18.3 C
Da Lat
Thứ Sáu, 1 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 246

Truyện cổ tích và mối tình không “cổ” lắm

*Photo: Jeff_B

 

Khi bé, ta được nghe kể về nàng Lọ Lem xinh đẹp được chàng hoàng tử đem lòng yêu từ cái nhìn đầu tiên. Khi ta lớn lên, ta cảm nắng cậu bạn với vài tài lẻ hay cô gái lớp bên có chút duyên ngầm, và với những gì ta được kể từ khi còn bé, ta nghiễm nhiên cho đó là tình yêu. Quả thật, trong một xã hội hối hả, thì “tình yêu sét đánh” có phần tiết kiệm thời gian, lời nói và…tiền!

Một tình yêu không có sự giao tiếp lâu dài, không phải đối mặt với những trắc trở, khó khăn, không phải giải quyết sự khác biệt giữa hai người và trên hết là sự nhàm chán trong nhịp sống để yêu thương người kia bằng tất cả những gì mình có. Một tình yêu không “tì vết”.

Tôi tuyên bố tôi chưa bao giờ yêu. Tôi từng có người yêu nhưng không có nghĩa tôi đã biết yêu là gì. Tôi không yêu họ, tôi chỉ yêu cảm giác bên họ mà thôi. Thế tại sao bạn phải nghe những dòng chữ của một kẻ chưa biết yêu? Tại sao tôi biết tình là thế này mà không phải là thế kia? Tại vì có thể tôi không hiểu tình yêu, nhưng tôi hiểu những gì không phải là tình yêu. Yêu không phải là trưng bày “trailer” của mình với người kia, mà còn phải có cả “hậu trường” nữa. Yêu không phải là nói những lời sáo rỗng trên trời dưới biển, hay những câu thoại ướt nhoẹt từ phim Hàn Quốc dài tập, càng không phải những dòng status sến súa đăng lên hàng ngày, mà có thể mỗi ngày lại dành cho một người khác!

Nhìn những thanh niên yêu nhau theo một cách vô tội vạ, một cách vừa phức tạp vừa tầm thường, tôi thấy mệt mỏi hơn là vui. Tôi hỏi họ vì sao họ yêu nhau, họ bảo là yêu cái tâm hồn, tôi buồn cười. Giả sử một câu chuyện về một anh chàng bụi bặm ngồi trên chiếc xe tay ga, đằng sau là cô gái với chiếc quần ngắn cũn cỡn, để lộ đôi chân trắng nõn nà. Và rồi có những câu hỏi sau:

  • Nếu một ngày anh trở nên lụi bại trên con đường sự nghiệp, nếu trong một phút yếu lòng, anh bật khóc, em có ở bên anh không?
  • Nếu một ngày anh thấy em với mái tóc bù xù, gương mặt không trang điểm, anh có còn yêu em không?
  • Nếu một sáng mai thức dậy, anh có còn yêu em không?

Quay lại câu chuyện của nàng Lọ Lem, nàng rời nhà lúc 10 giờ  đến lâu đài và rời đi lúc 12 giờ. 2 tiếng không đủ để làm hoàng tử yêu nàng vì tâm hồn được, thế nên bạn hiểu hoàng tử yêu nàng vì cái gì rồi chứ? Nếu Lọ Lem nhỏ bé đến dự vũ hội trong bộ quần áo rách rưới, hoàng tử có yêu nàng không? Hoàng tử đã kịp nhìn thấu “hậu trường” của Lọ Lem chưa? Hay chỉ vì cái “trailer” bóng loáng mà đã vội vã cưới?

Phải, tình cảm có thể đến qua cái nhìn đầu tiên, nhưng tình cảm đó còn ở lại qua năm tháng hay không còn tùy thuộc vào sự hy sinh, sự dâng hiến, sự quan tâm, lắng nghe giữa hai bên, chứ không phải mặc định cho rằng đấy là tình yêu đích thực chỉ vì tim bạn lỡ vài nhịp.

Có thể, nó cũng chả phải tình yêu nữa.

 

Thi Thi

Nào có đâu bao ngày

*Photo: Any Direct Flight

 

Tuổi trẻ ấy nào có đâu bao ngày

đón nắng hứng mưa xẻ đôi cơn gió

ôm cả mây vào vòng tay nhỏ,

tít mắt cười khi ai đó khen xinh.

Tuổi trẻ ấy ngây ngô còn đầy

tròn xoe mắt ngắm nhìn thế giới,

lòng hiếu kì như thôi thúc đôi chân.

Một ngày kia bản năng dẫn đường

chân rón rén bước ra ngoài cánh cửa

mà thân biết bên kia nào trải nhựa,

sẽ rất nhiều gai đá chông chênh.

Tuổi trẻ ấy biết học không là chưa đủ

tập tành gõ đầu trẻ tra bài,

để một hôm trò ngơ ngác hỏi:

Lòng tự trọng là gì hả cô?

Bất chợt như có những mơ hồ,

tự vấn bản thân có không sự hiểu

phải chăng tự bản thân tôn trọng chính mình.

Trò lại hỏi: Quan trọng không cần có?

Quan trọng chứ vì người đời khinh rẻ,

nếu người sống không tự trọng với người.

Trò nhỏ đột nhiên thêm thắc mắc:

Đem bán đi có được bao tiền?

Bản thân chưa bao giờ đong đếm,

nên chẳng biết giá đáng bao tiền,

phải chăng cũng không phải là ít

nên lắm người đem bán cùng mua.

Cũng một lần muốn đặt câu hỏi,

bán đi rồi đã lấy lại được chưa?

Vì trò vốn hãy còn quá trẻ,

nên lựa lời giảng giải đúng sai

Trò chăm chú nghe từng chữ một,

như đã hiểu gật gù tán thưởng…

“Cô nói hay quá con sắp ngủ luôn rồi”

 

Xù Híp Mí

Có những nỗi đau không cần phải quên…

*Photo: Any Direct Flight

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là ngày đầu tập đi, ta vấp té
Ta đau đớn, mắt nhạt nhòa dòng lệ
Nhưng nhờ vậy, ta đã tự bước đi…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi ta bị người thân bỏ mặc
Nỗi đau khiến cho ta câm lặng
Nhưng nhờ vậy, ta đã biết yêu thương...

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi người thân yêu đi xa mãi
Nỗi đau khiến cho ta điên dại
Nhưng nhờ vậy ta thêm yêu cuộc đời…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi ta bị người từ chối
Tình cảm vừa nhen đã tàn lụi
Ta biết rằng họ không dành cho ta…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi người yêu thương bỏ ta ở lại
Nỗi đau trong tim cứ quằn quại
Nhờ vậy, ta thêm yêu bản thân mình…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Vì càng cố quên, ta sẽ càng nhớ
Nỗi đau chết lặng đến từng nhịp thở…
Nỗi đau xé lòng, len cả vào giấc mơ…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Vì nó dạy ta biết hy vọng
Dạy ta biết yêu thương và trân trọng
Mỗi khi ta may mắn mỉm cười…

 

Một Đời Quét Rác

Chết vì tình – Một ảo mộng?

*Photo: Korolevatumana

 

“Giống như đôi uyên ương bươm bướm
ở trên đời đã là chuyện điên rồ,
sao còn muốn lên tận trời cao?
Chi bằng hãy cùng ngủ yên trong sự dịu êm”…

Tôi không thể quên những câu hát ấy trong một bộ nổi tiếng khi còn nhỏ. Mộng uyên ương hồ điệp đó đã ám ảnh giấc mơ thời tuổi trẻ yêu đương sôi nổi của rất nhiều người trong chúng ta. Yêu là hy sinh tất cả, thậm chí chết để được gần nhau – một niềm tin vương vấn ít nhiều trong những trái tim tươi trẻ.

Việc cặp đôi đồng tính nữ tự tử để được yêu nhau đã khiến cho tôi suy nghĩ về điều này. Sự kiện đáng tiếc của họ, tuy trở nên thu hút dư luận với chi tiết đồng tính nữ, nhưng có lẽ cũng giống như bao câu chuyện tự tử vì tình khác: khi tình yêu bị ngăn cản, cách trở, họ chỉ còn biết lấy cái chết để được bên nhau. Một trong hai người đã chia sẻ: mong được hóa thành đôi bươm bướm đẹp nhất thế gian, sau khi chết.

Tôi hy vọng những cặp đôi tự tử vì tình không phải là tín đồ Kitô giáo. Một người bạn Kitô giáo của tôi nói, mặc dù tin vào thiên đường, Kitô giáo vẫn cấm người ta tự tử, coi đó là một tội. Tự tử đồng nghĩa với việc sẽ bị đày ải sau khi chết. Ai biết được, không chừng sự đày ải đó có thể làm các bạn phải xa nhau vĩnh viễn? Chạy trốn địa ngục này để đến với một địa ngục khác, đó không phải là lựa chọn tỉnh táo.

Nếu bạn không tin Thiên Đường, hoặc không biết chắc cuộc sống sau khi chết có tồn tại hay không, thì việc chết để được yêu nhau thật đáng tiếc. Chết rồi, có biết là còn yêu nhau được nữa không.

Với niềm tin cá nhân, rằng không có thế giới bên kia, mà nếu có thì chúng ta cũng chẳng còn là chúng ta với thể xác và tâm hồn con người, tôi thấy cái chết lúc này hoàn toàn vô nghĩa. Nó chỉ chứng minh cho thế giới thấy bạn đã từng có một tình yêu, chứ không còn để các bạn được yêu nhau. Tình yêu chỉ còn khi hai quả tim chưa ngừng đập, thân xác chưa nguội lạnh… Khi người ta chết đi, chỉ có một câu chuyện tình còn lại, chứ không phải một tình yêu sống giữa hai con người.

Tôi e rằng, chết là hết. Hết tất cả, hết cả tình yêu. Thà yêu nhau trong đau khổ còn hơn mãi mãi không có cơ hội yêu nhau nữa. Trừ khi bạn xếp tình yêu mà mình coi là thiêng liêng đứng dưới những muộn phiền cuộc sống.

Tuy nhiên, khi những căng thẳng triền miên đầy đọa tinh thần được hòa trộn với những câu chuyện huyễn ảo về tình yêu và cái chết (những câu chuyện hi sinh vì tình được miêu tả tuyệt đẹp trong tiểu thuyết, phim ảnh, v.v…), tôi nghĩ người ta sẽ dễ hình dung ra một thiên đường đẹp tươi và cô độc của tình yêu sau khi chết. Đó chỉ là sự hoang tưởng tinh thần xảy ra do những nỗi đau.

Không ai có được tất cả những gì mình muốn, hoặc có khi, cuộc đời khắc nghiệt khiến bạn nhận được quá nhiều nỗi đau, mà hạnh phúc thì chỉ mong manh như giọt nước. Chẳng biết vì sao chúng ta lại phải sinh ra trong đời, nhưng một khi đã tồn tại và hiểu đâu là niềm vui, nỗi buồn, người ta chỉ còn cách cố gắng hết mình, thậm chí sẵn lòng đứng trong đau khổ để được nếm trải hương vị ngọt ngào nhỏ bé của yêu thương và hạnh phúc. Hoặc chấp nhận cả vui và buồn, hoặc chết và không có bất cứ thứ gì.

Và cho dù tình yêu của bạn đã bị đẩy tới đường cùng, thật sự bạn tuyệt vọng đến mức mong được chết, dường như tình yêu vẫn không phải là lý do đích thực khiến bạn tự tử.

Khi quyết định tự tử, có thật là bạn đang hy sinh vì tình yêu, hay đã cam chịu cúi đầu trước áp lực từ gia đình, người thân và xã hội? Bạn tự tử vì tình, hay tự tử vì đời? Đôi lúc, tình yêu chỉ là tấm màn chắn mà người ta tự che lên mắt mình, để tạo ra cảm giác giải thoát đẹp đẽ. Khi bạn chọn cái chết vì sự ngăn cấm của gia đình và áp lực xã hội, nghĩa là bạn đã buông trôi mạng sống của mình cho chính sự ngăn cấm đó, cho chính áp lực đó, chứ đâu phải cho một tình yêu đã chết cùng thân xác?

Người ta dùng từ “đáng tiếc” để nói về những câu chuyện như thế. Đáng tiếc vì tuổi đời còn quá trẻ, đáng tiếc vì một tương lai phía trước, đáng tiếc vì nỗi đau và sự ân hận còn lại nơi cha mẹ, người thân… Nhưng tôi nghĩ có một thứ còn đáng tiếc hơn nữa, đó là tình yêu của họ. Họ đã không còn sống để yêu nhau được nữa.

 

Đèn Phố

Đừng sống thật với bản thân

*Photo: Adih Respati

 

Một câu khẳng định rằng không có nội tâm con người nào, dù trong sạch đến mấy, lại không ấn tàng trong đó một tật xấu khả ố nào đó. Cho dù là các bậc được mang tiếng là thanh cao thì tôi vẫn chắc chắn rằng trong suy nghĩ của họ vẫn còn có thứ xấu xa mà không ai biết được, ngoài họ. Vậy thì người tốt không phải là người giỏi che đậy cái xấu xa bên trong sao? Câu đó xem ra là đúng, và người tốt cũng là người biết che đậy cái xấu nữa.

Chúng ta thường hay phê phán các cụ ta thời xưa mang lắm bệnh sĩ diện, tức là muốn lắm nhưng giả vờ không thích, hoặc là đạo đức giả, khi những điều đó xét ở một thời đại dân chủ và tự do như bây giờ thì điều đó thực là ngu ngốc. Ngày nay người ta luôn kêu gọi mọi người hãy sống thật với bản thân mình, tức là nên sống đúng với cảm xúc thực, suy nghĩ thực của mình, là xấu hay đẹp đều nên phô ra cho mọi người biết, là viết những dòng tự thú (confession). Khi một nhóm bạn nam ngồi nói chuyện với nhau, một cô gái ăn mặc gợi cảm đi ngang qua, mọi người đều bàn tán về cơ thể cô ta, duy chỉ có một người im lặng, người đó dễ bị gán là đạo đức giả, thích mà còn làm bộ. Nhưng khoan hãy kết tội người đó vội.

Trong bản tính con người luôn có ít nhất một nết xấu, đó có thể gọi là bản tính tự nhiên, tuy nhiên nết xấu ấy cũng ẩn chứa tố chất cho các mục đích tốt đẹp nào đó. Con người chúng ta luôn có xu hướng che giấu những suy nghĩ và cảm xúc thật của mình và chỉ muốn phô bày ra những gì được dư luận chấp nhận và cho là tốt đẹp. Xu hướng thiếu trung thực, xấu che tốt khoe để được lòng xã hội thực ra không những đã góp phần văn minh hóa mà còn dần dần và trong mức độ nhất định nào đó làm đạo đức hóa trong con người chúng ta, vì không ai có thể nhìn thấu ngay vào bản chất thật của vẻ ngoài đứng đắn, danh giá, đạo hạnh và chính những tấm gương tưởng là tốt lành biểu lộ ra bên ngoài hằng ngày lại là một trường học để tăng tiến nền nếp đạo đức cho ta.

Tôi luôn nhớ thây giáo dạy triết cấp ba của tôi có nói với lớp: “Các em nhìn thầy là một thầy giáo lớn tuổi và đứng đắn. Khi ra ngoài đường nếu thầy nhìn thấy những cô gái trẻ trung, xinh đẹp độ tuổi các em thầy có thích không? Thầy vẫn sẽ thích nhưng thầy không thể biểu lộ sự thích đó giống như ở độ tuổi các em được, bởi thầy là người có tuổi để con cháu thầy nhìn vào và thầy là thầy giáo để các em noi gương.” Chúng ta có thể tự do phô bày, nhưng hãy nên biết giới hạn những gì được phô bày.

Trong tình yêu ngày nay, các cặp đôi luôn có nhu cầu muốn tìm hiểu rõ ràng quá khứ của nhau, và ngụy biện rằng điều đó sẽ tốt cho cả hai, để thông cảm cho nhau hơn, nhưng thường có tác dụng tiêu cực ngược lại với mong muốn. Khi cô gái che giấu quá khứ lỗi lầm của mình, nếu một ngày nào đó bị phát giác ra, người con trai chắc chắn sẽ cho cô là đồ giả dối, lừa gạt. Nhưng nếu người con gái đó nói ra điều đó trước thì sao? Người con gái sẽ thường hay bị dày vò bởi người tình, và người con trai khi biết điều đó lại càng đau khổ hơn so với không biết. Ấy vậy mà hầu như ai cũng muốn biết, cũng muốn trở nên đau khổ! Bởi vì bản tính con người hay tò mò và có nhu cầu muốn chiếm hữu trong tình yêu. Tại sao ta lại không chấp nhận bị lừa dối nhỉ, chẳng hay hơn sao? Điều đó xem chừng phi lý nhưng nếu xét sâu xa không phải không có lý.

Không phải điều gì chúng ta cũng nên nói ra cho người khác biết, có những thứ nên giấu kín trong lòng, đặc biệt là những nỗi đau. Xin nhắc lại một đoạn trong tác phẩm Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo, khi Jean Valjean đi tù khổ sai về xin giám mục chỗ ăn ngủ nhờ, vị giám mục đồng ý mà không cần biết những lỗi lầm trước kia của người tù khổ sai này, chỉ biết rằng anh ta là một người đau khổ cần được giúp đỡ. Trong suốt bữa ăn ông không hề hỏi hay gợi lại bất cứ một câu hỏi nào về những đau khổ trước kia của anh ta mà đáng ra ông được quyền hỏi, ông không muốn khoét lại nỗi đau từ quá khứ của anh ta, ông chỉ dùng tình thương người để cảm hóa một con người lầm lỡ, mà như ta vẫn thấy, không phải ai cũng biết dùng tình thương này đúng cách đâu.

Ta đi hơi xa về chủ đề đang nói rồi. Xin nhắc lại, vậy thì chúng ta cứ che đậy cái xấu và làm cho xã hội trở nên suy đồi hơn hay sao? Chính trị thì tha hồ lừa dối, thương trường cũng nhiều dối gian, đến ngay cả tình yêu, con người sống gần nhau mà cũng lừa dối như tác giả bảo thì ta còn biết tin ai được nữa. Tôi muốn nói là, để có một xã hội lý tưởng là điều hoàn toàn không thể, ta phải tin vào chính bản thân mình, phải biết dùng trí tuệ của mình, phải học, phải đọc để phán xét, để biết rõ hơn về người khác. Đôi khi phải dùng Tâm để cảm nhận. Đừng thần tượng bất cứ một ai, bởi nếu một ngày kia khi thần tượng của các bạn sụp đổ ngay trước mắt thì sao?

Tôi vẫn không hoàn toàn khuyến khích cho một xã hội đạo đức giả, nhưng với con người bây giờ, thà một xã hội đạo đức giả còn hơn là một xã hội đạo đức thật. Hãy thử hình dung xem.

 

Đời Thừa

Nghệ thuật này, bí kíp nọ

Photo: Malcolm Lidbury

 

Tôi thấy thời buổi này người ta bịa ra đủ thứ “nghệ thuật” hết. Tôi thì thích từ ngữ mà anh bạn tôi dùng để nói về nó hơn: “Chiêu trò”. Vâng! Chính xác là chiêu trò và “thuật dụ người” thì đúng hơn.

Đơn cử cái cuốn Đắc Nhân Tâm là ông Dale Carnegie biến hóa từ “lòng thành” mà ra. Vậy mà giờ nhiều người cứ lấy “Đắc Nhân Tâm” ra áp dụng kiểu bề mặt, giả vờ lắng nghe người khác để lấy lòng. Điều đó thật ô nhục thay cho Đắc Nhân Tâm. Bao đời nay con người ta chẳng cần phải thuật này, thủ thuật kia, “bí kíp” nọ vẫn sống tốt và đầy tính người. Không hiểu là vì cái cớ gì mà càng về sau người ta càng bịa ra nhiều chiêu trò như thế. Có lẽ chăng là vì nền cơ chế thị trường, sự bùng nổ của dân số, sự quá tải của thông tin, sự nhanh nhảu đoản không có thời gian tìm hiểu nhau mà người ta cần phải có nhiều chiêu trò để “chinh phục” người khác càng nhanh càng tốt?

Đạt Lai Lạt Ma 14 đã nói: “Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là lòng tốt.” Vâng, không phải là chùa chiềng, không phải là tổ chức. Vấn đề là nếu bạn muốn đạt được sự hiểu biết hay thấu triệt về một điều, bạn phải bỏ thời gian để nhìn ra cái gì là bản chất của sự việc, có được bản chất bạn sẽ hiểu được những cái mà nó sinh ra một cách nhanh chóng; và theo cách đó, bạn sẽ biết cái gì là thật, cái gì là giả từ những tiếng ồn quanh bạn. Thường thì điều “thật” thường không ồn ào. Đó là lý do các thánh nhân, vĩ nhân luôn tìm ra những điều hay ho từ tĩnh lặng, từ tách biệt…

Nếu bạn muốn ai đó tin tưởng bạn, một lời nói của bạn đáng tin hơn 10 lời dèm pha, bạn phải có uy lực. Uy lực đó đến từ đâu, nó đến từ việc bạn nói được và làm được, lời hứa chắc như đinh đóng cột. Nó còn đến từ việc bạn luôn thành thật với mọi người xung quanh không gian dối. Điều này cần có nhiều thời gian để người khác trải nghiệm về mối quan hệ giữa ta với họ, hiểu biết về con người của ta, và qua đó hình thành lòng tin, sự cởi mở, niềm hứng khởi, thích chuyện trò, muốn giao du, vân vân.

Và biết sao không? Xã hội ngày nay quá nhanh, quá ồn và quá bận rộn để thỏa mãn cho những điều trên. Chúng ta cứ như là những xác chết gấp rút thi công các công trình hàng ngày, và tiếng động cơ, và tiếng công trình, và dự án, và chẳng còn ai chú ý tới một cá nhân nào, chẳng còn ai nghe một người nào đó nói và quan sát họ nữa. Rồi chúng ta “khám phá” ra các chiêu trò; thật ra cũng chỉ vì nhu cầu xã hội, nhu cầu phải làm sao thật nhanh để lấy được lòng tin của người khác bằng thuật dẫn dụ, bằng thôi miên bằng ngôn từ, bằng “đọc vị”, bằng quan sát ngôn ngữ cơ thể, bằng đủ các thứ mới. Đó không phải là bản chất vấn đề, đó là bề mặt, là ngọn của vấn đề; không có gốc thì ngọn trước sau gì cũng chết tươi thôi.

Đó là ngày mà tôi biết rằng: Kỹ năng mềm – trào lưu của thời hiện đại không phải là cách giải quyết vấn đề. Nó chỉ là một dạng chữa cháy. Nhiều người nghĩ mình sẽ dạng dĩ hơn nhờ học kỹ năng mềm, nhưng nói vanh vách đâu có nghĩa bạn là một người biết thuyết trình hay là một diễn giả có tầm? Vấn đề là kỹ năng sống, là sâu bên trong, là nhận thức của bạn, là cách bạn ứng phó với cuộc đời; nó vững chắc, nó mạnh mẽ và nó đặc biệt. Nó không phải là tư duy tích cực, nó là dạng trung dung mà tư duy tích cực không bao giờ có thể chạm tới. Bản sắc xuất hiện từ đó, và nếu bạn chỉ chạy theo bề mặt, học những thứ chữa cháy, vài ba thứ thủ thuật, nó làm con người bạn trở thành một kẻ ma lanh, ranh mãnh. Có thể bạn lưu loát thật đấy, có thể bạn có nhiều bạn bè thật đấy, nhưng chẳng có ai chân thành với bạn cả đâu nếu bạn cứ xài thủ thuật này đến “bí kíp” nọ.

Tôi không phủ nhận sạch trơn các nghệ thuật mà người ta khám phá ra, tôi chỉ nói nếu bạn muốn đi xa hơn và trở thành một người có năng lực, có sức hút, bạn phải lấy “nhân – tâm” làm gốc. Nhân là người, tâm là tim; tình người từ trái tim, theo cách nghĩ của tôi. Nếu bạn có thể làm được điều đó, lấy lòng thành làm nền tảng, tôi tin đi đâu bạn cũng có quý nhân phò trợ, vũ trụ cảm mến, may mắn sẽ đến.

Những cái mới hiện nay, những khám phá mới về mảng kỹ năng sống hiện nay thực ra chẳng có gì mới. Nó chỉ là phân nhánh hoặc phát triển từ nền tảng xưa nay con người đã sử dụng. Lấy sự thành tâm mà đối đãi với mọi người. Khi thành tâm, có thể bạn sẽ chịu “thiệt” thật đấy, có thể bạn sẽ bị tiểu nhân ganh ghét thật đấy, có thể bạn sẽ bị hãm hại thật đấy, nhưng chí ít bạn sẽ có được những bằng hữu hiểu bạn và dù có gì xảy ra cũng luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn; thà như thế còn hơn là ma lanh, là lanh lợi mà khi gặp chuyện thì hàng trăm người bạn “giao lưu” cũng không chịu giúp gì, đó mới đích thị là cô đơn, là thất bại.

Nếu bạn muốn học một thứ chính đạo, bạn phải học từ bản chất, thời buổi này không hơi đâu học từ nhánh hay từ ngọn, bởi vì thông tin ngày nay thay đổi quá nhanh; sẽ ra sao nếu ta cứ bỏ thời ra cập nhật liên tục những thứ ấy? Chúng ta đâu phải con rối! Đáng mừng thay, nghệ thuật chính quy không nằm trong nhóm thay đổi xoành xoạch, nó có nguyên lý, nó thuộc bản chất con người, tóm lại là bạn chả cần phải đi đâu xa. Nghe tôi này, ngồi xuống, ăn miếng nước, uống miếng bánh (?!??), định thần lại, nó ở bên trong bạn, thấy gì không? Nếu chưa thấy, lặp lại, không phải ai cũng thấy ngay lần đầu tiên. Nếu một ngày bạn thấy được nó, chưa xong đâu, hãy cố gắng thực hành nghiêm túc, thành công sẽ đến với bạn, không phải về kiến thức bạn có, về kiến thức mà mọi người sẽ tự nguyện dành tặng cho bạn; không phải về tình cảm bạn có, về tình cảm mà nhiều người dành cho bạn. Đó mới đích thị là “Nghệ Thuật”!

 

-Lục Phong-

Vượt ngục

Photo: Ông lão trong bộ phim O Brother, where the art thou?

 

Khi tôi bảo bạn tôi là nhạc của Imagine Dragon nghe rất được, nó khen lấy khen để bài Demons. Một thời gian sau khi phát hành album đầu tay, Demons được dựng clip, trở thành một bài khá hot trên bảng xếp hạng Billboard và được rất nhiều người share, trích lời làm caption cho ảnh. Tình cờ, có thể nói là đánh dấu ngày kết thúc của mùa đông, tôi tìm nghe lại bản cover của bài hát này, mới để ý những câu hát phía sau: “When the day are cold and the cards are fold…” Như việc đọc tiểu thuyết và tìm ra được những câu văn ấn tượng sau màn chào đầu, bài hát có thêm câu này: “I can’t escape this now unless you show me how…” Và bất chợt, từ câu hát ấy, tôi nối một mạch liên kết dài với ba bộ phim mình vừa xem trong độ nửa năm trở lại đây, với những ý định bất chợt nhóm lên rồi vụt tắt trong tôi và cả những gì tôi vừa đọc được trong sách. Hành trình tìm sự giải thoát âu là lại tự lao vào một nhà tù khác, là một chuỗi dài những loay hoay.

Ba bộ phim tôi muốn nói đều liên quan đến đề tài vượt ngục: The Shawshank redemption (1994), The way back (2010) và O brother, where the art thou? (2000). Đó là ba cuộc phiêu lưu kì vĩ và ba cuộc giải phóng tư tưởng ấn tượng.Cách nhìn, cách khai thác đề tài của từng bộ phim có sự khác biệt rõ rệt. The Shawshank redemption dựa trên cuốn tiểu thuyết của nhà văn Stephen King. Nó là một câu truyện mang tính thơ hiện thực và được đẩy lên thành một tư tưởng chủ đạo. Câu chuyện dễ gây liên tưởng đến bá tước Monte Cristo và có lẽ, nhà văn đã lấy ý tưởng từ một câu chuyện thật. Song, dù sao đi nữa, vì câu chuyện thật đấy chỉ là cảm hứng, nó đã được chuyển thể thành một tác phẩm văn chương, nên tôi không thực sự gắn kết với câu chuyện ấy lắm.

Nói vậy, không có nghĩa là bộ phim không hay. Chẳng qua, tôi, có thể là bị ám ảnh bởi yếu tố sự thật nhiều hơn, kì vọng yếu tố thật quá nhiều trong một bộ phim và một tiểu thuyết, điều chỉ có nhiều ở phim tài liệu và tác phẩm lịch sử, tiểu sử. Hai nhân vật biểu trưng cho hai kiểu lý trí đối lập. Một bên khao khát tự do, bất bình vì sự hàm oan và điều tiếng, dù anh không thể hiện điều ấy ra ngoài. Một bên hài lòng với sự thể chế hóa. Thời gian ở tù đủ lâu để ông xoay sở, tái kiến trúc cuộc đời mình. Có thể đã bao phen muốn phản kháng, muốn được giải thoát. Nhưng quá nhiều lần bị khước từ đơn ân xá, ông đã cư xử mềm dẻo hơn, chấp nhận tù ngục như là một phần của cuộc đời mình. Ông không nhất thiết phải trở về lại nhà, với gia đình vợ con bạn hữu. Ông tự biến ngục tù thành ngôi nhà của mình và chấp nhận gắn bó.

Theo tôi, thái độ của hai nhân vật không mâu thuẫn nhau, ý chí của họ cũng không mâu thuẫn nhau. Một bên tự do là thế giới bên ngoài là nơi anh ta có thể tung tác vùng vẫy, kiếm tiền và thực hiện những ước mơ của đời mình. Với người tù nhân già, tự do gần như trở nên đơn giản hơn, ít yếu tố ràng buộc hơn. Chỉ cần hài lòng, chỉ cần có thể tạo ra sự thoải mái, cái mà ông gọi là sự thể chế hóa con người. Đại diện nổi bật nhất của tư tưởng thể chế hóa chính là ông lão thủ thư, con người hiền lành và bác học nhất của nhà tù Shawshank. Ông đã tự gây thêm tội để được ở lại tù. Ông ra tù với tâm thái bất đắc dĩ, đến cuối cùng chọn cái chết như phương cách giải thoát cho cuộc đời mình.

Thời gian đã bào mòn, đã đơn điệu hóa con người đi rất nhiều. Chính thời gian tạo nên sự già nua, sự ngại thay đổi, sự lạc hậu. Hơi cực đoan, nhưng theo tôi, họ đã chọn hai lựa chọn khác nhau, không có nghĩa là một bên còn nô lệ, một bên có tự do. Chủ quan là từ tâm thái người ta có thấy thoải mái hay không? Tự do đôi khi cũng là một cái lồng sắt ràng buộc con người, mặt khác, đôi khi người ta chấp nhận mình bị giam cầm một ít, bị nô lệ một ít, bị phụ thuộc một ít, bị kiểm soát một ít để yêu thương, để gắn bó, để ở lại trong cõi an nhiên mà thâm sâu muốn đón nhận. Tự do không nghĩa là bay nhảy khắp phương trời, nó cũng nhỏ bé và giản đơn như việc người ta chấp nhận ở lại cùng nhau, dưới một mái nhà và tôn trọng những nguyên tắc chung của nhau vậy.

Với The Way Back, người ta ít có điều kiện tư tưởng và chiêm niệm về cái tự do và giam cầm hơn. Chỉ có một lựa chọn, là giải thoát, phải giải thoát thì mới được tự do. Bối cảnh câu chuyện chân thực hơn. Một phần, bộ phim không chuyển thể từ tiểu thuyết mà là một câu chuyện thật. Đệ nhị thế chiến là có thật, phát xít và sự tàn sát, xua đuổi là có thật, nhà tù địa ngục ở Siberie cũng không phải là cái mà nhà làm phim tưởng tượng ra. Muốn sống, muốn thoải mái và hạnh phúc, không phải chỉ cần tuân thủ luật lệ của tù ngục là đủ, bởi luật lệ quá khắc nghiệt. Tra tấn nhau, giành giật nhau, súc vật với nhau là những thái độ sống hiển nhiên được chấp nhận. Bởi vậy mà họ phải đi, họ phải thoát khỏi thành lũy của sự giam hãm, cầm buộc. Chuyến hành trình của họ quá dài, quá nhiều hy sinh, quá nhiều mất mát.

Với người này, nó thực sự tạo nên ý nghĩa lớn, với người kia đơn giản là con đường trả nợ đời – để tha thứ cho mình, với người nọ là một ước mơ dang dở – đau đớn thay, giấc mơ mãi ở đó, sáng lấp lánh như một vì sao xa. Với The way back, người ta không phải đấu tranh nhiều về mặt tư tưởng, không phải chuyện là nên đi hay nên ở, ở thì sao và đi thì sẽ ra thế nào. Lựa chọn đơn giản hơn không có nghĩa là thực tế ít khắc nghiệt hơn. Những con người ấy đều ở thế đường cùng, họ sống trong những mối liên lụy. Tù tội không đơn thuần là hình phạt cho tội ác, hay án oan của riêng bản thân họ. Mà suy cho cùng, có cái án nào là hệ lụy cho một và duy nhất phạm nhân đâu?

Thay đổi định hướng địa lí không ảnh hưởng đến mục tiêu định đạt ban đầu. Những con người dấn bước trong cuộc đời thực này, họ không tạo ra tư tưởng nhưng người ta vẫn chiêm ngắm và trầm tư về họ, về ý chí, về sự kiên cường. Sự quả cảm, phải chăng là kiên trì cho đến cuối, bởi nếu nói đến chuyện dám bứt phá hay không thì họ đều đã có thừa. Với điều này, thì những người nhỏ con bé họng, những người mỏng mảnh như cô gái duy nhất của The Way Back lại có nhiều hơn cả, chứ không phải là tay ma cô cầm dao giết người, giết chó gà không ghê tay.

Rồi đến O brother, where the art thou? Trong ba bộ phim thì O brother where the art thou? gây cho người ta cảm giác ngạc nhiên, hoang mang hơn cả. Bộ phim vừa có nhiều yếu tố quá đỗi đời thường vừa thăm dặm vào những mũi kim nhọn của nhân sinh quan. Bộ phim giống như một câu chuyện ngụ ngôn hài hước, nhưng nó lại tạo được hiệu ứng văn chương đậm nét vì góc quay và cảnh quay quá đẹp. Rồi với chất folklore, với những bài hát và bản tin trên radio, với vấn nạn phân biệt chủng tộc (đảng Ku Klux Klan), với chiến dịch tranh cử bang… nó lại một lần nữa trở nên quá thật và đánh động khán giả. Đi ra khỏi ranh giới của một cuộc vượt ngục thông thường, nó thôi thúc nơi người xem những trăn trở về sự giải thoát, về cuộc vượt ngục mà thành lũy không đâu xa, không phải bằng gạch đá sắt thép gì ngoài những mặc cảm, những rào cản, những mệt nhoài của chính bản thân mình.

Người ta tìm sự tha thứ, sự tha thứ là do tôn giáo, do bản thân hay do luật pháp? Bản thân tôi cho rằng, không hẳn cách đánh giá theo quan điểm vô thần là hoàn toàn đúng. Đúng trên lý lẽ mà bản thân ta còn băn khoăn thì đúng để mà làm gì? Nhưng nhà làm phim đâu cố áp đặt ý tưởng nào cho chúng ta. Chỉ có sự thật phơi bày ra đó cho chúng ta thấy, khi người ta coi tôn giáo là bùa chú tha thứ và trừng phạt, hình thức, trình diễn. Còn sự thật thế nào, chỉ có tòa lương tâm mới định án và tha tội được. Ba kẻ đào tẩu trong câu chuyện nửa thực nửa hư này vừa ngông nghênh mà vừa bình thường hết sức. Một kiểu ngốc nghếch, điên điên dễ gây tò mò. Người ta lại thấy rằng, dầu văn chương song nó không có gì xa vời. Đào tẩu và bị truy nã, lần này lượt khác được tha và chịu án.

Không có cuộc vượt ngục có tầm tư tưởng, không có thiên anh hùng ca nào ở đây. Chỉ có hai kẻ ngốc bị thằng bạn gian manh lừa, dụ dỗ đi tìm kho báu. Kẻ gian manh cũng chẳng có ý gây ra sự gì, ngoài chuyện phải về nhà gặp vợ, phải can ngăn đám cưới mới của vợ. Danh dự với xã hội không còn thì danh dự của kẻ làm chồng làm cha, lương tâm và tình yêu thương vẫn còn muốn được biểu hiện ra ở dưới mái nhà nhỏ bé đó. Tôi đặc biệt chú mục vào từng lời của ông lão làm việc trên đường tàu. Ông xuất hiện ở đầu phim và trở lại ở cảnh cuối cùng của phim. Tôi muốn tìm cho ra ông là ai, muốn hiểu xem ông đến và đi trong câu chuyện này để làm gì…

Ba bộ phim là một chuỗi những vấn đề, những giả thiết, những lập luận và chứng minh cho cái gọi là tự do và giam cầm, cho cái giải phóng và nô dịch. Tù ngục là minh họa tốt nhất cho hai khái niệm mâu thuẫn này. Nhưng liệu trở về cuộc sống đời thường, người ta có thôi ngớt nghĩ về nó hay không? Một câu chuyện đơn giản hơn ba bộ phim trên, ngoài “All the saints we see, are all made of gold” – lời ít ý nhiều của Demons, tôi biết có một vlog giản dị tầm dân thường ít tuổi, gần gũi hơn: “Giả thuyết con chim và cái lồng” của nhóm Chuyện 2 giờ sáng trên youtube. Tự hỏi, cái gọi là sự trói buộc hay giam hãm ấy, há chẳng phải là người ta tự tạo ra cho nhau và cho chính mình sao?

Như người ta vẫn cho rằng yêu đương là một sự ràng buộc, làm việc là một ràng buộc, sống như một công dân là một ràng buộc – ràng buộc bởi một cái hợp đồng lớn mà người ta gọi là khế ước xã hội. Và hỡi ơi, trong tất cả sự sáng tạo đáng hoan nghênh và trân trọng, thì người ta còn sáng tạo ra cả sự ràng buộc này nữa, sáng tạo cũng bị giới hạn theo tư tưởng và trường phái đấy thôi. Hệt như việc nghĩ ra những quỷ kế lừa lọc và giết người hay đàn áp và trấn giữ khác.

Cho đến bao giờ người ta mới thực sự hát một khúc tự do? Tự do nhất, chẳng phải là lúc ngồi nhìn bầu trời, ngồi ngắm cỏ cây và ngồi hát ru mình vô lo vô nghĩ đấy sao? Tự do nhất, chẳng phải là lúc cứ để mọi băn khoăn chảy đến rồi trôi đi đấy sao? Ta không còn nghĩ đây là đam mê hay là hình phạt nữa, không nghĩ đây là cùng đích hay là tận diệt nữa, ta chỉ làm, làm và không gán ghép một ý nghĩa nào vào đấy. Để cho bản thân sự vật, sự việc được nên trọn vẹn một cách tự nhiên nhất. Tự do là để mọi điều được như nó vốn có thay vì áp đặt những ý định riêng của ta vào. Tự do không chỉ là một quyền của riêng cá nhân mà còn là quyền của tất thảy mọi tạo vật vậy!

Mỉa may thay, có vẻ như, muốn được tự do, thì không nên nghĩ nhiều về nó nữa!

 

Broon

Vì sao quan hệ tình dục trước hôn nhân không phải là tội lỗi?

*Photo: Virginia Wonka

 

Trước tiên, tôi khẳng định quan điểm tôn trọng ý kiến của mỗi cá nhân về trinh tiết, họ có quyền giữ hay không giữ trước hôn nhân nếu như họ có những lý do chính đáng cho hành động của mình. Thứ hai, quan hệ trước hôn nhân không phải là vấn đề lớn với tôi, nó càng không phải là tội lỗi; những cô gái quan hệ trước hôn nhân không phải là tội đồ. Vì sao?

Mọi người thường liên hệ trinh tiết với phẩm giá và lòng tự trọng, nếu một cô gái không còn giữ được trinh tiết thì xem như lòng tự trọng cũng mất. Suy luận này không hợp lý. Trinh tiết, nếu theo góc độ mà các anh hay bàn đến là màng trinh, là thứ hữu hình trong khi lòng tự trọng là thứ vô hình, xem ra hai điều này không liên hệ với nhau. Và cho dù có, mất lòng tự trọng trước thì có khả năng cao khiến người đó quan hệ bừa bãi mà mất trinh tiết (từ suy nghĩ dẫn đến hành động); nhưng điều ngược lại, vì một người mất trinh tiết mà suy ra họ mất lòng tự trọng thì không hợp lý chút nào (dù có khả năng đó). Hơn nữa, nếu một cô gái quyết định quan hệ mà không suy nghĩ, điều này không liên quan đến lòng tự trọng mà do thiếu suy nghĩ; mặt khác, nếu cô gái ấy đã suy nghĩ trong một thời gian dài trước khi quan hệ thì việc này là lựa chọn của cô ấy. Tóm lại, hoàn toàn không có mối quan hệ chắc chắn nào giữa trinh tiết và phẩm giá (và cũng chưa nghiên cứu nào chứng minh có mối quan hệ này)

Trinh tiết là một giá trị của người con gái, nhưng chỉ là một trong rất nhiều giá trị khác và càng không phải là thứ quan trọng nhất. Trong một chương trình talk show trên TV có một anh chàng bảo rằng anh rất quan trọng chuyện trinh tiết, rằng anh và bạn gái chỉ mới nắm tay và hôn nhau, rằng một người con gái thì nhất thiết phải giữ cho được trinh tiết thì mới giữ được giá trị truyền thống. Một bạn nữ trong talk show, dù khẳng định mình không phải kiểu người phóng khoáng, đã vặt lại anh rằng anh nghĩ thế nào nếu bạn gái anh không còn trinh trắng. Anh bảo nếu anh biết trước khi cưới thì anh chắc chắn không chọn người ấy làm bạn gái, nếu anh biết sau khi cưới thì chắc có lẽ đến một ngày nào đó sẽ kết thúc mối quan hệ hôn nhân.

Nếu tôi là bạn gái anh thì chắc tôi sẽ buồn lắm, vì anh chỉ yêu trinh tiết của tôi thôi chứ có yêu tôi đâu. Vậy nếu tôi không còn trinh thì không thể yêu, không thể chăm sóc, không thể là một người bạn gái tốt được sao? Một người bạn kể với tôi rằng, có một anh kia sắp lấy vợ, trước ngày cưới có một anh khác chạy lại bảo với anh này rằng: “Vợ sắp cưới của anh từng ngủ với người khác rồi đấy.” Anh này bình thản trả lời: “Chuyện đó không quan trọng vì giờ đây cô ấy yêu tôi, và sau này khi cưới nhau thì tôi chỉ quan tâm cho tương lai phía trước của hai người.” Sẽ có người nghĩ anh này khờ. Tôi thấy anh chính chắn và biết suy nghĩ, không tự dằn vặt bản thân và người mình yêu bằng quá khứ và những điều không quan trọng.

Tôi quan niệm có sự khác biệt giữa “making love” (làm tình) và “having sex” (quan hệ tình dục) dù cho bản chất chỉ là cùng một hành động. “Having sex” thiên về thỏa mãn nhu cầu cơ thể còn “making love” thiên về cảm xúc. Có những người phải có cảm xúc với nhau thì họ mới có thể quan hệ, còn có những người họ quan hệ vì cần giải phóng nhu cầu cơ thể. Nếu người ta liên hệ việc một cô gái quan hệ với một người chỉ để thỏa mãn nhu cầu cơ thể, đương nhiên, họ sẽ đánh giá thấp cô gái ấy. Tôi đồng ý với suy nghĩ này. Vì nếu không kiềm chế được bản thân với người này thì đương nhiên sẽ khó kiềm chế với người khác. Ở trong một mối quan hệ với cô gái như thế thì thật khó mà yên tâm. Nhưng nếu cô gái ấy chỉ làm chuyện ấy với người mình yêu và ý thức được việc mình làm thì hoàn toàn không có gì sai.

Còn một cái đuôi liên quan đến chuyện này đó là tình dục. Ở Việt Nam, tình dục được liệt vào thứ “cấm kỵ”. Tôi nghĩ có hai tuýp người, một là càng tránh xa điều cấm kỵ càng tốt, hai là càng cấm kỵ càng cảm thấy muốn khám phá, một cách bí mật. Cho dù ở tuýp người nào bạn cũng không tiếp cận vấn đề một cách công khai vì sợ bị người khác dị nghị, vì đã bảo là điều cấm kỵ thì quan tâm làm gì, tránh càng xa càng tốt. Điều này khiến các bạn trẻ lẽ ra ở cái tuổi phải biết tình dục là gì và làm cách nào để an toàn thì lại hoàn toàn mù tịt. Tình dục là một nhu cầu của cơ thể, cần phải được học tập và tìm hiểu đầy đủ cũng như học sinh học về cơ thể người để biết rõ hoạt động của từng bộ phận. Ở Phương Tây thì không nói gì nhưng bạn tôi ở Nepal kể rằng anh đã được dạy về tình dục an toàn từ khi học lớp 7!

Hai kết luận cuối cùng của tôi là:

  1. Suy nghĩ kĩ trước khi bạn quyết định quan hệ với ai đó và chịu trách nhiệm cho hành động của mình (đừng mong chờ đối phương phải chịu trách nhiệm,vì chính bạn đồng ý mà!)
  2. “Trái tim” lúc nào cũng quan trọng hơn “trái cấm”. Một cô gái mất “trái cấm” rồi thì vẫn còn “trái tim”, mất “trái tim” thì mới là vấn đề lớn. “Trái cấm” thì chỉ ăn một lần nhưng “trái tim” thì dùng cả đời.

 

Tâm Lê 

Khi tôi còn nhỏ

“Khi tôi còn nhỏ, tôi hay bỏ tay mình vào áo và nói với người khác tôi bị cụt tay rồi. Tôi bấm nút thoát ra mỗi khi tôi sắp thua trong trò chơi điện tử. Tôi ngủ với tất cả những con thú nhồi bông để không con nào thấy buồn. Tôi có cây viết bi 6 màu và đã cố bấm một lúc cho ra 6 ngòi. Tôi đổ nước ngọt vào mấy cái chum và giả như đang uống rượu. Tôi núp sau cánh cửa để hù người ta, nhưng đôi khi bỏ đi vì thấy lâu quá không ai tới hay vì bị mắc tiểu. Tôi giả bộ đã ngủ rồi để bố bế tôi lên giường. Tôi nghĩ rằng mặt trăng đi theo xe mình. Tôi nhìn hai giọt nước mưa nhỏ trên cửa sổ mà nghĩ rằng nó đang đua nhau. Tôi ăn trái cây lỡ nuốt phải hột và sợ chết khiếp tưởng nó sẽ mọc lên trong bụng tôi. Bạn có nhớ những ngày còn bé chúng ta mong được lớn lên cho thật nhanh không? Không biết chúng ta đã nghĩ gì nữa? Bây giờ bạn còn nghĩ vậy không?”

— The Blue Lagoon (Nguyễn Hoàng Huy dịch)

Milton Friedman – Tự do và quốc gia

Trong đoạn được trích dẫn nhiều trong bài diễn văn nhậm chức, Tổng thống Kennedy nói, “Hãy đừng hỏi quốc gia có thể làm gì cho ta-hãy hỏi ta có thể làm gì cho quốc gia.” Cả hai vế của câu tuyên bố này đều không diễn tả mối quan hệ giữa công dân và chính quyền mà xứng đáng với những lý tưởng của người tự do trong xã hội tự do. “Quốc gia có thể làm gì cho ta” có tính gia trưởng ấy ám chỉ chính quyền là cha, công dân là con, một quan điểm không hợp với niềm tin của người tự do về trách nhiệm của chính mình đối với số phận của chính mình. “Ta có thể làm gì cho quốc gia” có tính lệ thuộc ấy ám chỉ chính quyền là chủ hay thần thánh, công dân là đầy tớ hay tín đồ nhiệt tâm.

Đối với người tự do, quốc gia là tập hợp những cá nhân tạo thành quốc gia ấy, không phải cái gì đấy bao trùm lên họ hay cao hơn họ. Người tự do tự hào về di sản chung và trung thành với những truyền thống chung. Nhưng người tự do xem chính quyền là phương tiện, công cụ, không phải người ban ân huệ và quà tặng, cũng không phải người chủ hay thần thánh để tôn thờ và phục vụ mù quáng. Người tự do không thừa nhận mục tiêu quốc gia nào ngoại trừ mục tiêu ấy là sự đồng ý chung về những mục tiêu mà các công dân phục vụ riêng. Người tự do không thừa nhận mục đích quốc gia nào ngoại trừ mục đích ấy là sự đồng ý chung về những mục đích mà các công dân mưu cầu riêng.

Người tự do sẽ không hỏi quốc gia có thể làm gì cho mình và cũng sẽ không hỏi mình có thể làm gì cho quốc gia. Đúng ra người tự do sẽ hỏi “Tôi và đồng bào tôi có thể làm gì qua chính quyền” để giúp chúng tôi làm tròn trách nhiệm cá nhân của chúng tôi, để đạt được những thành tựu và mục đích riêng của chúng tôi, và quan trọng nhất, để bảo vệ tự do của chúng tôi? Và người tự do sẽ hỏi kèm câu hỏi này với câu hỏi khác: Làm thế nào chúng tôi có thể ngăn cản chính quyền do chúng tôi tạo ra trở thành một ác quỷ mà sẽ hủy diệt chính tự do mà chúng tôi lập ra chính quyền để bảo vệ ?

Tự do là một loại cây hiếm và mỏng manh. Trí tuệ chúng ta mách với chúng ta, và lịch sử xác nhận, rằng mối đe dọa rất lớn đối với tự do là sự tập trung quyền lực. Chính quyền cần thiết để gìn giữ tự do của chúng ta, chính quyền là công cụ qua đó chúng ta có thể thực thi tự do của chúng ta; tuy nhiên khi quyền lực tập trung vào những nhà chính trị, quyền lực ấy cũng là mối đe dọa đối với tự do. Cho dù những người nắm quyền lực này ban đầu có thiện ý và cho dù họ không bị quyền lực họ thực thi làm cho họ thối nát, quyền lực ấy nhất định sẽ hấp dẫn họ và khiến họ trở thành những người khác hẳn.

Sự gìn giữ tự do là lý do bảo vệ nhằm hạn chế và phi tập trung quyền lực của chính quyền. Nhưng cũng có lý do hữu ích. Những tiến bộ lớn lao của nền văn minh, dù trong kiến trúc hay hội họa, trong khoa học hay văn chương, trong công nghiệp hay nông nghiệp, đều chưa bao giờ xuất phát từ chính quyền được quy về trung ương. Columbus đã không bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường mới đến Trung Quốc theo chỉ thị đa số của nghị viện, tuy ông được chính thể quân chủ chuyên chế tài trợ một phần. Newton và Leibnitz; Einstein và Bohr; Shakespeare, Milton và Pasternak; Whitney, McCormick, Edison và Ford; Jane Addams, Florence Nightingale, và Albert Schweitzer; không có ai trong những người này đã mở ra những chân trời mới trong kiến thức và hiểu biết của con người, trong văn chương, trong những tiềm năng kỹ thuật, hay trong nỗ lực làm giảm đi sự khổ đau của con người theo những chỉ thị của chính quyền. Thành tựu của họ là sản phẩm của thiên tài cá nhân, của quan điểm thiểu số kiên định, của bầu không khí xã hội cho phép sự muôn màu muôn vẻ.

*************

Milton Friedman là nhà kinh tế học người Mỹ nổi tiếng thế giới. Ông được trao tặng giải Nobel kinh tế năm 1976.

Nguồn: Trích từ lời tựa của tác phẩm “Chủ nghĩa tư bản và Tự do” (1962) của Milton Friedman

Dịch: Trần Quốc Việt

*************

https://www.youtube.com/watch?v=HZtQ9SxaLp4

https://www.youtube.com/watch?v=cSUBMgzy8WY

https://www.youtube.com/watch?v=6uX9Vg5KH6I

https://www.youtube.com/watch?v=YSX7lvFCNtM

https://www.youtube.com/watch?v=vR6m230Z2yI