28 C
Nha Trang
Thứ sáu, 1 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 214

John Stuart Mill – Bàn về tự do

Bàn Về Tự Do (nguyên gốc tiếng Anh: On Liberty) là một trong những tác phẩm triết học nổi tiếng nhất của John Stuart Mill, một nhà triết học thực chứng người Anh, đề cập đến một trong những vấn đề được rất nhiều người quan tâm, đó là quyền của các cá nhân trong mối quan hệ của họ với cộng đồng và với xã hội.

Cuốn sách nền tảng của tư duy lý luận và tư tưởng phương Tây

Được John Stuart Mill viết năm 1859, Bàn Về Tự Do đã đề cập đến một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm, đó là sự tự do cá nhân hay quyền của các cá nhân trong mối quan hệ của họ với cộng đồng và xã hội. Tuy tác giả không phải là triết gia đầu tiên trong lịch sử nêu lên ý tưởng về quyền tự do của con người nhưng ông là người đưa ra định nghĩa thuyết phục nhất cho quyền này.

Do vậy, Bàn Về Tự Do mau chóng trở nên nổi tiếng ngay sau lần xuất bản đầu tiên. Và, trong suốt gần 150 năm qua, nó đã là “bài nhập môn”, là cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những ai quan tâm tới tư duy lý luận và tư tưởng phương Tây.

Tóm tắt nội dung

Qua cuốn sách này, J.S. Mill đã đưa ra quan điểm về tự do dân sự (hay tự do xã hội) là ranh giới giữa sự kiểm soát xã hội và tự do cá nhân: Chỉ có phần cư xử của một ai đó liên quan đến những người khác mới phải vâng theo xã hội, còn anh ta hoàn toàn tự do trong việc tác động lên riêng cá nhân mình[1].

Theo Mill, một nhánh quan trọng của tự do dân sự là tự do tư tưởng và tự do thảo luận. Ông đưa ra tiền đề rằng không ai hoàn toàn đúng và mọi ý kiến, tư tưởng đều chỉ đúng một phần. Do đó, những ý kiến và tư tưởng này chỉ có thông qua con đường thảo luận tự do mới có thể đi tới hoàn thiện. Và sự phản bác phải được chào đón, thậm chí còn nồng nhiệt hơn những luận điểm tán thành.

Tác giả viết: “Bất cứ ý kiến nào, nếu chứa đựng chút ít chân lý mà ý kiến chúng bỏ qua, cũng đều đáng quý, dù có bị pha trộn với bao nhiêu sai sót lầm lẫn đi chăng nữa” và “Trong tình trạng không hoàn hảo của trí tuệ con người thì sự đa dạng ý kiến là sự phục vụ lợi ích của chân lý”.[2]

Vì lẽ những con người khác nhau cần những điều kiện khác nhau cho sự phát triển tinh thần của họ, nên con người cần sự tự do cá nhân để phát huy hết tiềm năng của mình. Sự tự do cá nhân được giới hạn trong phạm vi những việc chỉ tác động lên quyền lợi của chính cá nhân anh ta, còn những hành vi vượt ngoài ranh giới ấy phải bị chính quyền quản lý bằng pháp luật, xã hội gây sức ép bằng công luận[3].

Quyền lực của xã hội đối với sự tự do cá nhân chỉ dừng ở mức hướng dẫn, thuyết phục và tỏ ý không tán thành, chứ tuyệt nhiên không được tác động trực tiếp tới cá nhân con người.

Vậy làm cách nào để phân biệt hành vi nào hoàn toàn nằm trong khu vực lợi ích cá nhân, hành vi nào có liên quan tới những thành viên khác của xã hội? Về vấn đề này, J.S. Mill viết: “Mặc dù xã hội không được tạo dựng trên cơ sở khế ước, và mặc dù sự sáng chế ra khế ước để từ đó suy ra các nghĩa vụ cũng chẳng đáp ững được mục đích tốt đẹp nào, nhưng bất cứ ai nhận được sự bảo trợ của xã hội cũng có bổn phận hoàn trả lợi ích trở lại, và bản thân sự kiện được sống trong xã hội cũng nói lên điều không thể thiếu được, rằng mỗi người phải bị ràng buộc tuân thủ theo một đường hướng cư xử đối với những người khác.

Các cư xử ấy bao gồm, thứ nhất là, không làm hại đến quyền lợi của nhau; hay nói đúng hơn là những lợi ích nào đó vốn cần phải được coi là quyền dù là căn cứ vào những quy phạm pháp luật tường minh hay dựa trên sự hiểu biết ngầm; thứ hai là, mỗi người phải thực hiện bổn phận đóng góp (được xác định trên nguyên lý bình đẳng nào đó) lao động hay hy sinh để bảo vệ xã hội và các thành viên của nó khỏi bị xâm hại và quấy rối.

Xã hội được biện minh cho việc ép buộc những điều kiện ấy bằng mọi giá đối với ai muốn từ chối không chịu thực hiện… Hành vi của một cá nhân có thể gây tổn thương cho những người khác hay thiếu cân nhắc đối với hạnh phúc của họ, những chưa đến mức vi phạm pháp quyền đầy đủ của họ. Khi đó người vi phạm bị trừng phạt đúng lẽ bởi dư luận, tuy không dùng đến luật pháp.”[4].

Bản tiếng Việt

Bàn Về Tự Do là một trong những tác phẩm đầu tiên trong “Tủ sách tinh hoa tri thức nhân loại” của NXB Tri Thức. Bản tiếng Việt do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch & chú giải, xuất bản lần đầu năm 2006.

Tải xuống tại Thư Viện Ebook, hoặc trực tiếp từ link này.

 

Via Dân Luận

Ăn thịt chó là thể hiện công bằng!

Featured Image: Korean Dogs

 

Bản thân hai từ “thịt chó” thôi cũng đủ để gây tranh cãi rồi. Và với cái tựa bài đầy khiêu khích kia có thể tác giả sẽ bị mắng không thương tiếc. Nhưng trước đó hãy đọc xong rồi muốn mắng cũng chưa muộn!

Con người vốn dĩ luôn xử sự theo cảm tính. Cho dù có luật lệ, quy tắc thì những thứ ấy cũng được tạo ra dựa theo cảm tính, thế nên ta có thể thấy mọi luật lệ hay quy tắc đều phục vụ cho một tầng lớp hoặc cá thể nào đó. Nói thế để biết, chính việc xử xự theo cảm tính của loài người là nguyên nhân tạo ra mọi sự bất công trên đời. Con người hiện đại luôn đòi hỏi sự công bằng, nhưng hiển nhiên đó là chuyện không thể. Một khi con người còn cảm xúc thì không có công bằng, và những con người đang đòi hỏi sự công bằng ấy có khi còn không công bằng trong chính cách hành xử của mình nữa là. Những người phụ nữ thời phong kiến, nhưng người da đen thời chiếm hữu nô lệ đều là nạn nhân của cảm tính, của sự bất công của loài người!

Quay trở về với thịt chó. Có khi nào bạn tự hỏi mình đang bất công với loài gà, loài bò hay loài lợn mà ngày ngày chúng ta vẫn nhai nhồm nhoàm cho no cái bụng để lấy sức đi lên án những người ăn thịt chó hay không? Đừng biện minh rằng các loài trên có nhiệm vụ là cho thịt, chó là bạn bè, giữ nhà hay đại loại thế. Tất cả chúng đều là đông vật, con gì cũng có thể trở thành bạn bè ví như con gà con của anh chàng câm trong bộ phim Hot Boy Nổi Loạn hay con heo của bạn Hằng trong Tuyết Nhiệt Đới. Một người nuôi gà để làm bạn và đánh thức mình dậy mỗi sáng chả lẽ lên án cả thế giời không được đi vào quán KFC, một ngừơi nuôi heo làm bạn chẳng lẽ thấy ghê tởm với xúc xích hay một anh nông dân chỉ có con bò, con trâu bầu bạn giúp anh ta ra đồng lại khinh miệt những người ăn bít tết? Có thể bạn nói cách nghĩ trên là vô lý…

Trong bộ phim 12 Years A Slave (đoạt giải Oscar năm 2013), bộ phim kể về một nhân vật da đen bị bắt làm nô lệ trong tời kỳ chiếm hữu nô lệ đen tối của nước Mỹ, tài tử Brab Pitt có một sự xuất hiện rất ấn tượng cho dù chỉ một đoạn ngắn. Brad Pitt vào vai một người thợ làm nhà, không phải nô lệ, khi tên điền chủ bảo anh hãy nghỉ một lát anh đã từ chối, anh bảo rằng thật buồn cười khi mình được lo lắng trong khi những người nhân công khác đang phải làm việc trong điều kiện tồi tệ. Tên điền chủ bật cười và nói như một điều hiển nhiên, bọn chúng là nô lệ, không phải nhân công, là thứ mà ông ta mua về, là tài sản. Ông ta bảo đó là luật, là sự thật, rằng một người da đen được mua về chỉ là một tài sản không hơn không kém. Người thợ tiếp tục nói rằng, việc chiếm hữu là không có công lý và là sai trái, rằng luật pháp đã sai, rằng chân lý là bất biến, sự thật luôn thay đổi. Vào lúc đó tên địa chủ cũng chỉ coi lời nói ấy của anh chỉ là những lời vô lý và xuẩn ngốc.

Câu chuyện về việc ăn thịt chó hay thịt gà hiện nay và câu chuyện về người da đen làm nô lệ là đúng hay sai thời ấy hoặc vai trò của người phụ nữ trong thời phong kiến tưởng chừng không liên quan gì nhưng thực tế đều nói lên những xử sự bất công của loài người đối với chính con người hay đối với loài vật. Con người thời ấy có thể coi một người da đen nô lệ như một điều hiển nhiên và chăm lo cho một người làm công da trắng. Cũng giống như cách chúng ta vặt lông, cắt cổ gà coi như hiển nhiên và bảo rằng quá tàn nhẩn khi ăn thịt chó! Đó không phải so sánh, chỉ là đang nói đến những hệ tư tưởng sai lệch và hoàn toàn có thể thay đổi. Vì vậy nếu bạn lên án việc ăn thịt chó  thì đừng ăn thịt gà hay thịt heo,  đó là sự bất công.

Và khi bạn vẫn quyết định không thể từ bỏ món KFC khoái khẩu hay món bít tết ngon lành thì cũng đừng bắt người khác không thể đem thịt chó lên bàn nhậu, điều đó thể hiện một chút sự công bằng, chí ít đối với những loài vật xung quanh chúng ta.

 

David Bectam

Đường Tăng và chuyến đi sang Tây Ban Nha

Featured Image: Vũ Thanh Hòa

 

Chuyến đi không bí mật chưa bao giờ được kể, nhưng bây giờ sẽ kể.

Tôi xin kể ngay là Đường Tăng sau khi trở nên nổi tiếng đã quyết định du hí sang Tây Ban Nha một chuyến để xem thi đấu bò tót cho bõ tức vì một lý do rất xứng tầm lý do đó là ngài thích xem bò thật thi đấu với người thật hơn là xem Tôn Ngộ Không đánh nhau tùm lum với Ngưu Ma Vương để rồi cuối cùng lại cần Na Tra Thái Tử từ trên trời xuống giúp đỡ. Nhưng ngài cao tăng nhà Đường kính mến đã gặp rắc rối. Đó là bị bò điên vượt hàng rào và cẩu ngài ngồi lên trên đầu nó cho dù ngài có đang được ngồi ở ghế hạng nhất dành cho khách mời người ngoại quốc đi chăng nữa. Con bò điên phấn khích tột độ khi bắt được Đường Tăng, trông cũng không khác gì mấy con yêu quái mà ngày xưa đã khi đã bắt được ngài trên dọc đường và trong lúc ngài đang “đi hái hoa”. Theo phản xạ của những lần gặp họa trước, sư phụ gọi thật lớn: ”Ngộ Khôngggggg! Ngộ Khôngggggg! Con ở đâuuuuuu? Mau cứu taaaaaaa!!!” Nhưng đáng buồn là Đường sư phụ đã quên rằng Tôn Ngộ Không, cục cưng của ngài, sau khi đã đắc đạo thì về Hoa Quả Sơn nhập thất ngồi thiền ở trạng thái Khỉ Đá, đợi sau khi Trái Đất diệt vong mới xuất đầu lộ diện để khai hoang xứ sở.

Gọi mãi khản cổ, sư phụ còn bị con bò điên nhảy nhót lung tung điên đảo làm cho tim gan phèo phổi ngài cũng như muốn bện thành tóc đuôi sam. Đường Tăng quyết định niệm chú vào tai con bò. Và con bò tót càng lồng lên thích thú vì nó cực kỳ khoái nghe chú. Trước khi bị bắt về làm bò tót biểu diễn ở đây, chủ cũ của nó là một bà lão, người mà có mẹ là người Việt Nam, bố người Ấn Độ, ông nội người Srilanka và bà ngoại người Thái Lan. Bà lão ngày nào cũng mở đĩa nghe các bài chú tụng với âm lượng lớn nhất vì tai bà nghễnh ngãng, đến nỗi con bò nằm trong chuồng cũng nghe như đấm vào tai và rất đỗi phấn khích. Sau nhiều ngày quá phấn khích nó đã húc đổ mấy bức tường, bà lão đành để người ta mang nó ra đấu trường kẻo gây nguy hiểm cho bà và những người xung quanh.

Đường Tăng làm đủ mọi cách để con bò dừng lại. Tụng kinh, gõ mõ, chọc mắt, véo tai, nhổ lông, cù lét, kể chuyện “Cây tre trăm đốt”, tất cả đều phản tác dụng. Những người phụ trách bò tót ở đấu trường không giúp gì được vì con bò quá khỏe và hung hăng, đặc biệt là sau khi được nghe mật chú. Nhưng lý do chính là giới truyền thông Tây Ban Nha muốn có một tin thật giật gân mà trước nay chưa từng có, đó là: “Cao tăng đắc đạo nhà Đường đi du lịch gặp rắc rối với bò tót.” Họ muốn cảnh gay cấn được kéo dài càng lâu càng tốt vì với mỗi giây lên hình là họ sẽ thu về được cả núi tiền. Và trong lúc tuyệt vọng không được ai giúp đỡ, sư phụ biết là mình sẽ chết vì kiệt sức khi ngồi trên lưng con bò điên này, ngài muốn tiết lộ bí mật của mình trước lúc ra đi.

Đường Tăng quyết định thoát y để cho thế giới biết rằng ngài sở hữu một vết bớt màu vàng ở mông trái có hình ngọn lửa. Ngày xưa khi còn làm chú tiểu trong chùa, một chú tiểu khác đã nhìn thấy vết bớt đó khi hai người “đi vũ trụ” cùng nhau ngoài cánh đồng và đã cười nhạo ngài là “đồ chùi đít chưa sạch”. Nhưng sư phụ nhà Đường lúc đó mới để ý thấy thì tủi thân khóc lóc vật vã rồi đã quyết định ra sông tắm rửa kì cọ thật kĩ và thấy rằng đó là một vết bớt. Vết bớt thần thánh đó là để người phàm biết rằng Đường Tăng chính là “người được chọn”.

Và thế là như những gì đã suy tính, Sư phụ bắt đầu cởi áo cà sa và tuột nó xuống nền đất. Ngài đang định cởi chiếc áo tiếp theo thì con bò bỗng nhiên dừng nhảy nhót, chạy ra thật xa lấy đà và hùng hục lao đầu vào cái áo cà sa đang nằm trên nền đất như con thiêu thân ướt sũng dầu hỏa lao mình vào lửa. Và “Huỳnh!!!!” thế là con bò sau cú húc rất mạnh xuống đất đó thì trở nên chao đảo, mặt mũi đờ đẫn, chân nọ đá chân kia, sừng gãy mất một bên, rồi đổ vật xuống đất như một cái cánh cửa mục nát không còn bản lề ở trong một ngôi nhà hoang có nhiều mạng nhện và bụi bẩn.
Sư phụ chưa kịp hiểu chuyện gì đang diễn ra với con bò và với cái cánh cửa đó thì khán giả bỗng hò reo, la hét, tung hoa ầm ĩ dưới khán đài. Những tiếng “Holey” “Holey” náo động của người bản địa làm ngài giật bắn mình quên cả việc mình đang định làm gì.

Ngài không hề biết rằng con bò lúc mới ra sân đã phát điên lên chỉ vì cái áo cà sa đỏ của ngài. Và thế là thêm một lần nữa, sư phụ Đường Tam Tạng lại trở nên nổi tiếng như cồn ở phương Tây. Vâng, là phương Tây chứ không phải Tây Phương Cực Lạc. Phóng viên nô nức kéo tới phỏng vấn, ngài chỉ mỉm cười và trả lời một câu quen thuộc mà đã làm nên tên tuổi của Đường Tăng suốt từ trước tới giờ: “Ơ mi phò phò, Bần tăng đến từ Đông Thổ Đại Đường.” Và chỉ trong một thời gian ngắn, Hòa thượng Đường Tam Tạng đã trở thành thần tượng của giới trẻ phương Tây. Một người thông minh, dũng cảm, điềm tĩnh, khiêm tốn và đặc biệt đến từ một châu lục khác.

Hiệu ứng “Ơ mi phò phò ” đã lan đi với tốc độ chóng mặt tạo nên cơn sốt ở xứ sở bò tót này. Thịt bò Ơ Mi Phò Phò bán chạy như tôm tươi. Còn tôm tươi nhãn hiệu Ơ Mi Phò Phò bán chạy như bò điên mà Đường trưởng lão cưỡi. Các cửa hàng thời trang thi nhau lấy tên Ơ Mi Phò Phò, và đặc biệt những bộ quần áo màu đỏ ở đây luôn được mua hết sạch. Sư phụ Đường Tăng thì ngay lập tức được mời đi đóng quảng cáo Redbull. Còn ảnh của ngài lúc đang cưỡi bò thì được phóng to và treo đầy trên đường phố nơi có nhiều người qua lại. Facebook thì xuất hiện trang “Hội những người phát cuồng vì Đường trưởng lão hạ gục bò tót” với gần 2 triệu likes chỉ sau 3 ngày. Truyện kiếm hiệp, phim điện ảnh, hội họa lấy cảm hứng từ Đường Tam Tạng phất lên như cờ gặp gió. Và thế là cao tăng Đại Đường đã đứng đầu bẳng xếp hạng những người thống trị trái tim và tâm trí của người dân phương Tây chỉ sau một màn thoát y không thành.

Như các bạn cũng biết đấy, khi có người đứng đầu thì sẽ có kẻ phải đứng thứ hai. Và kẻ đó sẽ rất lấy làm ghen tức và căm thù khi bị truất ngôi từ một tên hòa thượng đầu trọc từ đâu đâu tới. Kẻ đó sẽ tìm đủ mọi cách để vươn lên trên bảng xếp hạng, nếu không vươn lên được vì quá kém cỏi thì kẻ đó sẽ nhất định dùng cách “không ăn được thì đạp đổ”. Kẻ đó chính là quỷ Satan, đã làm mưa làm gió trên bảng xếp hạng khi dùng nỗi sợ hãi để chế ngự trái tim và tâm trí con người. Và Satan đã biến hình thành một ông cha xứ đạo để dễ dàng tiếp cận Đường Tam Tạng.

Vào một ngày Chủ nhật hơi hơi đẹp trời, ông cha xứ đã mời hòa thượng nhà Đường ghé qua đàm đạo với mục đích chính là thăm dò đối phương để tìm cách triệt hạ. Khi cả hai đã an tọa, vị cha xứ cất lời chào hỏi:
– Xin kính chào ngài Đường Tam Tạng, rất hân hạnh được đón tiếp ngài ở đây!
– Ơ mi phò phò, xin kính chào ngài! Bần tăng đến từ Đông thổ Đại Đường mới qua quý quốc để xem thi đấu bò tót! Xin ngài có thể cho biết quý danh?
– Tôi tên là Satan. – Cha xứ ngập ngừng
– Ồ, tên của ngài làm bần tăng nhớ đến một người!
– Chuyện đó đã quá đỗi quen thuộc với tôi thưa Đường trưởng lão. Người ta ai ai nghe tên tôi cũng nghĩ tới quỷ Satan. Tôi nào đâu có chọn được cha mẹ!
– Cha xứ hiểu lầm rồi, người mà tôi nhớ tới là Sa Ngộ Tĩnh hay còn gọi là Sa Tăng – đồ đệ thứ ba của tôi. Còn tôi đã gặp rất nhiều yêu quái nhưng chưa từng biết tới quỷ Sa Tăng bao giờ!
Nghe đến đây ngài cha xứ kính mến cười thầm trong bụng: “Chưa đến trước kia thì giờ sẽ đến, mà bây giờ chưa đến thì sẽ đến mai sau!”
– Thưa cao tăng, ngài có thể nói cho tôi biết nội dung cốt lõi nhất trong tất cả những bộ kinh mà ngài đã thỉnh về từ Tây Trúc không ạ? – Satan hỏi.

– “Quỳnh hoa nở vẹn đầy.
Hương bay nơi xứ sở.
Mây nào che muôn thuở
Mặt trời và mặt trăng.”

– Dạ thưa, tôi ở đây nên không biết tới loài hoa quỳnh xứ ngài! – Cha xứ ngập ngừng nói.
– Nhưng ngài ở đây được biết con bò tót! – Đường sư phụ mỉm cười.

Satan bỗng nhiên thấy trong lòng mình biến chuyển lạ kì. Mọi thứ như nhẹ nhàng lâng lâng bay bổng sau câu nói của Đường sư phụ. Hắn thấy xúc động ghê gớm lắm chỉ chực trào nước mắt! Cả đời hắn chưa bao giờ có cảm giác này! Hắn lập tức quỳ gối xuống lạy sư phụ nhà Đường và mếu máo:
– Thưa sư phụ kính mến, tôi thật là đáng chết!
– Ai cũng cần phải chết thưa cha xứ!
– Tôi đã lừa dối ngài. Tôi chính là quỷ Satan thưa Đường trưởng lão! – Cha xứ cúi đầu sát đất.
– Ngài làm tốt lắm Sa Tăng! Hãy cùng chụp một kiểu ảnh ăn mừng nào! Say Peaceee!!! – Hòa thượng hân hoan.
– Nhưng tôi đã lừa sư phụ mà!
– Nếu muốn, ngài hãy cứ lừa tôi tiếp ngay bây giờ, còn không thì hãy để quá khứ lại!

Satan òa lên khóc nức nở như một đứa con nít bị lũ bạn cùng lớp mẫu giáo giật mất đồ chơi. Hắn ôm lấy chân sư phụ mà khóc như chưa bao giờ được khóc:
– Sư phụ ơi, người ta ai ai cũng ghét tôi, sợ hãi tôi và lấy tên tôi để đi dọa dẫm nhau vì tôi là quỷ Satan. Rồi họ đem tôi ra so sánh với Thiên Chúa. Rồi dùng tôi để tung hô Đức Chúa yêu thương và hi sinh. Thật là tội nghiệp cái thân tôi!

– “Này người bạn ơi hãy cứ khóc
Đừng kìm nén cho đến ngày mai.
Đời người ta chỉ như con lắc.
Giữa tốt- xấu, vui- buồn, đúng- sai.”
….

“Mây vui làm mây, hoa vui hoa
Mặc người ta ghét với đạp chà
Bồng bềnh mây lượn, hoa tỏa ngát.
Mây vẫn là mây, hoa vẫn hoa.”

Và tiếng khóc của Satan bỗng dưng im bặt để lắng nghe hạnh phúc dâng trào trong lòng. Sư phụ là người đầu tiên trên đời làm hắn xúc động đến vậy. Hắn không muốn lừa dối hay che giấu ngài điều gì. Satan thỏ thẻ giãi bày:
– Thưa Đường trưởng lão kính mến! Tôi vô cùng xúc động vì ngài đã làm cho tôi bừng tỉnh. Nhưng tôi vẫn còn một điều trăn trở đã từ rất lâu, đó là bên mông phải của tôi có một vết bớt màu đen hình ngọn lửa. Liệu cao tăng có biết đó là dấu chỉ gì chăng? Nó có phải là điềm báo cực kì xấu không?
– Thật thế ư?- Sư phụ rất đỗi kinh ngạc – Vậy mà tôi cứ nghĩ trên cõi đời này chỉ có mỗi mình tôi! Đó là dấu hiệu “Người được chọn”. Tôi có một vết màu vàng cũng hình ngọn lửa nhưng ở bên mông trái thưa ngài.
– Vậy tôi được chọn để làm gì thưa sư phụ ? – Satan bối rối.
– Ngài cũng như tôi và tất cả mọi người đều là “Người được chọn”. Được chọn để trở thành chính mình thưa ngài!

Và thế là cuộc viếng thăm đã diễn ra không như mong đợi của Satan lại mang đến nhiều điều thật tuyệt vời. Hắn không còn đau khổ dằn vặt nữa mà luôn sống là chính mình, cho dù đối với mọi người Satan có xấu xa và tồi tệ đến đâu đi chăng nữa. Đơn giản là hắn được làm những gì mình thích, cực kỳ thích. Sư phụ Đường Tăng sau khi đã được thỏa mãn mơ ước là được xem bò tót đấu với người thật mà chính ngài lại là người đó, ngài đã quay trở về Đông thổ Đại Đường với nặng một vali tiền ngoại tệ được trả từ quảng cáo Redbull. Về đến nơi sư phụ kính mến đã phát hiện ra chiếc áo cà sa lấp lánh ánh vàng của ngài đã bị đánh tráo bởi một cái áo cà sa lấp lánh lòe loẹt. Và ngay ngày hôm sau báo chí Tây Ban Nha đã rầm rộ đưa một tin rất dài và sốc kèm theo ảnh “Đường Trưởng lão đã thoát y ở giữa sân đấu bò tót để lộ ra vết bớt màu đen hình ngọn lửa ở mông phải”.

 

Vũ Thanh Hòa

Chờ một cặp I – You

Featured Image: Stuart Seeger

 

Có một điểm nhỏ mình muốn nói về cách xưng hô của người Việt. Nhỏ nhưng… rất “phức tạp”! Những gì được nói ra có thể không mới, nhưng cũng không cũ.

Người Anh có thể xưng hô I – YOU với bất kỳ ai, không phụ thuộc tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị. Người Trung Quốc – nước phong kiến Trùm Sò trong lịch sử Á Đông, cũng có những từ xưng hô tương tự I – YOU (rất tiếc không biết nó viết như thế nào)! Vậy mà Việt Nam mình thì không! Bạn tuyệt đối không thể xưng hô “Tôi – Ông” với những người bề trên trong dòng họ của mình, nếu không muốn bị trẹo quai hàm.

Trong tiếng Việt không có những từ cùng nghĩa với I – You. Bằng chứng là khi dịch I và YOU sang tiếng Việt, người dịch phải sử dụng một loạt các từ có ý nghĩa na ná như nó (song không phải nó): “cô – cháu, ông – tôi, tao – mày, con – bố, đằng ấy – mình”, .v.v…

Mình cảm thấy, hai từ I – You hoàn toàn chỉ dùng để phân biệt hai đối tượng giao tiếp: chủ thể và khách thể. Còn trong tiếng Vỉệt, cách xưng hô không những phân biệt hai người đang nói chuyện, mà còn định rõ thứ bậc của họ.

Khi nói chuyện với mẹ, một đứa bé người Anh có thể gọi Mom một lần, sau đó có thể liên tục gọi YOU, thì đứa trẻ Việt Nam cần phải gọi “mẹ” liên tục từ đầu đến cuối.

Từ vấn đề xưng hô này, kéo theo những vấn đề khác, rất phức tạp

Chẳng hạn, bạn – một nam thanh niên – bước vào cửa hàng ABC và gặp một phụ nữ trát đầy phấn đứng sau quầy. Bà ấy sử dụng phấn son vừa là để giảm đi những nếp nhăn vốn dễ gây khó chịu cho khách hàng, vừa là một nỗ lực vô vọng hòng chiến đấu với thời gian. Bạn phải xưng hô ra sao? Gọi họ là “chị” để làm họ hạnh phúc với ý nghĩ: nỗ lực cải tạo nhan sắc của họ đã có hiệu quả!? Hay gọi họ là “cô” để họ không cảm thấy bị xúc phạm?… Theo kinh nghiệm của mình, cứ gọi là cô cho chắc ăn. Lý do không phải từ phía họ, mà từ phía chồng của họ. Hãy cẩn thận nếu ông ấy đứng sau quầy!

Nếu một người con trai trông thấy một cô gái hấp dẫn nhưng lớn hơn mình 5, 6 tuổi. Ý nghĩ phải gọi đối phương là chị sẽ làm tịt hết mọi ước vọng viển vông của anh ta. Nếu gọi cô ta là “em” cho dễ tán, anh chàng này có thể sẽ phải nhận một ánh mắt kỳ thị và ý nghĩ “râu xanh, bệnh hoạn” từ cô gái (tất nhiên không phải lúc nào chuyện cũng xảy ra như thế).

Hay khi bạn là con gái, học đại học năm thứ tư, chưa yêu và rất sợ già! Bạn đến ký túc xá và duyên số run rủi bạn gặp phải một em trai học năm nhất, trẻ trung, hài hước, ga-lăng, đồng thời đẹp trai đến vô vọng! Bạn đổ từ cái nhìn đầu tiên! Nhưng nếu em nó gọi bạn là chị, thì cơ hội của bạn hoàn toàn chấm dứt. Giả như tiếng việt có I – YOU có phải hay không!?

Như vậy cách xưng hô đầy đẳng cấp của Việt Nam đã làm mất đi cơ hội của bạn

Rồi bạn ra trường. Sau bao năm phấn đấu, bạn thành đạt. Tất cả mọi người đều tôn trọng bạn. Trong một lần về quê, một đứa nhóc khoảng 10 tuổi gặp bạn ở trên đường. Nó biết bạn vì bạn quá nổi tiếng. Và, nó chào bạn một cách thân mật, đầy tình họ hàng: “Mày mới về hả Giang!” (Giả sử tên bạn là Giang). Bạn ớ người, hỏi lại nó: “Cháu là con nhà ai mà lại gọi bác như thế?”. Thằng bé cười sằng sặc: “Bác gì! Chị gái mày lấy thằng cháu gọi tao bằng ông trẻ đấy!” Tình trạng trẻ con đè đầu người lớn, ở nông thôn, không phải hiếm!

Một ví dụ khác: Bạn bằng tuổi nó. Theo dòng họ (họ xa), bạn là anh nó. Nhưng vợ bạn phải gọi nó bằng chú (vợ bạn có “họ gần” với nó). Vậy thì, bạn sẽ xưng hô như thế nào? Và sẽ như thế nào nếu nó nhân cơ hội đó bắt bạn trở thành đứa cháu bé nhỏ?

Vân vân và vân vân…

Chính sự phức tạp trong xưng hô khiến nhiều người đàn ông nói dối về tuổi thật của họ, để được bạn bè anh em kính trọng trên bàn rượu. Thậm chí, sự phân tranh xem ai là anh, ai là em có thể khiến người ta ốp nhau vỡ đầu chảy máu!

Cũng chính nó làm những người phụ nữ, vốn sợ già, phải đối mặt với tuổi tác của mình. Dù trong xã hội ta, xu hướng tránh hỏi tuổi của phụ nữ – như một phép lịch sự – có lan rộng đi chăng nữa! Hỏi bà ấy bao nhiêu tuổi và gọi bà ấy là “bác” thì cũng có khác nhau là mấy đâu.

Nói chung, cách xưng hô của người Việt rất phức tạp và khó sử dụng ngay cả với người Việt Nam. Sơ xuất một chút trong xưng hô có thể làm người khác tự ái nghiêm trọng.

Không hề hỗn xược khi xưng hô I – YOU với cha mẹ và người lớn tuổi, vì I – YOU không đồng nghĩa với “Mày – tao” hay “Tôi – ông”. I – YOU là tất tổng của tất cả các đại từ xưng hô cộng lại, trừ đi sự phân biệt cấp bậc, vai vế trong giao tiếp.

(I, YOU) = (cô + dì + chú + bác + bố + mẹ + ông + bà + cháu + con + anh + em + n…) – (thứ bậc, vai vế)

Nói cách khác I – You là cách xưng hô bình đẳng. Bình đẳng ở chỗ, dù ta đứng trên hay đứng dưới, hơn tuổi hay ít tuổi so với nhau, xét cho cùng, chúng ta vẫn là những CON NGƯỜI, với cùng những quyền và giá trị người không hề hơn kém nhau. Với nền tảng đó, chúng ta có quyền nói chuyện với nhau không cần cấp bậc, địa vị. Chỉ đơn giản là con người nói chuyện với con người.

Trong tiếng Việt không thể tìm thấy những từ tương tự như I và You. Cách xưng hô của người Việt hoàn toàn lệ thuộc vào vai vế, là cách xưng hô thiếu tự do. Đến bao giờ mới có một cặp I – YOU cho người Việt Nam? Có thể là không bao giờ. Trừ khi người Việt chuyển hẳn sang dùng những thứ tiếng “dễ xưng hô” như Tiếng Anh. Tất nhiên gần như chẳng người Việt Nam nào muốn thế…

Vậy, giả sử có một cụm I – YOU cho tiếng Việt, người ta sẽ tự hỏi: sự tôn trọng nằm ở đâu? Bởi vì xưng hô đúng thứ bậc là thể hiện sự tôn trọng với người đối diện. Thực sự thì sự tôn trọng còn được biểu hiện ở nhiều từ ngữ khác, sắc thái khác trong ngôn ngữ. Và sự tôn trọng còn được biểu hiện ở hành động.

 

Vũ Kenzo

Tiền bạc

Featured Image: cat klein

 

Tiền là gì nhỉ?

Là những đồng xu, những tờ giấy ta có thể mua được thứ ta cần để sống, sống vui, sống khỏe, sống chất lượng.

Tiền chỉ là tiền, không phải tiền là Tiên là Phật, là sức mạnh vô biên gì sất. Tiền cũng chẳng mang tới cho ta hạnh phúc. Cảm giác về sức mạnh hay sự bạc bẽo, niềm hạnh phúc hay đau khổ mà đồng tiền mang lại cho ta chính là tự chính con người chúng ta mà ra.

Tiền là vật ngoại thân, nó không làm nên giá trị con người khi chúng ta sở hữu thật nhiều tiền. Giá trị con người ở chính trong con người, là khả năng, trí tuệ, nhân cách, tâm yêu thương… trong đó bao gồm khả năng kiếm được nhiều tiền. Những người cảm thấy hạnh phúc khi có nhiều tiền, khi mua được những món đồ, những dịch vụ họ muốn là do chính họ có khả năng kiếm tiền và khả năng khiến đồng tiền làm cho họ hạnh phúc, chứ không phải do đồng tiền mang tới.

Tiền là phương tiện trao đổi trong đời sống để chúng ta sống sót và làm những thứ giúp chúng ta sống hạnh phúc. Vì vậy, tiền là thứ quan trọng, nhưng tiền không phải là tất cả, chi phối tất cả trong đời sống chúng ta.

Nếu nghĩ về tiền đúng như bản chất của nó, không thần thánh hóa, cũng không khinh miệt nó, thì chúng ta sẽ không phải quá vật vã vì nó, đồng thời cũng không rơi vào tình trạng không kiểm soát được sự thống trị của nó mà để nó kiểm soát mình.

Nếu bạn chỉ có thể kiếm được số tiền đủ để sống sót, tồn tại, điều đó chỉ có thể là  bạn thực sự không có nhu cầu kiếm nhiều hơn. Có thể bạn cho rằng chỉ cần sống sót là hạnh phúc của bạn rồi, hoặc là bạn mặc định rằng mình hoàn toàn không có khả năng kiếm tiền. Hiển nhiên là bạn sẽ chẳng cố gắng gì và chắc chắn cũng chẳng có phép màu gì để tự nhiên tiền chạy vào túi bạn được, trừ phi bạn được trúng số hoặc được thừa kế.

Không ai sinh ra trên đời đã bị đóng khung rằng: “Bạn không có khả năng kiếm tiền“ cả. Ai cũng có thể có khả năng kiếm tiền, mức độ ít hay nhiều, khó hay dễ tùy thuộc vào cách người đó nghĩ về tiền quan trọng thế nào, cách người đó say mê và kiên nhẫn kiếm tiền thế nào mà thôi.

Tiền không đến với những người có khả năng mà lười biếng. Tiền cũng không ở lâu với những người không biết quý trọng đồng tiền. Tiền dễ đến thì dễ đi. Bạo phát thì bạo tàn.

Tiền quan trọng thật, nhưng nếu bạn thần thánh hóa nó thì tới một lúc nào đó, bạn sẽ trở thành nô lệ cho chính ông chủ tiền của bạn. Đó chính là những người quan niệm về đồng tiền không đúng, dẫn đến sẽ dễ mắc sai lầm trong cách kiếm tiền. Họ sẽ cố kiếm tiền bằng mọi giá, chấp nhận làm những việc xấu xa, bán linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy những đồng tiền không trong sạch, nếu không muốn nói là đồng tiền tội lỗi. Tiếc thay xã hội luôn luôn tồn tại không ít những con người thế này. Kể cả những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn tới xã hội.

Có những người có trí tuệ cực kỳ giỏi giang, nhưng cũng không kiếm được nhiều tiền. Đó có thể là trí tuệ của họ mới là trí tuệ tĩnh, trí tuệ sách vở, lý thuyết, chưa phải trí tuệ động, nghĩa là trí tuệ phải biến thành hành động tạo ra giá trị, tạo ra tiền.

Có những người trí tuệ bình thường, nhưng họ lại có khả năng sử dụng những người trí tuệ giỏi để tạo ra tiền cho họ. Đây mới là những người thực sự thành công, khi kết hợp được giữa trí tuệ và hành động thực tiễn đem lại cho họ thành quả mong muốn. Cũng giống như đồng tiền nằm trong két nhà bạn là đồng tiền tĩnh, gọi là đồng tiền chết cũng đúng. Còn đồng tiền biết sinh sôi nảy nở, là tiền nằm trong ngân hàng, tiền chạy trong hoạt động kinh doanh, đầu tư… là đồng tiền động, đồng tiền sống.

Những người kiếm được rất nhiều tiền, trừ những người trúng số và được hưởng thừa kế nhé, chắc chắn họ là những người lao động cật lực, có đam mê kiếm tiền và có đầu óc thực tiễn biến lý thuyết, biến ý tưởng thành tiền nắm được trong tay.

Lao động cật lực không có nghĩa là từ sáng sớm tối mịt bạn luôn chân tay, đầu óc làm việc không ngơi nghỉ, mà bạn cần phải biết cách làm việc. Trước khi bắt tay vào kiếm tiền, bạn hãy tìm ra khả năng, thế mạnh và niềm đam mê của bạn là gì, kế hoạch của bạn thế nào, bạn sẽ thực hiện những mục tiêu gì trong ngắn hạn, dài hạn… và hãy bắt đầu kế hoạch kiếm 1 tỷ đồng đầu tiên của bạn từ hôm nay nhé. Kiếm tiền, chưa bao giờ là muộn với bất kỳ ai cả.

Kiếm được 1 tỷ đồng đầu tiên trong đời là việc khó, nhưng đã có nhiều người làm được, có người làm được từ khi còn rất trẻ. Người ta làm được, chắc mình cũng sẽ làm được, phải không nào.

Mỗi người chúng ta đều có mục tiêu, sứ mệnh riêng của mình. Tìm ra sứ mệnh của mình và đạt tới mục tiêu cuộc đời, đó là niềm hạnh phúc viên mãn cho bất kỳ ai trên đời. Trên con đường đó, chắc chắn chúng ta sẽ nhiều lần tự vấn về tiền: “Rốt cuộc tiền là gì, tiền có ý nghĩa gì với ta, ta muốn có nhiều tiền hơn, đúng hay không…“

Kiếm được tiền bằng khả năng, bằng sự sáng tạo, say mê và tạo ra giá trị cho xã hội, với lương tâm trong sáng, luôn là một khao khát chính đáng và một giấc mơ đẹp đẽ cho con người trong mọi thời đại.

Một khi bạn xác định đồng tiền đúng với bản chất của nó, bạn trân trọng đồng tiền mồ hôi công sức của bạn, bạn sử dụng đồng tiền kiếm được đúng như vai trò của nó là phương tiện đem đến cho bạn một cuộc sống, chất lượng, hạnh phúc. Tôi tin bạn là người hạnh phúc và bạn kiếm được nhiều tiền.

Bạn và tôi, những người được sinh ra trên đời đã là một điều may mắn, hãy cầu chúc cho chúng ta có sức khỏe, nắm được cơ hội kiếm được 1 tỷ đồng, nhiều tỷ đồng…và luôn là ông chủ của tiền bạc. 🙂

 

Julia Le

Có giọt sương nào không sinh ra bởi đêm ?

Photo: Noah Weiner

 

Có giọt sương mềm trên nhành cây khô ráp ?
Hay giọt sương khô ráp trên nhành cây yếu mềm ?

Có giọt sương nào không sinh ra bởi đêm ?!
Dẫu là đêm của trời – khi vầng dương say ngủ
Hay là đêm của đời – khi bình yên không đủ
Thì sương vẫn sinh ra… thì sương vẫn sinh ra…

Có những giọt sương mang thương nhớ thiết tha
Có những giọt sương mang đớn đau quằn quại
Có những giọt sương để nuôi đời hoa dại
Có những giọt sương… chỉ là những giọt sương…

Vậy có giọt sương nào không phải là sương ?
Có nhớ thương nào không đớn đau quằn quại ?
Có loài hoa nào chưa từng là hoa dại ?
Có màn đêm nào không để lại giọt sương ?

Sao nhành cây kia ôm giọt sương bình thường
Rất mong manh vẫn êm dường như mộng ?
Cớ sao ta từng ôm đời dài rộng
Giờ lại ôm giọt-sương-khô-khốc-và-bi-thương ?

Ta sẽ học theo nhành cây bình thường
Để có thể ôm giọt sương mềm mại
Ta sẽ học theo những loài hoa dại…
Sống cũng nhờ sương !
Đẹp cũng nhờ sương !

 

The Kid Falling From Heaven

Đọc sách

Featured Image: Daniel

 

Một trong những đam mê lớn nhất trong đời của tôi là đọc. Hầu như toàn bộ thời gian trong ngày của tôi, lúc nhỏ, ngoài việc học, là đọc; lớn lên, ngoài việc đi dạy để kiếm sống, và sau đó, viết lách, cũng dành cho việc đọc. Đọc, với tôi, là một lạc thú không thể thay thế được.

Hồi nhỏ, tôi đọc tất cả những gì tôi có; lớn lên, tôi đọc những gì tôi thích; sau này, khi tôi viết nhiều, hầu như tôi chỉ đọc những gì mình cần. Đọc cái mình có là cái thú của người thưởng ngoạn nhưng nghèo; đọc cái mình thích là cái thú của người thưởng ngoạn khá dư dật; còn đọc những thứ mình cần là cái thú của người nghiên cứu, ở đó, lạc thú có khi không nằm ở việc đọc mà nằm chủ yếu ở việc viết, ở việc chuyển hoá cái của người khác thành cái của mình; một thứ lạc thú khá thực dụng. Đọc như một người thưởng ngoạn là phiêu du vào một thế giới khác, ở đó, người ta tự đánh mất mình bao nhiêu thì càng thích thú và càng trở thành giàu có bấy nhiêu; đọc như một nhà nghiên cứu là tham gia vào một cuộc thu hoạch và biến chế, ở đó, càng tiếp nhận và tiêu hoá được bao nhiêu người ta càng sung sướng và trở thành giàu có bấy nhiêu.

Hồi nhỏ, tôi thích tất cả những cuốn sách nào thỏa mãn được sự tò mò của mình; lớn lên, tôi thích những cuốn sách gợi cho tôi cảm giác đồng điệu; sau này, tôi thích những cuốn sách mang lại cho tôi những gì thật mới mẻ, hơn nữa, tôi đặc biệt say mê những cuốn sách xuất hiện dưới mắt như một đối thủ hạ gục tôi ngay tức khắc: Đọc, thoạt đầu, tôi có cảm giác không hiểu gì cả; sau, nhận thức được là mình chưa hoặc không bao giờ viết được như vậy. Cảm giác thua trận, trong việc đọc, vừa có một chút buồn rầu lại vừa có chút ngây ngất khi ngước nhìn lên những đỉnh núi thật hùng vĩ và cao tít tắp, lúc ấy, gần như toàn bộ niềm vui đều nằm ở chỗ: cố trèo lên đỉnh núi ấy. Độ cao của núi trở thành một thách thức. Trèo được chừng nào vui chừng ấy.

Liên quan đến việc đọc, nhiều lúc tôi cảm thấy ghen tị với bạn bè và đồng nghiệp người Úc: Hồi nhỏ, cả hai cùng mê đọc sách như nhau, cùng đọc một số lượng sách giống nhau, nhưng trong khi các bạn tôi, những người nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ nhất, có thể đọc được vô số những cuốn sách hay, không những hay mà còn lớn, không những lớn về phương diện nghệ thuật mà còn lớn về phương diện tư tưởng, những tác phẩm được xem như những điển phạm trong phạm vi toàn cầu: với chúng, người ta có thể tự hào là có kiến thức; còn tôi thì chỉ mê mải đọc cả hàng ngàn cuốn sách nho nhỏ nhàn nhạt, như những ca khúc cải lương, chỉ thay đổi lời chứ không thay đổi điệu: Với chúng, thú thực, tôi cũng chả biết dùng làm gì.

Nói cách khác, dễ hiểu hơn: Đọc Shakespeare, chẳng hạn, người ta có thêm một cái gì đó có thể sử dụng cả đời; đọc Kim Dung, Quỳnh Dao hay hầu hết các tác giả viết feuilleton trên báo chí miền Nam ngày trước, chúng ta chỉ được một chút quên lãng, nghĩa là chỉ mất thì giờ.

Mỗi lứa tuổi nên có một loại sách thích hợp. Có những cuốn sách nên đọc lúc trẻ và có những cuốn sách nên đọc lúc đã lớn tuổi. Nhiều lúc tôi cảm thấy may mắn là lúc nhỏ, những năm đầu tiên của trung học, tôi đã đọc gần hết sách của Tự Lực văn đoàn và Thơ Mới. Nếu đọc muộn hơn, sẽ chỉ thấy đèm đẹp, càn cạn và nhàn nhạt. Nhưng nếu ở lứa tuổi ấy mà không đọc chúng, hoặc chỉ đọc những “Con trâu” (Nguyễn Văn Bổng) hay “Người mẹ cầm súng” (Nguyễn Thi) hay thơ Tố Hữu thì tâm hồn sẽ mất đi rất nhiều thứ, ít nhất là những mơ ước thật trong sáng và những mơ mộng thật nhẹ nhàng.

Ngày xưa, có câu nói của ai đó đã thành danh ngôn: “Họ chỉ sợ những người đọc một cuốn sách.” Có lẽ đó chỉ là một cách nói. Sự thật, không có ai hiểu một cuốn sách, dù chỉ ở mức vừa phải, nếu chỉ đọc một cuốn đó thôi. Người ta phải đọc cả ngàn cuốn sách mới hiểu được sâu sắc cuốn sách đầu tiên họ đọc. Lý do là cuốn sách nào cũng có tính liên văn bản: Nó có hàng ngàn sự nối kết chằng chịt với các cuốn sách khác. Chỉ dừng lại một cuốn sách không khác gì cảnh bị ở tù. Lại là tù biệt giam. Trong hầm kín.

Bởi vậy, tôi rất ngạc nhiên khi nghe, không phải một lần mà là nhiều lần, không phải từ một người mà từ nhiều người: Một số nhà văn lớn tuổi thường khuyên các nhà văn trẻ tuổi hơn là đừng đọc nhiều quá. Hai lý do thường được nêu lên là: Một, đọc kỹ một vài cuốn sách thì dễ có cơ hội đi sâu hơn là đọc cả hàng chục, hay hàng trăm, thậm chí, hàng ngàn cuốn sách; và hai, đọc nhiều quá sẽ bị ảnh hưởng từ người khác, do đó, sẽ đánh mất bản sắc riêng của mình. Xin nói ngay hai điều: Một, những lời khuyên kiểu ấy, tôi chỉ nghe từ giới cầm bút người Việt; ở Tây phương, có lẽ không có ai nói vậy; và hai, theo quan sát và đánh giá của tôi, những nhà văn thường đưa ra lời khuyên ấy đều lớn tuổi nhưng không phải là những tài năng lớn; tất cả các tác phẩm của họ đều khá nghèo nàn, hơn nữa, đều chịu ảnh hưởng nặng nề của những khuynh hướng cũ mèm chứ không có gì là của riêng họ cả.

Ở Tây phương, ngược lại, hầu như mọi người đều khuyên giống nhau: Để viết hay, trước hết, hãy đọc. Không có nhà văn lớn nào mà không đọc nhiều. Thử đọc các bài phê bình và tiểu luận của các nhà văn và nhà thơ lớn ở Tây phương thì thấy ngay: Họ không những nhạy cảm và có khả năng diễn đạt giỏi mà còn có kiến thức rất rộng và óc phân tích rất cao. Bởi vậy, nhiều người trong họ không phải chỉ là những người sáng tác mà còn được nhìn nhận như những nhà phê bình và lý thuyết gia xuất sắc. Tất cả những điều đó đều đến từ việc đọc.

Nhớ, nhà văn Phạm Thị Hoài, đâu đó, có nêu lên một ý mà tôi rất thích: Ở thời đại toàn cầu hóa như hiện nay, một nhà văn không có quyền cáo lỗi với độc giả về việc không biết các đồng nghiệp của mình trên thế giới nghĩ gì và viết gì. Lại nhớ Susan Sontag, đâu đó, có nói một ý rất hay: “Một nhà văn, trước hết, là một độc giả. Chính từ việc đọc mà tôi rút ra được những tiêu chuẩn để dựa vào đó tôi đánh giá các tác phẩm của chính tôi và cũng theo đó, tôi buồn bã nhận thấy tôi còn quá thấp. Cũng chính qua việc đọc, tôi trở thành một phần trong một cộng đồng văn học vốn bao gồm nhiều nhà văn đã mất hơn là những người còn sống.”

 

Nguyễn Hưng Quốc

Tại sao tôi đọc tiểu thuyết?

Với tôi văn học và điện ảnh gần gũi nhau lắm, nên tôi mạo muội gửi vào đây bài “Tại sao tôi đọc tiểu thuyết”, nếu sửa lại là “Tại sao tôi xem phim” có lẽ cũng được.

Nếu tiểu thuyết lúc nào cũng hấp dẫn, dễ đọc thì câu hỏi trở nên thừa. Các con tôi không bao giờ hỏi tại sao người ta ăn kem cây. Chúng chỉ hỏi tại sao lại ăn những thứ chúng cho là không hấp dẫn. Con gái tôi cho rằng người ta không cần trồng rau cải hay nuôi cá tôm làm gì, vì con người có thể sống hoàn toàn hạnh phúc nhờ mỗi ngày ăn một bình kẹo dẻo. Tôi giải thích: ăn cà rốt sáng mắt, ăn rau dền luộc bổ máu…

Tại sao không dừng lại ở những cuốn sách đọc dễ như ăn kẹo dẻo, như Tề thiên đại thánh và Harry Potter. Tìm những cuốn sách ít hấp dẫn hơn để làm gì?

Vì đọc tiểu thuyết có lợi ích, giống như ăn rau dền luộc bổ máu?

Chúng ta làm một việc gì đó chỉ khi nào biết được nó có lợi vào việc gì thôi sao?

Ngôn ngữ của chúng ta có một giới từ rất thông dụng là từ “để”. Học bài để thi đậu, đi làm để kiếm tiền, giao tiếp xã hội để có người quen mà nhờ vả, đi du lịch để mở mang kiến thức, nghe bài Cô Thắm về làng để thư giãn. Tôi nghĩ rằng gắn được vế sau của mỗi câu ở phía sau chữ “để” cho mỗi việc tôi làm là tôi có được mục đích lớn của cuộc đời: nó là tổng số của những mục đích nhỏ xíu và nhỏ vừa, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm.

Cho đến một hôm, một người bạn cho rằng tôi không biết sống trong hiện tại. Tôi sống, cùng lắm, chỉ được một nửa. Tôi nói: “Sống mới một nửa mà đã quá khó, sống trọn làm sao làm nổi?” Người bạn hỏi tôi: “Đứng một chân và đứng hai chân, cái nào khó hơn?”

Tôi về nghĩ lại.

Cuộc sống tôi là một chuỗi hoạt động đuổi theo những mục đích ở phía trước. Cuộc đời xảy ra vào ngày mai. Không bao giờ có hôm nay. Không bao giờ có sự ung dung trong hiện tại. Hình như lúc nào tôi cũng đang cố giữ thăng bằng, tôi như người đứng một chân thật.

Ngày chúng tôi còn nhỏ, khi học sinh vật, học về một con thú hay một loại cây nào đó, sách giáo khoa thời trước luôn luôn dạy cho chúng tôi chúng có ích cho chúng ta ra sao. Con chồn cho thịt và lông, con voi kéo gỗ và cho ngà, gỗ bằng lăng dùng làm nhà, cây cầy, bần, đước thì làm than. Chúng tôi chỉ quan tâm đến vạn vật ở chỗ chúng phục vụ được những mục đích nào của con người mà thôi. Cuối cùng phải đến lúc rừng mất và thú tuyệt chủng. Nếu người ta nghĩ rằng trời sinh ra cái cây là vì cái cây, con voi là vì con voi và để yên cái cây và con voi được ở nơi trời sinh ra nó, thì sẽ còn rừng giữ đất, giữ không khí sạch, ngăn lũ xuống đồng bằng.

c tiểu thuyết 3Ảnh: Mysticsartdesign 

Để sống trọn vẹn hơn, theo người bạn học thiền của tôi, khi nói câu nào chỉ cần bỏ đi chữ “để” và cái vế đi sau đó. Đọc sách chứ không phải đọc sách để tích tụ kiến thức cho ngày mai. Nhìn trăng chứ không phải nhìn trăng để tâm hồn thư giãn. Để tâm hồn thư giãn không có gì sai, nhưng nó giới hạn sự nhìn trăng, cũng như đi tìm kiến thức trong một quyển sách loại bỏ những thứ khác trong quyển sách đó không được định nghĩa là kiến thức.

Một hôm, không ai dạy bảo, con tôi tự nhận ra rằng ăn rau lang luộc chấm tương cự đà ngon hơn ăn kẹo dẻo. Con người tự biết rằng các món ngọt ngào, dễ ăn không thôi không đủ nuôi sống mình. Người ta không chỉ cần có Tề thiên đại thánh và Harry Potter.

Tôi đọc tiểu thuyết vì tiểu thuyết không mang mục đích gì cả, nhờ vậy việc đọc của tôi thuần khiết. Trong một bức thư không gửi cho một nhà văn cùng thời vào năm 1865, Tolstoy viết:

“Nếu có ai bảo tôi viết một cuốn tiểu thuyết trong đó tôi khẳng định một cách tuyệt đối cái mà tôi cho là quan điểm đúng cho tất cả các vấn đề xã hội, thì quyển tiểu thuyết đó không đáng để tôi dành ra hai tiếng đồng mà viết nó.”

Nếu cầm một cuốn sách lên, đọc được một lúc, tôi nhận ra được ý đồ của tác giả, thì tôi không còn tin quyển sách ấy nữa. Tôi có ngay cảm giác là câu nào, cảnh nào người viết cũng đưa vào để phục vụ cho cái ý đồ ấy, để khẳng định một quan điểm. Khi đọc một cuốn tiểu thuyết, tôi chỉ muốn được nghe kể chuyện mà thôi. Câu chuyện có đầu có đuôi hoặc thiếu đầu hoặc thiếu đuôi hoặc thiếu cả hai cũng không sao. Nhưng đừng hơn như vậy. Tolstoy cho rằng trong thế giới của nghệ thuật không có chỗ để chứa các công thức giải quyết những vấn đề xã hội.

Kho tàng triết lý của loài người nằm trong các tác phẩm văn học nhiều hơn trong những cuốn sách triết. Nhưng triết trong tiểu thuyết không có hệ thống, không khẳng định, nó bàng bạc giữa có và không, và nó tùy thuộc rất nhiều vào người đọc. Triết trong văn học là những đám mây trên trời, người đọc ngước nhìn và tự tả cho mình: đám mây này hình con thỏ, kia là ông khổng lồ, còn đây là ông câu cá, có cả chiếc thuyền con của ông ấy. Nếu người đọc nhìn mây không thấy ông khổng lồ và ông câu cá thì cũng chẳng sao, mây vẫn là mây, vẫn đẹp và nhất là nhẹ nhàng.

c tiểu thuyết 2Ảnh: Mysticsartdesign 

Người viết sách triết tìm cách hoàn tất một hệ thống tư tưởng chặt chẽ. Trong cuốn sách triết nào, phần kết luận cũng là phần quan trọng nhất. Còn người viết tiểu thuyết chỉ kể một câu chuyện, lang thang giữa vùng sáng và vùng tối của trái tim con người, đôi lúc phân vân không biết viết bao nhiêu thì đủ, bao nhiêu thì thừa. Cái khó trong một bức tranh là những nét không vẽ chứ không phải những nét được vẽ xuống khung vải. Sự khẳng định làm chết nghệ thuật. Những câu nào người viết còn được viết ra không khó bằng những câu phải để trống để cho nó tự thành hình trong đầu hay trong tim người đọc. Một cuốn tiểu thuyết hay, giống như cuộc đời, không bao giờ hoàn tất.

Tiểu thuyết, trong khi không mang mục đích thông tin, chuyên chở kiến thức, lại làm cho ta hiểu về con người, về lòng tin, nơi họ sống, lịch sử, thời tiết, mùa màng… sâu hơn những sách chuyên đề. Cơ quan nhi đồng của Liên hiệp quốc có thể thống kê về số trẻ con được sinh ra trong một năm nào đó ở một nơi nào đó ở Phi châu, số trẻ con đau yếu, được chữa bệnh hoặc không được chữa, chế độ dinh dưỡng của chúng, được đến trường, học nghề hay đi cuốc đất. Đọc những bài viết tỉ mỉ đó, bạn không biết một đứa trẻ khi làm vỡ một cái bát nó có bị đòn hay không; miếng thịt hiếm hoi trong bữa cơm gia đình vào miệng người cha hay đứa con ốm yếu nhất; khi buồn khổ đứa nhỏ úp đầu vào lòng mẹ hay đến ngồi bên một gốc cây; nó mơ những gì và kể giấc mơ của nó cho một cái tượng gỗ, đứa em gái hay là những ngôi sao? Nhà xã hội học có thể cung cấp cho bạn trăm nghìn con số tiêu biểu cho trẻ con ở Phi châu, nhưng qua những con số đó bạn không nhìn thấy một gương mặt, một kiếp sống, một hy vọng nào.

Bức tranh càng tiêu biểu, thì cây cỏ trong đó càng mờ nhạt. Nhà văn, trái lại, không biết những con số. Anh ta có một câu chuyện về một đứa bé và một nỗi buồn không đếm được bằng số. Anh ta thức đêm đốt đèn để viết câu chuyện ấy ra, không biết để làm gì.

Tác giả: Đoàn Minh Phượng

*Featured Image: josealbafotos 

Câu chuyện “Tôi chúc bạn thật đủ!”

Featured Image: Jaky Astik

 

Lần đầu tiên tôi nghe được “Chúc bạn đủ” là qua câu chuyện “Ba chúc con đủ” trong một tập nào đó của bộ Hạt Giống Tâm Hồn. Khi đó, tôi rất ấn tượng với cảnh chia tay của hai cha con, với cách họ truyền đời câu chúc “Ba chúc con đủ!” và với cả đoạn giải thích mà người cha giải thích cho anh thanh niên lạ:

“Ba chúc con đủ ánh sáng mặt trời để giữ cho tâm hồn con trong sáng. Ba chúc con đủ hạnh phúc để giữ cho tinh thần con luôn sống. Ba chúc con đủ những nỗi đau để biết yêu quý cả những niềm vui nhỏ nhất. Ba chúc con đủ những gì con muốn để con hài lòng. Ba chúc con đủ mất mát để yêu quý những gì con có. Và ba chúc con đủ lời chào để có thể vượt qua được lời “tạm biệt” cuối cùng.”

Khi người cha già quay lưng bước đi, may mắn thay anh thanh niên đã kịp với theo và nói rằng “Tôi chúc ông đủ.” Và cũng như anh thanh niên nọ, từ ngày đó, tôi luôn giữ thói quen chúc những người xung quanh mình đủ. Tôi chẳng cần mong họ quá thừa thãi để nhường cho mình chút giàu có, chút may mắn hay chút yêu thương; tôi không mong như vậy. Tôi chúc họ như vậy với mong ước duy nhất, một nỗi niềm mà tôi luôn cất giấu trong tất cả những câu “Chúc bạn thật đủ!” được gửi đi, được đánh máy, được viết tay hơn chục năm qua.

Tôi chúc bạn tôi thật đủ để mong rằng họ sẽ đủ thất bại để nhận ra giá trị của thành công.

Tôi chúc bạn tôi thật đủ đau khổ để họ biết trân trọng hạnh phúc ngay trước mắt, hạnh phúc trong hiện tại và hạnh phúc với những người đang yêu thương họ.

Tôi chúc bạn tôi thật đủ đói rét để họ biết cách gìn giữ những phút giây no ấm.

Tôi chúc bạn tôi thật đủ mệt mỏi để họ biết cách tận hưởng những giây phút thư giãn cùng gia đình.

Tôi chúc bạn tôi thật đủ bề bộn để biết trân trọng những khoảnh khắc bình yên.

Tôi chúc bạn tôi thật đủ may mắn, cũng chúc họ đủ thành công, đủ hạnh phúc.

Có lẽ còn nhiều hơn thế nữa, tôi không mong họ luôn vui vẻ, bởi chỉ có kẻ điên mới không biết buồn, tôi cũng chẳng mong họ mãi mãi may mắn vì chẳng ai sống được một đời như Xuân Tóc Đỏ, tôi lại càng không mong chờ họ quá hạnh phúc, vì cuộc đời ai cũng vậy, đều phải đi qua thất tình gồm hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố và dục; nếu lỡ may bạn luôn luôn hạnh phúc thì một ngày nào đó bạn cũng sẽ phát trả lại cả gốc lẫn lãi những niềm vui, những hạnh phúc bạn đã lỡ vay mượn của cuộc đời.

Ban đầu là vì ảnh hưởng chút ít bởi câu chuyện “Ba chúc con đủ!” mà tôi dùng khá nhiều từ “đủ” mỗi lần viết lời chúc, mỗi lần nói chuyện, nhưng dần dà tôi nhận ra từ “đủ” đúng là một từ khá hoàn mỹ. Bởi cái gì cũng chỉ nên đủ, không nên quá nhiều, nếu không sẽ đậm đà quá, cũng chẳng nên quá ít, nếu không thì cuộc đời, thì đoạn tình cảm đó sẽ thật sự nhạt nhẽo.

Giống như chế biến một món ăn, với lượng gia vị vừa đủ, thời gian tẩm ướp vừa đủ, thời gian nấu vừa đủ, lửa cháy vừa đủ, và một đầu bếp khéo léo vừa đủ; món ăn này chắc chắn sẽ vô cùng tuyệt vời.

Giống như yêu một người, với yêu thương vừa đủ, giận hờn vừa đủ, đau khổ vừa đủ, hạnh phúc cũng vừa đủ, mối quan hệ ấy chắc chắn sẽ là đồng cảm, yêu thương, và cả lâu bền.

Giống như thế, cuộc đời bạn sẽ thật tốt đẹp và tuyệt vời nếu bạn hiểu căn bản mọi thứ luôn vừa đủ cho mỗi người.

 

Như Nhiên

 

Viết đi!

Photo: Charles Jeffrey Danoff

Hãy viết đi, viết nhiều hơn! Có viết mới thấy giữa văn nói và văn viết khác nhau đến như nào. Có viết ra mới thấy người Việt chưa chắc đã giỏi Tiếng Việt như mình nghĩ đâu. Có viết mới thấy sự sắp xếp từ, lựa chọn câu chữ trong văn nó cũng là cả một nghệ thuật thu hút. Xung quanh ta nhiều người viết, đúng hơn thì dùng chữ nhiều thật đấy, nhưng để nói đến viết chuẩn, viết giỏi thì hiếm lắm. 12 năm học văn, dùng chữ Việt đến từng này tuổi rồi nhưng bảo để viết một đoạn báo cáo, tường thuật, viết một email chỉn chu thì ối kẻ vẫn còn lơ ngơ lắm. Mà giờ thì người ta đi học tiếng Anh thì nhiều, học làm giàu thì như ong vỡ tổ, chứ mấy ai đi học chữ Việt đâu; và khi cầu không có thì cung cũng chẳng thấy đâu.

Xu thế của xã hội chạy theo vật chất rồi thì mấy ai để ý đến vẻ đẹp tâm hồn của những con chữ. Chẳng biết do mắc bệnh nghề nghiệp hay quá kỹ tính hay không nhưng tôi không thích, thậm chí ghét: Đọc một số chữ ở bất kỳ đâu mà không đầu không cuối; can thiệp vào một văn bản không mục đích; nhận được tin nhắn tán tỉnh rối rắm khi luận “lờ” – “nờ” “trờ” – “chờ” “sờ” – “xờ”… vân vân và vân vân các kiểu lỗi tương tự; cao cấp hơn là các lỗi tách đoạn, chia câu, “chấm”, “phẩy” tha hồ loạn cào cào trong một đoạn văn chẳng hiểu câu cú ra sao… Lủng củng trong việc diễn đạt ý thành văn bản thì làm sao đến lúc cần có được một lá đơn có trọng lượng, chứ đừng nói gì đến việc tự mình bảo vệ trong một số tình huống “chết người” nào đó.

Thử tưởng tượng, khi cần bạn có viết được: Đơn ly hôn, đơn khiếu nại, đơn thừa kế… Đùa vậy thôi, chứ trong đời hy vọng rằng bạn cũng không có trường hợp nào cần phải dùng đến các kiểu đơn như vậy; mà có dịp lãng mạn viết để sáng tác tiểu thuyết để đời hơn. Vậy có phải thú vị không nhỉ?

Thế đấy… nhưng nhấn mạnh rằng vẫn cứ phải viết đi! Viết ra để thấy tâm hồn mình thật khác, từ những thứ đơn giản nhất để thấy nhiều màu sắc quanh chữ Việt, để ghi lại thêm vài khoảnh khắc may mắn có được trong đời, để cảm nhận cuộc sống và chia sẻ thêm về những góc nhỏ trong cuộc sống của bạn. Phong cách viết nói lên rất nhiều về một con người, đọc từng chữ để bắt đầu hình dung một vài “sự văn minh” và “nét văn hóa” ẩn chứa trong bóng dáng mà bạn thậm chí còn không cần đối diện. Hãy bắt đầu ngay khi có một ý tưởng hoặc chia sẻ thêm một số điều hữu ích cho cộng đồng. “A writer writes” – Bởi vì chỉ cần cầm bút lên, ngồi trước máy tính, nếu muốn tôi cá là bạn cũng có thể viết nên một cái gì đó; vấn đề chỉ là niềm tin mà thôi. Với cá nhân tôi thì quy trình của một bài viết thường định hình từ các bước suy nghĩ trước khi bắt tay vào công đoạn viết:

  1. Tại sao? (mục đích viết nó để làm gì, có ý nghĩa với mình hoặc một ai đó?)
  2. Đối tượng nhắm đến là ai? (điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc lựa chọn các xưng hô, giao tiếp trong văn bản, thống nhất từ trên xuống dưới cũng như việc diễn đạt câu chữ phù hợp với từng đối tượng)
  3. Chủ đề, nội dung định viết? (thường thì mỗi bài viết nên chỉ cần diễn đạt một khối lượng kiến thức nhất định, chia nhỏ để giải quyết một vấn đề hơn là việc quá tham dẫn đến “nhàm”)
  4. Lên khung, dàn ý cho bài viết dài? (mở ra sao? thân thế nào? để kết cũng thật ấn tượng?)
  5. Cầm bút lên rồi để các ý tưởng tự nó trôi chảy thôi… Sáng tạo thì sẽ được “một bài văn” hay còn làng nhàng thì cũng được “một số trang giấy” chấp nhận được.

Một số lời khuyên dành cho những người mới mài ngòi để bạn cứ thử xem sao nhé, biết đâu rằng sẽ có tác dụng rèn luyện:

  • Khi muốn viết, hãy để cho các ý tưởng trôi chảy. Bạn nghĩ được, lập kế hoạch tốt và giờ là lúc biến những điều đó lên trang giấy của mình thôi. Hãy bỏ qua các giới hạn của bản thân và tự tin rằng mình có thể viết được bất cứ thứ gì.
  • Viết đúng ngữ pháp, đủ chủ ngữ, vị ngữ; chú ý khi sử dụng thêm: trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ. Ít nhất thì khi chưa thể sáng tạo thì nên là theo những gì đã là chuẩn.
  • Viết ngắn. Ngắn mà đúng, còn hơn dài mà loằng ngoằng.
  • Sử dụng từ đơn giản, phổ biến. Sử dụng từ điển nếu như không chắc về nghĩa của từ hoặc phân vân về chính tả.
  • Tránh dùng từ thừa.
  • Chú ý dấu câu, “chấm” “phẩy” đặt đúng chỗ.
  • Nếu trong một bài viết dài, tìm ý cho từng đoạn và ngắt đoạn hợp lý nhưng nhất thiết phải chú ý đến tính liên kết và tổng thể của cả bài.
  • Thể hiện một chút gì đó mang tính chất cá nhân, cảm xúc, suy nghĩ về một vấn đề. Vậy là bài viết của bạn cũng trở nên có hồn hơn rồi đấy.
  • Sau khi viết, dành thời gian để chỉnh sửa phù hợp nếu như muốn nhiều người đọc và không bị khó chịu bởi những suy nghĩ mang tính cá nhân, thỏa mãn được các yêu cầu đã đặt ra từ đầu; thậm chí, nhờ “chuyên gia” chỉnh sửa nếu cần.
  • Còn rất nhiều, rất nhiều những nguyên tắc phức tạp hơn nữa, sáng tạo hơn nữa cho những kẻ yêu chữ và thích viết… nhưng cứ dần dần nhỉ, mỗi người một phong cách, cứ viết đi rồi “mạnh dạn” thể hiện cá tính cho những gì là của mình.

Bắt đầu một điều gì đó với một mớ rào cản trong đầu chắc chắn không bao giờ là điều dễ dàng, nhưng khẳng định rằng bạn vẫn có thể viết, ngắn gọn thôi, đơn giản thôi, nhưng trước hết sẽ đúng và đầy đủ ý bạn cần diễn đạt. Những việc bạn cần làm trước hết là: Chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng: “Tôi có thể viết một cách trọn vẹn.”

Viết một status trên Facebook hoặc mạng xã hội nào đó đủ thuyết phục để câu like, câu view.

Viết bình luận về một vấn đề nào đó đang quan tâm hoặc một chủ đề cần phân tích.

Viết ra một danh sách những điều cần làm trong đời để lên tinh thần và dần dần hiện thực hóa nó.

Viết nhật ký. Tâm hồn bạn sẽ được bồi dưỡng thêm khi bạn có thời gian dừng lại để viết, để ngắm nhìn những vẻ đẹp chăm chút cho cuộc sống. Viết để nhớ lại những giây phút quý giá đang trôi.

Viết một cái gì đó cho bạn bè, người thân. Cảm giác sẽ thế nào nếu như bạn viết và cũng nhận được một email phản hồi từ một người bạn, có thể là một lá thư yêu thương; một số điều khen ngợi, góp ý… Đôi khi, nói chuyện bằng chữ sẽ là một cách giải tỏa những điều mà lời nói không thể nào thực hiện được.

Viết một lá thư tình. Thời buổi ngày nay các đôi yêu nhau thật quá đỗi “tiện lợi” khi công nghệ ngày càng phát triển; nói chuyện với nhau qua “chat chit” chứ mấy ai dành cho nhau một chút quan tâm bằng những gì lãng mạn kiểu thư từ. Có lẽ rằng, tôi sẽ yêu ngay một anh chàng gửi cho mình một lá thư tình một cách bất ngờ và đầy tình cảm yêu thương. Một người đàn ông “biết viết” ắt hẳn sẽ là một người có tâm hồn đẹp.

Viết review về những điều đã chiêm nghiệm trong cuộc sống, tóm tắt một cuốn sách hay, bình luận về một bộ phim giá trị hoặc đơn giản chỉ là thể hiện cảm xúc với những chuyện đã trải qua.

Cao cấp hơn, hãy viết một plan dự án thật chỉn chu, để biết đâu rằng, bạn có thể kiếm xiền từ nó; viết truyện ngắn và mơ tưởng đến một ngày nào đó cầm trong tay cuốn sách “tạp văn” với tên tác giả quen quen được in chình ình ngay trang bìa thì sao nhỉ?

Hoặc đơn giản nhất, viết đại một cái gì đó đang xuất hiện trong đầu, không cần chủ đề, không cần nghĩ ngợi, không cần ý nghĩa… chỉ đơn giản là nó đang xuất hiện trong đầu và thấy cần phải viết ra. Viết để thấy rằng, khi bắt đầu chưa có gì, nhưng khi viết đã bắt đầu có ý tưởng.

Ai bảo một người làm logic thì không thể viết văn hay, logic trong cách lập luận thì cũng sẽ mạch lạc trong diễn đạt? Ai bảo dân công nghệ hay thiết kế không thể viết một lá thư tình lãng mạn cho người yêu, thử đi rồi sẽ thấy? Viết đi rồi sẽ thấy cũng có người quan tâm đến những gì mình viết. Viết cũng là để rèn suy nghĩ và lập luận bằng ngòi bút dần dần. Viết ra để cùng tranh luận, để cùng nói lên một vấn đề, bàn luận thêm sâu sắc và ý nghĩa hơn. Viết đi để biết đâu đấy, những gì bạn viết ra sẽ có ý nghĩa với một ai đó; như bài viết này chẳng hạn, đúng không?

 

 Bùi Phương Linh