18.7 C
Da Lat
Thứ Bảy, 26 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 216

Karl Graf Ballestrem – Vài Nhận Định Sai Lầm Của Karl Marx Về Quan Điểm Của Adam Smith

Lời người dịch: Karl Marx là một nhà nghiên cứu về lịch sử tư tưởng kinh tế. Dù uyên bác và làm việc nghiêm túc nhưng ông không tránh khỏi sai lầm. Cụ thể là khi viết Tư Bản Luận, Marx không đề cập đến thành tích đóng góp của phong trào Khai Sáng Tô Cách Lan trong tiến trình thay đổi suy luận kinh tế của châu Âu. Marx liệt kê Adam Smith và David Ricardo vào chung một học phái, mà cả hai sống vào hai thời điểm và có nội dung khảo hướng khác nhau. Marx còn hiểu lầm Smith là học trò của Ferguson. Nhưng quan trọng nhất là Marx có hai phê phán sai lạc về quan điểm của Smith.

Thứ nhất, Marx đã quy kết Smith là “đại biểu khoa học của gia cấp tư sản“. Là một giáo sư Đạo Đức học, Smith không hề đảm nhận vai trò này trong thực tế. Lý thuyết của Smith qua tác phẩm “Sự Thịnh Vượng Của Đất Nước” đào sâu hiện tượng xã hội trong bối cảnh “lịch sử tự nhiên của xã hội dân sự”. Smith luôn biện hộ cho một chính sách kinh tế có thể tác động đến tăng lương công nhân và hạ giá bán sản phẩm. Smith không hề bảo vệ quyền lợi của người giàu và quyền thế, mà ông còn công khai phê phán thái độ đàn áp công chúng giới lãnh đạo thủ cựu và lừa bịp của giới tư sản. Do đó, quy kết của Marx không dựa theo quan điểm xã hội của Smith.

Thứ hai, Marx xem lý thuyết giá trị và phân phối của Smith sai lầm, vì Smith không hiểu chức năng của tiền tệ trong phân công lao động và trao đổi hàng hoá và Smith cũng không nắm bắt được quyền lực lao động trong tiến trình sản xuất. Do không khám phá nguồn gốc tư bản thống trị xã hội, nên Smith không lý giải được tại sao của cải xã hội gia tăng mà có phân phối bất công.

Thực ra, Smith lập luận chiếm hữu trong xã hội dân sự có chức năng lao động của con người, nhưng cũng là thành quả của sử dụng bạo lực và lừa đảo. Phân phối hoặc chiếm hữu giá trị không phải luôn luôn là nguồn gốc của giá trị và luật giá trị không tạo nên xã hội tư sản. Smith không giới hạn phân phối của cải xã hội chỉ có trong ba giai cấp điền chủ, sở hữu chủ tư bản và lao động. Khi giải thích doanh lợi chỉ là do giá bán cao hơn giá trị hoặc là do lừa đảo quyết định, ý tưởng này là sai lầm, vì Smith cho là còn có nhiều yếu tố khác tác động. Smith giải thích doanh lợi là phần trích xuất từ giá trị sản xuất. Khi mọi người không vi phạm luật công bình thì họ có hoàn toàn tự do để theo đuổi quyền lợi riêng và có quyền mang tư bản vào đầu tư kinh tế để cạnh tranh với người khác theo cách của mình. Doanh lợi và điạ tô không những chỉ có chức năng tiền lương mà còn có chức năng giá cả. Do đó, Smith biện minh “hệ thống tự do tự nhiên” dựa trên lập luận hữu dụng nhằm phục vụ quyền lợi tốt đẹp nhất cho đại đa số quần chúng.

Dù có nhận định sai lầm về Smith nhưng Tư Bản Luận của Marx vẫn còn có những giá trị giới hạn nhất định.

Nguyên tác Anh ngữ của bản dịch là “Karl Marx and Adam Smith: Critical Remarks About The Critique Of Political Economy” đăng trong: Contemporary Marxism, James J. O´Rourke et al.(eds.), 1984, D. Reidel Publishing Company, 21-38. Karl Graf Ballestrem (1937-2007), là Giáo sư Triết học và Chính trị học tại các Đại học Chicago, Notre-Dame (Hoa Kỳ), München và Eichstätt-Ingolstadt (Đức).

Người dịch đặt tựa đề cho bản dịch và đưa chung các trích dẫn kinh điển và chú giải cuả tác giả vào cuối bản dịch.

* * *

Nếu luận về phương pháp để so sánh giữa hai tác phẩm “Sự Thịnh Vượng Của Đất Nước” của Adam Smith và “Tư Bản Luận” của Karl Marx thì chúng ta sẽ thấy có sự dị biệt quan trọng và rõ rệt: Trong khi Smith cố gắng tổng quát hoá những kinh nghiệm (mà ông tìm ra qua tư liệu lịch sử, thống kê và đàm luận với thương giới ở thành phố Glasgow) và kiểm chứng lại những phương cách này để lý giải với một tầm vóc rộng hơn về những hiện tượng được chứng nghiệm (theo quy luật khoa học của Newton), thì Marx qua tiểu tựa đã cho thấy Tư Bản Luận là bàn về “Phê Phán Về Kinh tế Chính Trị Học“. Tư Bản Luận khởi đầu với suy đoán lý thuyết của những nhà kinh tế tư sản để chứng minh những phạm trù và quy luật vừa lộ vừa ẩn và đều không có khả năng giải thích được thực trạng của hệ thống kinh tế tư bản.

Đối với Smith, việc tham khảo tài liệu kinh tế cổ điển và hiện đại giúp cho ông soi sáng thêm quan điểm, nhưng ông không cần đến các thuyết trọng thương và trọng nông để lý giải cho luận thuyết của mình. Đúng hơn về sau (đặc biệt là trong quyển IV của “Sự Thịnh Vượng Cuả Đất Nước”), ông thảo luận về các lý thuyết, nhưng chỉ để nhằm soi sáng ưu thế trong hệ thống lý thuyết. Ngược lại, Marx nghiên cứu cẩn trọng về các sách vở kinh tế trên 200 năm qua để khám phá về “Phân Tích Về Xã Hội Tư Sản“ và giới thiệu như một tiền đề trong lý thuyết phê phán (ngay từ đầu quyển I Tư Bản Luận) mà ông coi là những phạm trù và nguyên tắc cơ bản của “Kinh Tế Chính Trị Học Cổ Điển”.

Khi chúng ta lưu tâm đến tầm quan trọng của khoa học kinh tế chính trị cổ điển để tìm hiểu Marx về phê phán xã hội tư sản, một vấn đề có liên quan đặc biệt là liệu Marx có quan tâm đến James Steuart hay Adam Smith hoặc David Ricardo không hoặc là Marx có chú ý lý giải trung thực về các lý thuyết của họ không hoặc Marx có sử dụng chọn lọc các công trình này để đúc kết xem các lý thuyết này có cục bộ và tự mâu thuẫn hay không. Dù thế, vấn đề này không đáng được quan tâm. Trong số những học giả Mác xít, lý thuyết của các nhà kinh tế tư sản thường được trình bày theo quan điểm phê phán thiên về Marx và trích lời của Marx.[1] Đối với các sử gia về tư tưởng kinh tế không theo Mác xít, thì Marx thực ra là kinh tế gia, nhưng không phải là nhà phê phán về lý thuyết kinh tế.[2]

Những nhà nghiên cứu khoa học về Marx là những người hiểu phương pháp lý thuyết phê phán của Marx nhưng không có khuynh hướng hoặc thẩm quyền để lập luận chống lại lý giải kinh điển của Marx về kinh tế tư sản. [3]

Dĩ nhiên, tiểu luận này không cố ý thách thức đến toàn bộ công trình phê phán về kinh tế chính trị học của Marx. Điều tôi muốn minh chứng là so sánh những gì Marx nói về những lý thuyết kinh tế tư sản với nghiên cứu lý thuyết được trình bày nghiêm túc trong toàn cảnh lịch sử và hệ thống. [4] Bởi vì Marx coi Smith và Ricardo là những nhà lập thuyết cho trường phái kinh tế cổ điển loại thượng hạng, thí dụ này là một dẫn chứng quan trọng. Nhưng khi tôi muốn minh chứng quan điểm của Marx đối với Smith là phiến diện và không thuộc về lịch sử, tôi không suy đoán rằng quan điểm của Marx cũng đúng cho Ricardo và những người khác. Cho dù trường hợp này có đúng đi nữa, tôi cũng không suy luận là kết luận của Marx về hệ thống kinh tế tư bản là sai.

Dù tôi tự đặt giới hạn cho đề tài, tuy nhiên, mối quan hệ về loại phê phán mà tôi đề xuất rất minh bạch. Để có thể minh chứng Marx hiểu sai về Smith hay Ricardo là có một trọng lượng phê phán khác biệt, tôi có so với dẫn chứng khác, thí dụ như Smith hiểu sai về thuyết trọng nông. Điều này có thể nhận xét qua thí dụ sau đây. Chúng ta hãy suy đoán về các sách vở kinh điển của tư sản là không bao giờ nói đến lao động và trao đổi các mặt hàng tương đương như phương thức tiêu biểu của chiếm hữu và phân phối trong “những xã hội dân sự”. Ngay từ khởi đầu của Tư Bản Luận điểm chính khi phân tích giá trị và trao đổi là chứng minh lao động và trao đổi hàng hoá tương đương như biểu hiện tất yếu về những nguyên tắc đặc trưng của chiếm hữu và phân phối của xã hội tư bản (như là một hình thức chống lại xã hội phong kiến). Và chỉ có khi thay đổi cách nhìn từ trên bình diện này (phạm vi trao đổi) đến chiều sâu thuộc cấu trúc (phạm vi sản xuất tư bản) thì người ta mới hiểu được bản chất của thặng dư và doanh lợi.

Tuy nhiên, Marx không chứng minh được cho suy đoán của mình là xã hội tư sản thể hiện tất yếu theo chiều hướng này cho các thành viên. Bằng chứng duy nhất của Marx là “kinh điển của kinh tế chính trị học“ đã có nói như thế. Đó chính là lý do tại sao Marx lý giải về thặng dư và doanh lợi có hình thức phê phán của kinh tế chính trị học. Ngày nay, nếu “kinh điển” có nghĩa là một cái gì đó hoàn toàn khác, thì lý giải của Marx về thặng dư và doanh lợi vẫn có thể còn đúng, nhưng hình thức đặc biệt trong lập luận của Marx không còn thuyết phục.

Tiểu luận này chia làm hai phần. Phần thứ nhất thảo luận về điểm Marx đã hiểu đại cương về lý thuyết xã hội của Smith như thế nào. Phần thứ hai bàn đến vấn đề Marx có thừa nhận lý thuyết giá trị và phân phối của Smith là có đúng không.

Lý thuyết xã hội của Adam Smith

Trước hết, đối với các sử gia đương đại, Adam Smith là một trong các nhân vật chủ yếu của “Phong Trào Khai Sáng Tô Cách Lan“.[5] Cùng với bạn là David Hume, ông thuộc về nhóm học giả kiệt xuất mà qua những công trình này chúng ta có thể nhận ra sự thay đổi tư tưởng của con nguời và xã hội từ khoa học quy phạm cổ truyền đến khoa học xã hội hiện đại. Khởi đầu của thời kỳ chuyển hoá này ta có thể tìm thấy qua tác phẩm Treaties of Human Nature (1739/1740) của Hume, đặc biệt là trong quyển III Of Morals. Tác phẩm này giải thích và phê phán về kết ước xã hội theo thuyết tự nhiên. Việc giải thích này trở nên hiển nhiên hơn trong tác phẩm Theory of Moral Sentiments (1759) của Smith mà Smith xem các vấn đề đạo đức học như là một đối tượng thuộc về khoa tâm lý xã hội.

Essay on the History of Civil Society (1767) của Adam Ferguson và Origin of the Distinction of Ranks (177 của John Millars là những tác phẩm tiêu biểu tiên khởi cho những nghiên cứu về khoa học xã hội thực nghiệm và được xem như là công trình tiên phong của xã hội học hiện đại. Inquiry into the Nature and Cause of the Wealth of Nations của Adam Smith là tác phẩm về kinh tế chính trị đầu tiên theo khoa học xã hội thực nghiệm.

Dù có loại trừ David Hume một phần nào thì một đặc điểm chung của các tác giả này là họ nỗ lực giải thích hiện tượng xã hội trong bối cảnh lịch sử, nói một cách chính xác hơn, trong khuôn khổ của “lịch sử tự nhiên của xã hội dân sự”. Các sử gia về lý thuyết nêu rõ điểm tương đồng trong khảo hướng về “lịch sử tự nhiên“ của trào lưu khai sáng Tô Cách Lan và “khái niệm biện chứng lịch sử“ của Marx. Thứ nhất, điểm tương đồng có thể tìm thấy quy luật này trong khái niệm về con người như một tác nhân tích cực nhằm thoả mản nhu cầu ngày càng tăng qua lao động. Thứ hai, các tác giả Tô Cách Lan suy đoán là các xã hội có khuynh hướng phát triển qua những giai đoạn lịch sử nhất định, thể hiện qua các đặc tính sản xuất và chiếm hữu khác nhau (thí dụ như giới săn bắn, nuôi cưù, nông gia và thương nhân).

Thứ ba, họ cố lý giải các thể chế xã hội và chính trị bằng cách quy chiếu với những phương thức sản xuất và sở hữu. Sử gia William Roberton, người bạn của Adam Smith, diễn đạt nguyên tắc này qua hình thức như sau: “Trong bất cứ một cuộc khảo sát nào về hoạt động của con người khi hợp quần vào xã hội, thì mục tiêu đầu tiên cấn phải chú ý là phương thức sinh tồn. Khi phương thức này thay đổi thì các quy luật và chính sách phải thay đổi theo.” [6]

Đối với các tác giả Tô Cách Lan, lịch sử không luôn được xem là thăng tiến vì sự tiến bộ trong lĩnh vực này phải trả bằng một giá là tai ách hay xung đột trong lĩnh vực khác. Chính vì thế mà đi theo sau chiếm hữu đất đai tư nhân, phát triển phân công lao động và du nhập thương mại và kỹ nghệ chế biến là gia tăng năng suất nhưng cùng song hành với nó là nỗi khốn khó ngày càng nhiều của nhân dân lao động, xung đột xã hội và suy đồi đạo đức công cộng. Trong khi Ferguson không tìm ra giải pháp cho tính biện chứng của tiến bộ và suy thoái này, nên ông hoàn toàn bi quan trong nhận định những xã hội hiện đại. Smith và Millar tin rằng họ khám phá khuynh hướng lịch sử nhằm làm gỉảm mối quan hệ của thống trị và tăng tự do cá nhân. „Hệ thống tự do theo tự nhiên“ của Smith là một phương thức xã hội tương lai mà các lực lượng của thị trường có khuynh hướng làm tăng lương và hạ giá bán, nhờ thế mà thực hiện được quyền lợi của đại đa số dân chúng.

Marx có khả năng giải thích Smith trong bối cảnh tư tưởng của Tô Cách Lan vào thế kỷ XVIII. Marx không những đọc Wealth of Nations của Smith và Essay của Hume mà còn Essay on the History of Civil Society của Ferguson và Origin of the Distinction of Ranks của Millar. [7] Marx nhận xét Smith là học trò của Ferguson, dù đây là một điều sai, nhưng cũng chúng tỏ Marx biết được những mối quan hệ cá nhân của nhóm này. [8] Tuy nhiên khi đọc Marx không ai có cảm tưởng rằng Smith là người thuộc phong trào khai sáng Tô Cách Lan. Smith được luôn đề cập chung với Ricardo, dù về phương diện lịch sử, người ta không thể kỳ vọng có điểm tương đồng giữa một vị giáo sư Đạo đức học ở Glasgow với nhà đầu tư chứng khoán tại Luân Đôn, người mà nửa thế kỷ sau có sáng tác, nhưng trong một môi trường lý thuyết và xã hội khác biệt.

Nếu Marx là một sử gia về tư tưởng kinh tế, ta không thể chờ đợi Marx nghiên cứu về luận cương trong lý thuyết xã hội của Smith và bối cảnh lịch sử của trào lưu khai sáng Tô Cách Lan. Tuy nhiên, Marx coi những lý thuyết kinh tế tư sản là những ý thức hệ, một hệ thống tư tưởng có thể trình bày triển vọng và quan tâm của giai cấp tư sản trong một bối cảnh lịch sử và xã hội đặc biệt. Để minh chứng trong trường hợp của Smith, Marx không những chỉ giải thích quan điểm về doanh lợi và tiền lương trong một cách đặc biệt (mà tôi sẽ trình bày trong phần sau) mà còn có những ghi nhận thuộc về lĩnh vực nhân chủng học cá nhân chủ nghiã, đặc điểm không thuộc về lịch sử trong lý thuyết của Smith và trong chức năng của Smith là người phát ngôn cho giới tư sản vào cuối thế kỷ XVIII. Tôi xin cố chứng minh là Marx giải thích sai lầm khá vụng về về lý thuyết xã hội của Smith.

Ngay từ đầu tác phẩm Grundrisse Marx khẳng định là Smith và Ricardo quan niệm về xã hội không thuộc về lịch sử và là cá nhân. Theo Marx, cả hai suy đoán lầm lẫn về cá nhân hiện đại là con người tự nhiên, kết quả của một phát triển lịch sử lâu dài. Khi Smith và Ricardo viết về “những người đi săn và đánh cá cô lập và cá nhân”, cả hai theo một thí dụ của những nhà tiên tri thế kỷ XVIII mà trong trí tưởng tượng về mỗi cá nhân này trong thế kỷ XVIII – một phần là do sản phẩm dựa vào sự giải thể của những hình thái phong kiến của xã hội, một phần khác là do những lực lượng sản xuất mới được triển khai từ thế kỷ XVI -. Sản phẩm này thể hiện một lý tưởng mà sinh hoạt của nó theo họ phản ảnh được quá khứ. Đó không phải là một thành quả mà là một khởi điểm lịch sử. Theo khái niệm bản chất của con người, khi cá nhân thích ứng, đó là do tự nhiên, mà không do trổi dậy theo dòng lịch sử. Sai lầm này khá phổ biến cho từng giai đoạn cho đến ngày nay. [9]

Không giống như các sử gia về tư tưởng hiện đại, Marx không giải thích Smith như là một đại biểu hàng đầu của khảo hướng “lịch sử tự nhiên”. Trong khung cảnh phê phán của Marx, Smith xuất hiện như là một nhà kinh tế tư sản. Marx cũng suy đoán về đặc trưng của tư tưởng kinh tế tư sản để hình dung phương thức sản xuất cuả những xã hội dân sự hiện đại và „xem thiên nhiên là quy định bất biến cho mỗi tình trạng xã hội“.[10] Marx có viết trong The Poverty of Philosophy như sau: “Theo những nhà kinh tế đại diện cho những mối quan hệ tư sản trong sản xuất thì phân công lao động, tín dụng, tiền tệ là những phạm trù cố định, bất biến và vĩnh cữu… Họ giải thích cho chúng ta biết là người ta sản xuất được trong những tình trạng sẳn có như thế nào. Điều mà họ không giải thích được là những điều kiện này tự nó được tạo lập ra sao, thí dụ như chuyển động lịch sử nào đã đem những điều kiện này thành hình”.[11] Trong “kinh điển về kinh tế chính trị học” thì James Steuart là người duy nhất không bị cáo buộc: “Steuart tránh được quan điểm hẹp hòi này vì ông là nhà qúy tộc và trong tinh thần phản luận của thế kỷ XVIII ông đã tôn trọng những cơ sở lịch sử”.[12] Khi Smith và Ricardo thảng hoặc có chú ý đến lịch sử, họ chỉ muốn chứng tỏ tính ưu thế của thời hiện tại tư sản so với quá khứ phong kiến. Theo Marx, điểm này là “nhiệm vụ của họ” vì họ là “đại biểu khoa học cho giai cấp tư sản”.[13]

Marx không nỗ lực chứng minh về đặc điểm ý thức hệ của lý thuyết Smith từ trong văn bản. Đúng hơn, Smith bị phê phán tổng quát là có tư tưởng kinh tế tư sản và không liên hệ đến lịch sử và chỉ biện luận. Tuy thế cần phân biệt lời cáo giác. Không giống như các nhà biện hộ hậu trào, Smith và Ricardo được coi là những “nhà kinh tế kinh điển” bởi vì họ có vị thế mạnh khi diễn tả công khai mối quan hệ sản xuất trong hình thái thuần tuý của nó”.[14] Sáng tác trong thời kỳ mà đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản chưa thể hiện, họ nêu lên vấn đề khá rõ rệt của hệ thống tư bản, ngay cả khi mà những suy đoán lý thuyết của họ không tạo ra nhiều khó khăn[15]. Họ không phủ nhận sự cực kỳ túng quẩn của giới sản xuất ra của cải trong xã hội tư sản và chấp nhận là một phó sản của một hệ thống thăng tiến như định mệnh an bài. “Theo nhãn quan của họ, sự khốn khổ chỉ là đau thương có từ thuở lọt lòng, do thuộc bản chất hay do nền kinh tế kỹ nghệ“.[16]

Điều đáng suy gẫm về phê phán của Marx là Marx đáng lý phải biết rằng Smith không chia sẽ về những ảo tưởng của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội tư sản là do bản chất định sẳn bất biến, mà Smith là một trong số những người đầu tiên lý giải (trong quyển III Sự Thịnh Vượng Của Đất Nước) việc cá nhân hiện đại trổi dậy là để thoát ra khỏi mối quan hệ phong kiến và họ là một lực lượng sản xuất mới được phát triển từ cuối thời Trung Cổ. Marx cũng phải biết đó không phải là “những người đi săn và đánh cá riêng rẽ và biệt lập” mà là những người mà Smith và Ricardo khởi đầu giới thiệu. [17] „Sự Thịnh Vượng Của Đất Nuớc“ khởi đầu với sự phân tích về phân công lao động hiện đại và nhận xét đối chiếu “về đất nước hoang sơ có nhiều người đi săn và đánh cá” ít nhất không cho thấy Smith nghĩ đến các cá nhân biệt lập. Khi ông dẫn chứng về hai người đi săn trao đổi hai chiến lợi phẩm trong “một tình trạng sơ khai và thô thiển của xã hội và đi trước tích lũy của cải và chiếm hữu đất đai”[18], ông không hề đề xuất là hình thức lao động, chiếm hữu và trao đổi có trong thời hiện đại là cũng đã có trong những xã hội sơ khai. Trái lại, thí dụ này nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa trao đổi trong xã hội tư sản (là nơi mà luôn có sự khác biệt giữa công nhân và chù nhân) và trong xã hội sơ khai (là nơi mà người ta chỉ sản xuất cho riêng mình và ít khi mới có trao đổi sản phẩm).

Khẳng định của Marx là Smith và Ricardo có những thái độ chấp nhận định mệnh và biện hộ về sự khốn cùng của giới lao động là không có cơ sở trong các công trình của Smith. Dù khảo hướng về lịch sử tự nhiên ít có tính quy phạm hơn là các học thuyết luật tư nhiên truyền thống, Smith bị phê phán thuộc về xã hội mà “người ta lo quần áo cho cả thế gian trong khi chỉ mang trên mình tấm giẻ rách”[19], và không đem lại nghi ngờ khi những chính sách nhằm giới hạn cơ hội của công nhân được thu nhập lương cao hơn, theo ý nghĩ của ông, là “một vi phạm trầm trọng về tự do tự nhiên và công bình”.[20] Những lời tuyên bố như sau cho thấy rõ thiện cảm của ông: “Tất cả chỉ dành riêng chúng ta và không có dành cho người nào khác, dường như đây là một câu châm ngôn đồi bại của các bậc thầy của nhân loại trong mỗi thời đại của thế gian”.[21]

Thực ra, khó xác định được là Smith là “đại biểu khoa học của gia cấp tư sản” theo ý nghĩa nào. Thí dụ như dù Marx xem Steuart là một nhà qúy tộc, vấn đề ý thức hệ hiển nhiên là không liên hệ gì đến hoàn cảnh xã hội của cá nhân (nếu không thì ta có thể gọi Marx và Engels là những nhà ý thức hệ tư sản loại thượng thặng). Đúng ra, đây là vấn đề họ cùng quan điểm và bảo vệ quyền lợi của một giai cấp đặc biệt. Tôi đã chứng minh là chủ nghĩa cá nhân và thiếu ý thức về lịch sử, điều mà Marx suy nghĩ về những đặc trưng của tư tưởng kinh tế tư sản, không thể tìm thấy nơi con người Smith. Càng hiển nhiên hơn khi ta không tìm thấy bất cư nơi nào để chứng minh là Smith bảo vệ cho quyền lợi tư sản. Trong tác phẩm „Sự Thịnh Vượng Của Đất Nước” không có một tập đoàn nào – kể cả giới lãnh đạo thủ cựu “không sản xuất” – bị phê phán cùng mức độ và cùng đặc điểm giống như thương giới và nhà sản xuất, chỉ vì với lý do là họ là thiểu số nhưng có phương tiện tài chính dồi dào, có lối sống thành thị và cận kề các trung tâm quyền lực. Theo Smith, họ có khả năng can thiệp vào những động lực của thị trường và gây ảnh hưởng đến chính trị để phục vụ cho quyền lợi riêng tư. Họ âm mưu giảm giá lương và tăng giá bán, họ hổ trợ luật pháp (như luật gia sản và huấn nghệ) để ngăn ngừa cạnh tranh; họ lập ra thuế quan để giữ ưu thế trước các nhà cạnh tranh quốc tế; họ gây ảnh hưởng chính sách đối ngoại theo chiều hướng phiêu lưu thuộc điạ và gây chiến, đồng thời họ chấp nhận những thiệt hại nặng nề cho đất nước nhằm thủ lợi cho riêng mình.

Phê phán của Smith về thuyết trọng thương phải được nhìn trong bối cảnh chung này và không được hiểu như là lối phê phán về chính sách kinh tế đối ngoại dựa trên những suy đoán lý thuyết sai lầm. Chính ra đó là chiều hướng có chủ yếu chống lại một loại chính sách hoàn toàn phù hợp với quan điểm về quyền lợi đặc biệt của thương giới và nhà sản xuất, thường thì thành công, nhưng gây thiệt hại cho công nhân và người tiêu thụ, và cho đa số. Smith đoan chắc là không có một xã hội dân sự nào tồn tại và thịnh vượng mà không có nhóm này, sáng kiến của họ đem lại việc sử dụng tư bản sinh lợi có thể tạo nên một vai trò hữu ích. Nhưng Smith cũng cảnh báo rằng quyền lợi riêng của nhóm này có thể đối nghịch với quyền lợi của các phe nhóm khác trong xã hội. Nó chỉ có thể giữ một vai trò tích cực bền bỉ và phù hợp nếu khi nhóm này tuân theo quy luật thị trường tự do, mà thị trường này có khuynh hướng thách thức.

Dự thảo về luật lệ thương mại trong khuôn khổ này cần phải được tham khảo với sự thận trọng và không bao giờ được chuẩn nhận cho đến khi được duyệt xét kỹ càng, một việc không phải chỉ vì có ý định tham ô mà với tất cả ngờ vực. Luật pháp này đến từ khuôn khổ của những con người mà những quyền lợi của họ không bao giờ hoàn toàn giống như quyền lợi của công chúng. Nói chung, họ quan tâm đánh lừa và đàn áp công chúng, và cũng khi họ đã làm hai việc này có cơ hội thuận tiện.[22]

Nhận xét này cũng đủ chứng tỏ rằng khi Marx xem Smith là “đại biểu khoa học của gia cấp tư sản“, Marx đã diễn giải sai lạc về luận cương của Smith trong lý thuyết xã hội. Thay vì đặt ra ngoài vòng lịch sử, lý thuyết của Smith cố giải thích hiện tượng xã hội trong bối cảnh “một lịch sử tự nhiên của xã hội dân sự”. Thay vì đơn thuần chấp nhận cảnh khốn cùng của công nhân, Smith biện hộ cho một chính sách kinh tế có thể tác động tương đối đến tăng lương và hạ giá bán. Thay vì bảo vệ cho quyền lợi của người giàu và quyền thế, Smith công khai phê phán không những giới lãnh đạo thủ cựu mà còn cả giới tư sản mới. Sự giải thích sai lệch này, vì đó chính là tiền đề phê phán của Marx về ý thức hệ, nên ảnh hưỏng đến nội dung phê phán của Marx về kinh tế chính trị. Đó là vấn đề cần xét tới.

Lý Thuyết Giá Trị Và Phân Phối Của Adam Smith

Giới nghiên cứu Tư Bản Luận qua chiều hướng của Grundrisse thấy rằng phương pháp của Marx mất vài đặc điểm bí hiểm. Những nhận xét của Marx về phương pháp luận qua những công trình được ấn hành lúc sinh thời cũng không soi sáng nhiều hơn. Đề cương về khái niệm của thuyết duy vật lịch sử, như đã đưọc phác hoạ trong trong tựa đề nổi tiếng trong năm 1859 [23], dường như không có tác dụng trực tiếp trong việc phê phán kinh tế chính trị học. Nhận xét của Marx về thuyết biện chứng của Hegel và „ý định làm đảo ngược thuyết này lần nữa“ được đề cập trong hậu từ dành cho ấn bản Đức ngữ lần thứ hai của Quyển I Tư Bản Luận [24]. Nhưng với nỗ lực giải thích thuyết duy vật biện chứng bằng cách quy chiếu vào vật lý và sinh vật học [25], thì Marx lại làm mù mờ hơn về những điểm phương pháp luận trong khoa học xã hội phê phán.

Chúng ta có thể giải thích Tựa Đề của năm 1859 – đựợc xem như một trong những công trình xuất sắc của Marx – là một phác thảo chung về phương pháp khảo sát của Marx (hướng dẫn cho các nghiên cứu của ông). Một điều chắc đó không phải là một khuôn mẫu cho phương pháp trình bày của ông. Tư Bản Luận không xuất phát từ một phân tích về phương thức sản xuất đi trước chủ nghiã tư bản và của những động lực sản xuất nhằm đưa tới những hình thái sở hữu chủ tư bản để vạch ra thể chế và ý thức hệ của xã hội tư sản. Marx không chọn một phương thức trình bày theo cách liên tục như di truyền. Hiện nay các học giả nghiên cứu Marx đồng ý rằng chương đầu của Tư Bản Luận không đề cập tới thí dụ lịch sử của “những xã hội sản xuất hàng hóa đơn giản”. Càng rõ nét hơn khi công trình này không nỗ lực giải thích “thượng tầng kiến trúc” thông qua phân tích „nền tảng thực tế” của xã hội tư sản. Ngược lại, khi “phê phán về kinh tế chính trị học” việc khởi đầu là phân tích về những hình thức tiêu biểu của ý thức tư sản để chứng tỏ những hạn chế và mâu thuẫn tất yếu.

Khoa học giữ một hình thức phê phán trong mức độ mà khoa học không những có thể giải thích được hiện tượng không trung thực trong ý nghiã thông thường, – một biểu hiện giả tạo của thực tại – những hình thức của ý thức sai lạc, nhưng nhờ vào cấu trúc của thực tại, mà khoa học còn giải thích được hiện tượng thể hiện tất yếu hình thức sai lạc đối với những người không có tinh thần phê phán.

Trong tư duy của giới tư sản, phê phán kinh tế chính trị học khởi đầu bằng cách phân tích các hiện tượng thể hiện như là một hình thức tư tưởng xãy ra thông thường [26]. Hình thức tư tưởng này được hình thành và hệ thống hóa trong những phạm trù và luật pháp của kinh tế chính trị. “Thoạt tiên, sự thịnh vuợng của xã hội tư sản do tích lũy vô số hàng hoá, hàng hoá đơn sơ như điều kiện sống cơ bản” [27]. Chính thế mà phê phán bắt nguồn từ sự phân tích phạm trù hàng hoá (theo ý nghĩa của giá trị, lao động và tiền lương) và „quy luật giá trị” (hàng hoá được trao đổi tùy theo giá trị – giá trị được xác định bằng thời gian lao động trung bình cần thiết bỏ ra). Phê phán nhằm tiến hành chứng minh là đặc điểm của nền kinh tế tư bản, thí dụ như sản xuất tư bản, không thể lý giải dựa trên mức độ về „luân chuyển đơn giản của hàng hoá“ theo quy luật giá trị.

Đồng hành với người có tiền và người chiếm hữu quyền lao động, chúng ta rời bỏ một lĩnh vực khá ồn ào trong một khoảng thời gian, nơi mà mọi chuyện xãy ra trên bình diện và được mọi người chú ý, và chúng ta cùng theo họ tới một điạ điểm sản xuất kín đáo… Ở đây, chúng ta hiểu không những tư bản là gì mà còn hiểu nó được tạo ra như thế nào. Cuối cùng, chúng ta khám phá bí mật của sự sản xuất dư thừa. [28]

Lý thuyết thặng dư giá trị giải thích bản chất của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghiã. Từ trên cơ sở này, phê phán có thể trở lại bình diện để lý giải về doanh lợi, tiền lương và hưu bổng – trước tiên trong tổng quát, sau đó trong điều kiện cụ thể của thời gian và cạnh tranh. Khởi đầu quyển III của Tư Bản Luận, chúng ta tìm thấy khẳng định sau đây:” Khi chúng tôi khởi thảo vấn đề trong sách này, thì việc tạo lập tư bản tiến hành tuần tự mà hình thức thể hiện trên bình diện xã hội, trong sự tương tác của các tư bản khác nhau khi cạnh tranh và trong tinh thần ý thức chung của các tác nhân sản xuất”.[29]

„Biểu hiện“ là một phạm trù của ý thức: một cái gì đó chỉ thể hiện trong ý thức của chủ thể. Khi Marx phê phán và lý giải những biểu hiện trên bình diện xã hội tư sản, đôi khi ông đề cập tới “các hình thức trung bình của tư tưởng”, “ý thức chung của các tác nhân sản xuất”, hoặc là “những ý kiến thô bỉ của thương nhân tự do” [30]. Tuy nhiên, đối tượng đặc biệt của Marx về phê phán không phải là ý thức của giới tư sản trung bình, nhưng là của “những đại biểu khoa học của gia cấp tư sản”, đặc biệt là của “giới kinh điển của kinh tế chính trị học”. Trong phần bàn về tiền lương (Tư Bản Luận, Quyển I Chương 17) Marx chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa những lý thuyết kinh tế khoa học và ý thức của giới tư sản trung lưu.

Trên bình diện xã hội tư sản tiền lương công nhân là giá của lao động… Kinh tế chính trị cổ điển vay mượn phạm trù giá lao động trong ngôn ngữ của đời sống hàng ngày mà không phê bình sâu xa hơn, và chỉ đơn thuần đặt vấn đề là giá cả được quyết định như thế nào… Kinh tế chính trị cổ điển gần chạm đến mối quan hệ đích thực của vấn đề, tuy nhiên hầu như tránh trình bày vấn đề một cách có ý thức. Điều này làm vấn đề không dính vào da của giới tư sản. [31]

Đối tượng đặc biệt mà Marx phê phán là những phạm trù và luật lệ của chủ nghĩa tư bản. Khi ta cho rằng vấn đề đã được trình bày trong kinh tế chính trị cổ điển thì dường như ta chỉ gặp trong quyển IV của Tư Bản Luận, mà chủ đề chính gọi là Lý Thuyết Về Thặng Dư Giá Trị mà những lý thuyết của các nhà kinh tế tư sản có đề cập đến khó khăn này trong chi tiết. Những thảo luận ngắn về các đề tài này có thể tìm ra trong phần lý thuyết của Tư Bản Luận (luôn ở trong phần chú thích) có thể được loại bỏ dễ dàng mà không gây ảnh hưởng đến các lập luận. Tuy thế, khi tham khảo lý thuyết về thặng dư giá trị như là một loại tư tưởng lịch sử không liên quan đến lý thuyết, đó là một sai lầm nghiêm trọng. Điều này được trình bày trong phần đầu của quyển sách. [32] Trong phần thảo luận đào sâu về những lý thuyết kinh tế tư sản (lý thuyết XHCN và cộng sản không đưọc đề cập tới) [33] thì ở đây chính là nơi mà Marx diễn đạt trọn vẹn lý thuyết thặng dư. Đầu tiên, Marx định đưa vấn đề „duyệt xét lịch sử“ vào trong phần lý thuyết phù hợp. Chỉ khi vấn đề được triển khai trong khuôn khổ này, Marx quyết định chuyển vấn đề thành một chuyên đề riêng biệt là “một sự tái lập trong hình thái lịch sử” của vấn đề mà nó được thảo luận và giải quyết trong các chương trước”. [34]

Tiểu tựa của Tư Bản Luận không đề cập đến bất cứ phần đặc biệt nào của công trình. Toàn bộ công trình từ đầu đến cuối có nghĩa là “Phê phán về Kinh Tế Chính Trị Học”. Giữa quyển đầu và quyển chót của bộ sách chỉ có một sự khác biệt, phần đầu đúc kết trong trừu tượng – như phê phán của những phạm trù chủ yếu và luật lệ của xã hội tư sản khi nó thể hiện trong ý thức tư sản – phần cuối nỗ lực đúc kết trong cụ thể – như là một lối phê phán về các lý thuyết tư sản đặc biệt. Về cơ bản thì đối tượng phê bình trong từng trường hợp một là giống nhau: Marx giả định những lý thuyết này, dù có sự khác biệt và thay đổi trong viễn cảnh giữa thế kỷ XVII và XIX, được lập lại những đặc điểm chung của ý thức tư sản trong những mức độ sâu xa và phức tạp khác nhau. [35]

Trong tác phẩm Grundrise Marx nhấn mạnh nhiều lần là xã hội tư sản – không giống như xã hội chiếm hữu nô lệ của thời Thượng Cổ và xã hội phong kiến thời Trung Cổ – thể hiện như là hình thức hợp tác giữa những người sở hữu chủ hàng hoá có tự do và bình đẳng. Không một ai bị bắt buộc phải làm việc cho người khác, không một ai phải cho mà không nhận. Nhờ phân công lao động, mỗi người có thể tự chuyên môn hoá trong sản xuất một loại hàng đặc biệt – thông qua trao đổi tương đương – doanh lợi từ lao động của người khác[36]. Khi một người chiếm hữu bất kỳ loại gì, dù sản phẩm là công trình của mình hoặc là của người khác, đều có tự do chia phần sản phẩm và nhận phần tương đương.

Ngay trong vận hành, tiến trình của trao đổi thể hiện trên bình diện của xã hội tư sản, mỗi người đều cho khi nhận và có nhận khi cho. Làm việc này hay việc khác, người ta phải có một cái gì… Vì thế mà tất cả các nhà kinh tế hiện đại tuyên bố lao động của riêng mình như là loại quyền tư hữu… và quyền sở hữu chủ của thành quả lao động được xem như là một suy đoán cơ bản của xã hội tư sản. [37]

Nhưng đâu là bất công giữa giàu nghèo? Đâu là khốn cùng của gia cấp lao động trong xã hội tư sản? Những gì làm nhà kinh điển quan tâm phê phán kinh tế chính trị học – không giống như các nhà biện hộ hậu trào – khi họ không hề phủ nhận thực tế của nghèo đói và bất công, nhưng họ cũng không nỗ lực để lý giải vấn đề qua lười biếng và những yếu tố tâm lý và đạo đức tương tự. Họ chấp nhận nghèo đói và bất công là những hậu quả tất yếu của xã hội tư sản. Họ muốn lập luận chiếm hữu qua lao động và trao đổi những tương đương là những nguyên tắc hình thành xã hội. Lập luận này mang đến cho họ mâu thuẫn, Marx nói: “từ tất cả những nhà kinh tế học cổ điển cho đến Ricardo[38] đều lập luận là những nguyên tắc mà họ xem là tạo hình cho xã hội tư sản chỉ được thực hiện trong cổ thời trước khi quyền tư hữu thành hình. Khi họ cố lý giải sản xuất và phân phối trong xã hội tư sản, họ bị giao động khi chấp nhận sự thật thuộc về „quy luật giá trị” và quan hệ với các thế lực và gian xảo như là nguồn gốc của doanh thu và nguồn lợi.

Theo Marx, những sai lầm và mâu thuẫn của hầu hết các nhà kinh tế tư sản là có thể hiểu được. Họ không có một phương cách trực tiếp để khám phá nguồn gốc bất công và thống trị trong xã hội mà những mối quan hệ xã hội một phần do kết quả của các hợp đồng giữa những cá nhân có tự do và bình đẳng, phần khác là do những mối quan hệ khách quan giữa những sản phẩm có giá trị đặc biệt. [39] Chỉ khi nào hiểu được chức năng của tiền tệ dựa trên phân công lao động và trao đổi hàng hoá; chỉ khi nào hiểu được sự thay đổi tất yếu của tiền thành tư bản; chỉ khi nào nhận xét được sự sử dụng đặc biệt của quyền lực lao động trong việc làm ra hàng hoá trong tiến trình sản xuất thì mới có thể lý giải được các của cải xã hội gia tăng mà phân phối lại bất công trong một hệ thống dựa trên trao đổi tương đương.

Trao đổi các tương đương này chỉ trên bình diện sản xuất dựa vào chiếm hữu lao động của người khác mà không có trao đổi hoặc trao đổi giả tạo. Hệ thống trao đổi này dựa trên tư bản làm cơ sở. Khi cơ sở này coi tư bản là một thành phần của hệ thống và tự thể hiện trên bình diện như một hệ thống độc lập, đó là biểu hiện đơn thuần nhưng là biểu hiện tất yếu. Tuy nhiên, hiện nay ta không ngạc nhiên khi thấy hệ thống giá trị trao đổi… chúng tỏ như là những nền tảng tiềm tàng của chiếm hữu lao động người khác mà không có trao đổi, một sự tách biệt toàn diện giữa lao động và tư hữu. [40]

Để hiểu những gì Marx nói về lý thuyết giá trị và phân phối của Smith, ta cần nên quan tâm đến những điểm chủ yếu trong phê phán về kinh tế chính trị học. Dưới nhãn quan của Marx, Simth là một biểu tượng đặc biệt về những nhận thức và lầm lạc của kinh tế chính trị học cổ điển. Smith tạo được uy tín là người đầu tiên diễn đạt trong sáng về những điểm cơ bản của hệ thống kinh tế dựa trên phân công lao động và sản xuất hàng hoá. Smith không những chỉ phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi; mà còn nhận ra là không có bất kỳ một hình thức lao động đặc biệt nào khác mà chỉ có lao động tổng quát, một loại hình trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá. [41]

Chỉ dựa trên cơ sở của nhận thức này (“một bước tiến nhảy vọt”)[42] giúp ta đạt đến quy luật tổng quát về giá trị. Và Marx cũng nỗ lực chứng minh là Smith luôn chấp nhận quy luật này được áp dụng trong những xã hội sản xuất hàng hoá. [43] Mặt khác, Smith lại phân tích mơ hồ về giá trị [44] và cũng không thể tin được là giữa nhà tư bản và người lao động có trao đổi tương đương xãy ra. Vì thế, Marx phủ nhận quy luật chung về giá trị ngự trị trong những xã hội tư bản (“quy luật tổng quát bị hủy ngay” [45]) và đề xuất lĩnh vực áp dụng của luật này chỉ trong xã hội nguyên thủy hay trước thời của Smith. [46]

Theo Marx, mâu thuẫn cơ bản của Smith trong lý thuyết giá trị và phân phối gồm có việc Smith giả định về luật giá trị là một nguyên tắc hình thành xã hội tư sản. Trong khi xã hội sản xuất hàng hoá không quy định mối quan hệ hợp tác, mà thực ra mối quan hệ này là nguồn gốc chủ yếu cho sự thịnh vượng xã hội.

Một công trình to lớn của Smith là ông… cảm thấy có một sư rạn nứt ở điểm này (trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động) và luật giá trị thực sự bị hủy diệt trong kết quả… và cùng với tích lũy tư bản luật giá trị bị đảo lộn tạo bao nhiêu khó khăn. Đó chính là thế mạnh lý thuyết khi ông thấy được và nhấn mạnh điểm mâu thuẫn này. Nhưng đồng thời đó cũng là yếu điểm lý thuyết khi ông nghi ngờ quy luật tổng quát, ngay cả cho sự trao đổi đơn giản hàng hoá. Ông không hiểu mâu thuẫn xãy ra qua quyền lực lao động khi tự nó lại trở thành hàng hoá và giá trị sử dụng của loại hàng hoá đặt biệt này, – giá trị này không liên hệ đến giá trị trao đổi của nó – mà tự nó là một nguồn năng lực tạo nên giá trị trao đổi [47].

Trong những nhận xét sau đây tôi không có ý định chứng minh là lý thuyết về giá trị và phân phối của Smith là không sai lầm hay không mơ hồ. Ngược lại, tôi nghĩ Marx có lý khi chỉ rõ những điểm mơ hồ trong khái niệm về giá trị của Smith khi cáo buộc Smith là pha trộn hai vấn đề giá trị và phân phối. Tuy nhiên, tôi nghĩ Marx sai lầm khi giải thích những khó khăn của Smith như là kết quả của những mâu thuẫn cơ bản, thí dụ như một mặt thì lập luận là mối quan hệ trong xã hội tư sản tuân theo, mặt khác, lại không tuân theo quy luật giá trị. Nói một cách khác, Smith lập luận chiếm hữu trong xã hội tư sản là một chức năng của lao động của con người và trao đổi các tương đương, nhưng cũng là thành quả của bạo lực và lưà đảo. Smith không bao giờ nghĩ là luật gía trị tạo nên xã hội tư sản, hay nói theo thuật ngữ của Smith, “xã hội dân sự”.

Smith cũng không hề đề xuất phân phối của cải trong ba giai cấp xã hội (điền chủ, sở hữu chủ tư bản và lao động) có liên hệ đến sự trao đổi các tương đương. Lý thuyết về phân phối trong xã hội dân sự của Smith có liên hệ đến những phân tích kinh tế về quyền lực và hầu như không liên hệ gì đến hư cấu về các sở hữu chủ hàng hoá có tự do và bình đẳng. Chính thế mà Smith không đủ thẩm quyền giải thích đối với người dựa vào quan điểm là xã hội tư sản thể hiện trên bình diện như “trong một vườn điạ đàng của quyền bẩm sinh con người”. [48] Đối với suy nghĩ của Smith, không cần vuợt qua những hiện tượng để hiểu điều hiển nhiên: của cải xã hội bị phân chia bất công theo nguyên tắc ít có liên hệ đến những thoả thuận tự nguyện hoặc là số lượng lao động đóng góp của từng cá nhân. Để chứng minh điều này, tôi muốn tóm tắt vài khía cạnh trong lý thuyết của Smith về giá trị và phân phối.

Các xã hội có khuynh hướng du nhập phân công lao động và trao đổi hàng hoá đều có lý do căn bản tại sao. Vấn đề cần phải nhận ra qua thực tế là bằng cách này người ta có thể tìm ra ưu thế trong các công trình của người khác và đạt được việc thoả mãn nhu cầu tối đa với ít nỗ lực hơn. Đó là lý do tại sao Smith định nghĩa giá trị trao đổi hàng hoá do số lượng lao động của người khác mà nó cho phép sở hữu chủ mua hay đặt hàng[49]. Dĩ nhiên, ta có thể định nghiã là giá trị trao đổi của hàng hoá khi quy chiếu với số lượng của bất cứ loại hàng khác (thí dụ như vàng). Nhưng vì giá trị hàng hoá thay đổi – kể cả giá trị của lao động tiền lương (đưọc tính bằng một giá) điểm quy chiếu ổn định duy nhất dường như là nỗ lực được tiết kiệm hoặc sự hữu dụng đạt được khi có thể ta đặt mua nhiều hơn thời gian lao động của người khác. [50]

Tại sao một mặt hàng đặc biệt có một giá trị trao đổi đặc biệt? Tại sao cho phép người sở hữu chủ mua hoặc đặt hàng một số lượng nào đó về thời gian lao động của người khác (hoặc trực tiếp khi thuê dịch vụ hay lao động tiền lương; hoặc gián tiếp, khi đòi hỏi thời giờ cho sản xuất một loại hàng mơ ước)? Một câu trả lời khả dĩ – mà cũng là câu trả lời của Marx – như sau: bởi vì mặt hàng này tự nó biểu hiện (đòi hỏi để được sản xuất) cùng một số lượng thời gian lao động khi được đặt hàng. Nhưng đó không phải là điểm mà Smith nói. Trong suy nghĩ của Smith, lao động thể hiện trong hàng hoá chỉ bằng với lao động đặt mua mặt hàng này khi người sản xuất chính là người làm chủ phương tiện sản xuất, có nghĩa là, sản xuất có trước chiếm hữu đất đai và tích lũy tư bản, nếu nói theo phương diện lịch sử. Chỉ khi nào chúng ta suy đoán “tình trạng nguyên thủy của các sự vật tiếp tục, chúng ta có thể hình dung một xã hội mà „toàn bộ sản xuất lao động thuộc về giới lao động” và “các hàng hoá sản xuất do các số lượng lao động tương đương trao đổi một cách tự nhiên”.[51] Nhưng việc này xãy ra trong các xã hội dân sự, đất đai trở thành của sở hữu tư nhân và phương tiện sản xuất nằm trong tay của chủ tư bản, điền chủ và nhà tư bản đòi hỏi chia phần trong sản xuất và giá hàng phải tăng. Nói một cách khác, hàng hoá bán ra không phải chỉ có một mục tiêu duy nhất là đem lại thu nhập cho người lao động mà còn trả cho doanh lợi và điạ tô. Sở hữu chủ hàng hoá phải mua hàng hoặc đặt nhiều lao động hơn các mặt hàng thể hiện.

Như Marx trình bày, quan điểm này bao hàm sự lầm lẫn giữa giá trị và phân phối, hoặc là hàng hóa khi bán, cần nhiều lao động hơn nó thể hiện, hoặc là người lao động nhận toàn bộ sản xuất hoặc phải chia phần với điền chủ (điạ tô) hoặc chia phần với chủ tư bản (doanh lợi). “Thực ra, phân phối hoặc chiếm hữu giá trị không phải là nguồn của giá trị… Nếu không có sự chiếm hữu như vậy và công nhân nhận lương cho toàn bộ công trình sản xuất của mình, giá trị của hàng sản xuất không thay đổi, dù giá trị này không được chia cho điền chủ hay nhà tư bản”.[52] Hơn nữa, Marx nghĩ rằng giải thích doanh lợi chính là do giá bán cao hơn giá trị hoặc là do lừa đảo, ý tưởng này là ngây thơ. Ý tưởng này nhằm giải thích những doanh lợi đặc biệt, nhưng nếu tất cả mọi sở hữu chủ hàng hoá thưòng lừa đảo lẫn nhau, thì không ai có thể tạo doanh lợi theo kiểu này. Theo Marx, Smith sai lầm khi cố giải thích doanh lợi bằng cách phân thích sư trao đổi hay giao lưu hàng hoá, nhưng ông có lý – và hy vọng lý thuyết thặng dư của ông – khi ông mô tả doanh lợi như là phần trích xuất từ giá trị sản xuất của công nhân.[53]

Dù Smith có lầm, lý do của sai lầm này có thể hiểu được. Smith muốn lập luận là doanh lợi với hai lý do – một mặt, những sở hữu chủ tư bản có thể đòi hỏi chia phần sản xuất, mặt khác họ muốn gây ảnh hưởng thị trường. Nói một các khác, doanh lợi có hai chức năng vửa tiền lương vừa giá cả. Không có lý do gì để tin là Smith sai lầm trong quan điểm này.

“Trong tinh trạng nguyên thủy của sự vật trước khi có chiếm hữu đất đai hay tích lũy tư bản, toàn thể sản xuất lao động thuộc về công nhân. Công nhân không chia phần cho điền chủ và người chủ. [54] Trong những xã hội dân sự, thành quả lao động phải được phân chia bởi vì công nhân không còn làm chủ phương tiện sản xuất. Điền chủ và nhà tư bản chỉ đầu tư vào sản xuất khi nào ho kỳ vọng rằng có được chia phần trong sản xuất. Họ có thể được hưởng bao nhiêu trong toàn bộ sản xuất này không tùy thuộc vào họ có đóng góp vào trong phần lao động có hiệu qủa kinh tế hay không, ngay cả khi ít hơn trong tổng số của lao động. Doanh lợi „không tương ứng đối với số lượng, cực nhọc, hoặc mưu trí của loại lao động được suy đoán là bỏ ra để giám sát và điều khiển“.[55] Điều này càng hiển nhiên hơn trong trường hợp của địa tô. “Khi đất đai ở bất cứ nước nào trở thành thuộc quyền tư hữu, thì điền chủ, cũng giống như bất cứ người nào khác, họ chỉ muốn thu hoạch nơi mà họ không hề gieo, đòi hỏi địa tô đối với những sản xuất tự nhiên.[56]

Doanh lợi và tiền lương có khuynh hướng đi theo tỷ lệ nghịch: doanh lợi cao luôn nhờ vì có lương thấp, và ngược lại. “Lương cao cho lao động và doanh lợi cho chủ tư bản là… hai chuyện hiếm khi… đi liền nhau”.[57] Số lượng chính xác của mỗi yếu tố này tùy thuộc vào điều kiện hợp đồng mà mỗi bên có quyền lợi đối nghịch nhau (một bên thắng thì có một bên thua) và quyền lực mổi bên không bình đẳng. Khi số lượng người chủ càng ít, họ càng tự tin và có nhiều ảnh hưởng trong chính trị, thì họ tất phải thắng thế hơn đối với công nhân. Họ thấy điều này khi luật cấm công nhân kết hợp, trong khi tự chính họ lại luôn luôn cấu kết trá hình nhưng bền bỉ và đồng nhất không tăng lương cho công nhân trên mức lương thực sự của họ. [58]

Tăng lương trên mức tối thiểu đòi hỏi phải tái sản xuất của giới lao động, việc này tùy thuộc các lực lượng của thị trường. Khi chủ tư bản chạy tìm doanh lợi dùng càng nhiều tư bản đầu tư, nhưng cạnh tranh lẫn nhau gây khuynh hướng tăng lương, giảm giá bán và giảm doanh lợi.[59] Dù chủ đầu tư kỳ vọng doanh thu tương ứng với mức đầu tư của mình, nhưng một hê thống cạnh tranh năng động có khuynh hướng xoá tan những kỳ vọng này. Tuy thế, nền kinh tế thịnh vượng và mở rộng là quyền lợi của đa số (công nhân và người tiêu thụ) nhưng không phải là quyền lợi của thương giới và các nhà chế biến.[60] Đó là lý do tại sao các phe nhóm này bằng mọi phương tiện cố tránh cạnh tranh và làm đảo ngược sự vận hành tự nhiên của thị trường: “Những người trong cùng một loai doanh nghiêp ít khi gặp nhau, kể cả cho việc ca ngợi nhau và đánh lạc hướng nhau, nhưng khi có luận đàm họ thường kết thúc bằng âm mưu chống lại công chúng, hoặc trù liệu chuyện tăng giá.“ [61]

Dĩ nhiên, những chính sách hạn chế của chủ tư bản không tùy thuộc vào trường hợp nhân qủa. Như đã đề cập ở trên, những quyền lợi của họ được tìm thấy trong luật pháp và chính sách, thí dụ như luật huấn nghệ [62], luật gia sản [63], các biện pháp hổ trợ cho thị dân khi thương thảo với thôn dân [64], mánh khoé trong ngoại thương, phiêu lưu thuộc địa và gây chiến tranh [65] – điều mà Smith coi là cực kỳ tác hại cho nền kinh tế quốc gia, bởi vì họ có khuynh hướng loại bỏ cạnh tranh và tăng giá cũng như tăng doanh lợi trên mức thích hợp. [66]

Tại sao Smith nghĩ rằng doanh lợi không chỉ có chức năng tiền lương mà còn có chức năng giá cả, điều này đã được minh chứng quá nhiều. Tương phản với hệ thống trọng thương, hệ thống tự do tự nhiên của Smith không còn cổ vũ quyền lợi của thương giới và nhà sản xuất: mọi người khi họ không vi phạm về luật công bình thì họ có hoàn toàn tự do để theo đuổi quyền lợi riêng theo cách của mình, và mang quyền lợi của mình vào kinh tế công nghiêp và tư bản để cạnh tranh với người khác [67]. Smith không hề đề xuất rằng hệ thống này cho phép bất cứ người nào chiếm hữu hàng hoá bằng phương tiện lao động của riêng mình hoặc là do trao đổi tương ứng. Các chủ sở hữu đất đai và tư bản sẽ chia phần trong sản xuất, không bởi vì bất cư lao động nào của họ nhưng vì họ có quyền đòi hỏi việc này. Doanh lợi cũng còn có chức năng tiền lương – nhưng không còn chức năng giá cả -. Giá cả có khuynh hướng thấp và lương tương đối cao. Chính thế mà “hệ thông tự do tự nhiên” được biện minh dựa trên lập luận hữu dụng: nó nhằm phục vụ quyền lợi tốt đẹp nhất cho đại đa số quần chúng. [68]

Khởi đầu tiểu luận này tôi đặt vấn đề là Marx có giải thích trung thực các kinh điển của khoa kinh tế chính trị học không. Đến đây thì ta đã rõ là quan điểm của Marx về Smith không phải là kết quả của một sự phân tích cẩn trọng về tư tưởng của Smith trong bối cảnh lịch sử và hệ thống. Marx đã xem Smith là “đại biểu khoa học của giai cấp tư sản”, mà lý thuyết này thực ra không liên hệ gỉ đến lịch sử mà chỉ biện hộ, mặc dù – như đã minh chứng – đặc điểm lịch sử và phê phán của công trình Smith rất hiển nhiên. Dù những gì Marx nói, Smith không bị đánh lừa bởi bất cứ những biểu hiện công lý trong xã hội dân sự. Lý thuyết của Smith, dù mơ hồ và sai lầm trong một vài khía cạnh, nhưng không hàm chứa những mâu thuẫn căn bản như Marx đề ra.

Trong tầm mức rộng lớn hơn, nhận xét của Marx về Smith là một kết cấu đòi hỏi do phưong pháp và những tiền đề của phê phán về khoa kinh tế chính trị học. “Trong biên niên sử kinh tế chính trị học, thời vàng son thanh bình ngự tri từ thuở xa xưa. Trong bất cứ thời nào thì quyền lợi luật đinh và “lao động“ cũng là phương tiện duy nhất đem lại thịnh vượng…”[69] Khẳng định này thiếu tính thực tại trong kinh tế chính trị học của Smith, nhưng thể hiện được là tiền đề thích hợp cho lý thuyết của chủ nghĩa tư bản và được suy đoán là cùng lúc lại phê phán ý thức tư sản.

 

Karl Graf Ballestrem

Dịch: Đỗ Kim Thêm

Via Dân Luận

Edit: THĐP


[1] Jürgen Kuczynski, Geschichte der Lage der Arbeiter unter dem Kapitalismus, vol. 26, East Berlin, 1965. A.V. Anikin, Junost´nauki, Mosva, 1971.
[2] Robert L. Heilbronner, The Wordly Philosophers, third ed., New York 1969, pp. 140ff. Mark Blaug, Economic Theory in Restropect, Homewood, 1962, German ed. München, 1972, vol. 2, pp. 145ff.
[3] Ronald Meek, Marx´s Economic Method, in Economics and Ideology, London, 1967, pp. 93-112.
[4] Karl Graf Ballstrem, Die schottische Äufklärung, München, Oldenbourg.
[5] Andrew Skinner, “Economic and History: The Scottsh Entlightement“, in Scottisch Journal of Political Economy, 12, 1965; H. R. Trevor-Roper, “The Scottish Enlightment”, in Studies on Voltaire and the 18th Century, vol. 58, Geneva, 1967, pp. 1635 ff.
[6] William Roberston, Collected Works, ed. Dugald Steward, 1809, vol. 5, p.111.
[7] Ronald Meek, „The Scottish Contribution to Marxist Sociology“, in Economics and Ideology, London, 1967, pp. 34-50, esp, .48.
[8] Marx, Karl, Friedrich Engels, 1961, Werke, Dietz Verlag, Berlin, 23,p. 218.
[9] FN 8, P. 5, 84.
[10] FN 8, 23,p, p. 95.
[11] FN 8, 4, p. 126.
[12] Marx Karl, Grundrisse der Kritik der Politischen Ökonomie, Dietz Verlag, Berlin, p. 6.
[13] FN 8, 4.p. 142.
[14] FN 12, p. 917.
[15] FN 8, 23, p.19.
[16] FN 8, 4, p.142.
[17] FN 12, p. 5.
[18] Smith Adam, 1976, Wealth of Nations, Clarendons Press, Oxford, I, 6, p. 65.
[19] Smith Adam, 1978 Lectures in Jurisprudence, Clarendon Press, Oxford, p. 40.
[20] FN 18, I, p. 157.
[21] A.W. Coast (ed.), The Classical Economists and Economic Policy, London, 1971. Smith Adam, FN 18, III, p. 418.
[22] FN 18, I, Cp. 11. p. 267.
[23] FN 8, 13, pp.7ff.
[24] FN 8, 23, p. 27.
[25] FN 8, 23, pp. 12, 26.
[26] FN 8, 23, p. 564.
[27] FN 8, 13, p.15.
[28] FN 8, 23, p.189.
[29] FN 8, 25, p.33.
[30] FN 8, 23, p.190.
[31] FN 8, 23, p.257, 259.
[32] FN 8, 34, p.235.
[33] FN 8, 26. p.230.
[34] FN 8, 31, p.132.
[35] FN 8, 32, p.532.
[36] FN 12, p.903.
[37] FN 12, p.903.
[38] FN 12 p.904.
[39] FN 8, 85, p. 89.
[40] FN 12, p. 409; FN 8, 23, pp. 161-191.
[41] FN 2, 26. 2. p. 56.
[42] FN 12 p. 54.
[43] FN 12, p. 56, 42.
[44] FN 12, p. 504.
[45] FN 8, 26, 1, p. 43.
[46] FN 12, 14, p. 44
[47] FN 12 26. 1 p. 59.
[48] FN 12 23 p. 59.
[49] FN 18 I, p. 5, 47.
[50] FN 18 I p. 51.
[51] FN 18 I, 8, p. 52.
[52] FN 12. 26. 1, p. 65.
[53] FN 12, 26. 1, p.50.
[54] FN 18 I 3,p. 82.
[55] FN 18 I 3, p. 82.
[56] FN 18 I 6, p. 67.
[57] FN 18 I 9, p. 109.
[58] FN 18 I 8 p. 84.
[59] FN 18 I 9 p.105.
[60] FN 18 I 11,p. 266.
[61] FN 18 I, 10, p. 145.
[62] FN 18 I 10, p. 135.
[63] FN 18 I 10, p.151.
[64] FN 18 I 10, p. 141, 376.
[65] FN 18 IV 7 p. 556.
[66] FN 18 I, 10, p. 132.
[67] FN 18 IV, 9, p. 867.
[68] FN 18 IV, 7, p. 630.
[69] FN 12 2, p. 230.

Ai khiến mày “lạ” giữa đám đông?

Featured Image: Christoph

 

Mấy ngày qua, bài toán lớp 2: “Trên tàu có 45 con cừu. 5 con bị rơi xuống nước. Hỏi ông thuyền trưởng bao nhiêu tuổi?” Thu hút đông đảo ý kiến tranh luận.

Trước hết, khỏi cần nói ai cũng biết bài toán này rất “lạ”. Lạ bởi trước đến giờ chưa có bài toán nào như thế. Với phụ huynh, giáo viên, học sinh từ trước đến nay chỉ chăm chăm theo một lối đi nên việc bị “sốc” trước những cái lạ như thế này như một lẽ hiển nhiên.

Và sau “sốc” là “sợ”

Chúng ta đang sợ những “cái lạ”, chúng ta đang quá quen với một cách giáo dục êm đềm từ bao đời nay. Nên khi thấy một cách giáo dục mới thì sợ con cháu mình “hư”. Bởi thế nên, bao lần cải cách giáo dục vẫn chưa một lần “dám đột phá” đưa ra những “cải cách lạ”. Và chất lượng giáo dục đến nay thì ai cũng đã rõ.

Chúng ta đang được giáo dục rằng mọi thứ lạ thường rất xấu và nên tránh xa ra, hoặc cất giấu đi chứ đừng nên phơi bày. Thầy cô, cha mẹ từ trước đến nay vẫn luôn đặt tình yêu thương lên trên hết, trước một “cái lạ” thì sợ học sinh, con cái mình theo không kịp nên ra sức phản đối, không cho tiếp cận.

Bao năm nay học sinh luôn sống và học tập trong trong một công thức chung: “Chăm chăm theo một dạng bài tập, theo cùng một lối suy nghĩ, và chớ có suy nghĩ khác.” Và như thế, những năm đi học thói quen khám phá “cái lạ” bỗng dưng biến khỏi suy nghĩ của những học sinh. Thay vào đó là thói quen thấy cái lạ thì tránh.

Gần đây có một bài báo khác viết rằng, ở Việt Nam trẻ em có tuổi thơ kéo dài nhất thế giới. Trong vô vàn lý do, tôi nghĩ lý do chính là con cái trong gia đình Việt đang được chỉ bảo trở thành “con nhà lành”. Tức là: Đến trường học theo y như sách, y như thầy cô dạy, toán cứ phải như thế này mà giải, văn cứ thế này mà viết. Ai mà đi “chệch quan điểm” là nhận ngay điểm xấu.

Về nhà học theo những gì cha mẹ chỉ bảo. Thậm chí gần đây, ngay cả lúc con đi chơi cha mẹ cũng chỉ nên chơi như thế này, chơi thế kia là thua đấy. “Con nhà lành” là răm rắp nghe theo, làm theo như một cỗ máy. Nếu nghĩ khác, làm khác tức là “mày lạ” và mày sai. Cần chẩn chỉnh ngay.

Trước đến nay chúng ta đang được giáo dục tránh xa những cái lạ. Bởi quan điểm cái gì lạ là… nguy hiểm. Chúng ta bao bọc những đứa trẻ trong tình yêu thương vượt quá giới hạn. Luôn tạo cho con môt “dải an toàn” mà không tính chuyện sau này, khi ra ngoài cuộc sống sẽ có những chuyện “lạ” mà sách vở không hề dạy.

Tôi chỉ muốn nói rằng, cách giáo dục ấy đã làm mất đi sự tự chủ, tính độc lập trong suy nghĩ của những đứa trẻ. Cách giáo dục tránh xa những “bài toán lạ” như trên đang “nhào nặn” ra những đứa trẻ giống nhau về suy nghĩ. Và lớn lên, khi đã trở thành người trưởng thành những đứa trẻ được bao bọc ấy chỉ biết làm theo, nghe theo người khác, răm rắp như một chiếc khuôn định sẵn.

À nhắc tới “cái lạ” tôi chợt nhớ đến ca sĩ Lệ Rơi – một cái tên đang đình đám trên mạng. Tôi chỉ nghĩ, Lệ Rơi bỗng dưng nổi tiếng bởi anh biết phát huy “cái lạ” của mình. Đơn giản anh chỉ hát những gì anh thích và không rập khuôn theo một tiêu chí để nổi tiếng nào của nhiều người trẻ hiện nay: Quỳ lạy xin vào vòng trong, chụp ảnh khoe thân…

Được biết, anh ca sĩ Lệ Rơi chỉ học hết lớp 3. Tôi cảm thấy anh thật “may mắn” hơn nhiều người học cao mà cứ làm như một chiếc máy biết nói!

 

Đức Lộc

 

Vài lời cùng bình luận viên bóng đá

Featured Image: Generali Group Head Office Trieste

 

Lại một mùa World Cup đã đi hết một nửa chặng đường, bên cạnh nỗi háo hức mong chờ những trận cầu đẹp, nhìn thần tượng tung hoành trên sân hay chứng kiến những giọt nước mắt vui sướng hay đau buồn của cầu thủ, của cổ động viên, 4 năm qua tôi vẫn luôn mong chờ những giây phút sống trong không khí bóng đá như thế này. Tất nhiên bên cạnh đó vẫn là nỗi niềm muôn thuở đối với các Bình Luận Viên (BLV) bóng đá VTV.

Hai năm trước, mùa Euro 2012, tôi đã dành rất nhiều thời gian để phản đối, để bài tỏ nỗi bức xúc của mình, tham gia vào một diễn đàn trên facebook để phân tích những lời hớ hênh, những câu vô nghĩa của BLV Tạ Biên Cương, tất nhiên tôi cũng mong VTV chịu khó lắng nghe và có chút gì đó thông cảm cho dân đen chúng tôi mà thay đổi ít nhiều, nhưng 2 năm trôi qua, World Cup lại đến và họ vẫn y như vậy nên tôi viết bài này coi như một lời chào và xin… không hẹn gặp lại các anh.

Đứng dưới góc nhìn của VTV mà nói, các vị cho rằng các vị đã bỏ ra rất nhiều tiền để mua bản quyền World Cup từ Brazil xa xôi cho khán giả có cơ hội xem đầy đủ, các vị còn cho nhiều đội phóng viên xông pha qua tận Brazil để lấy tin, các vị cũng nghĩ ra đầy chương trình nào đồng hành, nào bình luận trước, giữa và sau trận đấu, nào mời các danh hài, nhà báo, huấn luyện viên, cả ca sỹ và chân dài để cho chương trình thêm phong phú. Các vị nghĩ mình đã làm rất tốt, khán giả thay vì tận thưởng thì lại kêu ca, thật không công bằng cho các vị.

Nhìn từ một góc độ khác thì thấy rằng các vị bỏ ra quá nhiều để nhận được phản ứng không thật hài lòng của người xem chẳng phải do trong đó có vấn đề?! Chẳng phải các vị cũng cần xem lại mình để xem lý do tại sao như vậy?

Với tôi mà nói, điều tôi trông chờ nhất tất nhiên là trong trận đấu, lúc xem thì xem diễn biến của trận đấu còn tiểu sử cầu thủ, ba anh ta, mẹ anh ta, bạn gái anh ta v.v thì hậu xét, đọc trên mạng đầy thông tin thì cần các anh cung cấp vào lúc “dầu sôi lửa bỏng” đó để làm gì? Các anh có nhớ bao nhiêu lần các anh vì chú tâm vào những thông tin bên lề mà các đường tấn công hay các tình huống hay của trận đấu trôi tuột đi trong khi các anh cứ mãi mê với tin tức tận đâu đâu. Thử hỏi, các anh dựng lên nào bình luận trước, giữa hay sau trận đấu, các buổi nói chuyện với chuyên gia hay bài viết về tương quan giữa hai đội để làm gì trong khi đến trận đấu chính thì các anh lại toàn lo những chuyện bên lề và “thỉnh thoảng” mới quay lại diễn biến của trận đấu và thường bị trễ đi vài nhịp?

Có thể sự cung cấp thông tin bên lề đó đối với các anh là cung cấp thêm kiến thức cho khán giả nhưng xin cảm ơn anh, những người chịu thức gần như cả đêm suốt cả tháng trời thì những kiến thức xung quanh chẳng lẽ họ không biết, còn những người không quan tâm đến bóng đá nhiều thì chắc không cần biết nên những thông tin các anh đã dày công sưu tầm có vẻ hơi… dư đối với tôi, tôi chẳng hiểu các anh muốn khoe kiến thức thì trước, sau và giữa trận đấu vẫn chưa đủ cho các anh, cứ nhất thiết đang lúc người ta say sưa theo dõi trận đấu mà thêm vào mới vừa lòng?

Với tôi mà nói đó là sự “tra tấn” hơi bị mệt vì bị “chia não” ra 2 phần. Trong khi mắt dán vào màn hình, tim đập thình thịch theo trái bóng thì tai lại phải nghe thứ đại khái như bạn gái của cầu thủ này là hoa hậu năm bao nhiêu, ba, mẹ của cầu thủ kia làm nghề gì? Cầu thủ nọ bao nhiêu tuổi, đá cho đội nào, năm qua anh ta ghi bao nhiêu bàn, huấn luyện viên này từng huấn luyện cho đội A,B,C hay 10 năm trước hai đội đã gặp nhau và trong 10 năm đó thì mỗi đội đã đá với bao nhiêu đội bóng khác…cơ man nào là thông tin trớt quớt so với diễn biến của trận đấu. Sự trớt quớt này chỉ có thể so sánh như là nấu canh chua mà nêm với dấm và chấm với xì dầu vậy. Nản vô cùng.

Thôi thì kể khổ với các anh vậy thôi, bản thân tôi chẳng dám mong vì tôi mà các anh thay đổi, hội của chúng tôi với vài ngàn người la làng suốt 2 năm qua mà có si nhê gì đâu, hết mong và hết thuốc chữa rồi. Vậy nên, tôi chính thức giả biệt các anh, sau này xem SopCast thôi chứ thật tình là mệt lỗ tai lắm rồi, cũng chẳng buồn nói nữa.

Tôi thì chẳng thể giã từ trái bóng nhưng nhờ các anh độc quyền ngày chủ nhật sôi động và các giải quốc tế quan trọng nên tình yêu đó cũng bớt đi một chút, nhờ vậy mà được ngủ nhiều hơn, vì sức khỏe của mình tôi cảm ơn các anh! Chào thân ái.

 

Phoenix

Sức khỏe

Featured Image: Alexandre Huang

 

Người ta thường nói: Nhan sắc, danh vọng, tiền tài… rồi cũng chỉ là hư vô. Chỉ có tình yêu còn ở lại. Rồi tất cả cũng sẽ tàn phai theo tháng năm…
Đúng. Nhưng, sức khỏe mới là thứ ta luôn cần cho hiện tại.

Không có sức khỏe, ta chẳng làm được gì cho ra hồn. Đầu óc thiếu minh mẫn, sức lực không có độ dẻo dai, làm gì cũng chóng mệt, dễ lười biếng, dễ nản.

Để có sức khỏe tốt, chúng ta phải ăn uống đủ dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh, có một lối sống lành mạnh và tập luyện thể thao thường xuyên. Tiếc thay, chúng ta đang mắc kẹt trong thế giới mà độ an toàn thực phẩm phụ thuộc vào lương tâm của những người đang khai thác nguồn hàng bẩn để kiếm lợi còn trong sáng tới đâu. Nguyên nhân của hàng loạt bệnh nan y phát sinh nhiều gấp nhiều lần trong thời hiện đại này so với thời kinh tế đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu có lẽ một phần cũng từ tất cả những thực phẩm không đủ an toàn mà hàng ngày chúng ta vẫn phải nạp vào cho cơ thể.

Bao giờ thì chúng ta hoàn toàn yên tâm vào các nhãn, mác hàng hóa thương hiệu Việt là thật, các hạn sử dụng được in rõ ràng, không bị dán chồng lên date cũ?

Trong khi chờ đợi ngày đó sẽ đến, thì chúng ta vẫn phải sử dụng mỗi ngày, vì thế chúng ta cũng phải tự bảo vệ bản thân và gia đình mình theo cách riêng của mình. Mua hàng hóa của những thương hiệu uy tín, mua hàng ở những cửa hàng, quầy hàng quen, uy tín. Không nên ăn nhiều và thường xuyên chỉ ở một vài loại thực phẩm, mà luân phiên ăn đủ chủng loại, số lượng vừa đủ. Tăng lượng rau xanh, trái cây, giảm đạm, nhất là giảm thịt.

Ngâm rau, trái cây trước khi rửa. Rửa kỹ bằng nước muối hoặc nước rửa trái cây chuyên dụng với những loại rau, trái ăn sống. Tốt nhất gọt bỏ vỏ trái cây. Nếu có điều kiện, bạn nên mua các loại thực phẩm hữu cơ, nuôi trồng tự nhiên, không bón phân hóa học, nuôi bằng thức ăn công nghiệp. Mua các loại thực phẩm tươi sống để đảm bảo không bị sử dụng chất bảo quản có tỷ lệ / nồng độ những hóa chất độc hại quá mức cho phép. Mùa nào thức ấy, mua rau, trái địa phương theo mùa vừa sẵn, vừa rẻ.

Lối sống lành mạnh là sinh hoạt điều độ, ăn, ngủ vừa đủ với nhu cầu và sức tiêu hao năng lượng, tái tạo năng lượng của bản thân. Uống nước vừa đủ, không thức quá khuya, không hút thuốc lá, bia rượu quá đà. Trẻ em nhất thiết phải ngủ nhiều hơn, ngủ trên 8 giờ mỗi ngày và ngủ trước 11 giờ để phát triển chiều cao vì hệ xương phát triển trong lúc ngủ. Trẻ em cũng cần ăn nhiều rau, trái cây để dễ hấp thụ dinh dưỡng và đảm bảo cơ chế tiêu hóa tốt. Hạn chế bánh kẹo, nước ngọt có gas tối đa, thay bằng các loại trái cây có đường tự nhiên.

Trong khi chúng ta chỉ có thể hạn chế được phần nào những nguy cơ tiềm ẩn từ thực phẩm vì chúng ta không chủ động được nguồn thực phẩm an toàn, thì rất may chúng ta còn một biện pháp vô cùng hữu hiệu là luyện tập thể thao.

Chơi một môn thể thao phù hợp với thể chất của bạn, duy trì thường xuyên hàng ngày là cách tốt nhất để bạn giữ được một cơ thể khỏe mạnh, dẻo dai, phòng ngừa được bệnh tật xâm nhập. Chưa kể một lợi ích khác của thể thao là rèn luyện tính chịu đựng, chịu đau, sự kiên nhẫn, điềm tĩnh và một vài môn còn có tác dụng rèn trí não rất tốt.

Người Việt mình, còn một thiệt thòi do hệ thống giao thông công cộng hầu như không phát triển, nên đa số người người ra đường bằng xe máy cá nhân. Xe máy đưa ta bon bon từ nhà, tới sở làm, tới chợ, tới hang cùng ngõ hẻm, chẳng biết đi bộ là gì. Còn đâu cơ hội luyện tập khả năng đi bộ giữ gìn sức khỏe. Bình thường chẳng thấy gì, cho đi du lịch đi bộ chừng vài tiếng đồng hồ liên tục là biết ngay: Thở ra đằng tai, rệu rã, người đi đằng người, chân đi đằng chân…

Tại ai, trách ai… cũng chẳng làm được gì, chẳng thay đổi được gì. Chúng ta hãy tự cứu mình, tự giữ cho bản thân và các thành viên gia đình có một sức khỏe tốt nhất có thể trong khả năng, đấy cũng là cách tốt nhất chúng ta kéo dài cuộc sống và rất thiết thực cho chính ta và những người yêu dấu của mình.

Khi ra nước ngoài, nhìn những người cao tuổi vẫn sử dụng các phương tiện giao thông công cộng đi lại hàng ngày rất bình thường, thì cũng các cụ nước mình ở vào độ tuổi ấy, con cháu không muốn mà ngay cả bản thân các cụ cũng ngại ra đường, nếu không có con cháu chở đi hoặc đi cùng. Phần vì giao thông không an toàn, phần vì các cụ cũng không đủ tự tin về sức khoẻ, tự tin về cách xử lý nếu có sự cố. Và điều quan trọng nhất làm người cao tuổi của chúng ta già nua, phụ thuộc hơn người cao tuổi ở các nước phát triển là, cả xã hội mặc định là người cao tuổi là phải có con cháu phục vụ, ngoài lý do thiếu an toàn thì lý do chính là sức khoẻ của bản thân người cao tuổi không cho phép họ tự tin, tự chủ làm điều họ muốn. Theo quan điểm riêng của cá nhân tôi, cách nhìn của tôi là như thế.

Từ khá lâu rồi, tôi bắt đầu manh nha cho sự độc lập của mình khi ở tuổi già khi chứng kiến những điều người cao tuổi ở những nước phát triển đã và đang làm được cho mình ngay cả khi không còn làm việc. Mong ước chừng nào còn làm được thì mình sẽ tự tay làm tất cả những điều mình muốn, kể cả tự lái xe, sử dụng phương tiện công cộng, nấu ăn, làm bánh, chụp hình, viết lách, chia sẻ kinh nghiệm… cho đến khi không nhúc nhích gì được nữa. Khi ấy thì con cháu muốn khiêng đi đâu thì khiêng J.

Bởi vậy, kể từ lúc ngộ ra điều đó tới bây giờ, ngoài những việc phải làm cho hiện tại, tôi không quên nhiệm vụ cho “trường đoạn cuối” từ việc tích luỹ một tài khoản để có thể sống đủ cho các nhu cầu tuổi già, cho đến duy trì tập luyện ít nhất một môn thể thao thường xuyên (xin tiến cử một môn rất hợp với lứa tuổi trung niên trở lên là yoga), đều đặn mỗi ngày để giữ gìn thể lực, đảm bảo cơ thể luôn khỏe mạnh, dẻo dai, có sức đề kháng tốt.

Bạn đã tập thể dục thể thao chưa, hãy bắt đầu và duy trì thường xuyên nhé.

 

Julia Le

John Stuart Mill – Bàn về tự do

Bàn Về Tự Do (nguyên gốc tiếng Anh: On Liberty) là một trong những tác phẩm triết học nổi tiếng nhất của John Stuart Mill, một nhà triết học thực chứng người Anh, đề cập đến một trong những vấn đề được rất nhiều người quan tâm, đó là quyền của các cá nhân trong mối quan hệ của họ với cộng đồng và với xã hội.

Cuốn sách nền tảng của tư duy lý luận và tư tưởng phương Tây

Được John Stuart Mill viết năm 1859, Bàn Về Tự Do đã đề cập đến một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm, đó là sự tự do cá nhân hay quyền của các cá nhân trong mối quan hệ của họ với cộng đồng và xã hội. Tuy tác giả không phải là triết gia đầu tiên trong lịch sử nêu lên ý tưởng về quyền tự do của con người nhưng ông là người đưa ra định nghĩa thuyết phục nhất cho quyền này.

Do vậy, Bàn Về Tự Do mau chóng trở nên nổi tiếng ngay sau lần xuất bản đầu tiên. Và, trong suốt gần 150 năm qua, nó đã là “bài nhập môn”, là cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những ai quan tâm tới tư duy lý luận và tư tưởng phương Tây.

Tóm tắt nội dung

Qua cuốn sách này, J.S. Mill đã đưa ra quan điểm về tự do dân sự (hay tự do xã hội) là ranh giới giữa sự kiểm soát xã hội và tự do cá nhân: Chỉ có phần cư xử của một ai đó liên quan đến những người khác mới phải vâng theo xã hội, còn anh ta hoàn toàn tự do trong việc tác động lên riêng cá nhân mình[1].

Theo Mill, một nhánh quan trọng của tự do dân sự là tự do tư tưởng và tự do thảo luận. Ông đưa ra tiền đề rằng không ai hoàn toàn đúng và mọi ý kiến, tư tưởng đều chỉ đúng một phần. Do đó, những ý kiến và tư tưởng này chỉ có thông qua con đường thảo luận tự do mới có thể đi tới hoàn thiện. Và sự phản bác phải được chào đón, thậm chí còn nồng nhiệt hơn những luận điểm tán thành.

Tác giả viết: “Bất cứ ý kiến nào, nếu chứa đựng chút ít chân lý mà ý kiến chúng bỏ qua, cũng đều đáng quý, dù có bị pha trộn với bao nhiêu sai sót lầm lẫn đi chăng nữa” và “Trong tình trạng không hoàn hảo của trí tuệ con người thì sự đa dạng ý kiến là sự phục vụ lợi ích của chân lý”.[2]

Vì lẽ những con người khác nhau cần những điều kiện khác nhau cho sự phát triển tinh thần của họ, nên con người cần sự tự do cá nhân để phát huy hết tiềm năng của mình. Sự tự do cá nhân được giới hạn trong phạm vi những việc chỉ tác động lên quyền lợi của chính cá nhân anh ta, còn những hành vi vượt ngoài ranh giới ấy phải bị chính quyền quản lý bằng pháp luật, xã hội gây sức ép bằng công luận[3].

Quyền lực của xã hội đối với sự tự do cá nhân chỉ dừng ở mức hướng dẫn, thuyết phục và tỏ ý không tán thành, chứ tuyệt nhiên không được tác động trực tiếp tới cá nhân con người.

Vậy làm cách nào để phân biệt hành vi nào hoàn toàn nằm trong khu vực lợi ích cá nhân, hành vi nào có liên quan tới những thành viên khác của xã hội? Về vấn đề này, J.S. Mill viết: “Mặc dù xã hội không được tạo dựng trên cơ sở khế ước, và mặc dù sự sáng chế ra khế ước để từ đó suy ra các nghĩa vụ cũng chẳng đáp ững được mục đích tốt đẹp nào, nhưng bất cứ ai nhận được sự bảo trợ của xã hội cũng có bổn phận hoàn trả lợi ích trở lại, và bản thân sự kiện được sống trong xã hội cũng nói lên điều không thể thiếu được, rằng mỗi người phải bị ràng buộc tuân thủ theo một đường hướng cư xử đối với những người khác.

Các cư xử ấy bao gồm, thứ nhất là, không làm hại đến quyền lợi của nhau; hay nói đúng hơn là những lợi ích nào đó vốn cần phải được coi là quyền dù là căn cứ vào những quy phạm pháp luật tường minh hay dựa trên sự hiểu biết ngầm; thứ hai là, mỗi người phải thực hiện bổn phận đóng góp (được xác định trên nguyên lý bình đẳng nào đó) lao động hay hy sinh để bảo vệ xã hội và các thành viên của nó khỏi bị xâm hại và quấy rối.

Xã hội được biện minh cho việc ép buộc những điều kiện ấy bằng mọi giá đối với ai muốn từ chối không chịu thực hiện… Hành vi của một cá nhân có thể gây tổn thương cho những người khác hay thiếu cân nhắc đối với hạnh phúc của họ, những chưa đến mức vi phạm pháp quyền đầy đủ của họ. Khi đó người vi phạm bị trừng phạt đúng lẽ bởi dư luận, tuy không dùng đến luật pháp.”[4].

Bản tiếng Việt

Bàn Về Tự Do là một trong những tác phẩm đầu tiên trong “Tủ sách tinh hoa tri thức nhân loại” của NXB Tri Thức. Bản tiếng Việt do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch & chú giải, xuất bản lần đầu năm 2006.

Tải xuống tại Thư Viện Ebook, hoặc trực tiếp từ link này.

 

Via Dân Luận

Ăn thịt chó là thể hiện công bằng!

Featured Image: Korean Dogs

 

Bản thân hai từ “thịt chó” thôi cũng đủ để gây tranh cãi rồi. Và với cái tựa bài đầy khiêu khích kia có thể tác giả sẽ bị mắng không thương tiếc. Nhưng trước đó hãy đọc xong rồi muốn mắng cũng chưa muộn!

Con người vốn dĩ luôn xử sự theo cảm tính. Cho dù có luật lệ, quy tắc thì những thứ ấy cũng được tạo ra dựa theo cảm tính, thế nên ta có thể thấy mọi luật lệ hay quy tắc đều phục vụ cho một tầng lớp hoặc cá thể nào đó. Nói thế để biết, chính việc xử xự theo cảm tính của loài người là nguyên nhân tạo ra mọi sự bất công trên đời. Con người hiện đại luôn đòi hỏi sự công bằng, nhưng hiển nhiên đó là chuyện không thể. Một khi con người còn cảm xúc thì không có công bằng, và những con người đang đòi hỏi sự công bằng ấy có khi còn không công bằng trong chính cách hành xử của mình nữa là. Những người phụ nữ thời phong kiến, nhưng người da đen thời chiếm hữu nô lệ đều là nạn nhân của cảm tính, của sự bất công của loài người!

Quay trở về với thịt chó. Có khi nào bạn tự hỏi mình đang bất công với loài gà, loài bò hay loài lợn mà ngày ngày chúng ta vẫn nhai nhồm nhoàm cho no cái bụng để lấy sức đi lên án những người ăn thịt chó hay không? Đừng biện minh rằng các loài trên có nhiệm vụ là cho thịt, chó là bạn bè, giữ nhà hay đại loại thế. Tất cả chúng đều là đông vật, con gì cũng có thể trở thành bạn bè ví như con gà con của anh chàng câm trong bộ phim Hot Boy Nổi Loạn hay con heo của bạn Hằng trong Tuyết Nhiệt Đới. Một người nuôi gà để làm bạn và đánh thức mình dậy mỗi sáng chả lẽ lên án cả thế giời không được đi vào quán KFC, một ngừơi nuôi heo làm bạn chẳng lẽ thấy ghê tởm với xúc xích hay một anh nông dân chỉ có con bò, con trâu bầu bạn giúp anh ta ra đồng lại khinh miệt những người ăn bít tết? Có thể bạn nói cách nghĩ trên là vô lý…

Trong bộ phim 12 Years A Slave (đoạt giải Oscar năm 2013), bộ phim kể về một nhân vật da đen bị bắt làm nô lệ trong tời kỳ chiếm hữu nô lệ đen tối của nước Mỹ, tài tử Brab Pitt có một sự xuất hiện rất ấn tượng cho dù chỉ một đoạn ngắn. Brad Pitt vào vai một người thợ làm nhà, không phải nô lệ, khi tên điền chủ bảo anh hãy nghỉ một lát anh đã từ chối, anh bảo rằng thật buồn cười khi mình được lo lắng trong khi những người nhân công khác đang phải làm việc trong điều kiện tồi tệ. Tên điền chủ bật cười và nói như một điều hiển nhiên, bọn chúng là nô lệ, không phải nhân công, là thứ mà ông ta mua về, là tài sản. Ông ta bảo đó là luật, là sự thật, rằng một người da đen được mua về chỉ là một tài sản không hơn không kém. Người thợ tiếp tục nói rằng, việc chiếm hữu là không có công lý và là sai trái, rằng luật pháp đã sai, rằng chân lý là bất biến, sự thật luôn thay đổi. Vào lúc đó tên địa chủ cũng chỉ coi lời nói ấy của anh chỉ là những lời vô lý và xuẩn ngốc.

Câu chuyện về việc ăn thịt chó hay thịt gà hiện nay và câu chuyện về người da đen làm nô lệ là đúng hay sai thời ấy hoặc vai trò của người phụ nữ trong thời phong kiến tưởng chừng không liên quan gì nhưng thực tế đều nói lên những xử sự bất công của loài người đối với chính con người hay đối với loài vật. Con người thời ấy có thể coi một người da đen nô lệ như một điều hiển nhiên và chăm lo cho một người làm công da trắng. Cũng giống như cách chúng ta vặt lông, cắt cổ gà coi như hiển nhiên và bảo rằng quá tàn nhẩn khi ăn thịt chó! Đó không phải so sánh, chỉ là đang nói đến những hệ tư tưởng sai lệch và hoàn toàn có thể thay đổi. Vì vậy nếu bạn lên án việc ăn thịt chó  thì đừng ăn thịt gà hay thịt heo,  đó là sự bất công.

Và khi bạn vẫn quyết định không thể từ bỏ món KFC khoái khẩu hay món bít tết ngon lành thì cũng đừng bắt người khác không thể đem thịt chó lên bàn nhậu, điều đó thể hiện một chút sự công bằng, chí ít đối với những loài vật xung quanh chúng ta.

 

David Bectam

Đường Tăng và chuyến đi sang Tây Ban Nha

Featured Image: Vũ Thanh Hòa

 

Chuyến đi không bí mật chưa bao giờ được kể, nhưng bây giờ sẽ kể.

Tôi xin kể ngay là Đường Tăng sau khi trở nên nổi tiếng đã quyết định du hí sang Tây Ban Nha một chuyến để xem thi đấu bò tót cho bõ tức vì một lý do rất xứng tầm lý do đó là ngài thích xem bò thật thi đấu với người thật hơn là xem Tôn Ngộ Không đánh nhau tùm lum với Ngưu Ma Vương để rồi cuối cùng lại cần Na Tra Thái Tử từ trên trời xuống giúp đỡ. Nhưng ngài cao tăng nhà Đường kính mến đã gặp rắc rối. Đó là bị bò điên vượt hàng rào và cẩu ngài ngồi lên trên đầu nó cho dù ngài có đang được ngồi ở ghế hạng nhất dành cho khách mời người ngoại quốc đi chăng nữa. Con bò điên phấn khích tột độ khi bắt được Đường Tăng, trông cũng không khác gì mấy con yêu quái mà ngày xưa đã khi đã bắt được ngài trên dọc đường và trong lúc ngài đang “đi hái hoa”. Theo phản xạ của những lần gặp họa trước, sư phụ gọi thật lớn: ”Ngộ Khôngggggg! Ngộ Khôngggggg! Con ở đâuuuuuu? Mau cứu taaaaaaa!!!” Nhưng đáng buồn là Đường sư phụ đã quên rằng Tôn Ngộ Không, cục cưng của ngài, sau khi đã đắc đạo thì về Hoa Quả Sơn nhập thất ngồi thiền ở trạng thái Khỉ Đá, đợi sau khi Trái Đất diệt vong mới xuất đầu lộ diện để khai hoang xứ sở.

Gọi mãi khản cổ, sư phụ còn bị con bò điên nhảy nhót lung tung điên đảo làm cho tim gan phèo phổi ngài cũng như muốn bện thành tóc đuôi sam. Đường Tăng quyết định niệm chú vào tai con bò. Và con bò tót càng lồng lên thích thú vì nó cực kỳ khoái nghe chú. Trước khi bị bắt về làm bò tót biểu diễn ở đây, chủ cũ của nó là một bà lão, người mà có mẹ là người Việt Nam, bố người Ấn Độ, ông nội người Srilanka và bà ngoại người Thái Lan. Bà lão ngày nào cũng mở đĩa nghe các bài chú tụng với âm lượng lớn nhất vì tai bà nghễnh ngãng, đến nỗi con bò nằm trong chuồng cũng nghe như đấm vào tai và rất đỗi phấn khích. Sau nhiều ngày quá phấn khích nó đã húc đổ mấy bức tường, bà lão đành để người ta mang nó ra đấu trường kẻo gây nguy hiểm cho bà và những người xung quanh.

Đường Tăng làm đủ mọi cách để con bò dừng lại. Tụng kinh, gõ mõ, chọc mắt, véo tai, nhổ lông, cù lét, kể chuyện “Cây tre trăm đốt”, tất cả đều phản tác dụng. Những người phụ trách bò tót ở đấu trường không giúp gì được vì con bò quá khỏe và hung hăng, đặc biệt là sau khi được nghe mật chú. Nhưng lý do chính là giới truyền thông Tây Ban Nha muốn có một tin thật giật gân mà trước nay chưa từng có, đó là: “Cao tăng đắc đạo nhà Đường đi du lịch gặp rắc rối với bò tót.” Họ muốn cảnh gay cấn được kéo dài càng lâu càng tốt vì với mỗi giây lên hình là họ sẽ thu về được cả núi tiền. Và trong lúc tuyệt vọng không được ai giúp đỡ, sư phụ biết là mình sẽ chết vì kiệt sức khi ngồi trên lưng con bò điên này, ngài muốn tiết lộ bí mật của mình trước lúc ra đi.

Đường Tăng quyết định thoát y để cho thế giới biết rằng ngài sở hữu một vết bớt màu vàng ở mông trái có hình ngọn lửa. Ngày xưa khi còn làm chú tiểu trong chùa, một chú tiểu khác đã nhìn thấy vết bớt đó khi hai người “đi vũ trụ” cùng nhau ngoài cánh đồng và đã cười nhạo ngài là “đồ chùi đít chưa sạch”. Nhưng sư phụ nhà Đường lúc đó mới để ý thấy thì tủi thân khóc lóc vật vã rồi đã quyết định ra sông tắm rửa kì cọ thật kĩ và thấy rằng đó là một vết bớt. Vết bớt thần thánh đó là để người phàm biết rằng Đường Tăng chính là “người được chọn”.

Và thế là như những gì đã suy tính, Sư phụ bắt đầu cởi áo cà sa và tuột nó xuống nền đất. Ngài đang định cởi chiếc áo tiếp theo thì con bò bỗng nhiên dừng nhảy nhót, chạy ra thật xa lấy đà và hùng hục lao đầu vào cái áo cà sa đang nằm trên nền đất như con thiêu thân ướt sũng dầu hỏa lao mình vào lửa. Và “Huỳnh!!!!” thế là con bò sau cú húc rất mạnh xuống đất đó thì trở nên chao đảo, mặt mũi đờ đẫn, chân nọ đá chân kia, sừng gãy mất một bên, rồi đổ vật xuống đất như một cái cánh cửa mục nát không còn bản lề ở trong một ngôi nhà hoang có nhiều mạng nhện và bụi bẩn.
Sư phụ chưa kịp hiểu chuyện gì đang diễn ra với con bò và với cái cánh cửa đó thì khán giả bỗng hò reo, la hét, tung hoa ầm ĩ dưới khán đài. Những tiếng “Holey” “Holey” náo động của người bản địa làm ngài giật bắn mình quên cả việc mình đang định làm gì.

Ngài không hề biết rằng con bò lúc mới ra sân đã phát điên lên chỉ vì cái áo cà sa đỏ của ngài. Và thế là thêm một lần nữa, sư phụ Đường Tam Tạng lại trở nên nổi tiếng như cồn ở phương Tây. Vâng, là phương Tây chứ không phải Tây Phương Cực Lạc. Phóng viên nô nức kéo tới phỏng vấn, ngài chỉ mỉm cười và trả lời một câu quen thuộc mà đã làm nên tên tuổi của Đường Tăng suốt từ trước tới giờ: “Ơ mi phò phò, Bần tăng đến từ Đông Thổ Đại Đường.” Và chỉ trong một thời gian ngắn, Hòa thượng Đường Tam Tạng đã trở thành thần tượng của giới trẻ phương Tây. Một người thông minh, dũng cảm, điềm tĩnh, khiêm tốn và đặc biệt đến từ một châu lục khác.

Hiệu ứng “Ơ mi phò phò ” đã lan đi với tốc độ chóng mặt tạo nên cơn sốt ở xứ sở bò tót này. Thịt bò Ơ Mi Phò Phò bán chạy như tôm tươi. Còn tôm tươi nhãn hiệu Ơ Mi Phò Phò bán chạy như bò điên mà Đường trưởng lão cưỡi. Các cửa hàng thời trang thi nhau lấy tên Ơ Mi Phò Phò, và đặc biệt những bộ quần áo màu đỏ ở đây luôn được mua hết sạch. Sư phụ Đường Tăng thì ngay lập tức được mời đi đóng quảng cáo Redbull. Còn ảnh của ngài lúc đang cưỡi bò thì được phóng to và treo đầy trên đường phố nơi có nhiều người qua lại. Facebook thì xuất hiện trang “Hội những người phát cuồng vì Đường trưởng lão hạ gục bò tót” với gần 2 triệu likes chỉ sau 3 ngày. Truyện kiếm hiệp, phim điện ảnh, hội họa lấy cảm hứng từ Đường Tam Tạng phất lên như cờ gặp gió. Và thế là cao tăng Đại Đường đã đứng đầu bẳng xếp hạng những người thống trị trái tim và tâm trí của người dân phương Tây chỉ sau một màn thoát y không thành.

Như các bạn cũng biết đấy, khi có người đứng đầu thì sẽ có kẻ phải đứng thứ hai. Và kẻ đó sẽ rất lấy làm ghen tức và căm thù khi bị truất ngôi từ một tên hòa thượng đầu trọc từ đâu đâu tới. Kẻ đó sẽ tìm đủ mọi cách để vươn lên trên bảng xếp hạng, nếu không vươn lên được vì quá kém cỏi thì kẻ đó sẽ nhất định dùng cách “không ăn được thì đạp đổ”. Kẻ đó chính là quỷ Satan, đã làm mưa làm gió trên bảng xếp hạng khi dùng nỗi sợ hãi để chế ngự trái tim và tâm trí con người. Và Satan đã biến hình thành một ông cha xứ đạo để dễ dàng tiếp cận Đường Tam Tạng.

Vào một ngày Chủ nhật hơi hơi đẹp trời, ông cha xứ đã mời hòa thượng nhà Đường ghé qua đàm đạo với mục đích chính là thăm dò đối phương để tìm cách triệt hạ. Khi cả hai đã an tọa, vị cha xứ cất lời chào hỏi:
– Xin kính chào ngài Đường Tam Tạng, rất hân hạnh được đón tiếp ngài ở đây!
– Ơ mi phò phò, xin kính chào ngài! Bần tăng đến từ Đông thổ Đại Đường mới qua quý quốc để xem thi đấu bò tót! Xin ngài có thể cho biết quý danh?
– Tôi tên là Satan. – Cha xứ ngập ngừng
– Ồ, tên của ngài làm bần tăng nhớ đến một người!
– Chuyện đó đã quá đỗi quen thuộc với tôi thưa Đường trưởng lão. Người ta ai ai nghe tên tôi cũng nghĩ tới quỷ Satan. Tôi nào đâu có chọn được cha mẹ!
– Cha xứ hiểu lầm rồi, người mà tôi nhớ tới là Sa Ngộ Tĩnh hay còn gọi là Sa Tăng – đồ đệ thứ ba của tôi. Còn tôi đã gặp rất nhiều yêu quái nhưng chưa từng biết tới quỷ Sa Tăng bao giờ!
Nghe đến đây ngài cha xứ kính mến cười thầm trong bụng: “Chưa đến trước kia thì giờ sẽ đến, mà bây giờ chưa đến thì sẽ đến mai sau!”
– Thưa cao tăng, ngài có thể nói cho tôi biết nội dung cốt lõi nhất trong tất cả những bộ kinh mà ngài đã thỉnh về từ Tây Trúc không ạ? – Satan hỏi.

– “Quỳnh hoa nở vẹn đầy.
Hương bay nơi xứ sở.
Mây nào che muôn thuở
Mặt trời và mặt trăng.”

– Dạ thưa, tôi ở đây nên không biết tới loài hoa quỳnh xứ ngài! – Cha xứ ngập ngừng nói.
– Nhưng ngài ở đây được biết con bò tót! – Đường sư phụ mỉm cười.

Satan bỗng nhiên thấy trong lòng mình biến chuyển lạ kì. Mọi thứ như nhẹ nhàng lâng lâng bay bổng sau câu nói của Đường sư phụ. Hắn thấy xúc động ghê gớm lắm chỉ chực trào nước mắt! Cả đời hắn chưa bao giờ có cảm giác này! Hắn lập tức quỳ gối xuống lạy sư phụ nhà Đường và mếu máo:
– Thưa sư phụ kính mến, tôi thật là đáng chết!
– Ai cũng cần phải chết thưa cha xứ!
– Tôi đã lừa dối ngài. Tôi chính là quỷ Satan thưa Đường trưởng lão! – Cha xứ cúi đầu sát đất.
– Ngài làm tốt lắm Sa Tăng! Hãy cùng chụp một kiểu ảnh ăn mừng nào! Say Peaceee!!! – Hòa thượng hân hoan.
– Nhưng tôi đã lừa sư phụ mà!
– Nếu muốn, ngài hãy cứ lừa tôi tiếp ngay bây giờ, còn không thì hãy để quá khứ lại!

Satan òa lên khóc nức nở như một đứa con nít bị lũ bạn cùng lớp mẫu giáo giật mất đồ chơi. Hắn ôm lấy chân sư phụ mà khóc như chưa bao giờ được khóc:
– Sư phụ ơi, người ta ai ai cũng ghét tôi, sợ hãi tôi và lấy tên tôi để đi dọa dẫm nhau vì tôi là quỷ Satan. Rồi họ đem tôi ra so sánh với Thiên Chúa. Rồi dùng tôi để tung hô Đức Chúa yêu thương và hi sinh. Thật là tội nghiệp cái thân tôi!

– “Này người bạn ơi hãy cứ khóc
Đừng kìm nén cho đến ngày mai.
Đời người ta chỉ như con lắc.
Giữa tốt- xấu, vui- buồn, đúng- sai.”
….

“Mây vui làm mây, hoa vui hoa
Mặc người ta ghét với đạp chà
Bồng bềnh mây lượn, hoa tỏa ngát.
Mây vẫn là mây, hoa vẫn hoa.”

Và tiếng khóc của Satan bỗng dưng im bặt để lắng nghe hạnh phúc dâng trào trong lòng. Sư phụ là người đầu tiên trên đời làm hắn xúc động đến vậy. Hắn không muốn lừa dối hay che giấu ngài điều gì. Satan thỏ thẻ giãi bày:
– Thưa Đường trưởng lão kính mến! Tôi vô cùng xúc động vì ngài đã làm cho tôi bừng tỉnh. Nhưng tôi vẫn còn một điều trăn trở đã từ rất lâu, đó là bên mông phải của tôi có một vết bớt màu đen hình ngọn lửa. Liệu cao tăng có biết đó là dấu chỉ gì chăng? Nó có phải là điềm báo cực kì xấu không?
– Thật thế ư?- Sư phụ rất đỗi kinh ngạc – Vậy mà tôi cứ nghĩ trên cõi đời này chỉ có mỗi mình tôi! Đó là dấu hiệu “Người được chọn”. Tôi có một vết màu vàng cũng hình ngọn lửa nhưng ở bên mông trái thưa ngài.
– Vậy tôi được chọn để làm gì thưa sư phụ ? – Satan bối rối.
– Ngài cũng như tôi và tất cả mọi người đều là “Người được chọn”. Được chọn để trở thành chính mình thưa ngài!

Và thế là cuộc viếng thăm đã diễn ra không như mong đợi của Satan lại mang đến nhiều điều thật tuyệt vời. Hắn không còn đau khổ dằn vặt nữa mà luôn sống là chính mình, cho dù đối với mọi người Satan có xấu xa và tồi tệ đến đâu đi chăng nữa. Đơn giản là hắn được làm những gì mình thích, cực kỳ thích. Sư phụ Đường Tăng sau khi đã được thỏa mãn mơ ước là được xem bò tót đấu với người thật mà chính ngài lại là người đó, ngài đã quay trở về Đông thổ Đại Đường với nặng một vali tiền ngoại tệ được trả từ quảng cáo Redbull. Về đến nơi sư phụ kính mến đã phát hiện ra chiếc áo cà sa lấp lánh ánh vàng của ngài đã bị đánh tráo bởi một cái áo cà sa lấp lánh lòe loẹt. Và ngay ngày hôm sau báo chí Tây Ban Nha đã rầm rộ đưa một tin rất dài và sốc kèm theo ảnh “Đường Trưởng lão đã thoát y ở giữa sân đấu bò tót để lộ ra vết bớt màu đen hình ngọn lửa ở mông phải”.

 

Vũ Thanh Hòa

Chờ một cặp I – You

Featured Image: Stuart Seeger

 

Có một điểm nhỏ mình muốn nói về cách xưng hô của người Việt. Nhỏ nhưng… rất “phức tạp”! Những gì được nói ra có thể không mới, nhưng cũng không cũ.

Người Anh có thể xưng hô I – YOU với bất kỳ ai, không phụ thuộc tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị. Người Trung Quốc – nước phong kiến Trùm Sò trong lịch sử Á Đông, cũng có những từ xưng hô tương tự I – YOU (rất tiếc không biết nó viết như thế nào)! Vậy mà Việt Nam mình thì không! Bạn tuyệt đối không thể xưng hô “Tôi – Ông” với những người bề trên trong dòng họ của mình, nếu không muốn bị trẹo quai hàm.

Trong tiếng Việt không có những từ cùng nghĩa với I – You. Bằng chứng là khi dịch I và YOU sang tiếng Việt, người dịch phải sử dụng một loạt các từ có ý nghĩa na ná như nó (song không phải nó): “cô – cháu, ông – tôi, tao – mày, con – bố, đằng ấy – mình”, .v.v…

Mình cảm thấy, hai từ I – You hoàn toàn chỉ dùng để phân biệt hai đối tượng giao tiếp: chủ thể và khách thể. Còn trong tiếng Vỉệt, cách xưng hô không những phân biệt hai người đang nói chuyện, mà còn định rõ thứ bậc của họ.

Khi nói chuyện với mẹ, một đứa bé người Anh có thể gọi Mom một lần, sau đó có thể liên tục gọi YOU, thì đứa trẻ Việt Nam cần phải gọi “mẹ” liên tục từ đầu đến cuối.

Từ vấn đề xưng hô này, kéo theo những vấn đề khác, rất phức tạp

Chẳng hạn, bạn – một nam thanh niên – bước vào cửa hàng ABC và gặp một phụ nữ trát đầy phấn đứng sau quầy. Bà ấy sử dụng phấn son vừa là để giảm đi những nếp nhăn vốn dễ gây khó chịu cho khách hàng, vừa là một nỗ lực vô vọng hòng chiến đấu với thời gian. Bạn phải xưng hô ra sao? Gọi họ là “chị” để làm họ hạnh phúc với ý nghĩ: nỗ lực cải tạo nhan sắc của họ đã có hiệu quả!? Hay gọi họ là “cô” để họ không cảm thấy bị xúc phạm?… Theo kinh nghiệm của mình, cứ gọi là cô cho chắc ăn. Lý do không phải từ phía họ, mà từ phía chồng của họ. Hãy cẩn thận nếu ông ấy đứng sau quầy!

Nếu một người con trai trông thấy một cô gái hấp dẫn nhưng lớn hơn mình 5, 6 tuổi. Ý nghĩ phải gọi đối phương là chị sẽ làm tịt hết mọi ước vọng viển vông của anh ta. Nếu gọi cô ta là “em” cho dễ tán, anh chàng này có thể sẽ phải nhận một ánh mắt kỳ thị và ý nghĩ “râu xanh, bệnh hoạn” từ cô gái (tất nhiên không phải lúc nào chuyện cũng xảy ra như thế).

Hay khi bạn là con gái, học đại học năm thứ tư, chưa yêu và rất sợ già! Bạn đến ký túc xá và duyên số run rủi bạn gặp phải một em trai học năm nhất, trẻ trung, hài hước, ga-lăng, đồng thời đẹp trai đến vô vọng! Bạn đổ từ cái nhìn đầu tiên! Nhưng nếu em nó gọi bạn là chị, thì cơ hội của bạn hoàn toàn chấm dứt. Giả như tiếng việt có I – YOU có phải hay không!?

Như vậy cách xưng hô đầy đẳng cấp của Việt Nam đã làm mất đi cơ hội của bạn

Rồi bạn ra trường. Sau bao năm phấn đấu, bạn thành đạt. Tất cả mọi người đều tôn trọng bạn. Trong một lần về quê, một đứa nhóc khoảng 10 tuổi gặp bạn ở trên đường. Nó biết bạn vì bạn quá nổi tiếng. Và, nó chào bạn một cách thân mật, đầy tình họ hàng: “Mày mới về hả Giang!” (Giả sử tên bạn là Giang). Bạn ớ người, hỏi lại nó: “Cháu là con nhà ai mà lại gọi bác như thế?”. Thằng bé cười sằng sặc: “Bác gì! Chị gái mày lấy thằng cháu gọi tao bằng ông trẻ đấy!” Tình trạng trẻ con đè đầu người lớn, ở nông thôn, không phải hiếm!

Một ví dụ khác: Bạn bằng tuổi nó. Theo dòng họ (họ xa), bạn là anh nó. Nhưng vợ bạn phải gọi nó bằng chú (vợ bạn có “họ gần” với nó). Vậy thì, bạn sẽ xưng hô như thế nào? Và sẽ như thế nào nếu nó nhân cơ hội đó bắt bạn trở thành đứa cháu bé nhỏ?

Vân vân và vân vân…

Chính sự phức tạp trong xưng hô khiến nhiều người đàn ông nói dối về tuổi thật của họ, để được bạn bè anh em kính trọng trên bàn rượu. Thậm chí, sự phân tranh xem ai là anh, ai là em có thể khiến người ta ốp nhau vỡ đầu chảy máu!

Cũng chính nó làm những người phụ nữ, vốn sợ già, phải đối mặt với tuổi tác của mình. Dù trong xã hội ta, xu hướng tránh hỏi tuổi của phụ nữ – như một phép lịch sự – có lan rộng đi chăng nữa! Hỏi bà ấy bao nhiêu tuổi và gọi bà ấy là “bác” thì cũng có khác nhau là mấy đâu.

Nói chung, cách xưng hô của người Việt rất phức tạp và khó sử dụng ngay cả với người Việt Nam. Sơ xuất một chút trong xưng hô có thể làm người khác tự ái nghiêm trọng.

Không hề hỗn xược khi xưng hô I – YOU với cha mẹ và người lớn tuổi, vì I – YOU không đồng nghĩa với “Mày – tao” hay “Tôi – ông”. I – YOU là tất tổng của tất cả các đại từ xưng hô cộng lại, trừ đi sự phân biệt cấp bậc, vai vế trong giao tiếp.

(I, YOU) = (cô + dì + chú + bác + bố + mẹ + ông + bà + cháu + con + anh + em + n…) – (thứ bậc, vai vế)

Nói cách khác I – You là cách xưng hô bình đẳng. Bình đẳng ở chỗ, dù ta đứng trên hay đứng dưới, hơn tuổi hay ít tuổi so với nhau, xét cho cùng, chúng ta vẫn là những CON NGƯỜI, với cùng những quyền và giá trị người không hề hơn kém nhau. Với nền tảng đó, chúng ta có quyền nói chuyện với nhau không cần cấp bậc, địa vị. Chỉ đơn giản là con người nói chuyện với con người.

Trong tiếng Việt không thể tìm thấy những từ tương tự như I và You. Cách xưng hô của người Việt hoàn toàn lệ thuộc vào vai vế, là cách xưng hô thiếu tự do. Đến bao giờ mới có một cặp I – YOU cho người Việt Nam? Có thể là không bao giờ. Trừ khi người Việt chuyển hẳn sang dùng những thứ tiếng “dễ xưng hô” như Tiếng Anh. Tất nhiên gần như chẳng người Việt Nam nào muốn thế…

Vậy, giả sử có một cụm I – YOU cho tiếng Việt, người ta sẽ tự hỏi: sự tôn trọng nằm ở đâu? Bởi vì xưng hô đúng thứ bậc là thể hiện sự tôn trọng với người đối diện. Thực sự thì sự tôn trọng còn được biểu hiện ở nhiều từ ngữ khác, sắc thái khác trong ngôn ngữ. Và sự tôn trọng còn được biểu hiện ở hành động.

 

Vũ Kenzo

Tiền bạc

Featured Image: cat klein

 

Tiền là gì nhỉ?

Là những đồng xu, những tờ giấy ta có thể mua được thứ ta cần để sống, sống vui, sống khỏe, sống chất lượng.

Tiền chỉ là tiền, không phải tiền là Tiên là Phật, là sức mạnh vô biên gì sất. Tiền cũng chẳng mang tới cho ta hạnh phúc. Cảm giác về sức mạnh hay sự bạc bẽo, niềm hạnh phúc hay đau khổ mà đồng tiền mang lại cho ta chính là tự chính con người chúng ta mà ra.

Tiền là vật ngoại thân, nó không làm nên giá trị con người khi chúng ta sở hữu thật nhiều tiền. Giá trị con người ở chính trong con người, là khả năng, trí tuệ, nhân cách, tâm yêu thương… trong đó bao gồm khả năng kiếm được nhiều tiền. Những người cảm thấy hạnh phúc khi có nhiều tiền, khi mua được những món đồ, những dịch vụ họ muốn là do chính họ có khả năng kiếm tiền và khả năng khiến đồng tiền làm cho họ hạnh phúc, chứ không phải do đồng tiền mang tới.

Tiền là phương tiện trao đổi trong đời sống để chúng ta sống sót và làm những thứ giúp chúng ta sống hạnh phúc. Vì vậy, tiền là thứ quan trọng, nhưng tiền không phải là tất cả, chi phối tất cả trong đời sống chúng ta.

Nếu nghĩ về tiền đúng như bản chất của nó, không thần thánh hóa, cũng không khinh miệt nó, thì chúng ta sẽ không phải quá vật vã vì nó, đồng thời cũng không rơi vào tình trạng không kiểm soát được sự thống trị của nó mà để nó kiểm soát mình.

Nếu bạn chỉ có thể kiếm được số tiền đủ để sống sót, tồn tại, điều đó chỉ có thể là  bạn thực sự không có nhu cầu kiếm nhiều hơn. Có thể bạn cho rằng chỉ cần sống sót là hạnh phúc của bạn rồi, hoặc là bạn mặc định rằng mình hoàn toàn không có khả năng kiếm tiền. Hiển nhiên là bạn sẽ chẳng cố gắng gì và chắc chắn cũng chẳng có phép màu gì để tự nhiên tiền chạy vào túi bạn được, trừ phi bạn được trúng số hoặc được thừa kế.

Không ai sinh ra trên đời đã bị đóng khung rằng: “Bạn không có khả năng kiếm tiền“ cả. Ai cũng có thể có khả năng kiếm tiền, mức độ ít hay nhiều, khó hay dễ tùy thuộc vào cách người đó nghĩ về tiền quan trọng thế nào, cách người đó say mê và kiên nhẫn kiếm tiền thế nào mà thôi.

Tiền không đến với những người có khả năng mà lười biếng. Tiền cũng không ở lâu với những người không biết quý trọng đồng tiền. Tiền dễ đến thì dễ đi. Bạo phát thì bạo tàn.

Tiền quan trọng thật, nhưng nếu bạn thần thánh hóa nó thì tới một lúc nào đó, bạn sẽ trở thành nô lệ cho chính ông chủ tiền của bạn. Đó chính là những người quan niệm về đồng tiền không đúng, dẫn đến sẽ dễ mắc sai lầm trong cách kiếm tiền. Họ sẽ cố kiếm tiền bằng mọi giá, chấp nhận làm những việc xấu xa, bán linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy những đồng tiền không trong sạch, nếu không muốn nói là đồng tiền tội lỗi. Tiếc thay xã hội luôn luôn tồn tại không ít những con người thế này. Kể cả những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn tới xã hội.

Có những người có trí tuệ cực kỳ giỏi giang, nhưng cũng không kiếm được nhiều tiền. Đó có thể là trí tuệ của họ mới là trí tuệ tĩnh, trí tuệ sách vở, lý thuyết, chưa phải trí tuệ động, nghĩa là trí tuệ phải biến thành hành động tạo ra giá trị, tạo ra tiền.

Có những người trí tuệ bình thường, nhưng họ lại có khả năng sử dụng những người trí tuệ giỏi để tạo ra tiền cho họ. Đây mới là những người thực sự thành công, khi kết hợp được giữa trí tuệ và hành động thực tiễn đem lại cho họ thành quả mong muốn. Cũng giống như đồng tiền nằm trong két nhà bạn là đồng tiền tĩnh, gọi là đồng tiền chết cũng đúng. Còn đồng tiền biết sinh sôi nảy nở, là tiền nằm trong ngân hàng, tiền chạy trong hoạt động kinh doanh, đầu tư… là đồng tiền động, đồng tiền sống.

Những người kiếm được rất nhiều tiền, trừ những người trúng số và được hưởng thừa kế nhé, chắc chắn họ là những người lao động cật lực, có đam mê kiếm tiền và có đầu óc thực tiễn biến lý thuyết, biến ý tưởng thành tiền nắm được trong tay.

Lao động cật lực không có nghĩa là từ sáng sớm tối mịt bạn luôn chân tay, đầu óc làm việc không ngơi nghỉ, mà bạn cần phải biết cách làm việc. Trước khi bắt tay vào kiếm tiền, bạn hãy tìm ra khả năng, thế mạnh và niềm đam mê của bạn là gì, kế hoạch của bạn thế nào, bạn sẽ thực hiện những mục tiêu gì trong ngắn hạn, dài hạn… và hãy bắt đầu kế hoạch kiếm 1 tỷ đồng đầu tiên của bạn từ hôm nay nhé. Kiếm tiền, chưa bao giờ là muộn với bất kỳ ai cả.

Kiếm được 1 tỷ đồng đầu tiên trong đời là việc khó, nhưng đã có nhiều người làm được, có người làm được từ khi còn rất trẻ. Người ta làm được, chắc mình cũng sẽ làm được, phải không nào.

Mỗi người chúng ta đều có mục tiêu, sứ mệnh riêng của mình. Tìm ra sứ mệnh của mình và đạt tới mục tiêu cuộc đời, đó là niềm hạnh phúc viên mãn cho bất kỳ ai trên đời. Trên con đường đó, chắc chắn chúng ta sẽ nhiều lần tự vấn về tiền: “Rốt cuộc tiền là gì, tiền có ý nghĩa gì với ta, ta muốn có nhiều tiền hơn, đúng hay không…“

Kiếm được tiền bằng khả năng, bằng sự sáng tạo, say mê và tạo ra giá trị cho xã hội, với lương tâm trong sáng, luôn là một khao khát chính đáng và một giấc mơ đẹp đẽ cho con người trong mọi thời đại.

Một khi bạn xác định đồng tiền đúng với bản chất của nó, bạn trân trọng đồng tiền mồ hôi công sức của bạn, bạn sử dụng đồng tiền kiếm được đúng như vai trò của nó là phương tiện đem đến cho bạn một cuộc sống, chất lượng, hạnh phúc. Tôi tin bạn là người hạnh phúc và bạn kiếm được nhiều tiền.

Bạn và tôi, những người được sinh ra trên đời đã là một điều may mắn, hãy cầu chúc cho chúng ta có sức khỏe, nắm được cơ hội kiếm được 1 tỷ đồng, nhiều tỷ đồng…và luôn là ông chủ của tiền bạc. 🙂

 

Julia Le

Có giọt sương nào không sinh ra bởi đêm ?

Photo: Noah Weiner

 

Có giọt sương mềm trên nhành cây khô ráp ?
Hay giọt sương khô ráp trên nhành cây yếu mềm ?

Có giọt sương nào không sinh ra bởi đêm ?!
Dẫu là đêm của trời – khi vầng dương say ngủ
Hay là đêm của đời – khi bình yên không đủ
Thì sương vẫn sinh ra… thì sương vẫn sinh ra…

Có những giọt sương mang thương nhớ thiết tha
Có những giọt sương mang đớn đau quằn quại
Có những giọt sương để nuôi đời hoa dại
Có những giọt sương… chỉ là những giọt sương…

Vậy có giọt sương nào không phải là sương ?
Có nhớ thương nào không đớn đau quằn quại ?
Có loài hoa nào chưa từng là hoa dại ?
Có màn đêm nào không để lại giọt sương ?

Sao nhành cây kia ôm giọt sương bình thường
Rất mong manh vẫn êm dường như mộng ?
Cớ sao ta từng ôm đời dài rộng
Giờ lại ôm giọt-sương-khô-khốc-và-bi-thương ?

Ta sẽ học theo nhành cây bình thường
Để có thể ôm giọt sương mềm mại
Ta sẽ học theo những loài hoa dại…
Sống cũng nhờ sương !
Đẹp cũng nhờ sương !

 

The Kid Falling From Heaven