17 C
Da Lat
Thứ Năm, 25 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 209

Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 5

Featured Image: Joe Penniston

 

Hiện nay người ta dễ dàng đồng ý rằng chủ nghĩa cá nhân ở Mỹ đã gặp chuyện gì đó chẳng lành. Mọi người đều nói rằng thái độ phục tùng đã trở thành đức hạnh cao nhất và cá nhân bị hy sinh cho tập thể. Từ sau Thế chiến II đã có một đống sách vở trình bày chi tiết luận đề nay. William H. Whyte, trong tác phẩm The Organization Man[1], khẳng định rằng ngay cả người phát ngôn quyền lực nhất của chủ nghĩa cá nhân cũng sử dụng ngôn từ của chủ nghĩa tập thể nhằm “ngăn chặn ý nghĩ cho rằng chính anh ta cũng ở trong cái tập thể đang lan tràn khắp nơi mà những nhà cải cách, các nhà trí thức từng mơ ước và những quan niệm không tưởng mà anh ta từng cảnh báo”.

David Riesman và các cộng sự, trong tác phẩm The Lonely Crowd, kể lại chi tiết quá trình đánh mất tính tự chủ của người Mỹ và cho rằng đấy là do sự thay đổi trong tính cách của người Mỹ, từ “hướng nội” sang “hướng về người khác”. Erich Kahler, trong tác phẩm gần đây, tuyên bố: “Hiện nay chúng ta đang chứng kiến và dấn sâu vào quá trình chuyển hóa con người vô cùng to lớn. Quá trình chuyển hóa này dường như có xu hướng tạo ra con người vượt ra ngoài cá nhân. Tuy nhiên, dễ nhận thấy những quá trình khác nhau của sự đổ vỡ hay mất giá của con người cá nhân.”[2]

Có rất nhiều sách báo chỉ ra sự tồn tại và phân tích thái độ phục tùng rồi. Có tất cả các cung bậc, từ tiểu thuyết tới chuyên luận dành cho đại chúng, từ nghiên cứu tâm lý học tới những tác phẩm chuyên khảo về xã hội học, từ Người Mặc Áo Vét Xám (The Man in the Gray Flannel Suit) tới Những Người Sống Trong Khu Biệt Thự Ngọai Ô (The Exur­banites) tới Người Thuyết Phục Dấu Mặt (The Hidden Persuaders) tới Dân Tộc Của Bầy Cừu (A Nation of Sheep). Các bản báo cáo nói rằng sinh viên là những người thụ động, rằng thanh niên tìm những vị trí an tòan trong các công ty lớn, rằng người mua tìm nhà trong những khu ngọai ô với những dãy nhà giống hệt nhau, rằng người ta thích được xã hội giúp đỡ hơn là di cư để tìm công việc mới.

Bất kỳ người quan sát nhạy cảm nào cũng thấy quần chúng ở Mỹ dễ bị lôi kéo, thao túng đến mức nào. Hàng chục năm nay người Mỹ có xu hướng bị lôi cuốn vào những sự cuồng loạn của đám đông, từ trò chơi MahJong tới lắc vòng (hula hoops), từ sùng bái những người hùng như Charles A. Lindbergh tới Elvis Presley, những bài hát và ngôi sao ca nhạc rẻ tiền và đủ lọai mode sớm nở tối tàn khác. Trong hai mươi năm gần đây, bộ máy tuyên truyền quốc gia rõ rang là có thể làm cho chúng ta căm thù người Đức và người Ý, khinh người Nga, yêu người Phần Lan, kinh tởm người Nhật, ôm chặt người Nga, coi thường người Phần Lan, hâm mộ người Đức, người Ý, người Nhật và nghi ngờ người Nga…

Như tôi đã nói, nhiều người đồng ý là ở Mỹ, chủ nghĩa cá nhân đã suy giảm một cách nhanh chóng. Nhưng sự đồng thuận cũng chấm dứt ngay ở đây. Lý giải hiện tượng này cũng nhiều như số sách báo viết về nó vậy. Một số người đưa ra giải thích được nhiều người công nhận, thí dụ như công nghiệp hóa, đô thị hóa, không còn khu vực ngọai biên, và gia tăng dân số. Một số khác thì nói rằng đấy là do sự phát triển của quảng cáo, của tuyên truyền, của các phương tiện thông tin đại chúng, phương pháp giáo dục tiên tiến, sự phát triển của các tập đòan, của chủ nghĩa công đòan, của quyền phổ thông đầu phiếu, hay tình hình quốc tế căng thẳng.

Chúng ta thường tỏ ra quá thận trọng và chấp nhận ngay những chuyện khó tin. Những hiện tượng bên trên chắc chắn là có ảnh hưởng tới thực tiễn của chủ nghĩa cá nhân ở Mỹ. Nhưng dù có xem xét chúng một cách tách biệt hay phối hợp thì chúng cũng chỉ là triệu chứng chứ không phải là nguyên nhân đủ sức gây ra hiện tượng đó. Chúng là phương tiện làm lật nhào chủ nghĩa cá nhân chứ không phải mục đích mà thay đổi gây ra.

Thuật ngữ làm người ra rối trí

Nguyên nhân chính làm chúng ta không nhận ra được nguồn gốc của sự quay lưng lại với chủ nghĩa cá nhân ở Mỹ là do chúng được xác định không dưới dạng chủ nghĩa cá nhân. Nhiều người tìm cách phá họai cơ ngơi của chủ nghĩa cá nhân và thiết lập những cách hành xử phi cá nhân chủ nghĩa lại làm điều đó dưới danh nghĩa người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa. Họ có thể làm được chuyện đó một phần là vì họ là những người quảng bá và có thể họat động trong bối cảnh của chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa phi lý và chủ nghĩa lãng mạn đã bị rút hết ruột. Họ có thể sử dụng ngôn ngữ tù mù và không thấy cần phải xác định rõ ràng mục đích của mình. Kết quả là họ có thể đánh bật được hầu hết khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân mà chỉ gặp sự chống trả không đáng kể của những người bảo vệ nó.

Nhiệm vụ tôi đặt ra ở đây là xác định cả chủ nghĩa cá nhân lẫn những điều làm suy yếu nó. Đấy chỉ là bước đầu trên con đường tìm hiểu những diễn biến đã từng xảy ra với chủ nghĩa cá nhân trong lịch sử, nhưng là bước đi cần thiết. Sự diễn giải được rút ra từ sự phát triển trong suốt chiều dài của lịch sử những tư tưởng này ở nước Mỹ.

Cá nhân như là đơn vị cơ bản

Chủ nghĩa cá nhân là tư tưởng hoặc là tập hợp những tín điều về vai trò quan trọng tối thượng và chung cuộc của cá nhân con người. Nghĩa là đấy là niềm tin cho rằng cá nhân là đơn vị quan trọng nhất, từ đó mới sinh ra tất cả những đơn vị khác, dù đấy có là những nhóm, những tập thể, những xã hội, nhà nước hay nền văn minh thì cũng thế. Những người theo trường phái cá nhân chủ nghĩa thường cho rằng vì những nhóm này đều là tập hợp của những cá nhân cho nên chúng tồn tại vì cá nhân con người. Cá nhân là đơn vị chung cuộc theo nghĩa là những tập hợp này tồn tại là để đáp ứng những khát vọng của cá nhân. Theo thần học, cá nhân là đơn vị cơ bản, chính nó sẽ sống đời đời chứ không phải bất kì nhóm nào khác. Nhưng đơn vị chung cuộc có thể là cụm từ phù hợp hơn bởi vì có cả những người cá nhân chủ nghĩa theo phái nhân đạo hướng đến đời sống thế tục lẫn những người tin vào cuộc đời bên kia thế giới này.

Tư tưởng hiện đại (hậu-Trung cổ) về chủ nghĩa cá nhân tập trung sự chú ý vào tính độc nhất của cá nhân. Nguyên lý quan trọng nhất của chủ nghĩa cá nhân là sự khác biệt, tính độc nhất của cá nhân này so với cá nhân kia, và đấy chính là giá trị thật sự của từng cá nhân. Tài năng, nhu cầu, quyền lợi, mục tiêu, tài sản đặc biệt của từng người là cái làm cho người đó khác biệt với những người khác và làm cho anh ta trở thành có giá trị đến như thế. Tất cả những gì chung với những người khác chỉ có thể giúp làm cho anh ta lẫn vào đám đông vô bản sắc mà thôi. Con người riêng biệt của anh ta, khả năng sáng tạo của anh ta, cuộc sống đầy ý nghĩa của anh ta, tất cả những điều đó đều có nguồn gốc và xuất phát từ sự độc đáo của anh ta.
Không gian cho sự phát triển.

Không gian cho sự phát triển tính độc đáo của cá nhân là yêu cầu xã hội quan trọng nhất của chủ nghĩa cá nhân. Nhiều tư tưởng liên quan đến chủ nghĩa cá nhân có xuất xứ từ nhu cầu này. Ví dụ, tự do là điều kiện thiết yếu (sine qua non) của chủ nghĩa cá nhân, cũng như cưỡng bức là kẻ thù không đội trời chung của nó. Cá nhân phải được tự do quyết định mục đích của mình, tự do tìm cách thỏa mãn nhu cầu của mình, tự do kết hợp hoặc không kết hợp với những người khác trong khi theo đuổi mục tiêu của mình.

Điều đó không có nghĩa là người ta phải lát đường cho anh ta đi hay anh ta sẽ được thỏa mãn nếu những người khác quan tâm giúp đỡ anh ta. Đúng hơn, cá nhân cần xã hội; trong xã hội đó, anh ta phải tự mình lo liệu cho nhu cầu của mình, tự do theo đuổi những mục tiêu của mình, có cơ hội được tưởng thưởng khi thể hiện tiềm năng của mình, các mối quan hệ trong đó đều tự nguyện và vũ lực được giữ ở mức tối thiểu. Đấy là quyền tự do mà những người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa thế kỷ XIX nghĩ là thích hợp cho sự phát triển của họ.

Trách nhiệm tương ứng

Quyền tự do như thế sẽ làm cho xã hội trở thành khó khăn nếu không có sự phát triển tương ứng trách nhiệm của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là lý thuyết xã hội và nhiều người biện hộ cho nó cho rằng trách nhiệm cá nhân là yêu cầu chủ yếu cho việc thực thi nó trong xã hội. Sẽ hợp lý, nếu cá nhân được tự do phát triển khả năng của mình thì anh ta cũng phải có trách nhiệm trước những hậu quả của sự phát triển đó và phải chịu trách nhiệm về họat động của mình.

Hệ quả tất yếu khác là quyền tự do của cá nhân chấm dứt nơi quyền tự do của cá nhân khác bắt đầu. Khi nguyên tắc này được áp dụng cho quyền sở hữu thì nó có nghĩa là luật bảo vệ tài sản của một người khỏi sự xâm phạm của người khác cũng ngăn chặn, không cho anh ta xâm phạm tài sản của người khác. Nói một cách lí tưởng, sẽ là tốt hơn nếu cá nhân có nhận thức vững chắc về trách nhiệm trước những hành động của mình. Nhưng nếu cá nhân không làm được như thế, đã có thời người ta cho rằng xã hội phải thực hiện chức năng có ích, đấy là buộc cá nhân phải chịu trách nhiệm khi anh ta vi phạm quyền của những cá nhân khác. Trừng phạt một người vì xâm phạm vào lĩnh vực của người khác vẫn thuộc về chủ nghĩa cá nhân. Nhưng mặt khác, lọai bỏ cơ hội cho sự xâm phạm như thế không còn thuộc về chủ nghĩa cá nhân nữa, đấy dường như là kết quả của sự hạn chế tự do.

Tự do lựa chọn

Chủ nghĩa cá nhân, tự do, trách nhiệm là những tiền đề nền tảng triết lý của niềm tin vào quyền tự do ý chí, và niềm tin vào tự do lựa chọn là việc làm khả thi. Buộc cá nhân phải chịu trách nhiệm cho hành vi mà anh ta không khởi sự là sai. Nói theo lối tích cực thì đấy là tiền đề cho rằng người khởi xướng hành động phải chịu trách nhiệm trước những hậu quả của nó. Sự kiên định mang tính logic đòi hỏi rằng nếu một người phải chịu trách nhiệm vì một hành động nào đó thì anh ta phải khởi sự hành động đó bằng cách hoặc là lựa chọn, không lựa chọn do lơ là hoặc ít nhất là trong trường hợp đó lựa chọn là khả thi. Một khi đã công nhận quy luật tất yếu hay thuyết định mệnh thì nền tảng của trách nhiệm cá nhân đã không còn và đối trọng của tự do (tức là trách nhiệm – ND) đã bị phá hủy.

Niềm tin vào chủ nghĩa cá nhân, tức là tư tưởng phát triển trong thế kỷ XIX, được xây dựng trên nền tảng cho rằng lựa chọn đóng vai trò trong quá trình phát triển của con người thì không được rõ ràng như thế. Theo cách giải thích này, tính độc đáo của cá nhân là kết quả của những lựa chọn anh ta làm mỗi ngày, chính những lựa chọn đó dẫn tới hoặc là sự thể hiện của con người cá nhân hay sự thất bại của anh ta. Vì vậy mà điều kiện chung cuộc hay điều kiện căn bản cho sự hình thành cá nhân phụ thuộc vào những lựa chọn của anh ta.

Một khi lựa chọn tự do không còn là tác nhân đầu tiên để người ta đánh giá vị trí hay hành động của một người thì sẽ khó bảo vệ được quyền tự do trên thực tế. Nếu, thí dụ, lựa chọn không còn đóng vai trò hàng đầu trong việc tạo ra sự bất bình đẳng giữa người với người thì khó hóa giải những bất bình đẳng đó với ý thức về sự công bằng của chúng ta. Những người được nhận ít không phải họ thất bại mà do sự sắp đặt từ trước. Ngòai ra, nếu người ta phải hành động do quy luật tất yếu thì tự do không còn có ý nghĩa tối thượng nữa; nó chỉ còn có vai trò chủ yếu là giữ một phần dân chúng bên ngoài nhà tù mà thôi, vì người ta không thể hành động khác với những hành động mà họ đang làm.

Đấy là tự do do xã hội cho phép, có khả năng là nó dựa trên tính toán về ước muốn của con người và khả năng thực tế của việc ngăn cản một số người trong số họ, không cho những người này cơ hội thực hiện ước mơ của mình. Nói ngắn, tự do rút lại chỉ còn là cho phép làm điều có thể làm.

Tóm lại, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cá nhân là: Tin vào giá trị tối thượng và chung cuộc của cá nhân con người, nhấn mạnh tính duy nhất trong mỗi con người, khẳng định quyền tự do cho sự thể hiện của mỗi cá nhân, trách nhiệm cá nhân và tự do ý chí. Những nguyên lý đó tạo thành nền tảng của những tư tưởng thiết yếu của chủ nghĩa cá nhân.

Trong thời hiện đại, chúng được những tư tưởng khác nhau như chủ nghĩa duy danh, chủ nghĩa duy lý, ý chí luận và chủ nghĩa lý tưởng ủng hộ. Trong xã hội Mỹ (và một số nước châu Âu), những tư tưởng đi kèm với chủ nghĩa cá nhân đã được khớp nối với những định chế và thực tiễn như chính phủ hiến định, còn Luật nhân quyền (Bill of Rights) thì thiết lập khu vực tư bằng cách hạn chế những hành động của chính phủ, quyền sở hữu tư nhân, bãi bỏ những qui định của xã hội về quyền thừa kế (bãi bỏ quyền trưởng nam và theo thứ tự), thương mại tự do, tự do tham gia tôn giáo, tự do lựa chọn bạn đời, hiệp hội tư nhân hoặc hiệp hội tự nguyện để làm công việc từ thiện..v.v…

Trong vòng 70 đến 80 năm qua, chủ nghĩa cá nhân đã và đang đánh mất dần ảnh hưởng đối với người Mỹ – lúc nhanh lúc chậm khác nhau. Sự mất mát này được thể hiện một cách đơn giản như là nhu cầu thành lập ủy ban, thiết lập các qũy hay định chế, công ty, tổ chức câu lạc bộ hay phong trào – khi khởi động bất kỳ công việc gì, không phụ thuộc vào tính chất và sự phức tạp của nó. Nó biểu hiện rõ trong việc giao cho chính phủ quá nhiều trách nhiệm và sự gia tăng đáng kể các luật lệ và quy định nhằm quản lý đời sống của chúng ta. Nó còn thể hiện trong việc cắt xén quyền kiểm soát của cá nhân đối với công việc của anh ta (người sử dụng lạo động buộc nhân viên phải đóng bảo hiểm y tế, còn chính phủ thì buộc phải đóng bảo hiểm xã hội), trong việc cha mẹ mất trách nhiệm và kiểm soát con cái, trong việc tuyên truyền và kiểm tra tín ngưỡng của chính phủ.

Con người và tư tưởng

Đương nhiên là hoàn cảnh có tạo điều kiện cho người ta xa lánh chủ nghĩa cá nhân, nhưng hòan cảnh không thể quyết định phương hướng hay dẫn chúng ta đi theo hướng mà chúng tự đặt ra cho mình. Đấy là vai trò của con người và tư tưởng, hay của những người chịu ảnh hưởng của tư tưởng. Đấy là xu hướng xác định và được hình thành trên cơ sở của những tư tưởng hòan tòan xác định. Chúng ta khó nhận ra chúng vì những người ủng hộ cho những thay đổi này dùng những cái tên khác nhau, và những phương tiện mà họ đề xuất nhằm tiến đến mục đích chung cũng khác nhau. Những người này đã và đang triệt tiêu chủ nghĩa cá nhân và cấy một đặc tính khác vào nước Mỹ.

Sau đây là những từ thường được sử dụng theo nghĩa trái ngược với chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và tôi ngờ rằng cả từ chế độ dân chủ nữa, mặc dù việc đưa từ này vào sẽ bị nhiều người phản đối một cách dữ dội. Lester Frank Ward đề xuất từ chính quyền xã hội (sociocracy) nhưng không được nhiều người chấp nhận. Những từ thường được sử dụng hoặc là quá mù mờ, quá chuyên môn hay mang nặng cảm tính. Tôi muốn sử dụng một từ đã được nhiều người chấp nhận nhằm mô tả đặc tính được dùng thay cho chủ nghĩa cá nhân. Đấy là từ cộng đồng chủ nghĩa (communism).

Cộng đồng chủ nghĩa (communism) chỉ khác từ cộng sản chủ nghĩa (communism) có một chữ, tuy nhiên nó khá thích hợp đối với mục đích mô tả của chúng ta. Nó hàm ý mục đích hay mục tiêu của đặc tính này, trái ngược hẳn với chủ nghĩa cá nhân và thể hiện được những phương tiện nhắm tới mục đích này. Chủ nghĩa cộng đồng tập trung chú ý vào nhu cầu chung, quyền lợi chung và mục tiêu chung của nhân lọai, chứ không chú ý vào những khác biệt giữa người nọ và người kia. Thí dụ, tất cả mọi người đều có chung một số ham muốn như thức ăn, sự ấm áp và được người ta chú ý. Những người theo phái cộng đồng muốn tổ chức xã hội để có thể cung cấp tất cả những thứ đó cho mọi người một cách hiệu quả.

Chủ nghĩa cộng đồng là niềm tin rằng cá nhân tìm thấy tính cách của mình từ sự tương đồng, tìm thấy lẽ sống của mình từ trong xã hội. Chủ nghĩa cộng đồng ngấm ngầm, nhưng đôi khi công khai, là quan niệm cho rằng cá nhân sống vì xã hội. Người theo chủ nghĩa cộng đồng cảm thấy thoải mái với những thuật ngữ và mạnh đề như loài người, phúc lợi chung, nhân loại, nhân dân, lợi ích chung và tình huynh đệ giữa người với người, anh ta có xu hướng giải thích tất cả những thuật ngữ này theo kiểu các nhu cầu và ước muốn được mọi người chia sẻ.

Đối với người theo phái cộng đồng thì nhóm, tập thể, nhà nước, xã hội và nhân lọai sẽ tồn tại mãi, trong khi cá nhân chấm dứt cùng với cái chết. Cá nhân chỉ có ý nghĩa khi là thành viên của tập thể mà thôi. Những quyền và đặc quyền mà anh ta có là từ tập thể và chỉ tồn tại khi anh ta còn thành viên của tập thể. Người theo chủ nghĩa cộng đồng đương đại thường không công nhận bất cứ thứ gì bên ngoài tập thể – nhân lọai, loài người, thịnh vượng chung – mà anh ta hướng tới. Khi nhân dân nói thì đấy chính là tiếng nói cuối cùng.

Người theo phái cộng đồng có thể không phải là người tin  hoàn toàn vào thuyết định mệnh, mặc dù anh ta thường là người như thế, nhưng anh ta thường coi di truyền và môi trường có vai trò ưu trội trong việc giải thích hành vi và sự khác biệt giữa người với người. Thuật ngữ mà anh ta dùng để định danh quan điểm của mình có thể khác nhau – thuyết định mệnh về kinh tế, môi trường luận, định mệnh về tâm lý – nhưng tin rằng không cần tính đến lựa chọn trong việc giải thích hành vi của con người là điều không hề xa lạ với anh ta. Anh ta công nhận trách nhiệm chung cho tất cả những việc xảy ra và tuyên bố rằng mỗi người chúng ta phải có trách nhiệm cho tất cả mọi người chúng ta.

Hai điểm nhìn tham chiếu

Chủ nghĩa cá nhân đối đầu với chủ nghĩa cộng đồng – có thể xem xét những thay đổi và xung đột trong lịch sử gần đây của nước Mỹ giữa thái hai cực mà hai thuật ngữ này đại diện. Hai thuật ngữ này có thể không bao trùm tất cả những sự kiện đã xảy ra, nhưng chúng bao trùm lên nhiều sự kiện đủ để thấy rõ sự phát triển trong những năm gần đây. Nó thể hiện những xung đột trong quốc hội, trong những quyết định đầy khó khăn của tổng thống, trong việc đưa xu hướng hành động của tòa án vào bối cảnh. Sẽ không quá khi nói rằng những cuộc tranh cãi chủ yếu của các cơ quan lập pháp và luật pháp trong suốt 70 năm qua – tranh cãi về luật chống độc quyền, thành lập cơ quan thi hành luật pháp, luật chống gián điệp và bạo lọan, động viên cho chiến tranh, phương tiện chống suy thóai, quy định về lao động có tổ chức – là những biểu hiện của cuộc xung đột giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cộng đồng.

Cuộc chiến giữa những người cải cách và những người bảo thủ cũng có thể được xem xét dưới ánh sáng của cuộc xung đột này. Những người cải cách muốn định chế hóa chủ nghĩa cộng đồng, còn những người bảo thủ thì thường bảo vệ những định chế mang tính cá nhân chủ nghĩa trước đây – dù nhà cải cách có là Theodore Roosevelt hay nhân vật bảo thủ là Robert A. Taft thì cũng thế. Dĩ nhiên là vấn đề không phải lúc nào cũng thật sự rõ ràng, phương án thay thế không phải lúc nào cũng được nói tọac ra, nhưng thường thì đấy chỉ là lựa chọn giữa những phương tiện nhằm đạt đến cùng một mục tiêu mà thôi.

Sự lan tỏa của chủ nghĩa công đoàn, sự phát triển của các tập đoàn và công ty, sự tập quyền hóa quyền lực ở Washington, bộ máy hành chính có mặt khắp nơi, việc gia tăng những chương trình phúc lợi, quan niệm cho rằng xã hội phải chịu trách nhiệm về mọi thứ, từ giáo dục cho tới nhà ở, chiến thắng của “học thuyết nguy hiểm rõ ràng và hiện tại” của các tòa án, giao cho cảnh sát quyền hạn chế một số quyền tự do và dễ dàng luật hóa những họat động được cho là nhắm đến phúc lợi chung của chính phủ là chỉ dấu của thắng lợi của chủ nghĩa cộng đồng. Những người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa thực hiện những hành động khi tinh thần tự nguyện được bảo tòan, khi tự do cá nhân được giữ lại, khi quyền sở hữu tư nhân được bảo tồn (mặc dù cuộc tấn công chống lại quyền sở hữu tư nhân không trực tiếp bằng cuộc tấn công vào quyền tự do cá nhân), khi hành động của chính phủ bị ngăn chặn, khi họ duy trì được trách nhiệm và chức năng cho cá nhân.

Bước ngoặt

Trong nửa sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa cộng đồng bắt đầu có hình thù trong tư duy và trước tác của một số học giả Mĩ. Có thể tìm thấy tư tưởng chủ đạo của nó trong tác phẩm xuất bản năm 1893 của nhà xã hội học tên Lester Frank Ward:

“Cá nhân đã trị vì quá lâu rồi. Đã đến lúc xã hội phải nắm lấy công việc của mình và định hình số phận của mình. Con người cá nhân đã hành động tốt nhất theo khả năng của anh ta. Anh ta chỉ có thể hành động theo cách của mình. Với ý thức, ý chí và trí tuệ của mình, anh ra không thể làm gì khác hơn là theo đuổi những mục đích tự nhiên của mình. Không thể tố cáo anh ta hay gọi bằng cái tên nào khác. Không thể phê phán anh ta. Cũng không thể ca ngợi hay bắt chước anh ta. Xã hội nên học học bài học lớn của mình từ anh ta, nên đi theo con đường mà anh ta đã làm để dẫn tới thành công. Xã hội nên coi mình như một cá nhân, với tất cả những quyền lợi của một cá nhân; và khi nhận thức rõ những quyền lợi đó, nó phải theo đuổi quyền lợi với ý chí không gì lay chuyển được như thể cá nhân theo đuổi quyền lợi của mình. Không chỉ có thế, xã hội phải được hướng dẫn, như cá nhân được hướng dẫn, bởi trí thức xã hội, được trang bị bằng tất cả kiến thức do tất cả các cá nhân tập hợp lại, với sức lao động, lòng nhiệt tình và tài năng, tức là tất trí thông minh mà xã hội có.”[3]

Henry George, Richard Ely, Henry Demarest Lloyd, Edward Bellamy, Daniel De Leon, Eugene Debs, Thorstein Veblen, Jack London và nhiều người khác phải được đưa vào danh sách những người khởi xướng và truyền bá chủ nghĩa cộng đồng. Nó lại được những người xã hội, cộng sản, các nhà báo của những tạp chí bình dân, những người thuyết giảng Phúc âm xã hội, những người dân tộc chủ nghĩa, những nhà giáo dục và những người cấp tiến đủ mọi lọai quảng bá nữa. Nó được phong trào “lương tâm xã hội” khuyến khích và những người tự coi là người tự do tạo thành những định chế.

Dĩ nhiên là trong đa số trường hợp những người theo phái cá nhân chủ nghĩa là nguyên nhân của xung đột rồi. Đầu thế kỷ XX họ là những người nắm được quyền lực và có ảnh hưởng. Họ đã có thể tố cáo, phỉnh phờ, chế nhạo và còn có thể ngược đãi những người đề xướng chủ nghĩa cộng đồng nữa. Thậm chí như thế, ngọn triều vẫn quay sang hướng khác; nhiều người sử dụng ngôn ngữ của chủ nghĩa tự do nhưng lại tham gia vào việc bảo vệ các tập đoàn, khuyến khích những dự án mang tính đế quốc chủ nghĩa, để vệ binh quốc gia giải tán các công đòan và yêu cầu chính phủ giải quyết các vấn đề phát sinh. Những đòn trí mạng của các cuộc chiến tranh và suy thoái trong thế kỷ XX đã làm nhiều người không nhận ra được bản chất của những vụ xung đột về tư tưởng và những người theo phái cộng đồng đã có sẵn những chương trình của họ rồi.

Chúng ta còn đang trong giai đọan chuyển tiếp ồ ạt từ chủ nghĩa cá nhân sang chủ nghĩa cộng đồng – đấy là nói về những định chế và thực tiễn. Nhưng sự thay đổi to lớn cho nó trong lĩnh vực tư tưởng và niềm tin thì đã diễn ra rồi – nói về quần chúng thì điều này đã xảy ra trong ba bốn thập kỉ đầu của thế kỷ này. Những tư tưởng của chủ nghĩa cộng đồng đã trở thành sở hữu chung của người Mỹ vì chúng đã thấm vào văn học, ngôn ngữ, bài thuyết giáo, bài giảng và tư tưởng của người tạo ra dư luận rồi.

[themify_box style=”green rounded” ]Dr. Carson là giáo sư lịch sữ Mỹ tại Grove City College, Pennsylvania.[/themify_box]

 

Phạm Nguyên Truờng dịch
Nguồn: Clarence B. Carson – Chủ nghĩa cá nhân đối đầu với chủ nghĩa cộng sản


[1] William H. Whyte, Jr., The Organiza­tion Man (Garden City, N. Y.: George Braziller, 1957), p. 6.
[2] Erich Kahler, The Tower and the Abyss (New York: George Braziller, 1957), p. xiii.
[3] Lester F. Ward, “Sociocracy,” Amer­ican Thought: Civil War to World War I, intro. by Perry Miller (New York: Holt, Rinehart & Winston, Inc., 1957), pp. 113­14

“Không bỏ đại học mới là ngu!”

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Lâu lắm mới có cơ hội ngồi tán chuyện phiếm với một người anh lớn hơn mình 7 tuổi mà tôi rất ngưỡng mộ thời còn học tiểu học. Thời đó tôi là một cậu bé mới hơn 10 tuổi, vô cùng ngưỡng mộ anh vì anh học siêu giỏi, giải nhì Toán quốc gia và được tuyển thẳng vào đại học. Anh tốt nghiệp cử nhân, học lên thạc sĩ và có một công việc ổn định.

Sau rất nhiều chuyện trên trời dưới đất thì anh lại quay lại câu chuyện của tôi. Câu chuyện của một sinh viên năm đầu dám bỏ học để làm những việc điên rồ. Tôi hơi ngại nói với anh rằng chẳng qua đó cũng chỉ là một quyết định do nhân duyên thì nhiều hơn là chủ động. Anh bỗng nói một câu mà tôi chưa bao giờ nghe ai nói với tôi trước đó:

– Anh thấy với tính cách của chú, không bỏ đại học mới là ngu!

Tôi đã nghe rất nhiều lời tiếc nuối, nhiều lời trách móc, nhiều thái độ không hiểu và xa lạ của những người biết về câu chuyện bỏ học đại học của tôi, từ gia đình, người thân, bạn bè, anh chị em trong nhà. Đây là lần đầu tiên tôi nghe một câu như thế từ một người coi trọng chuyện học hành và phấn đấu cả đời mình vì nó. Điều ngớ ngẩn nhất đó là: Tôi tự thấy đó là câu nói đúng nhất đối với tôi mà chính tôi cũng chẳng thể nghĩ ra!

Bây giờ tôi sẽ kể cho bạn nghe câu chuyện bỏ học của tôi. Qua câu chuyện này tôi không có ý khuyến khích bạn bỏ đại học để theo đuổi những ước mơ viển vông nào đó, như bước lên đỉnh giàu có tựa Bầu Đức! Đừng bao giờ nghe truyền thông ca tụng câu chuyện không bằng cấp của mấy tỷ phú như Bill Gates, Steve Jobs, Michael Dell, Lý Gia Thành… Kể cả câu chuyện của tôi, bạn cũng chỉ nên xem như một ví dụ nho nhỏ về sự tự do chọn lựa con đường của mình, và chỉ thế thôi.

Ngày đầu tiên tôi bước vào lớp Một, cô giáo hỏi ba tôi:

– Xin lỗi anh chứ cháu ở lại lớp năm thứ mấy rồi ạ?

Ba tôi chưng hửng:

– Cháu nó mới từ lớp mẫu giáo lên mà cô!

Tôi nghe đoạn đối thoại đó và cảm thấy rất khó chịu, tôi không hiểu tại sao cô giáo lại hỏi ba tôi điều ngớ ngẩn như thế. Nhưng sau đó lời giải thích của cô giáo làm tôi suýt bật cười:

– Bởi vì cháu to lớn quá nên tôi cứ tưởng…!

Đó chính là nguyên nhân mà trong tất cả mọi hoạt động cần phải xếp hàng thời đi học, tôi đều phải đứng ở cuối hàng. Nhưng bảng điểm của tôi thì luôn luôn ở top 1, tôi cũng không hiểu có phải do mình cứ phải bị đứng ở cuối hàng nên tôi đã cố gắng để được đứng ở hàng đầu trong một bảng xếp hạng khác. Tôi chỉ biết rằng thành tích học tập suốt 12 năm của tôi là một kết quả rất ấn tượng, rất làm hài lòng cha mẹ, thầy cô, người thân, kể cả hàng xóm, và kể cả chính tôi cũng cảm thấy hãnh diện.

Cũng chính vì bảng thành tích đó, tôi có quyền có một ước mơ “lớn”! Năm học lớp 11, khi đã bắt đầu thoáng thấy thế giới của tiền bạc thì trong tôi nảy nở một ước mơ, ước mơ mà khi được chia sẻ với cô bạn gái đầu tiên thì tôi cảm thấy rất xấu hổ khi cô ấy không nhịn được phải bật cười. Ước mơ ngắn gọn như thế này:

Kiếm được 1 tỷ đồng năm 25 tuổi!

Dù sao đó cũng là ước mơ chính đáng, trở nên thầm kín mà tôi sẽ quyết tâm theo đuổi. Con đường duy nhất mà tôi biết lúc ấy để thực hiện ước mơ là: HỌC! Tôi đã hoàn thành 12 năm học với kết quả ngoạn mục, tôi nghĩ rằng để học giỏi như thế tôi đã chịu sự tác động to lớn từ ước mơ làm giàu cháy bỏng. Học giỏi nhất trường, thi Olympia, đỗ 3 trường đại học, Á khoa đại học Kinh tế là những thành tích cuối cùng của tôi trên con đường học vấn trước khi tôi từ bỏ nó.

Tôi sẽ nói rõ vì sao tôi bỏ học. Tôi là một người có logic, học giỏi các môn tự nhiên nên hẳn tôi chẳng khó khăn gì để liên kết các sự kiện sau đây và đưa ra quyết định: Bỏ đại học.

Năm đầu tiên ở giảng đường đại học, mọi thứ vẫn còn là màu hồng. Tôi vẫn như bao sinh viên khác: ở kí túc xá, ăn cơm tháng, nỗ lực học hành và mơ về tương lai tươi sáng. Nhưng liệu đó có phải là ảo tưởng? Những việc làm đó có phải là những hành động thực tế và thực dụng để thực hiện ước mơ cụ thể của mỗi cá nhân? Hai câu hỏi đó sẽ không xuất hiện trong đầu tôi nếu tôi không đi thăm những người anh, người chị lớn hơn tôi 7 tuổi.

Tại sao lại là 7 tuổi? Bởi vì năm tôi học lớp 5 còn các anh chị ấy học lớp 12 chúng tôi tập hợp lại cùng nhau trong khu nội trú của Sở Giáo dục Đào tạo để học bồi dưỡng thi học sinh giỏi Quốc gia. Sau khi thi xong thì tôi ít gặp lại nhưng vẫn giữ liên lạc vì tôi rất quý họ. Sau bao năm dài sự hình dung của tôi dành cho họ luôn đẹp đến ngỡ ngàng : những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, làm những công việc xuất sắc và có thu nhập xuất sắc, giàu có. Trong sự hình dung đó có cả hình ảnh chính tôi, sau một vài năm nữa tôi sẽ ở trong thế giới đẹp đẽ đó.

Sau khi ổn định ở ký túc xá, tôi rất phấn khích liên hệ với từng người trong số họ. Lúc đó họ đã tốt nghiệp đại học khoảng 3 năm, hẳn cuộc sống đã rất tốt. Tôi đạp xe từ Thủ Đức vào trung tâm Sài Gòn, tìm địa chỉ từng người một.

Hãy nhớ giúp tôi: Tôi muốn có 1 tỷ đồng năm 25 tuổi. Và họ đang ở tuổi 25!

Tôi đến thăm từng người một. Sau khi thăm người thứ nhất, tôi cảm thấy khó hiểu. Anh ở trong căn nhà trọ tồi tàn, hay hút thuốc, uống rượu và dự định học tiếp lên cao hơn. Sau khi thăm đến người cuối cùng trong danh sách, tôi hoàn toàn sụp đổ! Họ đều ở trong những căn phòng trọ nhỏ, đa số đều có việc làm nhưng đều than vãn về lương. Trong mắt họ dường như tương lai chỉ là màu xám!

Trước chuyên đi thăm tôi phấn khích bao nhiêu thì khi về tôi tuyệt vọng bấy nhiêu. Những người anh người chị đi trước tôi, học giỏi hơn tôi, thông minh hơn tôi mà lại có cuộc sống như thế sao? Có điều gì đó rất sai lầm đang tồn tại. Logic duy nhất lúc đó xuất hiện trong đầu tôi là: Nếu tôi làm giống họ, đi con đường họ đã từng đi thì năm 25 tuổi tôi cũng sẽ giống họ! Đó là điều khủng khiếp nhất mà tôi không muốn hình dung tới một mảy may nào.

Tôi trở về ký túc xá, mọi thứ vẫn diễn ra như mọi khi nhưng nhận thức của tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tôi biết chắc chắn một điều: Nếu tôi học tiếp dù giỏi cách mấy cũng không thể nào chạm tới được một phần nhỏ trong ước mơ của mình khi tôi 25 tuổi.

Đi con đường khác?

Tôi lục lọi gần như nát cả thư viện ở trường đại học chỉ để tìm những cuốn sách nói về thành công và giàu có. Ở thư viện năm 1999 không có nhiều sách lắm nói về những điều tôi đang tìm kiếm. Tôi đạp xe đạp ngày qua ngày tiếp tục lục lọi hầu hết các nhà sách ở nội thành TP.HCM. Khi đọc những quyển sách nói về thành công, một thế giới khác bắt đầu mở ra. Tôi bắt đầu biết tới Bill Gates, quả thật ông ấy là một cảm hứng to lớn cho tôi. Nhưng chưa đủ, vì ông ấy ở bên Mỹ còn tôi ở một đất nước hoàn toàn khác. Tôi nghiên cứu sách vở, nhìn những người giàu có ở Sài Gòn thời đó, nhìn những người kiếm được nhiều tiền ở Việt Nam lúc đó. Tôi tiếp xúc với họ, tôi cố gắng hết sức để hiểu việc họ làm. Dường như những gì họ làm hoàn toàn trái ngược với cách làm của các anh chị mà tôi biết, trái ngược với bạn bè tôi, trái ngược với cả chính cách mà tôi đang làm.

Tôi bắt đầu phát hiện ra một thế giới hoàn toàn khác thế giới mà tôi từng thuộc về, một thế giới mà ở đó có sự tự do, có sự thịnh vượng, có sự đột phá, có sự sáng tạo, có sự tự giác, có tinh thần trách nhiệm bởi vì không ai bảo bạn phải làm gì cả. Đó là thế giới của những người chủ. Những người tự chịu trách nhiệm cho chính cuộc đời mình. Những người tự trả lương cho mình. Tự quyết định lấy thu nhập của mình. Tự quyết định sẽ làm gì để tồn tại và thành công. Tự quyết định sẽ thuê ai, trả lương cho họ bao nhiêu và đòi hỏi họ làm những gì cho mình. Tự quyết định sẽ sống trong ngôi nhà thế nào, đi xe hiệu gì, ăn những món gì ở nhà hàng nào, đi du lịch ở đâu, giao thiệp với ai và làm tất cả những gì mình thích. Tôi thì khác hơn một chút, sau khi đã nhìn thấu một phần nào thế giới kinh doanh, tôi bắt đầu thay đổi ước mơ. Chỉ ước mơ giàu có thì quá nhỏ bé, ước mơ làm một cái gì đó thật sự ý nghĩa cho đời mình, đó mới chính là ước mơ không bao giờ có thể mất đi.

Đầu năm thứ 2 của đời sinh viên, tôi quyết định tự mình rời khỏi giảng đường và bước ra đường. Quyết định đó, tôi biết sẽ gây sốc sâu sắc trên diện rộng. Gia đình sốc, người thân sốc, bạn bè sốc, thầy cô sốc, ai cũng sốc chỉ có tôi là không hề sốc chút nào.

Tôi bắt đầu được sống cuộc đời của mình. Vấn đề ở đây không phải là chuyện thành công, giàu có, nổi danh hay sẽ thất bại, nghèo túng và lọt thõm đâu đó trong đám đông mà là tôi chọn con đường phù hợp với ước mơ của mình, với tính cách của mình. Tất nhiên quyết định đó trong nhiều năm vẫn bị mọi người phản đối như cách họ vẫn thường làm với những hành động khác lạ. Nhưng bằng cách này hay cách khác tôi vẫn kiên trì cách sống của mình.

Tôi đã không đạt được ước mơ về tài chính của mình năm 25 tuổi, trễ hơn một chút nhưng tôi hoàn toàn hài lòng với cuộc sống của mình. Tôi mua ngôi nhà đầu tiên ở Sài Gòn năm 26 tuổi, mua chiếc xe hơi đầu tiên cũng năm 26 tuổi và quan trọng hơn hết tôi có doanh nghiệp của riêng mình. Ngày mà tôi cầm trên tay sổ hộ khẩu TP.HCM tôi thực sự xúc động bởi vì tôi biết rằng chỉ một quyết định thôi, một quyết định dũng cảm và logic có thể thay đổi tương lai đến mức độ khó tin. Tôi không muốn đề cập đến những gì tôi làm trong suốt 7 năm để thực hiện ước mơ của mình bởi vì nó cũng chỉ là một mô hình quen thuộc: Hành động, sai lầm và sửa lỗi, thay đổi.

Tôi chỉ muốn nói một điều tối quan trọng: Tôi đã lựa chọn cách sống mà tôi thuộc về. Chính vì thế tôi không cảm thấy những việc tôi làm như là đi giao hàng, rong ruổi ngoài đường phố dưới nắng mưa, thuyết phục người khác đến rát cổ họng để mượn tiền làm vốn, tranh cãi vì quyền lợi… là những việc tầm thường hay cực khổ gì cả. Đó đơn giản là những việc làm phi thường đối với tôi, rất tự nhiên đối với tôi.

Hiện nay, 3 đứa em tôi đều kinh doanh riêng. Chúng có thể còn tài năng hơn tôi, tôi nghĩ vậy. Tôi thì vẫn ngang bướng và sống theo cách riêng của mình. Tôi thấy mình có được sự tự do.

Trên đây chỉ là những gạch đầu dòng của câu chuyện mà trong một vài dòng ngắn ngủi sẽ không thể tóm lược hết. Tôi chỉ muốn cố gắng viết ra một số suy nghĩ quan trọng cho những ai cần một một quyết định, một sự lựa chọn phù hợp đối với chính bản thân mình, với chính ước mơ và tính cách của mình. Bạn có thể đọc rồi quên, hoặc sẽ xem xét kĩ hơn nếu thấy phù hợp với những suy nghĩ và ước mơ thầm kín của bạn. Nếu bạn đã đọc, tôi chân thành cảm ơn bạn đã cố nuốt những dòng lủng củng này. Chỉ có một điều tôi cam đoan với bạn là những gì tôi viết không phải là tiểu thuyết mà là chính cuộc đời tôi. Chúng thực sự rất có ý nghĩa với tôi.

Sau này nếu con cái của tôi thích học đại học hay cao hơn thì đó là việc của chúng, tôi sẽ không can thiệp bởi vì tự do lựa chọn là điều mà tôi trân quý hơn cả sự giàu có và thành công.

Một điều nữa, bỏ đại học không có nghĩa là ngừng học, tôi vẫn đọc sách rất nhiều, nghiên cứu rất nhiều những gì mà tôi cần cho cuộc sống. Tôi viết lách khá nhiều. Tôi tạo lập các mối quan hệ trong nhiều lĩnh vực khác nhau bởi vì tôi nghĩ cuộc sống là sự rộng lớn tột cùng. Tôi hiểu rằng học từ người khác, nhất là học từ những người tuyệt vời thì quan trọng hơn học từ sách vở nhàm chán. Có những người mà tôi xem như những người thầy vĩ đại. Có quá nhiều người mà tôi biết ơn họ một cách sâu sắc vì đã giúp đỡ tôi một cách hết mình nhất có thể, kể cả khi thuận lợi và khi khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua.

Đến đây, bạn đã hiểu vì sao tôi lại tự cho rằng nếu tôi không bỏ đại học thì tôi là một người cực kỳ ngu dốt đối với bản thân mình rồi chứ?

 

Mr. Bow 

Việt Nam: Làm giàu từ nông nghiệp, tại sao không?

Featured Image: Fabrice Instinct Voyageur

 

Càng tìm hiểu sâu vào Israel và nền nông nghiệp thần kỳ của họ, tôi lại càng ngạc nhiên và khâm phục. Thế rồi, tôi nhìn lại, Việt Nam chúng ta là nước 70% làm nông nghiệp nhưng sao chẳng thấy thành tựu nào ra hồn. Người nông dân cả nước đang làm gì? Chúng ta có thể làm giàu từ nông nghiệp không? Có thể giúp đất nước phát triển bắt đầu từ nền tảng nông nghiệp không? Thế là tôi tìm hiểu, và tuyệt làm sao tôi đã tìm ra nhiều điều, nhiều chuyện, nhiều tấm gương hay ho, thú vị và cả bất ngờ nữa.

Trời ơi, nhiều quá, nhiều người giàu có nhờ nông nghiệp quá, gần như gõ từ khóa nào đại loại “làm giàu từ chuối, từ đu đủ, từ rau thơm, từ cá, từ rắn rết bọ cạp ễnh ương” từ cái quái gì cũng có người giàu cả. Cả một kho tấm gương làm giàu như thế, mà xưa giờ chúng ta quá thờ ơ. Phải chăng vì không bạn trẻ nào muốn làm nông nghiệp? Phải chăng vì làm nghề nông, làm người nông dân nghe nó “tầm thường” hay “hèn mọn” quá đi? Bao nhiêu cử nhân rời trường đại học Nông-Lâm giờ họ đang làm gì? Đang có những trang trại riêng hay đang cố gắng tìm một công việc gì đó nghe nó sang chảnh “văn phòng” hơn để bám trụ nơi thành phố?

Làm nông có phải chỉ đơn giản là nuôi và trồng, thu hoạch và bán nông sản không? Làm nông nghiệp có giàu nổi không? Tôi đã đặt ra rất nhiều câu hỏi và tự đi tìm câu trả lời. May thay, câu trả lời là chúng ta hoàn toàn có thể có thể làm giàu từ nông nghiệp, giàu bền vững và không giới hạn khả năng. Với nông nghiệp, chúng ta có thể làm giàu từ những thứ giá trị cho tới những thứ bỏ đi nữa kìa (như là tận dụng đồ phế thải làm phân bón, thức ăn cho cá, làm giàu từ vỏ bao xi măng…) Nông nghiệp như là một môi trường tuyệt vời, sẽ trả công xứng đáng cho những người xứng đáng, yêu mến nó, hết lòng vì nó và nhất là không xem thường nó:

Những lão nông tỷ phú

1. Tiền Giang có ông “Vua mít Ba Lập” bắt đầu từ 10 cây mít giống trong một lần đi thăm bà con ở Đồng Nai. Ông được giới thiệu về một loại mít có nguồn gốc từ Thái, tò mò mua 10 cây giống về trồng thử. Chăm sóc kỹ và đợi một năm rưỡi sau, 10 cây mít đầu tiên cho trái. Ông ăn thử thấy rất ngon mới bắt đầu ghép cành, nhân giống ra trồng đại trà. Đặc điểm của loại mít này là múi to, cơm dày, ăn giòn, ngọt thanh, rất ít xơ và mủ. Thế là từ 10 cây giống đầu tiên, ông ghép cành và nhân ra lần đầu khoảng 50 cây rồi tăng dần lên, đến nay vườn mít 9.000m2 của ông có chừng 600 cây mít đủ cỡ. Ông Lập cho biết đặc điểm của loại mít này là không theo mùa mà ra trái thường xuyên, hết đợt này đến đợt khác liên tục, chu kỳ từ khi ra hoa đến khi thu hoạch gần 4 tháng. Vì vậy, để trái có trọng lượng lớn, bán được giá cao, cần phải tỉa bỏ bớt. Tùy theo độ tuổi của cây mà chừa trái cho thích hợp.

Trung bình nếu bón phân, tưới nước đầy đủ thì mỗi đợt chỉ nên chừa lại chừng 10 trái mỗi cây. Khi thu hoạch, mỗi trái có trọng lượng từ 20 đến trên 30 kg là bình thường. Càng ít trái thì trọng lượng mỗi trái càng lớn. Với giá mít dao động từ khoảng 28.000 đến 34.000 đồng/kg như hiện nay, mỗi trái mít có thể bán được hơn 500.000 đồng. Như vậy mỗi đợt thu hoạch, một cây mít có thể thu được trên 6 triệu đồng và một năm có thể thu hoạch được 3 lần. Vườn mít của ông Lập có chừng 600 cây nên mỗi năm có thể thu được tiền tỉ là dễ hiểu. Đó là chưa kể nguồn thu nhập từ bán cây giống. Chỉ riêng năm 2011 ông Lập cung cấp ra thị trường gần 20.000 cây mít giống. Với giá 12.000 đồng/cây, ông thu nhập thêm hàng trăm triệu đồng.

Thế là ông trở thành “Vua mít”, thành tỷ phú nhờ mít. Thật đáng thèm thuồng!

2. Ghé về Trà Vinh có ông “Sang cam sành”: Là một trong những tỷ phú cam sành của xã Tam Ngãi, Hai Sang hiện canh tác 3,5 ha đang giai đoạn cho trái. Chỉ tính mùa cam năm 2010 và 2011, ông thu về hơn 3 tỷ đồng. Bí quyết của Hai Sang là trồng cam nghịch vụ. Nghề trồng cam vùng này lâu nay mỗi héc ta thu vài trăm triệu đồng là chuyện thường. Nhưng trong 3 năm liên tục, mỗi héc ta cam nghịch vụ thu bạc tỉ, khiến bản thân Hai Sang cũng cảm thấy… sửng sốt. Từ 2009 tới nay, chỉ với chưa đầy một mẫu đất, Hai Sang thu về hơn 4 tỷ đồng, con số trước đây có mơ ông cũng không dám nghĩ tới.

Hai Sang phân tích, đất mà nhà vườn Tam Ngãi đang trồng cam là đất phù sa bồi đắp bởi sông Tiền. Từ xưa tới giờ vùng này không bao giờ thiếu nước ngọt nên trồng cam muốn xử lý cho ra trái bất kỳ tháng nào trong năm đều được. Trái cây mùa thuận phải nhờ đến nước mưa, còn đất ven sông Tiền có lợi thế là không lệ thuộc nước mưa nên nhà vườn có thể đổi sang thu hoạch mùa nghịch theo ý mình. Ở xã Tam Ngãi, trồng cam nghịch vụ thu nhập 1 tỷ đồng/ha/năm tính ra tới mấy chục hộ chứ không phải ít. Cam mùa thuận giá 4.000-5.000 đồng/kg, mỗi héc ta bình quân 25 tấn, nhà vườn thu hơn 100 triệu đồng, vẫn cao hơn lúa. Còn trồng vụ nghịch, mỗi kg giá 25.000-30.000 đồng, có khi cao hơn nên thu về tiền tỉ cũng không có gì lạ.

(Thu tiền tỷ mà không có gì lạ, ôi tự nhiên tôi muốn trở thành “P.T cam sành” quá chừng!)

Ngoài ra còn vô vàn những lão nông với thu nhập khủng, tính bằng tiền tỷ mỗi năm như ông “Vua lúa Chín Táo” với tổ hợp sản xuất diện tích hàng trăm ha, cung ứng ra thị trường tới 10.000 tấn lúa giống/năm, doanh thu 70-80 tỉ đồng. Hay ông Biền – Tiền Giang thu nhập hơn tỷ đồng mỗi năm nhờ cây khóm trên vùng đất phèn vùng Đồng Tháp Mười. Hay anh Tấn Tài với những nhạy bén trong chăn nuôi heo gà, cá sấu đã giúp anh gầy dựng cơ ngơi cả chục tỷ đồng chỉ sau vài năm… Những tấm gương đó bạn có thể tham khảo ở đây.

Thật tình mà nói, họ thật đáng ngưỡng mộ, nhưng họ đều là những lão nông lâu năm dãi dầu. Thành công của họ không phải ai muốn cũng có thể bắt chước làm theo và đạt được điều họ đã đạt. Nhưng không gì là không thể đúng không? Sao chúng ta biết chúng ta không thể nếu ta không thử? Và thế hệ trẻ như chúng ta, được biết, được học và được tiếp xúc với khoa học – công nghệ – kỹ thuật càng nhiều, thì ta lại càng có nhiều cơ hội để thành công và thậm chí là thành công vượt bậc nữa kìa.

Những câu chuyện “sinh ra từ làng”

Không màu mè mà gần gũi, bình dị, “Sinh Ra Từ Làng” là chương trình chính luận về thanh niên nông thôn lập nghiệp rất thành công, bởi sức lan tỏa đến không ngờ về những hoài bão, lí tưởng sống của giới trẻ lập thân, lập nghiệp trong cuộc sống hiện nay. Sau 2 năm phát sóng, chương trình đã giới thiệu 52 tấm gương thanh niên nông thôn tiêu biểu, những mô hình kinh tế điển hình, xuất sắc trên khắp cả nước. Những câu chuyện như:

Nguyễn Văn Bách (1981, Tuyên Quang) năm 2010 anh bắt đầu nghiên cứu và đưa giống chanh tứ mùa từ Đà Lạt về trồng với số cây giống ban đầu là 100 cây. Đến nay mỗi năm, anh thu được 20 tấn quả trị giá 400 triệu đồng; ngoài ra anh còn thu nhập từ việc bán cây giống 750 triệu đồng. Tổng doanh thu 1 năm đạt hơn 1,1 tỷ đồng.

Không chỉ giỏi trong việc tăng năng suất cây trồng, nhiều thanh niên nông thôn đã sớm trở thành những ông chủ thành đạt nhờ ý thức bảo vệ môi trường. Điển hình là Đặng Văn Mạnh (Hải Dương), người được mệnh danh là “thầy phù thủy” nhờ những vỏ bao xi măng cũ lại được anh “hô biến” thành… 700 triệu đồng/ tháng. Từ những chiếc vỏ bao xi măng cũ bị vứt bỏ, anh Mạnh đã góp phần bảo vệ môi trường bằng cách tái chế chúng thành những chiếc vỏ mới tinh nhưng lại không thải ra môi trường lượng nước thải độc hại chứa lượng xi măng dư thừa. Chỉ mới 35 tuổi, anh Mạnh đã sở hữu một cơ sở sản xuất 500m² , mỗi ngày cho ra lò 20.000 vỏ bao xi măng mới. Trung bình mỗi tháng, cơ sở của anh xuất ra thị trường 30 – 35 vạn chiếc vỏ bao xi măng với giá thành 2.200 đồng/ chiếc. Tính ra, mỗi tháng, anh thu về hơn 700 triệu đồng.

Hay như chàng cử nhân trẻ Nguyễn Duy Thiên Ân (1990, Đồng Nai). Đây là nhân vật đã từ chối suất học bổng toàn phần đi du học Pháp để ở lại… nuôi gà. Tuy nhiên, để kiếm được tới gần 20 triệu đồng/ngày từ những quả trứng lại là một chặng đường vất vả với nhiều thất bại. Rốt cuộc, chàng sinh viên trẻ này đã tìm ra được cách nuôi gà rất đặc biệt: Ngoài việc đảm bảo môi trường vệ sinh, nguồn thức ăn sạch và đủ dinh dưỡng, đàn gà còn được thưởng thức những bản nhạc giao hưởng êm dịu của Mozart và Beethoven để không gian luôn lý tưởng. Với sự say mê đầy sáng tạo, chàng trai Nguyễn Duy Thiên Ân trở thành người đầu tiên ở Việt Nam sản xuất trứng gà Omega 3 -loại trứng nhiều dinh dưỡng gấp 3 lần trứng gà thông thường, có nhiều chất làm giảm mỡ máu,chữa tim mạch, ung thư, đẹp da, tốt cho não… và mô hình nuôi gà của anh đã mang lại thành công trên con đường làm giàu cho bản thân và quê hương.

Học đại học về làm nông dân, tại sao không?

Tốt nghiệp khoa cơ khí trường đại học sư phạm kỹ thuật TP.Hồ Chí Minh năm 2000, trong khi bạn bè kéo nhau đi kiếm việc ở các công ty với mức lương khá cao thì anh Vũ Văn Vương (Xuân Lộc) lại khăn gói về quê để làm nông dân. Anh chia sẻ: “Thấy bà con trồng rau vất vả quanh năm mà thu nhập vẫn thấp nên tôi muốn mình sẽ làm mô hình điểm về trồng rau năng suất cao và tự tìm đầu ra cho mình và bà con. Có đầu ra ổn định, lợi nhuận sẽ cao.” Hiện tại, rau do gia đình anh Vương sản xuất đã được một doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh đặt hàng với giá ổn định. Từ hai bàn tay trắng, nhờ trồng rau hiện anh Vương đã có trong tay cơ ngơi khang trang với lợi nhuận thu được mỗi năm vài trăm triệu đồng. Và khoản tiền lời đã được anh đầu tư vào việc mua đất để mở rộng sản xuất.

Năm 2002, anh Quyền (Đà Nẵng) cầm tấm bằng cử nhân Quản trị du lịch cùng bằng cử nhân luật đi xin việc ở thành phố. Nhưng với đồng lương tháng ba cọc ba đồng không đủ sống, sau gần 1 năm bám trụ thành phố, anh quyết định về quê lập nghiệp. Tuy nhiên lúc đó vốn liếng không có, bản thân anh cũng không có kiến thức gì về nông nghiệp. Nhờ người thầy giáo thời đại học giới thiệu mô hình trồng nấm rơm, anh quyết định vay tiền làm liều. Thời gian này cơ sở nấm của anh độc quyền trên thị trường Đà Nẵng nên nấm làm tới đâu bán hết tới đó. Thừa thắng, anh thuê đất của các gia đình trong vùng mở rộng mô hình trồng nấm.

Chỉ trong vòng 1 năm anh giàu lên trông thấy, dư tiền mua xe hơi xây nhà lầu nhưng anh lại chọn cách tiết kiệm để giúp những bà con lối xóm xung quanh cùng giàu với mình. Khi không còn đất để tiếp tục do bị giải tỏa, anh mày mò tìm hiểu kỹ thuật trồng nấm tiên tiến ít lệ thuộc vào đất và đã thành công. Anh Quyền tiết lộ, hiện thu nhập của anh từ trồng nấm khoảng 50 triệu đồng/tháng. Có điểm tựa vững chắc anh mạnh dạn nghiên cứu để từng bước cho ra thị trường các sản phẩm đặc biệt từ nấm như: Nước mắm nấm, mắm ruốc từ nấm.

Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Khoa học Cây trồng – Đại học Nông nghiệp I, anh Trương Văn Dư (1981, Hà Nội) tìm được một công việc trong doanh nghiệp nước ngoài tại thủ đô. Đến năm 28 tuổi anh nhận tấm bằng thạc sĩ khi đang làm cho một doanh nghiệp Nhà nước với mức lương cao. Nhận xong bằng thạc sĩ, anh Dư rủ một số bạn bè lên Mộc Châu thuê đất để làm nông nghiệp vì thấy khí hậu ở đây rất phù hợp. Ý tưởng này vấp phải phản đối mạnh mẽ từ gia đình, đặc biệt là mẹ anh. Thất bại khi trồng cây dưa hấu, anh chuyển qua trồng cà chua trái vụ vì nhận ra mặt hàng này nguồn cung ở miền Bắc khá hạn chế. Và anh lại thất bại lần nữa cho tới khi Viện Rau quả Việt Nam được chuyển giao kỹ thuật lai ghép cà chua lên gốc cà tím từ trung tâm phát triển rau thế giới nhưng chưa có đối tác dám nhận thử nghiệm. Anh Dư quyết định mạo hiểm thêm một phen mặc dù chi phí đầu tư cho dự án này không phải nhỏ.

Để thực hiện kế hoạch mới, anh vay một tỷ đồng từ bạn bè, gia đình để làm nhà kính và sản xuất cà chua giống ghép trên cây cà tím trên diện tích ban đầu là 8.000 m2. Không lâu sau đó, anh đã thành công khi ghép được 18.000 cây giống đưa ra thị trường. Năm 2012 anh Dư đã quyết định thành lập Công ty cổ phần GreenFarm. Hiện diện tích sản xuất của Green Farm đã được mở rộng và công suất ghép hàng năm được 2,5 triệu cây giống, với giá bán 1.200 đồng mỗi cây. Ngoài ra, anh còn phát triển thêm diện tích hơn 1,5ha trồng rau an toàn cung cấp cho các nhà bán lẻ ở khắp nhiều tỉnh thành. Anh cho biết, năm 2013, doanh thu từ tiền cây giống ghép khoảng 3 tỷ, sau khi trừ các chi phí thì lợi nhuận đạt trên một tỉ đồng. Còn lợi nhuận từ sản xuất rau an toàn vào khoảng 300 triệu đồng. Những con số trong mơ với phần lớn những thạc sĩ giấy ngoài xã hội…

Những nguời bạn nông dân

Thôi không nói chuyện trên báo đài nữa, giờ nói chuyện thực tế xung quanh, chuyện người thật việc thật nhé.

Bạn tôi, nhà nó ở Bình Thuận và như mọi người, nhà bạn trồng trái thanh long, tôi mới hỏi: “Sao trồng thanh long mà người ta lại giàu được nhỉ?” “Tại sao không?” “Vì cứ đến mùa mình thấy trái thanh long đổ đống ngoài đường như núi, 10 ngàn/ 3kg thế thì giàu làm sao?” “Ôi bạn ơi, cái đống đó là hàng dạt, hàng thải rồi, trái ngon người ta đem đi xuất khẩu hết còn đâu.” “Trời, mình không biết luôn”. “Này nhé, 1 ha thanh long 1 năm thu vài trăm triệu/vụ thôi, nhưng giờ 1 năm người ta thu được mấy vụ lận, trung bình 1 ha thanh long 1 năm cho thu cả tỷ đó bạn. Nhà nghèo thì 1-2ha, trung bình như nhà mình 5-6ha, nhà giàu thì 10-40ha, đại gia thì 50-100ha. Bạn tính đi.” “Thế chi phí thế nào?” “Chi phí cho 1 ha khoảng 500tr/năm, trù chi phí rồi thì 1 ha thanh long 1 năm sẽ sinh lời 500 triệu”. Quả là con số trong mơ. Tôi muốn đi trồng Thanh Long quá.

Một người anh (xã hội) của tôi, vừa mới đăng những bức hình tuyệt vời. Một bức là hình gốc cây củ mỳ chi chít củ, cây mỳ này do anh và bạn bè hợp tác trồng tại … Campuchia. Dạ vâng, anh cùng bạn bè qua đó thuê đất, thuê nhân công làm nông nghiệp, trong khi ở Việt Nam anh vẫn đi làm công việc văn phòng bình thường. Anh cho biết chi phí thuê đất và nhân công bên đó rẻ hơn, trang trại củ mỳ của anh áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới nên cho rất nhiều củ so với thông thường. Còn ở Việt Nam, anh cũng về quê ở miền tây, mua vài sào đất, giá đất nông nghiệp ở quê thì rẻ và anh đang đầu tư trồng cây bưởi da xanh. Nhìn những cây bưởi thấp lè tè mà trái sai trĩu cành anh khoe trên facebook, tôi tin chắc anh sẽ thành công, anh sẽ giàu thôi, nhờ vào nông nghiệp chứ không phải bất cứ công việc bàn giấy nào ở Sài Gòn mà anh đang làm. Tôi tin như thế.

Tôi muốn trở thành cô nông dân

Khi đọc những bài viết về nông nghiệp và nghiên cứu chủ đề này. Tôi có nói chuyện với một cậu bạn, hiện đang làm cafe và kinh doanh thu mua cafe, cậu ấy đã hướng tôi tới việc tìm hiểu một loài cây khác, loài cây mới, với những lợi ích kinh tế to lớn trong tương lai. Và tôi bỗng nhìn thấy một cơ hội tuyệt vời. Không muốn nói gì quá sớm vì tất cả chỉ là một ý tưởng lóe lên bất chợt. Chẳng có gì đảm bảo tôi sẽ thực hiện hay sẽ thành công. Nhưng điều đáng tự hào là, tôi có ý tưởng, có ý tưởng ta sẽ có tất cả. Tuyệt vời làm sao nó lại từ ngành nông nghiệp, một ngành mà trước tới nay tôi chỉ xem thường và bĩu môi.

Có cả ngàn cả tỷ cơ hội để bạn làm giàu bằng nông nghiệp. Đó là cái giàu bền vững và thiết thực, chứ không chỉ đơn giản là mua đi bán lại những mặt hàng đơn lẻ hay chứng khoán, cổ phiếu. Bạn có thể không có nhiều đất đai, bạn có thể không có nhiều vốn, bạn có thể không biết gì về kỹ thuật và công nghệ… Không hề gì cả, nông nghiệp luôn đón chào mọi người đến thử nghiệm, học hỏi và thành công, từng chút một. Bạn sẽ nhận ra, bạn không chỉ giàu nhờ bán quả, bán rau, bán cá mà bạn còn giàu nhờ bán cây con, hạt giống và nguyên liệu nữa. Rồi bạn sẽ lại nhận ra, cam không chỉ là cam, chuối không chỉ là chuối. Mà chúng còn có khả năng gia tăng lợi nhuận tới không ngờ, nếu như bạn biết sáng tạo, lai tạo chúng thành những thứ nghe có vẻ lạ lùng: chuối tím, thanh long ruột đỏ, xoài vỏ tím, dưa hấu ruột vàng, dưa hấu vuông, bưởi Phật… Đó là những thứ đã có trên thị trường. Nếu như bạn có thể tạo ra gì đó, đại loại khoai tây ăn vị như khoai lang, quả cam ăn có vị như quả đào hay lạ lùng hơn là cho ra giống chuối tròn xoe chẳng hạn… Tôi dám cá bạn sẽ giàu lên, rất nhanh thôi.

Ai cũng muốn làm giàu, nhất là thế hệ trẻ chúng ta, nhưng tại sao luôn là các ngành công nghệ, dịch vụ, kinh doanh mới chịu? Chúng ta chẳng có thế mạnh gì ở các lĩnh vực đấy cả, hơn nữa làm nông nghiệp không phải là làm kinh tế sao? Làm nông nghiệp thì không được thành lập công ty, không được làm giám đốc à? Làm gì có chuyện đó. Nên các bạn của tôi ơi. Nếu như bạn đang đau đáu về những biện pháp làm giàu bền vững, nếu như bạn đang phân vân và hoài nghi về những dự định hay kế hoạch mơ hồ cho tương lai. Hãy thử một lần, suy nghĩ đi, bạn có thể làm gì với nông nghiệp?

Biết đâu đấy, Israel nổi danh vì những công nghệ nuôi trồng tiên tiến, xuất khẩu hàng đầu, Việt Nam chúng ta lại trở thành nước hàng đầu thế giới về những thứ trái cây lai tạo “thần tiên” không giống ai với đủ mọi hình thái, màu sắc, hình dạng và hương vị thì sao. Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra đúng không? Biết đâu Việt Nam lại rạng danh vì những thứ: chuối tròn xoe Việt Nam, khoai lang-tây Việt Nam, sầu riêng không gai, xoài chín thơm mùi mít, trái bơ tự nhiên ngọt ngon như dằm sữa… Nghe thôi đã thấy hào hứng quá đỗi rồi.

(Tuy nhiên từ góc độ cá nhân, tôi không khuyến khích các phương án nuôi trồng cấy ghép biến đổi gien đâu ạ)
Hi vọng đọc bài viết này, sẽ có nhiều người hơn, suy nghĩ một cách nghiêm túc tới việc trở thành những cô/cậu nông dân. Những cô/cậu nông dân triệu phú, tỷ phú một ngày không xa nhé, để những câu “cô nông dân biết phải làm sao? người nông dân phải làm sao đây? … trên facebook không còn vô nghĩa nữa.

 

Phi Tuyết

Các bạn có thể tham khảo thêm những câu chuyện làm giàu từ nông nghiệp:

  • http://www.hoinongdanhungyen.org.vn/index.php?option=com_content&view=category&layout=blog&id=58&Itemid=37
  • http://dantri.com.vn/xem-an-choi/sinh-ra-tu-langnhung-dai-gia-tre-lam-giau-tren-que-huong-783432.htm
  • http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121213/muu-sinh-tu-dong-von-nho-ky-17-trong-chuoi-thu-tien-ti-moi-nam.aspx

Ăn thịt chó hay không ăn thịt chó?

Featured Image: Barbara O’Brien 

Chúng ta có nên ăn thịt chó hay không? Những người bên phía “không” thì nói rằng do chó là bạn của con người, là loài động vật thông minh và trung thành… nên không được ăn thịt chó. Phía nói “có” thì bảo rằng suy cho cùng chó cũng là một người động vật (vì thế không được luật nhân quyền bảo vệ) nên có thể ăn thịt tuỳ thích, tại sao lại ăn thịt lợn mà không ăn thịt chó, trong khi đó nghiên cứu cho thấy lợn còn thông minh hơn chó (bản thân tôi không biết độ tin cậy của những nghiên cứu này đến đâu)…. Không chỉ thịt chó đối với nhiều loài động vật khác cũng có những quan niệm khác nhau về việc ăn hay không ăn chúng như lợn, mèo, ngựa, bò…

Nhưng câu hỏi đặt ra là: Đâu là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến việc chúng ta lựa chọn ăn hay không thịt một con vật nào đó.

Và lý do chúng ta có ăn hay không ăn một loài động vật nào đó dường như không phụ thuộc vào loài động vật đó mà phụ thuộc vào chính những suy nghĩ và quan niệm chủ quan của chúng ta.

Lấy ví dụ về việc ăn thịt chó, những người không ăn thịt chó họ nhìn thấy gì khi nhìn vào một con chó. Họ nhìn thấy đó là những sinh vật dễ thương, trung thành và tinh khôn. Vì thế họ không thể nào hiểu được việc tại sao người ta lại nỡ giết và ăn những sinh vật tốt đẹp đến vậy. Thành thật mà nói, những con chó đó chắn chắn không thể nào hiểu được những khái niệm phức tạp mà con người gán cho nó. Chó trung thành vì nó là loài động vật sống bầy đàn và sự trung thành đối với con đầu đàn (mà bây giờ đã được thay thế bởi con người) là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại của nó.

Còn việc chó rất dễ thương và biết “nịnh” người là bắt nguồn từ việc chọn lọc nhân tạo khi người ta sẽ ưu tiên chọn nuôi những cá thể chó dễ thương và biết “nịnh”. Tuy nhiên không quan trọng là những con chó đó có nhận thức được những giá trị đó hay không mà quan trọng là chúng ta đã GÁN cho nó những đó hay nói cách khác là chúng ta lựa chọn nó làm biểu tượng cho những phẩm chất mà chúng ta đề cao.

Khi nhìn vào chúng, chúng ta không thấy một con chó – một sinh vật hữu sinh hữu diệt tầm thường mà chúng ta thấy chính mình, thấy tình bạn, tình yêu, sự trung thành. Suy cho cùng, con người luôn hướng đến những giá trị chân thiện mỹ nên chúng ta sẽ không bao giờ huỷ diệt (nói cụ thể là ăn thịt) những biểu tượng cho những gì tốt đẹp trong chúng ta.

Còn những người ăn thịt chó có lẽ không (hoặc hầu như rất ít) nhìn thấy những phẩm chất đó khi họ nhìn vào một con chó và đối với họ ăn thịt cho cũng chẳng khác gì ăn thịt heo (tất nhiên là ngon và lạ miệng hơn). Và việc họ ăn thịt chó hoàn toàn không nói lên việc họ thiếu đi những phẩm chất ấy mà chỉ đơn thuần là việc họ không lựa chọn việc gán ghép những giá trị ấy cho những con vật đó mà thôi. Và cũng chính vì việc không lựa chọn đó mà họ hoàn toàn không cảm thấy tội lỗi khi ăn thịt chó. (Ở đây tôi không bản đến việc đi trộm chó của người khác hoặc việc ăn thịt chó sẽ khuyến khích việc trộm chó vì vấn đề đó không nằm trong chỉnh thể nội dung của bài viết này)

Bản thân tôi là người không ăn thịt chó và tôi cũng không ăn nhiều con vật khác nữa. Tôi không ăn thịt mèo vì tôi không thể hiểu tại sao người ta có thể ăn những sinh vật đẹp đẽ, duyên dáng đến vậy. Tôi không ăn thịt cá voi vì bên cạnh cá voi là một loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng thì cũng là những sinh vật hết sức xinh đẹp, hiền hoà và vĩ đại. Tôi cũng sẽ từ chối ăn thịt đại bàng giống người Mỹ vì không ai lại đi ăn một sinh vật dũng mãnh và đầy kiêu hãnh như vậy.

Tuy nhiên, tôi có thể ăn thịt khỉ, dù đối với một số người khi có thể tượng trưng cho sự thông minh nhưng lý lẽ đó có vẻ không thuyết phục tôi lắm vì khi nhìn vào một con khỉ tôi chẳng thấy có gì thông minh cả. Tương tự với thịt bò, vì tôi không thờ thần bò nhưng người Ấn Độ nên tôi cứ ăn thịt bò thoải mái mà không cần sợ bị thần thánh nào dòm ngó cả. Tôi cũng sẵn sàng ăn thịt heo vì không như người Hồi giáo, tôi chẳng thấy heo có gì dơ bẩn hơn những con vật khác cả.

Vì vậy, việc có lựa chọn ăn hay không ăn một loài động vật nào đó phụ thuộc phần lớn ở quan niệm và thế giới quan của chúng ta, ở cách chúng ta nhận thức về các giá trị và lựa chọn biểu tượng cho các giá trị đó. Và cũng thật vô lý khi chúng ta phán xét những người không có lựa chọn giống chúng ta. Cả người ăn thịt cho lẫn người không ăn thịt chó đều có thể rất đề cao những giá trị như tình bạn, sự trung thành, sự chân thành nhưng khác nhau ở chỗ là họ có lựa chọn chó là biểu tượng của những phẩm chất ấy hay không thôi.

Lại bàn một chút về việc bảo vệ những động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Tại sao chúng ta lại bảo vệ chúng? Thực dụng mà nói, có thể trên những động vật đó có những chất có thể giúp chữa bệnh hoặc đem lại một lợi ích nào đó cho con người. Nhưng đằng sau đó, chính là ý thức trách nhiệm của chúng ta, bởi chúng ta – với tư cách là một thành phần của toàn thể cộng đồng nhận loại phải nhận lãnh trách nhiệm về hậu quả do hành động của chúng ta trong quá khứ và hiện tại. Tôi có thể không phán xét bạn về việc bàn có ăn thịt chó, mèo, heo, bò hay không nhưng tôi sẵn sáng phán xét bạn là một con người vô lương tâm, vô trách nhiệm, và ngu dốt nếu bạn tiêu thụ sản phẩm làm từ tê giác, hổ hay từ bất cứ một loài nào có nguy cơ tuyệt chúng vì đây không còn là vấn đề về lựa chọn cá nhân mà là phủ nhận trách nhiệm của chúng ta như một phần của toàn thể loài người.

 

Phạm Quốc Việt

Nếu ngày mai chẳng may bạn mất đi, bạn có nuối tiếc không?

Featured Image: Richard Gaston

 

Hôm nay là sinh nhật tôi, tất nhiên tôi còn khá trẻ, chưa nhiều vốn sống, các mối quan hệ hay hiểu cho hết cái sự đời, nhưng tôi chán ghét các vị, nếu các vị là những kẻ hay đổ lỗi cho tuổi trẻ của mình, như cách tôi làm cách đây 2 năm. Giờ đây tôi có một lượng bạn đọc quen thuộc, có 3 trang fanpage cá nhân của mình, viết bài cho một vài trang fanpage hơi bự xíu, nhận những dự án viết, từng làm event, tư vấn, chụp ảnh, đi nhậu và nói chuyện nhân sinh, học hỏi cùng những người lớn hơn mình cả chục tuổi, tìm kiếm những đồng đội để nung nấu một vài dự án khởi nghiệp (dự kiến sẽ ra mắt trong năm nay), v…v… Tôi kể chẳng phải để khoe khoang, tôi cũng chẳng dạy đời bởi tôi biết ngoài kia có nhiều người giỏi hơn tôi gấp trăm ngàn lần, vốn sống chưa đủ lận lưng thì đi mà dạy đời ai? Nhưng qua họ, qua chính 2 năm dài dằng dặc cùng lắm trải nghiệm, tôi nhận ra chẳng phải do tuổi trẻ đâu. Đa phần các bạn đang đọc những dòng tôi viết đều rất trẻ, nếu sau bài viết này các bạn vẫn nghĩ mình thực nghèo nàn, vô dụng và dùng thời gian mình làm chuyện vô bổ thì tôi thất bại.

Trẻ thì ngoài khỏe có làm được gì? Thiếu vốn sống, thiếu kinh nghiệm, thiếu va vấp, thiếu các mối quan hệ, an phận thì tốt hơn, chết lúc nào không hay.

Trẻ thì thiếu nền tảng, mới chớm vụt khỏi vòng tay ôm ấp của cha mẹ, thất bại thì ra đê à? Cái gì cũng vậy, phải từ tốn, chầm chậm mới chắc ăn. Kiểu như vầy: Nhỏ thì đi nhà trẻ ăn học cho khỏe, lớn lên xíu thì học 12 năm phổ thông, sau đó học đại học kiếm cái bằng, đang tuổi ăn tuổi học mà, mần chi? Biết chi mà mần? Sau đó ra trường đi làm, kiếm công việc ổn định, tốt nhất là “nhàn hạ mà lương cao”, sau đó lấy vợ lấy chồng, rồi chăm con, rồi con nó đi học, đi làm, lấy vợ lấy chồng…

Thật ra đó là chuyện của xa xưa rồi, và đừng vịn cớ vào những điều trên, để tôi nói sự thật nhé:

1. Sợ:

Sợ giao tiếp:

Con người vốn là động vật của cảm xúc, họ vui thì họ làm tốt, cười và mang niềm vui đến mọi người, họ buồn thì cả ngày ủ rũ, chẳng làm gì ra trò trống. Mà cách hay nhất để tạo được cảm xúc là giao tiếp, tạo niềm vui, sự thú vị cho người khác và nhận những điều thú vị, cảm xúc vui vẻ, thăng hoa về phía mình. Vốn việc giao tiếp ngày càng dễ dàng, có các công cụ tiên tiến hỗ trợ để thế giới ngày càng phẳng hơn, khoảng cách địa lý ngày càng rút ngắn hơn nhưng người ta lại ngại giao tiếp hơn, thật lạ!

Sợ thất bại:

Sợ thuyết trình, sợ bán hàng, sợ giao tiếp, sợ các cuộc thi, sợ nộp CV, sợ phỏng vấn, v…v… Đơn giản là sợ thất bại! Sợ mất mặt với bạn bè, với những người chung quanh, sợ tiếng chê cười của người đời.

Nhưng mà nói không phải chửi, đang là sinh viên, đang còn trẻ “trâu”, có danh có tiếng có miếng cơm manh áo nào đâu mà sợ mất? Càng sợ mất càng đánh tuột mất một đống cơ hội, thế là đã sợ ngày càng sợ hơn!

2. Lười:

Lười suy nghĩ:

Đầu tiên là lười đọc, đọc sách, đọc báo chí (kiểu như Forbes), đọc những bài phân tích sâu, hơi dài xíu là lướt qua ngay. Tôi gặp rất nhiều người comment kiểu: “Dài quá lười đọc.” Ngay cả kiên nhẫn dăm ba phút còn chẳng làm được, sao họ nghĩ mình đi làm công ăn lương, ngày 8 tiếng, năm 350 ngày họ sẽ làm được?

Thứ hai là lười trao đổi những thứ thực sự hay ho, chỉ ngồi gặm nhấm chuyện ngày xưa, chuyện tào lao, chuyện scandal, chuyện thế giới rồi đi về với cái đầu rỗng tuếch!

Lười hoạt động:

Cứ nhắc đến các buổi hội thảo, các khóa học về kỹ năng, các buổi sinh hoạt của CLB là lại lười, cứ vịn cái cớ có cái gì hay đâu, đi chỉ tổ tốn thời gian. Các diễn giả bỏ ra cả gần chục năm, vừa đúc kết cái của thầy họ dạy, sách dạy, cái chính cuộc sống dạy họ ra chia sẻ mà bảo tốn thời gian, vớ vẩn. Cũng vì vậy mà cả 1 lớp mấy chục đứa, kể các những trường năng động nhất như Ngoại Thương, Kinh Tế, IU cũng chỉ vài ba đứa thuyết trình tốt, dõng dạc, biết cách nói chuyện, lên kế hoạch, teamwork, còn lại cứ như nông dân xài điện thoại, loay hoay chả biết làm sao.

Cứ nhắc đến các hoạt động bên ngoài, đi làm thêm, tham gia tình nguyện, đi phượt, du lịch là lại lười, bảo thôi tốn tiền ba mẹ, đi cũng chỉ ngửi bụi chứ làm được gì, cũng vì vậy mà cả thành phố bự chỉ biết được vài ba đường cỏn con quanh khu mình ở, vốn sống cụt lủn mà đòi làm cao, chán nốt!

Trước ngày sinh nhật của mình, nhận được tin Toàn Shinoda mất đi, tôi chột dạ và nhớ đến bài dạy của thầy tôi, ảnh nói cuộc sống có 2 bài học kỳ diệu lắm:

  1. Bạn chắc chắn sẽ chết
  2. Bạn không biết lúc nào cái chết sẽ đến với mình

Thấy anh Toàn mất đi mà tôi chợt nghĩ, liệu mình còn mấy ngày nữa? Bao nhiêu người trong các bạn đã từng trải qua cảm giác người bạn đồng trang lứa của mình bỏ mình đi rồi? Nếu bạn là nó, bạn có hối tiếc không? Nếu ngày mai chẳng may bạn mất đi, bạn có nuối tiếc không? Tiếc những ngày lười biếng, tiếc chưa nhận ra được những điều thú vị trong cuộc sống này? Tiếc chưa từng biết yêu thương? Tiếc chưa từng làm điều gì để ba mẹ mình tự hào?

Nếu thấy tiếc thì đọc tiếp, còn tiếc thời gian đọc bài của tôi thì nghỉ. Bản thân tôi cũng có nỗ lực, nhưng vẫn còn nhiều lúc lơi lỏng, lười biếng lắm, nhưng nhìn tin anh Toàn ra đi thì tôi chả dám tiếc nữa. Phục các bạn thật đấy nếu sau khi đọc bài viết này các bạn vẫn chây lười được.

Vậy tuổi trẻ thì có điều gì?

1. Chẳng có cái quái gì cả!

Kỳ vậy, nhưng thật đấy, vì chẳng có cái quái gì nên cũng chẳng có gì để mất, không tiền bạc, không danh tiếng, không sự nghiệp, thua thì làm lại, có mất mát gì đâu? Tại sao không làm một cái gì đó thú vị xem? Lỡ thành công thì sao? Bao nhiêu gương thành công tuổi 8x, 9x đấy còn chưa là cảm hứng à? Hoặc ít ra tránh được cái lý do LƯỜI ở phía trên!

2. Có một đống thứ!

Thời gian, đừng bảo các bạn bận, nhìn ba mẹ các bạn đi làm rồi trông con đi, các bạn sẽ biết thế nào gọi là bận! Sức khỏe, sự tò mò, tinh thần mạo hiểm. Đây đều là độc quyền của tuổi trẻ, lớn lên rồi chúng ta có lắm thứ phải gánh gồng lắm, thời gian đâu mà trải nghiệm cái mới, có dám mạo hiểm hay không?

3. Có những người đồng đội tuyệt vời nhất!

Giai đoạn tuổi trẻ là lúc bạn chẳng có cái quái gì cả, cũng vì vậy nếu ta chơi thân được với nhau là vì hợp tính, vì chân thành, vì tình bạn chứ chưa bị nhuốm bẩn bởi cơm áo gạo tiền, đây là lúc tốt nhất để thành lập các đội nhóm. Bạn chơi khác, bạn làm ăn khác à nha, 100 người chơi cùng thì may ra có được vài người vừa hợp tính, vừa hợp chí hướng, bởi vậy chơi đâu với chục đứa bạn, chưa bao giờ làm chung một cái gì đó thú vị rồi lại bảo chẳng có ai làm cùng, buồn cười!

Tuổi trẻ thì làm được gì?

Các bạn có biết câu chuyện của cô bé Alexandra Scott? Cô bé được chẩn đoán mắc bệnh ung thư trước khi tròn 1 tuổi, cuộc sống của cô bé chỉ xoay quanh ốm đau, hóa trị và phẫu thuật. Đến năm lên 4, Alex hỏi mẹ: “Mẹ ơi, chúng ta có thể bán nước chanh trước sân không?” Cô bé làm vậy để quyên tiền giúp đỡ trẻ bị ung thư. Trong 1 ngày, hàng nước chanh của cô bán quyên được 2.000$ . Điều thú vị là sau đó có hàng loạt hàng nước khác mọc lên, và họ quyên được 200.000$, Alex đặt ra mục tiêu mới: 1.000.000$! Và thế là hàng trăm hàng nước chanh ở khắp các bang mọc lên. Gần 2 tháng sau thì Alex mất trong vòng tay ba mẹ cô, khi cô 8 tuổi. Nhưng trước khi mất, Alex đặt mục tiêu là 5 triệu đô! Và đến hôm nay, số tiền cô bé muốn gây quỹ là 45 triệu đô!

Một người khác là Toàn Shinoda, anh ra đi là một sự tiếc thương vô hạn của tôi bởi tôi thích phong cách làm Vlog của anh, cái tiếng cười anh tạo cho người xem vừa châm biếm lại chặt chẽ và sâu sắc. Cùng sự tiếc thương của gia đình, bạn bè và các fan hâm mộ, dù Toàn bỏ dở cuộc chơi của mình, tôi tin là những gì anh để lại ở tuổi 27 cũng là một dấu ấn khó phai.

Thật ra trước kia tôi là một sinh viên kỹ thuật, ngại giao tiếp và chẳng muốn đi đâu, bởi tôi nghĩ những thứ đó khó nhằn, nhất là nói chuyện với người lạ, tổ chức những event, làm marketing hay làm việc với nhiều người. Nếu bạn cũng từng có suy nghĩ như vậy, tôi xin tặng các bạn một điều mà tôi rút ra như sau:

Đến khi bạn thực làm được một điều gì đó thực sự có ý nghĩa, bạn mới biết thực sự nó không khó như mình tưởng.

Này, đừng ười nữa, và chẳng việc gì phải sợ cả. Nên nhớ, có thể bạn sẽ chết bất cứ lúc nào đấy, đừng biến mất như thể chưa bao giờ tồn tại.

Thân mến!

À, chúc mừng sinh nhật chính tôi, 29/7
Ưng Đen

Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 4

Featured Image: Trevor Williams

 

Chủ nghĩa cá nhân là quan niệm cho rằng mỗi người đều có những quan niệm riêng về mặt đạo đức và một số quyền nhất định, đấy là những thứ có nguồn gốc thánh thần hay cố hữu trong bản chất của con người. Mỗi người sống, nhận thức, trải nghiệm, tư duy và hành động trong và thông qua cơ thể của mình và vì vậy mà xuất phát từ những điểm duy nhất trong không gian và thời gian. Chỉ cá nhân mới là người có khả năng hành động hợp lý một cách sáng tạo và mới mẻ. Các cá nhân có thể có ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng tư duy lại đòi hỏi phải có người tư duy duy nhất, đặc thù. Cá nhân nhận trách nhiệm tư duy cho chính mình, hành động dựa trên tư tưởng của chính mình và đạt được hạnh phúc của chính mình.

Tự do là điều kiện tự nhiên của cá nhân. Ngay từ khi chào đời, mỗi cá nhân đã có khả năng suy nghĩ những ý nghĩ của chính mình và kiểm soát năng lực của mình trong những cố gắng nhằm hành động phù hợp với những ý nghĩ đó. Người ta có thể khởi sự những hành động có mục đích của mình khi không gặp phải những cản trở mang tính mệnh lệnh – đấy là khi không có những ép buộc do những cá nhân khác, những nhóm người hay chính phủ gây ra. Tự do không phải là khả năng nhận cái mà chúng ta mong muốn. Những cản trở không mang tính mệnh lệnh như thiếu khả năng, thiếu kiến thức và nguồn lực có thể làm cho người ta không đạt được ước mơ. Tự do nghĩa là không có những trở ngại mang tính ép buộc, nhưng đấy không có nghĩa là không có tất cả những trở ngại. Như vậy là, tự do là điều kiện cần, nhưng chưa phải là điều kiện đủ, để được hạnh phúc.

Có thể coi hạnh phúc cá nhân là trải nghiệm tình cảm tích cực, có ý thức, đi kèm với hoặc xuất phát từ việc sử dụng tiềm năng của con người, trong đó có tài năng, khả năng và đức hạnh. Cảm nhận về việc mình thuộc về cộng đồng do mình tự do lựa chọn là thành phần quan trọng của hạnh phúc.

Chủ nghĩa cá nhân phủ nhận quan niệm cho rằng cộng đồng hay xã hội có thể tồn tại bên ngoài những cá nhân tạo ra nó. Cộng đồng hay xã hội là tập hợp của những cá nhân – đấy không phải là một vật cụ thể hay một cơ thể sống tách biệt khỏi những thành viên của nó. Sử dụng thuật ngữ trừu tượng như cộng đồng hay xã hội là để nhắm tới những con người nhất định, tức là những người chia sẻ những tính chất đặc biệt và quan hệ với nhau theo những cách đặc biệt nào đó. Không có những thứ như ý chí chung, lý trí chung hay thịnh vượng chung; chỉ có ý chí, lý trí và sự thịnh vượng của từng cá nhân trong một nhóm mà thôi. Cộng đồng hay xã hội chỉ đơn giản là tập hợp của những con người để hoạt động một cách có phối hợp. Hành động có phối hợp của nhóm là chức năng của những cố gắng mang tính tự chủ của mỗi cá nhân trong nhóm đó.

Mặc dù về mặt siêu hình học thì cá nhân là tối thượng (cộng đồng là phụ và phái sinh), nhưng cộng đồng cũng rất quan trọng vì người ta cần cộng đồng để đạt tới tiềm năng hạnh phúc của mình. Những ràng buộc xã hội là những ràng buộc mang tính công cụ nhằm thỏa mãn những khát vọng phi xã hội của từng cá nhân, là những giao kèo thiết yếu cho sự thịnh vượng. Trật tự chính trị tự do, là trật tự tôn trọng những quyền tự nhiên, trong đó có quyền tự do cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự hình thành những cộng đồng tự nguyện, thông qua những cộng đồng này mà người dân lựa chọn cách sống phù hợp với những giá trị chung do chính họ lựa chọn.

Cộng đồng chân chính là cộng đồng do người ta tự do lựa chọn

Nhấn mạnh vai trò tối thượng cho cá nhân không có nghĩa là giảm giá trị của hợp tác xã hội. Con người không chỉ là những cá nhân tách biệt với nhau mà còn là sinh vật mang tính xã hội nữa. Hành động có phối hợp thúc đẩy cơ hội phát triển và mang lại lợi ích, nếu không thì từng cá nhân riêng lẻ không thể nào đạt được. Lý tính của con người tạo điều kiện cho anh ta hợp tác và giao thiệp với những người khác. Trong xã hội tự do, người ta tự nguyện tham gia vào tất cả những công việc hợp tác xã hội. Trên thực tế, chủ nghĩa cá nhân cung cấp cho người ta nền tảng lý thuyết tốt nhất cho cộng đồng chân chính, tức là cộng đồng xứng đáng với đời sống của con người. Quan hệ tự nguyện, cùng có lợi giữa những cá nhân tự chủ là nền tảng cho việc hành thành những cộng đồng thực sự. Tính độc đáo và giá trị của mỗi người được khẳng định khi mỗi cá nhân cấu thành cộng đồng tự do lựa chọn tư cách thành viên trong cộng đồng đó.

Chủ nghĩa cá nhân và sự tự chủ giải phóng người ta khỏi sự phụ thuộc lẫn nhau. Trong cuốn bestseller có nhan đề Bảy thói quen của người có hiệu quả cao, ông Stephen Covey nhận xét rằng sự tương thuộc là lựa chọn mà chỉ có những người tự chủ mới làm được mà thôi. Một người có thái độ tích cực, tôn trọng nguyên tắc, hành động vì những giá trị, tức là người tổ chức và thực hiện những ưu tiên trong cuộc đời của anh ta bằng tấm lòng chính trực là người có khả năng xây dựng những mối quan hệ sâu sắc, lâu bền và có hiệu quả với những người khác. Tính tự chủ thật sự tạo điều kiện cho người ta hành động chứ không chỉ phản ứng.

Tính tự chủ đòi hỏi người ta phải liên kết một số nguyên tắc (đức tính) nhất định như trung thực, dũng cảm, công bằng, lương thiện và ngay chính vào trong bản chất của mình. Những người tương thuộc lẫn nhau kết hợp cố gắng của riêng họ với cố gắng của những người khác nhằm đạt được thành công và hạnh phúc lớn hơn. Họ là những người tự tin và có năng lực, là những người nhận thức được rằng làm việc cùng nhau thì có thể làm được nhiều hơn là làm một mình. Những người tương thuộc lẫn nhau tìm cách chia sẻ với nhau, học hỏi nhau, hiểu và yêu mến nhau và vì vậy mà có quyền tiếp cận với nguồn lực và tiềm năng của những người khác.

Cộng đồng chân chính tôn trọng các cá nhân tự do

Thuật ngữ cá nhân phải bao gồm tự do, công lý, đức hạnh, nhân cách và hạnh phúc; nhưng việc theo đuổi hạnh phúc cá nhân đương nhiên là và hầu như bao giờ cũng diễn ra trong cộng đồng. Người ta, như những cá nhân, có những nhu cầu mà không hợp tác với người khác thì không thể nào thỏa mãn được – thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của con người trong tình trạng cách ly là việc làm bất khả thi. Cộng đồng chân chính tôn trọng những con người tự do. Cộng đồng thật sự xuất hiện khi người ta được tự do thành lập những hiệp hội tự nguyện nhằm theo đuổi quyền lợi cá nhân và quyền lợi có tính hỗ tương với nhau. Tôn trọng con người hàm chứa sẵn trong lòng nó sự tôn trọng quyền hình thành hiệp hội mà họ lựa chọn cho mục đích đó.

Cá nhân không bắt đầu trong điều kiện cách ly – tồn tại nghĩa là cùng tồn tại. Sinh, về bản chất, là trong gia đình, với cha mẹ, anh em, ông bà, chú bác và anh em họ. Đến lượt mình, các thành viên trong gia đình lại có rất nhiều mối quan hệ với những thành viên khác trong những cộng đồng và hiệp hội tự nguyện khác nhau. Trong xã hội tự do, các cá nhân thường đồng thời là thành viên của nhiều cộng đồng khác nhau. Ở những mức độ khác nhau, mỗi người đánh đồng mình với những cộng đồng như gia đình, tôn giáo, địa phương, địa vị, nghề nghiệp, nơi làm việc, dân tộc, sắc tộc, văn hóa, chính trị và những cộng đồng khác nữa. Đấy thường là những cộng đồng có tính khu vực, nhưng không phải dứt khoát như thế, và có số người rất giới hạn, đấy là những người mà cá nhân có thể quen, có quan hệ và chia sẻ quyền lợi chung. Sự tiến bộ về mặt công nghệ ngày càng gia tăng trong lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông làm cho người dân có thêm điều kiện lựa chọn những cộng đồng đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu và kì vọng của họ.

Chính phủ tối thiểu tạo điều kiện cho các cộng đồng chân chính nở hoa kết trái

Liên kết vào trong những cộng đồng và hiệp hội tự nguyện tạo điều kiện cho các công dân giữ được sự độc lập đối với nhà nước. Cuộc sống trong những cộng đồng do người ta tự do lựa chọn tốt hơn là cuộc sống của một cá nhân rời rạc trong một quốc gia-dân tộc to lớn. Những người nghi ngờ quyền lực của nhà nước ủng hộ việc thành lập thật nhiều nhóm tự nguyện nằm trung gian giữa nhà nước và cá nhân – những định chế trung gian này giúp các cá nhân thực hiện những mục tiêu của mình một cách tự do hơn và đầy đủ hơn.

Nguyên tắc phân cấp là nhà nước nên giới hạn hoạt động của mình vào những lĩnh vực mà cá nhân và những hiệp hội tư nhân không thể thực hiện một cách hiệu quả. Các cá nhân và tổ chức khu vực gần gũi nhất với hiện thực xảy ra hàng ngày thường là có những quyết định sáng suốt nhất, cơ quan cấp trên chỉ nên quyết định khi có những vấn đề vượt quá khả năng của cấp dưới mà thôi. Phân cấp tạo điều kiện cho những người tự do phát triển trong những cộng đồng đúng nghĩa mà không cần có sự can thiệp của nhà nước.

Mục tiêu của nhà nước không phải là giúp người ta về mặt vật chất hoặc tinh thần để họ có thể theo đuổi quan niệm của họ về hạnh phúc – đấy là công việc của các cá nhân, cộng đồng và những hiệp hội tự nguyện khác. Vai trò thật sự của nhà nước chỉ là bảo vệ người dân trong khi họ theo đuổi hạnh phúc riêng của mình. Điều đó đơn giản có nghĩa là ngăn chặn sự can thiệp của những người khác.

Vì nhà nước có thái độ thù địch đối với sự hình thành và hoạt động của các cộng đồng tự nguyện, nhà nước tối thiểu – tức là nhà nước hoạt động trong những giới hạn của chủ nghĩa cá nhân tự do – làm cho việc hình thành những cộng đồng như thế được dễ dàng hơn. Những mối quan hệ cá nhân sâu sắc và có lợi trên cơ sở hợp tác tự nguyện và giúp đỡ lẫn nhau sẽ sinh sôi nảy nở trong những hệ thống tối thiểu, dựa trên quyền của con người. Tự do cá nhân là điều kiện cần cho sự hình thành và sức sống của những cộng đồng chân chính.

[themify_box style=”blue rounded” ]Edward Younkins là giáo sư kế toán và quản trị kinh doanh tại Wheeling Jesuit University, Wheeling, West Virginia.[/themify_box]

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Chủ nghĩa cá nhân và tự do: Những cây cột trụ sống động của cộng đồng chân chính

Còn đâu nữa những “con đường vắng, rì rào cơn mưa nhỏ”?

Featured Image: Kei Densetsu

 

Đường Hà Nội xưa thanh tĩnh và mộng mơ. Đường Hà Nội nay bốn bề hối hả, nhộn nhịp xô bồ.

Những ký ức về đường phố Hà Nội xưa có lẽ chỉ còn trong những lời thơ, câu hát:

“Em ơi , Hà Nội phố
Ta còn em
Mùi hoàng lan
Ta còn em
Mùi hoa sữa
Con đường vắng,
Rì rào cơn mưa nhỏ…”

Hà Nội nay còn bao hoa sữa với hoàng lan? Hà Nội nay có còn không những con đường vắng lặng, yên bình, nơi khiến người ta chỉ cần “thả hồn” vào đó bỗng hóa thành thi sĩ. Còn đâu nữa những hàng cây, những hè phố đỏ au màu gạch, nghe đâu đó loẹt quẹt tiếng bước chân người đi hòa cùng tiếng chim ca…Còn đâu ngõ vắng năm nào, bóng nàng thiếu nữ áo dài trong trắng làm ai mê mẩn…Đâu những buổi tan trường hò hẹn…

Những người yêu Hà Nội sáng trong, thuần khiết không biết mấy lần phải giật mình bởi sự đổi thay nhanh chóng nơi chốn đế đô. Mấy chục năm trời, đời sống vật chất tuy có cao hơn, song những giá trị tinh thần đậm nét nhất thì mãi không quay về nơi đây nữa.

Giao thông Hà Nội xưa với xích lô, xe đạp, một vài chiếc xe cúp, chưa khi nào “nghẽn mạch” như ngày nay. Đường Hà Nội gần trăm năm vẫn sạch như thể bụi trần không vướng víu. Hơn Singapore nhiều. Người điều khiển giao thông khi ấy là những chiến sĩ công an thân thiện, hết lòng vì nhân dân.

Ngay cả khi phải chống chọi với bom đạn Mỹ, việc lưu thông hàng hóa vẫn được đảm bảo. Mà cái điều đặc biệt là ngày ấy người ta thích đi tàu hỏa, đi đò. Tính cố kết cộng đồng rất cao. Một phần bởi phương tiện cá nhân chưa phát triển, nhưng đồng thời, nhân dân cũng đón nhận các phương tiện giao thông công cộng ấy với một niềm ham thích. Không phải ngẫu nhiên mà ga Hà Nội trở thành biểu tượng, đi vào trong từng câu hát, câu thơ, từng bộ phim thời chiến. Ngoài ý nghĩa “nhân chứng sống” cho các “cuộc chia ly màu đỏ”, sân ga ấy còn chứng minh cho sự phát triển của giao thông đường sắt lúc bấy giờ.

Nay thì sao?

Nghĩ mà buồn khi người nước ngoài đến Việt Nam mãi lắc đầu nguây nguẩy về đường sá nước ta, về ý thức đi đường của công dân ta. Không rõ bởi nguyên cớ nào mà tâm tính người Việt lại đổi thay nhanh như thế. Xưa kia dân ta thế đâu? Hệ thống quản lý giao thông của ta thế đâu? Ấy vậy mà…

Đường có tắc thì có phân làn nữa, phân làn mãi cũng đến thế thôi, có mở rộng thêm vài chục mét thì đến giờ cao điểm vẫn ùn ùn. Những điều cốt lõi nhất ta không lưu tâm đến. Sao nhập ô tô con, xe máy “bãi rác” của Nhật, của Thái, của Tàu nhiều như vậy? Sao ở nội đô lại nhiều điểm bán xe như thế? Người Nhật có còn thiết tha đi xe máy nữa đâu. Các hãng xe trong nước không bán được sản phẩm của mình, họ phải xuất ra nước ngoài. Như vậy là ta mua hàng “tồn kho” của họ, ta lạc hậu hơn nhiều so với tư duy người ta. Chậm tiến về công nghệ không phải điều gì ghê gớm, nhưng chậm tiến về tư duy là một điều nguy hiểm. Cứ giữ mãi nếp suy nghĩ đó, khi nào mới “nước mạnh, dân giàu”?

Có cần thiết người dân nội thành phải đi học, đi làm với phong thái vội vã kia không? Đường đến trường, đến công sở không xa, sao không chịu khó dậy sớm một chút, về nhà muộn một chút? Sao không chịu nhường đường cho nhau, ai cũng muốn vượt lên? Sao cứ thích liều lĩnh vượt đèn đỏ để rồi mất oan vài trăm nghìn thay vì chờ đợi có mấy giây? Có lẽ kinh tế thị trường làm cho người ta sống gấp hơn, vội vã hơn, muốn giành giật lợi ích nhanh hơn. Nhưng một nền kinh tế vội vã chưa khi nào là nền kinh tế vững bền. Lịch sử đã trải qua nhiều bài học rất đắng lòng về phát triển. Thiết nghĩ, điều quan trọng là khi bắt đầu làm việc, chúng ta làm ra sao, năng suất lao động thế nào, chứ đi đến công sở chậm một vài bước chân đâu phải vấn đề gì quá lớn?

Một tệ nạn nữa, là nhậu nhẹt quá nhiều. Giờ tan sở, rất nhiều người không về nhà ngay mà toàn tụ tập ở những quán xá, những địa điểm ăn chơi. Hà Nội chưa khi nào mọc lên nhiều nhà hàng, vũ trường, quán bia, quán karaoke đến thế. Điều đó tưởng chừng như không ảnh hưởng đến trật tự giao thông, nhưng nếu để ý kỹ, bạn sẽ thấy đó là một trong những nguyên nhân gây ùn tắc. Bởi những nơi ấy là chốn tập trung đông người, nên dòng người cùng đổ về một hướng chắc chắn sẽ chật chội, và điều không may phải đến, như một lẽ tự nhiên.

Chuyện điều tiết giao thông còn bất cập lắm. Tôi đi trên đường, nhiều khi đông quá, chả nhìn thấy ông CSGT đâu, chả biết chỉ dẫn thế nào. Sao không xây bốt CSGT cao hơn mặt đường cho mọi người cùng nhìn thấy?

Nhiều khi đi đường mà nhớ lại chuyện xưa bố kể, tôi ngậm ngùi. Khi nào mới trở lại ngày xưa, một Hà Nội mộng mơ, với những “con đường vắng, rì rào cơn mưa nhỏ”? Thèm lắm!

 

Duy Hùng

Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 3

Featured Image: Brendan Ó Sé

 

Con người ta có tri thức đến mức nào?

Câu hỏi ngắn này lại là câu hỏi phức tạp. Dĩ nhiên là tri thức tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Một thiên tài toán học có thể tin vào khả năng dự toán của những quân bài Tarot, một nhà văn vĩ đại có thể lúng túng trước một cách lập luận đơn giản nhất, một nhà quản lý hàng đầu có thể mù tịt về văn chương.

Đó là vấn đề thú vị, nhưng không phải là mối quan tâm của tôi ở đây. Tôi muốn làm rõ vấn đề sâu sắc hơn: Mỗi người chúng ta, khi đứng một mình, đều là những người tối tăm đến kinh ngạc và thường làm những việc ngu xuẩn.

Lời khẳng định này có thể là một cú sốc xuất phát từ một người cá nhân chủ nghĩa thâm căn cố đế như tôi. Nhưng cú sốc lại xuất phát từ việc không hiểu được chủ nghĩa cá nhân. Như vậy là, muốn tìm hiểu vấn đề trí tuệ của con người, trước hết chúng ta phải hiểu chủ nghĩa cá nhân.

Chủ nghĩa cá nhân, được sử dụng ở đây, là một triết lý chính trị. Nó là một tập hợp những chân lý nói về bản chất của xã hội và tập hợp những luật lệ về quan hệ phù hợp giữa chính phủ và các cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân phủ nhận quan điểm cho rằng xã hội tách biệt với những cá nhân hợp thành xã hội đó. Nó phủ nhận sự tồn tại của “ý chí chung”. Nó công nhận rằng những tập hợp được sử dụng nhằm thảo luận về xã hội – như “GDP”, “nhân dân Mĩ” hay “thành phố Chicago” – chỉ là kết quả của ảnh hưởng qua lại của những sự lựa chọn và hành động của rất nhiều cá nhân riêng biệt mà thôi. Những tập hợp này chỉ là sản phẩm được tạo tác bởi từng cá nhân trong hàng triệu cá nhân tương tác với nhau theo những cách rất phức tạp, không thể nào mô tả bằng lời được.

Chủ nghĩa cá nhân phủ nhận tuyên bố cho rằng chính phủ phản ảnh một cách chính xác ước muốn của “nhân dân” – vì chủ nghĩa cá nhân không công nhận nhân dân, như một nhóm người, là thực thể có ý thức, có ước muốn. Tôi có ước muốn, vợ tôi có ước muốn, người hàng xóm của tôi có ước muốn. Một số ước muốn có thể được toàn thế giới chia sẻ. Một số ước muốn khác có thể xung đột kịch liệt với nhau. Nhưng ngay cả thậm chí ước muốn được mọi người chia sẻ cũg vẫn chỉ là ước muốn của từng cá nhân riêng biệt mà thôi. Tách khỏi những cá nhân như thế thì không tạo vật nào có ước muốn hết.

Một trong những hậu quả của quan niệm này là sự nghi ngờ của người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa về việc sử dụng chính phủ để buộc một số người phải tuân lệnh một số người khác. Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa bác bỏ huyền thoại đầy thơ mộng rằng một số người được nhà nước chuyển hóa một cách thần kỳ thành tương tự như thánh thần, tức là thành những người có thể phân biệt và tập hợp được biết bao nhiêu kiến thức nằm rải rác trong hàng triệu người. Kết quả là, người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa thù địch với mọi cố gắng nhằm buộc bất cứ người nào phải khuất phục cái thực thể được cho là “cao hơn” đó.

Chủ nghĩa cá nhân không phải là niềm tin rằng mỗi người là hay tìm cách trở thành cách biệt, giống như một hòn đảo, với những người khác. Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa công nhận sự kiện đáng mừng là mỗi người chúng ta đều phụ thuộc vào vô số người khác – gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và nói một cách văn hoa là phụ thuộc vào hàng trăm triệu người mà ta không hề quen biết trên khắp thế giới, sự sáng tạo và cố gắng của họ thể hiện trong những món hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng chính là sự thịnh vượng của chúng ta.

Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa hiểu rằng xã hội chỉ có thể phát triển từ ảnh hưởng qua lại của những sự lựa chọn và hành động của từng con người với sự lựa chọn và hành động của hàng triệu người khác, và rằng sự cưỡng chế của chính quyền trung ương ngăn cản sự phát triển đó.

Tri thức của con người

Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa đánh giá một cách sâu sắc giới hạn của sự hiểu biết của mỗi cá nhân. Ngoài việc nhận thức được tầm quan trọng của sự hợp tác xã hội, người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa còn nhận thức được rằng:

  • Hợp tác không thể là công việc ép buộc;
  • Hợp tác thường kéo theo sáng tạo (thí dụ như người sản xuất thiết kế ra cái bẫy chuột tốt hơn để bán);
  • Vì có sự sáng tạo và vì mỗi người đều có một số kiến thức độc đáo nhưng giới hạn, cho nên kết quả của sự hợp tác là không lường trước được;
  • Mỗi cá nhân đều là những người dốt nát, dễ hiểu sai và lầm lẫn cho nên việc tìm ra chân lý – tức là phân biệt giữa những ý tưởng đúng và ý tưởng sai – buộc người ta phải liên tục thực hiện quá trình thử và sai; và
  • Khi người ta tự do hợp tác, chỉ phải thuyết phục người khác hợp tác với mình thì sẽ hình thành trật tự xã hội, trong đó mỗi người đều nhận được lợi ích từ những mẩu kiến thức độc đáo mà mỗi người trong số hàng triệu người khác đem vào trong quan hệ thị trường. Thông qua thị trường, tôi nhận được lợi ích từ kiến thức độc đáo của anh hàng thịt, anh hàng bia và anh hàng bánh mì, mặc dù tôi chẳng biết một tí gì về công việc của những người kia.

Như vậy là, người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa cho rằng kiến thức mỗi cá nhân sở hữu là vô cùng nhỏ bé, nhưng chỉ tính những người phục vụ anh ta thôi thì kiến thức của họ đã là vô cùng to lớn rồi. Anh ta nhận thức được rằng mình biết rất ít. Anh ta hiểu rằng một người hay một nhóm người trong một ủy ban nào đó tưởng tượng là hắn ta hay bọn họ có thể nắm được toàn bộ những chi tiết của những dàn xếp trên thương trường là sự kiện cực kỳ khôi hài.

Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa chỉ có thể chế nhạo vào sự giả dối của những kẻ tưởng tượng rằng họ có thể đoán được hay lập kế hoạch cho thị trường vì đấy sẽ là dự đoán hay lập kế hoạch cho hàng trăm triệu người, mà mỗi người trong số đó lại có một ít kiến thức độc đáo.

Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa biết rằng một người hoàn toàn tách biệt với xã hội của những người đàn ông và đàn bà tự do là người không chỉ nghèo một cách tuyệt vọng mà còn là người luôn luôn sợ hãi và sai lầm một cách vô lý nữa.

Xin hãy suy nghĩ về một chút kiến thức – thí dụ, trái đất tròn hay vi khuẩn có thể giết người. Đối với chúng ta, đây là những sự kiện rõ ràng. Nhưng chúng không phải đã là những sự kiện rõ ràng. Hàng bao nhiêu ngàn năm, đa số dân chúng không biết gì về những sự kiện như thế. Và độc giả thân mến của tôi, bạn biết những sự kiện đó không phải vì bạn phát hiện ra chúng mà bởi vì biết bao nhiêu người đã tư duy một cách sáng tạo và hữu lý, và tìm cách chia sẻ ý tưởng của họ với những người khác, đem ý tưởng của mình ra cho người khác đánh giá và chau chuốt thêm. Sự tương tác giữa những con người tự do và hữu lý là tác nhân khám phá ra và khẳng định những sự kiện đó.

Tôi thấy trái đất phẳng, tôi chưa bao giờ nhìn thấy con vi trùng nào. Nhưng tôi biết rằng trái hình tròn, rằng có những con vi trùng và chúng rất nguy hiểm. Tôi được lợi từ kiến thức đó, mặc dù đấy không phải là phát minh của cá nhân tôi. Và khi tôi nghĩ về những lợi ích đó, tôi nhận thức được rằng hầu như mọi thứ tôi biết đều do những người khác phát hiện ra. Đấy là kiến thức mà nếu ở một mình với chiếc máy tính mạnh nhất, thì hàng tỉ năm tôi cũng không thể nào tự mình phát hiện ra được.

Một mình, tôi là người ngu dốt và tăm tối; nhưng như một thành viên của xã hội thị trường, tôi là người có kiến thức và được khai minh. Tôi có kiến thức và được khai minh là nhờ sự cố gắng mang tính cá nhân của biết bao nhiêu người, họ là những người sử dụng một cách sáng tạo quyền tự do và khả năng tư duy một cách hữu lí của mình.

 

Phạm Nguyên Truờng dịch
Nguồn: Donald J. Boudreaux – Chủ nghĩa cá nhân và tri thức

 

[themify_box style=”blue rounded” ]Donald J. Boudreaux là giáo sư kinh tế tại George Mason University, là cựu chủ tịch của Foundation of Economic Education (FEE), là tác giả cuốn Toàn cầu hóa (Globalization).[/themify_box]

 

Mại dâm và bất bình đẳng xã hội

 Featured Image: mafate69

 

Hai cái vòng luẩn quẩn này có lẽ không bao giờ giải quyết được!

Tình dục là nhu cầu bản năng nhưng cũng rất nhân văn của con người. Nam có, nữ có, và có một sự thật mà trước đây không mấy người để tâm: Nhu cầu tình dục của nữ thường cao hơn nam. Đặc tính sinh học riêng đã giúp cho người nam nhận được sự thỏa mãn lớn hơn nữ nhiều. Đã thế, xã hội nam quyền còn tạo ra những dịch vụ luôn sẵn sàng làm hài lòng họ. Nếu không hạnh phúc trong chuyện phòng the với người tình, nam giới có thể tìm đến mại dâm, nữ giới thì ít khả năng hơn. Sự bất bình đẳng về thỏa mãn tình dục đã tồn tại hàng ngàn năm nay.

Những cô gái mại dâm không được thỏa mãn về tình dục. Họ phải lao động. Lao động tình dục và thưởng thức tình dục là hai ý niệm hoàn toàn khác nhau. Như nhiều công việc khác, lao động tình dục cũng mệt mỏi và căng thẳng, đòi hỏi những kỹ năng chuyên biệt, nhiều khi phải đào tạo mới thành. Tệ hại hơn, rất hiếm cô gái tự nguyện chọn nghề mại dâm, yêu thích nghề mại dâm. Điều này ảnh hưởng nặng nề đến năng lực phục vụ tình dục của họ. Nhất là trong văn hóa Á Đông vốn khắt khe và mâu thuẫn, người ta có thể chấp nhận sự tồn tại của kỹ viện như một lẽ tất nhiên, nhưng vẫn rẻ rúng người kỹ nữ đến tàn tệ.

Tôi cho rằng mại dâm chỉ bắt đầu xuất hiện khi chế độ nam quyền thay thế nữ quyền và gia đình manh nha hình thành. Thời tiền sử, giai đoạn mà con người còn quần hôn ngẫu phối với nhau và vai trò của những người phụ nữ trong một bầy người rất quan trọng, hẳn tình dục vô cùng tự do thoải mái cho cả nam và nữ. Khi ấy, loài người đã được thỏa mãn nhu cầu bản năng của mình một cách trọn vẹn mà không bị tác động bởi những yếu tố như đạo đức và thương mại. Khi người phụ nữ làm chủ, gia đình là thứ không cần thiết, vì người ta chỉ cần quan tâm những đứa con sinh ra là của người mẹ nào mà không cần biết cha nó là ai. Nhưng khi người đàn ông có vị thế cao hơn, họ đòi hỏi con cái phải thuộc về mình, và đẩy người phụ nữ vào trong những mớ bòng bong tiết hạnh. Đòi hỏi phụ nữ phải thủy chung chẳng qua xuất phát từ nỗi sợ hãi và tính ích kỷ của đàn ông, không ai muốn vợ mình có con với kẻ khác bao giờ.

Tuy nhiên, nhu cầu tình dục của đàn ông vẫn được thỏa mãn. Họ không cần nhiều giờ làm tình, song bản chất của họ là ham tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ hơn. Bởi vậy, họ thích tán tỉnh, chinh phục và quan hệ với những người phụ nữ khác nhau. Bằng cách nào đó, họ vẫn khiến một số phụ nữ không giữ được đức hạnh, lòng thủy chung của mình với chồng. Lẽ dĩ nhiên, những người phụ nữ ấy không bao giờ được chấp nhận trong những gia đình có tôn ti trật tự. Tôi cũng nghiệm ra, hẳn kỹ viện được lập nên bởi những phụ nữ bị ruồng bỏ ấy, những con người luôn đầy rẫy khát khao đạp đổ những giá trị đạo đức gia đình chết tiệt chà đạp lên họ, và muốn làm hài lòng đàn ông hơn những người vợ đức hạnh kia. Tình dục bắt đầu trở thành một nghề “kiếm cơm”, nuôi sống những người phụ nữ không còn chỗ dựa quan trọng nhất là gia đình.

Tôi có thể mường tượng ra hoạt động mại dâm như một minh chứng rõ ràng cho sự bất bình đẳng xã hội đã diễn ra trong hàng thế kỷ qua. Nam giới được thỏa mãn tình dục hơn phụ nữ, người giàu, người có địa vị thụ hưởng cuộc sống tình dục ở mức độ cao hơn người nghèo.

Thuyết “nam nữ bình quyền” đã được hưởng ứng hơn trăm năm nay, cơ bản vẫn tắc nghẽn khi thực thi. Bởi suy cho cùng, vấn đề mấu chốt vẫn là bản năng. Con người không được giải phóng bản năng thì mọi thứ ý thức mãi chỉ là sáo rỗng mà thôi. Hàng ngàn năm nay, vẫn tồn tại những người làm nghề “làm tình”, chỉ có điểm khác là hiện nay có thêm nhiều lao động tình dục là nam giới và người đồng tính, khiến nữ giới không còn chiếm địa vị độc tôn trong nghề này nữa. Phần đông vô cảm với nghề, chấp nhận kiếm tiền thực dụng và cả việc bị người đời coi rẻ. Khách hàng của họ càng đa dạng hơn, nhưng thường nữ giới đi mua dâm hay mặc cảm, bởi họ mãi chẳng thể nào trút bỏ được những giá trị “phụ nữ” ở trên đầu (mà chính những người đàn ông nghĩ ra và buộc họ phải theo). Đã cảm thấy tội lỗi, cắn rứt lương tâm thì làm sao có thể thỏa mãn những ham muốn bản năng?

Chống mại dâm hay cho phép mại dâm tồn tại và phát triển đều là những chính sách vô cùng dở nếu làm không triệt để. Vừa rồi, đọc được đề xuất công khai danh tính người mua dâm, nghĩ bụng, cũng là một cách làm nhằm đạt được sự trừng phạt bình đẳng về độ “ô nhục” giữa những người lao động tình dục và “khách hàng” của họ. Như trước đây người đi mua dâm được thảnh thơi tận hưởng lạc thú ở đời, còn kẻ bán dâm luôn phải trầy trật, lo sợ công an “sờ gáy”. Giờ cùng sợ là tốt, phải lén lén lút lút sẽ không giúp kẻ nào thỏa mãn cả, rồi nhu cầu ấy sẽ lịm tắt dần đi. Tuy nhiên, tôi vẫn bảo lưu quan điểm rằng trên đất nước này, càng những chính sách hay càng khó thực hiện, bởi nó dám động chạm đến nhu cầu, lợi ích sát sườn của nhiều người, bị xù lông ném đá âu cũng là lẽ thường.

Cho phép mại dâm tồn tại vốn là một ý tưởng không tồi, nhưng động đến cái phông văn hóa Nho gia ngoại nhập khắc kỷ (nó trái với văn hóa Việt Nam thuở ban sơ là thứ văn hóa phồn thực, khuyến khích tự do yêu đương và tình dục) đã ăn sâu vào máu dân tộc ta bao đời nay thì không thực hiện được đâu. Mới chỉ là bước đầu nêu quan điểm đã bị đánh tơi tả rồi, chưa nói gì đến chuyện thay đổi nhận thức phiến diện của chúng ta về người lao động và thụ hưởng tình dục. Rốt cuộc thì, ý thức, nhất là ý thức hệ cao hơn bản năng sẽ cho ra kết quả là một sự bế tắc quẩn quanh, bắt không ra bắt mà thả cũng không ra thả, không bao giờ thay đổi!

 

Duy Hùng

Hơi ấm mèo con

Photo: Stefany Alves

 

(The tales from Heaven – tale 2)

Ta thấy nhà cạnh bên có cô bé ôm mèo con kể về những hoang mang
Về nỗi buồn khi những yêu thương sinh thành lại bất hòa lần nữa
Khó hiểu sao những yêu thương lớn khi giận nhau lại thường giận lây sang yêu thương nhỏ
Bé mèo con cất lên những lời ngô nghê ủi an cô chủ
Cũng may còn được nhìn thấy đây hai sự ngây thơ bé bỏng
Biết giữ gìn cho nhau hơi ấm khi những khờ dại khác đang bận làm giá băng…

Hơi ấm mèo con

Ta vừa nghe câu chuyện kể của bé mèo con sát bên nhà
Về những ngày hơi ấm đi chơi quên về khi đóng cửa
Cô chủ nhỏ lạnh run đi tìm hơi ấm nhỏ
Luôn để dành nơi em, lúc hơi ấm kia chưa về

Cô chủ thích ôm em dỗ dành những ngô nghê
Dỗ dành đôi bàn tay, dỗ dành đôi mắt ướt
Hát cho em nghe về những vô tình lạnh buốt
Của những yêu thương đôi khi cũng biết buồn

Những yêu thương dẫu chẳng hề cố tình – nhưng vẫn làm mưa tuôn
Vẫn quên hơi ấm kia còn bên ngoài khi đóng cửa
Em thì bé nhỏ thôi, hơi ấm cũng bé nhỏ
Nên chỉ đủ hong khô một chút những ưu phiền

Em muốn hát cô chủ nghe về những hồn nhiên
Meo meooo… meo meooo... – cô chủ nhỏ đừng khóc !
Hơi ấm sẽ về thôi, cửa sẽ không còn đóng
Khi những yêu thương biết sợ tim mình lạnh cóng
Biết sợ tim mình không thể ấm lại thêm một lần

Cánh cửa nơi trái tim từ đó sẽ không còn bị khóa bởi những phân vân
Bởi những gì vô tình, bởi những gì xuẩn ngốc
Khi những yêu thương biết thứ tha cho nhau dù khó nhọc
Khi những yêu thương đã thực-sự-biết-yêu-thương

Cánh cửa nơi trái tim từ đó sẽ luôn được mở trong những ngày bình thường
Cánh cửa nơi trái tim từ đó sẽ luôn được mở dù những ngày mưa gió
Chờ hơi ấm kia trở về ngôi nhà và trở về những trái tim lớn nhỏ
Dẫu có tạt ít nhiều gió mưa thì cánh cửa cũng sẽ luôn mở
Đợi hơi ấm kia trở về
Hong khô tất cả những gì là yêu thương…

Em sẽ luôn ở đây dẫu những ngày bình thường
Hơi ấm nhỏ ở đây dẫu những ngày mưa buốt
Dù bây giờ cửa chưa mở nhưng đã có em ở đây cô chủ nhỏ đừng khóc
Hơi ấm em nhỏ thôi nhưng đủ hong khô đôi mắt ướt
Chờ đến khi hơi ấm kia về
Gõ cửa những trái tim…

Rồi một hôm ta nghe bé mèo con kể hơi ấm kia đã trở về ngôi nhà vào một ngày lặng im.

********

From a friend’s status
[Nhà sát bên có con mèo con
Cô bé con ôm con mèo con vuốt ve rồi tâm sự: “Hôm nay ba mẹ tao lại cãi nhau, mẹ la qua tao nữa mèo. Tao buồn ghê!”
“Meo… meooooo” tiếng kêu non nớt, non nớt…]

 

–The Kid Falling From Heaven–