30 C
Nha Trang
Thứ bảy, 23 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Bát linh hậu: Khoảng cách thế hệ ở Trung Quốc

Featured Image: Bruno Barbey/Magnum

 

Các bậc cha mẹ ở Trung Quốc luôn than vãn về thói lười biếng và tham lam của con cái họ, nhưng thế hệ những người trẻ này đã chịu đủ rồi.


James Palmer là một tác giả sách và biên tập viên người Anh đã có cơ hội làm việc thân cận với nhiều nhà báo Trung Quốc. Cuốn sách mới nhất của ông có tên “Cái chết của Mao” (‘The Death of Mao’) (2012). Ông hiện sống ở Bắc Kinh.

***

Vào năm 2004, vừa đặt chân xuống khỏi máy bay ở Bắc Kinh, tôi đã bị người ta lôi tuột đi làm giám khảo cho một cuộc thi hùng biện tiếng Anh của các học sinh năm cuối cấp III. Đồng giám khảo với tôi là hai nhà xã hội học tuổi trung niên khá ưa hoài nghi, cả hai đều là giáo sư của đại học Thanh Hoa (Tsinghua) [1]. Sau khi nghe một bài phát biểu dài lê thê về việc Trung Quốc đã từng rất nghèo, nhưng giờ đã trở nên giàu có và quyền lực đến thế nào, tôi bình luận với một trong hai người họ rằng các học sinh này có vẻ đã được bảo bọc hơi quá kỹ.

“Chúng chẳng biết một cái gì cả!” cô nói một cách giận dữ. “Chúng không hề có một chút khái niệm nào về việc người dân đang phải sống ra sao. Không đứa nào trong cái thế hệ của bọn nhỏ này biết hết. Tất cả chúng đều đã bị nuông chiều quá đáng.”

Đó là quan điểm tôi đã được nghe đi nghe lại nhiều lần trong suốt tám năm qua, và là một quan điểm mà giới truyền thông Trung Quốc chưa bao giờ thôi đề cập tới. Chỉ riêng vừa tháng Một này thôi, viên thiếu tướng và nhà bình luận truyền thông hiếu chiến La Viện (Luo Yuan) đã phê phán giới trẻ là ‘yếu ớt cả về thể chất lẫn tinh thần’, ca thán rằng: “Nữ tính đang lên ngôi, và nam tính đang biến mất. Thiếu hoàn toàn phẩm chất và nghị lực, lại còn thể trạng yếu ớt như vậy, làm thế nào chúng có thể gánh vác trên vai những trọng trách nặng nề?”

Trong khi đó, tác giả và nhà phê bình xã hội Mộ Dung Tuyết Thôn (Murong Xuecun) thì nguyền rủa giới trẻ thậm tệ trên trang tạp chí Mỹ Foreign Policy, bởi “bị nuôi béo tới phì nộn bằng Coca-Cola và thức ăn nhanh […] thế hệ trẻ bây giờ chỉ biết nhất mực tin theo những gì chính phủ tuyên bố; có nhiều kẻ còn coi đối lập với nhà chức trách là như ngang với tội dị giáo. Chúng không bao giờ thèm bận tâm kiểm tra lại các sự kiện chi tiết.”

Cũng có một phần sự thật đằng sau những lời chỉ trích này. Vào năm mà tôi tới Trung Quốc, khi tôi phải trải qua giai đoạn sống-như-người-ngoại-quốc gần như bắt buộc tại đây với nghề giáo viên, trước khi có thể chuyển hẳn hoàn toàn sang công việc viết sách và làm biên tập xuất bản, tôi đã phải lôi xềnh xệch một thằng nhỏ 19 tuổi ra khỏi lớp học sau khi nó nổi cơn tam bành, giậm chân giật tay ăn vạ và từ chối bước ra khỏi lớp. Lời khẳng định của ông Mộ Dung, rằng giới trẻ ngày nay ngoan ngoãn nuốt từng lời của chính phủ, không hề đứng vững trong một thời đại mà mọi sự tín nhiệm của tầng lớp lãnh đạo đều đã bị đánh đổ hoàn toàn bởi các phương tiện truyền thông, nhưng ta có thể thấy cơ sở cho lời khẳng định của ông La. Mỉa mai nhất là chính con cái của các quan chức quân đội lại có vẻ là những đứa đặc biệt béo tốt nhất. Các giáo viên tại một học viện đào tạo liên thông với với một doanh trại quân đội đã miêu tả với tôi rằng các của nợ cứng đầu và ngu dốt của họ trông cứ như “mấy cái dái ngắn cụt giãy giụa” (‘stubby wobbling penises’), và họ còn tổ chức các cuộc thi ngầm giữa nhau để xem học sinh nào là “xôi thịt” (‘sausagey’) nhất trong cả lũ.

Các so sánh về thức ăn này cho ta thấy – những thế hệ người lớn của Trung Quốc đang muốn biết: “Tại sao chúng có thể sống dễ dàng quá vậy, trong khi bằng tuổi chúng, chúng ta đã phải khổ sở đến chừng nào?” Đối tượng chính của sự phê phán này là thế hệ mà những người Trung Quốc gọi là bát linh hậu (‘balinghou’) – những người trẻ sinh sau năm 1980, chưa bao giờ phải biết đến tem phiếu thức ăn, và được nuôi lớn lên sau khi giai đoạn “cải cách và mở cửa” của Trung Quốc đã bắt đầu. Ở đây tôi đang nói tới tầng lớp trung lưu thành thị, những người chiếm đại đa số truyền thông Trung Quốc, cả với tư cách là đối tượng mua sắm và tiêu thụ. Những lời chỉ trích trên, về thực tế không mấy thực sự liên quan tới các yếu kém của giới trẻ; chúng chỉ như dấu hiệu của một hố sâu ngăn cách khổng lồ, chưa từng bao giờ có trước đây, giữa giới trẻ thành thị Trung Quốc với cha mẹ của họ mà thôi.

Trương Quân (Zhang Jun), một học viên cao học 26 tuổi, đã miêu tả tình thế này như sau: “Nó không chỉ là khoảng cách giữa các thế hệ. Nó là khoảng cách giữa các hệ giá trị, khoảng cách giữa giàu và nghèo, khoảng cách về trình độ giáo dục, khoảng cách về các mối quan hệ, và khoảng cách về thông tin.” Linh Mỹ Lệ (Lin Meilian), 30 tuổi, một nhà báo, đã tuyên bố một cách ngắn gọn thế này: “Tôi chẳng có một điểm gì chung với mẹ mình hết. Chúng tôi không thể nói chuyện với nhau về bất cứ điều gì cả. Bà không bao giờ hiểu được tại sao tôi lại chọn cho mình một cuộc sống như vậy.”

Các bậc cha mẹ, những người đã dành toàn bộ những năm tháng tuổi hai mươi của họ lao động trên những nông trại xa xôi hẻo lánh, giờ đây phải đối mặt với một thế hệ trẻ đo đạc thế giới của họ bằng những trung tâm mua sắm, iPhone và các cuộc hẹn hò.

Loại khoảng cách này không phải chỉ có riêng ở Trung Quốc. Nhưng ở hầu hết các nước khác đều có một tính liền mạch hơn nhiều giữa các thế hệ. Thời niên thiếu của tôi ở Manchester những năm 1990 chỉ khác biệt về mức độ, chứ không khác biệt về bản chất, với thời niên thiếu của bố mẹ tôi tại Bristol và Sydney những năm 1960. Nhưng cha mẹ của những người trẻ thuộc thế hệ hậu-1980 – những người sinh ra vào khoảng 1950 đến 1965 – đã lớn lên trong một thế giới nông thôn, tuân theo các tư tưởng của Mao Trạch Đông; hoàn toàn khác biệt với thế giới của con cái họ bây giờ. Ở thời của họ, mỗi làng chỉ có một chiếc máy điện thoại, các trường đại học bị đóng cửa, và mọi công việc đều được cắt đặt và bổ nhiệm từ trên xuống. Nếu bạn có thể hình dung sự mất phương hướng và lúng túng của rất nhiều bậc cha mẹ phương Tây khi phải đương đầu với Internet và tác động của nó tới con cái của họ, và rồi thêm vào nó hẹn hò, cuộc sống của trường đại học, rồi những lựa chọn nghề nghiệp, vậy là bạn đã có thể tới gần hơn tới nan đề giữa các thế hệ này. Các bậc cha mẹ, những người đã dành toàn bộ những năm tháng tuổi hai mươi của họ lao động trên những nông trại xa xôi hẻo lánh, giờ đây phải đối mặt với một thế hệ trẻ đo đạc thế giới của họ bằng những trung tâm mua sắm, iPhone và các cuộc hẹn hò.

Người Trung Quốc lớn tuổi, đặc biệt là những người nay đã vào độ tuổi năm mươi, sáu mươi, thường cứ như dân nhập cư ngay trên chính mảnh đất của họ. Họ cũng có cái cảm giác lạc lõng, mất phương hướng, hay phải vất vả xoay sở với những tiêu chuẩn xã hội và những thói quen tập quán họ không hiểu nổi đó; chỉ còn biết cố bám chặt lấy những nhóm người đồng loại ít ỏi còn sót lại của mình. Trong mối quan hệ với con cái, họ làm tôi nhớ tới những bậc cha mẹ người gốc Ấn Độ và Bangladesh ở Anh mà tôi đã được chứng kiến khi còn nhỏ, luôn phải vất vả xoay sở để có thể giúp con đưa ra những lựa chọn mà bản thân họ trước đây chưa bao giờ phải lựa chọn. Ấy vậy nhưng, với tất cả những sự khó khăn do khác biệt về địa lý tạo ra đó; khoảng cách giữa một khu làng ở Bangladesh với vùng ngoại ô Manchester vẫn còn nhỏ hơn khoảng cách giữa vùng nông thôn Trung Quốc của những năm 1970 và thành phố Bắc Kinh thời hiện đại.

Dân nhập cư thường có một hệ giá trị ổn định mang tới từ văn hóa quê nhà của họ, mà từ đó họ rút được ra nguồn sống cho cộng đồng mình, bất kể là về mặt tôn giáo hay văn hóa. Nhưng với những đứa con của cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc, không hề có một sự liền mạch nào như vậy. Họ được nuôi lớn lên, tin vào tư tưởng cách mạng của Mao Trạch Đông những năm 1960 và 70; và rồi khi đã là những thanh niên trẻ vào cuối những năm 1970, họ được bảo rằng tất cả những gì đã được tiêm vào đầu họ trong suốt thời niên thiếu đó đều là một sai lầm tai hại. Rồi họ được mớm cho một chút hy vọng về chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng bị làm cho ảo tưởng lên bởi cơn sốt làm giàu, để rồi cuối cùng được thấy một chút dấu hiệu nhỏ của công cuộc phản-văn hóa tự do (‘liberal counter-culture’) trong những năm 1980, trước khi sự kiện Thiên An Môn chính thức tước đoạt nó đi mãi mãi. Cùng lúc đó, các giá trị truyền thống đã từng bị tuyên là “phản cách mạng” vào những ngày họ còn trẻ, giờ đây lại được chính các nhà lãnh đạo nhanh chóng đánh bóng lại cho đẹp đẽ, rồi giương ra như là xương sống mới cho cả xã hội.

Thế hệ trẻ ngày nay bị phê phán thậm tệ bởi cái gọi là thói vật chất (materialism) của họ, nhưng đây thực ra là một hệ giá trị mà chính cha mẹ của họ còn trân trọng hơn nhiều, bởi nguồn đảm bảo an toàn vững vàng nhất cho cả thế hệ của họ vẫn luôn là tiền. Tiền – hay ít nhất là ảo tưởng về nó – là thứ chưa bao giờ bỏ rơi họ. “Người Trung Quốc yêu tiền”, Trương, cô học viên cao học, nói với tôi: “Bởi vì tiền không mang theo một lịch sử nào với nó hết.” Đã phải trải qua nền kinh tế tư bản cướp đoạt của đất nước trong cơn lốc tới kim tiền; thế hệ già, với thái độ vô luân đến tuyệt vọng của họ khi tìm cách để tồn tại, có thể khiến con trẻ của họ phải ngỡ ngàng. Hoàng Nộ Ba (Huang Nubo), nhà thơ, nhà leo núi, và một tỷ phú bất động sản, giờ đã vào độ tuổi năm mươi, là một trong số ít người dám thoải mái thừa nhận điều này; gọi nó là “sự tan rã của hệ sinh thái xã hội” trong một bài phỏng vấn với tạp chí Caixin của Trung Quốc. Nhưng Hoàng chỉ thuộc thành phần hiếm, được bao bọc an toàn bởi gia tài giàu có của mình; rất nhiều các bậc cha mẹ khác thì vẫn đang rất lo lắng rằng con cái mình chưa làm đủ tốt để có thể tiếp tục tồn tại.

Trong khi những người nhập cư mơ ước con mình sẽ trở thành bác sĩ, luật sư hay giáo sư; những người Trung Quốc nội địa đặt tham vọng của mình ở một nơi khác. Bác sĩ được trả lương quá kiết, luôn phải làm việc quá sức và lại không được trọng nể, tất cả đều vì một hệ thống y tế đã thất bại và mục ruỗng từ bên trong. Luật sư thì luôn phải uốn mình theo những thay đổi khó đoán của hệ thống tư pháp. Giáo sư thì chỉ kiếm được đồng lương ba cọc ba đồng và phải phụ thuộc vào những công việc làm thêm ở bên ngoài mới cầm cự nổi qua ngày. Ưu tiên của các bậc cha mẹ ở Trung Quốc không phải là một vị trí chuyên môn cao hay công danh sự nghiệp lẫy lừng, mà là tiền bạc và sự ổn định, bất kể công việc đem lại nó có là gì.

Cái cũ nhường chỗ cho cái mới ở Thượng Hải. Ảnh bởi Bruno Barbey/Magnum.
Cái cũ nhường chỗ cho cái mới ở Thượng Hải. Ảnh bởi Bruno Barbey/Magnum.

Trương là một học giả trẻ đang trên đà thăng tiến, thường xuyên tham dự các cuộc hội thảo cấp cao về ngoại giao và an ninh. (Cô là người duy nhất trong số những người nói chuyện với tôi yêu cầu được sử dụng bút danh, cho thấy cô có ý thức rõ ràng về sự “nhạy cảm” của cái tên của mình trên mạng đến thế nào). Cô kể: “Mẹ tôi không thể hiểu nổi bất cứ điều gì tôi làm, đặc biệt là khi nó không đem lại chút “bổng lộc” gì hết. Tết năm vừa rồi, tôi về nhà và thấy em họ của mình đã ở đấy rồi. Nó là một trình dược viên (pharmaceutical rep). Nói vậy tức là nó bán thuốc giả hoặc kê khống giá thuốc bán cho các bệnh viện, với sự giúp đỡ ngầm của bác sĩ bên trong, và họ chia đôi lợi nhuận thu được. Mẹ tôi cứ luôn nói với tôi: “Ôi, sao mày không làm ăn chung với em họ mày đi! Nó kiếm ra được bao nhiêu là tiền đấy!”. Bà ấy biết công việc của nó dính dáng đến những gì, nhưng chưa bao giờ bà nghĩ đó là điều gì sai trái hết.”

Các bậc cha mẹ Trung Quốc dốc tiền vào giáo dục cho con cái, nhưng họ cũng đầu tư vào cả các “lối đi tắt” nữa. Hầu hết không thể làm được điều mà gia đình tỷ phú của một người đã làm khi anh ta trượt kỳ thi vào đại học Thanh Hoa: mua cho anh ta hẳn quyền công dân của nước Cộng hòa Dominica, chỉ để anh chàng này có thể đường hoàng theo học tại đại học này dưới danh nghĩa “du học sinh nước ngoài”, với tiền là điều kiện tiêu chuẩn duy nhất cần phải đáp ứng. Tuy vậy, họ có thể làm được điều mà mẹ của Trương đã làm: lo lót cho tất cả các thầy cô để mọi học kỳ, cô đều được ngồi ở dãy đầu tiên trong lớp, giúp cô không bị chìm nghỉm giữa 50, 60 học sinh khác.

Vẫn có thể cố gắng hết sức để có được một sự nghiệp ở Trung Quốc chỉ dựa trên năng lực, mặc dù việc này đang càng lúc càng trở nên khó khăn hơn, do những người giàu có và nhiều quan hệ đang kéo chiếc thang đi xa dần. Cứ lấy ngành nghệ thuật làm một ví dụ. Chỉ để được phép tham dự vào một cuộc thi khiêu vũ cấp quốc gia thôi, mức phí yêu cầu tối thiểu đã là 20,000 tới 30,000 nhân dân tệ (tương đương xấp xỉ 3,000 tới 5,000 đô-la Mỹ, ở một quốc gia mà mức thu nhập bình quân của dân thành thị chỉ vào khoảng 500 đô/tháng).

“Người thắng cuộc thực sự thì được chọn bởi tài năng. Nhưng bạn sẽ cần phải xùy tiền ra cho ban giám khảo mới mong có thể chen chân có một chỗ đứng trong cuộc đấu. Vậy nên các cô gái hoặc sẽ phải phụ thuộc vào ông bố của mình, hoặc họ phải tự đi tìm lấy các “ông bố” khác”, một vũ công 21 tuổi nói với tôi. Ở ngành âm nhạc, một trong những học viện nghệ thuật hàng đầu của cả đất nước, một thời đã từng là cái nôi của bao tài năng vĩ đại, giờ yêu cầu học viên phải mua các khóa học riêng từ nhạc trưởng với mức phí 5,000 tệ một lần (khoảng 800 đô, hay 17 triệu VNĐ). Khi tất cả mọi người khác đều chơi bẩn, kể cả những bậc cha mẹ thành thật nhất cũng không còn lại mấy lựa chọn nào khác cho tương lai của con cái, và một số hối hận chính chủ nghĩa lý tưởng (idealism) của thế hệ mình. Hàn Tố Chân (Han Suzhen), 57 tuổi, một giáo viên đã về hưu, bình luận: “Chúng tôi đã không nuôi dạy chúng theo cách để có thể thích ứng tốt với thế giới này. Chúng tôi đã dạy chúng bằng những lý tưởng đã được khắc sâu trong đầu chúng tôi, theo một cách rất ngây thơ. Nhưng ngày nay tất cả mọi người đều theo đuổi những thứ chúng tôi đã được dạy rằng không nên trân trọng: chúng tôi được dạy là phải cống hiến cho xã hội, giờ thì bọn nhỏ được dạy rằng phải giành lấy cho bản thân bằng mọi cách có thể. Chính xác điều ngược lại. Không ai còn nhắc tới các lý tưởng hay sự tự do vào cái thời này nữa”.

Cũng như trong hầu hết mọi trường hợp trong lịch sử Trung Hoa, triển vọng đẹp đẽ nhất mà ai cũng nhắm tới là một vị trí quan chức nhà nước. Trên giấy tờ thì tiền lương cũng thấp thôi, nhưng kể cả một công việc ít quan trọng nhất trong hệ thống thứ bậc của thế giới quan chức cũng đi kèm với những món lợi tức được bảo đảm và sự ổn định về kinh tế suốt đời, được biết đến với cái tên “bát cơm sắt”. Một công việc quan chức tầm trung là tấm giấy phép đảm bảo để được thoải mái moi móc, bóp nặn cũng như gây ảnh hưởng để giành phần lợi cho mình. Trương nói với tôi: “Thằng em họ tôi, tên buôn thuốc ấy, cứ liên tục càm ràm với tôi rằng: ‘Sao chị đi không làm quan chức đi? Khi đó tôi có thể dọa đám đối tác của tôi rằng tôi có người trong gia đình là quan chức đấy, và thế là cả hai chúng ta đều có thể kiếm được bộn tiền.”

Một công việc trong những tập đoàn quốc doanh khổng lồ, như là tập đoàn dầu mỏ kếch xù Sinopec, hoặc “tứ đại” ngân hàng chẳng hạn, là sự lựa chọn hoàn hảo thứ hai. Những công việc ăn lương nhà nước kiểu này còn được gọi là thể chế nội (tizhinei), “ở bên trong hệ thống”, với tất cả những bổng lộc hấp dẫn từ những khoản lương hào phóng, với chỉ số an sinh xã hội cao và, ở một mức độ nhất định, những khoản hối lộ đều đặn. Đó là lý do chúng rất đắt giá, kể cả phải mua bằng tiền hay bằng quan hệ (‘guanxi’); một khái niệm rất binh thường của người Trung Hoa để nói về thế lực, ảnh hưởng hoặc ưu ái của ai đó dành cho thành viên trong gia đình mình. Để giành được một vị trí trống trước tiên, nhất thiết cần phải có sự chống lưng của cha mẹ. Khi danh sách ứng viên cho một vị trí cấp thấp tại một tập đoàn quốc doanh cấp tỉnh bị tung lên mạng, vào hồi tháng 12 vừa qua, bên cạnh tên các ứng viên còn có ghi cả tên các họ hàng quyền lực nhất của mỗi người họ nữa.

Tuy nhiên không phải vị trí nào cũng có thể mua được. Lý Sương (Li Xiang), một chàng trai 25 tuổi có phần nào đấy kỳ lạ, đang giữa lúc làm các bài kiểm tra và phỏng vấn để trở thành một viên chức chính quyền cấp trung ương. “Nhưng tức một nỗi là cả bố và mẹ tôi đều làm việc cho chính quyền trung ương cả”, anh nói. “Đã có luật quy định rằng bạn không được phép làm cùng một phòng ban với người thân trực hệ trong gia đình. Hệ thống xin việc của chính quyền trung ương trong sạch hơn của chính quyền địa phương hay các tập đoàn nhà nước nhiều; bạn không thể dùng tiền hay ảnh hưởng quan hệ để mua chỗ đứng cho mình được.”

Anh vạch ra rõ ràng ưu và nhược điểm trong hành động của mình trong lúc chúng tôi cùng dùng một bữa cơm thịt nướng đắt đỏ (tới 400 tệ/suất). “Chấp nhận công việc này là tôi phải chấp nhận chịu hụt lương một khoản lớn, từ 10,000 tệ (35 triệu VNĐ) như hiện giờ xuống chỉ còn giỏi lắm là 6,000 (21 triệu), sau khi đã trừ hết thuế má. Một hai năm đầu còn là thử việc, mức lương chỉ được hưởng khoảng 70%. Nhưng bệnh viện dành riêng cho dân viên chức nhà nước đều là những bệnh viện tốt nhất, đặc biệt là với các viên chức chính quyền trung ương. Công việc rất an toàn. Mức an sinh xã hội thì cao. Và tôi cũng thực sự muốn được phục vụ nhân dân nữa. Đó là lý do tôi nộp đơn xin vào vị trí tư vấn viên (advisory) của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (“Chinese People’s Political Consultative Conference”, xem thêm tại đây ). Cha mẹ tôi đã nổi điên lên với tôi! Họ mắng mỏ tôi vì đã chọn lấy một vị trí chẳng có một chút quyền lực nào.”

Cũng như Lý, rất nhiều trong số các bạn trẻ thuộc thế hệ hậu-1980 – trái ngược với tiếng xấu là chỉ biết đến vật chất của họ – vẫn muốn giúp đỡ người khác. Tỷ lệ tình nguyện viên đang đạt mức cao nhất kể từ trước đến nay, mặc dù vẫn còn thấp hơn nhiều so với phương Tây, và các tổ chức phi chính phủ chủ yếu được thành lập bởi sinh viên đại học hoặc giới công chức thành thị trẻ. Nhưng với cha mẹ họ, ‘từ thiện’ có thể là một từ ngữ bẩn thỉu. “Vợ một người bạn của tôi bị ốm rất nặng, và gia đình anh ta chẳng có gì cả”, Trương, cô học viên cao học, nói. “Tôi muốn giúp anh ta độ 500 tệ (khoảng 1.7 triệu VNĐ) để đỡ cho gia đình anh qua cơn khốn đốn, nhưng trong lúc đợi để gặp anh ta, tôi có thể nghe thấy tiếng mẹ tôi vang lên trong đầu, mắng mỏ tôi là một con ngốc. Mỗi lần tôi đem tiền cho ai đó, tôi đều có cảm giác như mình đang bị lừa ấy”. Một người khác tôi phỏng vấn thì nói: “Nếu tôi kể với mẹ rằng mình vừa mới cho người khác tiền, bà sẽ chửi bới tôi thậm tệ, bởi tôi còn chưa mua nổi một căn hộ riêng cho mình nữa.”

Một người có thể sẽ phải vào tù nếu không nuôi nổi cha mẹ già

Và với các bậc cha mẹ mà giấc mơ bị cắt ngang bởi hoàn cảnh lịch sử, cái tham vọng muốn ép con cái phải đi theo con đường mình đã từng muốn đi còn mạnh mẽ hơn nhiều. Khi tôi gặp La Tịnh Thanh (Luo Jingqing) lần đầu tiên, sự tự tin và một chút lo lắng về tình hình thế giới của cô khiến tôi đã nghĩ cô phải già dặn hơn cái tuổi 24 của cô nhiều. Chúng tôi cùng dùng bữa trưa và nói chuyện tại Element Fresh, một chuỗi nhà hàng thượng lưu đặt tại Thượng Hải, điểm đến quen thuộc của rất nhiều trí thức trẻ như cô.

“Mẹ tôi muốn tôi làm một nữ trí thức với một công việc chuyên nghiệp”, cô nói với tôi. “Bà đã từng theo học một trường trung học ngoại ngữ để tránh bị gửi về vùng nông thôn (một chính sách theo tư tưởng Mao Trạch Đông khoảng những năm 1950 tới 70, khi các “trí thức” trẻ ở thành thị bị buộc gửi về sống chung với nông dân). Hoặc cái đó, hoặc phải gia nhập quân đội. Từ ngôi trường đó bà đã xoay sở để vào được đại học, khi nó mở cửa trở lại, và sau khi tốt nghiệp được bổ nhiệm một công việc tại đại sứ quán Nhật Bản. Bà gặp cha tôi ở đó, khi bà 27 tuổi. Họ cưới nhau chỉ vì cha đã làm mẹ tôi dính bầu, ít nhất theo những gì cha tôi nói lại thì vậy. Bây giờ thì họ đã ly hôn rồi.”

“Bà ấy luôn luôn nói với tôi rằng chính tôi đã hủy hoại cuộc đời bà ấy”, La tiếp tục kể. “Bà bảo tôi rằng tuyệt đối đừng bao giờ có con, bởi vì chúng sẽ chỉ phá hoại tất cả mọi thứ. Bà bảo tôi rằng dính thai đã phá hủy hoàn toàn sự nghiệp của bà, rằng chính vì lỗi của tôi mà bước tiến cuộc đời bà đã bị chặn đứng, và rút cục bà ấy phải chịu bị mắc kẹt với cha tôi. Bà ấy đã liên tục nói với tôi những điều ấy từ ngày tôi bắt đầu có thể nhớ được. Nghe có ngớ ngẩn không cơ chứ?” Cô cười to, như cách ai đó sẽ làm khi kể cho bạn nghe về một quá khứ kinh hoàng mà họ đã từ lâu bỏ lại sau lưng. “Nhưng, thực sự thì, bà ấy chỉ muốn tôi trở thành bà ấy thôi, thành cái con người mà bà chưa bao giờ có thể trở thành được. Bà ấy đã từng mơ được làm một bác sĩ, nên bà ấy vô cùng muốn tôi sẽ trở thành một bác sĩ thực sự. Tôi nhớ đã hét lên với bà rằng: “Con không phải sống theo ý mẹ, và con cũng sẽ không bao giờ sống theo ý mẹ hết!”

Nhưng chống lại sự định hướng của cha mẹ cũng khó khăn vô cùng. Mỉa mai thay, một trong những quan niệm ít ỏi còn tồn tại dai dẳng nhất trong xã hội, dẫu qua bao năm tháng đổi thay hỗn loạn của cả dân tộc, lại chính là đạo hiếu, là món nợ vô tận mà con cái nợ với cha mẹ; hiển nhiên phát triển từ triết học của Khổng Tử, nhưng đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong suốt lịch sử bằng hàng nghìn câu thành ngữ và các tích điển đạo giáo. “Đạo hiếu là nguồn gốc của mọi đức hạnh trên đời”, một câu ngạn ngữ nói. “Yêu những gì cha mẹ anh yêu, kính những gì cha mẹ anh kính”, một câu khác khuyên răn. Trọng trách này đặc biệt nặng nề với những người con gái. Một sách khuyên răn điển hình của tổ chức Khổng giáo quốc gia, xuất bản năm 1935, đã dạy rằng: “Con gái sinh ra là đã mang món nợ về đạo hiếu và luân lý. Bởi vậy mục đích cả đời của họ là phải trả được món nợ này cho cha mẹ”. (‘women are born with filial famine and ethical debt. So the purpose of their lives is to clear that debt’).

Không có nền văn hóa nào lại đề cao miệng lưỡi rắn độc của một đứa con bất hiếu, nhưng khó mà có thể hình dung được, ở phương Tây hiện đại sẽ bao giờ có cảnh chủ nhiệm khoa một trường đại học lên trang nhất của báo vì đã quay trở lại làng và rửa chân cho mẹ mình; hay hình ảnh những đứa trẻ ở trường bị bắt phải tập cách quỳ lạy để tỏ lòng kính hiếu với cha mẹ. Kể cả luật pháp cũng hỗ trợ cho điều này: một người có thể sẽ phải vào tù nếu không nuôi nổi cha mẹ già; dù cho luật này, cũng như hầu hết mọi điều luật của Trung Quốc mà không trực tiếp làm lợi cho chính phủ khác, đều ít khi được thực thi một cách nghiêm túc. Thậm chí đã có những cố gắng để bắt việc về thăm cha mẹ già ở quê xa là bắt buộc.

Những lý tưởng Khổng giáo này chưa bao giờ phù hợp với thực tế. Người Trung Quốc không chỉ có danh ngôn về đạo hiếu, kho thành ngữ của họ về thói bất hiếu cũng nhiều không kém; như lời miêu tả về một kẻ đạo đức giả sau đây: “Bỏ bê cha mẹ già, để rồi làm cho họ một đám tang thật linh đình.” Và thực vậy, người già vẫn thường xuyên bị bỏ rơi hoặc quên lãng. Ở bên hàng xóm, nước Hàn Quốc giàu có, quốc gia với nền văn hóa Khổng Tử kéo dài liền mạch lâu nhất trên thế giới; người lớn tuổi còn nghèo hơn, còn nhiều người già vẫn phải lao động hơn, và có mức độ tự tử ở người già thì cao gấp bốn lần mức độ tự tử vốn đã rất cao của giới trẻ Hàn Quốc. Tỷ lệ tự tử của người già ở Trung Quốc chỉ kém sau Hàn Quốc, và đã tăng gấp ba lần trong vòng mười năm qua. Nhưng ở cả Trung Quốc và Hàn Quốc, chống lại lệnh cha mẹ, trên lý thuyết, vẫn là tội nghiệt nặng nhất trên đời.

Chơi mạt chược, Thượng Hải. Ảnh bởi Bruno Barbey/Magnum.
Chơi mạt chược, Thượng Hải. Ảnh bởi Bruno Barbey/Magnum.

Quyền lực của cha mẹ với con cái nhiều khi còn được củng cố bằng cả đòn roi. Một trong những lời mắng chửi điển hình nhất trẻ nhỏ hay phải nhận khi làm sai là “Tao đánh mày chết bây giờ!” Ý tưởng về các “Bà mẹ Hổ” có thể gây náo loạn ở phương Tây, khi nó lần đầu tiên được khơi lên qua cuốn sách đình đám của Amy Chua năm 2011 “Khúc chiến ca của Mẹ Hổ” (‘Battle Hymn of the Tiger Mother’). Nhưng đáp lại, phần lớn giới truyền thông Trung Quốc đã từng chào đón cả “Ông bố Sói” (xem thêm tại đây – ND) Tiêu Bạch Du (Xiao Baiyou), một doanh nhân Quảng Châu, người đã viết cuốn sách ban đầu có tựa đề “Đánh cho chúng tới Đại học Bắc Kinh” [‘Beat Them into Peking University’ (2011)]. Trong cuốn sách, ông hả hê khoe khoang về môi trường giáo dục độc đoán ông đã áp đặt lên bốn đứa con mình, bao gồm cả việc đánh chúng thậm tệ mỗi khi chúng phạm lỗi, và không cho chúng một chút tự do nào để chơi hoặc có bạn bè. Trong một nhà hàng Pháp tại Bắc Kinh, Trương – cô học viên cao học – chìa cho tôi xem phần bắp chân đầy những vết roi đánh đã lên sẹo trắng, vẫn còn nhìn rõ được mờ mờ qua lớp tất chân của cô.

Áp lực của gia đình còn bị làm cho trầm trọng hơn nữa bởi vấn đề dân số. Trong quá khứ, gánh nặng về kỳ vọng của cha mẹ được chia đều cho nhiều anh chị em. Ngày nay, chính sách một con của Trung Quốc đã đẩy thế hệ hậu-1980 xuống tầng dưới cùng của một kim tự tháp bất thần lộn ngược. Điều này gây ảnh hưởng tới tầng lớp trung lưu, những người hơi khá giả một chút, đặc biệt tệ nhất. Ở nông thôn, kế hoạch hóa gia đình đủ thoáng để hầu hết mọi thanh niên tuổi 20 đều có ít nhất một hoặc hai anh chị em; trong khi những người giàu hẳn thì có thừa khả năng chi trả những khoản phạt để có đến hai hoặc ba con, mặc dù khoảng cách giữa những đứa con này có thể sẽ hơi xa một chút. Nhưng với tầng lớp cổ cồn trắng thành thị, mỗi cặp vợ chồng phải gánh trên vai hai cặp cha mẹ già, có khi còn thêm cả ông bà nội ngoại nữa, nếu họ còn sống. Và với mức an sinh xã hội có cố cũng chỉ được tàm tạm, các bậc cha mẹ đều trông vào con cái của mình để bảo đảm cho tuổi già sau này.

Không ngạc nhiên là cách thể hiện rõ nhất điều này là đầu tư mua nhà đất. Chỉ một số nhỏ có thể xoay sở để mua được bất động sản, nhưng họ mua nó từ khi còn rất trẻ – chỉ từ khoảng 27 tuổi. Những lao động nhập cư từ nông thôn xây nên những căn hộ mới cho Trung Quốc sẽ không bao giờ có thể được ở trong những ngôi nhà do chính tay họ xây; nhưng hầu như mọi nhân viên cổ cồn trắng tầm hai mươi, ba mươi mà tôi biết đều có một căn hộ cho riêng mình ở Bắc Kinh. Những căn hộ này thường có giá khoảng 1 đến 3 triệu nhân dân tệ (3 cho tới 10 tỷ VNĐ), và họ đã dành dụm để mua chúng bằng mức lương chỉ từ 5,000 tới 10,000 tệ một tháng của mình. (17 tới 35 triệu/tháng).

“Tôi thà khóc trong xe BMW còn hơn ngồi cười sau xe đạp.”

Tiền kiếm được của cha mẹ, thường được đổ cả vào những tài khoản tiết kiệm, cộng với vay mượn của bạn bè, họ hàng thân thích khác, và đôi khi là cả vay lãi tín dụng đen; tất cả đều được đổ vào tài sản nhà đất của đứa con trên thủ đô. Quá trình này còn được thúc đẩy thêm nữa sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, khi thị trường chứng khoán rớt giá thảm hại, trong khi bất động sản thì vẫn tiếp tục nóng. Nỗi ám ảnh phải sở hữu một ngôi nhà ở thủ đô này giờ đã chiếm gọn tâm trí của cả hai thế hệ: giờ đây trong tầng lớp trung lưu thành thị, gần như sẽ không thể kết hôn nếu không có một trong hai bên gia đình đảm bảo cung cấp cho đôi vợ chồng trẻ một căn nhà.

“Nhìn chúng mà xem”, một người bạn của tôi kêu lên khi chúng tôi ghé thăm một hiệu sách, nhìn vào những ngăn kệ chất đầy các sách cung cấp lời khuyên cho thế hệ trẻ. “Tất cả chúng đều nói cùng một ý giống nhau: kết hôn và mua lấy một ngôi nhà vào năm 27 tuổi, ổn định cuộc sống, rồi có con. Đều là những cái bẫy giăng sẵn ra bởi các bậc cha mẹ để khiến chúng tôi phải làm theo những gì mà họ muốn”. Trần Chân Chân (Chen Chenchen), một đồng nghiệp phóng viên từng trải của tôi, thì lại không nhìn vấn đề theo “học thuyết âm mưu” này:

“Chúng tôi đang dần trở nên gần gũi với cha mẹ mình hơn, bởi vì cả hai bên đều bị gắn vào khối tài sản nhà đất kia; và kết quả là chúng tôi cũng dần dần cũng trở nên e ngại sự thay đổi hơn. Lúc đầu, chúng tôi đã nghĩ mình còn có thể xoay sở để có các giá trị của riêng mình. Nhưng rồi chúng tôi nhận ra rằng cha mẹ của chúng tôi đã đúng, và bát cơm sắt chính là nguyên tắc vàng. Tôi đã từng chống lại ý muốn của cha mẹ khi họ gây áp lực bắt tôi phải mua một căn hộ ở Bắc Kinh vào năm 2008 (khi đó tôi mới 24 tuổi), nhưng rồi đã chịu xuôi theo ý họ vào năm 2010; và tôi mừng là mình đã mua được nó kịp lúc. Giờ thì thế hệ bọn tôi đã biết được rằng tiền là thứ quan trọng nhất trên đời.”

Lưu Tuấn Thần (Liu Juncheng), giờ đã 60 và là một tài xế taxi về hưu, cũng đồng tình với ý kiến cho rằng hai thế hệ đang dần tìm thấy chung một góc nhìn: “Có vẻ là thế hệ bọn trẻ, cũng như bọn tôi trước đây, đã từng có rất nhiều kỳ vọng vào xã hội, nhưng rồi quan điểm của chúng thay đổi rất nhanh cũng vì xã hội. Chúng đã lạc đường.”

Nhưng kỳ vọng của cha mẹ cũng có thể đẩy mối quan hệ ra xa hơn. “Tôi có một người bạn cũng bằng tuổi tôi”, La, cô trí thức trẻ, kể: “cha mẹ cô ấy vừa thanh toán xong món trả góp cuối cùng cho căn hộ của cô ấy. Nhưng mẹ của cô ấy đã sống cùng ở đó từ tháng 11 tới giờ, và bà ấy có ý định tiếp tục sống ở đó mãi. Mà nó chỉ là căn hộ một-phòng-ngủ thôi đấy!” Mua nhà cho con cái không chỉ đơn giản là một khoản đầu tư với các bậc cha mẹ, nó còn là một sự đảm bảo, ít nhất là trong tâm trí họ, rằng mình có thể sống nốt những năm tháng tuổi già trong căn hộ của đứa con. Đây một thời đã từng được coi là một tiêu chuẩn xã hội thông thường, khi những đại gia đình lớn còn tồn tại. Nhưng với tỷ lệ người già phải sống một mình đang ngày càng tăng lên, người già bắt đầu thấy cần phải có một mối liên kết tài chính với tài sản nhà đất của đứa con, để có thể có thêm đảm bảo cho mình.

Sở hữu một căn nhà cũng là một phần không thể thiếu được trong trò chơi hẹn hò, đặc biệt là với những người bắt đầu đạt ngưỡng 25, 26 tuổi. Trong tầng lớp trung lưu, cha mẹ của chú rể mặc nhiên luôn được kỳ vọng sẽ cung cấp cho đôi trẻ một căn hộ mới để ở, nếu chưa có căn hộ nào sẵn. Cũng như bao người đi thuê nhà khác, tôi cũng đã hơn một lần bị hủy hợp đồng thuê nhà khi con trai của ông chủ nhà bắt đầu chuẩn bị kết hôn. “Chúng tôi gọi con trai là ‘Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc’, bởi vì anh phải xây nhà cho bọn nó; còn con gái là “Ngân hàng Thương nghiệp Trung Quốc’, bởi vì anh có thể bán chúng’ ”, một người bạn tên Minh (Min) của tôi bình luận.

Giới truyền thông cũng thường chỉ trích thói vật chất trong tình yêu của giới trẻ bây giờ, tiêu biểu là vào năm 2010 khi Mã Nặc (Ma Nuo), một thí sinh trong một chương trình hẹn hò trên truyền hình; khi được hỏi bởi một thí sinh nam chưa có công ăn việc làm là liệu cô có muốn cùng ngồi xe đạp với anh trong một cuộc hẹn hò không, cô đã trả lời: “Tôi thà khóc trong xe BMW còn hơn ngồi cười sau xe đạp”. Quả đúng là hình ảnh những kẻ “đào mỏ” (‘gold-diggers’) rạng rỡ với vàng bạc và đồ hiệu cao cấp trên những trang mạng hẹn hò hoặc blog thực sự trông rất khó ưa. Nhưng nhìn lại thì mới thấy: tiêu chuẩn mà các bậc cha mẹ đưa ra cho các bà mối, hoặc in lên những tấm áp phích để thỉnh thoảng tự họ mang theo ra công viên những ngày cuối tuần để tìm kiếm bạn đời phù hợp cho con cái mình; tất cả cũng đều tập trung chủ yếu vào nhà cửa, xe cộ, và lương lậu mà thôi.

Câu chuyện tình yêu của một người bạn khác của tôi, tên tiếng Anh là Sally, thể hiện rõ hơn thực tế về địa vị và tiền bạc trong yêu đương này. Cũng như rất nhiều câu chuyện khác ở Trung Quốc, chuyện của cô nghe hệt như những câu chuyện ngụ ngôn Mác-xít của những năm 1930, chỉ khác là không có một kết thúc có hậu kiểu người phụ nữ giờ đã được tự do quyết tâm đi theo Đảng Cộng Sản. Khi còn ở Đại học, Sally cặp với một anh chàng gốc nông thôn, là hội trưởng hội học sinh và, kỳ lạ thay, là một thanh niên rất trung thành với lý tưởng của Đảng Cộng Sản. “Anh ấy thật thà lắm”, cô kể với tôi, giọng tiếc nuối. “Anh ấy thậm chí còn không bao giờ bỏ túi dù chỉ một cái bút chì nào trong phòng hội đồng học sinh để dùng cho riêng mình.”

Nhưng anh này không thể đáp ứng được những tiêu chuẩn mà Sally và bố mẹ cô mong mỏi. Cô muốn có một người bạn trai có thể mua cho cô điện thoại xịn và túi xách hàng hiệu, trong khi cha mẹ cô thì muốn một người đến từ một gia đình giàu có, hoặc có quan hệ rộng, người có thể thong dong bước trên một con đường sự nghiệp chắc chắn ngay sau khi rời đại học. Không lâu sau cô đá anh chàng và, với sự giúp đỡ từ một cái mũi mới do mẹ cô chi trả, “bẫy” được một cậu công tử nhà giàu khác cùng trường.

Thế nhưng, sau chừng hai năm quan hệ, cô phát hiện ra rằng giờ tình thế như ngày trước giờ đảo ngược lại với chính cô. Sau khi chàng trai đem cô về nhà giới thiệu với cha mẹ mình, tin xấu bắt đầu tới. “Anh không thể cưới em được”, anh ta nói cụt ngủn với cô như vậy. “Bố mẹ muốn anh cưới một cô gái cùng đẳng cấp với anh.” Nhưng, anh ta trấn an cô rằng cô vẫn có thể làm nhân tình của anh, và ông bố đại tỷ phú của anh đã đồng ý sẽ để riêng ra một khoản cho anh để anh có thể nuôi cô.

Từ góc độ kinh tế đơn thuần, đây là một thỏa thuận quá được. Ấy vậy nhưng bên cạnh sự thoải mái và đảm bảo về vật chất, Sally cũng muốn có ít nhất là một chút ảo tưởng về tình yêu, không phải chỉ là một thỏa thuận chỉ có thuần túy tiền bạc trần trụi như vậy. Vậy nên cô quyết định chấm dứt mối quan hệ, và lại bắt đầu tìm kiếm một lần nữa. “Nhưng nói thật”, cô nói, giọng chán chường, “Mẹ tôi cũng đã bảo tôi: ‘Mày đừng có mơ đến chuyện kiếm được một thằng nào giống thế nữa, bởi vì mày có còn là trinh nữ nữa đâu’. Tôi đã bán mình mà vẫn không có được một thỏa thuận tốt nhất có thể.”

Phụ nữ đang ở vào một vị thế không rõ ràng trong thị trường hôn nhân. Sự mất cân bằng về giới, gây ra bởi chính sách một con và chọn lọc giới tính trước sinh, gây nên tỷ lệ 120 bé trai trên 100 bé gái ở một số vùng, thì giúp “nâng giá” họ rất nhiều. Nhưng họ đồng thời cũng phải đối mặt với rào cản bị gộp vào nhóm “gái ế” (‘leftover women’) từ độ tuổi 27, một lằn ranh giới vô hình, bất công, nhưng lại đang ngày càng được củng cố mạnh hơn bởi thành kiến của các thế hệ đi trước.

Thậm chí ngay cả Hiệp hội Phụ nữ toàn Trung Quốc, một tổ chức về lý là để ủng hộ nữ quyền, lãnh đạo chủ yếu bởi các nữ quan chức trên 50 tuổi, cũng cho xuất bản những bài viết trên các trang mạng, cảnh báo những mối nguy xã hội với những người phụ nữ chưa chồng, và số phận kinh hoàng đang chờ sẵn những cô gái độc thân trên 28 tuổi. “Mẹ tôi cứ liên tục gọi điện cho tôi để nhắc rằng tôi chỉ còn một hai năm nữa để kiếm được cho mình một ai đó thôi”, một người bạn 25 tuổi của tôi rầu rĩ bình luận. “Tất nhiên, bà ấy muốn tôi chọn lấy một trong số những tên thộn chán ngấy mà bà ấy vẫn luôn cố giới thiệu cho tôi”.

Ngay sau khi đám cưới được mong mỏi cuối cùng cũng diễn ra, áp lực của cha mẹ sẽ lập tức chuyển sang việc muốn có một đứa cháu. Một biểu đồ thú vị vừa được lưu truyền khắp nơi trên mạng trong dịp Tết Âm Lịch vừa rồi, cho mọi người thấy rõ hơn hàng loạt những yêu cầu, phê phán và đòi hỏi khắt khe mà người thân và họ hàng nhắm vào những người trẻ trở về nhà trong dịp cuối năm. Nếu anh đang độc thân, sao không yêu đi? Nếu đã yêu rồi, sao không cưới đi? Nếu đã cưới rồi, sao chưa có con đi? Nếu có con rồi, sao tụi nhỏ còn chưa làm cho bọn ta nở mày nở mặt đi? Không chỉ có thế, khi đứa trẻ ra đời, cả gia đình thông gia cũng xuất hiện, tạo thêm nhiều bất đồng hơn nữa; khi mà cả con cái, cha mẹ, hai bên ông bà đều chen chúc trong một căn hộ một-phòng-ngủ.

Kỳ vọng của người Trung Quốc về hôn nhân thường được coi là “truyền thống” bởi giới truyền thông, nhưng thực tế chúng là một hỗn hợp kỳ lạ của cả những yêu cầu về đảm bảo an toàn thời hậu-Mao Trạch Đông và những cạm bẫy của ngành công nghiệp hôn nhân phương Tây – với nhẫn kim cương, váy cưới trắng và đủ thứ giống vậy. Để đáp lại áp lực của cả cha mẹ và xã hội trong việc phải đặt hôn nhân lên hàng đầu, một bộ phận trong giới trẻ Trung Quốc đã sáng tạo ra một thuật ngữ mới, “hôn nhân trần trụi”, tức lấy nhau chỉ thuần khiết vì tình yêu, không cần có nhà, nhẫn, lễ kết hôn hay xe cộ gì hết. Ý tưởng này hứa hẹn một sự lãng mạn, nhưng những ý kiến dành cho nó thì vẫn còn lẫn lộn, kể cả trong chính giới trẻ. Một bình chọn trên trang Sohu.com vào năm 2010 cho thấy đại đa số phụ nữ trẻ phản đối ý kiến này, cho rằng nó chỉ là một cách để nam giới trốn tránh trách nhiệm của mình. Hiển nhiên, phần lớn nam thanh niên trẻ thì ủng hộ ý tưởng này nhiệt tình.

“Bà tôi lớn lên trong những năm 30, 40; khi Trung Quốc gần với thế giới hơn bây giờ nhiều, vậy nên bà hiểu cách tôi nhìn cuộc sống.”

Phải cần có lòng dũng cảm rất lớn mới có thể thoát được hoàn toàn khỏi những truyền thống này. La, cô nữ trí thức trẻ, hoàn toàn không thấy có một nhu cầu phải tham gia vào trò chơi hẹn hò; và thay vào đó sống chung với một người đàn ông ngoài 30 tuổi, người ngoại quốc và khá nghèo. “Mẹ tôi đã thôi cằn nhằn về việc này với tôi rồi, nhưng tôi biết bà ấy vẫn sẽ vui hơn rất nhiều nếu tôi chọn lấy một tên đàn ông Trung Quốc đúng kiểu truyền thống, với một căn nhà và một sự nghiệp ổn định an toàn. Bố tôi thì nói như thế cũng OK, bởi vì bạn trai tôi là người Anh, chứ không phải dân Yankee (Mỹ), hay Nhật. Nhưng tôi đã phải chứng kiến toàn bộ cuộc hôn nhân kinh khủng của họ, vậy nên tôi hoàn toàn bi quan về đàn ông. Tôi đã từ bỏ mọi tham vọng có gia đình. Tôi không có đủ khả năng để có thể cho một đứa trẻ hạnh phúc. Ngay đến hạnh phúc cho chính tôi tôi còn chẳng kiếm nổi. Và tôi cũng không muốn phải nghĩ xem mình phải để lại bao nhiêu ngôi nhà cho những thế hệ con cháu sau này.”

Tuy thế, trong khi mối quan hệ giữa thế hệ hậu-1980 với cha mẹ họ toàn những cay đắng – bất kể là về sự nghiệp, nhà cửa, hay hôn nhân – thì khoảng cách giữa họ với ông bà của mình thì, lạ thay, lại nhỏ hơn nhiều. “Bà tôi coi tham vọng làm nhà báo của tôi là chuyện hoàn toàn nghiêm túc.” Linh Mỹ Lệ nói. “Và bà là người đầu tiên dạy tôi Tiếng Anh, từ những năm tôi còn rất nhỏ. Tôi có nhiều điểm chung với bà hơn với mẹ tôi nhiều.”

Linh tiếp tục: “Bà tôi lớn lên trong những năm 30, 40; khi Trung Quốc gần với thế giới hơn bây giờ nhiều, vậy nên bà hiểu cách tôi nhìn cuộc sống.” Đây là một cảm giác xuất hiện ở rất nhiều người trẻ, và nó không phải chỉ là thứ tình cảm gắn bó giữa ông bà và cháu đơn thuần. Điều giúp gắn kết hai thế hệ này lại không chỉ là bởi Trung Quốc đã từng rộng mở hơn trước khi nó đóng cửa với thế giới; mà còn bởi thế hệ những người già luôn sẵn lòng chia sẻ câu chuyện quá khứ của mình với cháu họ.

Trương kể cho tôi ông của cô đã hóa điên vì bị ngược đãi thế nào, để lại cho bà cô một mình nuôi bốn đứa con. Còn La, cô trí thức trẻ, thì kể: “Bà tôi khi đó là chủ một nhà máy, bởi vậy nên bà đã phải chịu rất nhiều hành hạ và khổ sở khi cuộc Cách Mạng Văn Hóa diễn ra. Cũng buồn cười, bởi chính ông tôi cũng là con ruột của một địa chủ. Hàng ngày ông đều được nô bộc kiệu đến trường. Ông tôi trở thành một sĩ quan cấp trung trong quân đội, nhưng khi thấy đám đông công kích bà tôi, ông ta chỉ lẩn vào trong giữa họ. Sau đó họ lôi bà tôi đi và nhốt bà lại trong một “chuồng bò” (một nhà tù tạm) trong suốt vài năm sau đó.”

“Vậy là mẹ cô đã phải nhìn thấy cảnh mẹ ruột của mình bị lôi đi, bị phản bội bởi chính cha mình, khi mới chỉ năm, sáu tuổi?” tôi hỏi.
“Tôi nghĩ là vậy. Ông tôi sau đó đã biến mất tăm hàng chục năm. Họ có ba đứa con, và người chị lớn nhất đã phải chăm lo cho tất cả. Khi đó bác ấy mới chỉ 14 tuổi.”

Thông tin này không hề được kể lại bởi mẹ của La, người, cũng như phần lớn mọi người khác thuộc thế hệ của bà, chọn cách giữ im lặng về mọi gian khổ mình đã phải chịu thủa nhỏ. Trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa, mang trong mình dòng máu của trí thức hoặc địa chủ là đồng nghĩa với bị ngược đãi tại trường học, bị đánh đập, cắt bớt khẩu phần ăn, và thậm chí bị chặn đứng khỏi mọi cơ hội trong cuộc sống. Việc giao nộp chính bố mẹ mình chưa bao giờ được ưa chuộng như đã từng xảy ra ở Xô Viết, với những trường hợp như cậu bé Pavlik Morozov, bị nghi ngờ là đã chết dưới tay gia đình mình, vì cậu đã tố cáo chính cha ruột cậu. Nhưng vẫn có những việc như vậy xảy ra. Một người Trung Quốc mà tôi quen, giờ đã vào độ tuổi 50, từng kể rằng ông đã phải giết chết chính em mình, để ngăn không cho hắn tố cáo với nhà chức trách rằng cha mẹ họ có giữ sách cấm. Kể cả nếu những người khác có chỉ trích chúng, trẻ em vẫn bị bắt phải ký những bản kết tội (‘condemnations’) – “Mặc dù bà ta đã sinh ra tôi và là mẹ tôi, bà ta vẫn là một kẻ phản cách mạng và là kẻ thù của tôi.” Hàng chục triệu người đã phải chứng kiến cha mẹ mình bị quấy rối, bị lăng nhục, bị đánh đập, bị cầm tù, hoặc thậm chí bị giết chết.

Lý, chàng trai với tham vọng làm một viên chức chính phủ, có một mối quan hệ gần gũi và lành mạnh với cha mẹ mình hơn bất kể ai trong số những người tôi được nói chuyện; một phần là vì anh đã cố gắng nỗ lực để có thể hiểu họ. “Họ đã phải chịu rất nhiều khổ sở khi họ bằng tuổi tôi. Họ đã làm việc rất chăm chỉ để trở thành những người mà (sau này) tôi có thể kính trọng. Mẹ tôi xuất thân từ một gia đình hết sức bình thường, chỉ là công nhân, vậy nhưng bà đã chiến đấu rất ngoan cường để vào được đại học. Và bà nội tôi thì đã nghĩ mẹ tôi không đủ tốt để xứng với cha tôi. Bà nội thực sự luôn nghĩ về mọi thứ từ góc độ đẳng cấp, mặc dù chính bà cũng đã đổi tên và chạy trốn lên phía Bắc để khỏi bị ngược đãi trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Bà là con của một gia đình trí thức, và cả gia đình bà đều ở Thượng Hải cả. Khi bà tôi quay lại để tìm họ, thì không còn dấu vết nào còn sót lại hết: bố, mẹ, anh, chị, em, cháu; tất cả đều đã biến mất cả.”

Câu chuyện về sự ngược đãi của cha mẹ kinh khủng nhất mà tôi từng được nghe đến từ một cô gái trẻ mong được giấu tên. Tôi sẽ gọi cô là Lily. Thông minh, thành đạt, và xinh đẹp, theo một cách rất mỏng manh; mối quan hệ giữa cô và mẹ mình luôn là những sự khinh thị và sỉ nhục từ mẹ cô – cô đã bị gọi là xấu xí, lười biếng, ngu dốt – dẫn đến kết cục là một sự việc vào năm cô 24 tuổi. Lily nhận được một lá thư dài từ mẹ mình, nói rằng cô thực ra chỉ là con nuôi, rằng vô vàn các khiếm khuyết của cô đã cho thấy rằng cô không phải là giọt máu của mẹ cô, và rằng đó chính là lý do khiến mẹ cô chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ, có thể yêu cô được. Khóc lóc, Lily gọi cho cha mình và đòi được biết tại sao ông chưa từng nói cho cô sự thật này. “Con nói cái gì vậy?” ông hỏi lại, ngơ ngác. “Cha còn có mặt ở đó khi con sinh ra mà.”

Dần dần, cuối cùng, mẹ của Lily cũng úp mở thừa nhận rằng lá thư đó chỉ là một lời nói dối, một sản phẩm nữa của sự căm ghét và cay đắng mà thôi. Nhưng một chút nghi ngờ vẫn ở lại. Bằng chứng rõ ràng nhất cho mối quan hệ huyết thống, Lily nghĩ, là mái tóc quăn của cô. Nó là từ mẹ cô, người đã sinh ra vào đầu những năm 1960, sau khi một góa phụ trẻ cơ hội có một thời gian mặn nồng ngắn ngủi với một Đáng viên Đảng Cộng Sản Ý ghé thăm Trung Quốc.

“Vậy là mẹ cô đã lớn lên với tư cách một đứa con lai, lại là con ngoài giá thú, giữa một thời điểm mà cả dân tộc điên cuồng truy lùng và tận diệt mọi thứ ngoại lai”, tôi nói. “Tôi không thể tưởng tượng được cuộc sống của bà ấy đã phải kinh khủng đến thế nào.”
“Chắc vậy”, Lily nói. “Chúng tôi chưa bao giờ nói với nhau về chuyện đó.”

Xuất bản ngày 7 tháng Ba, năm 2013
Chủ đề bài đăng: Trung Quốc, Cộng Đồng, Gia Đình, Xã Hội

 

Tác giả: James Palmer
Nguồn: China’s generation gap
Dịch: Nguyễn Tiến Đạt

spot_img
Triết Học Đường Phố
Triết Học Đường Phố
"Thà chết cho một ý tưởng bất diệt, còn hơn sống cho một ý tưởng phù du." — Steven Biko

BÀI LIÊN QUAN

8 BÌNH LUẬN

  1. Bài rất dài nên không khó hiểu khi có bạn không đọc hết, nhưng mình nghĩ bạn nên đọc lại từ đầu 🙂 đừng vội quy kết xã hội VN cũng giống họ, bên nước mình vẫn đang rất hạnh phụúc so vs thế hệ trẻ bên đó, mình nghĩ vậy.
    Còn việc bao giờ chúng ta trở nên như thế này thì lại phụ thuộc vào chúng ta bây giờ.

    • ah,t nói ko mấy khi, nhưng lần này thì có. bạn cũng nên đọc kỹ lại giùm, vì t nói là “nhiều thứ gần với chúng ta” tức là không phải hoàn toàn giống nhưng thấy hình ảnh xã hội ta có những điều tương tự. Cũng những vấn đè về tình yêu, hôn nhân, về khoảng cách thế hệ, cũng thực dụng, cũng tham nhũng vv…và t thì ko đc lạc quan như bạn. t lo lắng rất nhiều. Và các bạn trẻ thì vẫn nhìn thấy cuộc đời toàn màu hồng cho đến khi bị ném uỵch ra đời và bị sốc.

      • chính xác,nếu một ai đó nói với tôi rằng cuộc sống ở Việt Nam hiện tại vẫn còn đang hạnh phúc thì xin lỗi cho tôi chụp mũ họ rằng,họ đang là một quan chức nhà nước.Và họ coi việc tham nhũng,hối lộ trong xh như là một điều đương nhiên.Bên cạnh đó,họ đã có một cuộc sống phẳng lặng trong gia đình đến nỗi không thể nhận ra được khoảng cách thế hệ.

  2. Không mấy khi đủ kiên nhẫn để đọc một bài viết dài về chủ đề này. tối nghĩ đây là một thực trạng không chỉ ở TQ. có nhiều thứ rất gần với chúng ta, đang hiện diện. Cuộc sống này ngày càng khó khăn, thế hệ trẻ thì được bảo bọc quá kỹ, thật sự rất hoang mang…:s

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

FOLLOW US

62,550Thành viênThích
3,699Người theo dõiTheo dõi
3,900Người theo dõiĐăng Ký
spot_img

BÌNH LUẬN MỚI

XEM NHIỀU

BÀI MỚI