30 C
Nha Trang
Thứ năm, 31 Tháng mười, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 222

Cơm áo gạo tiền và sự lựa chọn nghề nghiệp

Photo: Pete

 

Nhân câu chuyện về buổi giao lưu chia sẻ với các a em ngày thứ 6 vừa rồi, ngẫu hứng viết một bài viết cũng với chủ đề: Cơm áo gạo tiền và sự lựa chọn nghề nghiệp. Khác với những buổi gặp gỡ khác, và không đơn thuần chỉ là lắng nghe và chiêm nghiệm, với buổi chia sẻ này ai cũng được nói và trải lòng mình. Nghe những câu chuyện của mọi người, của Khac Tu Nguyen hay của a Pham Phan, anh Phạm Văn Cương, hay của Tonny Thành. Đó là câu chuyện về một người chưa tìm được đam mê của mình và vẫn đang duy trì một công việc khác mà mình không thích để trang trải cuộc sống.

Hay đó là câu chuyện về một người truyền cảm hứng, người muốn đứng trước sân khấu, muốn mang lại niềm vui cho mọi người nay vì một số lý do mà phải bỏ dở giữa chừng. Tiếp đó là câu chuyện của một anh chàng CEO tương lai với hành trình không ngừng nghỉ, cho dù là bỏ học giữa chừng hay dọn nhà ra ở riêng, tất cả cũng vì một niềm đam mê. Cuối cùng là câu chuyện về một lập trình viên, với niềm đam mê tin học từ những ngày học cấp 3 nay đã có một tiền đồ hết sức sáng lạng với thu nhập không dưới 7 con số 0.

Những câu chuyện thú vị, những con số biết nói?

Với mỗi câu chuyện chúng tôi luôn đặt ra câu hỏi cho anh (bạn) ấy: Liệu đó có phải là công việc phù hợp với bạn không, bạn có định làm công việc này lâu dài không. Số đông lựa chọn giữa việc chấp nhận một công việc ít, thậm chí không có thu nhập và một công việc không ưa thích nhưng trang trải được cuộc sống. Chỉ có một số ít thực sự hài lòng với công việc hiện tại, cả về đam mê lẫn thu nhập.

Cuối cùng chúng tôi hỏi mọi người: Nếu tiền không phải là vấn đề, nếu như một ngày tiền không còn giá trị thì bạn muốn một công việc như thế nào? (nhưng rất tiếc do một số lý do mà câu hỏi này còn bỏ ngỏ, nhưng tôi tin khi nhận được trả lời, chúng ta sẽ đều bị sốc)

Kiếm tiền hay cống hiến

Trong khi viết những dòng này thì cùng lúc tôi đang làm cho mình một bản kế hoạch cuộc đời, một bản kế hoạch cho tất cả những gì tôi muốn đạt được trong 1 năm, 5 năm và thậm chí 20 năm nữa. Đương nhiên là có cả mục tiêu “kiếm tiền”. Nhưng tôi thay đổi tựa đề thành “cống hiến”. Hầu hết những lứa sinh viên mới ra trường như tôi đều có một niềm trăn trở đó là mình sẽ làm gì để trang trải cuộc sống đây khi không còn sự chu cấp của gia đình nữa hoặc vì lý do nào khác. Bất kể nơi nào kiếm được tiền thì mình sẽ đến đó… và có rất nhiều lý do để chúng ta lăn xả vào kiếm tiền mà quên rằng bản chất thực sự của việc kiếm tiền đó là kết quả của sự cống hiến. Bạn cho đi và bạn sẽ nhận lại, đó là điều tất yếu. Với tôi sự cống hiến không chỉ giúp mình trang trải cuộc sống mà quan trọng hơn nữa nó còn giúp tôi trưởng thành, giúp tôi học được nhiều điều hơn. Vậy còn bạn thì sao, bạn đang kiếm tiền hay cống hiến?

Hạnh phúc hay cái đích khác?

Tính đến nay tôi đã đi hết được 1/3 cuộc đời, chặng đường đi được chưa được bao nhiêu, nhưng rất may mắn khi gặp được 3 người thầy đáng quý trọng. Người đầu tiên là bố mẹ tôi với bài học vỡ lòng: “Hạnh phúc là cái chúng ta luôn hướng đến, con trai à.” Người thầy thứ 2 đó là sư phụ mà 3 anh em chúng tôi bái sư, và cũng là một người tôi hết sức ngưỡng mộ, anh đã giúp tôi hiểu rằng hạnh phúc không đến từ bên ngoài mà đến từ chính bên trong chúng ta. Người thầy cuối cùng đó là những cuốn sách. Tôi lớn lên với sách, ăn ngủ với sách, giác ngộ cũng nhờ sách.

Và sau những điều đấy tôi học được rằng hạnh phúc mới là cái chúng ta hướng tới trong cuộc đời này chứ không phải sự dư dả vật chất hay bất kỳ thứ gì khác.

Có một câu nói nổi tiếng mà tôi rất thích nghe đó là: “Không có tiền cạp đất mà ăn à.” Nghe đi nghe lại mới thấy càng chuẩn. Tiền là công cụ trung gian để đáp ứng những nhu cầu của con người, trong đó có nhu cầu tối thiểu nhất đó là sinh tồn, ăn mặc, ở. Tiền cũng là công cụ để giúp mang lại hạnh phúc theo một cách nào đó. Tiền rất quan trọng nhưng đáng tiếc không phải là tất cả. Chúng ta đang bị cuốn vào những cuộc chạy đua, chúng ta đang vô tình trở thành những người “làm tiền”. Tôi mới chỉ nghe những bài báo tan nát gia đình, hay thảm án đêm khuya vì tiền chứ chưa từng nghe nói rằng có bất kỳ vụ án hay sự vụ nghiêm trọng nào do hung thủ là “hạnh phúc” cả.

Chỉ cần đam mê liệu bạn có trang trải được cuộc sống

Có nhưng chưa đủ. Thế kỷ 21 đã chứng minh cho chúng ta thấy tất cả những tỷ phú triệu phú trên thế giới đều có chung một xuất phát điểm đó là đam mê. Nhưng chỉ đam mê thôi thì chưa đủ, ngoài ra còn kiên trì, sáng tạo, thói quen tốt,.. và chỉ khi những yếu tố đó cùng kết hợp mới tạo nên những cuộc đời thành công những thương hiệu triệu đô…

Nhưng bạn thân mến, chúng ta đang nói về câu chuyện trang trải cuộc sống, chứ không phải về một gia tài triệu đô hay tỷ đô. Bạn có biết nhưng câu chuyện ở trên tại sao tôi lại sắp xếp như vậy không. Từ câu chuyện một người chưa biết rõ đam mê của mình, tiếp đến là chuyện về anh chàng đã khám phá ra đam mê, sau đó là một CEO tương lai đang trên đường học hỏi để từ đam mê trở thành một nghề nghiệp, và cuối cùng là câu chuyện của lập trình viên người đã phát triển đam mê thành một nghề nghiệp và kiếm tiền từ nó.

Những câu chuyện đó đã cho chúng ta thấy rằng để phát triển từ đam mê đến một nghề nghiệp hái ra tiền đó là một quá trình tích lũy không ngừng. Cũng giống như khi bạn chăm sóc một vườn cây, bạn luôn mong muốn một ngày chính tay bạn sẽ hái những quả chín mọng từ vườn cây đó nhưng nếu bạn không gieo hạt, không chăm sóc cho nó thì lấy quả ở đâu ra. Trong cuộc sống cũng vậy, có những người đang gieo hạt, và có những người đã hái quả rồi đấy. Còn bạn thì sao? Hãy nghĩ kỹ đi nào, lựa chọn một công việc là đam mê của bạn hay một công việc bạn không thích nhưng đủ trang trải cuộc sống.

Tôi đã từng thấy một anh chàng ca sĩ sáng chiều đến văn phòng đối mặt với công việc mình không thích để trang trải cuộc sống và cuối tuần hát tại các phòng trà chỉ để nuôi dưỡng niềm đam mê của mình. Và cuối cùng khi cảm thấy không còn thích hợp với công việc văn phòng, anh đã quyết đi theo con đường nghệ thuật. Bạn có thể làm theo chàng ca sĩ này tất nhiên rồi. Nhưng không sớm thì muộn bạn cũng sẽ quay trở lại với chính đam mê của mình! Vậy tại sao lại không theo đuổi nó từ đầu? Viết miên man một hồi thì gà đã gáy rồi, chợt nhìn lại bản thân mình,… cảm thấy những gì mình đang làm thực sự có ý nghĩa, và thấy hạnh phúc… như vậy là đủ rồi.

Đôi dòng chia sẻ, mong nhận được ý kiến từ mọi người.

 

Tuan Dao

Biết mình muốn gì

Photo: Richard Stewart James Gaston

 

Đến khi nào ta mới biết điều mình thực sự mong muốn trong đời? 10, 20, 30, 40, 50, 60, 70 hay bao nhiêu tuổi?

Mỗi tuổi mỗi mong muốn khác, nhưng số những điều ta thực sự mong muốn trong đời của mỗi người có lẽ cũng không quá nhiều. Có nhiều khi ta tưởng như đã nắm chắc được mong muốn đó rồi, nhưng hóa ra không phải, đó chỉ là mong muốn ngắn hạn, nhất thời. Hoặc khi đạt tới nó, ta lại có mong muốn khác lớn hơn, khó hơn nữa.

Những mong muốn thông thường như học đại học, có việc làm, lập gia đình, có con, có xe, có nhà, có công việc tốt, thu nhập ổn định… thì đa phần ai cũng phải có và trải qua, nên nó không còn là điều mong muốn đặc biệt riêng tư nữa. Tất nhiên, với nhiều người, đạt được những mong muốn này cũng đã coi như hoàn thành bổn phận cuộc đời họ. Tôi thì muốn nói đến những mong muốn khác, mong muốn thầm kín, riêng tư, là sứ mệnh của mỗi người và cách người ta phát hiện, theo đuổi, đạt được sứ mệnh của mình.

Thật may mắn khi ngay từ tấm bé ta đã phát hiện ra điều làm ta say mê, khao khát và cứ thế theo đuổi nó theo thời gian, ngày càng thấy rõ hơn khả năng của ta trong đó và sớm tập trung được mọi năng lực để đi đến kết quả. Có những người đi hết nửa đời người mới tìm ra sứ mệnh của mình, người can đảm thì từ bỏ hết để đi theo cái mình vừa phát hiện. Người sợ thay đổi thì không dám thay đổi, cứ giữ nguyên hiện trạng để rồi sau đó nuối tiếc, mà cái hiện tại cũng chẳng làm họ hài lòng.

Nhưng tìm ra được thì muộn vẫn còn tốt hơn là những người chẳng biết mình muốn gì, chẳng biết đặt khả năng của mình vào đúng chỗ, để phát huy, biến khả năng thành kết quả.

Theo tổng kết chung thì thường con người ta khi về già lại nuối tiếc về những điều mình chưa dám làm trong đời nhiều hơn là tiếc về những điều đã làm. Bởi vậy, nếu đã biết chắc chắn mình mong muốn những điều gì nhất trong đời mình, thì không bao giờ là quá muộn để thực hiện.

Ai cũng chỉ có một cuộc đời để sống. Tại sao lại không sống vì những điều làm ta khát khao, cháy bỏng, muốn cống hiến hết mình thay vì sống một cuộc đời êm ái nhưng nhạt nhòa.

Những người dám sống trọn vẹn cho những mơ ước của mình thành hiện thực, dù người đời có công nhận hay không, có biểu lộ thế nào, thì chắc chắn đó cũng vẫn là một người hạnh phúc.

Trẻ con, nếu từ nhỏ đã dám ước mơ, dám làm theo ý mình đến cùng, chẳng lý gì mà bậc làm cha mẹ chúng ta lại cấm cản, thay vì thế việc nên làm là động viên, khích lệ, đầu tư, nuôi dưỡng ước mơ cho chúng. Dù sau này có thành hay không, chắc chắn chúng vẫn biết ơn cha mẹ đã hiểu và ủng hộ chúng.

Nếu bạn biết chắc mình muốn gì, điều gì làm bạn hạnh phúc, chắc chắn bạn sẽ là người tìm thấy hạnh phúc ở quanh bạn, không cần biết lúc đó bạn bao nhiêu tuổi.

Tuy nhiên, tôi vẫn muốn chúc bạn biết được điều đó, càng sớm càng hay!

 

Julia Le

Những cái kết trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng

 

I. Mở đầu

Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912. Ông từ nhỏ đã tỏ ra có năng khiếu nghệ thuật: Giỏi vẽ, biết đánh đàn nguyệt, soạn bài hát cải lương, cũng thích làm thơ. Nhưng do điều kiện gia đình khó khăn mà Vũ Trọng Phụng không thể chỉ chuyên tâm vào làm nghệ thuật. Ông đã phải kiếm sống rất cực nhọc lại nhiễm lao nặng nên qua đời khi mới 28 tuổi vào ngày 13 tháng 10 năm 1939.

Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng ông đã để lại cho nên văn học Việt Nam giai đoạn 30-39 một khối lượng tác phẩm không những đồ sộ mà còn mang giá trị thời đại sâu sắc. Có lẽ chính sự đối nghịch trong cuộc sống – nghèo khổ, bệnh tật, cuộc sống ngắn ngủi và số lượng lớn tác phẩm giá trị, đặc sắc, nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng đã khiến ông không chỉ thấu hiểu xã hội “chó đểu” đương thời mà còn có một phong cách viết văn trào phúng điển hình.

Cùng với Vũ Trọng Phụng còn có Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nam Cao… đã để lại nhiều dấu ấn trên văn đàn Việt Nam thời kỳ đó.Vậy nên thách thức “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” đối với Vũ Trọng Phụng là rất khó khăn. Ông đã viết qua nhiều thể loại như phóng sự, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… Tuy truyện ngắn không phải thể loại thành công nhất của ông nhưng cũng đã đánh dấu những chặng đường phát triển của Vũ Trọng Phụng. Và hơn thế nữa, người đọc bắt gặp ở truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng những manh nha cho tư tưởng tiểu thuyết sau này.

Chính vì vậy mà việc tìm hiểu truyện ngắn Vũ Trọng Phụng cũng là một vấn đề quan trọng không thể bỏ qua khi nghiên cứu đến sự nghiệp sáng tác của ông. Trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng ngoài yếu tố đá kích sâu cay còn có yếu tố châm biếm bất ngờ và thường xảy ra ở đoạn kết. Để tìm hiểu ý nghĩa những cái kết trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng thì ta nên đi tìm hiểu ba vấn đề: nhân vật, nút thắt trong truyện và quan điểm của Vũ Trọng Phụng.

II. Nội dung chính

1. Nhân vật

Hệ thống nhân vật được xây dựng trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng không có cái tài năng của Nguyễn Tuân, không có sự tinh tế của Thạch Lam mà gần với cái giản dị của Nam Cao. Nhưng có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa “đứa con tinh thần” của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao là nhà văn Nam Cao vẫn luôn tin vào một “nhân chi sơ tính bản thiện” của các nhân vật. Điển hình như Chí Phèo đã được “giải độc” sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở. Còn Vũ Trọng Phụng thì lại xây dựng một ranh giới rõ ràng giữa thế giới của những đứa đạo đức giả với thế giới của những con người bất hạnh sống trong xã hội “chó đểu”. Ví dụ như trong “Thủ Đoạn” xuất hiện song song một xã hội thượng lưu dâm ô, bẩn thỉu với lão chủ, cậu ký bên cạnh một tấm lòng đẹp đẽ của cô ký. Những quan chức nhà nước, bác đánh giậm, thằng nghiện, anh em trong cùng một gia đình… nhưng lại có thái độ, suy nghĩ và hành động không phải của quan chức nhà nước, bác đánh giậm, thằng nghiện, anh em trong cùng một gia đình… đã tạo nên những nghịch lý. Có ai ngờ đâu một anh chàng quyết tâm cai nghiện, vứt thư tình của người yêu cũ vào lò sưởi để bạn mình không tống tiền được người yêu lại là một “gương… tống tiền” – vừa tống được tiền mà vừa được thương yêu. Cả một câu truyện mà chỉ đến đoạn văn cuối cùng Vũ Trọng Phụng mới để nhân vật bộc lộ tính cách thật và làm người đọc vừa giật mình ngỡ ngàng vừa chua xót thay cho cô người yêu (Gương… tống tiền – Vũ Trọng Phụng). Sự bất ngờ trong cách xây dựng suy nghĩ và hành động nhân vật chính là một yếu tố làm cho cái kết trở nên hấp dẫn hơn, châm biếm hơn.

2. Những “nút thắt” được tháo bằng “cái kết”

Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nói trong Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn: “Trong văn chương, tôi không bao giờ tin rằng có một cái tài nào đó chỉ nhờ biết đặt câu, dùng từ cho khéo, biết quan sát và mô tả sự vật cho tinh mà có thể tạo nên được những tác phẩm có giá trị thật sự. Văn học là tâm huyết, là thứ tư tưởng – nhiệt tình tự nó hiện hình thành những nhân vật đầy sức sống, tự nó đẻ ra những chữ có góc có cạnh, có hình có khối, có hơi thở phập phồng trên trang giấy. Ở Vũ Trọng Phụng, cái tư tưởng – nhiệt tình ấy là gì? Ấy là niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội ác độc, bất công vô lý và “chó đểu” thời thuộc Pháp và khát vọng muốn đập tan tành nó di để xây dựng một xã hội công bằng hơn, có nghĩa lý hơn.” Trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng thì chưa thể hiện được một cách suất sắc và đầy đủ cái “tư tưởng – nhiệt tình” của ông nhưng nó đã làm tiền đề cho sự thành công của các tác phẩm sau này. Truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng chủ yếu có cốt truyện liên quan đến đề tài tiền và tình. Những nút thắt trong truyện sinh ra cũng từ tiền và tình. Gia đình nhân vật tôi và Ký Bích trong Một đồng bạc là ví dụ cụ thể của lối sống vật chất.

Câu chuyện được xây dựng dựa trên ký ức của nhân vật tôi. Vừa tự nhiên lại vừa sống động, người đọc có lẽ chẳng lạ với cái cảnh “của biếu là của lo, của cho là của nợ” nhưng Vũ Trọng Phụng đã đưa vấn đề này vào truyện hết sức thành công khi hiện thực cuộc sống, xã hội, con người được vạch ra, chỉ rõ không kiêng nể. Khi hai gia đình còn êm đềm, của biếu của cho đã là gánh nặng nhưng họ vẫn vui vẻ và giả tạo. Rồi Vũ Trọng Phụng đã đặt vào một nút thắt sa cơ cho gia đình Ký Bích. Như một tấm kính mờ hơi nước được người ta lấy giẻ lau cho sạch, cho trong. Hành động của kẻ có tiền khác hẳn và làm cho cái kết truyện chìm trong hối hận… vì một đồng bạc.

Chính những nút thắt hợp lý nhưng sắc sảo mà Vũ Trọng Phụng chọn đã giúp ông tố cáo thành công bộ mặt của xã hội nửa phong kiến thời Pháp thuộc. Cuộc sống của bà lão giàu sang, phúc đức bỗng một ngày sa cơ phải ở nhà cháu. Nhưng chỉ vì túng quẫn, thiếu miếng ăn mà mụ vợ đang tâm để bà cô chồng mù loà ngồi ngoài đê trong đêm mưa gió để sáng hôm sau, bác chồng ra bờ đê thì chỉ còn thấy xác của bà cụ đã bị quạ rỉa nát nhừ. Cái kết khiếp đảm đã trả lời cho cái nút thắt “bà lão sẽ sống thế nào trong cảnh nghèo khổ ấy?”. Nhưng nó đã trả lời đầy oán giận và đau đơn (Bà lão loà – Vũ Trọng Phụng). Chỉ có những nhà văn đã trải qua cảnh sống khốn khó thì mới vắt được ra những dòng tâm huyết như thế. Và với những kinh nghiệm mà cuộc đời đã dạy cho, đã tôi luyện nên thì ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã đả đúng, đả đau xã hội đương thời. Những kết thúc không những bất ngờ mà còn đáng kinh khiếp như những cái chết của bà lão loà, của cô kí, của ông bố có bộ răng vàng… đã thay hết thảy các bản cáo trạng đanh thép nhất để lên án hiện thực xã hội.

3. Quan điểm sống và viết của Vũ Trọng Phụng

“Cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người.” (Lý luận văn học tập II – Trần Đình Sử) Vậy nên nếu truyện ngắn chỉ có tố cáo để thương xót là thiếu sót, là không đủ. Truyện ngắn cần có thêm những triết lý được đúc rút từ tác giả gửi gắm thông qua các nhân vật. Ví dụ như câu: “Trên thế gian cũng như trong vũ trụ, vật nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng có một lý.” Của sư cụ Tăng Sương (Sư cụ triết lý – Vũ Trọng Phụng). Hay câu “Tuy rằng chẳng ai lại hoàn toàn thật thà với ai bao giờ, điều ấy thì ai cũng thừa biết, vậy mà người nào cũng cứ ao ước sẽ có kẻ thật thà với mình…” (Cái ghen đàn ông – Vũ Trọng Phụng). Những câu mang ý nghĩa triết lý hay chính là quan điểm của tác giả với vấn đề được bàn tới trong truyện phần lớn đều là những nghịch lý.

Vâng, “vật nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng có một lý” và nghĩa lý của sư cụ chính là miếng thịt chó thơm phức. Rồi đến cái điều đơn giản là “chẳng ai thật thà hết nhưng lại cứ mong người ta thật thà hết với mình” của Giao Đài trong “Cái ghen đàn ông” cũng được tìm ra và phát biểu thành câu thành chữ. Thực ra mục đích cuối cùng của những quan điểm đó là đưa cho độc giả xem cái suy nghĩ, cái nhìn của chính tác giả. Từ đó dẫn dắt con người ta đi đến sự chiêm nghiệm về những vấn đề trong đời sống cũng như giải thích cho cách kết truyện mà tác giả đưa ra. “Than ôi, con người ta khi lâm vào cảnh nghèo, có ai mà lại không hèn” chính nhân vật tôi trong “Một đồng bạc” đã xót thương chị Ký Bích bằng cái ý nghĩ ấy. Nhưng rồi sau này, nhân vật tôi đã ân hận mãi khi lạnh lùng với chị Ký Bích chỉ vì tiền. Câu “có ai nghèo mà không hèn” lúc này ngầm định như là sự xót thương của chính tác giả, người đọc dành cho nhân vật tôi.

III. Kết luận

“Ý nghĩa của tác phẩm văn học là nội dung của nó trong sự tiếp nhận của người đọc thuộc các thế hệ, thời đại.” (Lý luận văn học tập II – Trần Đình Sử) Đối với các tác phẩm truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, ta có thể đánh giá trên hai phương diện: Tính thời đại và tính lịch sử. Truyện ngắn của ông được viết vào thời gian xã hội Việt Nam đang vô cùng đen tối và nội dung tác phẩm cũng phản ánh được những mù mịt, kinh rợn của xã hội nên nó mang tính thời đại rất cao. Bên cạnh đó, khi đã trải qua giai đoạn 30-45 của đất nước và sống trong thời bình, độc giả đọc truyện ngắn Vũ Trọng Phụng không còn để khơi dậy lòng căm thù và ý chí đập tan xã hội “chó đểu” mà là để nhìn lại một chẳng đường đã qua. Một chặng đường đầy nguy nan của dân tộc Việt Nam được thể hiện sinh động và đầy nghệ thuật trong tác phẩm. Qua đó cũng thức tỉnh ý thức con người sống trong xã hội phải sống sao cho có lương tâm, có đạo đức. Đó chính là ý nghĩa lịch sử.

Trong cái ý nghĩa chung của toàn bộ tác phẩm thì cái kết chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó vừa thể hiện được con mắt nhìn sự việc của Vũ Trọng Phụng lại vừa thể hiện được thái độ của ông đối với những vấn đề trong truyện. Từ đó mà người đọc có thể biết thêm đã có một xã hội như thế, những con người như thế tồn tại bên trong dân tộc Việt Nam anh hùng để tự cảnh tỉnh chính bản thân. Qua đó, ta cũng có thêm được những tư liệu chân thực và xác đáng để nghiên cứu và đánh giá đúng về con người Vũ Trọng Phụng.

 

 Phong Linh

Cuộc sống có công bằng?

Featured Image: Wikipedia

Công bằng là một khái niệm cực kỳ gây tranh cãi hiện nay vì chưa ai có thể định nghĩa xác thực như thế nào là công bằng. Kèm theo khái niệm này thì còn có các dạng phổ quát của nó đó là công bằng ngang, công bằng dọc, công bằng theo khách quan hay chủ quan, vân vân. Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu luận bàn về nó nhưng hầu hết chưa đạt được sự thuyết phục tuyệt đối.

Đấy là một khái niệm chưa được định nghĩa xác đáng, thế thì ở bài chia sẻ này tôi sẽ cố gắng tối giản nhất khái niệm này theo một phát biểu của Bill Gates: “Cuộc sống vốn không công bằng hãy tập quen dần với điều đó.” Bạn có suy nghĩ gì khi đọc điều này, ông chỉ đưa ra phát ngôn không lý giải thêm bất kỳ điều gì về câu nói này nhưng tôi tin hầu hết người đọc qua nó điều hiểu được ý nghĩa hàm ý của câu nói này.

Vậy theo bạn cuộc sống có công bằng không? Hay đó chỉ là nhân sinh quan của Bill Gates mà thôi?

Ông ấy sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ – một cường quốc về kính tế, chính trị, quân sự. Nói chung đất nước mà cái gì cũng là nhất. Uy tín nhất, hệ thống giáo dục tốt nhất, môi trường sống tốt nhất, có những công ty lớn nhất, có nhiều cơ hội phát triển nhất, dịch vụ y tế, khoa học kỹ thuật phát triển nhất,… Không những vậy ông lại là người có nhiều tiền nhất thế giới, có gia đình hạnh phúc với nhiều đứa con, con nuôi và những hoạt động thiện nguyện cho thế giới này. Ông được thừa hưởng tất cả những gì được gọi là tuyệt diệu nhất trên thế giới, điều mà ai cũng lấy làm mơ ước.

Vậy cớ vì đâu mà ông lại đưa ra quan điểm này. Đấy là vì ông là một tỷ phú đô la, vì ông là một người có tâm với thế giới. Ông đã giành gần hết giá trị tài sản của ông để giúp thế giới đánh lùi căn bệnh sốt rét và AIDS. Chính vì vậy ông có nhiều trải nghiệm ở những nơi tận cùng của thế giới, đến những khu ổ chuột, những nơi này con người không đáp ứng được nhu cầu cơ bản là lương thực, nước sạch, y tế và giáo dục. Vì thế ông đã bảo:

“Chúng ta không bao giờ có thể thay đổi cả thế giới. Sự bất công luôn tồn tại trong xã hội hiện đại vì thế hãy cố gắng thích nghi.”

Ông khuyên chúng ta hãy bớt phàn nàn về cuộc sống của chính mình. Đấy là điều mà chúng ta vướng rất nhiều, ai trong số trong ta không phàn nàn về đất nước chúng ta đang sống. Chúng ta không hài lòng về dịch vụ y tế của xứ sở này. Chúng ta không hài lòng về hệ thống giáo dục đang đè nặng trên đôi vai của chúng ta. Chúng ta không hài lòng về các dịch vụ nâng cao giá trị con người ở đất nước chúng ta. Chúng ta muốn đi du lịch nước ngoài để trải nghiệm và học hỏi nền văn minh của đất nước khác trong khi đất nước chúng ta còn rất nhiều điều để cho chúng ta trải nghiệm và học hỏi. Chúng ta muốn đến Mỹ, Úc, Châu Âu để học tập vì ở xứ sở này chúng ta cảm thấy bị thua thiệt. Một vài trong số chúng ta mang trong mình giấc mơ Mỹ. Để rồi rời bỏ cái xứ sở này đến định cư và xây dựng cuộc sống ở một nơi khác có nhiều điều kiện hơn cho chúng ta phát triển.

Vậy có bao giờ chúng ta nghĩ nếu chúng ta không ở Việt Nam mà ở Irag, Pakistan thì sao,.. mỗi ngày thức giấc là có người chết vì bất ổn chính trị, xã hội rối loạn, đi đâu cũng thấy xác chết, chứng kiến cảnh nồi da nấu thịt. Hoặc chúng ta là một đứa trẻ ở Châu Phi thì sao, chúng không có cơm ăn, không có nước uống. Nước sạch là điều gì đó rất xa xỉ với chúng. Hay chúng ta hàng ngày được lên Internet và kết nói với thế giới bên ngoài, chúng ta không vào được mạng xã hội thì chúng ta phàn nàn, chúng ta thấy truyền thông nhà nước đưa tin một chiều chúng ta cũng phàn nàn. Vậy nếu chúng ta sinh ra và lớn lên ở Triều Tiên thì các bạn cảm thấy thế nào. Thật tệ đúng không, không công bằng đúng không.

Có người nói thế này:

“Nếu bạn có thịt trong tủ lạnh, quần sao để mặc, ngôi nhà để về và chiếc giường để ngủ thì bạn đã giàu hơn 75% những người đang sống trên trái đất này. Nếu bạn có tiền gửi trong ngân hàng, tiền lẻ trong ví và tiền xu trong lợn tiết kiệm thì bạn đã nằm trong top 8% những người được coi là dư dả trên thế giới. Nếu buổi sang tỉnh dậy bạn thấy mình khỏe khắn vui vẻ thì bạn đã may mán hơn hàng triệu người không thể sống qua tuần này. Nếu bạn chưa bao giờ gặp chiến tranh, chưa bao giờ bị đói hay tổn thương nghiêm trọng nào trên cơ thê thì bạn đã sung sướng  hơn 500 triệu người đang sống một cuộc sống đầy đau đớn trên thế giới. Nếu bạn có thể đọc được những dòng này bạn đã may mắn hơn gần 3 triệu người mù chữ trên thế giới.”

Đây là một thông điệp ý nghĩa và nó đã truyền đạt đầy đủ và sinh động về vấn đề này. Chúng ta thường hay so sánh và phàn nàn để được tiến bộ và phát triển hơn. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta cần sống chậm lại và nhìn lại mọi điều xung quanh mình để cuộc sống chúng ta luôn hoài hòa và hạnh phúc. Tham vọng là tốt nhưng cần điều chỉnh và dừng lại để biết mình còn hạnh phúc hơn rất nhiều người. Nó là vậy cuộc sống không công bằng, quan trọng chúng ta thích nghi với nó và sống mạnh mẻ như thế nào mà thôi. Mạnh mẻ để chúng ta – những cây được trồng ở vùng đất khô cằn sỏi đá cũng có thể gặt được những trái quả ngon ngọt.

 

Mr Lias

Học tiếng Anh sớm: Nên hay không?

 

 

Tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu. Hiện giờ nó rất phổ biến và cũng vô cùng quan trọng trong cuộc sống, công việc,… Bởi lẽ đó, người người nhà nhà đều học tiếng Anh.  Chỉ với từ khóa “học tiếng Anh”, chúng ta có được 57100000 kết quả trong 0.19 giây (theo Google.com). Đó là những bài viết: Lợi ích của việc học tiếng Anh, làm sao để học tiếng Anh hiệu quả,… Rất nhiều câu hỏi được đặt ra và những rất nhiều bài viết tư vấn việc học tiếng Anh. Thế nhưng chúng ta đã bỏ sót một  câu hỏi: Thời điểm nào thích hợp để học tiếng Anh?

Thực trạng hiện nay…

Nhiều bậc phụ huynh có tư tưởng tiến bộ, nhận ra được tầm quan trọng của tiếng Anh nên đã cho con học tiếng Anh từ khi còn rất nhỏ. Tôi biết nhiều em bé mới chỉ khoảng 4-5 tuổi đã được gửi tới các trường mẫu giáo quốc tế-một môi trường hoàn toàn sử dụng tiếng Anh. Các trường theo khung chương trình giáo dục Việt Nam cũng đã bắt đầu dạy trẻ môn tiếng Anh từ lớp 1 cho đến đại học và sau nữa. Nền giáo dục Việt Nam rất quan tâm chú trọng đến việc dạy tiếng Anh cho trẻ em. Nhà nước đầu tư hàng nghìn tỷ vào các dự án dạy và học tiếng Anh cho học sinh các cấp, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh, sinh viên được tiếp xúc với người bản xứ để cải thiện trình độ tiếng Anh. Vấn đề đặt ra ở đây là: Cho trẻ học tiếng Anh từ sớm có phải là tốt?

Không nói đâu xa, chỉ nhìn vào nền giáo dục nước nhà, bước vào học kì II của lớp 1, các em đã được giảng dạy môn tiếng Anh. Chương trình học lớp 1 là chương trình dạy các em nhận mặt chứ, tập đọc, tập viết và tiếng Việt. hết lớp 1, trẻ cơ bản biết đọc viết tiếng Việt. Thế nhưng vốn từ vựng còn khá  hạn chế. Liệu lúc này trẻ đã nên học tiếng Anh?

Không chỉ đơn thuần là học tiếng Anh

Các bạn đọc thân mến, tin chắc là các bạn ít nhật cũng đã qua cấp 1, các bạn có thể, à, thậm chí là còn học lên rất cao rồi. Thế nhưng các bạn ai dám khẳng định rằng vốn từ tiếng Việt của mình đủ rộng, đủ sâu? Vậy với những em nhỏ mà vốn từ còn hạn chế thì việc học tiếng Anh từ sớm có ảnh hưởng đến ngôn ngữ Mẹ đẻ?

Hẳn là có! Nhiều người tưởng rất tân tiến trong suy nghĩ khi cho con tiếp xúc với tiếng Anh từ lúc còn rất nhỏ, nhưng đó đâu chỉ đơn thuần là cho trẻ học thêm ngôn ngữ quốc tế, đó còn là làm ảnh hưởng lớn đến ngôn ngữ mẹ đẻ của mình

Đến tiếng mẹ đẻ mình còn nói chưa sõi thì việc học thêm ngôn ngữ thứ 2 thứ 3 là không nên. Thậm chí là với người lớn chúng ta, nhiều khi còn xảy ra hiện tượng nhầm lẫn giữa các ngôn ngữ, nói chi là trẻ nhỏ.

Được tiếp xúc với nhiều ngôi ngữ là tốt nhưng nếu không học đến nơi đến chốn, đó lại là thảm họa. Đang nói chuyện bằng tiếng Việt, thi thoảng lại “bắn” vài từ tiếng Anh là cách giao tiếp của nhiều thanh niên ngày nay. Thực sự, cách giao tiếp này gây khó chịu cho người đối diện. Bạn có cảm thấy vậy? Nhiều người cho rằng đây là “sành điệu”. Nhưng với tôi, sành điệu đâu chả thấy, chỉ thấy sự khoe mẽ ta đây biết tiếng Anh. Vâng, biết tiếng Anh thì hãy nói hoàn toàn bằng tiếng Anh chứ không phải kiểu ngôn ngữ lai căng tây ta tàu. (tất nhiên là không tính đến những Việt kiều sống ở nước ngoài từ nhỏ và ít vốn tiếng Việt)

Có người nói rằng:

Tiếng Việt còn, nước ta còn.

Và chính vì vậy, việc bảo vệ ngôn ngữ mẹ đẻ là điều cần thiết và rất quan trọng. Mỗi người cần có ý thức về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ khác. Có lẽ bởi vì chúng ta đang sống trong một môi trường hoàn toàn tiếng Việt, quá quen thuộc với nó nên đôi khi chũng ta không còn cảm nhận được cái hay của nó nữa. Chỉ đến khi phải đi xa xứ, xung quanh không còn ai nói tiếng Việt nữa nên chúng ta nhớ da diết tiềng mẹ đẻ này.

Thời điểm nào thích hợp để học tiếng Anh?

Cá nhân tôi rất không đồng tình với việc học tiếng Anh từ rất sớm như vậy. Chí ít cũng nên đợi các em bước vào cấp 2- cấp trung học cơ sở mới nên bắt đầu việc giảng dạy tiếng Anh. Cả 5 năm cấp 1 và những khoảng thời gian trước đó, hãy để các em trau dồi tiếng Việt để tạo dựng nền tảng vững chắc

Tôi không cho rằng cấp 2 là muộn. Sang cấp 2,  các em đã cứng cáp hơn trước trong suy nghĩ và nhận thức. Hiểu được tầm quan trọng của tiếng Anh cũng như tìm thấy sự mới lạ ở một nền văn hóa khác, các em sẽ quyết tâm học. Và nếu thực sự yêu thích, có mong muốn học tiếng Anh thì cấp 2 không hề là muộn. Thậm chí ở xã hội ngoài kia, có nhiều bạn sinh viên lên đại học cũng mới bắt đầu học tiếng Anh thực sự và chỉ sua một thời gian ngắn, trình độ tiếng Anh của các bạn cũng đã cải thiện đáng kể. Vậy mới nói, thành công của việc học không nằm ở việc bắt đầu sớm hay muộn mà là ở thái độ và quyết tâm của người học.

Thay cho lời kết

Mong các bạn có cái nhìn đúng đắn về việc học thêm ngoại ngữ, chứ không riêng gì tiếng Anh. các bạn dù đang hay sẽ làm phụ huynh cũng nên xem xét thật kỹ việc cho con học tiếng Anh khi nào phù hợp nhất! Không nên vì chạy theo thời thế mà làm ảnh hưởng đến giá trị văn học lâu dài -tiếng Việt!

Chỉ Vậy Thôi

07/06/2014

Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất hay là quỷ đã ở với nguời từ bao giờ?

 Featured Image: Wasfi Akab

 

Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất là chương X tác phẩm Đường Về Nô Lệ của F. A. Hayek do Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2009. Trong chương này, Hayek đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng đạo đức của chủ nghĩa tập thể không phải là, thậm chí còn trái ngược với, đạo đức truyền thống mà dân chúng các nước vẫn hiểu và vẫn theo. Nếu nền đạo đức truyền thống coi con người là mục đích, lấy nguyên tắc: Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì không làm cho người khác) làm kim chỉ nam cho hành động thì đạo đức tập thể lại coi: Salus revolutiae suprema lex[1] (Lợi ích của cách mạng là trên hết), con người chỉ còn là phương tiện, là một trong những nhân tố (nhân lực, tài lực, vật lực…) để đạt mục đích tối thượng của cách mạng (thế giới đại đồng hay là chiến thắng cuối cùng của dân tộc thượng đẳng thì cũng thế…)

Khi con người trong các nước theo chế độ tập thể (những nước mệnh danh là xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, phát xít và quốc xã) không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện cho những mục đích trừu tượng nào đó thì các nước đó nhất định phải trở thành miếng mồi béo bở cho những kẻ vô liêm xỉ nhất, xấu xa nhất. Chỉ có những kẻ như thế mới có thể thăng tiến, có thể leo lên các vị trí chóp bu mà thôi. Nói một cách hình tượng: Chúng ta đang ở trong một ngôi nhà đã bị mục nóc từ rất lâu rồi, quỷ đã ở với người [2] từ rất lâu rồi.

Quỷ ở với người thì xã hội sẽ như thế nào? Sẽ là xã hội của quỷ với đủ mọi hành động đê mạt mà những người chưa kịp thành quỷ coi là tệ nạn: Chỉ cần có con sắp vào mẫu giáo hay sắp đi làm, có vợ bị ốm phải đưa vào bệnh viện hay phải đến sở nhà đất để hợp thức hoá ngôi nhà vừa xây bằng mồ hội nước mắt của chính mình là ta gặp ngay một lũ quỷ sứ mang bộ mặt người, quỷ sứ có thẻ đảng trong túi và lời dạy của Bác Hồ trên đầu môi trót lưỡi. Nếu xem TV hàng ngày thì chắc chắn ta sẽ thấy những kẻ xoen xoét nó rằng: “Đảng là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân..” Nhưng chính chúng lại là giám đốc, tổng giám đốc các công ty xuất khẩu lao động, thậm chí còn ăn chặn ngay ít tiền còm của những người lao động đó nữa; ta có thể thấy những kẻ chưa kịp khô môi khi thao thao bất tuyệt về đề tài: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” lại đã thao thao bất tuyệt về đề tài khác: “Khai thác bô xít là chính sách lớn của Đảng và Chính phủ.”

Còn nếu chịu khó đọc báo thì ta sẽ thấy đầy rẫy chuyện con giết cha, vợ chém chồng, người yêu giết người yêu, thầy giáo đánh học trò thành thương, một vụ va chạm nhẹ có thể trở thành án mạng, “nhìn đểu” có thể trở thành nguyên nhân ẩu đả dẫn đến chết người… Làm gì có “ngưỡng” cho những chuyện vô luân ấy mà có thể nói là “vượt”. Hiện tượng cướp vài bông hoa hay bẻ mấy cành cây anh đào có thể chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly chứa đầy uất ức đã bị kìm nén lâu ngày mà thôi.

Sống trong hoàn cảnh như thế thì làm sao mà không thành khỉ cho được?

Đọc chương này của Hayek rồi quan sát các hiện tượng hàng ngày, quan sát các quan chức cộng sản, từ nhỏ đến to, tôi đành tự nhủ: Còn cộng sản, tức là khi trẻ con không cần nhớ Lời mẹ dặn [3] mà lại phải thuộc lòng năm điều Bác Hồ dạy thì đạo đức là câu chuyện quá xa vời, chỉ làm mất thì giờ vô ích. Theo tôi, thảo luận về hiện tượng băng hoại đạo đức lúc này cũng chẳng khác gì mang vài liều thuộc cao dán lên những vết lở loét khi cơ thể đã bị AIDS từ rất lâu rồi, khi bệnh đã vào đến cao hoang từ rất lâu rồi.

Vì lý do kỹ thuật, tôi không thể đưa toàn bộ chương X tác phẩm nói trên lên mạng. Độc giả nào quan tâm nhưng không có điều kiện tiếp cận trực tiếp với tác phẩm xin đọc ở đây phần rút gọn của Reader Digest:

***

Không nghi ngờ gì rằng hệ thống “phát xít” ở Anh hay ở Mỹ sẽ khác rất xa mô hình của Ý hay Đức; không nghi ngờ gì rằng nếu việc chuyển hoá được thực hiện một cách phi bạo lực thì chúng ta có thể hy vọng có được những nhà lãnh đạo tử tế hơn. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là hệ thống phát xít của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hay sẽ dễ chịu hơn nguyên mẫu của chúng. Có nhiều lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống toàn trị nói trên là những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra.

Khi một chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế thì ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn: chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ kế hoạch, còn nhà lãnh đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị, những kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế độ toàn trị và nền văn minh cá nhân chủ nghĩa phương Tây.

Lãnh tụ toàn trị phải tập hợp xung quanh ông ta những kẻ tự nguyện phục tùng cái kỹ luật mà họ sẽ dùng vũ lực áp đặt cho toàn bộ nhân dân. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà đa số những người xã hội chủ nghĩa phản đối, đấy chính là bài học của nhiều nhà cải cách xã hội trong quá khứ. Các đảng xã hội cổ điển hoạt động trong khuôn khổ của các lí tưởng dân chủ; họ không có tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi các nhiệm vụ mà họ đã chọn. Điều đặc biệt là cả ở Đức lẫn ở Ý, chủ nghĩa phát xít đã thành công sau khi các đảng xã hội từ chối nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo chính phủ. Họ không muốn áp dụng những biện pháp vì đã nhận ra khả năng phát triển của chúng. Họ vẫn hy vọng vào phép màu rằng đa số sẽ đồng ý về một kế hoạch tổ chức toàn bộ xã hội. Những người khác thì đã học được bài học rằng trong xã hội được kế hoạch hoá vấn đề không còn là đa số sẽ đồng ý cái gì mà là vấn đề nhóm lớn nhất là nhóm nào, chỉ cần các thành viên của nó đồng ý là đủ để hình thành đường lối thống nhất cho tất cả mọi công việc.

Có ba lý do vì sao cái nhóm có đông thành viên, với những quan điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất mà thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội.

Thứ nhất, trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu và quan điểm càng phân hoá. Nếu chúng ta muốn tìm một sự thống nhất cao về quan điểm thì chúng ta phải hạ thấp tiêu chuẩn đạo đức và tri thức của chúng ta xuống ngang hàng với những bản năng nguyên thuỷ. Điều đó không có nghĩa là đa số dân chúng có tiêu chuẩn đạo đức thấp; điều đó chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với những chuẩn mực giá trị giống nhau là những người có tiêu chuẩn đạo đức thấp.

Thứ hai, vì nhóm đó chưa đủ lớn để làm nghiêng cán cân sang phía lãnh tụ, ông ta sẽ phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách kết nạp thật nhiều người vào cùng tín điều với ông ta. Ông ta phải tìm được sự ủng hộ của những kẻ dễ bảo và cả tin, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp nhận các hệ thống giá trị sẵn có miễn là được rót vào tai họ một cách liên tục. Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một cách dở dang, những kẻ dễ dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào lại là thành phần đông nhất của các đảng toàn trị.

Thứ ba, để có thể đưa những người ủng hộ thành một tập thể cố kết, người lãnh đạo phải lợi dụng những nhược điểm của con người. Có vẻ như người ta dễ dàng đồng thuận về những vấn đề có tính tiêu cực như chí căm thù giặc, lòng ghen tức với những kẻ khá giả, hơn là về những nhiệm vụ có tính tích cực.

Sự tương phản giữa “chúng ta” và “chúng nó” luôn bị những kẻ săn tìm lòng trung thành của quần chúng lợi dụng. Kẻ thù có thể là bên trong như “Do Thái” ở Đức hay “Kulak” ở Nga, hay kẻ thù bên ngoài. Trong mọi trường hợp kỹ thuật này bao giờ cũng giành được ưu thế ở chỗ nó làm cho lãnh tụ có nhiều tự do hành động hơn bất kỳ chương trình mang tính tích cực nào khác.

Trong tổ chức hay đảng toàn trị, muốn thăng tiến thì phải dám làm những việc bất nhân. Trong đạo đức học cá nhân chủ nghĩa, nguyên tắc mục đích biện minh cho phương tiện được coi là sự phủ nhận mọi tiêu chuẩn đạo đức thì trong đạo đức học của chủ nghĩa tập thể lại trở thành nguyên tắc tối thượng. Một người theo chủ nghĩa tập thể kiên định phải sẵn sàng làm tất cả mọi việc nếu đó là việc “có ích cho tất cả mọi người” vì đối với anh ta đấy là tiêu chuẩn hành động duy nhất.

Một khi chấp nhận rằng cá nhân chỉ là phương tiện phục vụ cho một thực thể cao quý hơn, gọi là xã hội hay quốc gia cũng được, thì phần lớn các đặc trưng của chủ nghĩa toàn trị mà chúng ta kinh tởm tất yếu sẽ xuất hiện. Từ quan điểm của chủ nghĩa tập thể thì sự bất dung và đàn áp tàn bạo, dối trá và theo dõi, coi thường cuộc sống và hạnh phúc cá nhân là những việc thuộc về bản chất và không thể tránh được. Những hành động làm chúng ta ghê tởm như bắn giết con tin, giết người già hay người ốm được coi là những việc thích hợp; di dân cưỡng bức và bắt lưu đầy hàng trăm ngàn người trở thành biện pháp chính trị được hầu như tất cả mọi nguời, trừ các nạn nhân, ủng hộ.

Muốn trở thành người có ích cho sự vận hành của nhà nước toàn trị, để đạt được mục đích, con người phải sẵn sàng bước qua mọi nguyên tắc đạo đức mà anh ta từng biết. Trong bộ máy toàn trị những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ luôn giành được cơ hội tốt. Gestapo hay các ban quản lý các trại tập trung, Bộ tuyên truyền hay SA hoặc SS (hoặc những cơ quan tương ứng của Nga) không phải là chỗ thể hiện tình cảm của con người. Nhưng đấy chính là con đường tiến thân trong ban lãnh đạo của nhà nước toàn trị.

Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ, giáo sư Frank H. Knight, đã nhận xét rất đúng rằng chính quyền của nhà nước theo chế độ tập thể “dù muốn hay không cũng phải làm những việc đó: xác suất những người nắm chính quyền là các cá nhân không thích giữ và thể hiện quyền lực cũng ngang bằng với xác suất một người cực kỳ dịu dàng muốn làm công việc của cai đội trong trại nô lệ”.

Một vấn đề nữa cần phải làm rõ: Chủ nghĩa tập thể nghĩa là sự cáo chung của chân lý. Muốn cho hệ thống toàn trị hoạt động hữu hiệu thì việc mọi người đều buộc phải làm vì mục đích do những kẻ nắm quyền lựa chọn vẫn chưa đủ; điều quan trọng là người ta phải coi đấy là mục đích của chính mình. Chỉ có thể thực hiện được điều đó bằng tuyên truyền và kiểm soát toàn bộ các nguồn thông tin.

Cách tốt nhất để người dân chấp nhận các giá trị mà họ phải phục vụ là thuyết phục họ rằng đấy là các giá trị họ vẫn luôn luôn tin tưởng, chỉ có điều trước đây họ đã hiểu chưa thật đúng mà thôi. Và biện pháp tốt nhất là gán cho các ngôn từ cũ những ý nghĩa hoàn toàn mới. Điều đó đã trở thành đặc điểm chủ yếu của bầu không khí trí tuệ của chế độ toàn trị, làm cho những người quan sát hời hợt phải lúng túng: ngôn ngữ bị xuyên tạc, ý nghĩa của từ ngữ bị biến dạng.

Bị xuyên tạc nhiều nhất chính là từ “tự do”, một từ được các nhà nước toàn trị, cũng như mọi quốc gia khác, sử dụng thường xuyên. Trên thực tế, có thể nói rằng bất cứ khi nào tự do, theo nghĩa chúng ta hiểu, bị xâm hại thì bao giờ người ta cũng hứa hẹn cho nhân dân một nền tự do mới. Có những người ủng hộ kế hoạch hoá còn hứa cho nền “tự do tập thể”, nhưng đây cũng là khái niệm đáng ngờ như bất cứ khái niệm nào phát ra từ miệng các chính khách toàn trị mà thôi. “Tự do tập thể” không phải là tự do của từng thành viên trong xã hội mà là quyền tự do của người lập kế hoạch, được phép làm với xã hội tất cả những gì hắn muốn. Đây là tự do trong tay kẻ có quyền lực tuyệt đối.

Tuyệt đại đa số rất dễ bị tước đoạt khả năng suy nghĩ độc lập. Nhưng thiểu số những người còn giữ được khả năng phê bình cũng phải bị bịt miệng. Việc phê bình công khai hay thậm chí ngay cả những biểu hiện của sự nghi ngờ cũng bị ngăn chặn vì chúng có thể làm suy giảm sự ủng hộ chế độ. Như Sidney và Beatrice Webb viết về thái độ trong các doanh nghiệp Nga: “Khi công việc đang được tiến hành, bất kỳ biểu hiện công khai nào về sự ngờ vực về khả năng thành công của kế hoạch đều bị coi là sự bất trung, thậm chí phản bội vì nó có thể ảnh hưởng đến ý chí và nỗ lực của những người khác.”

Việc kiểm soát còn được thực hiện cả trong những lĩnh vực có vẻ như chẳng liên quan gì đến chính trị. Thí dụ như thuyết tương đối bị coi là “Cuộc tấn công của bọn Do Thái vào cơ sở của vật lý học Thiên chúa giáo và Bắc Âu” và vì nó “mâu thuẫn với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa Marx”. Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ mục tiêu tự giác của xã hội. Không thể có những hoạt động tự phát, thiếu lãnh đạo vì nó có thể tạo ra kết quả không thể dự đoán và không được kế hoạch trù liệu.

Nguyên tắc này còn bao trùm lên cả các trò chơi cũng như giải trí. Tôi xin mời bạn đọc đoán xem những người chơi cờ chính thức kêu gọi: “Chúng ta phải chấm dứt một lần và vĩnh viễn thái độ trung lập của môn cờ vua. Chúng ta phải lên án một lần và vĩnh viễn công thức ‘cờ chỉ là cờ’” này ở đâu.

Điều đáng lo ngại nhất là, thái độ khinh thường tự do trí thức không phải là việc chỉ xảy ra sau khi chế độ toàn trị được thành lập mà nó hiện diện trong những người tin vào chủ nghĩa tập thể trên khắp thế giới. Sự đàn áp tàn bạo nhất cũng vẫn được bỏ qua nếu nó được thực hiện nhân danh chủ nghĩa xã hội. Người ta công khai cổ vũ cho thái độ bất dung đối với những tư tưởng khác biệt. Bi kịch của tư tưởng tập thể là ở chỗ nó bắt đầu bằng việc coi lý trí là tối thượng nhưng lại kết thúc bằng việc tiêu diệt lý trí.

Một khía cạnh nữa của sự thay đổi các giá trị đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra cũng đáng phải suy nghĩ. Những đức tính tốt mà người Anglo-Saxon có quyền tự hào và nhờ chúng mà họ được coi là những người ưu tú lại đang càng ngày càng mất giá ở Anh và Mỹ. Đấy là những tính tốt như tính độc lập và tự lực cánh sinh, sáng kiến và trách nhiệm cá nhân, tin tưởng vào các hoạt động thiện nguyện, không can thiệp vào công việc của người khác và tinh thần khoan dung đối với sự khác biệt, tinh thần nghi ngờ lành mạnh đối với quyền lực và chính quyền.

Hầu như tất cả các truyền thống và thiết chế hun đúc nên bản sắc dân tộc và toàn bộ môi trường đạo đức của nước Anh và nước Mỹ đang bị chủ nghĩa tập thể và xu hướng tập quyền hàng ngày hàng giờ phá huỷ.

 

Phạm Minh Ngọc

Edit: THĐP

[1] Salus revolutiae suprema lex (Lợi ích của cách mạng là trên hết – tiếng Latin trong nguyên văn). – khẩu hiệu được G. V. Plekhanov đưa ra tại Đại hội II Đảng công nhân Xã hội Dân chủ Nga (1903) nhằm chống lại nguyên tắc của dân chủ Salus populi suprema lex (Lợi ích của nhân dân trên hết).

[2] Mượn tên một vở kịch của Nguyễn Huy Thiệp.

[3] Tên một bài thơ của Phùng Quán.


 

Đường Về Nô Lệ – Bản tóm tắt

Tác giả: Friedrich A. von Hayek

Dịch: Phạm Minh Ngọc

Lời người dịch: Tác phẩm Đường về nô lệ (The Road to Serfdom) xuất bản ở Anh vào tháng 3 năm 1944 và sáu tháng sau, tức là ngày 18 tháng 9 năm 1945, thì được ấn hành ở Mĩ. Phiên bản xuất hiện trên tạp chí The Reader’s Digest, được giới thiệu dưới đây, ra đời vào tháng 4 năm 1945 dưới tiêu đề “Một trong những cuốn sách quan trọng nhất trong thế hệ chúng ta” đã góp phần đưa Hayek trở thành nhân vật danh tiếng và công trình của ông trở thành cuốn sách bán chạy nhất ở Mĩ từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1945. Người dịch hoàn toàn đồng ý với Lawrence Frank khi ông viết trên tạp chí Saturday Review of Literature vào tháng 5 năm 1945 rằng bản rút gọn “có phần sắc sảo hơn” cả chính văn, và xin được giới thiệu với độc giả Talawas.

Xin được nói đôi lời về tên gọi của cuốn sách. Bản chính của tác phẩm này đã được tiến sĩ Nguyễn Quang A dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề: Con đường dẫn tới chế độ nông nô. Dịch “serfdom” thành “nông nô” là hoàn toàn chính xác về mặt ngữ nghĩa, nhưng nền kinh tế kế hoạch hoá, mà Hayek phản bác trong cuốn sách này, nếu được đưa vào thực tiễn, sẽ không chỉ biến một bộ phận nhân dân, cụ thể là những người lao động chân tay thành nô lệ. Chúng ta đã có dịp chứng kiến 600 ông/bà tổng biên tập của 600 tờ báo và hàng ngàn nhà báo bị/tự bịp mồm, bịt mắt, bịt tai trước cảnh nhếch nhác của bà con “dân oan” giữa thành phố Hồ Chí Minh hoa lệ; thế rồi đùng một cái, sau gần một tháng trời “không thấy, không nghe” gì hết, họ bỗng đồng thanh hô lên rằng “đồng bào đã tự nguyện và vui vẻ lên xe ra về vào lúc nửa đêm!”. Đúng là một đám nô bộc rồi, nhưng không phải là “nông nô”, mà là “văn nô”. Chúng ta cũng đã từng được nghe nói tới Chủ-tịch-nước-nô, đấy là ông Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, người đã bị hành hạ và chết không khác gì một con vật, thậm chí còn nhục nhã hơn cả một con vật. Chúng ta cũng đã từng được nghe nói tới Tổng-bí-thư-đảng-nô, đấy là các ông N. Khrushchev và Triệu Tử Dương, những người đã bị các “đồng chí” của mình giam lỏng tại gia (có khác gì nhốt chó, nhốt ngựa) cho đến chết. Tóm lại, khi kế hoạch hoá nền kinh tế được tiến hành trên thực tế thì tất cả mọi người, trừ những kẻ vô liêm sỉ mà Hayek gọi là “những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất”, đều trở thành nô lệ cả. Vả lại chính Hayek cũng đã từng nói: “Ý tưởng đó đến từ Tocqueville, người từng nói về con đường dẫn đến sự nô lệ (servitude); tôi thích chọn từ này, nhưng nó lại mang âm hưởng không hay. Vì thế tôi đổi ‘servitude’ sang ‘serfdom’ chỉ đơn thuần vì lí do ngữ âm”.

Tôi cũng xin được không đồng ý với tiến sĩ Nguyễn Quang A khi ông dịch “to”, trong trường hợp này, thành “tới” bởi vì chế độ nô lệ cũng như chế độ nông nô đã bị bãi bỏ từ lâu. Đấy là các chế độ đã thuộc về quá khứ, con đường của lịch sử không hướng tới phía đó. Việc những chế độ như thế tái xuất hiện trong thế kỉ XX là do có những kẻ, dù khởi kì thuỷ có thể là những người tử tế, đã cố tình quay ngược bánh xe lịch sử, cố tình giữ mãi một phần nhân loại trong tình trạng nô lệ, trong tình trạng đói nghèo và thoái hoá về mặt đạo đức.

Dĩ nhiên, muổn hiểu đầy đủ tư tưởng của Hayek thì phải đọc chính văn, tức là phải đọc tác phẩm: Con đường dẫn tới chế độ nông nô do tiến sĩ Nguyễn Quang A chuyển ngữ, đã nói tới bên trên. Chỉ có điều, theo thiển ý, phải là người có niềm đam mê và lòng yêu chân lí vô bờ bến thì mới đủ sức vượt qua những khó khăn, trở ngại trên từng trang giấy, thậm chí trên từng câu chữ của dịch phẩm này. Nhưng bù lại, ta sẽ không phải “phát minh” một lần nữa các khiếm khuyết của chế độ toàn trị, một tên gọi khác của các chế độ cộng sản, xã hội chủ nghĩa, Quốc xã và phát xít, là những chế độ đã từng làm mưa làm gió trong suốt thế kỉ XX.

Nhân đây cũng xin được giới thiệu tác phẩm: Friedric Hayek – Cuộc đời và sự nghiệp do Lê Anh Hùng dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính và giới thiệu, nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2007. Tất cả các số liệu và trích dẫn của bài viết này đều lấy từ tác phẩm vừa nêu. Tin rằng việc xuất bản các tác phẩm của Hayek và viết về Hayek sẽ góp phần vào việc “giải chấp”, góp phần dẹp bỏ những cản ngại trên Đường tới Tự do mà hôm nay chúng ta đang chập chững bước những bước đầu tiên.

****

“Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn.”

— Benjamin Franklin

Đường Về Nô Lệ

(Bản rút gọn in trên tạp chí The Reader’s Digest tháng 4 năm 1945)

Tác giả đã sống nửa cuộc đời tại nước Áo quê hương mình và có mối liên hệ gần gũi với hệ tư tưởng Đức, nửa sau cuộc đời ông sống ở Anh và Mĩ. Trong những năm tháng sau này, càng ngày ông càng tin tưởng rằng những lực lượng đã từng góp phần phá huỷ nền tự do ở Đức cũng đang hoạt động ở đây.

Rất nhiều vụ bạo hành mà bọn Quốc xã đã thực hiện càng củng cố niềm tin rằng hệ thống toàn trị không bao giờ có thể được thiết lập ở đây. Nhưng xin hãy nhớ lại 15 năm trước, cứ mười người Đức thì có chín người, chưa kể đa số các nhà quan sát ngoại quốc, cho rằng đấy chỉ có thể là chuyện hoang đường.

Có rất nhiều thứ mà lúc đó được coi là “đặc trưng Đức” thì nay đã trở thành quen thuộc cả ở Mĩ cũng như ở Anh và có nhiều chỉ dấu chứng tỏ rằng sự phát triển sẽ theo cùng một hướng: sự sùng bái nhà nước, việc coi các “xu hướng tất yếu” là định mệnh, lòng đam mê “tổ chức” mọi thứ (chúng ta gọi là “lập kế hoạch”) ngày càng gia tăng.

Đặc trưng của hiểm hoạ, nếu có thể nói như thế, là người ta nhận thức về nó còn kém hơn cả ở Đức trước đây. Bi kịch ở chỗ là người ta vẫn chưa nhìn thấy rằng tại Đức, đa số những người tử tế, những người theo đường lối xã hội chủ nghĩa, đã dọn đường cho những lực lượng vốn ủng hộ những điều mà họ ghê tởm. Ít người nhận thức được rằng sự ngóc đầu dậy của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Quốc xã không phải là phản ứng chống lại các xu hướng xã hội chủ nghĩa trong quá khứ mà là kết quả tất yếu của chính các xu hướng đó. Đặc biệt là nhiều lãnh tụ của các phong trào này, kể từ Mussolini trở xuống (kể cả Laval và Quisling), đã khởi đầu như những người xã hội chủ nghĩa để cuối cùng trở thành những tên phát xít hay Quốc xã.

Hiện nay, trong các nước dân chủ có rất nhiều người thực sự căm ghét tất cả các biểu hiện của chủ nghĩa Quốc xã, nhưng lại đang theo đuổi những lí tưởng mà nếu được thực thi thì sẽ dẫn thẳng đến nền độc tài không thể chấp nhận được. Rất nhiều người mà quan niệm của họ có thể gây ảnh hưởng đến tiến trình phát triển, ở mức độ nào đó lại là những người xã hội chủ nghĩa. Họ tin rằng đời sống kinh tế phải được “dẫn dắt một cách tự giác”, họ tin rằng chúng ta phải thay hệ thống cạnh tranh bằng “kế hoạch hoá nền kinh tế”. Phải chăng đây là bi kịch còn lớn hơn nữa? Tức là trong khi cố gắng xây dựng tương lai của chúng ta theo những lí tưởng cao cả thì trên thực tế chúng ta đã vô tình tạo ra kết quả trái ngược hẳn với những gì chúng ta từng theo đuổi?

Kế hoạch hoá và quyền lực

Để đạt được mục tiêu, những người lập kế hoạch phải tạo ra quyền lực – thứ quyền lực do con người áp đặt lên con người – với sức mạnh chưa từng được biết đến trước đây. Thành công của họ phụ thuộc vào mức độ quyền lực mà họ giành được. Thể chế dân chủ góp phần ngăn chặn việc đàn áp tự do mà chế độ quản lí kinh tế tập trung đòi hỏi. Vì thế mà xảy ra đụng độ giữa kế hoạch hoá và dân chủ.

Nhiều người xã hội chủ nghĩa có ảo tưởng đáng buồn rằng với việc tước quyền lực mà các cá nhân sở hữu trong trong hệ thống cá nhân chủ nghĩa và chuyển quyền lực này vào tay xã hội là họ đang thực hiện việc xoá bỏ quyền lực. Điều họ không nhìn thấy chính là việc tập trung quyền lực để nó có thể phục vụ cho một kế hoạch duy nhất thì quyền lực không những không được chuyển hoá mà còn trở thành quyền lực tuyệt đối. Tập trung quyền lực, cái quyền lực trước đó vẫn nằm trong tay nhiều người độc lập với nhau, vào tay một người duy nhất thì quyền lực chẳng những đã tăng lên đến mức chưa từng có trước đây mà còn có ảnh hưởng sâu rộng gần như trở thành khác hẳn về chất.

Thật sai lầm khi cho rằng quyền lực của cơ quan lập kế hoạch trung ương cũng “không hơn gì quyền lực tập thể của ban giám đốc xí nghiệp tư nhân”. Trong xã hội cạnh tranh, không người nào có thể nắm được dù chỉ một phần quyền lực mà một bộ kế hoạch xã hội chủ nghĩa có thể sở hữu. Phi tập trung hoá quyền lực chính là làm giảm uy quyền và hệ thống cạnh tranh là hệ thống duy nhất được thiết kế với mục đích giảm thiểu quyền lực của con người áp đặt lên con người. Ai có thể nghi ngờ rằng quyền lực của một triệu phú, thí dụ như ông chủ của tôi, đối với tôi là nhỏ hơn rất nhiều so với quyền lực của một viên chức hạng bét, nhưng là kẻ nắm trong tay quyền lực cưỡng chế của nhà nước, kẻ có quyền quyết định tôi phải sống và làm việc như thế nào?

Nói gì thì nói, một người công nhân không có tay nghề được trả lương thấp nhất trong đất nước này cũng có nhiều quyền tự do trong việc định hướng cuộc đời của anh ta hơn một ông chủ có nhiều người làm thuê ở Đức hay các kĩ sư và cán bộ quản lí được trả lương cao hơn nhiều ở Nga. Nếu anh ta muốn thay đổi công việc hay chuyển chỗ ở, nếu anh ta muốn thể hiện một quan điểm nào đó hay muốn nghỉ ngơi theo cách nào đó, anh ta sẽ không gặp bất kì một sự cản trở độc đoán nào. Không có mối đe doạ nào đối với sự an toàn tính mạng, không có ai buộc anh ta phải thực hiện nhiệm vụ hay phải sống trong môi trường mà cấp trên đã phân cho anh ta.

Thế hệ của chúng ta đã quên rằng chế độ tư hữu là sự bảo đảm quan trọng nhất của tự do. Đấy là vì tư liệu sản xuất nằm trong tay nhiều người hoạt động độc lập với nhau cho nên chúng ta mới có thể tự quyết định cách hành xử của mình. Khi tất cả các phương tiện sản xuất chỉ nằm trong tay một người duy nhất, dù về danh nghĩa có là toàn thể “xã hội” hay là một nhà độc tài, thì người đó sẽ có quyền lực tuyệt đối đối với chúng ta. Khi nằm trong tay các cá nhân riêng rẽ, quyền lực kinh tế có thể trở thành phương tiện áp bức, nhưng không bao giờ có thể kiểm soát được toàn bộ cuộc sống của con người. Nhưng khi quyền lực kinh tế đã được tập trung lại như một công cụ của quyền lực chính trị thì nó sẽ tạo ra một sự phụ thuộc chẳng khác gì chế độ nô lệ. Người ta nói đúng rằng trong một quốc gia mà nhà nước là người sử dụng lao động duy nhất thì đối lập đồng nghĩa với chết từ từ vì đói.

Nguồn gốc của hiểm nguy

Chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với chủ nghĩa xã hội và tất cả các hình thức toàn trị khác, bắt nguồn từ sự tôn trọng của Thiên chúa giáo đối với cá nhân con người và niềm tin rằng tốt nhất là để cho người ta được tự do phát triển tài năng và thiên hướng cá nhân của mình. Triết lí này, đã phát triển một cách đầy đủ dưới thời Phục hưng, lớn lên và truyền bá trong khu vực mà ta gọi là nền văn minh phương Tây. Xu hướng phát triển chủ đạo của xã hội là giải phóng cá nhân khỏi những ràng buộc mà chế độ phong kiến đã tròng lên anh ta.

Sự phát triển kì diệu của khoa học có lẽ là kết quả vĩ đại nhất của sự khai phóng năng lượng cá nhân. Chỉ sau khi sự tự do trong lĩnh vực kĩ nghệ mở đường cho việc tự do sử dụng kiến thức mới, chỉ sau khi mọi thứ đều có thể được thử nghiệm – nếu tìm được người ủng hộ và chịu mạo hiểm – khoa học đã tiến những bước vĩ đại góp phần làm thay đổi bộ mặt thế giới trong suốt 150 năm qua. Kết quả của sự phát triển đã vượt quá tất cả mọi kì vọng. Khi tài năng được giải phóng khỏi mọi cản ngại, con người có thể nhanh chóng đáp ứng được mọi ước muốn. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX người lao động ở phương Tây đã đạt được những tiện nghi vật chất, mức độ an toàn và độc lập cá nhân mà một 100 năm trước tưởng chừng như khó có thể xảy ra.

Thành công này tạo ra trong một số người nhận thức mới về cái quyền lực vẫn ngự trị bên trên số phận của họ, tạo ra niềm tin về khả năng vô giới hạn trong việc cải thiện điều kiện sống của chính họ. Những thành tựu đã đạt được được coi là tài sản chắc chắn, không thể huỷ hoại, nghĩa là vĩnh viễn; tốc độ phát triển bắt đầu bị coi là quá chậm. Hơn thế nữa, các nguyên tắc từng làm cho quá trình phát triển trở nên khả dĩ bắt đầu bị coi là cản ngại cho sự gia tăng tốc độ của tiến trình và phải được loại bỏ càng nhanh càng tốt. Có thể nói rằng chính thành tựu của chủ nghĩa phóng khoáng đã trở thành nguyên nhân suy sụp của chính nó.

Không một người có suy nghĩ nào lại nghi ngờ các nguyên tắc kinh tế thế kỉ XIX – thực ra mới chỉ là bắt đầu – đấy là có rất nhiều sự lựa chọn trên con đường chúng ta đang đi. Nhưng theo quan điểm thịnh hành hiện nay thì câu hỏi không phải là trong xã hội tự do các lực lượng tự phát phải được sử dụng như thế nào cho có hiệu quả nhất. Trên thực tế chúng ta đã tiến hành loại bỏ các lực lượng đó và thay chúng bằng việc lãnh đạo tập thể và “tự giác”.

Điều đặc biệt là việc từ bỏ chủ nghĩa phóng khoáng, dù được gọi là chủ nghĩa xã hội dưới hình thức cấp tiến hay đơn giản là “tổ chức” hay “kế hoạch hoá”, đã được thực hiện ở Đức. Trong hai mươi lăm năm cuối thế kỉ XIX và hai mươi lăm năm đầu thế kỉ XX nước Đức đã tiến rất xa cả về lí thuyết lẫn thực hành chủ nghĩa xã hội, thậm chí hiện nay các cuộc thảo luận ở Nga chủ yếu là để bàn xem người Đức đang đứng ở chỗ nào. Người Đức, ngay từ trước khi xuất hiện chủ nghĩa Quốc xã, đã tấn công chủ nghĩa phóng khoáng và nền dân chủ, tấn công chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cá nhân.

Một thời gian dài trước khi chủ nghĩa Quốc xã xuất hiện, những người xã hội chủ nghĩa ở Đức và Ý đã sử dụng các kĩ thuật mà sau này Quốc xã và phát xít cũng sử dụng, nhưng hiệu quả hơn. Ý tưởng về một đảng chính trị nắm trọn toàn bộ hoạt động của con người, từ khi sinh ra cho đến lúc chết, một đảng tuyên bố hướng dẫn quan điểm của đảng viên về mọi vấn đề đã được những người xã hội chủ nghĩa đem ra áp dụng đầu tiên. Không phải là bọn phát xít mà chính những người xã hội chủ nghĩa đã tập hợp trẻ em còn bé tí vào các tổ chức chính trị nhằm lèo lái tư duy của chúng. Không phải là bọn phát xít mà chính là những người xã hội chủ nghĩa là những người đầu tiên nghĩ đến việc tổ chức các hoạt động thể thao và giải trí, các trận đấu bóng và cắm trại trong các câu lạc bộ của đảng để các thành viên không bị các quan điểm xa lạ làm cho lung lạc. Những người xã hội chủ nghĩa là những người đầu tiên đòi hỏi các đảng viên phải sử dụng các hình thức chào hỏi riêng để phân biệt họ với những người khác. Chính họ, với các tổ chức gọi là “chi bộ” và các cơ chế nhằm thường xuyên kiểm soát đời sống riêng tư của con người, đã tạo ra khuôn mẫu của các đảng toàn trị.

Ở Đức, chủ nghĩa phóng khoáng đã chết trước khi Hitler nắm được chính quyền. Chính chủ nghĩa xã hội đã giết nó.

Đối với những người từng quan sát sự chuyển hoá từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít trong một phần tư thế kỉ qua, mối liên hệ giữa hai hệ thống là rất rõ ràng, nhưng trong các nước dân chủ đa số vẫn tin rằng chủ nghĩa xã hội và tự do là những thứ có thể dung hoà được. Họ không nhận thức được rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ là một một khái niệm không tưởng vĩ đại nhất của mấy thế hệ gần đây, nó không chỉ bất khả thi mà cuộc đấu tranh vì lí tưởng của nó còn tạo ra một kết quả khác hẳn: huỷ hoại ngay chính tự do. Người ta đã nói đúng rằng: “Chính con người đã biến nhà nước thành địa ngục trần gian khi cố gắng biến nó thành thiên đàng trên cõi thế”

“Chủ nghĩa xã hội bảo thủ” là khẩu hiệu mà nhiều người cầm bút đã từng cổ động và bằng cách đó họ đã góp phần chuẩn bị môi trường cho chủ nghĩa Quốc xã. “Chủ nghĩa xã hội bảo thủ” cũng đang là xu hướng chủ đạo của chúng ta hiện nay.

Kế hoạch hoá phóng khoáng

“Kế hoạch hoá” được nhiều người ủng hộ, chủ yếu là vì chúng ta muốn giải quyết các vấn đề của xã hội với những kế hoạch càng tỉ mỉ càng tốt. Cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ kế hoạch hoá và những người theo trường phái phóng khoáng không phải là về vấn đề có nên sử dụng tư duy hệ thống vào việc lập kế hoạch công việc của chúng ta hay không mà là làm thế nào để được kết quả tốt nhất. Vấn đề là chúng ta có cần tạo ra những điều kiện trong đó kiến thức và sáng kiến cá nhân có những cơ hội tốt nhất để họ có thể lập kế hoạch một cách thành công nhất hay chúng ta phải hướng dẫn và tổ chức tất cả các hoạt động kinh tế theo một “bản thiết kế”, nghĩa là “hướng dẫn một cách tự giác các nguồn lực của xã hội để thực hiện quan điểm của người lập kế hoạch về việc ai được nhận cái gì”.

Điều quan trọng là không được lẫn lộn giữa quan niệm của những người phản đối “kế hoạch hoá” nói trên với thái độ “vô vi” (laissez fair) giáo điều. Phái phóng khoáng không ủng hộ quan điểm bỏ mặc cho mọi sự muốn ra sao thì ra; họ ủng hộ việc sử dụng một cách tốt nhất các lực lượng cạnh tranh, coi đấy là biện pháp phối hợp các nỗ lực của con người. Nó xuất phát từ niềm tin rằng hệ thống cạnh tranh hiệu quả chính là kim chỉ nam tốt nhất cho các cố gắng của từng cá nhân. Nó nhấn mạnh rằng để hệ thống cạnh tranh hoạt động hiệu quả thì phải có một khung pháp lí thật rõ ràng và các điều luật, cả trong quá khứ cũng như hiện tại, đều có những khiếm khuyết nghiêm trọng.

Mặc dù vậy, chủ nghĩa phóng khoáng phản đối việc thay thế hệ thống cạnh tranh bằng những biện pháp quản lí các hoạt động kinh tế thô sơ hơn. Chủ nghĩa phóng khoáng coi cạnh tranh là ưu việt hơn không chỉ vì trong hầu hết các trường hợp đấy chính là biện pháp hữu hiệu nhất mà còn vì đây là phương pháp không đòi hỏi sự can thiệp có tính cưỡng bức hoặc độc đoán của chính quyền. Nó bác bỏ “sự kiểm soát một cách tự giác của xã hội” và dành cho các nhân cơ hội lựa chọn, liệu triển vọng của một công việc cụ thể có bù đắp được những thiệt hại mà nó gây ra hay không.

Cạnh tranh không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn sự can thiệp của nhà nước. Thí dụ, qui định số giờ làm việc trong ngày, đặt ra các yêu cầu về vệ sinh, cung cấp hệ thống dịch vụ xã hội rộng khắp là hoàn toàn phù hợp với hệ thống cạnh tranh. Dĩ nhiên là có những lĩnh vực không thể áp dụng hệ thống cạnh tranh. Thí dụ, hậu quả tiêu cực của việc phá rừng hay khói nhà máy không chỉ tác động lên người chủ sở hữu các tài sản đó. Nhưng việc chúng ta phải nhờ đến sự can thiệp trực tiếp của chính quyền ở những lĩnh vực không thể tạo được điều kiện cho cạnh tranh hoạt động hiệu quả không có nghĩa là chúng ta phải ngăn chặn cạnh tranh ở những nơi có thể làm cho nó hoạt động. Tạo ra các điều kiện để cạnh tranh hiệu quả nhất, ngăn chặn gian lận và lừa đảo, phá bỏ độc quyền – là nhiệm vụ không thể thoái thác của nhà nước.

Điều này không có nghĩa là có thể tìm được một cái “trung đạo” giữa cạnh tranh và quản lí tập trung, mặc dù đây có vẻ là điều hợp lí nhất và hấp dẫn nhất đối với những người có hiểu biết. Chỉ cần suy nghĩ một chút là thấy ngay sự sai lầm của quan niệm như thế. Mặc dù cạnh tranh có thể chấp nhận một mức độ can thiệp nhất định, không thể kết hợp cạnh tranh với kế hoạch hoá bởi nếu làm như thế cạnh tranh sẽ không còn là kim chỉ nam cho quá trình sản xuất nữa. Sử dụng một cách nửa vời, cả cạnh tranh lẫn hệ thống quản lí tập trung sẽ trở thành công cụ tồi và kém hiệu quả; trộn lẫn vào nhau sẽ làm cho cả hai cùng mất khả năng hoạt động.

Chúng ta có thể kết hợp giữa kế hoạch hoá và cạnh tranh để lập kế hoạch cho việc cạnh tranh chứ không phải lập kế hoạch để chống cạnh tranh. Kế hoạch hoá mà chúng ta phê phán chính là kế hoạch hoá để chống cạnh tranh.

Sự ngộ nhận vĩ đại

Không nghi ngờ gì rằng phần lớn những người sống trong các nước dân chủ nhưng lại đòi hỏi phải quản lí tập trung tất cả các hoạt động kinh tế vì họ vẫn tin rằng chủ nghĩa xã hội và tự do cá nhân có thể dung hoà được với nhau. Nhưng nhiều nhà tư tưởng đã công nhận từ lâu rằng chủ nghĩa xã hội là mối đe doạ nguy hiểm nhất đối với tự do.

Hiện nay ít người nhớ rằng khởi kì thuỷ chủ nghĩa xã hội đã là một phong trào toàn trị. Nó là phản ứng chống lại chủ nghĩa phóng khoáng của Cách mạng Pháp. Các nhà văn Pháp, những người xây dựng nền móng cho chủ nghĩa xã hội, không hề nghi ngờ gì rằng phải có một chính phủ độc tài cứng rắn thì tư tưởng của họ mới có thể trở thành hiện thực được. Saint-Simon, người ủng hộ kế hoạch hoá đầu tiên trong thời hiện đại, đã tiên đoán rằng những người không tuân phục các bộ phận lập kế hoạch mà ông ta đề nghị sẽ bị “đối xử như súc vật”.

De Tocqueville, nhà chính trị học vĩ đại, hơn bất kì ai khác đã nhận thức được rằng dân chủ sẽ phải chiến đấu một mất một còn với chủ nghĩa xã hội: “Dân chủ mở rộng không gian tự do của từng con người,” ông nói. “Dân chủ trao cho mỗi người tất cả các giá trị khả dĩ,” ông nói như thế vào năm 1848, “trong khi chủ nghĩa xã hội biến mỗi người thành một kẻ thừa hành, thành một con số tròn trĩnh. Dân chủ và chủ nghĩa xã hội chỉ có một cái chung, đấy là từ: công bằng. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt: trong khi dân chủ tìm kiếm sự công bằng trong tự do thì chủ nghĩa xã hội tìm kiếm công bằng trong tù ngục và lao động khổ sai.”

Để người ta bớt nghi ngờ và với mục đích biến lòng khao khát tự do – động lực chính trị mạnh mẽ nhất – thành con ngựa kéo xe cho mình, những người xã hội chủ nghĩa lớn tiếng hứa hẹn “một nền tự do mới”. Họ bảo rằng chủ nghĩa xã hội sẽ đem đến cho con người “tự do kinh tế”, thiếu nó thì “tự do chính trị” sẽ chẳng có ý nghĩa gì.

Để cho lập luận của mình nghe có vẻ xuôi tai người ta đã khéo léo thay đổi cả ý nghĩa của từ “tự do”. Từ này vốn có nghĩa là tự do khỏi những hành động cưỡng bách, tự do khỏi quyền lực độc đoán của những người khác. Ngày nay nó đã được cải biến để có nghĩa là giải phóng khỏi nhu cầu, giải phóng khỏi sự ép buộc của hoàn cảnh, những sự ép buộc nhất định sẽ hạn chế khả năng lựa chọn của mỗi chúng ta. Tự do, với ý nghĩa như thế, thật ra chỉ là tên gọi khác của quyền lực hoặc tài sản. Yêu cầu một nền tự do mới thực ra chỉ là tên gọi khác của yêu cầu cũ, tức là yêu cầu phân phối lại tài sản mà thôi.

Lời khẳng định rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn hệ thống cạnh tranh đang bị và ngày càng bị nhiều nhà nghiên cứu bác bỏ. Niềm hi vọng sai lầm này chính là động lực mạnh nhất thúc đẩy chúng ta đi theo con đường kế hoạch hoá.

Ngay cả khi những lời hứa hẹn của những người xã hội chủ nghĩa hiện đại về một nền tự do rộng rãi hơn có thực tế và chân thành đến đâu đi nữa thì trong những năm gần đây những người quan sát càng ngày càng tỏ ra ngạc nhiên khi trực diện với những hậu quả không thể dự đoán trước được của chủ nghĩa xã hội, ngạc nhiên khi thấy “chủ nghĩa cộng sản” và “chủ nghĩa phát xít” giống nhau đến bất ngờ trong nhiều lĩnh vực. Như nhà văn Peter Drucker đã viết vào năm 1939:

“Không còn ai tin rằng chủ nghĩa Marx sẽ đem lại tự do và công bằng nữa, đấy chính là lí do thúc đẩy nước Nga bước lên con đường dẫn tới xã hội toàn trị phi tự do và bất công mà nước Đức đã theo. Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít không phải là những thực thể giống nhau. Chủ nghĩa phát xít là giai đoạn tiếp theo, sau khi chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ rằng đấy chỉ là một ảo tưởng, và nó đã chứng tỏ rằng đấy là một ảo tưởng, cả ở Nga cũng như ở Đức trước khi Hitler cướp được chính quyền.”

Trình độ tri thức của các đảng viên thường trong phong trào cộng sản và phát xít ở Đức trước năm 1933 cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. Nhiều người, nhất là những cán bộ tuyên truyền của cả hai đảng, đều biết việc những người cộng sản trẻ tuổi dễ dàng chạy sang đảng Quốc xã hoặc ngược lại. Cộng sản và Quốc xã thường xuyên xung đột với nhau hơn là xung đột với các đảng phái khác, đơn giản là vì họ cạnh tranh với nhau trong việc thu phục những người có cùng não trạng và căm thù nhau vì đảng này coi đảng kia là những kẻ dị giáo. Thực tế chứng tỏ rằng họ là những kẻ đồng hội đồng thuyền. Kẻ thù thực sự của cả hai đảng là người theo chủ nghĩa phóng khoáng kiểu cũ. Trong khi Quốc xã coi cộng sản, cộng sản coi Quốc xã và cả hai đều coi những người xã hội chủ nghĩa là đội hậu bị tiềm năng của mình thì họ lại nhận thức rõ rằng sẽ không bao giờ có chuyện thoả hiệp giữa họ và những người thực sự tin tưởng vào quyền tự do cá nhân.

Lời hứa về Con đường dẫn đến Tự do trên thực tế lại là Con đường quay về chế độ Nô lệ. Không khó dự đoán những hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra một khi chế độ dân chủ theo đuổi đường lối kế hoạch hoá. Mục đích của kế hoạch hoá được mô tả bằng một thuật ngữ mù mờ là “hạnh phúc của tất cả mọi người”. Sẽ không có sự thoả thuận nào về mục đích sẽ phải đạt, và hiệu quả của việc người ta đồng ý là cần phải có kế hoạch hoá tập trung mà không có thoả thuận về mục đích thì có khác gì một nhóm người thoả thuận đi với nhau mà chưa thoả thuận là họ muốn đi đâu: kết quả là có thể tất cả đều phải làm một chuyến đi mà đa số hoàn toàn không muốn chút nào.

Trong các nước dân chủ, cơ quan lập pháp không thể hoạt động như là các tổ chức lập kế hoạch. Họ không thể đạt được thoả thuận về tất cả mọi vấn đề, tức là không thể đạt được thoả thuận về việc quản lí toàn bộ nguồn lực quốc gia, vì có rất nhiều đường lối hành động có thể chấp nhận được. Nếu quốc hội có thể đạt được thoả thuận nào đó, bằng cách tiến hành từng bước một và thoả hiệp mọi vấn đề, thì cuối cùng thoả thuận đó cũng chẳng làm ai thoả mãn.

Lập kế hoạch kinh tế kiểu đó thì cũng khó chẳng khác gì, thí dụ, lập kế hoạch cho chiến dịch quân sự bằng các thủ tục dân chủ. Giống như khi lập chiến lược tác chiến, nhất định phải giao cho các chuyên gia. Ngay cả khi nền dân chủ có thể lập được kế hoạch trong từng lĩnh vực kinh tế thì nó vẫn phải giải quyết vấn đề kết hợp những kế hoạch riêng rẽ ấy thành một kế hoạch tổng thể. Lúc đó nhu cầu phải có một ban hay một người duy nhất với toàn quyền hành động lại càng mạnh mẽ hơn. Nhu cầu phải có một nhà độc tài về kinh tế là giai đoạn đặc thù của phong trào hướng đến kế hoạch hoá.

Lúc đó cơ quan lập pháp chỉ còn mỗi nhiệm vụ là lựa chọn ra những người sẽ có quyền lực tuyệt đối trên thực tế. Cả hệ thống sẽ tiến đến hình thức độc tài, trong đó người đứng đầu chính phủ được bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu, nhưng hắn có toàn quyền buộc cuộc bầu cử phải đi theo hướng mà hắn muốn.

Kế hoạch hoá nhất định sẽ dẫn đến chế độ độc tài vì độc tài là công cụ cưỡng bức hiệu quả nhất, nhất là nếu kế hoạch hoá tập trung được thực hiện trên qui mô lớn. Không có gì chứng tỏ, như nhiều người vẫn tin như thế, rằng một khi quyền lực được trao bằng các thủ tục dân chủ thì nó không thể là quyền lực độc đoán; nguồn gốc của quyền lực không ngăn được nó khỏi độc đoán; nếu không muốn sống dưới chế độ độc tài thì quyền lực phải bị giới hạn. “Chuyên chính vô sản”, ngay cả nếu nó có dân chủ về hình thức, một khi đã thực hiện việc quản lí tập trung nền kinh tế no sẽ tiêu diệt hoàn toàn quyền tự do cá nhân như bất kì chế độ độc tài nào khác đã từng làm trong quá khứ.

Tự do cá nhân không thể dung hoà với một mục đích tối thượng duy nhất mà cả xã hội phải vĩnh viễn phục tùng. Chỉ xin nói đến kinh nghiệm mà chúng ta đã trải qua trong thời chiến, khi mà hầu như tất cả đều phải phục tùng nhu cầu trực tiếp và khẩn thiết là bằng mọi giá phải bảo vệ cho được nền tự do của chúng ta. Những câu chữ sang trọng về những việc phải làm vì mục đích hoà bình như chúng ta từng làm vì mục đích chiến tranh là những câu chữ hoàn toàn sai, vì tạm thời hi sinh tự do để tự do trở thành vững mạnh hơn trong tương lai là hợp lí, còn thường xuyên phải hi sinh tự do vì nhu cầu của nền kinh tế kế hoạch hoá là việc hoàn toàn khác.

Những người từng quan sát sự chuyển hoá từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít trong một phần tư thế kỉ qua đều dễ dàng nhận thấy mối liên hệ giữa hai hệ thống này. Thực hiện cương lĩnh của chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với việc tiêu diệt tự do. Chủ nghĩa xã hội dân chủ, một sự ngộ nhận vĩ đại của mấy thế hệ gần đây, đơn giản là bất khả thi.

Tại sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất?

Không nghi ngờ gì rằng hệ thống “phát xít” ở Anh hay ở Mĩ sẽ khác rất xa mô hình của Ý hay Đức; không nghi ngờ gì rằng nếu việc chuyển hoá được thực hiện một cách phi bạo lực thì chúng ta có thể hi vọng có được những nhà lãnh đạo tử tế hơn. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là hệ thống phát xít của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hay sẽ dễ chịu hơn nguyên mẫu của chúng. Có nhiều lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống toàn trị nói trên là những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra.

Khi một chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế thì ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn: chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ kế hoạch, còn nhà lãnh đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị, những kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế độ toàn trị và nền văn minh cá nhân chủ nghĩa phương Tây.

Lãnh tụ toàn trị phải tập hợp xung quanh ông ta những kẻ tự nguyện phục tùng cái kỉ luật mà họ sẽ dùng vũ lực áp đặt cho toàn bộ nhân dân. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà đa số những người xã hội chủ nghĩa phản đối, đấy chính là bài học của nhiều nhà cải cách xã hội trong quá khứ. Các đảng xã hội cổ điển hoạt động trong khuôn khổ của các lí tưởng dân chủ; họ không có tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi các nhiệm vụ mà họ đã chọn. Điều đặc biệt là cả ở Đức lẫn ở Ý, chủ nghĩa phát xít đã thành công sau khi các đảng xã hội từ chối nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo chính phủ. Họ không muốn áp dụng những biện pháp vì đã nhận ra khả năng phát triển của chúng. Họ vẫn hi vọng vào phép màu rằng đa số sẽ đồng ý về một kế hoạch tổ chức toàn bộ xã hội. Những người khác thì đã học được bài học rằng trong xã hội được kế hoạch hoá vấn đề không còn là đa số sẽ đồng ý cái gì mà là vấn đề nhóm lớn nhất là nhóm nào, chỉ cần các thành viên của nó đồng ý là đủ để hình thành đường lối thống nhất cho tất cả mọi công việc.

Có ba lí do vì sao cái nhóm có đông thành viên, với những quan điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất mà thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội.

Thứ nhất, trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu và quan điểm càng phân hoá. Nếu chúng ta muốn tìm một sự thống nhất cao về quan điểm thì chúng ta phải hạ thấp tiêu chuẩn đạo đức và tri thức của chúng ta xuống ngang hàng với những bản năng nguyên thuỷ. Điều đó không có nghĩa là đa số dân chúng có tiêu chuẩn đạo đức thấp; điều đó chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với những chuẩn mực giá trị giống nhau là những người có tiêu chuẩn đạo đức thấp.

Thứ hai, vì nhóm đó chưa đủ lớn để làm nghiêng cán cân sang phía lãnh tụ, ông ta sẽ phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách kết nạp thật nhiều người vào cùng tín điều với ông ta. Ông ta phải tìm được sự ủng hộ của những kẻ dễ bảo và cả tin, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp nhận các hệ thống giá trị sẵn có miễn là được rót vào tai họ một cách liên tục. Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một cách dở dang, những kẻ dễ dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào lại là thành phần đông nhất của các đảng toàn trị.

Thứ ba, để có thể đưa những người ủng hộ thành một tập thể cố kết, người lãnh đạo phải lợi dụng những nhược điểm của con người. Có vẻ như người ta dễ dàng đồng thuận về những vấn đề có tính tiêu cực như chí căm thù giặc, lòng ghen tức với những kẻ khá giả, hơn là về những nhiệm vụ có tính tích cực.

Sự tương phản giữa “chúng ta” và “chúng nó” luôn bị những kẻ săn tìm lòng trung thành của quần chúng lợi dụng. Kẻ thù có thể là bên trong như “Do Thái” ở Đức hay “Kulak” ở Nga, hay kẻ thù bên ngoài. Trong mọi trường hợp kĩ thuật này bao giờ cũng giành được ưu thế ở chỗ nó làm cho lãnh tụ có nhiều tự do hành động hơn bất kì chương trình mang tính tích cực nào khác.

Trong tổ chức hay đảng toàn trị, muốn thăng tiến thì phải dám làm những việc bất nhân. Trong đạo đức học cá nhân chủ nghĩa, nguyên tắc mục đích biện minh cho phương tiện được coi là sự phủ nhận mọi tiêu chuẩn đạo đức thì trong đạo đức học của chủ nghĩa tập thể lại trở thành nguyên tắc tối thượng. Một người theo chủ nghĩa tập thể kiên định phải sẵn sàng làm tất cả mọi việc nếu đó là việc “có ích cho tất cả mọi người” vì đối với anh ta đấy là tiêu chuẩn hành động duy nhất.

Một khi chấp nhận rằng cá nhân chỉ là phương tiện phục vụ cho một thực thể cao quí hơn, gọi là xã hội hay quốc gia cũng được, thì phần lớn các đặc trưng của chủ nghĩa toàn trị mà chúng ta kinh tởm tất yếu sẽ xuất hiện. Từ quan điểm của chủ nghĩa tập thể thì sự bất dung và đàn áp tàn bạo, dối trá và theo dõi, coi thường cuộc sống và hạnh phúc cá nhân là những việc thuộc về bản chất và không thể tránh được. Những hành động làm chúng ta ghê tởm như bắn giết con tin, giết người già hay người ốm được coi là những việc thích hợp; di dân cưỡng bức và bắt lưu đầy hàng trăm ngàn người trở thành biện pháp chính trị được hầu như tất cả mọi nguời, trừ các nạn nhân, ủng hộ.

Muốn trở thành người có ích cho sự vận hành của nhà nước toàn trị, để đạt được mục đích, con người phải sẵn sàng bước qua mọi nguyên tắc đạo đức mà anh ta từng biết. Trong bộ máy toàn trị những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ luôn giành được cơ hội tốt. Gestapo hay các ban quản lí các trại tập trung, Bộ tuyên truyền hay SA hoặc SS (hoặc những cơ quan tương ứng của Nga) không phải là chỗ thể hiện tình cảm của con người. Nhưng đấy chính là con đường tiến thân trong ban lãnh đạo của nhà nước toàn trị.

Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mĩ, giáo sư Frank H. Knight, đã nhận xét rất đúng rằng chính quyền của nhà nước theo chế độ tập thể “dù muốn hay không cũng phải làm những việc đó: xác suất những người nắm chính quyền là các cá nhân không thích giữ và thể hiện quyền lực cũng ngang bằng với xác suất một người cực kì dịu dàng muốn làm công việc của cai đội trong trại nô lệ”.

Một vấn đề nữa cần phải làm rõ: Chủ nghĩa tập thể nghĩa là sự cáo chung của chân lí. Muốn cho hệ thống toàn trị hoạt động hữu hiệu thì việc mọi người đều buộc phải làm vì mục đích do những kẻ nắm quyền lựa chọn vẫn chưa đủ; điều quan trọng là người ta phải coi đấy là mục đích của chính mình. Chỉ có thể thực hiện được điều đó bằng tuyên truyền và kiểm soát toàn bộ các nguồn thông tin.

Cách tốt nhất để người dân chấp nhận các giá trị mà họ phải phục vụ là thuyết phục họ rằng đấy là các giá trị họ vẫn luôn luôn tin tưởng, chỉ có điều trước đây họ đã hiểu chưa thật đúng mà thôi. Và biện pháp tốt nhất là gán cho các ngôn từ cũ những ý nghĩa hoàn toàn mới. Điều đó đã trở thành đặc điểm chủ yếu của bầu không khí trí tuệ của chế độ toàn trị, làm cho những người quan sát hời hợt phải lúng túng: ngôn ngữ bị xuyên tạc, ý nghĩa của từ ngữ bị biến dạng.

Bị xuyên tạc nhiều nhất chính là từ “tự do”, một từ được các nhà nước toàn trị, cũng như mọi quốc gia khác, sử dụng thường xuyên. Trên thực tế, có thể nói rằng bất cứ khi nào tự do, theo nghĩa chúng ta hiểu, bị xâm hại thì bao giờ người ta cũng hứa hẹn cho nhân dân một nền tự do mới. Có những người ủng hộ kế hoạch hoá còn hứa cho nền “tự do tập thể”, nhưng đây cũng là khái niệm đáng ngờ như bất cứ khái niệm nào phát ra từ miệng các chính khách toàn trị mà thôi. “Tự do tập thể” không phải là tự do của từng thành viên trong xã hội mà là quyền tự do của người lập kế hoạch, được phép làm với xã hội tất cả những gì hắn muốn. Đây là tự do trong tay kẻ có quyền lực tuyệt đối

Tuyệt đại đa số rất dễ bị tước đoạt khả năng suy nghĩ độc lập. Nhưng thiểu số những người còn giữ được khả năng phê bình cũng phải bị bịt miệng. Việc phê bình công khai hay thậm chí ngay cả những biểu hiện của sự nghi ngờ cũng bị ngăn chặn vì chúng có thể làm suy giảm sự ủng hộ chế độ. Như Sidney và Beatrice Webb viết về thái độ trong các doanh nghiệp Nga: “Khi công việc đang được tiến hành, bất kì biểu hiện công khai nào về sự ngờ vực về khả năng thành công của kế hoạch đều bị coi là sự bất trung, thậm chí phản bội vì nó có thể ảnh hưởng đến ý chí và nỗ lực của những người khác”.

Việc kiểm soát còn được thực hiện cả trong những lĩnh vực có vẻ như chẳng liên quan gì đến chính trị. Thí dụ như thuyết tương đối bị coi là “Cuộc tấn công của bọn Do Thái vào cơ sở của vật lí học Thiên chúa giáo và Bắc Âu” và vì nó “mâu thuẫn với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa Marx”. Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ mục tiêu tự giác của xã hội. Không thể có những hoạt động tự phát, thiếu lãnh đạo vì nó có thể tạo ra kết quả không thể dự đoán và không được kế hoạch trù liệu.

Nguyên tắc này còn bao trùm lên cả các trò chơi cũng như giải trí. Tôi xin mời bạn đọc đoán xem những người chơi cờ chính thức kêu gọi: “Chúng ta phải chấm dứt một lần và vĩnh viễn thái độ trung lập của môn cờ vua. Chúng ta phải lên án một lần và vĩnh viễn công thức ‘cờ chỉ là cờ’” này ở đâu.

Điều đáng lo ngại nhất là, thái độ khinh thường tự do trí thức không phải là việc chỉ xảy ra sau khi chế độ toàn trị được thành lập mà nó hiện diện trong những người tin vào chủ nghĩa tập thể trên khắp thế giới. Sự đàn áp tàn bạo nhất cũng vẫn được bỏ qua nếu nó được thực hiện nhân danh chủ nghĩa xã hội. Người ta công khai cổ vũ cho thái độ bất dung đối với những tư tưởng khác biệt. Bi kịch của tư tưởng tập thể là ở chỗ nó bắt đầu bằng việc coi lí trí là tối thượng nhưng lại kết thúc bằng việc tiêu diệt lí trí.

Một khía cạnh nữa của sự thay đổi các giá trị đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra cũng đáng phải suy nghĩ. Những đức tính tốt mà người Anglo-Saxon có quyền tự hào và nhờ chúng mà họ được coi là những người ưu tú lại đang càng ngày càng mất giá ở Anh và Mĩ. Đấy là những tính tốt như tính độc lập và tự lực cánh sinh, sáng kiến và trách nhiệm cá nhân, tin tưởng vào các hoạt động thiện nguyện, không can thiệp vào công việc của người khác và tinh thần khoan dung đối với sự khác biệt, tinh thần nghi ngờ lành mạnh đối với quyền lực và chính quyền.

Hầu như tất cả các truyền thống và thiết chế hun đúc nên bản sắc dân tộc và toàn bộ môi trường đạo đức của nước Anh và nước Mĩ đang bị chủ nghĩa tập thể và xu hướng tập quyền hàng ngày hàng giờ phá huỷ.

Kế hoạch hoá và pháp trị

Việc tuân thủ một trong những nguyên tắc cổ xưa vĩ đại nhất gọi là Pháp trị là điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa một đất nước tự do với một đất nước nằm dưới quyền chính phủ độc đoán. Bỏ qua các chi tiết kĩ thuật, điều này có nghĩa là mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ các nguyên tắc đã được ấn định và tuyên bố từ trước – các nguyên tắc này cho phép người ta dự đoán được một cách chắc chắn cách thức chính phủ sử dụng lực lượng cưỡng bức trong những hoàn cảnh cho trước và lập kế hoạch cho các công việc của cá nhân trên cơ sở những hiểu biết như thế. Như vậy là, trong khuôn khổ của luật chơi đã biết, cá nhân – được tự do theo đuổi các mục tiêu của mình – chắc chắn rằng chính phủ sẽ không sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện nhằm cản trở các nỗ lực của anh ta.

Kế hoạch hoá kinh tế xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ làm hoàn toàn ngược lại. Cơ quan lập kế hoạch không thể tự buộc mình vào những qui tắc chung, tức là những qui tắc có thể ngăn chặn sự độc đoán.

Khi chính phủ phải quyết định cần nuôi bao nhiêu lợn hay cần cho bao nhiêu xe bus chạy, mỏ than nào cần được khai thác, hoặc đôi giầy giá bao nhiêu, tất cả quyết định đó đều không có giá trị trong thời gian dài. Chắc chắn chúng phải phụ thuộc vào hoàn cảnh của từng giai đoạn, và trong khi ra quyết định người ta phải cân nhắc quyền lợi của các cá nhân và các nhóm khác nhau.

Cuối cùng, một người nào đó sẽ phải quyết định lợi ích của ai là quan trọng hơn và quan điểm của người đó sẽ phải trở thành một phần của luật pháp. Do đó mà ai cũng thấy rằng nhà nước càng “lập nhiều kế hoạch” thì lại càng gây khó khăn cho các cá nhân.

Sự khác nhau giữa hai loại luật là rất quan trọng. Khác nhau như việc cung cấp những tấm biển chỉ đường và chỉ cho người ta phải đi theo đường nào.

Hơn nữa, chính phủ hoạt động theo kế hoạch từ trung ương thì không thể là một chính phủ khách quan. Lúc đó nhà nước sẽ không còn là một phần của bộ máy công lợi có chức năng giúp cho các cá nhân phát triển các khả năng của mình một cách đầy đủ nhất, mà sẽ trở thành một thể chế cố tình gây ra bất công trong việc thoả mãn nhu cầu của nhân dân, cho phép một người được làm cái mà người khác bị cấm. Một số người sẽ được giầu có đến mức nào, một số người khác thì được phép có những gì, nhất định sẽ trở thành luật.

Pháp trị là chính phủ không tạo ra đặc quyền pháp lí cho một nhóm người cụ thể nào đó, pháp trị cũng là bảo đảm sự công bằng trước pháp luật, tức là khác hẳn với chính phủ độc đoán. Điều đặc biệt là những người xã hội chủ nghĩa (và cả Quốc xã) luôn luôn phản đối nền tư pháp “chỉ” mang tính hình thức, họ cũng phản đối việc luật không ghi rõ một số người sẽ được sung túc đến mức nào, họ còn đòi “xã hội hoá luật pháp” và tấn công sự độc lập của các quan toà.

Trong xã hội kế hoạch hoá, luật pháp phải hợp thức hoá các hành động độc đoán. Nếu luật pháp khẳng định rằng một cơ quan hay nhà chức trách nào đó có thể làm bất kì cái gì họ muốn thì cơ quan ấy hoặc nhà chức trách ấy làm bất kì cái gì cũng đều là hợp pháp cả, nhưng đấy không phải là pháp trị. Khi đã trao cho chính phủ quyền lực vô giới hạn thì ngay nguyên tắc độc đoán nhất cũng có thể được luật hoá; và bằng cách đó nền dân chủ có thể biến thành chế độ độc tài hoàn hảo nhất có thể tưởng tượng được.

Chỉ trong giai đoạn phóng khoáng, pháp trị mới được người ta tự giác thúc đẩy và đấy cũng là thành quả vĩ đại nhất của giai đoạn này. Đấy là hiện thân về mặt pháp lí của tự do. Như Immanuel Kant từng nói: “Theo luật chứ không theo người, đấy chính là tự do.”

Kế hoạch hoá là “tất yếu”?

Rõ ràng là hiện nay ít người ủng hộ kế hoạch hoá còn có thể vênh vang nói rằng kế hoạch hoá tập trung là điều đáng mơ ước nữa. Hiện nay đa phần những người đó đều khẳng định rằng chúng ta buộc phải làm như thế vì hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.

Người ta thường lập luận rằng sự phức tạp của nền văn minh hiện đại đã tạo ra những vấn đề mới mà chúng ta chỉ có thể hi vọng giải quyết bằng kế hoạch hoá tập trung mà thôi. Nói như thế là hoàn toàn không hiểu sự vận hành của cạnh tranh. Chính sự phức tạp của hoàn cảnh hiện thời lại làm cho cạnh tranh trở thành biện pháp điều phối công việc phù hợp nhất.

Nếu các điều kiện đơn giản đến mức một cá nhân hay cơ quan nào đó có thể theo dõi được tất cả các sự kiện thì kiểm soát một cách hiệu quả hay kế hoạch hoá không phải là việc khó. Nhưng nếu phải tính đến nhiều tác nhân và là các tác nhân phức tạp thì không một trung tâm nào có thể theo dõi được. Các điều kiện cung cầu của các loại hàng hoá khác nhau thay đổi thường xuyên, không một trung tâm nào có thể nhận thức hết hoặc có thể giải quyết ngay được.

Nhờ cạnh tranh – ngoài ra không trật tự kinh tế nào có thể làm được – hệ thống giá cả sẽ tự động ghi lại tất cả các dữ liệu tương ứng. Doanh nhân, bằng cách quan sát sự vận động của giá cả, giống như người kĩ sư quan sát sự vận hành của các bánh răng, có thể điều chính hoạt động của anh ta cho phù hợp với hoạt động của các doanh nhân khác.

So với phương pháp giải quyết các vấn đề kinh tế một cách phi tập trung cộng với việc điều phối tự động thông qua giá cả thì phương pháp quản lí tập trung tỏ ra vụng về, thô thiển và có tầm hoạt động giới hạn đến khó tin. Không hề phóng đại khi nói rằng nếu chúng ta phải dựa vào kế hoạch hoá tập trung để phát triển thì hệ thống công nghiệp không thể nào đạt được mức độ phức tạp và uyển chuyển như hiện nay. Nền văn minh hiện đại có thể xuất hiện chính là vì nó không được xây dựng một cách có ý thức. Việc phân công lao động phức tạp đến mức không thể nào lập kế hoạch được. Kinh tế càng phức tạp thì việc quản lí tập trung càng không cần thiết, chúng ta càng phải sử dụng kĩ thuật cạnh tranh chứ không được lệ thuộc vào việc kiểm soát có ý thức.

Người ta còn lập luận rằng sự thay đổi công nghệ làm cho cạnh tranh trở thành bất khả vì các lĩnh vực không ngừng tăng lên và chúng ta buộc phải lựa chọn giữa việc kiểm soát sản xuất bởi các công ty độc quyền tư nhân hoặc sự quản lí của chính phủ. Sự gia tăng độc quyền có vẻ như là hậu quả của chính sách mà nhiều nước theo đuổi chứ không hẳn là hậu quả tất yếu của phát triển công nghệ. Vấn đề này được Hội đồng Kinh tế Quốc gia Lâm thời nghiên cứu một cách toàn diện (thật khó có thể nghi ngờ rằng đây là một nghiên cứu quá thiên về phía phóng khoáng). Hội đồng đã rút ra kết luận như sau:

“Hiệu quả vượt trội của các xí nghiệp lớn chưa được chứng minh; các lợi thế được cho là có thể huỷ hoại cạnh tranh đã không được tìm thấy trong nhiều lĩnh vực… Kết luận rằng lợi thế của sản xuất qui mô lớn nhất định sẽ dẫn đến tiêu diệt cạnh tranh là không thể chấp nhận được… Hơn nữa, cần phải ghi nhận rằng độc quyền thường là kết quả của những thoả thuận ngầm và được thúc đẩy bởi chính sách của chính phủ. Khi các thoả thuận này bị coi là phi pháp và khi chính sách được xem xét lại một cách toàn diện thì có thể tái lập các điều kiện cần thiết cho cạnh tranh phát triển.”

Bất kì ai từng chứng kiến sự nhiệt tình của các doanh nhân độc quyền trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của nhà nước nhằm làm cho sự kiểm soát của họ hữu hiệu hơn sẽ không còn một chút nghi ngờ nào về “tính tất” yếu của quá trình phát triển như thế. Ở Mĩ chính sách bảo hộ quá mức đã giúp cho nạn độc quyền phát triển. Ở Đức, từ năm 1878 nhà nước đã chủ động thi hành chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của các cartel. Chính ở Đức, nhờ sự giúp đỡ của nhà nước, người ta đã tiến hành một thí nghiệm vĩ đại đầu tiên trong việc “lập kế hoạch một cách khoa học” và “tổ chức một cách tự giác nền công nghiệp” dẫn đến việc hình thành các công ty độc quyền vô cùng to lớn. Thủ tiêu cạnh tranh là chính sách có tính toán ở Đức, được thực hiện nhân danh lí tưởng mà nay chúng ta gọi là kế hoạch hoá.

Chính sách của hai nhóm đầy quyền lực, tức là tư bản có tổ chức và lao động có tổ chức vốn ủng hộ tổ chức độc quyền trong lĩnh vực công nghiệp, chứa đựng một nguy cơ lớn. Gần đây các tổ chức độc quyền phát triển mạnh là do sự hợp tác của tư bản có tổ chức và lao động có tổ chức, nơi một vài nhóm người lao động được ưu tiên ưu đãi chia nhau lợi nhuận độc quyền làm thiệt hai cho cộng đồng và đặc biệt là thiệt hại cho những người lao động trong các ngành công nghiệp thiếu tổ chức. Mặc dù vậy, không có lí do gì để tin rằng xu hướng này là tất yếu.

Xu hướng chuyển sang kế hoạch hoá là kết quả của một hành động có chủ đích. Không có nhu cầu ngoại tại nào buộc chúng ta phải làm như thế.

Kế hoạch hoá có làm chúng ta bớt lo không?

Phần lớn những người ủng hộ kế hoạch hoá, từng xem xét một cách nghiêm túc khía cạnh thực tiễn của nhiệm vụ, không hề nghi ngờ gì rằng nền kinh tế được quản lí (tập trung – ND) nhất định phải vận hành theo phương pháp độc tài, rằng hệ thống phức tạp của các hoạt động liên kết chằng chịt với nhau phải nằm dưới sự chỉ đạo của các chuyên gia, viên tổng tư lệnh phải có quyền lực tuyệt đối, hành động của ông ta không thể bị giới hạn bởi các thủ tục dân chủ. May là họ còn an ủi chúng ta rằng việc quản lí độc tài như thế “chỉ” liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà thôi. Lời bảo đảm đó thường đi kèm với ám chỉ rằng bằng cách từ bỏ tự do trong những lĩnh vực không quan trọng, chúng ta sẽ được tự do theo đuổi những giá trị cao cả hơn. Trên cơ sở đó, những người vốn ghét cay ghét đắng độc tài chính trị lại thường lên tiếng đòi hỏi độc tài trong lĩnh vực kinh tế.

Các lí lẽ được sử dụng nhắm vào những bản năng cao quí nhất của chúng ta. Nếu kế hoạch hoá thực sự làm cho chúng ta không còn phải bận tâm với những lo lắng vụn vặt, làm cho đời sống vật chất của chúng ta trở thành đơn giản nhưng chúng ta lại có một đời sống tinh thần cao thì ai nỡ coi thường lí tưởng như thế?

Đáng tiếc là mục đích kinh tế không bao giờ tách rời khỏi các mục đích khác của đời sống. Cái trong ngôn ngữ bình thường mà ta vẫn gọi một cách sai lầm là “động cơ kinh tế” chỉ có nghĩa là ước muốn giành lấy những cơ hội tiềm tàng, giành lấy những điều kiện cho những mục tiêu khác mà thôi. Chúng ta muốn kiếm tiền là vì tiền cho chúng ta quyền được lựa chọn trong việc thụ hưởng thành quả lao động của mình – tiền ta ta cứ tiêu.

Vì thu nhập có hạn nên chúng ta cảm thấy những hạn chế do sự nghèo khó tương đối đè trên vai mình và nhiều người sinh ra căm thù tiền bạc, coi tiền là biểu tượng của sự hạn chế. Trên thực tế, tiền là công cụ vĩ đại nhất của tự do mà con người từng phát minh. Trong xã hội hiện nay chính tiền đã mở ra cho người nghèo những khả năng lựa chọn to lớn, mà trước đây vài thế kỉ ngay cả người giầu cũng không có.

Để hiểu được giá trị thật sự của đồng tiền phải tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trên thực tế, nếu, như những người xã hội chủ nghĩa đề nghị: dùng “khuyến khích phi kinh tế” thay cho “động cơ kinh tế”. Nếu mọi phần thưởng, thay vì được trao bằng tiền lại được trao bằng danh hiệu, đặc lợi hay quyền lực, nhà ở hay lương thực thực phẩm tốt hơn, quyền được đi du lịch hay đi học thì điều đó có nghĩa là người nhận không có quyền lựa chọn và bất cứ người quyết định thưởng nào cũng có quyền xác định không chỉ số lượng mà cả cách thức hưởng thụ phần thưởng đó.

Cái gọi là tự do kinh tế mà những người ủng hộ kế hoạch hoá hứa hẹn, chỉ có nghĩa là chúng ta không còn phải tự giải quyết các vấn đề kinh tế của mình nữa và những lựa chọn khó khăn đi kèm với nó đã được những người khác làm hộ cho chúng ta. Trong thời đại ngày nay chúng ta gần như phụ thuộc hoàn toàn vào những phương tiện do người khác sản xuất ra cho nên kế hoạch hoá kinh tế sẽ kéo theo sự quản lí gần như toàn bộ đời sống của chúng ta. Khó có lĩnh vực nào, từ những nhu cầu sơ đẳng cho đến quan hệ của chúng ta với bạn bè, người thân, từ việc làm cho đến cách nghỉ ngơi của chúng ta thoát khỏi được “sự kiểm soát có ý thức” của những lập kế hoạch.

Quyền lực của các cơ quan lập kế hoạch đối với đời sống riêng tư của chúng ta sẽ không hề giảm ngay cả khi người tiêu dùng, trên danh nghĩa, được tự do sử dụng thu nhập của mình vì chính quyền vẫn kiểm soát sản xuất.

Quyền tự do lựa chọn trong xã hội cạnh tranh dựa trên sự kiện là nếu một người nào đó không chịu đáp ứng nhu cầu của chúng ta thì chúng ta có thể quay sang người khác. Nhưng đứng trước một nhà sản xuất độc quyền thì chúng ta chỉ còn hi vọng vào lòng tốt của ông ta mà thôi. Và như thế, khi nhà chức trách quản lí toàn bộ nền kinh tế sẽ trở thành một người độc quyền lớn nhất mà ta có thể tưởng tượng được.

Cơ quan này sẽ có toàn quyền quyết định ta được nhận cái gì và với điều kiện nào. Cơ quan này không chỉ quyết định loại hàng hoá và dịch vụ được cung cấp mà còn cả số lượng của chúng nữa; nó có thể quản lí cả việc phân phối giữa các địa phương và nhóm xã hội và nếu muốn, nó có thể thực hiện chính sách phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện nhất. Không phải quan điểm của chúng ta mà quan điểm của một người nào đó về việc ta phải thích hay không thích cái gì sẽ quyết định ta được nhận cái gì.

Nếu là người sản xuất, chúng ta còn bị nhà chức trách nhào nặn và “hướng dẫn” kĩ lưỡng hơn nữa. Đa số chúng ta sử dụng phần thời gian trong cuộc đời để làm việc và công việc của chúng ta thường quyết định nơi cư trú và những người xung quanh ta. Do đó, đối với hạnh phúc của chúng ta, tự do lựa chọn công việc có thể còn quan trọng hơn cả quyền tự do sử dụng thu nhập trong thời gian rảnh rỗi.

Ngay cả trong những thế giới tốt đẹp nhất, quyền tự do này vẫn có giới hạn. Chỉ một ít người có thể tự coi là thực sự có tự do trong việc lựa chọn công việc. Nhưng vấn đề là chúng ta có thể lựa chọn, vấn đề là chúng ta không bị trói chặt vào công việc đã được người khác lựa chọn cho ta và nếu ta không thể chịu đựng được công việc đó nữa, hoặc nếu ta thích công việc khác thì những người có khả năng vẫn có thể, với một cái giá phải trả nào đó, tìm được công việc thích hợp hơn. Không có gì đau khổ hơn là nhận thức được rằng dù cố gắng đến đâu chúng ta cũng không thể thay đổi được điều kiện sống của mình. Làm một bánh răng trong một cỗ máy đã là khổ, nhưng còn khổ hơn bội phần nếu ta không thể bỏ đi, nếu ta bị cột chặt vào một chỗ, cột chặt vào những người lãnh đạo do người khác lựa chọn cho ta.

Trong thế giới ngày nay, còn phải làm nhiều nữa thì mới mong cải thiện được cơ hội lựa chọn của người dân. Nhưng “kế hoạch hoá” chắc chắn sẽ đi theo hướng ngược lại. Kế hoạch phải kiểm soát số người gia nhập vào những ngành nghề khác nhau hay kiểm soát mức lương hoặc kiểm soát cả hai. Việc kiểm soát và hạn chế như thế thường là những biện pháp được thi hành đầu tiên trong hầu như tất cả các trường hợp kế hoạch hoá mà ta đã biết.

Trong xã hội cạnh tranh có thể mua được mọi thứ. Đôi khi với giá cực kì cao. Muốn được cái này thì phải hi sinh cái kia. Nhưng cái mà người ta đưa ra không phải là tự do lựa chọn mà là mệnh lệnh và cấm đoán mà ta nhất định phải tuân theo.

Việc người ta muốn giải thoát khỏi những sự lựa chọn đầy đau đớn mà hoàn cảnh khó khăn đặt lên vai họ là điều dễ hiểu. Nhưng ít người muốn người khác lựa chọn hộ. Họ chỉ muốn không cần phải lựa chọn gì hết mà thôi. Và vì thế mọi người đều sẵn sàng tin rằng lựa chọn không phải là vấn đề tất yếu, chúng ta phải lựa chọn là vì hệ thống kinh tế buộc chúng ta phải làm như thế. Sự thật là, chính các vấn đề kinh tế đã làm cho người dân phẫn nộ.

Nhưng người ta lại thích bị lừa rằng vấn đề kinh tế không tồn tại trên thực tế. Họ còn tiếp tục bị lừa thêm bởi lời khẳng định rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn hệ thống cạnh tranh. Lời khẳng định này đang càng ngày càng bị nhiều nhà nghiên cứu bác bỏ. Hiện nay ngay cả những nhà kinh tế học theo xu hướng xã hội chủ nghĩa cũng chỉ còn hi vọng rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ có hiệu quả ngang với hệ thống cạnh tranh mà thôi. Họ tiếp tục bảo vệ kế hoạch hoá vì hệ thống này sẽ bảo đảm việc phân phối sản phẩm một cách công bằng hơn. Nếu chúng ta muốn quyết định một cách có ý thức ai được nhận cái gì thì chúng ta buộc phải lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế, đấy là vấn đề không cần tranh cãi.

Vấn đề chỉ còn là liệu cái giá mà ta phải trả cho việc thực hiện lí tưởng của ai đó về sự công bằng có phải là sự bất bình và áp bức sẽ khủng khiếp hơn cả thời “các lực lượng kinh tế được chơi một cách tự do” – vốn đang bị phê phán dữ dội – hay không mà thôi.

Chính phủ sẽ thực hiện việc phân phối sản phẩm theo nguyên tắc nào? Có một câu hỏi chung cuộc cho biết bao nhiêu vấn đề sẽ xuất hiện hay không?

Chỉ có một nguyên tắc chung, nguyên tắc đơn giản này sẽ đưa ra câu trả lời: sự bình đẳng tuyệt đối cho tất cả mọi người. Nếu đấy là mục đích thì ít nhất nó cũng làm cho ý tưởng mù mờ về phân phối công bằng có một nội dung rõ ràng. Nhưng vấn đề là dân chúng đâu có muốn một sự công bằng cơ học như thế, còn chủ nghĩa xã hội thì không hứa công bằng tuyệt đối mà chỉ hứa “công bằng hơn” mà thôi.

Trên thực tế, công thức này chẳng giải đáp được bất kì câu hỏi nào. Công thức đó chẳng giúp được gì, chúng ta vẫn phải quyết định, trong từng trường hợp cụ thể, mức độ cống hiến của từng người hoặc từng nhóm khác nhau. Điều duy nhất nó có thể nói được: đấy là lấy của người giầu, càng nhiều càng tốt. Nhưng khi phải chia “quả thực” thì vấn đề lại xuất hiện, cứ như thể chưa ai biết công thức “công bằng hơn” nghĩa là thế nào vậy.

Người ta thường nói không có tự do kinh tế thì tự do chính trị cũng chẳng có giá trị gì. Đúng như thế, nhưng theo nghĩa ngược lại với mệnh đề mà những người ủng hộ kế hoạch hoá thường nói. Tự do kinh tế – vốn là tiền đề cho mọi quyền tự do khác – không phải là tự do khỏi những lo lắng về kinh tế mà những người xã hội chủ nghĩa hứa hẹn với chúng ta, nhưng họ lại thường quên nói rằng họ cũng giải phóng chúng ta khỏi quyền lựa chọn nữa. Tự do kinh tế là tự do hoạt động kinh tế, và cùng với quyền lựa là trách nhiệm và rủi ro.

Hai kiểu an toàn

Giống như cái “tự do kinh tế” giả mạo đã nói đến bên trên, sự an toàn về kinh tế cũng thường được coi là điều kiện tối cần để đạt được tự do thực sự. Theo một nghĩa nào đó thì điều đó vừa đúng vừa quan trọng nữa. Những người không tự tin rằng họ có thể tự nuôi sống được mình thường không có tư duy độc lập và không có cá tính mạnh.

Nhưng thực ra an toàn cũng có hai loại. Loại an toàn thứ nhất là tin chắc rằng mọi người đều được nhận những thứ tối cần thiết để tồn tại; loại an toàn thứ hai là sự bảo đảm cho một lối sống, một địa vị tương đối mà một người hoặc một nhóm người được hưởng so với những người khác.

Muốn giữ được tự do nói chung thì không có lí do gì mà một xã hội đã đạt đến mức độ thịnh vượng như xã hội chúng ta lại không bảo đảm cho tất cả mọi người loại an toàn thứ nhất, nghĩa là bảo đảm cho mọi người một lượng thức ăn tối thiểu, nhà ở và quần áo để bảo đảm sức khỏe. Không có lí do gì mà chính phủ lại không giúp tổ chức một hệ thống an sinh xã hội rộng khắp nhằm trợ giúp cho những người gặp hoạn nạn mà ít người có thể vượt qua được. Kế hoạch hoá để bảo vệ loại an toàn thứ hai là có hại cho tự do. Đấy là kế hoạch được thiết kế nhằm bảo đảm cho một số người hoặc nhóm người tránh được thất thu.

Càng ngày càng rõ rằng nếu điều kiện kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó được cải thiện nhưng các thành viên của nó lại được phép đẩy những người khác ra để họ được hưởng toàn bộ lợi thế dưới dạng tiền lương hay lợi nhuận cao hơn thì những người làm việc trong các ngành mà mức cầu suy giảm sẽ chẳng có chỗ mà đi và bất kì sự thay đổi nào cũng đều làm cho số người thất nghiệp gia tăng. Không nghi ngờ gì rằng số người thất nghiệp và sự thiếu tin tưởng vào tương lai trong mấy chục năm lại đây phần lớn là do những biện pháp bảo đảm như thế tạo ra.

Chỉ có những người từng trải qua mới thấy hết được tình cảnh tuyệt vọng của những người, trong cái xã hội đã trở thành xơ cứng như thế, bị đẩy ra bên ngoài những nghề nghiệp đã được bảo hộ. Chưa bao giờ một giai cấp lại bóc lột một giai cấp khác một cách dã man hơn là những người sản xuất đã thành đạt bóc lột những người sản xuất kém may mắn hơn. Đấy chính là kết quả của quá trình “điều tiết” cạnh tranh. Khó có thể tìm được khẩu hiệu gây ra nhiều tai hoạ hơn là lí tưởng về sự “ổn định” giá cả và tiền lương trong một số lĩnh vực nào đó, vì trong khi bảo đảm thu nhập cho một số người thì lại làm cho vị thế của những người khác càng bấp bênh thêm. Ở Anh và Mĩ sự ưu tiên, ưu đãi, đặc biệt là dưới hình thức “điều tiết” cạnh tranh, “ổn định” giá cả và tiền lương trong một số lĩnh vực đã ngày càng trở thành quan trọng. Nhưng bất cứ sự bảo đảm an toàn nào cho một nhóm cũng sẽ làm gia tăng sự mất an toàn của những nhóm khác. Nếu bạn bảo đảm cho một người nào đó một phần cố định của một cái bánh thì phần chia cho những người còn lại sẽ thay đổi còn nhiều hơn cả sự thay đổi của chính kích thước cái bánh. Và như vậy là yếu tố chủ yếu nhất của sự an toàn mà hệ thống cạnh tranh cung cấp, tức là sự đa dạng của cơ hội sẽ càng ngày càng giảm đi.

Những cố gắng nhằm bảo đảm sự an toàn bằng các biện pháp bảo hộ, được nhà nước ủng hộ, cùng với thời gian đã tạo ra trong xã hội những biến dạng nghiêm trọng – những biến dạng đủ loại mà Đức là nước dẫn đầu và những nước khác đã đi theo. Quá trình này còn được lí thuyết xã hội chủ nghĩa thúc đẩy hơn nữa: cố tình miệt thị tất cả các hoạt động có dính dáng với rủi ro kinh tế và lên án về mặt đạo đức đối với những khoản thu nhập xứng đáng để mạo hiểm nhưng chỉ một ít người thành công.

Chúng ta không thể trách các bạn trẻ khi họ thích được an toàn, được ăn lương hơn là mạo hiểm kinh doanh vì ngay từ khi còn bé họ đã được dạy rằng viên chức hưởng lương là nghề cao sang, bất vụ lợi và không ích kỉ như các doanh nhân. Thế hệ trẻ hiện nay đã lớn lên trong một thế giới mà cả trường học lẫn báo chí đều tìm cách thoá mạ tinh thần cạnh tranh thương mại, đều coi việc kiếm lời là vô luân, coi việc sử dụng 100 người lao động là bóc lột nhưng chỉ huy một số người tương đương lại là vinh dự. Những người già hơn có thể cho rằng nói thế là phóng đại, nhưng kinh nghiệm tiếp xúc hàng ngày với sinh viên của tôi cho thấy rằng việc tuyên truyền chống tư bản đã làm cho các giá trị của giới trẻ thay đổi và việc thay đổi giá trị đã diễn ra trước khi có những điều chỉnh trong các thiết chế. Vấn đề là liệu khi điều chỉnh các thiết chế cho phù hợp với những đòi hỏi mới, chúng ta có vô tình phá huỷ các giá trị mà chúng ta vẫn còn đánh giá cao hay không.

Như vậy là chúng ta đang đối mặt với mâu thuẫn căn bản giữa hai kiểu tổ chức xã hội không đội trời chung, thường được mô tả như là thương mại và quân sự. Trong trường hợp thứ nhất, cá nhân được quyền lựa chọn và tự chịu rủi ro; trường hợp thứ hai, cá nhân được giải thoát khỏi cả hai. Trong quân đội, công việc và người công nhân đều do cấp trên chỉ định, đây là hệ thống duy nhất mà cá nhân được bảo đảm hoàn toàn về mặt kinh tế. Nhưng sự bảo đảm này lại gắn liền với những hạn chế về quyền tự do và hệ thống cấp bậc, nghĩa là sự an toàn của trại lính.

Trong xã hội đã quen với tự do, chắc chẳng có mấy người sẵn sàng đánh đổi sự an toàn với cái giá như thế. Nhưng chính sách đang được thực thi hiện nay sẽ nhanh chóng tạo ra những điều kiện mà ước muốn an toàn sẽ mạnh hơn tình yêu đối với tự do.

Nếu chúng ta không có ý định tiêu diệt quyền tự do cá nhân thì cạnh tranh phải được vận hành mà không gặp phải cản ngại nào. Cần làm tất cả để ai cũng được bảo đảm một mức mức sống tối thiểu, nhưng đồng thời xin được nói rằng tất cả những lời kêu gọi về đặc quyền an toàn của những giai cấp nhất định phải bị bãi bỏ, cũng xin loại bỏ ngay những lời biện hộ cho phép những nhóm nhất định ngăn cản những người mới chia sẻ lợi nhuận nhằm bảo đảm cho họ một lối sống đặc thù nào đó.

Dĩ nhiên là một sự đảm bảo thoả đáng dành cho những trường hợp thiếu thốn quá mức phải là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách của chúng ta. Nhưng không có gì khủng khiếp hơn là cái mốt ca ngợi sự an toàn với cái giá phải trả là tự do của các “cây đa, cây đề” trong hàng ngũ trí thức. Điều quan trọng là chúng ta phải học lại để nhận chân sự thật rằng tự do có giá của nó và từng cá nhân phải sẵn sàng chấp nhận những hi sinh to lớn về vật chất để bảo vệ tự do.

Chúng ta phải tái khẳng định lại niềm tin và cũng là cơ sở của tư tưởng tự do trong các nước Anglo-Saxon, đã được Benjamin Franklin thể hiện trong một câu, có thể áp dụng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc, như sau: “Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn”.

Hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn

Muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn chúng ta phải có đủ dũng khí để làm một cuộc khởi đầu mới. Chúng ta phải dọn sạch những cản ngại mà con người đã dựng lên trong thời gian gần đây và phải giải phóng năng lượng sáng tạo trong từng cá nhân. Chúng ta phải tạo điều kiện có lợi cho sự tiến bộ chứ không phải có lợi cho “lập kế hoạch cho sự tiến bộ”. Những kẻ kêu gào “kế hoạch hoá” nhiều hơn nữa không phải là những người dũng cảm, những kẻ tuyên truyền “Trật tự mới” cũng chẳng làm gì khác hơn là bắt chước Hitler, tức là tiếp tục những xu hướng từng diễn ra suốt 40 năm qua. Trên thực tế, những kẻ kêu gọi kế hoạch hoá to mồm nhất lại là những kẻ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất những tư tưởng đã phát động cuộc chiến tranh với biết bao những sự khủng khiếp mà nó gây ra cho chúng ta. Nguyên tắc dẫn đạo trong việc xây dựng một thế giới với những con người tự do phải là: Chính sách bảo đảm tự do cá nhân là chính sách duy nhất đúng.

Bản tiếng Việt © 2007 talawas | Edit: THĐP

 

Tổng hợp một số bài viết về dư luận viên

Featured image: The 4th Media

Hà Nội lập nhóm ‘chuyên gia bút chiến’

Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội Hồ Quang Lợi nói thành phố đã tổ chức đội ngũ chuyên gia để “đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến trên internet chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch”.

Ngoài ra, ông Lợi còn cho hay cơ quan tuyên giáo thành phố đã tổ chức đội ngũ 900 ‘dư luận viên’ làm công tác tuyên truyền miệng.

Các chi tiết nói trên được nêu ra trong bài phát biểu của ông Hồ Quang Lợi tại Hội nghị công tác tuyên giáo toàn quốc 2012 sáng thứ Tư 9/1 ở Hà Nội. Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy từng làm phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân và tổng biên tập báo Hà Nội Mới.

Báo Lao Động dẫn lời ông Lợi nhận định rằng thủ đô Hà Nội “là địa bàn chống phá của các đối tượng”. Ông Hồ Quang Lợi nói: “Trong nước, các nhóm đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng lòng yêu nước của quần chúng nhân dân đối với các hành vi của Trung Quốc trên biển Đông, sự bức xúc trong đền bù giải tỏa đất đai đã kích động nhân dân tổ chức hàng chục cuộc tuần hành biểu tình, gây những hệ quả tiêu cực, ảnh hưởng đến hình ảnh và sự phát triển chung của đất nước”.

Theo ông, để đấu tranh với sự chống phá này, “thành phố đã tổ chức đội ngũ 900 dư luận viên trên toàn thành phố nhằm phát huy sức mạnh của đội ngũ tuyên truyền miệng”.

Song song với đội ngũ ‘dư luận viên’ này, còn có “nhóm chuyên gia đấu tranh trực diện trên mạng internet, tham gia bút chiến trên internet”. Các “chuyên gia” của Thành ủy Hà Nội tới nay được biết đã xây dựng 19 trang tin điện tử và lập ra hơn 400 tài khoản trên các mạng xã hội để trực tiếp bút chiến với các “thế lực phản động”.

Ông Hồ Quang Lợi còn cho biết, “báo chí thủ đô thực hiện ý kiến chỉ đạo về những vụ việc nhạy cảm, thành lập các tổ phóng viên bấm nút, phản ứng nhanh”. Các cơ quan truyền thông Hà Nội, như Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội hay báo Hà Nội Mới trong vài năm nay đã khá tích cực trong việc công kích, đả phá hoạt động biểu tình chống Trung Quốc trên địa bàn thành phố.

‘Không để lợi dụng công kích Đảng’

Trong khi đó, ở cấp độ cao hơn, người đứng đầu ngành tuyên giáo của Đảng Cộng sản kêu gọi “xử lý việc lợi dụng lấy ý kiến về sửa đổi Hiến pháp để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng”.

Ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, nói tại Hội nghị toàn quốc triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hôm thứ Ba 8/1, rằng các cấp cán bộ Đảng cần “nêu cao tinh thần cảnh giác, ý thức tự đề kháng, năng lực phản bác của nhân dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch”.

Ông cũng nói phải “xử lý kịp thời những hành động tán phát tài liệu xấu, mạo danh, nặc danh, lợi dụng việc lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân”.

Hiện dự thảo Hiến pháp mới đang được mang ra xin ý kiến người dân từ tháng 1 đến hết tháng 3 năm 2013. Theo ông Đinh Thế Huynh, việc lấy ý kiến người dân phải bảo đảm “dân chủ và thực chất” đồng thời “phải thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng”.

Ông chỉ đạo các báo khi chọn đăng ý kiến của dân phải bảo đảm “khách quan, mang tính tiêu biểu và tính xây dựng; tránh khuynh hướng phiến diện, thiên lệch, không chuẩn xác, thiếu trung thực”.

Theo BBC


 

Các dư luận viên đang làm gì?

Không ai rõ tên tuổi của đội quân 900 dư luận viên này. Một đội quân ẩn mình trong bóng tối, trên mạng để lập những tài khoản ẩn danh. Đấu tranh với bọn phản động. Những dư luận viên này chiến đấu như đội thuyền không số ngày xưa, như những chiến sĩ tình báo vô danh trên mặt trần truyền thông. Họ thầm lặng và không cần đến tên tuổi.

Hôm qua một bạn trên FB được một dư luận viên gửi tin nhắn ‘ Nội dung rằng dư luận viên là những người tuyên truyền, giải thích cho nhân dân rõ đường lối, chính sách của Đảng. Để nhân dân hiểu đúng vấn đề trong chính sách. Hạn chế thế lực phản động tuyên truyền sai lệch.

Bạn kia chuyển cho mình xem tin nhắn, à thì ra dư luận viên họ làm việc như vậy.

Mình cố gắng tìm kiếm hỏi han, xem có nhân dân nào gặp dư luận viên nào được họ giải thích không. Bóng chim, tăm cá. Chả ai thấy dư luận viên giải thích điều gì. Từ khi có nguồn tin là có dư luận viên, thì trên mạng lực lượng bênh lề phải nhiều trông thấy. Việc của họ là khi thấy clip nào ảnh hưởng đến đường lối, chính sách thì họ tranh nhau bảo – đm mấy thằng phản động làm clip giả, ảnh chụp giả ,chắc đéo gì là thật, nhìn vậy nhưng chưa biết thế nào…

Những câu như thế chả bàn luận làm gì. Ở đây chỉ bàn đến lời nhắn của bạn kia thôi, dáng chừng còn có vẻ nghiêm túc với nghề dư luận viên.

Nhưng thắc mắc là đường lối của đảng và nhà nước thế nào mà phải cần đến các bạn dư luận viên giải thích. Viết bằng tiếng Phổ, tiếng La Tinh hay thổ ngữ Phi Châu chăng. ? Không, chủ trương đường lối bằng tiếng Việt đấy chứ. Có nghĩa không cần các bạn ấy phiên dịch, mà cần bạn ấy giải thích cho dân chúng hiểu đúng đường lối đưa ra.

Đến đây thì hơi lạnh gáy, chủ trương và đường lối là những điều gì.? Mà khi đã vạch ra, viết ra rồi. tầm quan trọng ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia, dân tộc. Lẽ nào lại khó hiểu đến mức cần một đống người đi giải thích. Chủ trương và đường lối có phải mặt hàng mới ra của công ty thương mại nào đó đâu mà cần người tiếp thị, giới thiệu. Huống chi mặt hàng mới , người tiếp thị phải đeo biển, chường mặt, tên tuổi ra nói mới may ra có bà nội trợ dừng lại nghe. Đằng này cả đống dư luận viên chìm trong bóng tối thì giải thích cho nhân dân thế nào đây.

Xưa nay chỉ có trò bói toán, rút quẻ chữ nghĩa mênh mang vô định, mới nảy ra đám giải quẻ bói. Giải quẻ bói hiểu nôm na là người giải sẽ giải thích cho người có quẻ hiểu đúng sự việc. Đúng là thế nào thì có hậu vận sau này rõ, vì quẻ bói thì lơ mơ, người giải mỗi người một kiểu, người rút quẻ cũng hiểu mỗi người một kiểu.

Nhất định chủ trương đường lối không thể mơ hồ như quẻ bói, và dư luận viên cũng không thể là người giải quẻ bói. Vì chủ trương đường lối là thực tế rõ ràng, không mơ hồ huyễn hoặc được.

Thế chủ trương đường lối không phải bằng tiếng nước ngoài, không phải là quẻ bói, không phải là mặt hàng cần tiếp thị thì nó là câu đố chăng.?

Là câu đố thì mới cần người giảng cho người hiểu, nó có thể là câu đố dân gian kiểu như.

Một đàn cò trắng phau phau
Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm.

Giải thích ra là những cái bát. Nhân dân nghe xong à vỗ đùi đét một cái, chủ trương, chính sách ta tài tình thật, nói cò hoá ra là bát. Tài đến thế là cùng… anh Đảng.

Không, chủ trương đường lối không thể là câu đố được, ai lại đi đánh đố nhân dân kiểu ấy.

Thế không phải câu đố, không phải quẻ bói, cũng chẳng phải ngoại ngữ, mặt hàng mới thì là gì. Là toán đố à, chắc toán đố mới cần người giải thích.

Không, chả phải, là toán đố thì nhiều vị lãnh đạo tập đoàn dốt toán lắm. Chủ trương, chính sách, đường lối mà giống toán đố thì các tập đoàn có mà vỡ nợ hết.

Thế chủ trương đường lối là cái gì mà dân khó hiểu đến mức phải cần đến dư luận viên hướng dẫn.? Lẽ ra chủ trương, đường lối phải dễ hiểu để những người dân bình thường nhất cũng có thể hiểu được, nắm được mà thực thi. Như thế mới gọi là sâu sát vào quần chúng nhân dân.

Đằng này chủ trương , đường lối của nhà nước, đảng, chính phủ lại phải cần đến một bộ máy đông đảo nhân lực rải đi khắp nơi để giải thích về chủ trương, đường lối ấy thì thật ái ngại về kết quả thu được. Như vậy thành công của chủ trương, đường lối đến đâu hay không, lại phụ thuộc vào năng lực của người đi giải thích và trình độ tiếp thu của người được giải thích.

Than ôi, người tâm huyết trí óc vạch ra đường lối rồi, lại phải có người trung gian cũng phải tâm huyết và có trí óc để đi diễn giải cho nhân dân hiểu được đường lối, chủ trương ấy nữa. Rồi người dân phải để tâm trí cố mà tiếp nhận được nữa.

Như thế cũng khó chắc chắn, vì có thể đường lối , chủ trương dân có hiểu hay không lại phụ thuộc vào năng lực, trình độ của đám dư luận viên này.

Có khi để hiệu quả chắc chắn hơn, xin Đảng và Nhà Nước, Chính Phủ lập thêm mội đội quân nữa đi giải thích tuyên truyền cho nhân dân hiểu đúng cái điều mà các dư luận viên đã giải thích , tuyên truyền. Chuyện đường lối, chủ trương là quan trọng, cho nên thêm một tuyên truyền, giải thích như thêm một tầng tiền đạo nữa để chủ trương, chính sách được thông suốt đến cho người dân tốt hơn.

Viết đến đây mới giật mình nghĩ, thằng nào bố láo nghĩ ra cái tin nhắn ấy, làm ông mất công. Chủ trương, đường lối của Đảng và Chính Phủ, Nhà Nước là phổ cập toàn dân, khi đưa ra là phải dễ hiểu cho nhân dân. Đâu cần dư luận viên nào phải đi giải thích. Nói một đống người ngốn ngân sách đi giải thích về đường lối thì hoá ra bảo đường lối, chính sách là quẻ bói, toán đố, câu đố à.?

Thế thì các dư luận viên đang làm gì.?

Chịu, chẳng biết nữa. Có khi họ đang âm thầm toả đi còm men các FB cũng nên.

Người Buôn Gió


 

Chào đón Dư Luận Viên năm 2014

Đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận dư luận viên một cách bao quát hơn. Ngoài góc nhìn họ là những người bảo vệ chế độ ra, cần phải có một cách nhìn khác về họ.

Thứ nhất, sự ra đời của dlv trên các trang mạng khiến cho thông tin được phong phú hơn, đa chiều hơn. Ít nhiều nó sẽ gây ra sự thu hút của dân chúng vào thế giới mạng. Mà thế giới thông tin trên mạng nếu như thế sẽ được gọi là một chiến trường. Thì ít ra những người yêu thích tự do đã có được chiến trường.

Tại sao phải vui khi có chiến trường?

Bao năm nay, nhà nước CSVN vốn dĩ truyền thông độc quyền. Mọi thông tin đều do họ kiểm soát. Những lời nói đối lập dù chỉ loáng thoáng ở vỉa hè, khu phố, cơ quan, nhà máy đều bị trả giá lập tức bằng án tù hay tập trung cải tạo. Chúng ta chưa bao giờ biết đến một mặt trận truyền thông của hai làn dư luận như hiện nay.

Nhờ có sự phát triển của kỹ thuật, cộng với sự đổi mới của thế giới và quan hệ quốc tế. Những người yêu thích tự do đã có được một khoảng trống nhỏ để phát biểu ý kiến của mình, quan điểm và những bất đồng với chính quyền. Sự ra đời của dlv với nhiệm vụ tuyên truyền cho Đ và đấu tranh chống luận điệu sai trái đã cho thấy nhà nước CSVN đã buộc phải nhìn nhận rằng đã có một chiến trường thông tin trên mạng mà họ khó có thể dập tắt. Cho dù họ đã nỗ lực sử dụng kỹ thuật chặn, bắt bớ, nghị định xử phạt..

Nhưng chiến trường thông tin ấy không hề ngớt tiếng của phe yêu tự do. Một sự thật mà nhà cầm quyền Việt Nam thấy rõ là có sự tồn tại của truyền thông tự do, không thể lờ đi coi như không có được, hoặc bỏ mặc cho các người yêu tự do ngôn luận chiếm lĩnh truyền thông trên các trang mạng.

Buộc lòng họ phải đưa chiến sĩ của họ ra trận. ( hy vọng họ cũng sẽ sớm nhận ra có một chiến trường nữa mà bây lâu họ cũng cố quên đó là chiến trường nóng bỏng ngoài khu vực đảo Hoàng Sa ).

Một hội 258 ra đời, một hội phản bác 258 ra đời. Hội 258 đưa hình đến các cơ quan ngoại giao quốc tế quảng bá hành động của mình. Hội phản bác 258 cũng công khai đưa hình đến bộ ngoại giao VN. Tiếp đến là những bài viết công kích của nhóm phản bác 258 trên mạng. Nhóm này cũng chụp hình sinh hoạt, giao lưu, gặp gỡ…điều đó rất tốt. Tốt vì nó nói ra rằng một mặt trận truyền thông đã được công nhận.

Tuy rằng luận điệu của DLV nhiều khi thật buồn cười, ví dụ họ nói rằng nhóm mạng lưới bloger không đại diện cho tất cả các bloger Việt Nam. Nói thế thì họ cũng phải công nhận nhiều nhóm nhiều tổ chức khác không đại diện cho tất cả những người Việt Nam. Ví dụ cái hội Việt Kiều yêu nước do chính phủ VN thành lập. Cái hội này rõ ràng còn tiếm danh hơn mạng lưới bloger Việt Nam, vì Việt Kiều nào mà không yêu nước, chả lẽ VK nào không có trong hội này là không yêu nước VN sao.?

Nhưng cứ để cho sự tranh cãi được diễn ra. Dù sao có được một mặt trận để diễn ra sự tranh luận này cũng là thành công của những người yêu tự do. Dư luận sẽ phán xét bên nào có lý, sự phán xét có thể còn không đến ngày hôm nay, có thể là còn nhiều ngày sau nữa. Thì sự ra đời của các DLV một cách công khai, chính thức thì cũng có nghĩa sự ra đời của các nhóm đối thủ của nhóm DLV cũng đã được khẳng định.

Dư luận viên – mục đích ra đời và tương lai về đâu?

Mục đích ra đời của các nhóm DLV như Võ Khánh Linh, Tre Làng, Loa Phường ..ban đầu với mục đích là bảo vệ chế độ, đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc. Nhưng càng ngày người ta càng thấy luận điệu của các nhóm này xa rời mục tiêu ban đầu đó. Nếu như bảo vệ chế độ cần phải có những bài viết nghiêm túc, khách quan, ngôn từ đứng đắn để chinh phục dư luân…thì đằng này các nhóm DLV trên sử dụng ngôn ngữ chợ búa, những lập luận ngô nghê của đám dân chợ để nhục mạ đối thủ của mình.

Nhục mạ đối thủ bằng những câu văn rẻ tiền, lập luận bừa bãi, khiên cưỡng và quy chụp như vậy, có phải là bảo vệ chế độ không.? Tất nhiên không ai đi bảo vệ chế độ một cách vô học như thế, trừ khi muốn lợi dụng vậy để bôi bác thêm chế độ. Một chế độ kiểu gì mà những kẻ bảo vệ nó nói những lời hạ đẳng như vậy.?

Rõ ràng các DLV không bảo vệ chế độ, hoặc trình độ của họ để bảo vệ chế độ là quá thấp. Hoặc mục tiêu chính của họ là nhục mạ, hạ thấp những nhà đấu tranh, những lực lượng tiến bộ trong xã hội. Gây cho nhân dân không tin tưởng vào các phong trào xã hội dân sự tiến bộ đang ra đời.

Không bảo vệ lý tưởng của chế độ, đánh phá uy tín những phong trào dân sự đang xuất hiện, vậy các dlv có mục đích chính là gì?

Phải chăng ( đám dlv ) là sự chuẩn bị cho một thế lực nào đó sắp ra mắt công chúng. Một thế lực đang cần cho dân chúng thấy rằng chỉ có họ mới nắm vận mệnh, thay đổi được đất nước, chỉ có họ mới thực sự dân chủ, thực sự đem lại tự do và phát triển cho đất nước. Chính vì vậy, thế lực này đẻ ra đám Dư luận viên để cho đám này đi tung tăng đi khắp nơi nhục mạ , hạ thấp uy tín các nhóm khác bằng ngôn ngữ thấp hèn, qua cách sử dụng ngôn ngữ đó cũng hạ thấp hình ảnh ĐCS VN vì mang danh nghĩa bảo vệ.

Bỗng nhiên gần đây, hình ảnh của những nhà lý luận VN trong BCT không được báo chí đề cập đưa tin. Báo chí vắng bặt tin hoạt động của UVBCT Đinh Thế Huynh, Tô Huy Rứa, Phạm Quang Nghị, Ngô Văn Dụ….những ủy viên từng kinh nghiệm rành rẽ về các hoạt động tuyên truyền, lý luận, truyền thông.

Thay thế vào đó báo chí ca ngợi những gương mặt mới như Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam, thống đốc ngân hàng Nguyễn Văn Bình… khiến cho dân chúng cảm thấy những gương mặt này là nguồn động lực mới , đáng tin tưởng, đáng gánh vác trọng trách quan trọng nay mai.

Ở phía dưới, đám dlv cũng có nhiều bài khen ngợi những gương mặt mới này. Mọi sự chỉ trích những nhân vật mới này đều được các dư luận viên ưu tiên phản pháo hàng đầu.

Đến đây thì có lẽ bản chất sự ra đời của dlv để làm gì, phục vụ ai đã rõ.

Nói gì thì nói, những nhà lý luận như Nguyễn Phú Trọng, Đinh Thế Huynh, Tô Huy Rứa, Phạm Quang Nghị có muốn dập tắt những dư luận tự do đến mấy đi nữa, có thể bằng nhà tù, gông cùm…nhưng chắc họ không bao giờ sử dụng đám dlv võ biền,dung tục để tranh luận với thiên hạ bảo vệ lý tưởng CS của họ.

Nhìn toàn cục. Sự ra đời của đám dlv cũng là tổn thất của ĐCS về mặt uy tín. Điều rõ ràng nhìn thấy vậy , tại sao ĐCSVN vẫn để đám dlv tung hoành. Đơn giản bởi vì đám dlv đươc nuôi dưỡng bằng nguồn tiền của một thế lực mới đang ngự trị trên đất nước. Nó cho thấy ĐCS VN đã yếu thế trong việc kiểm soát kinh tế, tài nguyên, nguồn lực, lực lượng vũ trang….điểm mạnh nhất của ĐCS là tuyên truyền giờ cũng đang bị phân hóa nặng nề, nguy cơ mất kiểm soát nốt mảng này là điều dễ thấy.

Cuối cùng thì sự ra đời của dlv cũng đáng được chào đón. Nhất là sau bao năm những lời nói của những người yêu nước chỉ bị coi là dạng tin đồn. Giờ qua đám dlv đã chính thức được khẳng định là những kênh thông tin độc lập với nhà nước. Khi đám dlv này càng nỗ lực bao nhiêu thì những người yêu tự do ngôn luận đang ngày đêm hoạt động càng được khẳng định bấy nhiêu.

Vì điều đó, xin chào đón các dư luận viên đến một năm mới hứa hẹn nhiều thông tin bổ ích cho nhân dân.

Người Buôn Gió


 

Ông Giáo Làng – Dư luận viên

 

I. Trước đây, người ta chưa gọi là “Dư luận viên”. Thường vẫn gọi là cán bộ tuyên huấn. Cấp huyện là có ban tuyên huấn rồi. Mấy ông trong ban này lúc ấy oai lắm. Các ông thường đi nghe tuyên huấn tỉnh, sau về nói lại với cán bộ và các tầng lớp nhân dân ở huyện. Nội dung thường thấy trong các buổi nói chuyện này là tin thời sự, đặc biệt là tin chiến thắng khắp nơi từ bắc tới nam (không bao giờ có tin ta thất bại, dù chỉ là tạm thời), và nghị quyết các loại (lúc ấy có người đã đề xuất nước ta nên xuất khẩu nghị quyết để nâng cao đời sống nhân dân cơ mà).

Báo chí hiếm, đài lại càng hiếm hơn nên được nghe cán bộ tuyên huấn nói chuyện là niềm vinh hạnh lớn. Những lời của các ông ấy nói là “những lời như chân lý sinh ra” (thơ Tố Hữu). Công bằng mà nói, các cán bộ tuyên huấn đã góp phần không nhỏ vào việc động viên toàn dân tham gia đánh Mỹ giành thắng lợi cuối cùng. Muốn làm tuyên giáo thì phải nói giỏi, trơn tru, lưu loát, có thế mới hấp dẫn được người nghe. Nhưng nghe mấy ông tuyên giáo huyện thì chán lắm. Nhiều ông nói ngọng. Lại cứ hay dở “chiêu” : “vấn đề này tôi chỉ nói nội bộ, các đồng chí đừng …” (ý là vấn đề này rất bí mật, các đồng chí là người rất đáng tin cậy tôi mới nói). Người nghe thấy sướng quá, hóa ra mình cũng là người quan trọng được biết những điều “bí mật” mặc dù những điều các ông ấy nói, BBC, Tiếng nói Hoa Kỳ… nó nói lâu rồi. Nhiều ông tuổi còn trẻ nhưng hay gọi lãnh tụ bằng “anh”, ý “mình với các “anh ấy” gần gũi lắm”. Mở miệng là “anh Duẩn, anh Đồng, anh Giáp… “. Cũng là học lẫn nhau cả thôi. Tỉnh đi nghe trung ương nói, thấy trung ương gọi bằng “anh”, khi về nói cho huyện cũng gọi như thế, rồi huyện thấy tỉnh gọi thế, cũng bắt chước. Người bình thường thấy gọi bằng “anh” nghe “oai” lắm. Nhưng người có tí hiểu biết thì thấy vừa “xấc”, vừa “hợm”. Khi nào phải nghe các ông ấy nói chuyện thì tốt nhất là kiếm một góc mà ngồi, mang theo quyển sách.

Từ khi về Hà Nội, nơi tôi làm việc có quan hệ với trường Nguyễn Ái Quốc (bây giờ là Học viện Hồ Chí Minh gì đấy!), cơ quan tuyên huấn cỡ lớn. Chi bộ quan tâm đến tình hình tư tưởng của anh em nên thỉnh thoảng vẫn mời mấy vị ở đấy về nói chuyện. Trình độ cấp trung ương, nên câu chuyện cũng có hấp dẫn hơn. Nhưng vẫn không chừa được cái bệnh: “vấn đề này tôi chỉ nói nội bộ…”. Và nhất là vẫn cái bệnh của tuyên huấn, thường nói lấy được, bất chấp sự thực khách quan.Vì cứ nghĩ người nghe không biết gì. Hoặc người ta có biết nhưng không thể “cãi” được. Nói mà tin rằng không có ai phản bác thì muốn nói gì chẳng được?

Một lần, khoảng 1995 , 1996, một ông đến nói về công cuộc đổi mới. Ông ấy nói đại ý: Chúng ta phải biết ơn đảng nhiều lắm vì nhờ đảng mới có đổi mới, nhờ đảng, cuộc sống của chúng ta mới được cải thiện như ngày hôm nay. Rồi ông ấy lấy thí dụ chứng minh cho cái điều ấy: Cách đây 10 năm, chúng ta phải mang chai đến cơ quan chia nhau mỗi người một ít xà phòng nước để giặt quần áo, bây giờ thì đủ loại xà phòng; tết Trung thu (hôm ấy sắp đến rằm tháng Tám), mấy người mới được một cái bánh đem cắt ra chia nhau mang về cho các cháu. Bây giờ thì bánh nướng, bánh dẻo ê hề, chỉ sợ không có tiền mà mua… Mình nghe, “lộn hết cả ruột”.

Đến giờ nghỉ giải lao, ông ấy vào phòng khách ngồi uống nước cùng mấy người nữa. Mình cũng giả vờ vào xin chén nước. Sau vài câu xã giao, mình hỏi:

– Anh chắc năm nay cũng khoảng năm mươi tuổi?
– Vâng, tôi năm nay năm mốt.
– Xin lỗi, thế anh quê tỉnh nào?
– Cám ơn anh hỏi thăm. Tôi quê Thái Bình, tỉnh năm tấn xưa đấy.
– Anh hơn tôi một tuổi, nhưng vì anh quê ở Thái Bình nên có thể anh không biết. Từ năm 1959 về trước, thỉnh thoảng cứ sau ngày lĩnh lương, bố tôi thường đến nhà bà bác có cửa hàng tạp hóa, mua một hòm xà phòng giặt, mỗi hòm khoảng vài ba chục bánh. Khi nào dùng hết, lại đến chở. Chẳng có ai phân phối hay phải chia bôi gì. Còn cái bánh Trung thu ấy, cứ trước ngày Tết độ nửa tháng, bố mẹ tôi lại dẫn mấy anh em đi dọc các phố hàng Ngang, hàng Đường, Đồng Xuân xem người ta làm bánh trung thu. Vào dịp này, cửa hàng nào cũng làm bánh ngay bên ngoài, người mua có thể chứng kiến đủ mọi công đoạn ra đời của một cái bánh. Mấy ông thợ làm bánh khoác tạp dề, đội mũ vải trắng nhào, trộn, vỗ khuôn chan chát…. Người ta cứ làm, mình cứ xem, không ai chào mời. Đó cũng là cái tử tế của các nhà buôn thời ấy. Rất cần khách hàng, nhưng vẫn giữ tự trọng, không khúm núm, xun xoe mời chào. Xem một lúc lại đi hàng khác. Khi nào chán rồi, mỏi chân rồi, thì mua một hộp, hai hộp. Mua bao nhiêu cũng được, mua nhiềuthì được rẻ hơn. Chỉ có từ sau 1960, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội nên mới không có xà phòng mà giặt, phải dùng chất tẩy mà người ta gọi là xà phòng nước, bánh trung thu cho trẻ con mà phải cắt từng cái làm hai ba phần chia nhau.

Ông tuyên giáo tỏ vẻ ngạc nhiên:

– Thế ạ?
– Chắc vì anh ở Thái Bình nên không biết. Tôi xin “tiết lộ” với anh cái sự thật ấy. Ta bây giờ nếu có vui thì là vui vì cuộc sống của chúng ta đã được trở về với những quy luật vốn có. Có “mới” gì mà “đổi”, phải không anh? Còn biết ơn thì lại càng không. Chẳng lẽ cái anh nó bóp cổ mình cho đến khi sắp tắc thở mới buông ra, mình lại phải biết ơn?

Sau lần ấy, cứ mỗi khi đến buổi nghe báo cáo thời sự, tôi lại được thủ trưởng giao cho một công việc gì đấy để không phải tới nghe. May quá!

II. Mấy năm nay, in-tec-net có ở khắp nơi, các trang web ngoài luồng phát triển tới mức không kiểm soát nổi, lại thêm cái anh Phây-xờ-búc ngày càng bung ra, khiến các vị tuyên huấn xoay như chong chóng không chống đỡ kịp những lập luận thuyết phục, những sự thật vốn được giấu kín nay được phơi bày. Thế là mấy chục nghìn các DLV ra đời. Có mặt các DLV này, dư luận trên mạng thêm rộng đường, người nói phải, người nói trái, anh nói ngược, chị nói xuôi, phân tích, chứng minh, lý giải… khiến người nghe càng có điều kiện phán xét để rồi tin vào một ý kiến nào đó, thoát khỏi tình trạng “như vịt nghe sấm” hay định hướng một chiều. Để cho các cuộc tranh luận, thảo luận lành mạnh, bổ ích, tôi xin đề nghị các bạn DLV:

Xin các bạn có tên thật. Nhân vật chèo xưa, mỗi khi bước ra sân khấu đều hỏi: “Tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ?” Hỏi thế thôi, chứ chỉ chờ nghe tiếng đế trong hậu trường “không xưng danh thì ai biết là ai!” là tên tuổi, thậm chí quê hương bản quán được công khai. Tôi để ý thấy tất cả các bạn chẳng ai có cái tên thật, cái ảnh đại diện cũng không. Chẳng lẽ các bạn tự nhận mình là người không chính diện (tức là “phản diện”)? Chỉ riêng điều này, các bạn đã tỏ ra không chính danh rồi. Mà “danh bất chính thì ngôn bất thuận”. Làm sao thảo luận được với người không chính danh, làm thế là tự hạ thấp bản thân mình.

Thậm chí, cái không chính danh của các bạn còn khiến người ta nghĩ đến hành động “ném đá giấu tay”. Hay là các bạn cũng chưa đủ tự tin vào những điều mình nói, thậm chí còn thấy hổ thẹn vì những điều ấy nên không dám “xưng danh”? Cho nên thái độ của tôi cũng như của nhiều người thường là coi như không thấy gì mỗi khi đọc ý kiến của những người không chính danh.

Lập luận của các bạn đều cũ rích. Với ý kiến nào cũng chỉ có bấy nhiêu lý lẽ. Trên FB tuần qua đã có một chàng trai thống kê những lập luận quen thuộc đến nhàm chán của các DLV, tôi không nhắc lại để khỏi làm mất thời gian của mọi người. Hình như các bạn phải đợi khi nào có đợt tập huấn mới có một chút mới mẻ do cấp trên “gà” cho. Nhưng cũng chỉ mới mẻ được vài hôm thôi. Cuộc sống luôn luôn vận động sao chỉ với những lập luận xói mòn ấy có thể bác bỏ được biết bao những câu chuyện, lý lẽ, phản bác đầy sức thuyết phục?

Muốn cho cuộc tranh luận thêm hấp dẫn, nói đúng hơn là để ý kiến còn có người đọc, xin đề nghị các bạn chịu khó học hỏi thêm. Cái khi học ở trường, muốn lên lớp, có thể chỉ cần bỏ ra ít tiền cho vào cái phong bì là xong. Nhưng cuộc sống phức tạp hơn nhiều lần khi đi học. Không học, không làm ăn gì được đâu. Nhất là lại làm người chuyên tranh luận, làm việc bây giờ lại có lương, có thưởng. Mà lại tranh luận với một số lượng người khổng lồ, trong đó không ít người “thông kim bác cổ”, tuổi đời có khi đáng tuổi, cha tuổi ông các bạn. Quả là chẳng dễ dàng gì!

Để không khí bàn luận tránh bị ô nhiễm, giữ được sự trong sạch cần thiết, đề nghị các vị (giờ thì tôi không thể gọi “các bạn” được nữa) nói năng sao cho có văn hóa. Các vị nói tục nhiều quá, văng bậy nhiều quá. Xem những dòng chữ của các vị, tôi hình dung ra mấy anh thanh niên, tóc nhuộm xanh đỏ, cổ đeo cái dây xích to tướng, ngực áo phanh rộng, khuôn mặt bạc đi vì thiếu ngủ, rít thuốc liên tục,bên cạnh cái gạt tàn đầy những đầu mẩu thuốc lá, ngồi trước máy vi tính chăm chú với các màn súng nổ, gươm đâm…thỉnh thoảng lại hét lên, lại văng ra những lời tục tĩu để giải tỏa sự bức xúc vì thua cuộc. Hình như các vị thấy thua kém về lý lẽ, bèn đem cơ quan sinh dục của cả hai giới thay cho cái trí não ít học, lười học. Vẫn biết chúng đều là những bộ phận trong cơ thể con người cả, bộ phận nào cũng quan trọng, không thể thiếu, nhưng cái nào có việc của cái ấy. Nhiều lần, tôi đã nhắc nhở các vị “nói năng sao cho lịch sự”, hay “cần chứng tỏ mình là người có giáo dục”. Nhưng hình như các vị không phải là những người như thế nên văng tục chửi bậy là ngôn ngữ thường thấy trong các comment của các vị. Nghe như lời ăn tiếng nói của những kẻ chuyên hành nghề “đâm thuê chém mướn”. Hay các vị đang hành nghề này bằng bàn phím? Chẳng hiểu các bậc sinh thành ra các vị, vợ con các vị mỗi khi đọc được những dòng ấy họ sẽ nghĩ gì về công lao dưỡng dục ngần ấy năm trời, nghĩ gì về cái người mà hàng ngày họ vẫn “đầu gối tay ấp”, nghĩ gì về người bố, người mẹ của mình? Cũng có thể đây chính là lý do để các vị không dám chính danh?

Vài lời đề nghị, chỉ muốn những cuộc trao đổi thú vị hơn.


 

Làm dư luận viên không hề dễ

(Viết tặng các bạn Dư Luận Viên)

Trong suy nghĩ của nhiều người, trong góc nhìn của mọi người và cách hiểu của đa số người và gắn liền trong tiềm thức không thể nào thay đổi của đại số và thực tế cũng vậy Dư Luận Viên là cái nghề được biết được nhắc đến vốn bẩn thỉu, thấp hèn, đê tiện và bỉ ổi và dôi khi nó được ví như một lũ cừu có định hướng, cứ sểnh ra là viết. Viết và viết bất cần đúng sai, lợi ra sao hại như thế nào miễn là có lợi cho cái gì đó, vì cái gì đó, vì một tổ chức nào đó,….

Ở thái cực kia, người ta lại nghĩ Dư Luận Viên là cái lũ đầu rỗng, mở mồm chém gió và nói phét, đã thế lại ngu, ít học nên mới chấp nhận đi làm DLV, chỉ giỏi bồi bút để bảo vệ cái gì đó, nói tục chửi bậy kinh hồn mà viết lách thì không bài nào sạch lỗi. (ở đây ám chỉ lỗi logic là lỗi ngụy biện)

Người ta còn nghĩ Dư Luận Viên là một bọn bồi bút, bọn lưỡi gỗ tuyên truyền phản dân hại nước, ngậm miệng ăn tiền. Bọn cúi trên đạp dưới,… Không khó để người ta thấy hàng hà sa số những lời lẽ mạt sát Dư Luận Viên trên mạng trên blog và cả báo chí lề trái và lề phải: “não nhẵn”, “óc phẳng”, “hèn hạ”, “ngu xuẩn”, “vô lương tâm”, “bọn mất dạy”, “vô học” “không có giáo dục”…

Ở một góc độ khác người ta lại nói DLV là cái nghề dành cho những kẻ tiểu nhân đội lên cái lốt nhà báo, không cần học nhiều đọc nhiều vì những thứ họ viết ra chỉ cần đi soi mói, công kích cá nhân và hạ thấp hay sỉ nhục bất cứ những ai không cùng chính kiến với mình thế là đủ!

Nhưng không thể gộp hết lại những thứ xấu xa, bẩn thỉu, ghê tởm ấy để áp đặt hết cho những người cầm bút làm Dư Luận Viên được, ở một góc nhìn khác trong tôi vẫn có sự thông cảm nhất định cũng như thán phục về họ bởi có những giọt nước mắt lặng lẽ mà họ cố giấu vào trong, những nổi khổ của Dư Luận Viên mà các bạn sẽ không bao giờ thấy được cũng như thấu hiểu được hết. Bởi:

Những thứ họ viết không phải ai cũng có thể viết được!?

– Họ viết những thứ mà không phải ai cũng viết được, họ giấu sự thật vào trong để bẻ cong ngòi bút mà viết, những người cầm bút có lương tri hay còn chút lương tri còn sót lại họ không làm được thế và viết được thế, cho nên Dư Luận Viên là một cái nghề khó và không phải ai cũng làm được và vất bỏ lương tri đạo đức, danh dự của mình để làm được. Tôi thán phục họ vì điều đó.

– Những thứ họ viết ra có thể phơi bày tất cả: sự ngụy biện, công kích kẻ bất đồng với mình bằng những từ ngữ thô bỉ nhất và mạt sát đối phương bằng cách thấp hèn nhất mà có lẽ họ tự học và góp nhặt ở trường đời chứ trường học không ai dạy thế. Và không phải bất cứ người cầm bút nào cũng làm được như Dư Luận Viên. Tôi thán phục họ vì điều đó, rất khó để vứt bỏ đi lương tâm và danh dự mình để viết lên những thứ đó, nhưng họ vẫn làm, tôi biết là khó khăn lắm và không dễ gì và tôi nể phục họ vì điều đó!

– Qua ngòi bút của Dư Luận Viên tất cả có thể phơi bày trừ sự thật, sự liêm sỉ và sự tử tế, họ phơi bày tất cả trừ công lý và công bằng và đau đớn hơn là bán luôn cả lương tâm của chính mình để mà chà đạp lên dư luận và sự thật để mà viết, và dĩ nhiên đấy là điều khó không phải người cầm bút nào cũng làm được! Tôi nể phục họ vì lẽ đó!

– Tôi khẳng định nghề Dư Luận Viên là nghề khó, không phải ai cũng làm được cũng như chấp nhận vất đi cái lương tâm vốn bị chó gặm của mình để làm. Bọn đầu đường xó chợ, đâm cha chém mẹ, đâm thuê chém mướn cũng hay làm thế!

– Ai bảo làm nghề viết chân chính là khổ, cá nhân tôi hiểu và thấu hiểu làm Dư Luận Viên còn khổ hơn nhiều, thay vì tìm những thông tin khoa học, khách quan, viết phản ảnh thực tế chân thực hay truyền tải những thông tin có ích cho công đồng,… thì Dư Luận Viên phải làm 1 công việc khó và nặng nhọc hơn nhiều, thay vì học, đọc nhiều để hiểu nhiều kiến thức để làm vốn sống và vốn viết thì Dư Luận Viên còn phải đào sâu, đào bới xới trộn đời tư và vết tích không hay về cá nhân người ta để viết, để công kích để phỉ báng, đệ hạ thấp người ta xuống mà bản thân lại quên béng mất là “ném cứt vào mặt người khác thì tay mình phải dính cứt trước” mà chung quy cũng vì tiền và tiền. Đâu phải ai cũng dễ dàng chấp nhận báng rẻ và chà đạp lên lương tâm mình chấp nhận để xã hội và người đời phỉ báng mà viết lên những thứ ấy ! Nhưng họ đã làm và làm được, làm rất tốt. Tôi hiểu cái nổi khổ ấy và tôi lại càng thán phục họ!

– Con người ta lúc trẻ thì họ sợ họ sống thừa để rồi khi về già đầu đã 2, 3 thứ tóc lại hối tiếc thời thanh xuân đã sống thừa, còn DLV thì đầu 2, 3 thứ tóc mang đủ học hàm chức tước, học vị nhưng vẫn viết ra những thứ để án tích bia miệng ngàn năm trong hậu thế. Thứ mà đâu phải ai cũng có thể làm được, nuốt nhục, vứt cả sĩ diện luôn để viết! Tôi thán phục và cả nể họ về điều đó!

– Chưa hết, người ta chỉ thấy DLV hiện diện qua những bài viết nặng mùi công kích, phỉ báng bôi bác cá nhân, tệ hại hơn những bài viết chửi bới nặng mùi rồi người ta khẳng định như đinh đống cột rằng DLV vốn vô học và chỉ vì vô học mới chấp nhận làm DLV, tôi vẫn tin đấy là cách nghĩ hiển cẩn không công bằng cho những người làm DLV, bởi ngòi bút họ còn bẻ cong được, lương tâm họ còn vứt bỏ được thì cái sự học kia chẳng qua dấu kỹ quá nên đâm ra tưởng chừng như vô học thôi!

– Có đôi khi tôi tự hỏi lòng mình: Có bao giờ họ thấy xấu hổ hay hổ thẹn với lương tâm họ, con cháu họ về những thứ họ viết ra hay không?? Rồi tôi tự tìm được câu trả lời chua chát cho chính mình là: “có lẽ là có”, bởi họ mấy khi dám đề tên tuổi rõ ràng khi viết ra những thứ đó. “Có lẽ là có” nếu lương tâm và danh dự của họ vốn đã bị chó gặm và không tha đi luôn. “Có lẽ là có” bởi con người bất cứ ai cũng có một khoảng lặng trong tâm hồn, đến bọn đầu trộm đuôi cướp còn có hổng lẽ họ bị tha đi thật!?

Nhưng cuộc sống và xã hội này không thể thiếu DLV

– Không có Dư Luận Viên thì khi người ta viết và bàn tán khi xã hội phải rùng mình kinh ngạc về: mãi lộ? về lũ lụt, tai nạn, tiền cứu trợ bị bớt xén hay hàng cứu trợ toàn bột giặt? Hay bị tuồn ra vincom bán với giá rẻ để kiếm lời về những tai nạn thảm khốc, về hàng loạt công ty Nhà nước làm ăn thua lỗ mà nợ nần đổ lên hết trên đầu người dân, những khoản nợ tỷ tỷ đồng nếu không có DLV thì ai ai sẽ đứng ra canh rình để định hướng lại dư luận, định hướng lại xã hội này, cứu nguy cho chủ, ai sẽ đứng ra gánh trách nhiệm xây dựng lại niềm tin vốn đã không có nay lại mất luôn trong dân về 1 đất nước được điều hành bởi những con người thiếu tài, thiếu tâm và thiếu luôn cả tầm. Đâu phải ai cũng làm được Dư Luận Viên!

– Không có họ (DLV) thì khi những quả đấm thép lỗ trăm tỷ, nợ nghìn tỷ – Thử hình dung nếu có một Bao Tự thay vì thích xé lụa mà xé tiền thì mất bao nhiêu năm mới xé hết số tiền ấy với mệnh giá 500.000 VND? đấy cũng là lúc niềm tin người dân tràn bờ thất vọng, không có DLV thì ai, ai sẽ đứng ra gánh trách nhiệm cao cả và nặng nề này cứu nguy cho “trên”!

– Không có họ (DLV) thì ai ai sẽ là người luôn đứng ra vặn vẹo bênh vực tìm cách lý giải và ngụy biện cho những sự thật rành rành đang diễn ra trên đất nước mình, và có lẽ với họ như thế mới là yêu nước.

– Không có họ thì ai sẽ là DLV bởi XH đâu phải ai và người cầm bút nào cũng chấp nhận làm DLV.

Tiểu Bối


Nhân lực tuyên truyền viên, dư luận viên của VN

Tuyên truyền viên trên mạng, Tuyên truyền viên Internet, Dư luận viên, (tiếng Anh là government internet commentators hoặc online commentator, internet polemicists hay public opinion shapers, ở Việt Nam còn có tên gọi là “chuyên gia bút chiến”, là các cá nhân, nhóm người được chính phủ thuê, hướng dẫn và đào tạo để thực hiện tuyên truyền, tranh luận và hướng dẫn dư luận về mặt nội dung trên mạng Internet. Những nhóm người này thật ra không phải chỉ mới được thành lập. Đội ngũ này khác với “công an mạng” là nhóm người thuộc lực lượng quốc phòng hay an ninh. Khác với Tuyên truyền viên miệng, “Dư luận viên” chú trọng vào việc tuyên truyền các tư tưởng thân chính phủ trên mạng. Họ thuộc một nhóm mà danh từ chung là cộng tác viên dư luận xã hội. Việc hình thành những nhóm này là do chính phủ nhận thức rằng việc áp dụng tường lửa để ngăn chặn những thông tin gây bất lợi cho chính thể đã không còn mang lại hiệu quả cao.

Tiết lộ công khai đầu tiên về việc sử dụng đội ngũ chuyên gia bút chiến là từ lời tuyên bố của ông trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội Hồ Quang Lợi trên báo Lao Động, rằng đã thành lập một nhóm chuyên gia với mục đích “đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến trên Internet trong việc đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.”

Theo AFP, các giám sát viên internet để kiểm soát tin tức và hướng dẫn dư luận, giống hệ thống của Trung Quốc. Các dư luận viên này thường “bút chiến” lại các nhận xét phê phán chính quyền và Đảng, đồng thời định hướng dư luận theo hướng thân chính phủ và đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khi đó các bình luận viên độc lập phê phán chính phủ bị bỏ tù vì bị buộc tội tuyên truyền chống nhà nước. Sau khi đàn áp và bỏ tù những blogger đối lập nhằm im lặng họ không được, chính quyền Việt Nam bắt đầu xây dựng một đội ngũ dư luận viên tuyên truyền nhằm thâm nhiễm các diễn đàn và ca bài ca ca ngợi chế độ.

Cho tới nay thành phố Hà Nội đã tổ chức được 900 dư luận viên trên toàn thành phố làm tuyên truyền miệng. Đây là nhóm chuyên gia “đấu tranh trực diện trên mạng Internet, tham gia bút chiến trên Internet”. Đến nay, thành phố đã xây dựng được 19 trang tin điện tử, hơn 400 tài khoản trên mạng.

Tỉnh Quảng Ninh thì đã có đề án tổ chức mạng lưới cộng tác viên dư luận xã hội công khai, ổn định với số lượng: Cấp tỉnh có từ 40 đến 60 người, cấp huyện từ 10 đến 15 người, cấp xã từ 5 đến 10 người, đảng bộ và chi bộ trực thuộc đảng bộ cấp huyện có từ 3 đến 5 người.

Thành phố Hồ Chí Minh thì không cho biết con số là bao nhiêu người, nhưng đã tuyên bố là sẽ phụ cấp 0,3 mức lương cho các cộng tác viên này. Năm 2013, ở Việt Nam hiện nay có gần 80.000 tuyên truyền viên miệng.

Nhiều người sử dụng mạng cá nhân cho là các biện pháp của chính phủ như dùng tường lửa hay qua sự bỏ tù những người blogger, hoặc bây giờ dùng công an mạng là không có hiệu quả. Ông Carl Thayer, nguyên giáo sư tại một đại học Úc, một chuyên viên về Việt Nam nói: “Chính quyền Việt Nam đã lỡ để ông thần lọt ra ngoài chai rồi. Họ khuyến khích sự nối kết truyền thông (và bây giờ) họ lại muốn đàn áp những cái mà không thể bị đàn áp được.”

Theo Songnews.net


Edit: THDP

Adam Smith và chủ nghĩa tư bản

Adam Smith đã lập ra nền tảng của môn kinh tế chính trị học (économie politique, theo ngôn ngữ của ông), hay, với người đời nay ghét hai từ chính trị, chỉmê khoa học thôi, của những khoa học kinh tế (sciences économiques) hoặc kinh tế học.

Một số khái niệm của ông và quan điểm của ông về vai trò của thị trường vẫn còn là nguyên lý trong những lý thuyết kinh tế tân tự do (néolibéral), tân cổ điển (néoclassique) đã và đang thống trị tư duy kinh tế của nhân loại.

Tuy vậy, dường như không ai thèm dạy tận gốc, chi ly và đầy đủ, học thuyết kinh tế của ông. Hồi tôi còn xách cặp tới trường, yêu quê hương kinh tế qua từng trang lý thuyết nhỏ, tôi có được nghe thầy nhắc tới tên Adam Smith trong vài… câu! Hôm nay, xét cho cùng, không khó hiểu. Đào sâu tư tưởng của ông, tìm hiểu nó, so đo nó với nghiệm sinh và kiến thức mà loài người đã có được trong lĩnh vực này từ thời ông tới nay, một cách tỉnh táo và phê phán, có lắm vấn đề không vui tí nào. Nói chung, các thầy cấu và dùng lại hai ý, như nguyên lý không cần phải bàn:

  • a. Giá trị – lao động (valeur–travail)
  • b. Ngoài vài trường hợp đặc biệt, như vấn đề an ninh quốc gia chẳng hạn, Nhà nước không nên can thiệp vào sự vận động tự nhiên của thị trường, cứ để cho nó tự điều tiết, đó là đường lối kinh tế chính trị đúng đắn và hiệu quả nhất. Trong sự vận động tự nhiên ấy, mỗi cá nhân chỉ đeo đuổi mục đích ích kỷ của mình thôi, không ai quan tâm tới lợi ích chung của xã hội. Thế mà sự cạnh tranh giữa họ sẽ khiến toàn bộ xã hội đạt khả năng sản xuất và làm giàu tối ưu, cứ như thể thị trường có một bàn tay vô hình hướng dẫn mọi người đều đi tới mục đích ấy.

Báo Le Monde và nxb Flammarion tái bản quyển La richesse des nations1, Sự giàu có của các quốc gia, bán với giá 4,90 € ở quầy báo! Ôi, một tác phẩm quý đến thế này mà trị giá có bấy nhiêu thôi! Trí tuệ là tài sản chung của nhân loại, không là một ý tưởng hão khi luật Pháp cấm tư hữu hoá nó… Nhân dịp này, ta thử ghi nhớ vài đóng góp quý báu của Adam Smith trong lĩnh vực tư duy kinh tế. Ghi nhớ thôi, không phê phán vì đã có người phê phán chi li mạch lạc từ lâu rồi2 và, trong lĩnh vực vừa thiết thân vừa rắc rối bậc nhất này của kiếp người, không thể có “mì ăn liền” được, phải vắt óc toát mồ hôi hột thì may ra mới học được đôi điều đáng học.

1. Sự giàu có của các quốc gia là gì?

Adam Smith là người đầu tiên khẳng định một cách dứt khoát, toàn diện, rõ ràng và mạch lạc quan điểm này: Sự giàu có của các quốc gia không do “rừng vàng biển bạc” mà có ; nó không là gì hết ngoài toàn bộ những sản phẩm do lao động của con người tạo ra. Nếu ta xem nó trong khoảnh khắc 1 năm thì nó gồm:

  • a. Tư bản3 sẵn có, nghĩa là những sản phẩm mà lao động của xã hội đã sản xuất ra trước đó mà chưa tiêu thụ.
  • b. Những sản phẩm mà lao động của quốc gia (hay xã hội) ấy đã sản xuất được trong năm.

Ở thời ông, quan điểm này quả là cách mạng. Nó vừa kế thừa vừa phủ định mô hình kính tế của Quesnay4 vì Quesnay cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra của cải cho quốc gia.

2. Khối lượng sản phẩm được tạo ra tuỳ thuộc:

  • a. Số người lao động được vận dụng để sản xuất trong năm

Số người này lại tuỳ thuộc lượng tư bản sẵn có trong xã hội : nó cho phép mua ít hay nhiều phương tiện sản xuất và trả lương cho ít hay nhiều thợ (ouvriers) để lao động sản xuất.

  • b. Năng suất của lao động

Năng suất của lao động tuỳ thuộc mức độ phát triển của sự phân công lao động (division du travail).  Chính nó và sự phân công lao động khiến thị trường phát triển. Thị trường phát triển lại thúc đẩy sự phân công lao động và năng suất lao động phát triển.

3. Thước đo của giá trị trao đổi của sản phẩm

Thời gian lao động cần thiết để sản xuất sản phẩm là thước đo giá trị trao đổi của sản phẩm5. Phải hiểu đó là thời gian trung bình để sản xuất một loại sản phẩm trong một xã hội nào đó ở một thời điểm nào đó. Giá cả của sản phẩm chỉ là hình thái tiền tệ của giá trị trao đổi ấy. Khi giá cả khớp với giá trị trao đổi, Adam Smith gọi nó là giá tự nhiên6 của sản phẩm (prix naturel). Còn những giá mà ta thấy trưng ở cửa hàng, thường khác nhau, Adam Smith gọi chúng làgiá thị trường, prix de marché. Giá thị trường dao động chung quanh giá tự nhiên tuỳ tình trạng cung cầu ở từng nơi. Et tutti quanti. Xuyên qua cạnh tranh, sự dao động ấy khiến cho giá thị trường tự nó hướng tới giá tự nhiên của sản phẩm. Sự điều tiết tự nhiên của thị trường ở đó.

4. Nội dung cơ bản của quan hệ kinh tế tư bản

Trong chương Des salaires du travail7 (Bàn về những [hình thái] lương của lao động), Adam Smith trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của ông về nền kinh tế thời ông. Đọc kỹ nó, ta hiểu liền vì sao Marx trọng tư tưởng của ông và coi ông với Ricardo là hai người đặt nền móng cho môn kinh tế chính trị học với tính cách một môn khoa học. Tôi xin cố dịch một mẩu, một cách chính xác nhất mà tôi có khả năng8:

Phần thưởng tự nhiên của lao động, hay lương của lao động, chính là sản phẩm do lao động tạo ra. Trong trạng thái nguyên thuỷ ấy, có từ trước khi có sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản, toàn bộ sản phẩm của lao động thuộc về người thợ (ouvrier, nghĩa thực là : người lao động). Người ấy không phảichia chác với chủ sở hữu (propriétaire) hay chủ (maître)9.

Nếu trạng thái ấy đã tiếp tục tồn tại tới ngày nay thì lương của lao động đã tăng cùng với sự tăng trưởng của năng suất lao động do sự phân công lao độngtạo ra. Mọi sản phẩm đã từ từ trở thành càng ngày càng rẻ.10 […]

Nhưng trạng thái nguyên thuỷ trong đó người thợ hưởng toàn bộ sản phẩm do lao động của nó tạo ra, đã không tồn tại vượt qua thời đại sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản đi vào xã hội. Thế thì trạng thái ấy không còn nữa từ lâu, khi năng suất lao động đã đạt một mức hoàn hảo cao, và ta không nên mất thời giờ tìm hiểu xem hậu quả trên phần thưởng hay lương lao động sẽ thế nào trong trạng thái ấy.

Ngay khi đất đai trở thành tư hữu11, chủ đất liền đòi hỏi cho mình hầu hết những sản phẩm mà người lao động có thể nuôi trồng và gặt hái được ở đó. “Địa tô” (tiền thuê đất) của nó là phần phải trừ đi đầu tiên mà lao động ứng dụng vào đất phải chịu đựng.12

Rất ít khi con người cày đất có sẵn những gì cần thiết để sống cho tới ngày gặt hái. Thông thường, một ông chủ trại (fermier), người dùng nó, trên vốn tư bản của mình, cho nó vay những đồ tiêu dùng [để tồn tại và lao động cho tới ngày gặt hái], và ông chủ ấy chẳng có lý do gì để làm việc ấy nếu việc ấy không cho phép ông thu một phần sản phẩm do lao động của nó tạo ra, hay nếu vốn tư bản mà ông ấy đã ứng ra không được hoàn lại với một món lời. Món lời ấy là phần cắt xén thứ hai trên sản phẩm của lao động vận dụng vào đất đai.13

Sản phẩm của hầu hết mọi lao động khác đều bị ăn xén như thế để trả tiền lời. Sản phẩm của hầu hết lao động nào khác đều bị cắt xén như thế để thanh toan món lời cho tư bản. Trong mọi ngành nghề, trong mọi xí nghiệp (fabriques), đa số thợ cần có một ông chủ sẵn sàng ứng cho họ phương tiện vật chất để lao động, cũng như lương và nhu yếu phẩm của họ để sống, cho tới khi sản phẩm của họ hoàn thiện. Người chủ ấy lấy một phần sản phẩm của lao động của họ hay giá trị mà lao động ấy đã thêm vào vật thể mà nó tác động vào [để biến vật thể ấy thành hàng hoá có thể trao đổi được] và chính cái phần ấy làm ra lời của họ.

Tóm lại, thế này:

A. Thế nhìn của chủ đất và của chủ tư bản

Tôi là chủ đất, là chủ tư bản. Anh muốn lao động sản xuất để sống “ngày càng khá hơn” thì anh phải nộp tô nộp lời cho tôi ngày càng nhiều hơn.

Khi bản thân anh “chủ tư bản” không có vốn, chỉ có tài kinh doanh thôi (tư bản chức năng), anh ấy có thể vay vốn tư bản của người khác (tư bản sở hữu) để kinh doanh và phải chia chác một phần tiền lời (nếu có!) với anh tư bản sở hữu. Phần đó gọi là intérêt (lãi có được do cho vay vốn). Lãi ấy chẳng bao giờ dosự hy sinh không hưởng thụ liền tài sản của mình của chủ vốn hay sự dũng cảm chấp nhận rủi ro, mà đột nhiên hiện thực ở đời, làm gì có chuyện hão đến thế! nó chỉ có thể do lao động của người khác mà có thực.

Đó là chuyện ngày xưa. Ngày nay còn có chuyện siêu hơn nữa. Những nghìn tỷ $ mà các Nhà nước tư bản đổ ra để cứu vãn “hệ thống tài chính” của “quốc gia” và “quốc tế”, đương nhiên phải đi vào túi của ai chứ! Đó là những món nợ mà bàn dân các nước ấy phải trả bằng lao động tương lai của mình và con em mình. Kinh tế hậu hiện đại đó! Không chỉ là học thuyết suông đâu…

 

B. Thế nhìn của anh lao động

Dù sao thì không có đất hay vốn tư bản của người khác thì mình cũng bất lực và đói nhăn răng.

C. Kết luận của Adam Smith

Những điều ấy tự nhiên, cứ để thị trường giải quyết một cách tự nhiên. Sẽ lợi cho mọi người.

Trước Adam Smith, chưa ai đã mô tả một cách cụ thể, hữu lý, tính chất bóc lột sức lao động của hình thái kinh-tế xã-hội tư bản như thế này.

Adam Smith, trong quyển sách này, không bao giờ dùng khái niệm bóc lột. Có lẽ, đối với ông, khái niệm ấy không có tính chất khoa học, vì đối với ông, đó là một sự kiện tự nhiên, không dính dáng gì hết với thế giới giá trị, tâm linh của con người ? Ông thấy rất rõ rằng quan hệ giữa chủ đất và chủ tư bản với người lao động sản xuất ra sản phẩm, của cải hay sự giàu có của các quốc gia, là một quan hệ cưỡng bức để đoạt về mình một phần sản phẩm do lao động của người khác tạo ra. Ông cũng thấy rất rõ rằng một chức năng của Nhà nước là bảo vệ quan hệ bóc lột ấy. Ông không coi đó là bóc lột, coi đó là tự nhiên. Tự nhiên  tự nhiên, tự nó tồn tại và vận hành, chẳng thể nào khác được sự thật,  đối tượng của tư duy khoa học, theo ông và không ít người khác từ xưa tới nay. Đời nó vậy mà! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi, đời nay, các kinh tế gia thời thượng chỉ biết cấu vài ý tưởng của ông để lạm dụng cho mình vì chính mình thua kém ông cả một cái đầu, dù được đội mũ “Nobel” kinh tế, nhưng không có mấy ai nhắc lại, dạy lại toàn bộ học thuyết kinh tế của ông.

 

5. Chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole)

Đã tin vào bàn tay vô hình của Thị trường, tính ưu việt của tự do cạnh tranh, Adam Smith chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole). Ông chung thuỷ và nhất quán trong tư duy của mình đến mức: ông chủ trương bãi bỏ độc quyền kinh doanh của các đế quốc, kể cả đế quốc Anh, trong quan hệ kinh tế của chúng với thuộc địa của chúng. Cứ như OMC ngày nay!

6. Chống sự can thiệp của Nhà nước vào sự vận động tự nhiên của thị trường

Đây có lẽ là di sản, tuy đã cũ kĩ kinh hoàng, cũ kĩ hơn cả học thuyết kinh tế của Marx mà, có tác động nhiều nhất của Adam Smith với tư duy kinh tế và đời sống chính trị ngày nay. Và thân phận làm người của chúng ta trong nền kinh tế thị trường tư bản toàn cầu hoá này.

Ông cho rằng:

  • a. Sự vận động tự nhiên của kinh tế thị trường sẽ tự nó hướng dẫn hành động của con người đi tới mức tối ưu của nó cho xã hội. Đây là niềm tin “khoa học” của thế kỷ Khai Sáng!
  • b. Vì sao ? Ta không thể hiểu được14. Ta chỉ có thể tin tưởng vào bàn tay vô hình của nó thôi. Bàn tay ấy sẽ dẫn ta đi tới đâu, ta chỉ biết được sau khi đã trả giá,sau khi đã làm người không tự do, hay đã làm người tự do phi lý trí, phi nhân tình15!

Đối với một người đành lang thang chữ nghĩa như tôi, đọc lại quyển sách này tôi lại được hưởng hai điều thú vị.

A. Adam Smith cho thấy rõ tư duy của con người lệ thuộc chữ nghĩa mà người đời đã nhồi vào óc nó đến mức nào!

Dù có thể tôi đã nói quá dài, tôi đã thấy rằng phải xem xét, trong mọi chi tiết của nó, niềm tin của dân chúng cho rằng sự giàu có ở lượng tiền hay vàng bạc mà ta có. Trong ngôn ngữ thông thường, như tôi đã từng nhận xét, có tiền thường có nghĩa là giàu có, và sự nhập nhằng trong cách phát biểu ấy đã khiến ý tưởng bình dân này trở thành thân thuộc với chúng ta đến mức ngay cả những người tin chắc rằng quan điểm ấy sai, bất cứ lúc nào cũng có thể quên nguyên lý của chính họ và bị luồng suy luận của họ lôi kéo tới mức họ chấp nhận thành kiến ấy như một ý tưởng họ đã thu nhập và công nhận là sự thật chắc chắn, không thể phủ nhận. Một vài tác giả Anh hay nhất đã từng viết về thương mại, đã xuất phát từ nguyên lý đó, nghĩa là sự giàu có của các quốc gia không chỉ ở lượng vàng và bạc mà nó có, mà là ở đất đai, nhà cửa và đủ thứ sản phẩm tiêu dùng được mà nó có. Tuy vậy, sau đó, dường như họ đã quên béng đất đai, nhà cửa và sản phẩm tiêu dùng được, và nội dung những lập luận của họ khiến ta nghĩ rằng sự giàu có ở lượng vàng và bạc mà quốc gia ấy có và họ coi chuyện nhân khối lượng những kim loại quý ấy là mục tiêu cơ bản của công nghiệp và thương nghiệp quốc gia.16

Nếu ta vận dụng ý tưởng của ông để xem xét “ngôn ngữ khoa học” của chính ông, như khái niệm tự nhiên chẳng hạn, ta sẽ hiểu được đôi điều đáng hiểu về ngôn ngữ khoa học trong học thuyết của ông và trong ngành kinh tế học ngày nay.

B. Sau khi phê phán khắt khe sai lầm của François Quesnay, ông đánh giá cống hiến của Quesnay cho môn kinh tế chính trị học như thế này

Mặc dù những khuyết điểm của nó, có lẽ mô hình này, trong tất cả những gì người đời đã đăng về kinh tế chính trị học, là mô hình gần sự thật nhất và, dưới góc độ đó, nó đáng cho mọi người muốn tìm hiểu một cách nghiêm túc một môn khoa học quan trọng như thế này, quan tâm. Khi ông cho rằng lao động khai thác đất đai là lao động có tính chất sản xuất duy nhất, những ý tưởng của ông về hiện thực có thể quá chật hẹp và giới hạn. Tuy vậy, khi ông cho rằng sự giàu có của những quốc gia không ở lượng của cải không tiêu thụ được như vàng và bạc mà ở những sản phẩm tiêu thụ được mà lao động của xã hội có thể tái sản xuất mỗi năm, và vạch cho thấy rằng tự do tuyệt đối là phương tiện duy nhất cho phép nó đạt thành quả lớn nhất, lý thuyết của ông, về mọi mặt, đúng đắn ngang tầm vĩ đại và tinh thần rộng lượng của nó.17

Đọc khúc văn trên, tôi chạnh lòng nhớ cuộc tranh luận giữa Sartre và Camus khi hai người, tôi đều yêu18, đoạn tuyệt với nhau. Ôi, nhân tài thế giới đánh giá nhau như thế! Càng quý trọng nhau, càng khắt khe, càng quyết liệt đòi hỏi tới cùng, chẳng rào trước đón sau, xã giao tí nào. Và ngược lại!

Ngông cuồng, tôi kiến nghị với các đại học kinh tế lập một chứng chỉ: tư duy kinh tế của Adam Smith. Tất nhiên lại chuyện hão! Chỉ là kẻ ngoại đạo mà dám lếu láo đến thế thì… hết xảy!

2009-10-24
Phan Huy Đường

Edit: THĐP


**********************

1 La richesse des nations, Le Monde – Flammarion, Paris 2009. Trong bài này, khi trích văn bản này, tôi ghi gọn : La richesse des nations.
2 Karl Marx. Contribution à la critique de l’économie politique và Le Capital.
3 capitaux. Ở Adam Smith, capital cơ bản có nghĩa là vốn tuy cũng có nghĩa là tư bản như khái niệm tư bản của Marx.
4 François Quesnay, 1694-1774, người lập ra học phái kinh tế đầu tiên tại Châu Âu, (physiocrates, trọng nông), tạo ra thế nhìn vĩ mô ở mức một quốc gia vớiTableau économique (Bảng hay “mô hình” kinh tế).
5 “Le travail est donc la mesure réelle de la valeur échangeable de toute marchandise.” Lao động là thước đo đích thực của giá trị trao đổi của mọi hàng hoá. La richesse des Nations, tr. 36.
6 Mỗi lần đưa ra một khái niệm khó giải thích, và đây là khái niệm khó giải thích nhất trong môn kinh tế học, ngay cả hôm nay, Smith giải quyết vấn đề nhẹ nhàng bằng một tính từ : tự nhiên! Đó là tín ngưỡng của thế kỷ Khai Sáng : mọi sự đều tự nhiên, tự nhiên là khoa học và khoa học là tiến bộ. Tự nhiên có nghĩa là không có gì để bàn cả! Ngày nay người đời cũng làm thế trong một đống lĩnh vực khác nhau của tư duy… Nếu không là Tự nhiên thì cũng là kinh tếThị trường lại Toàn cầu hoá nữa! Có gì mà phải phân vân ? Phải tin, tin và tin… Hè hè…
7 La richesse des Nations. Tr. 53.
8 Trong đoạn văn dịch này, những từ được gạch ở dưới, do tôi, PHĐ.
9 Propriétaire = chủ của một cái gì : đất, nhà, v.v. Maître = ông chủ : như chủ nô hay chủ vốn chẳng hạn, nghĩa rất rộng và mơ hồ.
10 Đây là một câu hỏi cơ bản cho môn “khoa học” kinh tế của đời nay đó. Năng suất lao động tăng vùn vụt mấy chục năm liền, nhưng giá cả của nhu yếu phẩm ở các nước phát triển như Pháp càng ngày càng không với tới được đối với bàn dân lao động sàng sàng! Đầy người lao động không còn khả năng ăn trưa một cách bình thường như trước kia với đồng lương của mình ngay trong các nhà ăn xí nghiệp (cantines), phải mang đồ ăn vào sở hay mua đồ ăn rẻ tiền củafastfood.
11 Đến đây ta mới hiểu Adam Smith muốn nói gì trong khúc văn trên khi ông dùng khái niệm chiếm hữu (appropriation)! Với ông, trong vấn đề kinh tế này, nó nghĩa là tư hữu (propriété privée, trong nghĩa thông thường ngày nay). Thời ấy, không nhất thiết phải hiểu như vậy! Chỉ cần thêm một tính từ : tư hữu tư sản hay tư bản (propriété privée bourgeoise ou capitaliste), thì có một khái niệm tạm gọi là chính xác vì trong lịch sử của Châu Âu đã từng có nhiều hình thái tư hữu khác!
12 Nói toạc móng heo thì thế này : anh đã cày cấy trên đất của tôi thì anh phải nộp tô tức cho tôi. Tôi đếch làm gì cả, đếch sản xuất sản phẩm nào cả mà vẫn có lợi tức đề huề, hợp pháp. Chính Adam Smith đã phũ phàng vạch điều ấy trong tác phẩm này.
13 Nói toạc móng heo : anh chỉ có sức lao động thôi ; với năng lực ấy, anh chẳng làm được gì cả, chết đói ngay ; tôi ứng cho anh tiền mua phương tiện sản xuất và nhu yếu phẩm để anh có thể lao động sản xuất, ăn uống và thậm chí hú hí với vợ để đẻ ra những người thợ tương lai, cho tới ngày anh tạo ra sản phẩm. Với điều kiện này : trong sản phẩm anh làm ra, anh hoàn lại cho tôi một số lượng mà giá trị = vốn tôi đã cho anh mượn + tí ti lời.
14 ý của tôi, vì tác phẩm của Adam Smith nhằm chứng minh điều ấy là tự nhiên và hiểu được một khi ta chấp nhận tính tự nhiên của nó.
15 Tư duy kinh tế của Marx chống lại luận điểm này : kinh tế là quan hệ giữa người với người, do con người tạo ra, ta có thể làm chủ định mệnh của ta trong lĩnh vực này vì ta có thể hiểu được nó : nó là sản phẩm của chính ta mà.
16 J’ai cru nécessaire, au risque même d’être trop long, d’examiner dans tous ses détails cette idée populaire, que la richesse consiste dans l’argent ou dans l’abondance des métaux précieux. Dans le langage vulgaire, comme je l’ai observé, argent veut souvent dire richesse, et cette ambiguïté d’expression nous a rendu cette idée populaire tellement familière, que ceux même qui sont convaincus de sa fausseté sont à tout moment sur le point d’oublier leur principe et, entraînés dans leurs raisonnements, à prendre ce préjugé pour une idée reçue et reconnue comme une vérité certaine et incontestable. Quelques-uns des meilleurs auteurs anglais qui ont écrit sur le commerce partent d’abord de ce principe, que la richesse d’un pays ne consiste pas uniquement dans son or et son argent, mais qu’elle consiste dans ses terres, ses maisons et ses biens consommables de toutes sortes. Néanmoins, dans la suite de leurs discussions, il semble que les terres, les maisons et les biens consommables leur sortent de la mémoire, et la nature de leurs arguments paraît souvent supposer qu’ils font consister la richesse dans l’or et dans l’argent, et qu’ils regardent la multiplication de ces métaux comme l’objet capital de l’industrie et du commerce national. La richesse des Nations, p. 141-142
17 Avec toutes ses imperfections, néanmoins, ce système est peut-être, de tout ce qu’on a encore publié sur l’économie politique, ce qui se rapproche le plus de la vérité, et sous ce rapport il mérite bien l’attention de tout homme qui désire faire un examen sérieux des principes d’une science aussi importante. Si, en représentant le travail employé à la terre comme le seul travail productif, les idées qu’il veut donner des choses sont peut-être trop étroites et trop bornées, cependant, en représentant la richesse des nations comme ne consistant pas dans ces richesses non consommables d’or et d’argent, mais dans les biens consommables reproduits annuellement par le travail de la société, et en montrant la plus parfaite liberté comme l’unique moyen de rendre cette reproduction annuelle la plus grande possible, sa doctrine paraît être, à tous égards, aussi juste qu’elle est grande et généreuse. La richesse des nations, p. 196-197
18 yêu dễ quá mà, có mất tiền mua đâu!

Ba nguyên lý quản trị quốc gia thịnh vượng

Featured Image: Wikipedia

 

Đã 37 năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. Quãng thời gian này chỉ vào khoảng 1% của lịch sử dân tộc Việt Nam nhưng lại là khoảng thời gian hòa bình có nhiều biến chuyển nhất. Trong vòng 10 năm đầu, cả đất nước đã thử nghiệm mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, loay hoay tìm cách hoàn thiện nó, nhưng cuối cùng đã phải thừa nhận đó là một mô hình sai lầm vào năm 1986.

Hơn 20 năm qua, chúng ta dường như đã chấp nhận cơ chế thị trường nhưng vẫn loay hoay đi tìm những nguyên lý quản trị quốc gia để tương thích với cơ chế này. Lịch sử là quá khứ. Nhưng lịch sử chính là nơi để mỗi cá nhân, mỗi dân tộc soi xét nhằm rút ra những bài học, những nguyên lý định hướng cho sự phát triển của mình trong tương lai. Đối với tôi, ba nguyên lý dưới đây là những nguyên lý cơ bản nhất để xây dựng một hệ thống quản trị quốc gia thịn vượng và hiệu quả.

Nguyên lý 1: Xây dựng và bảo vệ cơ chế thị trường

Ngày nay khi nói đến cơ chế thị trường hiếm ai còn phủ nhận vai trò của nó trong việc tạo ra của cải vật chất. Tuy nhiên, người ta lại thường nhắc đến những khuyết tật của nó, xem thị trường là nguyên nhân gây ra những thói hư tật xấu trong xã hội, và do đó, là đối tượng mà nhà nước cần phải khống chế, kiểm soát để giảm thiểu những thói hư tật xấu đó.

Nhưng thực tế Việt Nam cho thấy một bức tranh hoàn toàn ngược lại. Bất cứ chỗ nào thị trường xác lập được chỗ đứng của mình, ở đấy đức hạnh và hành xử văn minh được vun trồng và phát triển.

Chúng ta đều biết nền tảng quan trọng nhất của cơ chế thị trường là việc công nhận và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cá nhân. Ở những nơi mà quyền sở hữu tài sản được xác lập rõ ràng và minh bạch nhất, chẳng hạn các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, thì những người đứng đầu doanh nghiệp luôn tỏ ra là những cá nhân sống có trách nhiệm với nhân viên, với cộng đồng, và với gia đình của mình. Những hành động thiếu văn minh, như việc tổ chức đám cưới linh đình của gia đình bà chủ công ty Bianfishco trong thời gian vừa qua, đã phải trả một giá rất đắt, khiến cho doanh nghiệp của mình suýt rơi vào tình trạng phá sản.

Có nhiều người cho rằng đạo đức ở nông thôn Việt Nam bị xuống cấp vì cơ chế thị trường. Thực sự thì không phải như vậy. Tài sản lớn nhất của người nông dân là ruộng đất. Nhưng khi vấn đề sở hữu đất đai ở Việt Nam còn chưa rõ ràng thì thị trường vẫn còn xa mới được thiết lập ở các vùng quê. Ở những khu vực nông thôn mà đất đai bổng dưng trở nên có giá trị, các hành vi lừa lọc và chiếm đoạt sẽ bị kích thích. Và những đồng tiền có được một cách dễ dàng khiến những người nông dân chân chất trước đây bị cuốn vào lối sống “trưởng giả học làm sang”.

Điều tương tự cũng xảy ra ở cơ quan công quyền, khi mà thị trường chưa thực sự lớn mạnh, chưa tạo đủ sức ép khiến quan chức nhà nước buộc phải phục vụ xã hội thay vì quản lý xã hội, thì còn xa các quan chức nhà nước mới thực hiện công khai tài sản. Khác với những người chủ doanh nghiệp có tài sản công khai, buộc họ phải sống có đạo đức hơn, sự mập mờ về nguồn gốc tài sản quan chức khiến cho một bộ phận không nhỏ trong số họ ngày càng “suy thoái đạo đức”.

Nguyên lý 2: Xác lập bình đẳng hình thức

Con người ta vốn sinh ra đã có sự khác biệt về chất (substantive). Thể tạng của mọi người về cơ bản khác nhau; chủng tộc, nơi sinh sống khác nhau v.v. cũng khiến cho mỗi người có những điểm riêng biệt mà người khác không có. Việc công nhận quyền sở hữu trong nền kinh tế thị trường càng khiến cho mỗi cá nhân khi lớn lên được hưởng những gia tài thừa kế lớn bé khác nhau. Tuy khác nhau về chất nhưng về hình thức (formal) thì tất cả các cá nhân đều bình đẳng theo nghĩa họ đều là con người. Hàm ý rất rõ ràng của nguyên lý bình đẳng hình thức này là tất cả các cá nhân dù khác nhau về chất nhưng đều cần phải được đối xử ngang bằng nhau, tức có cơ hội thành công ngang nhau trong mọi cuộc đua tranh trong xã hội.

Nguyên lý tưởng chừng như hiển nhiên đó lại không được chúng ta nhìn nhận đúng mức trong những năm vừa qua. Đã có một thời chúng ta quản lý nhà nước theo kiểu cố gắng làm cho mọi người giống nhau về chất, từ ăn mặc cho đến thưởng thức văn hoá, nghệ thuật. Tuy hiện nay nhà nước đã cho phép các cá nhân/chủ thể được tự do hơn nhiều trong việc thể hiện sự khác biệt của mình nhưng dường như đó chỉ là do sức ép của thị trường hơn là chủ động của chính quyền trong việc áp dụng nguyên lý bình đẳng hình thức. Chúng ta có thể bắt gặp nhiều hình thức cấm đoán mang tính hành chính, từ cách ăn mặc của ca sĩ, như không được mặc áo xẻ ngực quá nhiều, cho đến hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, như áp trần lãi suất huy động. Những cấm đoán có tính cào bằng này, dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, cũng chỉ gây cản trở những người tham gia phát huy được những tố chất khác biệt ẩn chứa trong mỗi người để tạo ra nhiều giá trị hơn chính bản thân họ và cho xã hội.

Nguyên lý bình đẳng hình thức đòi hỏi chính quyền phải tập trung xây dựng và bảo vệ luật pháp không nhằm đáp ứng nhu cầu hay ước muốn của những người cụ thể nào. Đó phải là những qui tắc lâu dài để giúp mọi người trong xã hội có thể dự đoán hành vi của những người khác mà họ sẽ phải cộng tác hay cạnh tranh. Nguyên lý bình đẳng hình thức cũng đòi hỏi chính quyền phải giới hạn hành động của mình trong những khuôn khổ pháp lý để người dân có thể dự đoán được các hành vi của những người nhân danh chính quyền. Như thế, nguyên lý bình đẳng hình thức chính là nền tảng để xây dựng một nhà nước pháp trị cho Việt Nam.

Nguyên lý 3: Thúc đẩy đa dạng hoá

Phát triển là quá trình đa dạng hoá. Điều này không chỉ đúng ở muôn loài mà còn đúng ở tron g xã hội loài người. Một quốc gia phát triển là một quốc gia không những chỉ tràn ngập các chủng loại hàng hoá khác nhau mà còn phong phú về các hệ tư tưởng và các loại hình văn hoá, nghệ thuật.

Việt Nam có lẽ là một trong số ít các quốc gia được thừa hưởng sẵn một nền tảng đa dạng phong phú, từ đa dạng về các dân tộc và tôn giáo cho đến đa dạng về khí hậu và địa hình. Tuy nhiên, các chính sách của chúng ta trong những năm qua ít nhắc đến yếu tố đa dạng hoá. Ở khắp các vùng miền, chúng ta đều thấy những chủng loại hàng hoá tương tự nhau, những công trình kiến trúc hiện đại từa tựa nhau, những cách thức tổ chức văn hoá, những lễ hội hao hao giống nhau, những mô hình tổ chức xã hội giống hệt nhau v.v. Trong thời đại toàn cầu hoá, việc thiếu vắng các nét khác biệt sẽ có thể khiến chúng ta bị thua thiệt hoặc thất bại trong mọi lĩnh vực, thậm chí bị tiêu diệt hoặc “tan chảy”, nhập vào các đối thủ khác.

Nguyên lý đa dạng hoá đòi hỏi chính quyền không những phải cho phép mà còn phải có những cơ chế khuyến khích các cá nhân và tổ chức tự chủ quyết định theo đuổi những con đường riêng của mình. Muốn vậy, từ khâu giáo dục, kinh doanh cho đến sinh hoạt cộng đồng và thậm chí chính quyền địa phương cũng cần được quyền đưa những nét khác biệt, từ nội dung cho đến cách thức tổ chức, vào trong địa phương hoặc vùng miền của mình. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể nuôi dưỡng được những thế hệ trẻ không những chỉ kế thừa mà còn sáng tạo thêm được nhiều nét độc đáo mới của Việt Nam trong thời đại toàn cầu hoá ngày càng diễn ra sâu rộng.

 

Đinh Tuấn Minh

Ludwig von Mises: Kinh tế gia, Triết gia, Nhà Tiên tri

Photo: Ludwig von Mises

Ghi chú của chủ biên: Ngày 29 tháng 9 là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 130 của Ludwig von Mises [1], kinh tế gia lỗi lạc người Áo, bênh vực cho chủ nghĩa tự do cổ điển và là cố vấn cho Tổ chức Giảng dậy Khoa Kinh tế (Foundation for Economic Education, FEE). Dưới đây là một số bài của Mises đăng trên Tập san The Freeman trong những năm qua.

Thị trường

Người ta thường nói một cách bóng bẩy về các lực vô danh và tự động khởi động “cơ chế” thị trường. Nói như vậy là không để ý tới sự kiện là những yếu tố duy nhất chỉ huy thị trường và quyết định giá cả là những hành động có chủ đích của con người.  Không có gì là tự động cả, chỉ có con người cố ý một cách có ý thức để nhắm vào các mục đích đã lựa chọn.

Thị trường là một quần thể xã hội, nó là một quần thể xã hội tiên tiến. Mỗi người trong khi hành động đều phục vụ cho những người đồng loại. Ngược lại, người nào cũng được phục vụ bởi các người đồng loại khác. Mỗi người tự mình vừa là phương tiện và vừa là cứu cánh cuối cùng cho chính mình và là phương tiện cho những người khác trong khi họ cố gắng đạt tới cái mục đích riêng của họ.

Mỗi người đều có tự do, không có ai bị chi phối bởi một bạo chúa. Mỗi một cá nhân tự mình hoà nhập vào một hệ thống hợp tác. Thị trường hướng dẫn họ và cho họ thấy con đường mà họ phải theo để cho sự an sinh của họ cũng như sự an sinh của các người khác được tốt hơn. Thị trường là tối thượng. Chỉ có thị trường mới có thể đặt hệ thống xã hội vào vòng trật tự và cho hệ thống xã hội đó một ý nghĩa.

Thị trường không phải là một nơi chốn, một vật hay là một thực thể tập thể. Thị trường là một diễn trình, được khởi động bằng sự giao tiếp của các hành động của những người khác nhau cộng tác với nhau theo sự phân công về lao động.

Những hành động cá nhân được trao đổi nhiều lần đã từng bước tạo ra thị trường, với sự tiến triển trong sự phân công lao động trong xã hội dựa theo tài sản tư. Những sự trao đổi như vậy chỉ có thể thực hiện được nếu mỗi một thành phần trong cuộc trao đổi đó đánh giá phần mà họ nhận được lớn hơn phần mà họ cho đi.

Tính chất có thể phân chia hầu như vô hạn của tiền tệ khiến cho có thể ấn định các tỷ số trao đổi một cách rất tốt đẹp. Diễn trình thị trường rất rõ ràng và không thể phân chia được. Diễn trình này là một sự hội nhập các hành động và các phản ứng không thể tách rời nhau ra được. Nhưng vì khả năng suy nghĩ của chúng ta không đầy đủ cho nên bắt buộc chúng ta phải chia diễn trình đó ra thành từng phần và phân tích các phần đó một cách riêng biệt. Khi phải dùng tới sự phân chia nhân tạo như vậy, chúng ta không được quên rằng sự hiện diện hầu như tự động của các phần này là do sự tưởng tượng của chính chúng ta. Nó chỉ là những phần riêng lẻ, nghĩa là những phần đó không thể nào hiện hữu ngoài cơ cấu mà những phần đó trực thuộc.

Một kinh tế thị trường như vậy sẽ không bị giới hạn bởi các biên giới về chính trị. Địa bàn hoạt động của nó là thế giới. Thị trường khiến cho người ta trở nên giàu hay nghèo, nó xác định ai là người sẽ quản lý những cơ sở sản xuất lớn và ai là người sẽ chỉ làm việc rửa cọ sàn nhà, nó xác định sẽ cần bao nhiêu người để làm việc trong một mỏ đồng và bao nhiêu người sẽ chơi nhạc trong một ban nhạc hoà tấu. Không có một quyết định nào không bao giờ thay đổi; trái lại, những quyết định đều được hủy bỏ hay thu hồi mỗi ngày. Diễn trình lựa chọn này không bao giờ ngưng.

Việc đặt mỗi người vào một chỗ thích hợp trong xã hội là nhiệm vụ của người tiêu thụ. Những sự mua hay không mua của họ có vai trò ấn định vị thế xã hội cho từng cá nhân. Rốt cuộc, người tiêu thụ ấn định không những giá cả của những món hàng tiêu thụ mà còn ấn định cả giá cả của những yếu tố sản xuất. Những người tiêu thụ ấn định thu nhập của từng người trong thị trường kinh tế. Chính người tiêu thụ, chứ không phải người kinh doanh, cuối cùng sẽ là người trả lương cho từng công nhân, từ ngôi sao màn bạc kiều diễm đến những người bán than tầm thường. Quả thực là trong thị trường không phải người tiêu thụ nào cũng có những quyền biểu quyết như nhau. Người giàu có quyền bỏ phiếu nhiều hơn người nghèo. Nhưng sự bất công bằng này chính nó cũng là kết quả của một diễn trình bầu phiếu trước.

Nếu một nhà doanh nghiệp không nghiêm túc tuân theo những lệnh của công chúng được chuyển tới ông ta qua giá cả của thị trường, thì nhà doanh nghiệp này sẽ bị thua lỗ, ông ta sẽ bị vỡ nợ. Những người khác đã đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của người tiêu thụ sẽ thay thế ông ta.

Những người tiêu thụ khiến cho người nghèo trở nên giàu, và người giàu lại thành ra nghèo. Người tiêu thụ quyết định một cách chính xác những gì cần phải sản xuất, phẩm chất ra làm sao và số lượng là bao nhiêu.  Họ là những ông chủ khắt khe, luôn luôn thay đổi và không thể đoán trước được. Họ không đếm xỉa gì tới những điều tốt trong quá khứ hay là những quyền lợi sẵn có.

Giá cả thị trường cho người sản xuất biết phải sản xuất những gì, sản xuất như thế nào và sản xuất bao nhiêu. Thị trường là tiêu điểm để các hoạt động của cá nhân hướng vào. Nó cũng là trung tâm để từ đó các hoạt động của cá nhân phát ra.

Kinh tế thị trường, còn gọi là chủ nghĩa tư bản, và kinh tế xã hội chủ nghĩa không thể đi đôi với nhau. Không thể pha trộn được hai hệ thống này với nhau. Không có cái gì gọi là một nền kinh tế vừa xã hội chủ nghĩa vừa tư bản.  Thị trường kinh tế là một sản phẩm của một diễn trình tiến triển lâu dài. Nó là một sách lược mà con người đã tiến bộ và áp dụng để tiến từ tình trạng hoang sơ tới văn minh.

Hành vi học (Praxeology)

Không còn có thể xác định rõ rệt biên giới giữa các hoạt động ở trong khoa học kinh tế theo nghĩa hẹp với các hoạt động khác. Con người hành động luôn luôn quan tâm tới vấn đề “vật chất” và vấn đề “lý tưởng”. Con người đó chọn trong số nhiều sự lựa chọn khác nhau. Dù các sự lựa chọn đó được coi là vật chất hay lý tưởng cũng không quan trọng.

Lý thuyết tổng quát về sự lựa chọn rộng hơn là lý thuyết về “khía cạnh kinh tế” của nỗ lực của con người và sự phấn đấu của họ để có các sản phẩm và để cải thiện đời sống vật chất. Đó là một khoa học cho tất cả mọi loại hành động của con người. Hành động lựa chọn chi phối tất cả các quyết định của con người.

Từ khoa kinh tế chính trị của trường phái cổ điển đã xuất hiện một lý thuyết tổng quát về hành động con người, gọi là hành vi học. Những vấn đề kinh tế hay những vấn đề về sự trao đổi và lựa chọn [2] (catallactic problems) được gắn liền với một khoa học tổng quát hơn, và không thể nào tách rời ra được. Không có một sự tìm hiểu nào về các vấn đề kinh tế mà lại không bắt đầu bằng việc tìm hiểu về hành động lựa chọn. Khoa kinh tế học, mặc dầu cho tới nay là phần đã được khai triển nhiều nhất, đã trở thành một phần của một khoa học có tính cách tổng quát hơn, đó là hành vi học.

Hành vi học – và do đó kinh tế học – là một khoa học diễn dịch. Lý luận chặt chẽ của khoa học này xuất phát từ các sự suy diễn, từ các loại hoạt động. Không có một định lý kinh tế nào được coi là có giá trị nếu nó không dựa trên cơ sở một diễn trình lập luận hoàn toàn chặt chẽ. Một lời trình bầy không dựa vào suy luận chặt chẽ thì hoàn toàn có tính cách võ đoán và thiếu vững chắc. Không thể nào bàn về một khía cạnh của khoa kinh tế nếu chúng ta không đặt nó trong một hệ thống hoạt động tổng quát.

Các khoa học thực nghiệm khởi đầu từ các sự kiện riêng lẻ và tiến từ cái độc nhất, cái cá thể tới những điều có tính cách phổ quát hơn . Việc trình bày các khoa học này dễ bị chuyên môn hoá. Các khoa học thực nghiệm đó có thể trình bầy từng phân đoạn mà sao lãng cái tổng thể. Các nhà kinh tế không bao giờ được là một người chuyên môn. Khi xem xét bất cứ một vấn đề gì nhà kinh tế phải nhìn vào tổng thể.

Khi nói về các luật thiên nhiên chúng ta phải nhớ rằng có một sự liên hệ không thể lay chuyển được giữa các hiện tượng vật lý và hiện tượng sinh lý, và con người hành động phải tuân theo cái sự liên hệ thường xuyên đó nếu họ muốn thành công. Khi nói về những luật của các hành động của con người thì chúng ta nói tới sự kiện không thể lay chuyển được là sự liên hệ của các hiện tượng luôn luôn có ở trong môi trường hoạt động của con người, và con người phải nhận ra hiện tượng thường xuyên đó nếu họ muốn thành công.
Trong khoa vật lý, chúng ta phải đối diện với sự thay đổi ở trong các hiện tượng cảm quan. Chúng ta phát hiện ra tình trạng thường xuyên qua diễn trình của sự thay đổi này và các điều quan sát này đưa chúng ta tới việc thành lập khoa vật lý.

Trong hành vi học, sự kiện đầu tiên mà chúng ta biết là con người cố ý hoạt động nhằm đưa ra một vài sự thay đổi. Chính sự nhận biết đó tạo thành chủ đề của khoa hành vi học và khiến cho khoa hành vi học khác hẳn với chủ đề của khoa học thiên nhiên.  Chúng ta biết những lực ở phía sau sự thay đổi, và kiến thức tiên nghiệm này giúp chúng ta nhận định ra được diễn trình của hành vi học.  Nhà vật lý học không biết điện năng “là gì”, ông ta chỉ nhìn thấy những hiện tượng đi đôi với cái mà người ta gọi là điện. Nhưng kinh tế gia biết điều gì đã phát động diễn trình của thị trường. Chính nhờ có sự hiểu biết này mà ông ta có thể phân biệt những hiện tượng của thị trường với những các hiện tượng khác và do đó có thể mô tả được diễn trình của thị trường.

Khoa hành vi học là một khoa chuyên về lý thuyết và có hệ thống. Nó không phải là khoa học dựa trên các sự kiện đã xảy ra. Những nhận định và giả thuyết của khoa hành vi học không xuất phát từ kinh nghiệm. Những sự kiện và những giả thuyết đó cũng giống như khoa luận lý và khoa toán đều có tính cách tiên nghiệm.  Những sự kiện và nhận định đó không có thể xác định hoặc bác bỏ dựa trên kinh nghiệm hay sự kiện.

Những điều giảng dậy trong khoa học hành vi học và kinh tế học có giá trị với tất cả các hành động của con người mà không để ý gì tới các động cơ, các nguyên nhân, các mục đích ở phía sau hành động.  Những sự đánh giá tối hậu và những mục đích tối hậu của hành động con người được coi là một điều đương nhiên phải có trong bất cứ một sự tìm hiểu khoa học nào; và những hành động này không thể nào phân tích sâu xa hơn nữa.  Khoa hành vi học chú trọng vào những cách thức lựa chọn để đạt được các mục đích tối hậu đó.  Chủ đề của khoa hành vi học là phương pháp chứ không phải là mục đích Chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất áp dụng cho khoa hành vi học là phương pháp đó có thích hợp hay không thích hợp cho mục đích muốn thực hiện.

Chỉ có những người điên rồ mới không tôn trọng những luật của vật lý và sinh lý. Nhưng người ta lại rất coi thường cái luật của khoa hành vi học. Các nhà cai trị cho là quyền lực của họ không bị giới hạn bởi bất cứ một luật nào ngoài luật vật lý và sinh lý. Họ không bao giờ chịu nhận là sự thất bại của họ và những sự bức xúc của họ là do đã vi phạm luật về kinh tế.

Lời và lỗ

Tiền lời là cái lực thúc đẩy kinh tế thị trường. Tiền lời càng lớn bao nhiêu thì nhu cầu của người tiêu thụ càng được đáp ứng bấy nhiêu. Bởi vì tiền lời chỉ có thể có được bằng cách làm mất sự sai biệt giữa nhu cầu của người tiêu thụ và tình trạng sản xuất trước đó. Người nào phục vụ dân chúng tốt nhất thì sẽ có lời nhiều nhất. Khi ngăn chặn sự thu lời thì chính phủ đã cố ý phá hoại sự hoạt động của kinh tế thị trường.

Tiền lời của những người đã sản xuất hàng hoá và dịch vụ mà người mua tranh nhau để mua không gây ra sự lỗ vốn cho những người đã đưa vào thị trường những hàng hoá mà công chúng không muốn trả hết tất cả những chi phí sản xuất của món hàng đó. Sự lỗ vốn này xẩy ra do sự thiếu hiểu biết trong khi ước lượng tình trạng thị trường tương lai và nhu cầu tương lai của người tiêu thụ.

Trong nền kinh tế thị trường không có sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa người mua và người bán. Có những sự bất lợi tạo ra bởi vì thiếu sự tiên liệu. Nếu tất cả mọi người và nếu tất cả các thành viên của xã hội thị trường có thể tiên liệu được tất cả điều kiện tương lai đúng lúc và hành động đúng thì đó là một điều hạnh phúc chung cho mọi người. Tuy nhiên con người không thể biết được hết tất cả mọi sự. Nhìn những vấn đề này dưới phía cạnh đố kỵ hay ghen ghét là điều sai.

Nếu cắt giảm mức lời để làm lợi cho những người đã bị thua thiệt do các sự thay đổi về các sự kiện, thì sự điều chỉnh giữa cung và cầu sẽ không trở nên tốt hơn mà lại còn bị hư hại. Nếu ta ngăn cản không cho các bác sĩ đôi khi được thù lao cao, thì chúng ta sẽ không gia tăng mà lại còn giảm đi số những người chọn nghề y sĩ.

Lời và lỗ thuận lợi cho một số người trong xã hội và bất lợi cho một số người khác. Do đó người ta kết luận là lợi cho người này thì hại cho người khác; và còn nói rằng là không ai có thể có lời nếu không có những người khác bị lỗ. Giáo điều này là cơ sở cho những học thuyết mới, cho rằng trong khuôn khổ của kinh tế thị trường, có một sự mâu thuẫn bất khả phân giải về quyền lợi của quốc gia này với các quốc gia khác.  Điều này hoàn toàn sai đối với sự lời và lỗ trong công cuộc kinh doanh.

Tiền lời của một người kinh doanh trong một thị trường không bị gò bó không gây ra tình trạng khó khăn hay khổ sở cho những người khác trong xã hội. Thực ra là người thâu lời đó đã giúp để giảm bớt một phần hay là làm mất đi những điều gây ra sự khổ sở của các người khác trong xã hội.  Điều làm cho người bệnh phải khổ sở là căn bệnh chứ không phải là người y sĩ chữa cho khỏi bệnh.  Những điều lợi của người bác sĩ không phải là do có bệnh dịch mà là do bác sĩ đã giúp những người bị bệnh.

Tổng số lời lớn hơn tổng số lỗ là dấu hiệu cho thấy có tiến triển kinh tế và có cải thiện mức sống cho tất cả tầng lớp dân chúng. Mức lời càng lớn hơn mức lỗ thì tình trạng phồn vinh cho tất cả mọi người càng lớn. Mức lời cũng như mức lỗ trong sự kinh doanh là những hiện tượng cần thiết trong nền kinh tế thị trường. Không thể có kinh tế thị trường nếu không có lời và lỗ.

Nói “mức lời bình thường” là vô nghĩa. Mức lời không có liên hệ hay tùy thuộc gì tới tiền vốn mà người doanh nhân bỏ ra. Vốn tự nó không có thể “sinh lời” được. Lời và lỗ hoàn toàn bị chi phối bởi sự thành công hay sự thất bại của doanh nhân trong việc thích ứng sản xuất theo nhu cầu của người tiêu thụ. Mức lời doanh nghiệp không bền vững mà chỉ có tính cách nhất thời. Bất lúc nào cũng có tiềm tàng một khuynh hướng khiến cho lời và lỗ mất đi.

Chức năng kinh doanh, tức là nỗ lực kiếm lời của doanh nhân, là lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường. Lời và lỗ là hai cái công cụ để người tiêu thụ thể hiện cương vị tối cao của họ trong thị trường. Hành động của người tiêu thụ phát sinh ra lời và lỗ, và do đó chuyển quyền sở hữu của các phương tiện sản xuất từ những người làm việc không công hiệu sang tay những người làm việc có hiệu quả hơn.

Sản xuất để kiếm lời nhất thiết phải là sản xuất để dùng, vì tiền lời chỉ có thể kiếm được bằng cách cung cấp cho người tiêu thụ những vật mà họ cần dùng nhất.

Tiền

Tiền là một vật trung gian để trao đổi. Vật trung gian để trao đổi là một vật người ta muốn có không phải để tiêu thụ hay để dùng vào sản xuất nhưng để sẽ trao đổi nó lấy những loại hàng hoá mà họ muốn dùng để tiêu thụ hay để sản xuất.  Không gì có thể can dự vào chức năng của vật trung gian để trao đổi mà trước đó nó đã có giá trị như một món hàng kinh tế và đã được người ta cho một trị giá trao đổi trước khi được dùng làm vật trung gian. Tiền thường được nhận và được dùng làm vật trung gian để trao đổi. Đây là chức năng duy nhất của tiền. Những chức năng khác mà người ta gán cho tiền đều là những khía cạnh đặc biệt của cái chức năng tiên khởi và duy nhất này, đó là một vật để trao đổi.

Những gì được dùng làm tiền đều là những sản phẩm đã được dùng với những mục đích không phải là tiền. Dưới hệ thống kim bản vị thì vàng là tiền và tiền là vàng.

Không có gì quan trọng khi luật pháp ấn định tính chất lưu hành pháp định cho những đồng tiền vàng của chính phủ phát hành. Điều quan trọng là những đồng tiền vàng này phải có một trọng lượng vàng cố định, và bất cứ một số lượng vàng thỏi nào cũng có thể được chuyển thành những đồng tiền vàng. Dưới hệ thống kim bản vị đồng đô-la và đồng pound sterling chỉ là những tên để gọi cho một trọng lượng nhất định nào về vàng. Chúng ta gọi đó là tiền ấn định theo sản phẩm.

Một loại tiền thứ hai là tiền tín dụng. Tiền tín dụng phát xuất từ việc dùng những vật để thay thế cho tiền. Tiền tín dụng thường là một tờ giấy giao ước. Giấy giao ước này phải hoàn toàn bảo đảm được trả bằng tiền khi có người đòi; tiền tín dụng được coi như là thay thế cho số tiền đã định trong lời giao ước. Khi những lời giao ước tới hạn đều được trả sòng phẳng bởi chủ nợ và món nợ được thu hồi không cần báo trước và không tốn kém gì thì trị giá trao đổi của nó cũng bằng trị giá ghi trong lời giao ước. Lúc đó tiền tín dụng hoàn toàn có giá trị như tiền và có thể thay thế cho tiền.

Tiền pháp định là tiền chỉ có tính cách tượng trưng, không thể dùng vào các mục đích công nghiệp và cũng không để dùng để đòi nợ bất cứ người nào. Điểm quan trọng cần phải nhớ là đối với mọi loại tiền, khi đã bị mất tính chất tiền tệ , tức là khi đã không dùng nó làm phương tiện trao đổi nữa, thì kết quả tất hữu là trị giá trao đổi của nó sẽ bị mất đi rất nhiều.

Trong lịch sử có nhiều loại sản phẩm đã được làm vật trung gian để trao đổi. Sau một thời kỳ tiến triển dài phần lớn các sản phẩm đó đã được loại bỏ và không còn chức năng tiền tệ nữa. Chỉ còn có hai loại sản phẩm, tức là hai kim loại quý là vàng và bạc, thì vẫn còn giá trị tiền tệ. Trong hậu bán thế kỷ thứ mười chín, càng ngày càng có nhiều chính quyền cố ý hướng về việc làm cho bạc mất giá trị tiền tệ.

Sự lựa chọn một sản phẩm dùng làm đơn vị trao đổi và dùng làm tiền không phải là không có ảnh hưởng gì hết. Nó xác định cái diễn trình thay đổi để tạo ra tiền mặt trong mãi lực. Vấn đề đặt ra là ai là người duy nhất có quyền làm sự lựa chọn đó: người mua người bán trên thị trường hay chính phủ? Thị trường qua một diễn trình lựa chọn, đã diễn ra hàng bao nhiêu năm, rốt cuộc đã cho hai kim loại quý là vàng và bạc có giá trị như tiền. Trong hai trăm năm qua có nhiều chính phủ đã can thiệp vào sự lựa chọn của thị trường về việc dùng tiền làm trung gian. Nhưng ngay cả những người cuồng tín chủ trương việc can thiệp của chính quyền cũng không dám nhận rằng sự can thiệp đó là có lợi.

Người dịch: Song Ngọc

© Học Viện Công Dân 2014

Nguồn: The Freeman Online

**********

[1] Ludwig Heinrich Edler von Mises (1881 – 1973).  Nhân vật lỗi lạc trong trường phái kinh tế Áo và đã đóng góp nhiều tư tưởng vào khoa hành vi học (praxeology). Tư tưởng của ông đã ảnh hưởng rất nhiều vào phong trào duy tự do (libertarian movement) tại Mỹ vào giữa thế kỷ 20. [ND]

[2] Khoa học về trao đổi và lựa chọn (Catallactics ) là lý thuyết hành vi học về cách hệ thống thị trường tự do ấn định các tỷ số trao đổi và giá cả.  Lý thuyết này nhằm phân tích các hành động dựa trên sự tính toán về tiền và lý thuyết này theo dõi sự hình thành của giá cả tới điểm khi giá cả bắt đầu được ấn định. Lý thuyết này giải thích việc giá cả được ấn định ra sao chứ không phải ấn định giá nào là giá đúng.