Phần 1: Đạo đức trong kinh doanh
Dẫn nhập: Đạo đức của chủ nghĩa tư bản
Cuốn sách này là lời biện minh về mặt đạo đức cho cái mà triết gia Robert Nozick gọi là “người có tiền hành động giữa những người trưởng thành”[1]. Nó nói về hệ thống hợp tác sản xuất và tự do trao đổi, được thực hiện chủ yếu bởi những hành động như thế. Những bài viết trong cuốn sách này là nói về đạo đức của chủ nghĩa tư bản; đây không phải là triết lý trừu tượng về đạo đức, mà tập trung chú ý vào kinh tế học, logic học, sử học, văn học và những môn khoa học khác. Hơn nữa, nó nói về đạo đức của chủ nghĩa tư bản chứ không chỉ là đạo đức của tự do trao đổi. Thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” ám chỉ không chỉ những thị trường trao đổi hàng hóa và dịch vụ, tức là những thị trường đã từng tồn tại từ thời xa xưa, mà ám chỉ hệ thống của sự cách tân, tạo ra của cải và trao đổi trên bình diện xã hội, tức là hệ thống đã mang sự thịnh vượng đến cho hàng tỉ người mà những thế hệ trước đó không thể nào tưởng tượng nổi.
Chủ nghĩa tư bản ám chỉ hệ thống pháp luật, xã hội, kinh tế và văn hóa chứa đựng trong lòng nó quyền bình đẳng và “nghề nghiệp rộng mở cho những người có tài” và là hệ thống khuyến khích sự cách tân phi tập trung và những quá trình thử và sai – tức là khuyến khích điều mà nhà kinh tế học Joseph Schumpeter gọi là “phá hủy sáng tạo” – thông qua những tiến trình trao đổi tự nguyện trên thương trường.
Nền văn hóa tư bản chủ nghĩa tôn vinh những người dám nghĩ dám làm, tôn vinh các nhà khoa học, tôn vinh những người dám mạo hiểm, những người có sáng kiến, những người sáng tạo. Mặc dù bị các triết gia (nhất là những người mác-xít) – những người ủng hộ chủ nghĩa duy vật – chế giễu là nặng về vật chất, chủ nghĩa tư bản, tại căn để của nó lại là tinh thần dám nghĩ dám làm mang đầy tính văn hóa. Như nhà sử học Joyce Appleby đã nhận xét trong công trình gần đây của ông: Cuộc cách mạng không ngừng nghỉ: Lịch sử của chủ nghĩa tư bản (The Relentless Revolution: A History of Capitalism): “Vì chủ nghĩa tư bản là hệ thống văn hóa chứ không chỉ đơn giản là hệ thống kinh tế cho nên chỉ dùng những tác nhân kinh tế thì không thể giải thích được nó.”[2]
Chủ nghĩa tư bản là hệ thống các giá trị văn hóa, tinh thần và đạo đức. Như hai nhà kinh tế học là David Schwab và Elinor Ostrom nhận xét trong công trình nghiên cứu lý thuyết trò chơi đầy tiềm năng về vai trò của quy tắc và luật lệ trong việc duy trì những nền kinh tế mở, các thị trường tự do được xây dựng trên những quy tắc ngăn không cho chúng ta ăn cắp và là những quy tắc “đề cao lòng trung thực”[3]. Chủ nghĩa tư bản không những không phải là đấu trường cho những xung đột lợi ích như những người đang tìm cách phá hoại ngầm hay tiêu diệt nó mô tả mà tương tác mang tính tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những quy tắc và luật lệ mang tính đạo đức.
Thực vậy, chủ nghĩa tư bản không chấp nhận nguyên tắc cướp bóc và chiếm đoạt phi pháp, tức là những biện pháp mà những kẻ giàu có trong những hệ thống kinh tế và chính trị khác thường dùng nhằm chiếm đoạt phần lớn khối tài sản mà họ có. (Trên thực tế, trong nhiều nước hiện nay và trong phần lớn lịch sử nhân loại đa số người vẫn hiểu rằng người giàu là vì họ lấy được của những người khác, và đặc biệt là họ tiếp cận được với sức mạnh có tổ chức – theo cách nói hiện nay là tiếp cận được với quyền lực của nhà nước. Giới tinh hoa bất lương sử dụng sức mạnh đó nhằm giành độc quyền và dùng thuế để tịch thu sản phẩm của người khác. Chúng ăn vào ngân khố quốc gia và thu lợi từ những ngành độc quyền do nhà nước áp đặt và từ những biện pháp hạn chế cạnh tranh. Chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản thì người dân mới có thể trở thành giàu có mà không phải là tội phạm mà thôi.)
Xin xem xét điều mà nhà kinh tế học và sử học Deirdre McCloskey gọi là “Sự kiện vĩ đại”: “Thu nhập thực tế trên đầu người hiện nay, thí dụ như ở Anh và các nước đã trải qua công cuộc phát triển kinh tế hiện đại cao gấp ít nhất là 16 lần so với thu nhập trên đầu người vào năm 1700 hay 1800.”[4] Đấy là điều chưa từng xảy ra trong toàn bộ lịch sử nhân loại. Trên thực tế, đánh giá của McCloskey còn rất bảo thủ. Đánh giá này không tính đến hiệu quả của những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tức là những tiến bộ đã đưa các nền văn hóa của thế giới đến ngay đầu ngón tay của chúng ta [ý nói bàn phím máy tính – ND].
Chủ nghĩa tư bản, bằng cách tôn trọng và khuyến khích tinh thần sáng tạo trong kinh doanh, đã làm cho khả năng sáng tạo của con người phục vụ ngay chính con người, chính nhân tố khó nhận ra này giải thích sự khác nhau giữa lối sống hiện nay của chúng ta với lối sống của những thế hệ cha ông trước thế kỷ XIX của chúng ta. Những cách tân đã làm thay đổi cuộc đời của chúng ta theo hướng tốt đẹp hơn không chỉ diễn ra trong lĩnh vực khoa học và công nghệ mà còn diễn ra trong lĩnh vực định chế nữa. Những hình thức kinh doanh mới, đủ mọi loại, kết hợp một cách tự nguyện sức lực của rất nhiều người. Những thị trường và công cụ tài chính mới liên kết những khoản tiền tiết kiệm và quyết định đầu tư của hàng tỷ người suốt hai mươi bốn giờ mỗi ngày.
Mạng lưới thông tin viễn thông đưa con người từ khắp các ngõ ngách trên thế giới lại gần bên nhau. (Ngày hôm nay tôi đã nói chuyện với những người bạn ở Phần Lan, Trung Quốc, Morocco, Mĩ, và Nga, và còn đọc những lời bình luận và tin tức từ bạn bè và người quen ở Mĩ, Canada, Pakistan, Đan Mạch, Pháp và Kyrgyzstan trên Facebook nữa). Những sản phẩm mới cung cấp cho chúng ta những cơ hội nghỉ ngơi, giải trí và học tập mà các thế hệ trước không thể nào tưởng tượng được. (Tôi viết bài này trên chiếc máy tính Apple MacBook Pro). Những thay đổi như thế làm cho xã hội chúng ta khác hẳn về nhiều phương diện với tất cả những xã hội trước đó.
Chủ nghĩa tư bản không chỉ là làm ra sản phẩm theo cách mà các nhà độc tài xã hội chủ nghĩa hô hào những người nô lệ của họ nhằm “Xây dựng tương lai!” Chủ nghĩa tư bản là tạo ra giá trị, chứ không chỉ là chăm chỉ làm việc hay hy sinh hoặc bận rộn suốt ngày. Những người không hiểu chủ nghĩa tư bản thường nhanh nhảu ủng hộ các chương trình “tạo công ăn việc làm” để có nhiều việc làm hơn. Họ đã hiểu sai vấn đề việc làm, đấy không phải là vấn đề chính của chủ nghĩa tư bản.
Có một câu chuyện hay được người ta trích dẫn, đấy là câu chuyện nói về việc xây dựng một con kênh đào lớn ở châu Á mà nhà kinh tế học Milton Friedman được đưa tới xem. Khi ông nói rằng công nhân chuyển quá nhiều đất đá bằng xẻng chứ không dùng máy đào đất thì được trả lời như sau: “Ông không hiểu, đây là chương trình tạo công ăn việc làm.” Ông đáp: “Ồ, tôi tưởng các ông đang định đào con kênh. Nếu các ông tìm cách tạo công ăn việc làm thì tại sao lại không đưa cho họ tiền mà lại đưa cho họ xẻng?”
Người theo thuyết trọng thương và cũng là một người chơi thuyền buồm nổi tiếng, ông H. Ross Perot, trong một cuộc tranh luận trong chiến dịch tranh cử chức tổng thống Mĩ vào năm 1992 đã từng khóc mà nói rằng người Mĩ mua những con chip máy tính từ Đài Loan và bán cho người Đài Loan những lát cà chua thái mỏng[i]. Có vẻ như Perot lấy làm xấu hổ khi người Mĩ chỉ bán những lát cà chua thái mỏng, ông ta đã nhiễm quan điểm của Lenin cho rằng giá trị chỉ gia tăng nhờ sản phẩm được sản xuất trong các nhà máy mà thôi. Nhà kinh tế học Michael Boskin ở trường đại học Stanford (Stanford University) đã nhận xét rất đúng rằng nếu bạn nói về giá trị bằng tiền của con chip máy tính hay giá trị bằng tiền của lát cà chua thì đấy là bạn đang nói về giá trị bằng tiền.
Tăng thêm giá trị bằng cách trồng cà chua ở Idaho hay làm con chip điện tử ở Đài Bắc thì cũng đều là giá trị gia tăng cả. Lợi thế tương đối[5] là chìa khóa cho quá trình chuyên môn hóa và thương mại; khi làm ra giá trị, dù đấy có là người nông dân hay người vận chuyển đồ gỗ (hôm nay tôi vừa làm việc với ba người vận chuyển đồ gỗ để chuyển thư viện của tôi và tôi nhận rõ rằng họ đã làm gia tăng bao nhiêu gía trị đối với cuộc sống của tôi), hay nhà tư bản tài chính hay bất kì người nào khác thì cũng có gì là xấu. Thị trường – chứ không phải những chính khách hám lợi kiêu căng – chỉ ra cho chúng ta thấy khi nào thì chúng ta làm cho giá trị gia tăng, không có thị trường tự do thì chúng ta không thể nào biết được điều đó.
Chủ nghĩa tư bản không chỉ là những người đổi bơ lấy trứng trong những khu chợ làng quê, điều này đã và vẫn xảy ra cả ngàn năm rồi. Đấy là giá trị gia tăng nhờ huy động năng lực và tài khéo của con người trên quy mô chưa từng có trong lịch sử nhân loại nhằm tạo ra của cải cho những người bình thường mà ngay cả những ông vua, những hoàng đế giàu có nhất và quyền lực nhất trong quá khứ cũng phải chói mắt và kinh ngạc. Đấy là sự xói mòn hệ thống quyền lực, xói mòn hệ thống cai trị và đặc quyền đặc lợi đã ăn sâu bén rễ từ lâu, và là mở rộng cửa “nghề nghiệp cho tài năng”. Đấy là dùng thuyết phục thay cho bạo lực[6]. Đấy là thay đố kỵ bằng thành tựu[7]. Đấy là những thứ làm cho cuộc đời tôi cũng như cuộc đời bạn trở thành dễ chịu.
(Điều duy nhất mà các vua chúa và hoàng đế có mà người bình thường hiện nay không có là quyền lực đối với người khác và khả năng chỉ huy người khác của họ. Họ có những tòa lâu đài to lớn do người nô lệ xây dựng hoặc được đầu tư bằng tiền thuế của dân, nhưng họ không có lò sưởi hay điều hòa nhiệt độ trong nhà; họ có nô lệ hay đầy tớ, nhưng không có máy giặt hay máy rửa bát; họ có cả một đội quân chạy giấy nhưng không có điện thoại cầm tay hay Wi-Fi; họ có bác sĩ và nhà chiêm tinh của hoàng gia nhưng không có thuốc gây mê có thể làm giảm những cơn đau hay không có thuốc kháng sinh chữa bệnh; họ là những người có quyền lực, nhưng lại là những kẻ nghèo kiết xác, nếu xét theo tiêu chuẩn hiện nay của chúng ta)
Lịch sử của Từ
Thị trường tự do, được hiểu là hệ thống trao đổi tự do giữa những con người được xác định một cách rõ ràng, bảo đảm về mặt pháp lý và có quyền chuyển nhượng những nguồn lực có hạn, là điều kiện cần đối với việc làm ra tài sản trong thế giới hiện đại. Nhưng các nhà sử học chuyên về lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là Deirdre McCloskey, đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng như thế vẫn chưa đủ. Cần một số điều kiện nữa: đạo đức trong quá trình tự do trao đổi và đạo đức trong quá trình sản xuất của cải thông qua đổi mới, cách tân.
Xin nói đôi lời về việc sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản”. Nhà sử học chuyên về lĩnh vực xã hội học, Fernand Braudel, đã truy nguyên nguồn gốc của thuật ngữ “tư bản” trong giai đoạn trải dài suốt thế kỷ XII và XIII, lúc đó nó có nghĩa là “kho, nguồn hàng, tổng số tiền hay số tiền mang lại lợi nhuận[8]” (Braudel nhận xét một cách lạnh lùng rằng trong số khá nhiều nghĩa của từ “nhà tư bản” mà ông liệt kê được: “Từ này chưa bao giờ… được dùng theo nghĩa thân thiện.[9]”
Từ “chủ nghĩa tư bản” xuất hiện trong thế kỷ XIX như là một từ có tính chất thóa mạ, chẳng hạn như Louis Blanc, một nhà xã hội người Pháp, định nghĩa thuật ngữ này là: “Một số người chiếm đoạt tư bản bằng cách bóc lột một số người khác.[10]” Karl Marx sử dụng thuật ngữ “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”, còn Werner Sombart, một đồ đệ nồng nhiệt của ông, thì, thông qua tác phẩm gây được nhiều ảnh hưởng: Der Moderne Kapitalismus (1912) đã biến thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” thành một từ thông dụng. (Friedrich Engels, người đồng chí thân cận của Marx, coi Sombart là tư tưởng gia duy nhất ở Đức thực sự hiểu được Marx; sau này Sombart lại trở thành người cổ vũ nhiệt tình cho một hình thức bài tư bản khác là Chủ nghĩa xã hội dân tộc hay còn gọi là chủ nghĩa quốc xã).
Trong cuộc tấn công vào “bọn tư sản” và “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”, Marx và Engels nhận xét rằng “giai cấp tư sản” đã làm cho thế giới thay đổi một cách triệt để:
Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Chinh phục những lực lượng của tự nhiên, sản xuất bằng máy móc, sử dụng hoá chất trong công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá cả những lục địa, việc khai thông các dòng sông cho tầu bè đi lại được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, có thế kỷ nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội?[11]
Marx và Engels cảm thấy kinh ngạc không chỉ trước những cách tân về mặt công nghệ mà còn trước “hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên”, được cho là nguyên nhân của việc giảm thiểu tử suất, nâng cao mức sống và gia tăng tuổi thọ của chính con người. Mặc dù có những thành tựu như vậy, nhưng Marx và Engels vẫn kêu gọi phá tan “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”, hay nói một cách chính xác hơn, hai ông cho rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ tự hủy diệt và mở ra một hệ thống mới tuyệt vời đến mức không cần – thậm chí làm như thế là phản khoa học – đưa ra bất kỳ gợi ý nào về cách thức hoạt động của nó hết[12]!
Quan trọng hơn là, Marx và Engels đã đưa ra những lời chỉ trích chủ nghĩa tư bản của họ (những lời chỉ trích, mà mặc cho sự kiện là tất cả các chế độ cộng sản đều không thực hiện được những lời hứa của họ, vẫn còn giữ ảnh hưởng cực kì to lớn đối với những người có học trên toàn thế giới) trên cơ sở của sự hiểu biết sai lầm của quần chúng về cái mà họ gọi là “giai cấp tư sản”, tức là giai cấp mà họ liên kết với “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”. Một mặt, họ sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người chủ “tư bản”, tức là những người tổ chức các xí nghiệp sản xuất, nhưng mặt khác họ lại sử dụng từ này để chỉ những người sống dựa vào nhà nước và quyền lực của nhà nước, như Marx viết trong một trong những luận văn hay nhất của ông về chính trị:
Nhưng quyền lợi vật chất của giai cấp tư sản Pháp lại gắn bó một cách mật thiết nhất với việc duy trì chính cái bộ máy nhà nước to lớn và có nhiều cành nhánh như thế. Bộ máy này tạo việc làm cho những kẻ vô dụng của giai cấp tư sản và nuôi họ bằng tiền lương của chính phủ mà họ không thể đút túi được dưới hình thức lợi nhuận, lợi tức, tiền thuế hay phí. Mặt khác, quyền lợi chính trị cũng buộc họ phải thường xuyên tăng cường bộ máy đàn áp và vì vậy mà phải củng cố nguồn lực và gia tăng số nhân viên của bộ máy chính phủ[13].
Như vậy là, một mặt Marx đánh đồng “giai cấp tư sản” với các doanh nhân, tức là những người những người tạo ra “cho quá trình sản xuất và tiêu thụ ở mọi nước đặc điểm mang tính toàn cầu”, những người làm cho “đầu óc dân tộc hẹp hòi” “càng ngày càng trở thành bất khả thi hơn”, những người tạo ra “một nền văn học thế giới”, những người đem lại “sự cải tiến nhanh chóng tất cả các công cụ sản xuất” và “làm ra rất nhiều phương tiện thông tin liên lạc”, và những người đã khắc phục được “lòng hận thù man rợ, dai dẳng người ngoại quốc” bằng cách cung cấp “những món hàng giá rẻ[14]”. Mặt khác, ông lại sử dụng từ “giai cấp tư sản” để chỉ những người sống bằng “tín dụng công” (nghĩa là nợ của chính phủ):
Toàn bộ thị trường tiền tệ hiện đại, toàn bộ hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện đại đều đan xen một cách mật thiết nhất với tín dụng công. Một phần vốn kinh doanh của họ phải được đầu tư vào quỹ công trái ngắn hạn của nhà nước để thu lời. Những món tiền họ được các thương nhân và các nhà công nghiệp trả trước và được họ phân phát giữa những con người ấy với nhau, một phần là từ lợi tức của những người nắm trái phiếu của chính phủ[15].
Marx coi “giai cấp tư sản” là người tham gia một cách sâu sắc vào và hưởng lợi từ cuộc đấu tranh nhằm kiểm soát bộ máy nhà nước:
Tất cả các biến động chính trị đều hoàn thiện bộ máy này chứ không phải là đập tan nó. Các đảng phái từng chiến đấu nhằm giành quyền cai trị đều coi việc nắm bộ máy nhà nước đồ sộ đó như là chiến lợi phẩm chính của chiến thắng[16].
Theo nhà sử học Shirley Gruner thì “Marx cảm thấy – khi tìm được “giai cấp tư sản” – là đã hiểu rõ được hiện thực, nhưng trên thực tế ông mới chỉ tóm được một thuật ngữ cực kỳ khó nắm bắt mà thôi[17]”.
Trong một số tác phẩm, Marx dùng thuật ngữ này để chỉ những doanh nhân đầy sáng kiến, tức là những người tổ chức ra các xí nghiệp sản xuất và đầu tư vào việc tạo ra của cải, còn trong những tác phẩm khác thì ông lại dùng thuật ngữ này để chỉ những người tụ tập xung quanh bộ máy nhà nước, tức là những kẻ sống bằng tiền thuế, những kẻ vận động hành lang nhằm cấm đoán cạnh tranh và ngăn chặn tự do thương mại; nói tóm lại, đấy là những kẻ đầu tư không phải nhằm tạo ra của cải mà nhằm bảo đảm cho quyền tái phân phối tài sản hay phá hoại tài sản của người khác, và giữ cho thị trường luôn ở tình trạng khép kín, làm cho người nghèo cứ nghèo mãi, còn xã hội thì bị họ khống chế.
Do ảnh hưởng của Marx và đồ đệ của ông ta là Sombart mà thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” đã trở thành thông dụng. Cần nhắc lại rằng thuật ngữ này đã được những người – không chỉ lẫn lộn giữa quá trình sản xuất hàng hóa và trao đổi trên thương trường với việc sống bằng thuế khóa tước đoạt được của những người khác mà còn là những người biện hộ cho việc thủ thiêu tài sản, thị trường, tiền tệ, giá cả và phân công lao động, và toàn bộ cơ cấu của chủ nghĩa tự do: các quyền cá nhân, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, bình đẳng trước pháp luật, và chính phủ dân chủ nằm trong khuôn khổ của hiến pháp.
Đáng chú ý là, tương tự như nhiều từ có tính chất thóa mạ khác, “chủ nghĩa tư bản” được những người trí thức ủng hộ thị trường tự do sử dụng nhằm chống lại những người xuyên tạc thuật ngữ này. Kết quả là những người áp dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” cho những điều mà họ ủng hộ hay đơn giản như một thuật ngữ trung lập cho những cuộc thảo luận trong lĩnh vực khoa học xã hội đã rơi vào tình thế khó khăn vì (1) thuật ngữ này được sử dụng một các lập lờ (để chỉ cả tinh thần kinh doanh trên thị trường tự do lẫn việc sống bằng tiền thuế và sức mạnh cũng như sự bảo trợ của chính phủ) và (2) từ này hầu như bao giờ cũng bị sử dụng theo nghĩa rõ ràng là tiêu cực.
Một số người đề nghị bỏ hẳn thuật ngữ này vì nó chứa đựng những ý nghĩa trái ngược nhau và còn bao hàm cả ý thức hệ nữa[18]. Nghe có vẻ hấp dẫn, nhưng vấn đề thì vẫn còn. Cho phép người ta tự do buôn bán và lời ăn lỗ chịu chắc chắn là điều kiện cần cho sự tiến bộ của nền kinh tế, nhưng không đủ cho việc hình thành thế giới hiện đại. Thị trường hiện đại xuất phát từ và cung cấp năng lượng cho sự cách tân trong các lĩnh vực như định chế, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật cũng như xã hội, tức là những sự cách tân vượt ra ngoài mô hình trao đổi trứng lấy bơ. Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do hiện đại cải tiến không phải bằng bước chân chậm chạm của những thiên niên kỉ trước mà ngày càng nhanh hơn – đúng như những người xã hội chủ nghĩa (nhất là Marx) và các đồng minh của họ, cũng như những người bảo thủ thù nghịch với thị trường, những người cảm thấy hốt hoảng trước thế giới hiện đại.
Trong tác phẩm Capitalism, Socialism, and Democracy (Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và chế độ dân chủ), Joseph Schumpeter đã phê phán những người mà “vấn đề thường được mường tượng là chủ nghĩa tư bản quản lý những công trình hiện hữu như thế nào, trong khi vấn đề lại là xây dựng và phá hủy chúng như thế nào[19]”
Khác với các chợ phiên trong quá khứ, thị trường tự do hiện đại không chỉ là chỗ trao đổi hàng hóa. Thị trường hiện đại được mô tả như là những làn sóng “của sự phá hoại mang tính sáng tạo”; những cái mà cách đây mười năm là mới thì nay đã trở thành cũ kỹ, bị những mẫu mã cải tiến hoặc thiết bị mới thế chỗ, những dàn xếp về mặt định chế, công nghệ và cách thức tương tác mà không ai có thể tưởng tượng nổi. Đấy chính là sự khác biệt giữa thị trường tự do hiện đại với những phiên chợ của quá khứ. Theo tôi, thuật ngữ tốt nhất hiện có nhằm phân biệt những quan hệ của thị trường tự do, tức là những quan hệ tạo ra thế giới hiện đại từ những thị trường tiền bối của nó là “chủ nghĩa tư bản”.
Thế nhưng chủ nghĩa tư bản không phải là tình trạng hỗn loạn. Nó là trật tự tự phát, một trật tự xuất hiện ngay trong tiến trình. (Một số tác giả gọi trật tự này là “trật tự nổi dần lên”). Sự ổn định có thể dự đoán được của chế độ pháp quyền và việc bảo đảm các quyền làm cho quá trình cách tân như vậy trở thành khả thi. Như đã được viết trong cuốn The Futurist (Nhà vị lai học):
Người ta bao giờ cũng khó nhìn thấy trật tự trong thị trường rõ ràng là hỗn loạn. Ngay cả hệ thống giá cả luôn luôn đưa các nguồn lực đến những nơi mà chúng được sử dụng một cách tốt nhất, nhưng trên bề mặt của thị trường thì lại dường như hoàn toàn trái ngược với trật tự – doanh nghiệp phá sản, người lao động mất việc làm, thịnh vượng tiến lên với những bước đi chập chững, những khoản đầu tư hóa ra là bị mất trắng. Dường như thời đại cách tân diễn ra nhanh chóng thậm chí sẽ hỗn loạn hơn, những doanh nghiệp khổng lồ phát đạt và lụn bại nhanh chưa từng có và chẳng còn mấy người có công ăn việc làm lâu dài nữa.
Nhưng năng lực gia tăng của ngành vận tải, của thông tin và của thị trường tài chính trên thực tế có nghĩa là thậm chí có nhiều trật tự hơn là thị trường có thể đạt được trong thời đại công nghiệp. Vấn đề quan trọng là phải tránh sử dụng chính phủ áp bức nhằm “giải quyết những sự quá lạm” hay “hướng thị trường đến kết quả mà một người nào đó muốn![20]”
Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do chống lại chủ nghĩa tư bản ô dù
Để tránh sự lầm lẫn do cách sử dụng mập mờ thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” của những nhà trí thức theo trường phái xã hội chủ nghĩa gây ra, cần phải tách biệt một cách rõ ràng giữa “chủ nghĩa tư bản thị trường tự do” với “chủ nghĩa tư bản ô dù”, tức là tách biệt khỏi cái hệ thống đã và đang đẩy rất nhiều dân tộc vào vũng bùn tham nhũng và tình trạng lạc hậu. Trong rất nhiều nước, nếu một người nào đó giàu có thì có nhiều khả năng là ông ta (hiếm khi là bà ta) có quyền lực chính trị hay là họ hàng gần gũi, bạn bè hoặc người ủng hộ – nói ngắn, có “ô dù” – của những người có quyền lực và người này có tài sản không phải là vì ông ta là người làm ra những món hàng tốt mà do ông ta được hưởng đặc quyền đặc lợi do nhà nước ban phát cho một số người, gây thiệt hại cho một số người khác.
Đáng tiếc là “chủ nghĩa tư bản ô dù” có thể được áp dụng với độ chính xác ngày càng cao đối với nền kinh tế của Mĩ, một đất nước mà những công ty phá sản thường được nhà nước “cứu trợ” bằng tiền của người đóng thuế, trong đó thủ đô của quốc gia cũng chẳng khác gì một cái tổ ong cực lớn, gồm toàn những kẻ kiếm lời bằng thủ thuật vận động hành lang, những quan chức, các chính khách, các nhà tư vấn và tài xế và các quan chức được bổ nhiệm của bộ tài chính và ngân hàng trung ương tự tung tự tác trong việc tưởng thưởng cho một số công ty và làm cho một số công ty khác bị thiệt hại.
Không được lẫn lộn hệ thống ô dù thối nát như thế với “chủ nghĩa tư bản thị trường tự do”, tức là thuật ngữ dùng để nói về hệ thống sản xuất và trao đổi trên cơ sở chế độ pháp quyền, trên sự bình đẳng của tất cả mọi người, trên cơ sở tự do lựa chọn, tự do buôn bán, tự do cải tiến, trên nguyên tắc lời ăn lỗ chịu làm kim chỉ nam, và quyền hưởng thành quả lao động, tiết kiệm, đầu tư mà không sợ bị tịch thu hay bị những kẻ không đầu tư vào sản xuất của cải vật chất mà đầu tư vào quyền lực chính trị ngăn cản.
Những làn sóng thay đổi mà chủ nghĩa tư bản thị trường tự do tạo ra thường làm cho những tầng lớp tinh hoa cha truyền con nối tức giận. Theo cách nhìn của họ về thế giới thì những nhóm người thiểu số trở thành tự cao tự đại và chẳng bao lâu nữa những tầng lớp dưới sẽ nhận thức được vị trí của mình. Khủng khiếp hơn nữa – đấy là theo quan điểm của họ – là trong chế độ tư bản chủ nghĩa thị trường tự do phụ nữ sẽ khẳng định được giá trị của họ. Địa vị của họ đã bị đe dọa. Người dân sẽ tạo lập các mối quan hệ trên cơ sở lựa chọn và thỏa thuận chứ không còn dựa vào nguồn gốc hoặc địa vị nữa[21]. Trong các tác phẩ của mình, Marx đã tóm tắt một cách tài tình và chỉ ra một cách khéo léo lòng hận thù của những người bảo thủ đối với chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, đấy là sự tức giận trước những thay đổi và mất mát đặc quyền đặc lợi.
Leo Melamed (chủ tịch danh dự của CME Group [trước đây là Chicago Mercantile Exchange], câu chuyện của cuộc đời ông về quá trình trốn tránh cả Gestapo lẫn KGB và cuộc cách mạng nền tài chính thế giới là câu chuyện về lòng dũng cảm và tầm nhìn), dựa vào chính kinh nghiệm của mình khi nói: “Trong thị trường tài chính Chicago, vấn đề không phải bạn là ai – dòng dõi của bạn, lai lịch của bạn, sức khỏe của bạn, giới tính của bạn – mà vấn đề là khả năng của bạn trong việc xác định nhu cầu của người tiêu dùng và xu hướng của thị trường. Ngoài ra chẳng có gì quan trọng hết![22]”
Chấp nhận chủ nghĩa tư bản thị trường tự do nghĩa là chấp nhận tự do trao đổi, tự do cách tân, tự do sáng chế. Nghĩa là chấp nhận thay đổi và tôn trọng quyền tự do hành động của người khác – theo nguyện vọng và với những thứ mà họ có. Nghĩa là tạo không gian cho các công nghệ mới, lí thuyết khoa học mới, hình thức nghệ thuật mới, bản sắc mới và quan hệ mới. Nghĩa là chấp nhận quyền tự do làm ra của cải, đấy cũng là phượng tiện thoát nghèo duy nhất. (Của cải có nguồn gốc, nhưng nghèo đói thì không; nghèo đói là do không sản xuất ra của cải, nhưng của cải thì không phải là do không sản xuất ra nghèo đói[23]). Nghĩa là hân hoan chào đón quá trình giải phóng con người và biến tiềm năng của con người thành hiện thực.
Các tác giả được giới thiệu trong cuốn sách này là những người đến từ những nước khác nhau, những nền văn hóa khác nhau, từ những nghề nghiệp khác nhau và từ những ngành học khác nhau. Những thương vụ trên thị trường tự do gắn bó với đức hạnh mật thiết đến mức nào và chúng giúp củng cố những hành vi mang tính đạo đức của chúng ta đến mức nào? – mỗi người sẽ cung cấp cho độc giả đánh giá của của mình. Chúng tôi đưa vào cuốn sách này những bài tiểu luận khác nhau, có bài rất ngắn, một số bài dài hơn, có những bài rất dễ hiểu, nhưng lại có những bài có tính hàn lâm hơn. Có hai bài được dịch từ tiếng Hoa và tiếng Nga.
Hai tác giả khác là những người đã từng đoạt giải Nobel, một người là nhà văn, còn người kia là một nhà kinh tế học. Có một bài phỏng vấn với một doanh nhân thành đạt và cũng là một người ủng hộ bộc trực cho điều mà ông gọi là “chủ nghĩa tư bản tự giác”. Các bài tiểu luận ở đây không thể cung cấp đầy đủ tất cả những luận cứ ủng hộ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, nhưng chắc chắn là chúng giúp độc giả thâm nhập vào một lĩnh vực tài liệu khá đồ sộ (Một số tác phẩm được liệt kê trong phần tài liệu tham khảo ngắn ở cuối sách).
Tại sao cuốn sách này lại chỉ chứa đựng những lời biện hộ hùng hồn cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do? Vì đã có hàng trăm – thực ra là hàng ngàn – cuốn sách đang có mặt trên thị trường với mục đích cung cấp những cuộc thảo luận “không thiên vị” nhưng trên thực tế lại chẳng có gì ngoài những cáo buộc quá trình làm ra của cải, cáo buộc tinh thần dám nghĩ dám làm, tinh thần sáng tạo, cáo buộc hệ thống hệ thống lời-ăn-lỗ-chịu và cáo buộc chủ nghĩa tư bản trị trường tự do nói chung.
Trong quá trình hoạt động của mình, tôi đã đọc hàng trăm cuốn sách tấn công chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, tôi đã suy tư về những luận cứ của những cuốn sách đó và đã đánh vật với chúng. Ngược lại, những người phê bình chủ nghĩa tư bản thị trường tự do lại ít đọc những người dám ủng hộ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, họ thường chỉ đọc một tác giả. Tác giả được trích dẫn nhiều nhất – ít ra là trong giới trí thức Anglo-Saxon – là Robert Nozick, và ngay cả trường hợp này thì họ cũng chỉ đọc một chương trong một cuốn sách mà thôi, đấy là chương mà ông đưa ra một thí nghiệm mang tính giả thuyết đầy thách thức nhằm sát hạch những người chống lại chủ nghĩa tư bản thị trường tự do.
Phần lớn những người xã hội chủ nghĩa đều cho rằng chỉ cần đọc một tiểu luận và bác bỏ bất kì thí nghiệm mang tính tư duy nào[24]! Sau khi đã đọc và đã bác bỏ rồi, nếu những người kết án chủ nghĩa tư bản thị trường tư do vẫn còn nghĩ là cần phải tiếp tục phê phán thì họ lại thường dựa vào ý kiến sai lầm của Milton Friedman hay Ayn Rand hoặc F. A. Hayek hoặc Adam Smith hay ý kiến của các vị này nhưng đã bị cắt xén, được họ trình ra mà không trích dẫn.
Những người nghiêm túc phải làm tốt hơn họ. Tôi khuyên bạn, khuyên những độc giả của tiểu luận này và của cuốn sách này phải làm tốt hơn những người đó. Hãy đọc những bài phê bình chủ nghĩa thị trường tự do hay nhất. Hãy đọc Marx. Đọc Sombart. Đọc Rawls. Đọc Sandel. Hãy hiểu họ. Hãy mở lòng để cho họ thuyết phục. Hãy nghĩ về họ. Tôi đã đọc nhiều luận cứ chống chủ nghĩa tư bản thị trường tự do hơn phần lớn những kẻ thù của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do từng đọc và tôi nghĩ là tôi có thể trình bày mạch lạc hơn họ vì tôi biết rõ hơn họ. Ở đây, tôi muốn cung cấp cho người đọc phía bên kia của cuộc thảo luận, đấy là cái phía mà thậm chí chẳng có mấy người công nhận là nó có tồn tại.
Xin tiếp tục, hãy tận dụng cơ hội. Hãy vật lộn với những luận cứ được trình bày trong những bài viết của tập sách này. Hãy suy nghĩ về chúng. Và sau đó thì tự đưa ra quyết định.
Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: The Morality of Capitalism Introduction
Tom G. Palmer
Washington, D.C.
[themify_box style=”green rounded” ]Giáo sư Tom Gordon Palmer (sinh năm 1956 ở Bitburg-Mötsch, Đức) là cộng tác viên cao cấp của Viện Cato (Cato Institute), phụ trách lĩnh vực đào tạo của Viện (Cato University), phó chủ tịch chương trình quốc tế của quĩ nghiên cứu kinh tế Atlas (Atlas Economic Research Foundation), và là tổng giám đốc Sáng kiến toàn cầu vì tự do thương mại, hòa bình và thịnh vượng của quỹ Atlas (Atlas Global Initiative for Free Trade, Peace, and Prosperity).
Đây là Lời giới thiệu cho tác phẩm The Morality of Capitalism (Đạo đức của chủ nghĩa tư bản) do Quĩ ATLAS xuất bản. Chúng tôi dùng bài viết của Tom Gordon Palmer làm lời giới thiệu cho cả tập sách, trong đó có nhiều bài được dịch từ cuốn Đạo đức của chủ nghĩa tư bản do giáo sư Tom G. Palmer làm chủ biên.[/themify_box]
[1] Robert Nozick, Anarchy, State, and Utopia (New York: Basic Books, 1974), p. 163.
(Trong tác phẩm này các chú thích trong nguyên bản được đánh số Lain: 1, 2, 3…; còn các chú thích của người dịch thì được đánh số La Mã: I, II, III…
[2] Joyce Appleby, The Relentless Revolution: A History of Capitalism (New York: W. W. Norton and Co., 2010), pp. 25-26.
[3] David Schwab and Elinor Ostrom, “The Vital Role of Norms and Rules in Maintaining Open Public and Private Economies,” in Moral Markets: The Critical Role of Values in the Economy, ed. by Paul J. Zak (Princeton: Princeton University Press,2008, pp. 204-27.
[4] Deirdre McCloskey, Bourgeois Dignity: Why Economics Can’t Explain the Modern World (Chicago: University of Chicago Press, 2010), p. 48.
[5] Muốn tìm hiểu lợi thế tương đối, xin đọc tomgpalmer.com/wpcontent/uploads/papers/The%20Economics%20of
%20Comparative%20Advantage.doc.
[6] Muốn biết bạo lực đã giảm thiểu đến mức nào xin đọc: James L. Payne, A History of Force (Sandpoint, Idaho: Lytton Publishing, 2004).
[7] Ghen tị như là xung lực có hại đối với sự hợp tác xã hội và có hại cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do đã được nhiều nhà tư tưởng nghiên cứu. Có thể thấy cách tiếp cận khá hay và vừa được thực hiện trong thới gian gần đây trong công trình nghiên cứu bản anh hùng ca Ấn Độ Mahabharata trong tác phẩm của Gurcharan Das: The Diffculty of Being Good: On the Subtle Art of Dharma (New York: Oxford University Press, 2009), esp. pp. 1-32.
[8] Fernand Braudel, Civilization and Capitalism, 15th–18th Century: The Wheels of Commerce (New York: Harper & Row, 1982, p. 232.
[9] Ibid., p. 236.
[10] Louis Blanc, Organisation du Travail (Paris: Bureau de la Societé de l’Industrie Fraternelle,1847, cited in Braudel, Civilization and Capitalism, 15th–18th Century: The Wheels of Commerce, op. cit., p. 237.
[11] Karl Marx and Frederick Engels, Manifesto of the Communist Party, in Karl Marx and Frederick Engels, Collected Works, Volume 6 (1976: Progress Publishers, Moscow), p. 489.
[12] Phê bình lí thuyết của Marx, xin đọc Eugen von Böhm-Bawerk, Karl Marx and the Close of His System 1896; New York: Augustus M. Kelley, 1949). A better translation of Böhm-Bawerk’s title would be, “On the Conclusion of the Marxian System.” Böhm-Bawerk refers in his title to the publication of the third volume of Capital, which “concluded” the Marxian system. It should be noted that Böhm-Bawerk’s
criticism is altogether an internal critique, and does not rest in any way on the results of the “marginal revolution” in economic science that took place in 1870. See also the essay by Ludwig von Mises, “Economic Calculation in the Socialist Commonwealth,” in F. A. Hayek, ed., Collectivist Economic Planning (London: George Routledge & Sons, 1935) on the inability of collectivism to solve the problem of economic calculation.
[13] Karl Marx, “The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte,” in David Fernbach, ed., Karl Marx: Surveys from Exile: Political Writings, Volume II (New York: Vintage Books, 1974), p. 186. I describe the contradictions and confusions of Marxian economic and social analysis in “Classical Liberalism, Marxism, and the Conflict of Classes: The Classical Liberal Theory of Class Conflict,” in Realizing Freedom: Libertarian Theory, History, and Practice (Washington: Cato Institute, 2009), pp. 255-275.
[14] Karl Marx and Friedrich Engels, Manifesto of the Communist Party, p. 488
[15] Karl Marx and Friedrich Engels, Manifesto of the Communist
[16] Karl Marx, “The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte,” p. 238.
[17] Shirley M. Gruner, Economic Materialism and Social Moralism (The Hague: Mouton, 1973, pp. 189-190.
[18] See, for example, Sheldon Richman, “Is Capitalism Something Good?” www.
thefreemanonline.org/columns/tgif/is-capitalism-something-good/.
[19] Joseph Schumpeter, Capitalism, Socialism, and Democracy (London: Routledge, 2006), p. 84.
[20] David Boaz, “Creating a Framework for Utopia,” The Futurist, December 24, 1996, www.cato.org/pub_display.php?pub_id=5976.
[21] The legal historian Henry Sumner Maine famously described “the movement of the progressive societies” from inherited relations, based on family membership to personal liberty and civil society as “a movement from Status to Contract.” Henry Sumner Maine, Ancient Law (Brunswick, NJ: Transaction
Publishers, 2003, p. 170.
[22] Leo Melamed, “Reminiscences of a Refugee,” in For Crying Out Loud: From Open Outcry to the Electronic Screen (Hoboken, NJ: John Wiley & Sons, 2009, p. 136.
[23] I address the issue of poverty and free-market capitalism more systematically in “Classical Liberalism, Poverty, and Morality,” in Poverty and Morality: Religious and Secular Perspectives, William A. Galston and Peter H. Hoffenberg, eds. (New York: Cambridge University Press, 2010), pp. 83-114.
[24] This is an especially common attitude among philosophers, perhaps the saddest of whom was the late G. A. Cohen, who devoted much of his intellectual career to attempting, but failing, to refute Nozick’s one thought experiment. Citations to Cohen’s articles and a demonstration of the failure of his critique can be found in “G. A. Cohen on Self-Ownership, Property, and Equality,” in Realizing Freedom, pp. 139-54.
[i] Tác giả chơi chữ: mua chip máy tính và bán những miếng cà chua thái mỏng, cũng gọi là chip.