đã nói rõ, cả hai khẳng định này đều không đúng: “có tồn tại một ngã”, và “không tồn tại một ngã”.

Có một bài kinh dài (trong Kinh trường bộ) đề cập đến cách nhìn nhận sai lầm của một nhà sư Phật giáo. (Khoảng 50 năm sau khi Đức Phật qua đời). Ông ta đã sai lầm khi cho rằng Đức Phật Gotama dạy rằng “không hề tồn tại tự ngã”. Một vị Phật tên là Shariputra (Pali: Sāriputta) đã giải thích cho ông ta bằng cách sử dụng hai phép so sánh đầy trí tuệ rằng đó không phải giáo lý của Đức Phật Gotama và đó cũng là một quan niệm không đúng đắn. Sāriputta ở thời điểm đó cũng có tầm ảnh hưởng lớn như Mahakassapa [6].

Amor Fati

Chân Ngã (Atman/Attan) trong kinh sách Phật giáo

Trước khi đi vào vấn đề tại sao Đức Phật nói rằng cả hai khẳng định đó đều không đúng, điều quan trọng là phải xem xét rằng ở một vùng đất có nền văn hóa và triết học đa dạng, nghĩa sử dụng của một số từ ngữ được thay đổi theo thời gian, địa điểm và cả những người đã sử dụng chúng.

Trong Chánh tạng Pali, từ Atman hay Attan chưa từng được sử dụng theo nghĩa như trong Áo nghĩa thư (Upanishads) [7] (ND: Atman trong Áo nghĩa thư có nghĩa là một “linh hồn”/thực thể thường hằng bất biến). Đây là lời khẳng định quả quyết của nhiều tín đồ Phật giáo vì họ cùng cho rằng ở một số nơi thuật ngữ Atman được sử dụng trong Chánh tạng khác với nghĩa trong Áo nghĩa thư.

Căn Bản Trung Quán Luận Tụng (mlamadhyamakakārikā) [8] của Long Thọ (Nagarjuna) [9] là một nơi khác mà sự khẳng định và phân biệt này được làm rõ. Vì Atman của Chánh tạng Pāli [10] khác với Áo nghĩa thư, nên Phật giáo không phủ nhận hay mâu thuẫn với bất cứ điều gì trong Áo nghĩa thư. Trên thực tế, thuyết “Vô sinh” (Ajativada) của Gaudapada [11] trong Mandukya Karika, ông cũng khẳng định nó không mâu thuẫn với Phật giáo.

Thuật ngữ atman được sử dụng trong Chánh tạng Pali với ý nghĩa là “ý thức bản ngã” (ego consciousness), một cái “tôi” (tách biệt), bao gồm khái niệm “của tôi”, v.v … Các thuật ngữ Atmaja (nghĩa đen là một [nam] được sinh ra từ tôi) và AtmajA (nghĩa đen là một [nữ] được sinh ra từ tôi) hàm chứa ý nghĩa này của từ Atman, đã được phát triển trong thời Đức Phật.

Người ta có thể thấy rằng các thuật ngữ này luôn được sử dụng như “putram” (con trai) hoặc “putri” (con gái) trong thời kỳ Vệ-đà sơ khai và chỉ sau này chúng ta mới có thể tìm thấy tài liệu tham khảo về các thuật ngữ đó trong Áo nghĩa thư [có lẽ được sáng tác vào thời Đức Phật].

Khái niệm Chân Ngã trong Áo Nghĩa Thư

Trong Phạn ngữ cổ (hậu Phạn ngữ Panini), từ Atman có nghĩa là một thực thể thường hằng chịu trách nhiệm cho sự sống. Người ta cho rằng nó “xâm nhập” vào một cơ thể và rời bỏ cơ thể vào lúc chết. Điều này một lần nữa không phải là ý nghĩa của từ Atman trong Áo nghĩa thư, rằng nó không xâm nhập, không rời bỏ, không ở đây, không ở đó và cũng không sở hữu một cơ thể.

Đó là lý do tại sao, Shankara đã nhấn mạnh hết lần này đến lần khác rằng Atman của Áo nghĩa thư không được biết đến ở bất kì nơi nào khác. Ông nhấn mạnh rằng người kiếm tìm sự giác ngộ phải tìm kiếm Atman – như khái niệm được biết đến trong Áo nghĩa thư.

Vậy là chúng ta đã xác định rằng Atman của Đức Phật không giống với Atman của Áo nghĩa thư, người ta có thể hỏi liệu Ngài có thừa nhận Atman của Áo nghĩa thư không. Liệu có tồn tại cái gọi là bất biến, thường hằng và bất diệt không? Có, nhưng Đức Phật gọi nó là Niết bàn [12]. Ngài không gọi nó là “Ngã” (Self). Trên thực tế, Đức Phật đã dạy rằng tất cả những gì đang thay đổi là nguồn gốc của sầu muộn và căng thẳng; do đó, không phải là chân Ngã.

>>> Niết bàn có vô thường không?

Tương tự với điều này, một nhà sư hỏi Ngài tại một trong những tập Kinh, rằng một cái gì đó thường hằng bất biến có thể được gọi là “Ngã” không? Câu trả lời của Đức Phật cho thấy rằng theo quan điểm của Ngài, xem Niết bàn hay Sự bất diệt như là “Ngã” khiến một người hình thành sự bám chấp và tham vọng về Niết bàn.

Ngài giải thích rằng lý do đặt ra một câu hỏi như vậy là do tham vọng với ý niệm “tôi”, khiến anh ta tìm kiếm một cái ngã (cái tôi) trong Niết bàn. Ngài còn hướng dẫn một tu sĩ biết Niết bàn là sự chấm dứt mọi buồn phiền và không bao giờ để mình say đắm trong nó, hoặc phát triển một bám chấp hoặc tưởng tượng ra những thứ trong nó hoặc tưởng tượng ra những thứ phát ra từ nó.

Hơn nữa, một trường phái triết học được gọi là Số luận (Samkhya) đã dạy rằng có một nguyên nhân gốc rễ của Vũ trụ và gọi nó là Brahman. Theo họ, Brahman là Đấng sáng tạo ra Vũ trụ. Đức Phật bác bỏ ý tưởng này, cho rằng nó gây bất lợi và không liên quan đến con đường giác ngộ.

Ngài nói rằng Ngài chỉ giảng giải về bản chất của sự căng thẳng, nguồn gốc của nó và con đường dẫn đến sự kết thúc của nó chứ không giảng giải bất kỳ học thuyết nào liên quan đến nguồn gốc. Điều này cũng được khẳng định trong Kinh Phạm Võng theo một cách khác – Đức Phật khiến cho tất cả 64 câu khẳng định siêu hình khác nhau trở nên bất khả.

Đức Phật tự phân biệt mình với người theo chủ nghĩa hư vô mà Ngài gọi là “natthika”, (tương đương với nastika trong tiếng Pali), người theo chủ nghĩa vĩnh hằng (aatthika), nhà tiên tri về nguồn gốc, nhà tiên tri về hủy diệt, v.v. Ngài giảng giải về một con đường dẫn đến sự thật và ngoài ra không có điều gì khác. Tuy nhiên, trong các bản văn Trung Quán Tông, Đức Phật nói về thai tạng (womb) của Như Lai.

Điều quan trọng là phải hiểu lại rằng đây không phải là một thực thể theo nghĩa thông thường như chúng ta nghĩ. Nó không di chuyển từ cơ thể này sang cơ thể khác. Nó là phi cục bộ. Trên thực tế, sự mô tả của nó trong các văn bản Trung Quán Tông rất giống với sự mô tả về Chân Ngã của Áo nghĩa thư.

Tuy nhiên, giống như Atman, ta không thể nào mô tả hết về nó. Thuật ngữ ‘tathagata‘ (Như Lai) được sử dụng rất thường xuyên ngay cả trong Chánh tạng Pāli. Như Lai được cho là vượt xa tất cả những điều đã biết hoặc chưa biết trong vũ trụ này. Như Lai được cho là một người vượt lên trên mọi nỗi sầu muộn.

Tuy nhiên, các văn bản Trung Quán Tông cho rằng có một (thai) tạng của Như Lai (tathagata garbha). Đây được cho là bản chất của Như Lai và được cho là đang “ngủ đông” trong tất cả chúng ta. Khi được phát triển một cách toàn diện, một người trở thành Như Lai. Do đó, nói cách khác, Như Lai tạng không phải là một thực thể, mà là một tiềm năng tàng ẩn để trở nên giác ngộ.

Không có một thực thể nào gọi là Atman được đặt ra trong các văn bản Phật giáo. Nhưng tôi thực sự nghi ngờ rằng ngay cả Áo nghĩa thư cũng coi Atman như một thực thể bị đặt điều kiện bởi bản chất của các thực thể. Atman được cho là vô điều kiện. Trong Phật giáo, Niết bàn là hiện tượng duy nhất mang tính vô điều kiện.

Tôi chỉ thấy một sự tương đồng giữa những lời giảng của Đức Phật và của Shankara. Đối với tôi dường như không có bất kỳ mối xung đột nào. Tuy nhiên, nếu bất kỳ thành viên nào cảm thấy họ muốn tranh cãi, tôi sẽ rút lui.

Tham khảo để hiểu rõ hơn về chữ “vô ngã” (thật ra là dịch sai)

>>> [THĐP Translation™] Nếu Phật Thích Ca và Adi Shankara có một cuộc tranh luận, ai sẽ thắng?

>>> Những điểm giống nhau và “khác nhau” giữa Phật giáo (Buddhism) và Ấn giáo (Hinduism) | Huy Nguyen

[1] Đại sư, triết gia, học giả đầu tiên củng cố học thuyết Advaita Vedanta (Advaita có nghĩa là Bất Nhị), một trường phái trong Vedanta. Những lời dạy của ông dựa trên sự hợp nhất của linh hồn và Thượng đế, trong đó Thượng đế được xem cùng một lúc là mang tính cá nhân và không có thuộc tính nào cả. Trong truyền thống của Smārta, Adi Shankara được xem là hóa thân của Thần Shiva
[2] Là một trường phái của triết lý Vedānta (một trường phái triết học nằm trong Ấn Độ giáo xem xét đến bản chất của thực tại. Từ Vedanta là từ ghép của veda “kiến thức” và anta “cuối cùng, kết luận”, dịch ra là “kiến thức cao nhất”. Cách đọc khác của anta như là “chủ yếu”, “cốt lõi”, hay “bên trong”, tạo ra từ “Vedānta”: “những điểm chủ yếu của kinh Veda”.) của triết học Ấn Độ.
[3] Chữ “ngã” (tiếng Anh: “self”) theo cách hiểu trong Áo nghĩa thư (của triết học Vệ Đà) ám chỉ một “linh hồn”/thực thể thường hằng, bất biến
[4] Pāli còn gọi là Nam Phạn, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Arya Trung cổ hay prakrit. Nam Phạn là ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nam Tông, dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm, trong đó có bộ Kinh Tam tạng
[6] Neti neti: Không phải nó, không phải nó. Tham khảo Áo Nghĩa Thư (Upanishads)
[7] Ma-ha-ca-diếp còn gọi là Tôn giả Ca Diếp hay Đại Ca Diếp là một người Bà la môn xứ Ma Kiệt Đà, cha tên Ẩm Trạch, mẹ tên Hương Chí. Ông là một trong thập đại đệ tử của Tất-đạt-đa Cồ-đàm và là người tổ chức và chỉ đạo đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất
[8] (Tiếng Phạn) hoặc những câu thơ cơ bản trên đường giữa, là một văn bản nền tảng của trường phái Madhyamaka của triết học Mahayana, được Nagarjuna sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ ba CE
[9] Chuyên luận nổi tiếng và quan trọng nhất về triết học Trung Quán Tông, được sáng tác bởi bậc thầy vĩ đại Nagarjuna. Nó được bao gồm trong số “mười ba văn bản vĩ đại”, tạo thành cốt lõi của chương trình giảng dạy trong hầu hết các shedras và trên đó Khenpo Shenga cung cấp các bài bình luận
[10] Canon Pāli là bộ sưu tập kinh điển tiêu chuẩn trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, như được bảo tồn bằng ngôn ngữ Pāli. Đây là kinh điển Phật giáo còn tồn tại sớm nhất. Nó bắt nguồn chủ yếu từ trường Tamrashatiya
[11] Đạo sư, triết gia, học giả của trường phái Vedanta. Được Shankara gọi là “Paramaguru” (TD: Thượng Thầy)
[12] Nibanna, là mục tiêu của con đường Phật giáo. Nghĩa đen của thuật ngữ này là “dập tắt”, dập tắt ngọn đèn dầu được pha trộn từ 3 thành phần: tham, sân, si (ngôn ngữ hiện đại gọi là tham lam, giận dữ, vô minh). Niết bàn là mục tiêu tâm linh tối thượng trong Phật giáo và đánh dấu sự giải thoát về mặt tái sinh khỏi kiếp luân hồi

Tác giả: Bhikku Yogi
Biên dịch: Hue Truong
Hiệu đính: Hoài Thanh, Prana
Images: DALLE-3

💎 Xem thêm: 9 bài học về bản ngã (ego) và Chân Ngã từ các Đạo sư

9 quan niệm sống tôi đã đúc kết và sưu tầm trong quá trình du học và tự lập

0
  1. Đúng và sai chỉ nên được gói gọn khi xuất hiện tình huống giữa việc thiện và việc ác, thiện và ác sẽ luôn xuất hiện khi ta cố tình phân biệt đúng và sai.
  2. Sống, tận hưởng và cống hiến như thể bạn không có ngày mai, vì thời gian là ảo tưởng, chỉ có hiện tại là sự thật.
  3. Hình dung cuộc sống bạn muốn, và chuẩn bị hành trang tinh thần như thể bạn đang sống như vậy. (Luật hấp dẫn)
  4. Chìa khoá của sự thông thái trong thời đại thông tin là khả năng cai nghiện bản năng đánh giá, chúng ta hầu như không hề biết rằng bản năng đánh giá có khả năng gây nghiện.
  5. Bản năng đánh giá là hiệu ứng phụ của sự thông thái, sự thông thái không nhằm giúp người sở hữu thể hiện bản thân mà là mang lại sự bình an từ những hiểu biết. Quan niệm này ra đời đối với mình sau khi nghiên cứu về “The curse of knowledge” có nghĩa là “Lời nguyền của sự hiểu biết (kiến thức)”, mình sẽ giải thích thêm về điều này ở phần chú thích cuối bài.
  6. Hãy dành cho bản thân một chút khoảng lặng trước khi đánh giá động cơ người khác qua lời nói và cử chỉ, nếu bạn đủ sức mạnh thì không nên đánh giá.
  7. Nếu bạn lặp đi lặp lại quá nhiều lần một ý kiến tiêu cực về một điều gì đó, hãy bắt đầu lật ngược nó lại để nhìn vào mặt tích cực.
  8. Hy vọng là một sức mạnh nhưng sức mạnh này sẵn sàng chịu nhiều trở ngại và rủi ro, tham vọng là một sức hút nhưng sức hút này có chứa đựng tần số thất vọng vậy nên hãy tách bản thân bạn ra khỏi kết quả của việc bạn đang làm, chỉ nên thưởng thức việc bạn làm, những phần còn lại hãy thả lỏng.
  9. Không ai biết rõ điều đó bằng bạn, bạn không hiểu rõ điều đó bằng họ, đừng so sánh điều bạn hiểu với điều họ hiểu, bởi sự trải nghiệm là khác nhau.

Chú thích:

*The curse of Knowledge: Lời nguyền của kiến ​​thức là một khuynh hướng nhận thức xảy ra khi một cá nhân, giao tiếp với các cá nhân khác, vô tình cho rằng những người khác có nền tảng để hiểu. Sự thiên vị này cũng được một số tác giả gọi là lời nguyền của chuyên môn, mặc dù thuật ngữ đó cũng được sử dụng để chỉ các hiện tượng khác nhau.

Nói theo một cách dễ hiểu, nếu đam mê và muốn tìm hiểu chuyên sâu về một ngành học, sau hàng vạn giờ tìm tòi và khám phá, lăng kính khách quan của bạn về ngành học đó cũng sẽ thay đổi, có những thay đổi tích cực nhưng cũng sẽ có những thay đổi tiêu cực.

Ví dụ: Một người thiên ngành thiết kế đồ hoạ sẽ có những cách đánh giá riêng để phân tích về một tác phẩm thiết kế, tuy nhiên việc họ có đánh giá nó một cách khách quan hay không lại là một câu hỏi rất khó để trả lời bởi sau khi đã được học thiết kế chuyên sâu, họ cũng sẽ được giảng dạy về thế nào là đúng và sai vô tình được đeo lên một cái lăng kính khiến đôi khi khiến cho cặp mắt của họ khi nhìn đã không còn trung thực và trung tính như trước nữa.

Đây sẽ là nền tảng của bài viết tiếp theo mình muốn đi sâu vào nhiều chi tiết hơn về The Curse Of Knowledge.

Tác giả: Cristian
Edit: THĐP

Ảnh: Ryan Holloway

🎯 Đặt mua tạp chí Aloha của THĐP để trau dồi kiến thức trí tuệ, những nội dung được chọn lọc chỉ có tại THĐP, từ nay sẽ không đăng full các bài dịch trong tạp chí nữa >>> bit.ly/THDPmembership
🎯 All Volumes ➡️ http://bit.ly/THDP_ALOHA
🎯 Aloha Volume 1-2-3 FREE ➡️ bit.ly/33u4hkX
🎯 Donate ủng hộ các hoạt động của THĐP ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

Lãnh nhận thuốc diệt khuẩn cho tâm hồn từ God – Liều thuốc tâm linh cho COVID-19

Bài viết này không dành cho những người vô thần.

“Con trai của Pritha ơi, lý trí không có khả năng phân biệt tôn giáo với sự vô thần, điều gì nên làm và điều gì nên tránh là lý trí ở dục tính. Lý trí làm con người tưởng sự vô thần là tôn giáo, còn tôn giáo là vô thần; lý trí đắm chìm trong bóng tối ảo tưởng và lôi kéo con người khỏi chính đạo là lý trí ở si tính, hỡi con trai của Pritha.” — Chí Tôn Ca, 18:31-32

Đã từ lâu tôi vẫn e ngại không dám viết về chủ đề “God”, mặc dù tôi cảm thấy đây mới thật sự là chủ đề quan trọng nhất cần được chia sẻ, chất thức thần, nofap, hay tâm linh cũng mới chỉ là cầu nối, cành lá mà thôi. Lý do là vì tôi ngại người ta sẽ đánh giá, phán xét, vì thời đại này có quá nhiều người vô thần, càng ngày càng có nhiều người bị lôi cuốn theo chủ nghĩa vô thần, duy vật. Hôm qua tôi có đăng một bình chọn hỏi mọi người trong THĐP Club có muốn đọc những nội dung về tâm linh, God trên THĐP không thì có 96% trả lời là có, 365 người so với 22 người trả lời không, giả sử tỉ lệ số người không muốn còn cao hơn nữa tôi đã nghĩ tới chuyện phải lập ra một page mới mang tên “Tâm Linh Đường Phố” rồi, lol. Vì vậy nên hôm nay tôi mới có thể mạnh dạn viết về chủ đề này đăng lên đây.

poll

Hành tinh của chúng ta đã bắt đầu bước vào giai đoạn testing, kiểm tra, để xem những ai có thể “lên lớp” và những ai sẽ bị bỏ lại. COVID-19 chỉ là bài kiểm tra lớn đầu tiên, sẽ còn những đợt sóng nghiêm trọng hơn (kinh tế, chính trị…) đang chờ đợi mọi người ở phía trước. Tổ sư của trường phái triết học Advaita Vedanta [1] Adi Shankara [2] có câu nói nổi tiếng (với những người nghiên cứu tôn giáo):

“Chỉ có Brahman (God) là thật. Thế giới này là ảo.”

Brahman (God) ở đây mang ý nghĩa không giống với khái niệm God trong Thiên Chúa giáo. Thiên Chúa giáo vẫn còn nằm trong nhị nguyên, Thiên Chúa giáo không dạy về chân lý Bất Nhị tối thượng, God và Người vẫn có sự tách biệt. Chữ God tôi sử dụng trong bài viết này được hiểu theo khái niệm Brahman (God) của triết học Bất Nhị Advaita Vedanta: Cái Toàn Thể, Vạn Hữu, The All, Thiên Nhiên, Vũ Trụ… Đó cũng là lý do vì sao tôi không dùng chữ “Chúa” thay cho chữ God, để tránh hiểu nhầm. Triết học Bất Nhị dạy rằng không có sự tách biệt giữa God và Người. Atman (Chân ngã) cũng chính là Brahman. Một trong những câu chân ngôn cốt lõi của Vedanta thường được lặp lại là Tat tvam asi — Bạn chính là Nó — You are That. Câu này nằm trong Áo Nghĩa Thư (Upanishads). Ngoài Chí Tôn Ca đã được THĐP hiệu đính ra thì Áo Nghĩa Thư là một kinh thư siêu phàm thứ hai những ai đang tìm kiếm chân lý nên đọc. Nó không được viết ra bởi phàm nhân. Nó được viết ra bởi thánh nhân. Nếu bạn chỉ muốn an phận làm phàm nhân với đầy đủ tham sân si thì cũng có nghĩa là bạn đang lãng phí cuộc đời mình, nó là một sự đáng tiếc.

“Arjuna ơi, Ta là Linh Hồn Tối Cao ngự ở trong tim tất cả chúng sinh. Ta là khởi đầu, là khoảng giữa và kết thúc của vạn vật.” — Chí Tôn Ca, 10:20

“Ta ngự trong tim mỗi chúng sinh; trí nhớ, hiểu biết và lãng quên đều từ Ta mà ra. Mục đích của tất cả các tập kinh Vệ-đà là để tìm hiểu Ta. Ta là người soạn ra Vedanta, và Ta là người tinh thông Kinh Vệ-đà.” — Chí Tôn Ca, 15:15

“Bị ngụy ngã, quyền lực, kiêu mạn, ái dục, sân si làm rối trí nên những kẻ quỷ quái sinh lòng ghen ghét Thượng Đế Tối Cao ngự trong tim chúng, trong tim các chúng sinh khác và báng bổ tôn giáo chân chính.” — Chí Tôn Ca, 16:18

““Đối xử với mọi người bạn gặp như đó chính là Thượng Đế đang ngụy trang.” — Ram Dass

Theo Advaita Vedanta thì vũ trụ chỉ là một sự phóng chiếu, biến hiện từ God. Có nghĩa là tất cả mọi thứ, mọi người không là gì khác ngoài God. Nếu tất cả mọi thứ không là gì khác ngoài God thì mọi thứ xảy ra trong thế giới này cũng không là gì khác nằm ngoài ý muốn của God.

Từ ngày có COVID-19 mọi người bắt đầu quan tâm tới việc rửa tay diệt khuẩn nhiều hơn. Cách nay không lâu tôi còn được tặng một lọ nước rửa tay khô nhân dịp sinh nhật. Cá nhân tôi không sợ COVID-19, nhiều khi ra đường thấy đa số đeo khẩu trang còn mình thì không. Tôi nghĩ hệ miễn dịch của mình đủ mạnh để chống lại nó nếu có lỡ bị nhiễm, thậm chí nếu có phải chết tôi cũng không ngại. Tôi đã sẵn sàng cho cái chết lâu rồi. Những gì quan trọng cần làm tôi đã làm. Sứ mệnh coi như đã hoàn tất, mọi thứ khác với tôi chỉ là những trải nghiệm bonus.

Loài người là loài cứng đầu rượu mời không uống, để uống rượu phạt. Sợ hãi ảnh hưởng tới họ mạnh hơn hẳn những tần số cao hơn. Mà với loài người thì không có nỗi sợ nào ghê gớm bằng cái chết. Mạng sống là một đặc ân, để có thể đặt ra câu hỏi: Ý thức của bạn đã tiến hóa tới đâu? Bạn đã sẵn sàng để chết ngay lúc này chưa? Sự sống không phải là điều chắc chắn, hiển nhiên, can’t take it for granted, mà mong manh, hên xui tùy theo ý Trời. Dịch cúm Corona có thể tiêu diệt hàng tỉ người trong vài tháng tới, biết đâu được. Bạn phải luôn sẵn sàng để chết thì mới có thể sẵn sàng để sống.

Một trong những danh xưng của God thường hay được sử dụng trong những lời cầu nguyện của Ấn giáo là Paavain Pavitrata, tạm dịch: “Đấng thanh tẩy linh hồn ô uế”. Đây là lúc sự trong sạch của chúng ta được kiểm tra, sự trong sạch của trái tim. Nó bao gồm sự rộng lượng tinh thần, sự sẵn lòng giữ cho tâm trí khỏi những suy nghĩ không trong sáng và không thánh thiện, giữ cho trái tim và tâm trí tập trung vào điều quan trọng nhất trên đời là God, mở lòng cho ánh sáng và tình yêu thiêng liêng và sự nhẹ nhàng thanh thản tràn ngập khắp cơ thể, và hãy chia sẻ nguồn năng lượng này với những người xung quanh. Cảm giác an toàn đến từ sự hiện diện của God trong trái tim, tâm trí và thân xác một người, đó là liều thuốc giải duy nhất cho nỗi sợ hãi đang lan tràn.

Tất cả những quân cờ domino của nền văn minh hiện đại sẽ sớm ngã. Những người còn đứng được sẽ là những người đang đứng vì God, với God, với ý thức về God. Sự thanh tẩy có nghĩa là nhận ra được ngụy ngã hư ảo (ego), nhận ra được sự thật rằng bạn chính là tâm thức thiêng liêng, chứ không phải thân xác. Vì thế cho dù thân xác có ở trong tình trạng nào, bạn hiểu được rằng bạn chính là sự sống, Thần Thức (Spirit) trong sáng, bất tử, vĩnh cửu. Bạn có thể đối diện với mọi thứ trong định mệnh với lòng can đảm, đức tin, với hiểu biết trực tiếp về sự hiện hữu của God, và nó sẽ dẫn tới sự cứu rỗi và giải thoát.

Hiểu biết này phải là trực tiếp, chứ không phải được dựa trên niềm tin, bởi vì niềm tin sẽ không đủ mạnh để vượt qua được sự khủng bố của bản ngã trong những khoảnh khắc khi một người đối diện với Sự Thật ở cuối Kali Yuga (chu kỳ suy tàn, chu kỳ cuối cùng của 4 chu kỳ trong vũ trụ quan của Ấn giáo) nếu một người chưa hoàn toàn thanh tẩy trái tim và tâm trí của mình. Sự bảo vệ duy nhất chúng ta có là sự quy phục God hoàn toàn. Chỉ khi điều đó xảy ra, những nghiệp quả xấu mới có thể được xóa bỏ.

“Người đang phục vụ tận tụy thoát khỏi nghiệp quả của hành động tốt lẫn hành động xấu thậm chí ở ngay kiếp này. Vì thế hãy hiến mình cho yoga, đỉnh cao của mọi hoạt động. Nhờ phục vụ tận tụy cho Đấng Tối Cao mà các bậc đại hiền hay các tín đồ tránh được nghiệp báo của mọi việc làm ở thế giới vật chất. Bằng cách này, họ không còn sa vào vòng luân hồi sinh tử nữa và thoát khỏi mọi khổ đau (nhờ trở về với Thượng Đế).” — Chí Tôn Ca, 2:50-51

Đây là cơ hội cuối cùng cho chúng ta, cơ hội để được thanh tẩy, trước khi tất cả những đợt sóng khủng hoảng ập tới quét sạch những ai chưa biết tìm kiếm nơi nương náu an toàn với God. Bất cứ nơi nào bạn tới, bến cảng an toàn đó cũng sẽ chào đón nếu bạn hoàn toàn dâng tâm hồn mình lên sức mạnh tối thượng của sự thanh khiết, của tình yêu, và của khả năng điều chỉnh giấc mơ thực tại khiến cho những kết quả tối ưu nhất được thiết lập, để cho tần số rung động của mình được tăng lên đến mức những rung động tiêu cực không thể xâm nhập. Để được như vậy một người phải hoàn toàn làm chủ được những suy nghĩ và cảm xúc; ngồi thiền mỗi ngày là cách luyện tập. Điều đó chỉ xảy ra khi bản ngã hoàn toàn được hòa tan vào sự hiện hữu, và sức mạnh thầm lặng, rực rỡ của God, khi một người hoàn toàn mở lòng ra và chấp nhận làm một công cụ phục vụ của God.

Thuận theo ý Trời sẽ cho một người tất cả sự thanh thản, tất cả trí tuệ, và tất cả sức đề kháng họ cần, không gì khác có thể. Vì thế, đây là thời điểm mà người ta phải đưa ra lựa chọn nên dựa vào và nên phục vụ sức mạnh nào. Sức mạnh tiền bạc đã trở nên vô ích. Tất cả những xu hướng, ngụy trang của bản ngã và những giá trị hư ngụy cũng vô ích. Sự cứu rỗi duy nhất là đạt tới được mức độ tâm thức siêu vật chất, rực rỡ, vĩnh cửu và khả năng tham gia vào tiến trình kiến thiết một thế giới mới đáng mơ ước.

Điều này đòi hỏi một sự trong sạch tuyệt đối, sự khiêm nhường tuyệt đối, sự tĩnh lặng nội tâm, và sự tưởng nhớ luôn luôn về God, trong suy ngẫm, trong cầu nguyện, trong yoga hành động (không mong cầu kết quả), để mỗi hành động, tư tưởng, cảm xúc đều được thánh thiện và trong sạch. Các tôn giáo đã đưa ra điều răn về chuyện hãy biết yêu mến God “hết lòng hết sức hết linh hồn và hết trí khôn”, với mỗi suy nghĩ, mỗi hơi thở. Đây là lúc điều răn này được God kêu gọi, để nó được thật sự thực hành. Chỉ có sự hoàn toàn quay về với God mới mang lại sự bình an và chở che.

Đây là thời khắc bạn phải lựa chọn giữa việc phục vụ God hay vẫn phục vụ bản ngã. Quyết định được đưa ra từ bản ngã hay từ trí tuệ sẽ dẫn tới những kết quả rất khác nhau. Định mệnh nằm trong tay bạn. Bạn có ý chí tự do. Bạn có quyền quyết định nơi mình thuộc về. Nếu bạn chọn God thì sự lựa chọn đó phải thật sự thành tâm, nếu không nó cũng không có tác dụng. Tất cả những ai biết quy phục God toàn tâm toàn ý sẽ trở thành một cỗ máy phát năng lượng và ánh sáng thiêng liêng. Và bạn sẽ cảm thấy an toàn trong bất kì môi trường nào. Nhưng bạn phải hành động như mình là cầu nối, là chất xúc tác của Đấng Tối Cao, chứ không phải những bản ngã xảo trá đang cố có được gì đó cho bản thân. Bạn phải trở thành một đền thờ God sống động. Bạn phải có được lòng can đảm, sự sáng suốt và sự khiêm nhường sẵn sàng phục vụ, những mục tiêu mà bản ngã của bạn đã không dự tính trước, như câu ngạn ngữ “Man proposes God disposes” (Mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên).

Đây là thời khắc God đang định đoạt tương lai cho Trái Đất. Loài người nghĩ mình siêu việt nhưng bài học từ COVID-19 cho thấy rằng chỉ một thứ rất nhỏ vẫn có thể gây ra hiệu ứng rất lớn, dễ dàng vượt tầm kiểm soát. Tất cả chúng ta đều đang nằm trong lòng bàn tay God—như Tôn Ngộ Không đã không thể bay thoát khỏi tay Phật—nhưng chúng ta vẫn được cho một cơ hội để trở thành những cánh tay của God.

Nếu bạn chưa có thói quen ngồi thiền mỗi ngày thì hãy bắt đầu ngay hôm nay. Tôi đã từng viết một bài hướng dẫn ngồi thiền cơ bản đăng trong THĐP Club, nếu chưa biết ngồi thiền như thế nào thì có thể vào đó tham khảo. Tập thêm thói quen nghĩ tới Đại Ngã tối thượng càng nhiều càng tốt: khi làm việc, khi đi đứng, nằm ngồi, ăn uống—cho tới khi bạn trở thành chính nó. Đây chính là nhiệm vụ của chúng ta. Đây cũng chính là sự cứu chuộc của chúng ta. Chúng ta đang được kêu gọi, và đây là lúc cho chúng ta lựa chọn. Chúng ta không còn thời gian để nhởn nha để rớt vào maya* một lần nữa. Hãy chấp nhận lời mời gọi và bắt đầu hòa nhập vào Chân Ngã phúc lạc. Đó mới chính là con người đích thực của bạn.

“Vì kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít.” (Matthew 22:14)

* vô minh, ảo tưởng

[1] Là một trường phái của triết lý Vedānta (một trường phái triết học nằm trong Ấn Độ giáo xem xét đến bản chất của thực tại. Từ Vedanta là từ ghép của veda “kiến thức” và anta “cuối cùng, kết luận”, dịch ra là “kiến thức cao nhất”. Cách đọc khác của anta như là “chủ yếu”, “cốt lõi”, hay “bên trong”, tạo ra từ “Vedānta”: “những điểm chủ yếu của kinh Veda”.) của triết học Ấn Độ. Chữ Advaita có nghĩa là “Bất Nhị”
[2] Đại sư, triết gia, học giả đầu tiên củng cố học thuyết Advaita Vedanta, một trường phái trong Vedanta. Những lời dạy của ông dựa trên sự hợp nhất của linh hồn và Thượng đế, trong đó Thượng đế được xem cùng một lúc là mang tính cá nhân và không có thuộc tính nào cả. Trong truyền thống của Smārta, Adi Shankara được xem là hóa thân của Thần Shiva

Tham khảo liên quan

>>> [THĐP Translation™] Nếu Phật Thích Ca và Adi Shankara có một cuộc tranh luận, ai sẽ thắng?

>>> [THĐP Vietsub] Bất nhị nguyên (nonduality) là gì?

>>> [THĐP Translation™] 47 bài học tâm linh từ Ram Dass

Tác giả: Nguyễn Hoàng Huy
*Bài viết có lược dịch một số ý trong pháp thoại của Shunyamurti

Featured image: Centers for Disease Control and Prevention

🎯 Đặt mua tạp chí Aloha của THĐP để trau dồi kiến thức trí tuệ, những nội dung được chọn lọc chỉ có tại THĐP, từ nay sẽ không đăng full các bài dịch trong tạp chí nữa >>> bit.ly/THDPmembership
🎯 All Volumes ➡️ http://bit.ly/THDP_ALOHA
🎯 Aloha Volume 1-2-3 FREE ➡️ bit.ly/33u4hkX
🎯 Donate ủng hộ các hoạt động của THĐP ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

[THĐP Translation™] Vì sao năng suất không phải là thứ duy nhất smartphone cướp khỏi bạn?

thdp translation 4

*Bài viết hiện đã có 8.6K Likes trên Medium

Khi Jason Fried, người sáng lập & CEO của Basecamp, bước lên sân khấu để nói chuyện tại hội nghị Khởi nghiệp Lean (Lean Startup), anh ấy đã bắt đầu bằng cách hỏi đám đông một câu hỏi rất thú vị:

“Ai ở đây có thể nhớ rằng mình từng có 4 giờ làm việc liên tục bất kỳ lúc nào trong 5 năm qua?”

Phản hồi thế nào? Hầu như chỉ nghe thấy tiếng dế kêu. Trong hơn 600 doanh nhân có mặt tại buổi nói chuyện, chỉ có khoảng ba mươi mấy người giơ tay. Thật vậy, khoảng 95% những cá nhân có tham vọng bậc nhất thế giới đều không thể tạo ra một khoảng không gian 4 giờ đồng hồ trong suốt nửa thập kỷ.

Những phiền nhiễu gây cản trở năng suất trong môi trường làm việc bận rộn của chúng ta, mặc dù vậy, không chỉ có đồng nghiệp hay nói chuyện phiếm, những cái vỗ vai, giờ giải lao hay những cuộc họp không hồi kết.

Công nghệ đã đánh cắp tâm trí bạn nhiều hơn…..

Bạn gặp lại một người bạn cũ để “giữ tương tác” – nhưng thứ duy nhất cả hai người “giữ tương tác” thực ra lại là những tin nhắn trên WhatsApp.

Bạn cuối cùng cũng ngồi xuống đọc thử cuốn sách mà dường như mọi người đều bàn tán về nó – nhưng lật được hai trang rồi sau đó bạn kết thúc bằng một giờ lướt Instagram.

Bạn, bản thân tôi và hơn 600 người tôi vừa đề cập đang vật lộn với một dịch bệnh.

Hết lần này đến lần khác, chúng ta có những ý định chia sẻ những cuộc trò chuyện ấm áp với người ta quan tâm, tiếp thu những kiến thức giá trị về chủ đề nào đó chưa được khám phá hết hay làm một việc có sức ảnh hưởng thế giới… Nhưng sự tập trung của chúng ta đã nhanh chóng bị đánh cắp bởi một cái màn hình bé xíu đang nằm đâu đó trong tầm tay.

Các nghiên cứu cho thấy người Mỹ dành mỗi ngày hơn 4 giờ cho điện thoại thông minh.

Như vậy là rất nhiều, xét trên cả một năm, việc dùng điện thoại thông minh có thể lên đến hơn 60 ngày nhìn chằm chằm vào màn hình, ngón cái không ngừng di chuyển một cách vô thức.

Song, điều thậm chí còn đáng quan ngại hơn là điện thoại thông minh đang bắt đầu gây thiệt hại kể cả khi ta không sử dụng chúng…

(Trích đoạn 432 chữ đầu tiên trong bài viết full 1861 chữ đã được xuất bản trong Aloha volume 12)

Tác giả: Aytekin Tank, The Startup
Biên dịch: Mai Thanh Trúc
Hiệu đính: Prana


🎯 Đặt mua tạp chí Aloha của THĐP để trau dồi kiến thức trí tuệ, những nội dung được chọn lọc chỉ có tại THĐP, từ nay sẽ không đăng full các bài dịch trong tạp chí nữa >>> bit.ly/THDPmembership
🎯 All Volumes ➡️ http://bit.ly/THDP_ALOHA
🎯 Aloha Volume 1-2-3 FREE ➡️ bit.ly/33u4hkX
🎯 Donate ủng hộ các hoạt động của THĐP ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

Ram Dass và 12 bài học tâm linh (Phần 1)

thdp translation 4

Ram Dass, tên khi sinh là Richard Alpert, là một nhân vật vô cùng thú vị và đa diện. Sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Boston, Massachusetts vào năm 1931, Ram Dass đã có một hành trình đầy màu sắc từ một giáo sư tâm lý học ở Harvard, trở thành một hành giả tâm linh và cuối cùng là một nhà lãnh đạo tinh thần được nhiều người ngưỡng mộ.

Ram Dass đã nổi tiếng sau khi hợp tác với Timothy Leary nghiên cứu về LSD và các chất thức thần khác ở Harvard trong những năm đầu của thập kỷ 60. Nhưng cuộc đời ông thực sự biến đổi sau một chuyến đi đến Ấn Độ vào năm 1967, nơi ông gặp gỡ và trở thành đệ tử của Neem Karoli Baba, một guru Ấn Độ mà ông gọi là Maharaj-ji.

Sự thay đổi này đã đưa ông từ khoa học tâm lý đến tâm linh, từ phương Tây hiện đại đến triết học phương Đông. Qua cuốn sách Be Here Now xuất bản năm 1971, Ram Dass đã chia sẻ những hiểu biết của mình về tâm linh, thiền định, và tìm kiếm ý nghĩa sâu xa trong cuộc sống. Cuốn sách nhanh chóng trở thành một tác phẩm kinh điển, đặc biệt là trong cộng đồng tìm kiếm tâm linh ở phương Tây.

Ram Dass cũng nổi tiếng với các lời giảng của mình, những bài học về sự tự do nội tâm, tình yêu không điều kiện, và sự phục vụ không ngừng. Ông cũng sáng lập ra nhiều tổ chức từ thiện và giáo dục, bao gồm Hanuman Foundation và Seva Foundation, tổ chức hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn trên khắp thế giới.

Ram Dass đã qua đời vào tháng 12 năm 2019, để lại di sản là một kho tàng triết học và tâm linh lớn, một nguồn cảm hứng cho nhiều người trên con đường tìm kiếm ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống.

12 bài học tâm linh từ Ram Dass

  1. “Tất cả chúng ta chỉ đang dẫn dắt nhau về nhà.”
  2. “Càng trở nên thinh lặng hơn, bạn càng nghe được nhiều hơn.”
  3. “Chúng ta bị mê hoặc bởi từ ngữ, nhưng sự thinh lặng đằng sau chúng mới là nơi chúng ta gặp gỡ.”
  4. “Điều quan trọng là không trông mong bất cứ điều gì, cảm nhận từng trải nghiệm, bao gồm cả những trải nghiệm tiêu cực, như những bước bậc đơn thuần trên con đường, và tiến về phía trước.”
  5. “Nghịch lý tuyệt đẹp nhất là… ngay tại thời điểm bạn buông bỏ tất cả lại chính là lúc bạn có được tất cả. Thời điểm bạn khát khao quyền lực là lúc bạn không thể có được nó. Khoảnh khắc bạn không mong cầu quyền lực là lúc bạn có được nhiều hơn bạn từng mơ ước.”
  6. “Trái tim dâng hiến mọi thứ cho khoảnh khắc hiện tại. Tâm trí thì đánh giá và níu kéo.”
  7. “Vấn đề của bạn là bạn quá bận rộn bám víu vào sự không xứng đáng của mình.”
  8. “Khi bạn có những khao khát nhất định về chuyện nó nên như thế nào, bạn sẽ không thể thấy được nó thật sự như thế nào.”
  9. “Đối xử với mọi người bạn gặp như đó chính là Thượng Đế đang ngụy trang.”
  10. “Khía cạnh quan trọng nhất của tình yêu không phải là cho đi hay nhận lại: nó nằm trong sự hiện thân. Khi tôi cần tình yêu từ những người khác, hoặc cần trao tình yêu cho người khác, tôi lâm vào một hoàn cảnh không ổn định. Hiện thân là tình yêu, thay vì trao đi hay nhận lấy tình yêu, là điều duy nhất mang đến sự ổn định. Hiện thân trong tình yêu nghĩa là nhìn thấy Người Được Yêu (the Beloved) khắp quanh tôi.”
  11. “Đau khổ là một phần của chương trình rèn luyện để trở nên trí tuệ.”
  12. “Điều bạn bắt gặp trong người khác là sự phản ánh mức độ tiến hóa của chính bạn.”

Ram Dass là tác giả của cuốn sách Be Here Now, cuốn sách về tâm linh kinh điển (Ảnh quote “Bạn là cả vũ trụ” được THĐP sử dụng làm Cover photo cũng là được trích từ sách này), là một vị thầy tâm linh, vừa mới qua đời hôm 22/12/2019, hưởng thọ 88 tuổi.

Biên dịch: Prana – THĐP

>>> Phần 2

>>> Phần 3

[THĐP Translation™] Những câu nói hay nhất từ bộ phim “Ma Trận”

Trinity: Tôi biết tại sao anh ở đây, Neo. Tôi biết anh đang làm gì từ trước tới giờ… Tại sao anh hầu như không ngủ, tại sao anh sống một mình, và tại sao đêm này qua đêm kia, anh ngồi trước máy tính. Anh đang tìm hắn. Tôi biết vì tôi cũng đã từng tìm hắn. Và khi hắn tìm thấy tôi, hắn bảo tôi thật ra không phải là tôi tìm hắn, mà là tìm một câu trả lời. Chính câu hỏi đã đưa đẩy chúng ta, Neo. Chính câu hỏi đã mang anh tới đây. Anh biết câu hỏi là gì cũng giống như tôi đã từng biết.
Neo: Ma trận là gì?
Trinity: Câu trả lời ở ngoài kia, Neo, và nó đang tìm kiếm anh, và nó sẽ tìm được anh nếu anh muốn nó tìm được anh.

Morpheus: Đây là cơ hội cuối cùng của anh. Sau chuyện này, sẽ không có chuyện quay lại. Anh chọn viên màu xanh, câu chuyện kết thúc, anh tỉnh dậy trên giường và tin vào những gì anh muốn tin. Anh chọn viên màu đỏ – anh ở lại Xứ Sở Thần Tiên và ta sẽ cho anh thấy “hang thỏ” sâu như thế nào.

Morpheus: Cái gì là “thật”? Làm sao định nghĩa được “thật”?
Morpheus: Nếu thật là thứ anh có thể cảm, ngửi, nếm, nhìn, vậy thì thật đơn giản chỉ là những tín hiệu điện từ được diễn dịch bởi não bộ của anh.
Neo: Tôi đã nghĩ là nó không có thực.
Morpheus: Cái trí của anh làm cho nó thực.
Neo: Nếu anh bị giết trong ma trận, anh sẽ chết ở đây?
Morpheus: Cơ thể không thể sống thiếu cái trí.
Morpheus: Ma Trận là một hệ thống, Neo. Cái hệ thống này là kẻ địch của chúng ta. Nhưng khi anh ở trong, anh nhìn xung quanh, anh thấy gì? Doanh nhân, giáo viên, luật sư, thợ hồ… Cái trí của những người chúng ta đang cố gắng cứu. Nhưng cho tới khi đó, những người này vẫn là một phần của hệ thống và họ cũng trở nên kẻ địch của chúng ta. Anh phải hiểu rằng, hầu hết những người này vẫn chưa sẵn sàng để được rút dây ra. Và nhiều người trong số họ đã trở nên quá quen thuộc, quá dựa dẫm một cách bất lực vào hệ thống đến nỗi họ sẽ đấu tranh tới cùng để bảo vệ nó.

Morpheus: Định mệnh, dường như, không phải là nó nếu thiếu đi sự mỉa mai.

Morpheus: Ma Trận là gì? Là Sự Kiểm Soát. Ma Trận là một thế giới điện toán ảo được xây lên để kiếm soát chúng ta với mục đích biến con người thành cái này.
[giơ một cục pin Duracell lên]

Cậu bé muỗng: Đừng có cố mà bẻ chiếc muỗng. Điều đó là không thể. Thay vào đó, chỉ cần cố gắng hình dung sự thật.
Neo: Sự thật gì?
Cậu bé muỗng: Rằng không có chiếc muỗng.
Neo: Không có chiếc muỗng?
Cậu bé muỗng: Và anh sẽ thấy, không phải chiếc muỗng bị bẻ cong, mà là chính anh.

Smith: Có vẻ như anh đã từng sống hai cuộc sống. Một mặt, anh là Thomas A. Anderson, lập trình viên của một công ty phần mềm đáng nể. Anh có một cái số an sinh xã hội, đóng thuế, và anh…giúp bà chủ phố gom mấy bịch rác. Mặt kia của anh thì được sống trong những chiếc máy tính, nơi anh là một tin tặc với cái nên Neo, và đã từng phạm vào hầu như tất cả những luật lệ mà họ có. Một trong những cuộc sống này sẽ có tương lai, một còn lại thì không.

Smith: Tôi muốn chia sẻ một bí mật mà tôi đã biết trong thời gian tôi ở đây. Đối với tôi mỗi lần tôi cố gắng phân loại giống loài các người và tôi đã nhận ra các người không thật sự là một loài thú. Tất cả những con thú trên hành tinh này một cách bản năng tạo ra một môi trường hài hòa cân bằng xung quanh chúng, nhưng con người thì không. Ngươi đi tới một chỗ và ngươi nhân rộng nhân rộng tới khi tất cả tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, và cách duy nhất để tồn tại là đi tới một chỗ khác. Còn có một loại sinh vật trên hành tinh này cũng có xu hướng giống thế. Ngươi có biết là gì không? Là vi trùng. Loài người là một căn bệnh, một tế bào ung thư của hành tinh này. Ngươi là một cơn dịch và chúng ta là liều thuốc.

Smith: Ngươi đã từng bao giờ đứng lại và nhìn chằm chằm vào nó, kinh ngạc trước vẻ đẹp của nó, trí khôn của nó? Tỉ tỉ người chỉ đang sống cuộc đời họ, một cách hờ hững. Ngươi có biết rằng Ma Trận đầu tiên được thiết kế là một thế giới loài người hoàn hảo không? Không có đau khổ, mọi người đều hạnh phúc. Nó là một thảm bại. Chẳng ai chấp nhận cái chương trình. Cả một cánh đồng bị thất thu. Một số nghĩ là chúng ta thiếu cái ngôn ngữ lập trình để mô tả một thế giới hoàn hảo. Nhưng ta tin là, là một giống loài, con người định nghĩa thực tại của họ qua khổ đau và bất hạnh. Thế giới hoàn hảo là một giấc mơ mà não bộ thô sơ các ngươi cứ cố gắng khát khao tỉnh dậy. Đó là tại sao Ma Trận đã được tái thiết kế thành như vầy: Đỉnh điểm của nền văn minh các ngươi.

Smith: Ta ghét nơi chốn này. Sở thú này. Ngục tù này. Thực tại này, ngươi muốn gọi nó sao cũng được. Ta không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

Morpheus: Tôi nhìn thấy nó trong mắt anh. Anh có cái nhìn của một người chấp nhận những gì anh ta thấy vì anh ta đang mong tỉnh dậy. Mỉa mai thay, điều đó không xa sự thật lắm. Anh có tin vào định mệnh không, Neo?
Neo: Không
Morpheus: Tại sao không?
Neo: Vì tôi không thích cái ý tưởng tôi không kiểm soát được đời mình.
Morpheus: Tôi biết chính xác ý anh muốn nói. Để tôi nói anh biết sao anh đang ở đây. Anh ở đây vì anh biết một điều gì đó. Điều anh biết anh không thể giải thích, nhưng anh cảm nhận được nó. Anh đã cảm nhận nó cả cuộc đời anh, rằng có gì đó không ổn với thế giới này. Anh không biết nó là gì, nhưng nó vẫn ở đó, như một vết dằm trong đầu anh, làm anh điên lên. Chính cái cảm nhận này đã mang anh đến với tôi. Anh có biết tôi đang nói về gì không?
Neo: Ma Trận
Morpheus: Anh có muốn biết nó là gì không?
Neo:
Morpheus: Ma trận ở khắp mọi nơi. Nó ở xung quanh chúng ta. Ngay lúc này đây, trong chính căn phòng này. Anh có thể thấy nó khi anh nhìn ra ngoài cửa sổ hay khi anh bật TV lên. Anh có thể cảm nhận nó khi anh đi làm… khi anh đi nhà thờ… khi anh đóng thuế… Nó chính là thế giới mà đã bịt mắt anh khỏi sự thật.
Neo: Sự thật gì?
Morpheus: Rằng anh là một nô lệ, Neo. Như mọi người khác anh được sinh ra trong xiềng xích. Trong một ngục tù mà anh không thể nếm hay nhìn hay chạm. Một ngục tù của cái trí.

Neo: Tại sao mắt tôi lại đau?
Morpheus: Anh chưa bao giờ sử dụng nó.

Morpheus: Tôi đang cố gắng giải phóng tâm trí anh, Neo. Nhưng tôi chỉ có thể chỉ cho anh cánh cửa. Anh phải là người bước qua.
Morpheus: Neo, sớm hay muộn gì anh cũng sẽ nhận ra giống như tôi là có một sự khác biệt giữa việc biết được con đường và đi trên con đường.
Chuột: Từ chối những thôi thúc của chúng ta cũng chính là từ chối luôn điều căn bản khiến chúng ta là người.

Chuột: Chính xác đó là ý tôi. Chính xác. Vì bạn phải thắc mắc rằng: làm sao những cỗ máy biết được Gạo Thơm có mùi như thế nào? Có thể chúng đã sai. Có thể mùi mà tôi nghĩ là Gạo Thơm thật sự là mùi của lúa mạch, hay cá ngừ. Điều đó làm ta thắc mắc về rất nhiều thứ khác.

Morpheus: Anh phải buông xả hết, Neo. Sợ hãi, nghi ngờ, và bất tín. Hãy giải phóng tâm trí anh.

Nhà tiên tri: Anh có biết nó có nghĩa là gì không? [chỉ vào tấm bảng]
Nhà tiên tri: Nó có nghĩa là “Biết chính ngươi.” (know thyself)

Nhà tiên tri: Oh, điều mà sẽ làm sôi sục cái đầu của anh lát nữa là, liệu anh sẽ vẫn làm bể cái bình nếu ta không nói gì hết?

Trinity: Neo, Em không sợ gì nữa hết. Nhà tiên tri nói với em là em sẽ yêu một người và người mà em yêu sẽ là Người Hùng. Anh thấy không, anh không thể chết được. Không thể được… vì em yêu anh. Anh nghe không? Em Yêu anh. [Trinity hôn Neo; Neo sống lại.]

Neo: Tôi biết bạn đang ở ngoài kia. Tôi cảm nhận được bạn. Tôi biết bạn đang sợ… bạn sợ chúng tôi. Bạn sợ phải thay đổi. Tôi không biết tương lai thế nào. Tôi không đến để nói với bạn điều này sẽ kết thúc thế nào. Tôi đến để nói với bạn nó sẽ bắt đầu thế nào. Tôi sẽ gác máy, và tôi sẽ cho những người này thấy điều bạn không muốn họ thấy. Tôi sẽ cho họ thấy một thế giới không có bạn. Một thế giới không luật lệ và kiểm soát, không biên giới và ranh giới. Một thế giới mà tất cả đều có thể. Từ đó chúng ta sẽ đi đâu là lựa chọn tôi để lại cho bạn. [Cảnh cuối tập 1]

Biên dịch: Prana THĐP


📌 Đặt Mua tạp chí Aloha (500k/16 volumes [1 năm]) ➡️ bit.ly/THDPmembership

📌 Volume 1, 2, 3 Free! ➡️http://bit.ly/2Pmh71U

📌 Mời Triết Học Đường Phố và các tác giả một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  1. Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  2. Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2