16.3 C
Da Lat
Thứ Hai, 18 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 151

Em đừng nói nữa em

Featured Image: Khomenko

 

Em đừng nói nữa em
Vì xung quanh em mọi người đều đang nói
Ai cũng muốn có người lắng nghe mình sau một ngày mệt mỏi
Vậy nếu có thể, em hãy là người lắng nghe…

Em hãy nghe những tâm sự của một người con sống xa quê
Rồi hãy nghe chuyện của một người đang muốn đi đến một nơi xa lắm
Nếu có người muốn kể với em về những gì họ cố gắng
Nếu có thể, xin em hãy là người lắng nghe…

Em hãy nghe một người kể về những đam mê
Về những khó khăn mà họ đang gặp phải
Có thể em chẳng giúp được gì cho họ cả
Nhưng em đã giúp họ một điều rất lớn, đó là em đã lắng nghe…

Em có biết câu chuyện của chú mèo Kitty?
Đó là chú mèo được tạo ra để lắng nghe em ạ
Nếu có thể, em hãy là một chú mèo như vậy
Nhưng em đừng lạ lẫm với giọng nói của chính mình…

 

Một Đời Quét Rác

Tại sao Dân Trí người Việt bị coi là thấp?

Featured Image: Khoi Tran

 

Có nhiều người mượn câu ngạn ngữ Tây phương để nói về tình hình Dân Trí nước Việt Nam rằng: “Dân nào, chính phủ đó.” Để giải thích tình trạng băng hoại về đạo đức, ý thức con người Việt Nam hiện nay.

Tôi cho rằng gán ghép đó không chỉ là sai lầm, mà cần nên đặt vấn đề ngược lại, đặt biệt là ở Việt Nam, là: “Chính phủ nào, dân đó.”

Bởi lẽ, trong một đất nước dân chủ, nếu một giống dân vì hạn chế nào đó thuộc di truyền mà không thể ngóc đầu so vai với những giống dân đầy kiêu hãnh với lịch sử khá hào hùng lấy ví dụ như dân Đức, dân Pháp…, thì điều đó có thể đúng.

Nhưng. Với một chữ NHƯNG rất lớn khi đề cập câu “Dân nào, chính phủ đó” với Việt Nam. Vì những lý do rất đơn giản như sau:

Trong khi Việt Nam vẫn còn chế độ độc tài độc đảng, theo một chủ nghĩa Cộng Sản đã lạc hậu và bị thế giới chối bỏ từ lâu. Cả nước Cuba Cộng Sản anh em “còn lại trong bốn năm nước “thức ngủ” để canh chừng cho Chủ Nghĩa Cộng Sản (CNCS), cũng đã có những động thái nói lời từ biệt“ với CNCS, thì lập luận “Dân nào, chính phủ đó” chỉ là một biện hộ cho chính sách ngu dân từ mấy thập kỷ qua của nhà cầm quyền CSVN.

Chính bởi chính sách “ngu để trị” của chế độ CSVN mà dân Việt Nam mới ra nông nổi như ngày hôm nay.

Nếu cần, quý vị có thể so sánh chế độ Cộng Sản miền Bắc với miền Nam Dân Chủ VNCH trước 1975, khi cả hai phe Cộng Sản – Tư Bản lấy Việt Nam làm tiền đồn chính trị…, thì sau Hiệp định Genève, nền Kinh tế Giáo dục của hai miền khác xa một trời một vực như thế nào.

Còn rất nhiều những nhân chứng vẫn sống sờ sờ của cả hai miền để quý vị có thể hỏi han tìm hiểu sự thật trước khi họ trở thành người thiên cổ.

Trong khi ở miền Nam thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa – cũng lấy đà từ thời Pháp thuộc, những viện trợ của Mỹ và phe Tư Bản đồng minh đã không biến thành vũ khí sát thương, mà số lớn viện trợ được đầu tư cho nền Giáo dục VNCH với tiêu chí “Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng”, khiến cả những người Cộng Sản còn có lương tâm sau 40 năm bình tâm nhìn lại cũng phải trầm trồ. Chính nền Giáo dục VNCH, hay dư âm của nền Giáo dục này đã sản sinh những Con Người – mà chế độ tạm gọi là Cộng Sản hiện thời với hạn chế về kiến thức, dù với hằng vạn Tiến Sĩ Giấy XHCN…, vẫn phải nhờ vả vào trí thức của họ.

Chính nhờ nền Giáo Dục khai phóng con người này của nền Dân Chủ VNCH dù chết yểu sau 20 năm, nhưng khi vì lý do chính trị, khi mất trắng của cải, lưu lạc ở những nước dân chủ Âu Mỹ, người Việt tỵ nạn từng trải qua hay kế thừa nền Dân chủ, Giáo dục ấy đã góp phần không nhỏ cho đất nước cưu mang họ, cũng như đã vì tình người mà gián tiếp nuôi sống cho nền Kinh tế Thị trường định hướng XHCN Việt Nam sống ngoắc ngoải đến ngày hôm nay.

Những người Việt sống lưu vong xứ người sau 40 năm cuộc chiến 1975 là một ví dụ hùng hồn cho khả năng thích nghi – sinh tồn – phát triển của người Việt Nam nếu được sống dưới nền Dân Chủ.

Còn ở miền Bắc, sau dằn mặt “giai cấp “địa chủ” trí thức qua Cải Cách Ruộng Đất mà đồng chí lớn“ Trung Cộng truyền xuống nhằm phá nát những truyền thống đạo đức “tàn dư của thời phong kiến”…, người dân miền Bắc vốn đã sống trong đói khổ sau cuộc chiến chống Pháp, hơn một lần nữa buột chịu đói để dành “nắm gạo cho đồng bào miền Nam”. Biết bao thanh niên thiếu nữ tuổi trẻ ưu tú bị bắt buộc, bị tuyên truyền sứ mệnh giải phóng miền Nam “trước gông cùm của đế quốc Mỹ“ , để  sinh Bắc tử Nam … là “vinh dự” mà họ không được quyền lựa chọn. Chỉ có đi mà không có đường về (Mời xem: “Đường đi không đến“ (*)). Đến cả những thành phần trí thức phục vụ cho đảng Cộng Sản (ĐCS) cũng không có quyền sáng tác tự do, nói lên chính kiến của mình, mà tất cả phải theo đường lối chỉ đạo của ĐCS.

Có lẽ đã không cần dài dòng về những chi tiết bên lề mà đa phần quý vị trong thời đại bùng nổ thông tin Internet hiện nay chắc đã biết rõ, nhưng người viết cần nói sơ lược để những thanh niên trẻ tuổi sinh sau cuộc chiến 1975 có thể tìm hiểu thêm sự thật.

Trở lại chủ đề, thì mệnh đề câu “Dân nào, chính phủ đó” ít nhất là một hiểu lầm tai hại cho người Việt (bao gồm cả 54 Dân tộc anh em); hoặc đó là chủ ý của ĐCS Việt Nam, nhằm đem sự tụt dốc của cả nước Việt Nam về Kinh tế, băng hoại về Đạo đức con người mà đổ lỗi cho người dân Việt.

Người có lòng với vận mệnh đất nước không thể đồng tình với gán ghép như vậy. Vì suy nghĩ đó có thể vô tình làm ô nhục cho cả một Dân Tộc dù trải bao thăng trầm, nhưng hào hùng với hơn bốn nghìn năm văn hiến.

Bởi do đâu?

Vì thật ra, người dân Việt không có thực quyền, không có quyền quyết định số phận của mình – như chế độ CS rêu rao Dân làm chủ, Cán bộ là đầy tớ Nhân dân… Tất cả đều được một Nhóm người lấy danh nghĩa “Đảng Cộng Sản do Dân và vì Dân“ quyết định, chưa tính đến yếu tố Trung Cộng. Mà trong Nhóm đó – chính những người nắm quyền nước CSVN thú nhận – là toàn những con sâu con chuột.

Việt Nam là một nước lớn. Đứng hàng thứ 14 trên thế giới nếu tính về dân số. Còn diện tích quốc gia ngang bằng nước Đức. Con người Việt Nam thông minh cần cù chịu khó. Vậy thì cớ lẽ gì người dân Việt với hơn bốn nghìn năm hào hùng lịch sử, trải bao khổ đau tranh chiến lại vẫn phải chịu nghèo, chịu nhục với bạn bè năm châu thế giới ?

Câu trả lời dành cho Quý vị nào còn thao thức về vận mệnh Dân tộc Việt Nam ta!

(*): Đường Đi Không Đến – Xuân Vũ

 

Huỳnh Minh Tú

Mô hình Lewis giải thích các nền văn hóa trên thế giới

 

 

Giới thiệu: bài viết này nhằm giải thích vì sao người Việt Nam chúng ta thường có những bất đồng văn hóa trong môi trường làm việc với các đồng nghiệp nước bạn. Theo Lewis, có 3 loại văn hóa: 1) Chủ động đơn phương 2) Chủ động đa phương 3) Phản ứng/thụ động. Người Việt Nam chúng ta là ví đụ diển hình của nền văn hóa thụ động.


 

Là một người có thể nói được 10 ngôn ngữ và đã đi nhiều nơi trên thế giới, nhà ngôn ngữ học Anh Quốc Richard Lewis cho rằng ông ta có đủ tư cách để lập biểu đồ để giải các nền văn hóa trên thế giới.

Rất nhiều người đã cho rằng ông ta phân tích rất chính xác, khi cuốn cách của ông ta “When Cultures Collide” với bản in lần thứ 3 đã bán hơn 1 triệu cuốn từ năm 1996 và đã được gọi là “một lộ trình đáng tin cậy để điều hướng nền kinh tế thế giới” bởi tờ báo Wall Street Journal.

Lewis chia các quốc gia ra 3 nhóm:

  1. Chủ động đơn phương (Linear-actives) – những dân tộc (văn hóa) nào lập kế hoạch, lịch trình, tổ chức, làm việc dựa theo chuỗi hành động, làm từng việc một. Người Đức và Thụy Sĩ nằm trong nhóm này,
  2. Chủ động đa phương (Multi-actives) – những dân tộc (văn hóa) linh động, nói nhiều, làm nhiều thứ cùng một lúc, lập kế hoạch không theo giờ giấc mà theo cảm tính và độ quan trọng của từng việc. Người Ý, Mỹ Latin và Ả Rập thuộc nhóm này.
  3. Phản ứng/thụ động (Reactives) – những dân tộc (văn hóa) coi trọng lễ nghĩa và phép lịch sự, lắng nghe trong yên lặng và bình tĩnh trong cuộc nói chuyện và phản ứng cẩn thận với các đề nghị của đối phương. Người Tàu, Việt, Nhật và Phần Lan nằm trong nhóm này.

Ông ta cho rằng sự phân chia các nền văn hóa theo 3 nhóm trên đã không thay đổi mấy trong nhiều năm qua.

Cách cư xử của các dân tộc của các nền văn hóa khác nhau không phải là ngẫu nhiên, mà có một xư hướng, trình tự và truyền thống. Phản ứng của người Mỹ, người Châu Âu và Châu Á đều có thể được đoán trước, lý luận và quản lý. Mặc dù trong những nước có sự thay đổi nhanh chóng về chính trị và kinh tế (như Nga, Trung Quốc, Hungary, Ba Lan, Hàn Quốc, Mã Lai, vân vân) những tín ngưỡng và thái độ lâu năm sẽ chống cự lại sự thay đổi nhanh chóng trước áp lực của các nhà cải tổ, cơ quan chính phủ hoặc các công ty đa quốc gia.

Mục đích của sự phân tích này là để hòa đồng với mọi người từ các nền văn hóa khác nhau.

“Bằng cách tập trung vào nguồn gốc của văn hóa và cách cư xử, trong xã hội và thương mại, chúng ta có thể thấy trước và tính trước với độ chính xác rất ngạc nhiên về việc người khác sẽ phản ứng ra sao trước kế hoạch của chúng ta trình bày, và chúng ta có thể đoán trước được họ sẽ tiếp cận chúng ta như thế nào.” Lewis viết.

Theo Richard Lewis, con người hoặc các dân tộc có thể chia thành 3 nhóm.

Chủ động đơn phương (Linear-active):

• Ngăn nắp, biết sắp xếp.
• Hành động theo quá trình.
• Tập trung làm một việc cho xong và tới cùng.
• Nói chuyện phân nửa trong giờ làm việc.
• Suy nghĩ và sắp xếp trước, từng bước một.
• Lễ phép nhưng đi thẳng vấn đề.
• Đối mặt với vấn đề một cách logic.
• Tập trung cho công việc.
• Coi trọng chứng cứ khoa học.
• Hành động thiên về kết quả.
• Luôn luôn làm với mục đích.
• Coi trọng văn bản (giấy tờ thủ tục hành chính)
• Ít dùng ngôn ngữ cơ thể.
• Đức, Thụy Sĩ là ví dụ điển hình.

Chủ động đa phương (Multi-active):

• Làm nhiều việc cùng một lúc.
• Sắp xếp công việc không theo thời khóa biểu mà theo cảm tính và tầm quan trọng của từng việc.
• Nói chuyện nhiều.
• Lên kế hoạch cụ thể, không từng bước một và chính xác.
• Hay dùng cảm xúc.
• Đối mặt với vấn đề bằng cảm xúc.
• Hành động thiên về hòa đồng với mọi người.
• Đặt tình cảm và cảm tính trước chứng cứ khoa học.
• Coi trọng mối quan hệ.
• Hay vòng vo.
• Coi trọng lời nói hơn chữ.
• Dùng nhiều ngôn ngữ cơ thể
• Ý, Nam Mỹ và Trung Đông là ví dụ điển hình.

Phản ứng/thụ động (Reactive):

• Văn hóa coi trọng nghi lễ.
• Lắng nghe người khác một cách trầm lặng và phản ứng tương tự.
• Lắng nghe nhiều hơn nói.
• Phản ứng khi người khác hành động, chứ không chủ động lên tiếng.
• Coi trọng nguyên tắc xã hội.
• Lễ phép và hiếm khi nào đi thẳng vấn đề.
• Không bao giờ đối mặt với vấn đề.
• Rất coi trọng người khác.
• Câu nói cũng là lời nói.
• Tôn vinh sự hòa đồng.
• Hay thường kêu người khác lặp lại, hay nói qua nói lại về một vấn đề.
• Coi trọng cuộc gặp gỡ đối mặt.
• Dùng ngôn ngữ cơ thể nhẹ nhàng
• Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam là ví dụ điển hình.

Mời các bạn nhìn 2 tấm hình đi kèm để thấy Mô Hình Văn Hóa của Lewis.

 

Tác giả: Gus Lubin
Người dịch: Ku Búa

Nguồn: The Lewis Model Explains Every Culture In The World, Business Insider, http://www.businessinsider.com.au/the-lewis-model-2013-9

Chân lý lướt qua

Featured Image: Silvia Duran

 

Đã bao giờ bạn từng đọc một cuốn sách và có nhiều chi tiết bạn không thể hiểu được, rồi một thời gian sau đó đọc lại, bạn bỗng dưng gật gù vì chúng.

Hay bạn đã bao giờ tự mình phát hiện ra những ý tưởng độc đáo, rồi bỗng thấy nó xuất hiện ở một trang web, một bức ảnh, hay một cuốn sách.

Trong giây phút đó bạn tưởng rằng mình là người đầu tiên phát hiện ra nó, và sự gặp gỡ chính ý tưởng của bạn ở một người khác đã phá tan ảo tưởng về tính độc nhất của mình.

Chân lý ở khắp mọi nơi. Nó đã lướt qua bạn và luôn ở cùng bạn.

Như Krishnamurti đã từng nói: “Chân lý là mảnh đất không có lối vào.

Chúng ta càng tiến hóa lên cao ta càng thấu hiểu được nhiều điều. Nhưng điều này nghe giống một hệ thống cấp bậc xét trên quan điểm thời gian tuyến tính. Và chân lý giống như một bộ giáo trình 12 năm học của chúng ta.

Vị thầy tâm linh Teal Swan đã từng nói: “Có người cho rằng chúng tôi – những người thầy đến từ một hệ thống cấp bậc về tâm linh. Nhưng không phải vậy, chúng tôi không cao hơn hay thấp hơn, chúng ta bình đẳng.

Và điều này quả thực thách thức tâm trí giới hạn của chúng ta. Họ đã tiến xa hơn chúng ta trên thang tiến hóa nhưng hoàn toàn bình đẳng với chúng ta. Có lẽ họ xét trên một nguồn gốc chung và một mục đích chung là quay trở về nguồn.

Quay trở lại bộ giáo trình chân lý, vậy nếu nó đã tồn tại khắp vũ trụ thì dường như vũ trụ là một nơi đông cứng và không phát triển, không có gì mới mẻ. Có vẻ nó giống như một sự sản xuất hàng loạt và rập khuôn, y như cách thức chúng ta học tập ở trường học.

Điều này mang chúng ta tới một chân trời mới, đó là sự Sáng Tạo trong khắp vũ trụ.

Có thể bạn đã nghe các bản nhạc, đã xem các bộ phim, đã đọc các cuốn sách, đã xem các bức tranh. Và không cái nào trong số chúng lẫn với nhau.

Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng mỗi tinh thể nước mang một hình dạng khác nhau.

Bảy tỷ người trên thế giới là bảy tỷ cá thể độc đáo về hình dáng và tính cách.

Nhưng ta không thể phủ nhận có một cấu trúc chung hay một khung sườn chung. Và tôi ngay lập tức liên hệ đến chân lý. Tôi nghĩ rằng chân lý giống như một nền tảng vì các vị thầy thường nói rằng nó bất biến trường tồn. Mặc dù tôi biết đây cũng là một suy đoán hạn hẹp của đầu óc trí thức.

Giống như bảy nốt nhạc mà sáng tạo vô bờ bến các nhạc phẩm.

Giống như bảng chữ cái mà cho ra đời biết bao tác phẩm văn chương.

Giống bảy màu sắc cơ bản pha trộn vẽ nên những bức họa.

Cũng có thể một người nào đó đã gửi gắm những suy nghĩ và ý tưởng này vào tư tưởng của tôi. Tôi đã nhận nó từ tiềm thức tập thể.

Chân lý dường như đã lướt qua tôi.

 

Linh Nguyễn

Mất lòng dân – Căn bản của sự phản đối Đảng Cộng Sản

Featured image:  Onasill

 

Trong những cuộc tranh luận về vấn đề đa đảng, độc đảng hiện nay trên các diễn đàn mạng, những người ủng hộ Đảng thường biện luận cho sự tồn tại của những người phản đối chế độ bằng nhiều lý do, như là không có lòng yêu nước, nhận tiền của nước ngoài, bị tha hóa, vân vân và vân vân. Nhưng có một sự thật mà thường những người ủng hộ Đảng không nhìn thấy (hoặc cố tình phớt lờ đi) là hiện nay Đảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang tồn tại nhiều vấn đề khiến rất nhiều người dân nước Việt Nam mất niềm tin vào bộ máy lãnh đạo đất nước. Mình chỉ xin nêu về 3 lĩnh vực: chính trị, kinh tế và giáo dục

Về chính trị

Trong vấn đề đối ngoại thì đó là thái độ nhu nhược của Hà Nội trước những hành động khiêu khích của Bắc Kinh. Không kể những vụ việc nhỏ, lặt vặt xảy ra liên tục như ngư thuyền Trung Quốc đánh bắt trong hải vận Việt Nam, khi những sự việc như vụ việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, dàn khoan HD-981, những vụ việc mang tính đe dọa chủ quyền đất nước xảy ra thì thái độ của chính phủ, nhà nước chỉ đơn giản là “kêu gọi nhân dân bình tĩnh” và “chờ đợi sự lên án của cộng đồng quốc tế” chứ không có bất kì hành động nào trực tiếp lên án hay tỏ vẻ phản đối với hành động của Trung Quốc. Thái độ ấy quá nhu nhược nếu so sánh thái độ, hành động của nhà nước, chính phủ của các quốc gia cũng có tranh chấp về ranh giới biển với Trung Quốc như Nhật Bản, Philipines. Còn trong nước, vẫn luôn là những vấn đề về tính liêm chính. Quan liêu, tham nhũng khi bị phát giác thì mới biết là tồn tại gần chục năm.​

Về kinh tế

Điều mà khiến người dân buồn bực nhất là việc vật giá leo thang đặc biệt là giá điện và giá xăng dầu.Giá xăng dầu, giá điện tại sao tăng liên tục trong khi xăng dầu, điện, nước là những ngành mà xí nghiệp nhà nước nắm độc quyền, vậy thì lý do gì mà họ lỗ? Trong nền kinh tế, khi bản thân nắm giữ độc quyền, nghĩa là họ nắm quyền chủ động khi kinh doanh và không chịu bất kỳ sự cạnh tranh nào. Nếu trong điều kiện đó còn thua lỗ thì khả năng điều hành, quản lý của bộ máy lãnh đạo sẽ bị đặt dấu chấm hỏi. Chưa kể đến việc khi doanh nghiệp xăng dầu, EVN thua lỗ thì cái phần lỗ ấy lại đặt lên đầu nhân dân thông qua phương thức là tăng giá. Xăng tăng điện tăng thì mọi mặt hàng trong nên kinh tế sẽ tăng theo (vì xăng dầu và điện là 2 nguyên liệu cơ bản trong sản xuất hiện đại), và cứ thế dẫn đến một hệ quả mà mọi nền kinh tế đều sợ hãi – lạm phát.Và ai là người gánh hậu quả lớn nhất của lạm phát, có lẽ câu này không cần trả lời

Về giáo dục, nền giáo dục nước ta đã quá lạc hậu

Những bộ sách giáo khoa cấp 1 cấp 2 cấp 3 được làm theo khuôn mẫu từ hơn 20 năm trước, giáo trình đại học thì tất cả các trường đều sử dụng 1 giáo án tồn tại hơn chục năm. Trong khi thế giới luôn đổi mới, dẫn tới xuất hiện tình trạng sinh viên ra trường không áp dụng được bất kỳ thứ gì được dạy. Từ vấn đề này dẫn tới hậu quả là tình trạng tiến sĩ giấy và chảy máu chất xám. Tình trạng này tệ hại tới mức mà hiện nay nhiều trường phải xin “Tự chủ tài chính” để được đổi chương trình giảng dạy.​

Những vấn đề trên chỉ là những vấn đề tiêu biểu và được nhận thấy rõ nhất trong xã hội tại thời điểm bây giờ. Một đất nước mà chính phủ để tồn tại những vấn đề như thế thì không thể nào được lòng dân được Đừng biện luận rằng mọi nhà nước đều có lỗi lầm và vấn đề, không thể tự thôi miên bản thân rằng lỗi lầm là chấp nhận được rồi thờ ơ không giải quyết. Và mình xin xài từ “đắng lòng” rằng chính phủ, nhà nước ta chưa có bất kỳ thái độ nào tỏ ra quyết tâm giải quyết những vấn đề trên (không tính nhưng câu khẩu hiệu suông). Do vậy nên mới sản sinh ra những thành phần bất bình và mất niềm tin vào chính phủ, nhà nước cũng như ĐCS.

Điều mình muốn nói qua bài viết này là nếu nhà nước thật sự làm tốt việc của mình thì không có ai phản đối chính quyền làm gì cả. Đồng thời mình cũng mong các bạn đừng chỉ gắn những mối nguy hiểm, nguy cơ với những thế lực bên ngoài mà còn phải xem xét từ chính nhà nước, chính phủ, Đảng nữa.

Vài suy nghĩ về vụ đánh bạn hội đồng lớp 7 ở Trà Vinh

 

Mấy ngày gần đây chắc ai có đọc báo cũng biết về vụ một em gái lớp 7 ở Trà Vinh bị các bạn trong lớp đánh hội đồng vì không đi mua bánh giùm. Sau khi xem xong clip được tung lên mạng, tôi thật sự rất sốc. Hình ảnh những đứa học sinh lớp 9 côn đồ, nắm tóc, dùng ghế nhựa chào cờ phang tới tấp vào một người bạn yếu đuối cho đến chảy máu. Một đỉnh điểm cho thấy sự xuống cấp của đạo đức học sinh Việt Nam đã quá trầm trọng.

Đó không phải bạo lực học đường mà là tội ác

Phần đầu clip, ba cô bé ăn mặc chỉnh tề, đeo khăn quàng bu lại em P nắm tóc, phang ghế tới tấp. Rồi lại thêm một thằng ranh khốn nạn, xin lỗi phải gọi như thế nhưng đây là đứa tôi ghét nhất trong vụ này, lấy hết sức phang ghế mạnh vào em P đến chảy máu rồi cười, ẻo lả bỏ chạy. Rồi sau đó, cũng thằng này quay lại phang ghế tiếp. Rồi một cô bé, ma nữ thì đúng hơn, leo lên cửa sổ đuổi những học sinh lớp khác bu lại xem rồi ngồi xoạc háng ra nắm tóc bạn theo kiểu đại ca đàn chị. Tôi đã từng bị như vậy nên tôi biết, nhiều đứa nhỏ thích đánh bạn chỉ vì chút chuyện nhỏ nhặt, thích chơi theo phe phái, tỏ ra là dân “anh chị” cho mấy đứa khác sợ – một lối suy nghĩ của những đứa con nít.

Có ai xem phim xã hội đen Hồng Kông không? Cũng đánh nhau, chém lộn, bắn giết búa xua nhưng mà rất đạo nghĩa, đôi khi một đại ca xông pha chém giết để bảo vệ đàn em, bạn bè yếu thế. Còn ở Việt Nam, các “đàn chị lớp 7” ở Trà Vinh thì ngược lại, ăn hiếp và đánh những người hiền lành, yếu hơn mình. Nhục nhã hơn nữa là đánh theo kiểu hội đồng. Những đứa này hình phạt tốt nhất là tạm đình chỉ học, đưa đi trung tâm giáo dục trẻ vị thành niên cho đi lao động chân tay từ 1 tới 6 tháng thử xem về nhà có biết suy nghĩ thương cha mẹ, bạn bè không?

Trường học và phụ huynh phải cùng chịu trách nhiệm

Về phía trường học, cái cần chịu trách nhiệm là vụ việc xảy ra gần hai tháng mới phát hiện. Rồi vụ việc xảy ra cũng chẳng gì ngoài việc bắt những học sinh kia viết kiểm điểm. Những tờ kiểm điểm đó liệu có làm giảm bớt hay xoa dịu những nổi đau về thể xác và tinh thần của em P không chứ? Trường THCS tôi học thưở nhỏ hễ học sinh đánh bạn nhẹ là đình chỉ học 1 tuần, nặng (chảy máu chẳng hạn) là đuổi học thẳng tay miễn năn nỉ. Nhờ vậy, học sinh đứa nào dù đầu gấu nhất cũng không dám hó hé. Nghĩ tới bây giờ, cái gì cũng nhẹ quá nên tụi nhỏ bây giờ đâu có sợ.

Tuy nhiên, cũng đừng đổ hết trách nhiệm cho nhà trường. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” – những người phải chịu trách nhiệm lớn nhất chính là gia đình những học sinh đánh bạn. Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết gia đình những em này toàn là cha mẹ ly thân, ly dị, đi làm ăn xa ở với ông ngoại…

Nghĩ về những phụ huynh hiện nay

Tôi cũng là một người miền Tây, không biết các vùng khác sao chứ tôi thấy bây giờ nhiều gia đình ở miền Tây không giáo dục đạo đức con cái họ mà phó mặc cho nhà trường. Họ luôn quan niệm nhà trường là “cái lò trông trẻ khổng lồ an toàn nhất”. Cái gọi là quan tâm, “lo” cho con cái của họ là cho tiền con mình mua sắm, chưng diện, học thêm cho bằng bạn bè. Không nói đâu xa, chị tôi – vừa cuối năm bị cô giáo con gái mời đến làm việc vì trốn học đi chơi là đầu năm đã rủ tôi chở đến nhà cô giáo “lì xì” 500 nghìn. Những phụ huynh như vậy thử hỏi sao con cái họ không hư hỏng?

Qua vụ việc này, theo ý kiến của cá nhân tôi, địa phương hãy giáo dục luôn cho cả phụ huynh của những học sinh đánh bạn. Họ phải chịu trách nhiệm pháp lý về những gì con cái họ gây nên, không phải cứ xin lỗi đền bù là qua chuyện.

Hãy thay đổi cách giáo dục đạo đức cho học sinh

Từ năm ngoái tới giờ, Bộ giáo dục cứ loay hoay mãi các phương án cải cách thi cử trong khi cái nền tảng đang xuống cấp nghiêm trọng là giáo dục đạo đức cho học sinh lại không quan tâm. Thử hỏi có xuyên suốt môn Đạo Đức & Giáo Dục Công Dân trong 12 năm học là để làm gì. Đứa học sinh nào cũng học thuộc lòng, chép trong SGK ra có điểm khá, giỏi mà xã hội lúc nào cũng có học sinh chửi đánh thầy cô cha mẹ bạn bè, học sinh phạm tội… Cớ sao không tập trung giáo dục nhân cách trước đi đã. Học sinh đứa nào cũng có phẩm chất tốt, năng lực tốt thì có phải tạo ra một xã hội mạnh hay không. Nếu một học sinh biết suy nghĩ về những hành động mình làm thì đâu dẫn đến những vụ việc đau lòng như thế này.

Một thế hệ học sinh nhỏ tuổi mà còn như vậy thử hỏi sau này lớn lên sẽ như thế nào? Câu trả lời mẹ em P không nói chắc ai cũng tự suy diễn ra được.

 

Hồ Nhất Duy

Em có thấy hoa vàng trên cỏ xanh?

Featured Image: meg_nicol

 

Chuyện kể từ Thiên Đường này xin được dàng tặng cho những tình yêu đang bị ngăn cấm, cản trở hay chối bỏ (^_^)


(The tales from Heaven – tale 1)

Từng có một đóa Bồ Công Anh
Dám từ chối tình yêu của Gió
Vì hết trái tim mình Bồ Công Anh đã dành trọn cho Cỏ
Dẫu biết linh hồn mình sẽ bị chối bỏ
Để cho một tình yêu
Được là tình yêu…

Em có thấy hoa vàng trên cỏ xanh ?

Có một lần anh đã kể em nghe
Truyện cổ tích về Bồ Công Anh và Gió
Về tình yêu của những đóa Bồ Công Anh bé nhỏ
Để trái tim mình cho Gió cuốn đi

Anh hỏi em: “Cuộc đời này có còn gì
Đẹp hơn tình yêu của Bồ Công Anh và Gió ?”
Em ngây thơ như đóa bồ công anh bé nhỏ
Làm bộ suy tư, rồi lắc đầu: “Em thua !”

Anh khẽ vuốt tóc em như cơn gió nô đùa
Rồi kể em nghe về một đóa Bồ Công Anh ngày trước
Đã mặc cơn Gió biết bao lần xuôi ngược
Ngỏ lời yêu nhưng chẳng được một lần

Bởi trái tim vẹn nguyên trắng ngần
Bồ Công Anh đã dành hết cho Cỏ
Dẫu thế gian nói Bồ Công Anh là phải thuộc về Gió
Còn tình yêu với Cỏ – chỉ là thứ hoang đường

Bởi từ lâu Bồ Công Anh đã vấn vương
Vì ngọn Cỏ tầm thường nhưng là duy nhất
Thân phận Cỏ mọn hèn nhưng trái tim chân thật
Chịu bao giày xéo tổn thương vẫn xanh đến vô cùng

Cỏ luôn âm thầm dành trái tim thủy chung
Hướng về Bồ Công Anh – một tình yêu khờ dại
Có biết bao tình yêu trong cuộc đời sao lại lựa chọn một-tình-yêu-oan-trái ?
Một tình yêu không được là tình yêu !

Rồi cuộc đời kia đổ hết mọi bão giông chỉ trong một buổi chiều
Gió hờn ghen – thét gào những căm hận
Trút mọi cuồng điên dường như vô tận
Lên thân phận yếu mềm của Cỏ và Bồ Công Anh

Và cuộc đời đã lấy đi phần linh hồn mỏng manh
Của đóa Bồ Công Anh như một sự đánh đổi
Cho một tình yêu được xem là lỗi tội
Một tình yêu không được là tình yêu !

Đau đớn thay những tình yêu dẫu hy sinh rất nhiều
Cũng chẳng thể có được bình yên như mong ước
Cỏ và Bồ Công Anh sẽ chẳng bao giờ hiểu được
Sao-có-những-tình-yêu-không-được-là-tình-yêu ?

Nhưng đóa Bồ Công Anh đã cố gắng rất nhiều
Để giữ trái tim mình không tan theo cơn Gió
Để trái tim tan ra chỉ rơi bên ngọn Cỏ
Từng mảnh bình yên… từng mảnh bình yên…

Bỗng có một phép màu như trong những câu chuyện thần tiên
Nơi những mảnh trái tim bồ công anh rơi xuống
Mọc lên những bông hoa vàng như nụ cười nở muộn
Dành cho một-tình-yêu-được-là-tình-yêu…

Anh nắm tay em đi trong một buổi chiều
Dẫn em đến nơi ngày xưa có Bồ Công Anh và Cỏ
Chỉ cho em những bông hoa vàng bé nhỏ
Trên thảm Cỏ màu xanh
Thấy không em ngọn Cỏ xanh hiền lành
Đang nâng niu trái tim Bồ Công Anh ngày trước
Em mỉm cười – cuối cùng cũng thấy được
Một điều đẹp xinh hơn mọi thứ trên đời
Một tình yêu
Được là tình yêu !!!

********

Dành tặng cho tất cả những tình yêu đang bị ngăn cấm, cản trở hay chối bỏ vì những quan niệm ích kỷ tầm thường của giàu nghèo, tôn giáo, giới tính, sắc tộc,…

Rồi sẽ đến một ngày tất cả chúng ta đều được là tình yêu. Sẽ có một ngày chúng ta được nhìn thấy “Hoa vàng trên cỏ xanh”.

 

–The Kid Falling From Heaven–

Daniel Quinn — Chương trình vs. Tư tưởng

Featured image: Pigeon_face

 

“Điều tôi muốn nói là: Nếu thế giới có thể cứu vãn được, nó sẽ được cứu vãn bởi những người có những tư tưởng thay đổi, những người với một tư tưởng mới. Nó sẽ không được cứu vãn bởi con người với những tư tưởng hủ lậu và những chương trình mới. Nó sẽ không được cứu vãn bởi con người với tư tưởng thủ cựu cùng với một chương trình mới.”

Tôi không thể hiểu tại sao nhưng sự thật không thể nhầm lẫn được là tất cả mọi người trong căn hầm hình như đều nhìn về phía tôi, chờ đợi câu trả lời từ tôi. Tôi nói, “Tôi không chắc rằng tôi biết được sự khác biệt giữa một tư tưởng và một chương trình.”

“Tái chế vật liệu là một chương trình,” B trả lời “Ủng hộ pháp chế bảo vệ môi trường là một chương trình. Anh không cần một tư tưởng mới mẻ nào để bắt tay vào hai chương trình này.”

“Ý của anh nói là những chương trình như thế chỉ làm tổn phí thời gian?”

“Không hoàn toàn như thế, mặc dù chúng có khuynh hướng khiến cho người ta có một cảm giác sai lệch về sự tiến triển và niềm hy vọng. Chương trình thường được khởi động để đối kháng và đánh bại tư tưởng.”

“Hãy nêu lên một thí dụ điển hình về cái mà anh gọi là tư tưởng.”

“Tư tưởng trong xã hội chúng ta ủng hộ sự cách ly. Nó là cột chống của một tổ ấm riêng biệt cho mỗi gia đình. Nó nói rằng những ổ khóa trên các cánh cửa là tất yếu. Nó mời gọi chúng ta hãy ở lại sau những cánh cửa khóa và nhìn ngắm thế giới bằng các phương tiện điện tử. Trong trường hợp này, không ai cần đến một chương trình nào để động viên mọi người ở lại trong nhà và xem truyền hình. Mặt khác, nếu anh muốn mọi người phải tắt máy truyền hình của mình và bước ra khỏi nhà, đó là lúc anh cần đến một chương trình.”

“Tôi nghĩ tôi hiểu rồi.”

“Sự cách ly được hậu thuẩn bởi tư tưởng. cho nên nó được xúc tiến theo tự nhiên, nhưng việc thiết lập cộng đồng thì ngược lại, cho nên nó cần được hậu thuẩn bởi nhiều chương trình. Chương trình luôn luôn được tiến hành đối nghịch với tư tưởng và chúng thường được dúi vào tay người ta – người ta cần phải được thuyết phục hoặc bắt buộc phải thi triển chúng. Thí dụ như, nếu anh muốn mọi người sống đơn giản, hạn chế mức tiêu thụ, tái chế biến vật dụng, và tái sử dụng vật liệu, anh cần phải thảo nhiều chương trình để cổ vũ lối sống đó. Nhưng nếu anh muốn họ tiêu thụ và lãng phí rất nhiều nhiên liệu, anh không cần phải soạn thảo chương trình để động viên vì những hành vi này được hậu thuẩn bởi tư tưởng văn minh xã hội hiện đại của chúng ta.”

“Vâng, tôi hiểu rồi.”

“Tư tưởng là một giòng sông nước chảy. Chương trình là những cọc đóng ở đáy sông dùng để ngăn cản dòng chảy. Điều tôi muốn nói là thế giới sẽ không được cứu vãn bởi con người với những chương trình. Nếu thế giới có thể cứu vãn được, nó sẽ được giải cứu vì những người sống trong đó có một tư tưởng mới.”

“Nói một cách khác, những người có tư tưởng mới sẽ có những chương trình mới.”

“Không, tôi không nói như thế. Tôi lập lại: Tư tưởng không cần đến chương trình. Tư tưởng là một giòng sông nước chảy đều. Cuộc Cách Mạng Công Nghiệp là một giòng sông nước chảy đều. Nó không cần một chương trình nào cả để xúc tiến và tiếp tục tiến triển.

“Nhưng không phải lúc nào nó cũng chảy đều một cách trôi chảy.”

“Đúng vậy. Nó không phài là một giòng sông trôi vào thế kỷ thứ 2, thế kỷ thứ 8, hoặc thế kỷ thứ 13. Không có dấu hiệu nào của giòng sông được tìm thấy trong những thế kỷ đó. Nhưng những đường nước nhỏ cử tiếp nối nhau rỉ ra và bắt đầu chảy cùng một giòng từ thập niên này sang thập niên khác, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác. Vào thế kỷ thứ 15, nó chỉ là một tia nước nhỏ. Vào thế kỷ thứ 16, nó bắt đầu hình thành một con suối. Vào thế kỷ thứ 19, nó trở thành một giòng nước lũ. Vào thế kỷ thứ 20, nó trở thành một trận lũ nuốt chửng cả thế giới. Và từ trước đến nay, không có một chương trình nào được cần đến để thúc đẩy những tiến triển của nó. Nó được xúc tiến, được duy trì, và được phát triển hoàn toàn bởi tư tưởng.”

“Tôi hiểu.”

“Việc ủng hộ cho tư tưởng của chúng ta hiện nay được xem như là một hành động tệ hại; trong khi đó, việc hủy hoại những tư tưởng đó được xem là một hành động cao quý, ưu tú. Đó là dấu hiệu của xã hội văn hóa đang trên đà sụp đổ. Một thí dụ về tư tưởng là: Ở trường lớp, người ta không nên khuyến khích trẻ em tham muốn những phần thưởng vật chất khi học thành đỗ đạt. Sự thành đạt là một điều cần được theo đuổi vì chính lợi ích của nó, nhất định không phải vì những vinh hoa phú quý mà nó đem đến. Các nhà lãnh đạo kinh doanh có thể được nể trọng và được tôn vinh như những thần tượng dựa vào sức ‘sáng tạo của họ’ và những ‘cống hiến của họ đối với xã hội’, nhưng họ không nên được kính nể và được xem như là thần tượng chỉ vì họ có nhà cao cửa rộng, xe ôtô lộng lẫy sang trọng, và có kẻ ăn người ở phục vụ và chăm sóc đến từng miếng ăn, cái mặc của họ. Trong thế giới tương lai được đề cập đến trong sách giáo khoa của con cháu chúng ta, một người đáng kính trọng không bao giờ lảm một chuyện gì chỉ vì tiền.”

“Vâng, tôi cũng cho đó là đúng.”

“Tất cả mọi người sống trong xã hội văn minh của chúng ta đều là những người có thể cắn chặt viên đạn một cách kinh khủng. Đối với những ai chưa quen với câu thành ngữ này, ‘cắn chặt viên đạn’ có tác dụng giúp cho một người lính chịu đựng được cơn đau đang dày vò thân xác. Người lính trước tiên sẽ cố chịu đựng cơn đau, nhưng nếu cơn đau quá sức chịu đựng, người lính đó sẽ ‘cắn chặt viên đạn.’ Đối với những ai đang nghĩ và viết về tương lai của chúng ta, đấy là một kết quả đã định trước rằng tất cả chúng ta cần phải cắn chặt viên đạn hơn bao giờ hết để có thể sống tồn. Những nhà tư tưởng và nhà văn này không bao giờ nghĩ đến khả năng mọi sự sẽ thoải mái đến đâu nếu chúng ta có thể bắt đầu lại từ đầu. Theo nhận thức của họ, nhiệm vụ của chúng ta là phải cắn răng và trung thành bấu vếu vào tư tưởng mà chính nó đang hủy diệt chúng ta. Theo những gì họ nhìn thấy được, vận mệnh xui xẻo của chúng ta là phải tiếp tục dùng một tay đấm vào đầu mình trong lúc sử dụng bản tay kia để bỏ từng viên thuốc aspirin vào miệng để chống lại cơn đau nhức.”

Tôi hỏi lại, “Việc thay đổi một tư tưởng văn hóa khả thi lắm sao?”

“Cách đo lường thích đáng nhất không phải dễ và khó, không phải là sẵn sàng hay chưa có chuẩn bị. Nếu thời thế không thích hợp cho một tư tưởng mới, không có một sức mạnh nào trên trái đất có thể khiến người ta để tâm đến nó. Nhưng nếu thời thế thích hợp, nó sẽ lan rộng khắp thế giới như một trận cháy rừng. Dân chúng thành La mã đã sẵn sàng để lắng nghe những gì Thánh Phao-Lô sẽ nói với họ. Nếu họ không sẵn sàng, ông ta sẽ biến mất không để lại dấu vết gì và chúng ta sẽ không bao giờ biết đến ông ta.”

“Kitô Giáo thật ra không lan tràn như một ngọn lửa rừng.”

“So với mức độ lan truyền thông tin và ý tưởng mới vào thời đó, không kỹ thuật in ấn, không máy phát thanh, không máy truyền hình, nó lan rộng như một ngọn lửa rừng.”

“Vâng, có lẽ vậy.”

“Tôi muốn nhấn mạnh một điều nơi đây là tôi không biết những người với tư tưởng thay đổi sẽ làm gì. Phao-Lô cũng ở trong tình trạng tương tự như thế khi ông ta du hành khắp vương quốc thay đổi tư tưởng của mọi người vào giữa thế kỷ thứ nhất. Ông ta không thể nào có thể hình dung ra chế độ Giáo Hoàng hoặc khuôn mẫu của cộng đồng giáo dân Kitô Giáo dưới chế độ phong kiến ở Âu châu. Trái lại, nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng Jules Verne ngày xưa có thể hình dung và đoán một cách chính xác về những gì sẽ xảy ra trong vòng 100 năm, chỉ vì giữa thời của ông ta và thời của chúng ta, không có gì thay đổi trong tư tưởng của mọi người. Nếu người ta 100 năm sau có được một tư tưởng mới, họ sẽ làm những chuyện mà chúng ta không thể nào đoán ra được. Thật vậy, nếu là ngược lại – nếu chúng ta có thể đoán ra được họ sẽ làm gì – điều này chứng minh rằng họ không có một tư tưởng mới nào, tư tưởng của họ và của chúng ta cơ bản giống như nhau.”

Tôi nói, “Tuy vậy, theo tôi thì anh có một chương trình. Anh có ý muốn thay đổi tư tưởng.”

“Anh có nghĩ rằng Phao-Lô có một chương trình hay không?”

“Không. Tôi nghĩ ông ta chỉ có một mục đích hoặc một mục tiêu.”

“Thì tôi cũng nghĩ vậy thôi. Chương trình không phải là một từ có thể miêu tả những gì tôi đang làm, mặc dù tôi biết đó là từ mà tôi dùng để trả lời câu hỏi của cô gái kia đêm nay.”

“Theo anh nói thì mọi người nên tránh không làm gì cả. Không phải hành động nào rồi cũng sẽ trở thành một chương trình hay sao?”

“Lập luận này bỏ mất đi điểm chính. Không ai ‘cấm cản’ chương trình cả. Điều quan trọng là hiểu rõ sự khác biệt giữa chương trình và tư tưởng. Chương trình là một sự phản ứng có tính chất thừa hưởng. Thế không có nghĩa là chúng ‘không tốt’, nhưng chúng chỉ là một sự phản ứng mà thôi. Có nghĩa là lúc nào chúng cũng theo sau, không bao giờ dẫn đầu (vì chúng chỉ phản ứng đối với việc gì đó). Chương trình tương đương với dụng cụ cứu thương. Thế không có nghĩa là chúng ‘không tốt’, nhưng chúng có tính chất phòng bị và tạm thời mà thôi. Chương trình là một sự phản ứng đối với điều gì đó không tốt lành, có nghĩa là chúng phải chờ cho đến khi điều không tốt xảy ra. (Một lần nữa, đây không có nghĩa là chúng không tốt, chỉ vì chúng mãi mãi chơi trò rượt đuổi phía sau mà thôi). Ngược lại, tư tưởng không chờ đợi điều gì không tốt lành xảy ra. Tư tưởng không chống đối, chúng đề xuất. Chúng không đánh bẹp sự thất bại, chúng mở đường cho sự thành công.

“Trong xã hội hiện đại của chúng ta hiện nay, hướng chảy của giòng sông chĩa thẳng về phía thảm họa, và các chương trình là những cọc đóng giữa lòng sông nhằm để làm dòng chảy chậm lại. Mục đích của tôi là làm thay đổi hướng chảy của giòng sông, xa dần thảm họa. Khi giòng sông chảy về một hướng mới, người ta không cần phải thiết lập chương trình để ngăn cản dòng chảy. Và tất cả những chương trình hiện nay sẽ bị bỏ rơi trong bãi sình, bất cập và vô dụng.”

 

Tác giả: Daniel Quinn, The story of B
Dịch giả: Hoàng Triết

Uống nhiều sữa tốt cho xương: Sự thật hay lời nói dối xuyên lục địa?

Featured image:  /the DON/

 

“Uống sữa tốt cho xương, uống sữa giúp phòng ngừa gãy xương…” là các thông điệp mà các giới chức của bộ ngành y tế sức khỏe, các chuyên gia dinh dưỡng, và đặc biệt là các nhà sản xuất và kinh doanh sữa vẫn đang ngày đêm tiếp tục quảng bá tại nhiều nước. Điều này đã trở thành hiển nhiên đúng với nhiều triệu người trên trái đất. Nhưng các nghiên cứu mới đây cho thấy, đó có lẽ chỉ là chiêu thuật để đẩy mạnh tiêu thụ sữa trong dân chúng.

Thực ra thì tiếng to tiếng nhỏ, nghi ngờ những khả năng phòng chống loãng xương, gãy xương…của sữa đã có từ lâu nhưng chưa có được các nghiên cứu nào đủ trọng lượng để khẳng định. Trong khi đó giới công nghiệp thì vừa nhiều tiền, giỏi ăn nói và quan hệ công chúng, lại “lobby” chính trị tốt nên luôn chiếm ưu thế trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt lại càng áp đảo trước các nhà khoa học có thói quen “rụt rè” trong các kết luận của mình.

Sau khi tổng hợp hàng loạt nghiên cứu khác nhau, phỏng vấn những người trong ngành, kết quả các điều tra thì nhà báo khoa học chuyên nghiên cứu về sữa và công nghiệp sữa, ông Thierry Soucar đã cung cấp rất nhiều thông tin và phân tích trong cuốn sách nổi tiếng của mình, Lait, mensonges et propagand (tạm dịch: Sữa, lời dối trá và tuyên truyền). Ông cho rằng, những “diễn văn” của các nhà sản xuất và kinh doanh sữa khuyến cáo nên nạp từ 3 đến 4 phần sữa mỗi ngày, ví dụ: 1 ly sữa, 1 cái yaourt, 1 miếng phomai, 1 chén ngũ cốc trộn sữa) để tốt cho xương…chỉ đơn thuần là lời tuyên truyền. Nếu dùng quá nhiều sẽ tăng khả năng bị ung thư tiền liệt tuyến ở nam, ung thư buồng trứng ở nữ, và bệnh Parkinson ở cả hai giới.

Cuộc tranh luận tẩy chay thông điệp này lại càng nóng lên sau khi các nhà nghiên cứu của Đại học Harvard công bố kết quả thu được khi cố gắng tìm hiểu mối liên hệ giữa sự tiêu thụ sữa của những người vị thành niên và mối nguy gãy xương sau đó trong đời. Đây là một nghiên cứu quy mô rất lớn, thu thập số liệu của 22 năm và có sự tham gia của trên 96.000 người cả nam lẫn nữ (1).

Kết quả cho thấy, thêm một ly sữa hàng ngày ở tuổi vị thành niên là gắn với một mối nguy cơ bị gãy xương háng cao hơn ở đàn ông. Đối với phụ nữ thì uống sữa không liên quan đến việc tăng hay giảm mối nguy này.

Kết luận của các nhà nghiên cứu là: Tiêu thụ sữa ở tuổi vị thành niên không giúp giảm nguy cơ gãy xương mà thậm chí còn làm tăng nguy cơ gãy xương ở đàn ông.

Thêm vào đó, theo một nghiên cứu công bố vào năm 2012 trên American Journal of Epidemiology, nếu người nào dùng nhiều sữa và lúc tuổi vị thành niên, thì sẽ làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền liệt (2).

Thực thế nhiều khảo sát ở những nước phát triển, tiêu thụ nhiều các sản phẩm sữa cho thấy tỉ lệ các vấn đề xương khớp không sai biệt gì đáng kể so với những nước kém phát triển, nơi mặt hàng sữa vẫn còn thuộc loại xa xỉ. Mọi người thường hay liên hệ đến canxi khi nói đến sức khỏe của xương, nhưng thực ra các yếu tố dinh dưỡng khác cũng vô cùng quan trọng, đó là phốt pho, kali, các chất khoáng khác, đạm và vitamin. Cần đa dạng hóa thực phẩm để không bị thiếu hoặc dư thừa một chất nào đó.

Ở Việt Nam có lẽ cũng rất khó để thực hiện được những nghiên cứu bài bản và khách quan như trên. Tuy nhiên chúng ta cũng không có quá nhiều các sản phẩm sữa để dùng đến 3 – 4 phần mỗi ngày nhất là khi giá sữa luôn treo ở “trên cây”. Khi uống sữa, nếu bạn cảm thấy khó tiêu, đầy bụng, tiêu chảy, ợ hơi…thì cũng đừng nên ép. Hãy coi sữa cũng giống như các thực phẩm thông thường khác thì mọi chuyện đơn giản hơn nhiều.

Việc các doanh nghiệp luôn tìm cách rót vào tai người tiêu dùng những công dụng tuyệt vời đã được đánh bóng (đôi khi là không có thực) và thổi phồng lên là chuyện thường tình. Do vậy tự mỗi người phải tìm ra được chế độ dinh dưỡng phù hợp với cơ thể và túi tiền của mình.

Hồng Lưu

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Feskanich D, Bischoff-Ferrari HA, Frazier AL, Willett WC. Milk ConsumptionDuring Teenage Years and Risk of Hip Fractures in Older Adults. JAMA Pediatr.2013 Nov 18.
[2] Torfadottir JE. Milk intake in early life and risk of advanced prostate cancer. Am J Epidemiol. 2012 Jan 15;175(2):144-53. Epub 2011 Dec 20.

Di sản của Tổng Thống George W. Bush F

Featured image:  josine.vervloet.photography

 

Cho dù lời phán quyết của lịch sử về chính quyền của Tổng Thống George W. Bush sau này sẽ ra sao, nó sẽ rất khác với nhừng gì chúng ta nghe được từ giới truyền thông đại chúng trên màn truyền hình hoặc đọc từ những bài phê bình trên báo chí. Thành tích tối cao của Tổng Thống Bush cũng là mục đích tối cao của chính phủ — bảo vệ nhân dân. Không một ai trong ngày 11 tháng 9, 2001 nghĩ rằng sẽ có một cuộc tấn công tương tự nữa trong bảy năm tới.

Rất đáng tiếc, những người đang được bảo vệ từ sự nguy hiểm thường cho rằng sự nguy hiểm không tồn tại. Đây là ngộ nhận hiển nhiên nhất của những người Mỹ quyết liệt phản đối việc chính phủ nghe lén các cuộc gọi quốc tế, để tiêu diệt các mạng lưới khủng bố quốc tế. Rất nhiều người, nhất là giới trí thức, đang phân vân với việc chúng ta có đối xử công bằng theo đúng chuẩn mực với những tay khủng bố ở trại tù Guantanamo hay không, vài trong số tù binh đó đã được thả và trở về với cuộc sống khủng bố của họ. Những quyền lợi trong Công Ước Geneve không áp dụng với những người không tuân thủ theo Công Ước đó và cũng không bị ràng buộc bởi nó.

Việc một Tổng Thống Mỹ đang bảo vệ chúng ta từ những địch thủ không được coi là thành tích đối với vài người. Nhưng điều đó sẽ được cảm thông hơn khi chúng ta có một vị Tổng Thống xem thường việc đó, để đổi lấy sự ủng hộ phổ biến ở trong và ngoài nước. Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng không cần phải chứng kiến hình ảnh của một thành phố Mỹ bị tàn phá bởi vũ khí hạt nhân để làm mọi người thấy được những sự nguy hiểm George W. Bush đã chống lại, mặc cho sự phản đối quyết liệt.

Không một ai có thể nói rằng chính quyền Bush không có những khuyết điểm. Những những sai lầm chính trị lớn nhất của họ là những sai lầm thường gặp phải khi làm việc với những người không đứng đắn ở trong và ngoài nước. Ý tưởng cho rằng Tổng Thống Bush khi tới Washington, ông ta sẽ có được sự ủng hộ của cả hai đảng bằng cách ủng hộ đảng Dân Chủ, và không phản đối các bộ luật Quốc Hội đã thông qua, chứng minh họ quên rằng phải có hai người mới có thể nhảy chung một điệu.

Với việc công bố mục đích của ông ta là làm hài lòng cả hai bên, chính ông Bush đã bị lên án khi sự hài lòng đó sụp đổ. Chiêu mộ Thượng Nghị Sĩ Kennedy (một thành viên quốc hội hàng đầu của đảng Dân Chủ và phe cánh tả) bằng những chính sách tiêu thụ công tầm cỡ cũng đã không ngừng Kennedy từ việc ông ấy lên án Tổng Thống Bush đã “nói dối và nói dối” về tình hình Iraq trên sàn của Thượng Viện Hoa Kỳ.

Mặc cho những lợi ích hay bất cập của việc tuyên chiến với Saddam Hussein là gì, câu hỏi liệu rằng ông ta đã sở hữu vũ khí hóa học trong tầm tay hay không đã trở thành một đề tài để lên án thay vì một chủ đề bàn luận. Tổng Thống Bush không phải là nhà lãnh đạo quốc gia duy nhất tin rằng Saddam Hussein đã sở hữu những vũ khí đó. Và những vũ khí đó cũng không phải là nguyên nhân duy nhất khiến cho nhà độc tài Iraq đó trở thành một mối nguy hiểm trong ngoại giao hơn một thập niên qua. Vần đề đó có thể được tranh luận, và nó sẽ được tranh luận trong những năm tới, nếu không phải là những thế hệ tới. Nhưng việc lên án rằng Bush đã “nói dối” vì lý do gì đó – như lấy máu để đổi lấy dầu khí hoặc tạo cơ hội kinh doanh cho tập đoàn Halliburton, để lấy ví dụ – là hơn cả vu oan cho ông ta. Điều đó hạ thấp quốc gia chúng ta và nâng cao địch thủ chúng ta trên thế giới.

Ở trong nước, di sản của ông Bush đã tạo nên những điều tiếc nuối. Việc ông ta ủng hộ bộ luật McCain-Feingold (bộ luật liên quan đến việc ủng hộ tài chính trong cuộc bầu cử) để giới hạn tự do ngôn luận có thể coi rằng là một trong những sai lầm lớn nhất của chính quyền Bush. Đây là bộ luật đã vi phạm Điều Một của Bản Tuyên Ngôn Quyền Lợi của Hiến Pháp Mỹ. Chắc ông ấy nghĩ rằng Tòa Án Tối Cao Hoa Kỳ sẽ ngăn chặn bộ luật này. Nhưng chính Tòa Án Tối Cao cũng đã sai khi đã công nhận bộ luật McCain-Feingold.

Việc ủng hộ sự ân xá cho các người nhập cư trái phép cũng là một thãm họa chính trị, nhất là khi nó được ủng hộ bởi những người coi thường việc nhập cư trái phép.

Cho dù chính quyền Bush đã tham gia ủng hộ việc sở hữu nhà cho những người không có khẳ năng chi trả, Tổng Thống Bush ít nhất cũng đã lên tiếng cảnh cáo cho dù nhiều người trong quốc hội đang đẩy mạnh chính sách bắt buộc giới cho vay phải cho những người không đủ khả năng chi trả vay thêm để mua nhà.

Tổng Thống Bush là một người đầy mưu kế, như bao nhà chính trị gia khác. Nhưng trên hết, ông ta là một người danh dự.

 

Tác giả: Thomas Sowell
Dịch giả: Ku Búa

*Bài viết này không nhất thiết nói lên quan điểm của THĐP