29 C
Nha Trang
Thứ ba, 5 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 190

[BDTT8] Một Lời Nói Cứu Cả Cuộc Đời, những câu chuyện nhỏ làm thay đổi cuộc đời lớn

Featured Image: Bìa sách “Một Lời Nói Cứu Cả Cuộc Đời”

 

Sách hay không phải bỏ tiền ra mua, mà cần một cái duyên

Buổi chiều ngày 14/02/2014, tôi lang thang trên những con phố nhỏ Sài Gòn cùng người yêu của mình. Anh biết tôi thích đọc sách nên ngỏ ý mua tặng tôi tất cả những cuốn sách mà tôi chọn trong ngày hôm đó. Vào nhà sách, dạo quanh khá lâu để đọc và tìm kiếm, tôi đã chọn cho mình ba cuốn sách ưng ý. Đến ngày hôm nay cũng được hơn nửa năm, tôi vẫn thường đọc đi đọc lại một trong ba cuốn sách mang tên Một lời nói cứu cả cuộc đời. Cuốn sách đã giúp tôi thay đổi rất nhiều, tôi dần thấy mọi thứ đơn giản hơn, nhiều niềm vui hơn.

Một Lời Nói Cứu Cả Cuộc Đời gồm một trăm lẻ một câu truyện đời thường của nhiều tác giả khác nhau. Được dịch bởi Tri Thức Việt. Mỗi câu truyện ngắn gọn với độ dài từ một đến hai trang sách nhưng lại chứa đựng trong nó những bài học kinh nghiệm quý giá từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây.

Bạn sẽ thấy chính mình qua mỗi kinh nghiệm được đúc kết

Bước qua mỗi câu chuyện, tôi lại bắt gặp hình ảnh của chính mình,của người thân, của một ai đó từng đi qua cuộc đời tôi. Chúng ta luôn tạo ra những nguyên tắc sống cho riêng mình nhưng buồn thay chúng ta để cho những nguyên tắc ấy điều khiển bản thân như một cái máy. Chúng ta quên đi rằng cuộc sống này là một hành trình với những con đường hoàn toàn khác nhau, thay đổi quan niệm tích cực, thay đổi tư duy đổi mới, hành động một cách linh hoạt trước mọi tình huống mới chính là cách ta thay đổi vận mệnh không chỉ cho bản thân mà còn cho những người thân xung quanh. Một Lời Nói Cứu Cả Cuộc Đời đã cho tôi những khái niệm căn bản về cách thức đối diện với chính mình và rèn giũa bản thân.

Những mảnh ghép lấp đầy khoảng trống tâm hồn chúng ta

Một câu truyện luôn có hai phần, đó là là phần truyện và phần lời bình. Phần truyện với nội dung bình dị gắn liền cuộc sống, không quá nặng nề với những tư tưởng triết lý sâu xa. Tôi tin rằng nó sẽ phù hợp với tất cả đọc giả ở nhiều độ tuổi và trình độ khác nhau. Phần lời bình là thông điệp kinh nghiệm sống mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc. Mở đầu cho phần lời bình luôn luôn là một câu nói ngắn gọn xúc tích. Nó như một công thức toán học đơn giản giúp chúng ta dễ dàng ghi nhớ và ứng biến vào thực tế cuộc sống. Tuy vậy, công thức dù có cô đọng cũng trở nên vô nghĩa nếu như ta không thể hiểu cái hay và nên sử dụng nó trong trường hợp nào, thì nội dung tiếp theo của phần lời bình là giải thích một cách thấu đáo, chân thật nhất với giọng văn gần gũi pha chút hài hước châm biếm.

Để giúp bạn dễ hình dung cho những điều tôi vừa nói, xin phép chọn câu truyện số 5 – Triết Học Của Con Lừa.

“Ngày nọ, một con lừa chẳng may rơi xuống cái giếng khô, không cựa quậy được. Người nông dân nghĩ nát óc cũng chẳng biết làm cách nào để cứu nó lên. Qua mấy tiếng đồng hồ, người nông dân quyết định vứt bỏ con lừa. Ông ta nghĩ, cũng may con lừa này già rồi. Nhưng phải lấp cái giếng này, nếu không thì con lừa còn kêu bebe rất lâu, vả lại sau này có thể còn có người khác hoặc con vật khác rơi xuống. Chôn con lừa cũng có thể xóa bỏ đau khổ của nó. Nghĩ vậy nên người nông dân đi nhờ bà con hàng xóm cùng đến chôn con lừa. Đầu tiên, khi đất đổ xuống lưng, con lừa lắc mình cho đất cát rơi xuống. Sau đó không lâu, cát đất dưới đáy giếng tích tụ lại, lừa có thể đứng trên đó! Dần dần, lừa rũ sạch bùn đất trên mình và lại đứng lên. Đến khi bùn đất tích lại tới độ cao nhất điịnh, lừa nhảy ra khỏi giếng, vui vẻ chạy đi.”

Công thức cuộc sống mà phần lời bình đưa ra là “Khi chờ đợi, cách duy nhất là kiên trì”

Nội dung tiếp theo sau công thức là giải thích tại sao chúng ta phải sống kiên trì và kiên trì bằng cách nào:

“Trong cuộc đời, chúng ta khó tránh khỏi rơi vào giếng khô, đủ mọi thứ bùn đất sẽ đổ lên mình chúng ta. Bí quyết thoát khỏi đó là: rũ sạch bùn đất, sau đó đứng trên nó…Chúng ta không thể lựa chọn số phận, điều chúng ta có thể làm là đối đầu với số phận, chấp nhận thách thức, ngoan cường chiến đấu với số phận bất công này…”.

Bạn và tôi sẽ không còn là con số không nữa

Cảm nhận đầu tiên khi vừa mới bắt đầu đọc những câu truyện là sự bất ngờ, tôi không thể tin người ta có thể đưa ra những triết lý sống cho cả cuộc đời của một con người từ những hành động quen thuộc như: cho mượn tiền, leo cầu thang, thi tài xế…Để rồi, sau tất cả tôi hoàn toàn bị thuyết phục và tăng thêm phần hào hứng đọc những câu truyện tiếp theo. Một trăm lẻ một câu truyện hiện lên như một bức tranh sinh động về cuộc sống quanh ta nhưng luôn luôn được nhìn ở một góc độ mới hơn, sâu hơn và tinh tế hơn. Một Lời Nói Cứu Cả Cuộc Đời đã gợi mở cho tôi nhiều điều đáng suy ngẫm về bản thân mình kết hợp cùng với những gì tôi đã trãi qua. Không ít lần đang đọc sách, tôi chỉ muốn đóng sách lại để hồi tưởng, để chiêm nghiệm, để sửa sai, để thay đổi nguyên tắc mà tôi từng tin nó là đúng, là duy nhất, là mãi mãi.

Ngày bé, ba tôi thường khuyên tôi phải đọc sách nhưng tôi cực kỳ lười biếng. Ba tôi dạy các con rằng : “Sách không đọc thì thôi, chứ đã đọc thì càng đọc càng thấy mình ngu” Trong cái đầu lì lợm và ham chơi trẻ con của mình, tôi chỉ muốn được bay nhảy khắp nơi, cảm nhận cuộc sống theo cách riêng thay vì đọc những suy nghĩ của người khác. Tốt nghiệp cử nhân ngành kế toán, bắt đầu với công việc làm thuê đến tự làm chủ. Sau nhiều năm, thành công luôn đồng hành cùng thất bại khiến tôi vẫn còn là một con số không bất động.

Tôi nghĩ đến việc thay đổi quan niệm của bản thân sẽ hiệu quả hơn việc cứ cố thay đổi mọi thứ xung quanh mình. Những cuốn sách lúc này là sự cứu cánh giúp tôi tìm lại năng lượng cho chính mình. Tôi chỉ chọn những bộ gồm nhiều truyện ngắn vì mỗi câu truyện như một mảnh ghép nhỏ lấp đầy thiếu sót trong tôi. Một Lời Nói Cứu Cả Cuộc Đời là một trong số những bộ truyện mà tôi yêu thích. Nếu bạn là người bắt đầu đọc sách hoặc yêu thích phong cách giản dị, dễ nhớ dễ hiểu thì Một Lời Nói Cứu Cả Cuộc Đời là một sự lựa chọn thích hợp mà bạn nên mang theo cho chuyến hành trình của mình. Nhiều năm sau, tôi lúc đó có thể vẫn sẽ không đạt được những thành công trong sự nghiệp như tôi mong muốn, chẳng ai nói trước được điều gì, cuộc sống mà. Nhưng tôi biết chắc chắc tôi sẽ không còn là số không khi tôi luôn sống trong lạc quan, vui vẻ và biết cách đem lại hạnh phúc cho người khác.

“Ngày ngày vui vẻ, cả đời vui vẻ”

(Trích câu truyện số 27 – Khí là gì – Một lời nói cứu cả cuộc đời)

 

Kim Thanh Lâm


Cuộc thi hân hạnh được tài trợ bởi ThachPham.com (website hướng dẫn tạo blog), Phi Tuyết, hai thành viên giấu tên, Karmi Phuc (developer chính của THĐP), Kính Kong (shop phụ kiện).

Các bài viết dự thi tháng 8

Bảng điểm và nhận xét các bài thi

[BDTT8] Rừng Na Uy – Haruki Murakami, sự chân thành sâu sắc nhất mà cũng trần trụi nhất

Featured Image: Bìa sách “Rừng Na Uy” phiên bản tiếng Anh

 

Tôi từng nghe nhiều câu nói về việc nên chọn sách để đọc như thế nào. Trong số những đúc kết đáng học hỏi đó có ba câu thường“lớn tiếng” nhắc nhở khi tôi chọn sách đọc, một câu đại ý là ‘Bạn đọc bao nhiêu cuốn sách không quan trọng bằng thấm được bao nhiêu phần trong nó’, nữa là ‘Một cuốn sách sau khi đọc xong khiến bạn tâm đắc nhất dù chỉ một câu thì cuốn sách ấy vẫn đáng đọc’, hay gần đây nhất, và ấn tượng nhất với tôi về ý nghĩa của những mặt giấy và những con chữ là như này: “Đôi khi bạn đọc được một cuốn sách và nó truyền cho bạn một thứ đức tin cuồng loạn, và bạn dần tin rằng thế giới đang bị chia cắt này sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được khi và chỉ khi toàn bộ nhân loại đọc được cuốn sách đó.”

Huyên thuyên về chuyện đọc sách như thế có hơi tốn thời gian nhưng việc này có liên hệ nhiều tới việc đọc sách của tôi. Riêng tôi cảm thấy số quyển sách đem lại cho mình cảm giác kỳ diệu như nó là thứ viết ra dành cho mình, thứ được viết bởi một người có thể chỉ lối cho mình, gần như là khai sáng ấy, thì quả thật không nhiều. Nó như những mối nhân duyên, những mối duyên đến mà không ai trong chúng ta có thể tiên đoán, có thể cảm được cái ý nghĩa đặc biệt của nó. Mối duyên không chỉ có giữa người với người, người với sách, nó cũng kỳ diệu và thiêng liêng không kém. Tôi nghĩ rằng, tất cả những người cũng đọc Rừng Na Uy và từng bị nó lay động thấu tim gan mình, họ và tôi đã có được sợi dây kết nối vô hình mà mãnh liệt nhất. Tôi đã nghĩ như thế về sự hàn gắn nhân loại trong câu nói trên kia.

Tôi đã mua Rừng Na Uy vào một dịp mua sách rất bình thường, không hề tìm đọc bình luận, phê bình trước, giới thiệu tóm tắt cũng không, chỉ biết nó nổi tiếng mức độ “Cứ bảy người Nhật thì có một người đọc Rừng Na Uy”. Tóm lại chỉ là một trong những cuốnlần ấy tôi khuân về để ngâm cho hết thời giờ trong kỳ nghỉ. Tôi đã chẳng hiểu một tí gì sau khi đọc xong nó. Tôi không hiểu điều mà nhà văn muốn nói, tôi không hiểu ý nghĩa của cuốn tiểu thuyết, tôi không hiểu cả những bình luận, tôi không hề cảm thấy như họ. Có lẽ lúc ấy tôi còn quá ngây thơ non nớt, tâm hồn chưa đủ sâu, kinh nghiệm sống, hiểu biết cuộc đời cũng chưa đủ rộng để cảm nhận nó.

Nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ, đó là cuốn đầu tiên dù tôi không nắm bắt được dòng cảm xúc của nhân vật, tức là chưa có sự đồng cảm với những gì nhân vật đang kể, đang cảm, thì tôi vẫn bị nó cuốn hút một cách vô thức, khiến tôi đọc cho đến dòng cuối cùng. Mặc dù có thể lúc đấy đơn thuần là do sự tò mò về diễn biến câu chuyện. Tôi đã không có gì để suy nghĩ nhiều về cuốn sách sau khi đọc xong lần đầu ấy. Nhưng nó để lại một sự ám ảnh nhẹ nhàng trong đầu tôi.

Nói nhẹ nhàng là vì nó không hiện hữu và chiếm toàn bộ đầu óc tôi mọi nơi mọi lúc, mà chỉ là đôi khi nó mớivô tình gợi lên và từ từ len lỏi vào đầu óc tôi, dần lớn lên và đạt được một chỗ trong tiềm thức tôi. Chính cái cách chờ đợi một cách đặc biệt ấy, chờ cho đến khi tôi sẵn sàng trở lại, nó đã khiến tôi cầm lên khỏi kệ và đọc lại không chỉ một mà hai, rồi ba, bốn lần và cho đến bây giờ cuốn tiểu thuyết ấy tôi đã thuộc nằm lòng từng câu thoại, từng cảnh vật và từng sợi dây cảm xúc của nhân vật như thể họ là có thật, và tôi đã thật sự cùng họ trải qua tất cả.

Rừng Na Uy là một cuốn tiểu thuyết sống động, nó tràn đầy sinh lực và cảm xúc. Nó không khiến thực tế trở nên tuyệt vọng hơn, nó không khiến người đọc đồng cảm để rồi tìm đến sự giải thoát như ba trong số nhân vật của câu chuyện. Rừng Na Uy mang trong nó một nguồn sức sống mãnh liệt, bao phủ bên ngoài bằng vỏ bọc của mộtthế giới thực, một thời đại thực nghẹt thở và tuyệt vọng. Đọc hàng chục lần, nghĩ về nó hàng năm theo sự trưởng thành của mình, tôi mới nhận ra, cái thứ hy vọng âm ỉ và niềm tin mạnh mẽ vào sự sống, vào tương lai mà nó khơi dậy trong tôi, chính bắt nguồn từ cách mà Toru Watanabe thành thật và lạnh lùng kể về những suy nghĩ, cảm xúc của anh ta về cuộc sống và con người, và cách mà anh ta đối thoại, cư xử với những người khác trong câu chuyện.

Tất cả những lời nói, những suy nghĩ, những hành động đó đều xuất phát từ sự thành thật sâu tận đáy lòng của anh ta. Toru Watanabe chấp nhận và chân thành với người khác về những khiếm khuyết của mình. Anh ta nói những gì mình thật sự nghĩ và cảm thấy. Anh ta chia sẻ về cuộc sống của mình và nỗi đau của mình một cách đơn giản và chân thành nhất. Anh ta không che giấu những mảng tối trong tâm hồn, không giấu bản ngã của mình, không giấu cả sự ghê tởm bản thân.

Nhưng trên tất cả là, sáu nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đều sống như thế. Họ thành thật với nhau. Họ đến với nhau tự nhiên và chân thành. Họ chấp nhận việc mỗi người đều có những đứt gãy riêng và học cách lắng nghe và nói chuyện, học cách chia sẻ và học cách hiểu nhau. Tất cả sự thành thật đó họ đã bộc lộ bằng những cách đơn thuần nhất, hay có thể nói trần trụi nhất, qua những cuộc trò chuyện, bày tỏ về quá khứ, về hiện tại, qua những lá thư, những giận dữ, những đau đớn, những tiếp xúc thể xác…Ta chân thành nhất khi ta thể hiện bằng những gì thuộc bản năng con người của mình nhất.

Như sự can đảm chấp nhận một mối quan hệ đầy khiếm khuyết của Hatsumi, vì cô ấy thấu hiểu và thành thật với tình cảm của mình. Một Midori với bản năng tràn đầy sức sống và lạc quan vượt lên trên những khốn khổ và khắc nghiệt của cuộc sống xung quanh. Cái cách cô nói ra từng chữ một rằng cô muốn làm những trò kinh tởm với Watanabe, cái cách cô nói rằng cô đã hy vọng cậu thấy được kiểu tóc mới của mình, cái cách cô bảo Watanabe rằng cô đã yêu hắn… Và bên trên những lối sống khác nhau mà tất cả bọn họ đã chọn, có thể đầy mâu thuẫn và vô cảm như Nagasawa, hay là một cuộc sống cô đơn và thiếu nhiệt huyết như Watanabe thì tất cả bọn họ luôn có một điểm chung: Sự chân thành.

“Cái phẩm giá lớn nhất của hắn là lòng trung thực. Không những hắn không bao giờ nói dối, hắn còn luôn sẵn sàng nhận khuyết điểm của mình.”
“Cậu đang nói rằng cậu ghen tị với cách sống của tớ?” – “ Không, tớ không nói thế. Tớ đã quá quen với việc chỉ là chính mình.”
“Tôi hoang mang rồi. Tôi sẽ không phân bua gì cho mình đâu, nhưng tôi tin chắc là mình đã sống chân thực như mình vẫn biết.”

Rừng Na Uy dạy tôi một điều quan trọng, tất cả chúng ta không thể đều trở thành những vĩ nhân, hay làm được những điều to lớn, trở nên thành công và nổi tiếng. Nhưng chúng ta luôn có thể sống hết sức lực, tâm can mình bằng sự chân thành. Chân thành với chính bản thân, học cách chấp nhận những khuyết điểm của mình, học cách tha thứ cho bản thân, học cách yêu và sống như chính con người mình và học cách đối xử với người khác như thế.Sự giản dị mà lôi cuốn người ta vào từng con chữ một, từng trang sách một của Rừng Na Uy khiến nó đôi với tôi luôn là cuốn tiểu thuyết tràn đầy nhất, đẹp đẽ nhất của Murakami.

Tôi luôn nhớ những lời bộc bạch của dịch giả Trịnh Lữ: “Đọc Rừng Na Uy rồi, tôi chắc bạn sẽ nghĩ nhiều về bản thân mình. Về người mình yêu. Về bạn bè. Về bố mẹ anh chị em trong nhà… Đọc lời thoại trong Rừng Na Uy, tôi chỉ mong mình cũng nói được như thế với người mình yêu mến”. Đó chính xác là những gì cuốn tiểu thuyết dạy cho tôi, và là thứ ánh sáng duy nhất cháy trong đêm mà tôi dựa vào để đi con đường của mình, không, bất cứ con đường nào.

 

Chau Tran


Cuộc thi hân hạnh được tài trợ bởi ThachPham.com (website hướng dẫn tạo blog), Phi Tuyết, hai thành viên giấu tên, Karmi Phuc (developer chính của THĐP), Kính Kong (shop phụ kiện).

Các bài viết dự thi tháng 8

Bảng điểm và nhận xét các bài thi

[BDTT8] Hãy trở thành người giàu có cùng Bí Mật Tư Duy Triệu Phú – T. Harv Eker

Featured Image: Bìa sách “Bí Mật Tư Duy Triệu Phú”

 

“Hãy cho tôi năm phút, tôi sẽ cho bạn biết cuộc đời sau này của bạn giàu sang hay nghèo túng” – đó là lời tuyên bố của T.Harv Eker trong tác phẩm “Bí mật tư duy triệu phú” của ông!

Xin bạn chớ cho rằng ông ta nói đùa, T.Harv Eker có cơ sở lý luận riêng, dựa trên những gì bạn nói mà Harv sẽ đưa ra kết luận đó chính xác ở một mức độ khó tin! Vậy ông ấy đã dùng những cơ sở nào để nói lên điều đó? Điều đó có lẽ bạn cho là không quan trọng, nhưng khi bạn đi tìm cái cơ sỏ đó bạn sẽ nhận ra một thứ mà bạn càng khó tin hơn, nhưng sự thật là nó đang hiện hữu trong bạn! Qua một vài phút nói chuyện những gì bạn định hình trong suy nghĩ sẽ dần được bộc lộ ra bên ngoài, thế giới tư duy của bạn ra sao và từ đó sẽ biết được cuộc đời của bạn về sai sẽ giàu có hay nghèo túng!

Đến đây có người sẽ cho rằng “cái tư duy đó thì làm gì mà quyết định được tương lai, tôi chẳng tin chút nào”, nhưng tôi lại cho rằng nó có đấy, nếu bạn không tin xin hãy lắng nghe đôi lời về cuộc đời của tôi nhé! Tôi giới thiệu cuốn sách này đến với các bạn và hy vọng trong số các bạn có người sẽ tìm ra được cái mình cần, mở ra một lối đi riêng và trang bị cho mình những tư tưởng đúng đắn, đạt đến cái hạnh phúc thật sự của đời người vì chính bản thân tôi đã tìm được cái mình muốn và hơn thế nữa tôi đã tìm được chính mình! Nếu có ai hỏi tôi rằng “Cuốn sách gối đầu giường của bạn là gì?” tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời họ rằng tôi không có cuốn sách gối đầu giường, nhưng dẫn tôi đến ngày hôm nay chính là cuốn sách “Bí mật tư duy triệu phú” của T.Harv Eker!

Tại sao tôi lại nói như vậy? Bởi vì trước khi đọc cuốn sách này tôi đang trong tình trạng chán nản, cuộc đời đối với tôi không mấy ý nghĩa, suốt ngày chìm đắm trong game online và ngủ để giết thời gian, tôi sống trong sự tầm thường, giới hạn mình trong những suy nghĩ nhỏ bé và nỗi sợ hãi, hơn thế nữa tôi không hề biết được tương lại của mình sẽ đi về đâu! Để rồi như một phép màu tôi đọc được cuốn sách này, một điều kì diệu khó tin đã xảy ra, một thế giới mới rộng mở. Từ đó tôi cất tiếng hát vang bài ca của cuộc đời mình, theo đuổi mơ ước và khao khát – những điều xưa nay chưa bao giờ dám nghĩ đến! Và đặc biệt là những người bạn của tôi, khi thấy tôi thay đổi họ cho rằng tôi là người lập dị, phát ngôn bừa bãi trong lớp (khi đó tôi đang học trung học phổ thông), rồi đến ngày hôm nay chính những người đó đã nói rằng “phải chi ngày đó tin những lời tôi nói”.

Trong cuốn sách này nó sẽ mở ra cho bạn một chân trời mới, một thế giới mới mà bạn có thể chưa bao giờ nghĩ đến – thế giới của lối tư duy về tiền bạc (tôi tin chắc là vậy vì nó đã từng đến với tôi và nhiều người khác nữa). Bạn có biết người giàu hơn người nghèo ở điểm nào không? Không phải tiền bạc, không phải mối quan hệ, không phải tài sản hiện hữu của họ có bao nhiêu mà tài sản quý giá nhất của người giàu đó chính là tư duy làm giàu của họ! Bằng chứng là nhiều người ban đầu có tiền rồi trong một thương vụ làm ăn họ thua lỗ và phá sản nhưng rồi sau đó họ lấy lại được cơ nghiệp trước đây, không những thế mà còn giàu hơn trước nữa.

T.Harv Eker đã lấy nhà tỉ phú Donald Trump làm ví dụ, trong một lần kinh doanh thua lỗ, Donald Trump đã đánh mất tất cả sự nghiệp của mình và mang theo một số nợ hơn 900 triệu đô la (lưu ý là Việt Nam chúng ta chỉ có 1 người có tài sản tỉ đô thôi nhé), nhưng rồi sau một thời gian ông đã trả hết số nợ đó và còn kiếm được số tiền nhiều hơn tổng tài sản trước khi ông phá sản nữa! Thêm một ví dụ nữa là những người trúng số độc đắc sau một thời gian sẽ quay trở về điểm xuất phát ban đầu, thậm chí là nghèo hơn xưa nữa! Tại sao lại có chuyện như vậy xảy ra? Tất cả những điều trên sẽ được lý giải trong cuốn “Bí mật tư duy triệu phú” này!

Harv đã viết ra cuốn sách này bằng chính những kinh nghiệm của mình và sự chia sẽ của hàng ngàn các học viên theo học tại chỗ ông, và ông đã nói rằng nếu ai làm đúng theo những nguyên tắc trong đó thì chắc chắn sẽ thành công! Và xa hơn nữa là sự thành công của hàng ngàn người khi theo học chỗ ông. Cuốn sách chỉ ra cho bạn thấy kế hoạch và tư tưởng trong tâm thức bạn được hình thành như thế nào, cách thay đổi nó ra sao và quan trọng hơn là có 17 tư duy thịnh vượng mà bất cứ ai cũng cần thiết phải có nếu không muốn sống một cuộc sông nghèo túng!

Tư tưởng làm giàu và chiến lược kinh doanh là những thứ vô hình nhưng nó lại quyết định hoàn cảnh ngoài đời của bạn, cái vô hình bên trong nhưng lại là cái quyết định đến cái bên ngoài, chẳng hạn như khi điện sáng bạn có thấy có dòng điện chạy ko, nhưng ta biết có điện đang chạy và chính cái dòng điện vô hình đó mới làm đèn sáng được! Vậy đó, hãy cài đặt lại tư duy NGAY HÔM NAY để ngày mai tươi sáng bạn nhé!

P/s: Tôi không có năng khiếu văn chương và cũng không thường xuyên viết nên lời lẽ, câu văn không được hay, mong các bạn thông cảm!

Nhược Cẩm


Cuộc thi hân hạnh được tài trợ bởi ThachPham.com (website hướng dẫn tạo blog), Phi Tuyết, hai thành viên giấu tên, Karmi Phuc (developer chính của THĐP), Kính Kong (shop phụ kiện).

Các bài viết dự thi tháng 8

Bảng điểm và nhận xét các bài thi

Có những mối liên kết nào giữ ta lại với nhau?

Featured Image: Alicia Lee

 

Có những mối liên kết nào giữ ta lại với nhau?

Theo tôi, để đến được với cuộc sống này trước hết cả tôi và bạn đều đã có mối liên kết với thế giới. Và trong mối liên kết đó, ta lại có vô vàn những liên kết khác nhau với mọi thứ xung quanh. Đó chính là cách thế giới này vận hành, để duy trì một xã hội, để trên những trang mạng xã hội, ta kéo lại gần nhau hơn.

Độ bền chặt của những mối liên kết

Những mối liên kết mà bạn đang có được nó bền chặt ra sao? Như sợi tơ nhện Darwin’s Bark hay chỉ như một sợi chỉ mành?

Riêng đối với tôi, có những mối liên kết chẳng thể nào phá vỡ, cắt đứt được. Đó là mối liên kết với gia đình, những người mà tôi thương yêu nhất, luôn nghĩ về họ nhiều nhất khi ở nơi xa. Bên cạnh đó, còn có những mối liên kết khác cũng bền chặt như gia đình, đó là mối liên kết với những người bạn tâm giao, những người mà tôi cảm thấy tin tưởng, và còn nhiều nhiều những mối liên kết khác mà dù vô tình hay cố ý mà ta đã tạo lập thành một mạng lưới. còn bạn, bạn có những mối liên kết nào? Độ bền chặt của nó ra sao?

Có đôi lần, tôi đọc được những dòng tâm sự của bạn tôi, bạn tôi luôn bảo rằng đôi khi cảm thấy cuộc đời sao mà cô đơn quá, chẳng ai hiểu mình, chẳng ai đồng cảm với những gì mình trải qua. Tôi lại nghĩ, chỉ có chính bản thân mới thật sự hiểu rõ những biến động đang xảy ra trong tâm. Còn nói về sự cô đơn, thật sự có cô đơn chăng khi mà những mối liên kết đó nó vẫn cứ tồn tại, vẫn cứ dính lấy ta dù ta đôi lần xem như vô hình, xem như không hề hiện hữu. Dù cho bạn có mất hết tất cả vẫn còn đó những mối liên kết, cơ bản nhất là mối liên kết với sự sống và sự chết, với cuộc sống xung quanh, với nơi mà bạn đang tồn tại. Trong những lúc cô đơn, bế tắc nhất, ngoài việc tìm ra giải pháp từ chính bản thân, tôi còn lần mò về những mối liên kết để thấy rằng tôi chưa hoàn toàn bế tắc, chưa hoàn toàn cô đơn để từ đó tôi tìm về.

Phá vỡ và xây dựng liên kết

Tuy nhiên, có những thứ không phải lúc nào cũng như ta nghĩ. Có những mối liên kết ta tưởng rằng nó sẽ bền chặt nào ngờ nó lại mất đi. Cũng có những mối liên kết ta tưởng chừng như không thể nào thiết lập ấy vậy mà nó lại trở thành một trong những mối liên kết quan trọng nhất cho chính bản thân.

Nhưng chẳng dễ dàng gì để phá vỡ hay xây dựng một mối liên kết (theo tôi xây dựng dễ dàng hơn phá bỏ vì chẳng đơn giản để bạn có thể rũ bỏ một ai đó, một thứ gì đó mà bạn đã từng rất trân trọng. Còn xây dựng trong bài viết này của tôi vừa có nghĩa là tạo lập mối liên kết mới vừa có nghĩa là phát triển những mối liên kết đang tồn tại để nó bền chặt hơn).

Gặp một ai đó trên đường, chẳng hạn như một cậu bé bán chewing-gum dạo mời bạn mua một thỏi kẹo, bạn cảm mến sự nhiệt tình, thân thiện của cậu bé, hay đơn giản chỉ là giúp cậu bé ấy mua một thỏi kẹo, vậy là một mối liên kết đã được tạo ra. Dù cho sau này bạn có còn nhớ đến cậu bé đó hay không, tôi chắc rằng hình ảnh cậu bé ấy đã được lưu vào trong bộ não của bạn và cậu bé đó vẫn luôn nhớ đến những khách hàng đã mua kẹo của mình.

Vậy đó, xây dựng một mối liên kết đôi khi chỉ đơn giản thế thôi, có thể chỉ từ những nụ cười, từ những cái bắt tay, từ những cuộc chuyện trò nho nhỏ mà bạn đã quen được rất nhiều người bạn mới để sau này khi nhìn lại ta thấy cả một mạng lưới những người mà bạn quen biết để thấy rằng cuộc sống thật gần gũi biết bao.

Gặp một người bạn mà bạn vẫn hay gặp hằng ngày, bạn và họ xảy ra mâu thuẫn, rồi tranh cãi, lời qua tiếng lại, thế là bạn và họ chẳng nói chẳng rằng, đùng đùng bước đi, rồi giận nhau, thậm chí phá bỏ đi mối liên kết bền chặt mà bạn và họ trước đây đã thiết lập. Thế nhưng trước khi phá vỡ nó đi, bạn hãy nhìn lại một chặng đường đã qua, nhìn lại độ bền chặt của mối liên kết để biết rằng duy trì một mối liên kết tốt đẹp khiến cho đời sống của ta phong phú và hạnh phúc hơn.

Và còn còn rất nhiều những ví dụ nữa về những mối liên kết mà tôi muốn bạn cùng trải nghiệm.

Lời kết

Đây là bài viết đầu tay của tôi gửi đăng trên một website. Mong rằng sẽ nhận được nhiều phản hồi từ các bạn để những bài viết sau hoàn thiện hơn. Mong rằng tôi và các bạn sẽ tạo được nhiều mối liên kết hơn trong cuộc sống này. Và giờ, bạn đã sẵn sàng cho một mối liên kết chưa? Một mối liên kết giữa tôi và bạn.

 

Trương Thanh

Krishnamurti – Điều gì xảy ra khi bạn so sánh? [Zen Pencils]

so sánh

Cảm nhận từ Zen Pencils

Jiddu Krishnamurti (1895-1986) là một triết gia, một tác giả và là 1 giảng viên. Khi còn là một cậu bé ở Ấn Độ, Jiddu Krishnamurti đã được săn sóc bởi Hội Thông Thiên Học suốt 20 năm để trở thành ‘Vị Thầy Trần Gian’, người cứu rỗi tâm linh mà họ tin rằng xuất hiện trên trái đất theo chu kỳ nhất định để thúc đẩy loài người lên một giai đoạn tiến hóa cao hơn. Một tổ chức đặc biệt, ‘Hội Trật Tự Tinh Tú’ (Order of the Star) , đã được thành lập để báo trước sự xuất hiện của Krishnamurti như một Vị Thầy Trần Gian.

Người ta không biết rằng Krishnamurti không có ý định trở thành một đấng cứu thế, và trong một bài phát biểu nổi tiếng vào năm 1929, Krishnamurti nói với mọi người “cảm ơn, nhưng mà thôi” và giải tán Hội Trật Tự Tinh Tú, cắt đứt mọi phe cánh với Hội Thông Thiên và dành 50 tiếp theo cho việc đi vòng quanh thế giới, viết và giảng dạy.

Tôi bắt đầu để ý tới Krishnamurti trong suốt những năm tôi bị “ám ảnh” với Lý Tiểu Long. Anh Long là một fan hâm mộ lớn của Krishnamurti; anh ấy đã vay mượn nhiều giáo lý của Krishnamurti và áp dụng chúng trực tiếp vào triết lý võ thuật của mình. Khi tôi phát hiện ra điều này, tôi đã mua một vài cuốn sách của Krishnamurti để đọc và tôi phải thừa nhận, không dễ để hấp thụ được chúng và rất nhiều điều trong đó đã ra khỏi đầu tôi. Mặc dù hầu hết những cuốn sách làm cho tôi hoang mang, lời dạy cốt lõi của Krishnamurti có thể được hiểu trong câu nói nổi tiếng của ông ấy năm 1929 “Chân lý là một mảnh đất không lối vào.” (Được phát biểu khi ông giải thể Hội Trật Tự Tinh Tú), và cũng trong lời trích từ cuốn sách ‘Tự do từ Cái Biết‘ của ông:

“Đó là điều đầu tiên để tìm hiểu – không phải để tìm kiếm. Khi bạn tìm kiếm bạn thật sự chỉ cưỡi ngựa xem hoa. Câu hỏi có hay không có Thượng Đế, hay về chân lý, hay về thực tại, hay bất kỳ cái tên nào bạn thích gọi – không bao giờ có thể được trả lời bằng những quyển sách, bởi các vị linh mục, các triết gia hay các vị cứu tinh. Không ai và không gì có thể trả lời được câu hỏi đó ngoài chính bạn và đó là lý do tại sao bạn phải hiểu được bản thân mình. Thiếu trưởng thành chỉ nằm trong sự thiếu hiểu biết về bản thân. Hiểu được bản thân là khởi nguồn của trí tuệ.”


Phiên bản tiếng Việt được mang đến bởi THĐP’s English Team.

Thị trường và đạo đức (kỳ 1)

 

Phần 1: Đạo đức trong kinh doanh

Dẫn nhập: Đạo đức của chủ nghĩa tư bản

Cuốn sách này là lời biện minh về mặt đạo đức cho cái mà triết gia Robert Nozick gọi là “người có tiền hành động giữa những người trưởng thành”[1]. Nó nói về hệ thống hợp tác sản xuất và tự do trao đổi, được thực hiện chủ yếu bởi những hành động như thế. Những bài viết trong cuốn sách này là nói về đạo đức của chủ nghĩa tư bản; đây không phải là triết lý trừu tượng về đạo đức, mà tập trung chú ý vào kinh tế học, logic học, sử học, văn học và những môn khoa học khác. Hơn nữa, nó nói về đạo đức của chủ nghĩa tư bản chứ không chỉ là đạo đức của tự do trao đổi. Thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” ám chỉ không chỉ những thị trường trao đổi hàng hóa và dịch vụ, tức là những thị trường đã từng tồn tại từ thời xa xưa, mà ám chỉ hệ thống của sự cách tân, tạo ra của cải và trao đổi trên bình diện xã hội, tức là hệ thống đã mang sự thịnh vượng đến cho hàng tỉ người mà những thế hệ trước đó không thể nào tưởng tượng nổi.

Chủ nghĩa tư bản ám chỉ hệ thống pháp luật, xã hội, kinh tế và văn hóa chứa đựng trong lòng nó quyền bình đẳng và “nghề nghiệp rộng mở cho những người có tài” và là hệ thống khuyến khích sự cách tân phi tập trung và những quá trình thử và sai – tức là khuyến khích điều mà nhà kinh tế học Joseph Schumpeter gọi là “phá hủy sáng tạo” – thông qua những tiến trình trao đổi tự nguyện trên thương trường.

Nền văn hóa tư bản chủ nghĩa tôn vinh những người dám nghĩ dám làm, tôn vinh các nhà khoa học, tôn vinh những người dám mạo hiểm, những người có sáng kiến, những người sáng tạo. Mặc dù bị các triết gia (nhất là những người mác-xít) – những người ủng hộ chủ nghĩa duy vật – chế giễu là nặng về vật chất, chủ nghĩa tư bản, tại căn để của nó lại là tinh thần dám nghĩ dám làm mang đầy tính văn hóa. Như nhà sử học Joyce Appleby đã nhận xét trong công trình gần đây của ông: Cuộc cách mạng không ngừng nghỉ: Lịch sử của chủ nghĩa tư bản (The Relentless Revolution: A History of Capitalism): “Vì chủ nghĩa tư bản là hệ thống văn hóa chứ không chỉ đơn giản là hệ thống kinh tế cho nên chỉ dùng những tác nhân kinh tế thì không thể giải thích được nó.”[2]

Chủ nghĩa tư bản là hệ thống các giá trị văn hóa, tinh thần và đạo đức. Như hai nhà kinh tế học là David Schwab và Elinor Ostrom nhận xét trong công trình nghiên cứu lý thuyết trò chơi đầy tiềm năng về vai trò của quy tắc và luật lệ trong việc duy trì những nền kinh tế mở, các thị trường tự do được xây dựng trên những quy tắc ngăn không cho chúng ta ăn cắp và là những quy tắc “đề cao lòng trung thực”[3]. Chủ nghĩa tư bản không những không phải là đấu trường cho những xung đột lợi ích như những người đang tìm cách phá hoại ngầm hay tiêu diệt nó mô tả mà tương tác mang tính tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những quy tắc và luật lệ mang tính đạo đức.

Thực vậy, chủ nghĩa tư bản không chấp nhận nguyên tắc cướp bóc và chiếm đoạt phi pháp, tức là những biện pháp mà những kẻ giàu có trong những hệ thống kinh tế và chính trị khác thường dùng nhằm chiếm đoạt phần lớn khối tài sản mà họ có. (Trên thực tế, trong nhiều nước hiện nay và trong phần lớn lịch sử nhân loại đa số người vẫn hiểu rằng người giàu là vì họ lấy được của những người khác, và đặc biệt là họ tiếp cận được với sức mạnh có tổ chức – theo cách nói hiện nay là tiếp cận được với quyền lực của nhà nước. Giới tinh hoa bất lương sử dụng sức mạnh đó nhằm giành độc quyền và dùng thuế để tịch thu sản phẩm của người khác. Chúng ăn vào ngân khố quốc gia và thu lợi từ những ngành độc quyền do nhà nước áp đặt và từ những biện pháp hạn chế cạnh tranh. Chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản thì người dân mới có thể trở thành giàu có mà không phải là tội phạm mà thôi.)

Xin xem xét điều mà nhà kinh tế học và sử học Deirdre McCloskey gọi là “Sự kiện vĩ đại”: “Thu nhập thực tế trên đầu người hiện nay, thí dụ như ở Anh và các nước đã trải qua công cuộc phát triển kinh tế hiện đại cao gấp ít nhất là 16 lần so với thu nhập trên đầu người vào năm 1700 hay 1800.”[4] Đấy là điều chưa từng xảy ra trong toàn bộ lịch sử nhân loại. Trên thực tế, đánh giá của McCloskey còn rất bảo thủ. Đánh giá này không tính đến hiệu quả của những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tức là những tiến bộ đã đưa các nền văn hóa của thế giới đến ngay đầu ngón tay của chúng ta [ý nói bàn phím máy tính – ND].

Chủ nghĩa tư bản, bằng cách tôn trọng và khuyến khích tinh thần sáng tạo trong kinh doanh, đã làm cho khả năng sáng tạo của con người phục vụ ngay chính con người, chính nhân tố khó nhận ra này giải thích sự khác nhau giữa lối sống hiện nay của chúng ta với lối sống của những thế hệ cha ông trước thế kỷ XIX của chúng ta. Những cách tân đã làm thay đổi cuộc đời của chúng ta theo hướng tốt đẹp hơn không chỉ diễn ra trong lĩnh vực khoa học và công nghệ mà còn diễn ra trong lĩnh vực định chế nữa. Những hình thức kinh doanh mới, đủ mọi loại, kết hợp một cách tự nguyện sức lực của rất nhiều người. Những thị trường và công cụ tài chính mới liên kết những khoản tiền tiết kiệm và quyết định đầu tư của hàng tỷ người suốt hai mươi bốn giờ mỗi ngày.

Mạng lưới thông tin viễn thông đưa con người từ khắp các ngõ ngách trên thế giới lại gần bên nhau. (Ngày hôm nay tôi đã nói chuyện với những người bạn ở Phần Lan, Trung Quốc, Morocco, Mĩ, và Nga, và còn đọc những lời bình luận và tin tức từ bạn bè và người quen ở Mĩ, Canada, Pakistan, Đan Mạch, Pháp và Kyrgyzstan trên Facebook nữa). Những sản phẩm mới cung cấp cho chúng ta những cơ hội nghỉ ngơi, giải trí và học tập mà các thế hệ trước không thể nào tưởng tượng được. (Tôi viết bài này trên chiếc máy tính Apple MacBook Pro). Những thay đổi như thế làm cho xã hội chúng ta khác hẳn về nhiều phương diện với tất cả những xã hội trước đó.

Chủ nghĩa tư bản không chỉ là làm ra sản phẩm theo cách mà các nhà độc tài xã hội chủ nghĩa hô hào những người nô lệ của họ nhằm “Xây dựng tương lai!” Chủ nghĩa tư bản là tạo ra giá trị, chứ không chỉ là chăm chỉ làm việc hay hy sinh hoặc bận rộn suốt ngày. Những người không hiểu chủ nghĩa tư bản thường nhanh nhảu ủng hộ các chương trình “tạo công ăn việc làm” để có nhiều việc làm hơn. Họ đã hiểu sai vấn đề việc làm, đấy không phải là vấn đề chính của chủ nghĩa tư bản.

Có một câu chuyện hay được người ta trích dẫn, đấy là câu chuyện nói về việc xây dựng một con kênh đào lớn ở châu Á mà nhà kinh tế học Milton Friedman được đưa tới xem. Khi ông nói rằng công nhân chuyển quá nhiều đất đá bằng xẻng chứ không dùng máy đào đất thì được trả lời như sau: “Ông không hiểu, đây là chương trình tạo công ăn việc làm.” Ông đáp: “Ồ, tôi tưởng các ông đang định đào con kênh. Nếu các ông tìm cách tạo công ăn việc làm thì tại sao lại không đưa cho họ tiền mà lại đưa cho họ xẻng?”

Người theo thuyết trọng thương và cũng là một người chơi thuyền buồm nổi tiếng, ông H. Ross Perot, trong một cuộc tranh luận trong chiến dịch tranh cử chức tổng thống Mĩ vào năm 1992 đã từng khóc mà nói rằng người Mĩ mua những con chip máy tính từ Đài Loan và bán cho người Đài Loan những lát cà chua thái mỏng[i]. Có vẻ như Perot lấy làm xấu hổ khi người Mĩ chỉ bán những lát cà chua thái mỏng, ông ta đã nhiễm quan điểm của Lenin cho rằng giá trị chỉ gia tăng nhờ sản phẩm được sản xuất trong các nhà máy mà thôi. Nhà kinh tế học Michael Boskin ở trường đại học Stanford (Stanford University) đã nhận xét rất đúng rằng nếu bạn nói về giá trị bằng tiền của con chip máy tính hay giá trị bằng tiền của lát cà chua thì đấy là bạn đang nói về giá trị bằng tiền.

Tăng thêm giá trị bằng cách trồng cà chua ở Idaho hay làm con chip điện tử ở Đài Bắc thì cũng đều là giá trị gia tăng cả. Lợi thế tương đối[5] là chìa khóa cho quá trình chuyên môn hóa và thương mại; khi làm ra giá trị, dù đấy có là người nông dân hay người vận chuyển đồ gỗ (hôm nay tôi vừa làm việc với ba người vận chuyển đồ gỗ để chuyển thư viện của tôi và tôi nhận rõ rằng họ đã làm gia tăng bao nhiêu gía trị đối với cuộc sống của tôi), hay nhà tư bản tài chính hay bất kì người nào khác thì cũng có gì là xấu. Thị trường – chứ không phải những chính khách hám lợi kiêu căng – chỉ ra cho chúng ta thấy khi nào thì chúng ta làm cho giá trị gia tăng, không có thị trường tự do thì chúng ta không thể nào biết được điều đó.

Chủ nghĩa tư bản không chỉ là những người đổi bơ lấy trứng trong những khu chợ làng quê, điều này đã và vẫn xảy ra cả ngàn năm rồi. Đấy là giá trị gia tăng nhờ huy động năng lực và tài khéo của con người trên quy mô chưa từng có trong lịch sử nhân loại nhằm tạo ra của cải cho những người bình thường mà ngay cả những ông vua, những hoàng đế giàu có nhất và quyền lực nhất trong quá khứ cũng phải chói mắt và kinh ngạc. Đấy là sự xói mòn hệ thống quyền lực, xói mòn hệ thống cai trị và đặc quyền đặc lợi đã ăn sâu bén rễ từ lâu, và là mở rộng cửa “nghề nghiệp cho tài năng”. Đấy là dùng thuyết phục thay cho bạo lực[6]. Đấy là thay đố kỵ bằng thành tựu[7]. Đấy là những thứ làm cho cuộc đời tôi cũng như cuộc đời bạn trở thành dễ chịu.

(Điều duy nhất mà các vua chúa và hoàng đế có mà người bình thường hiện nay không có là quyền lực đối với người khác và khả năng chỉ huy người khác của họ. Họ có những tòa lâu đài to lớn do người nô lệ xây dựng hoặc được đầu tư bằng tiền thuế của dân, nhưng họ không có lò sưởi hay điều hòa nhiệt độ trong nhà; họ có nô lệ hay đầy tớ, nhưng không có máy giặt hay máy rửa bát; họ có cả một đội quân chạy giấy nhưng không có điện thoại cầm tay hay Wi-Fi; họ có bác sĩ và nhà chiêm tinh của hoàng gia nhưng không có thuốc gây mê có thể làm giảm những cơn đau hay không có thuốc kháng sinh chữa bệnh; họ là những người có quyền lực, nhưng lại là những kẻ nghèo kiết xác, nếu xét theo tiêu chuẩn hiện nay của chúng ta)

Lịch sử của Từ

Thị trường tự do, được hiểu là hệ thống trao đổi tự do giữa những con người được xác định một cách rõ ràng, bảo đảm về mặt pháp lý và có quyền chuyển nhượng những nguồn lực có hạn, là điều kiện cần đối với việc làm ra tài sản trong thế giới hiện đại. Nhưng các nhà sử học chuyên về lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là Deirdre McCloskey, đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng như thế vẫn chưa đủ. Cần một số điều kiện nữa: đạo đức trong quá trình tự do trao đổi và đạo đức trong quá trình sản xuất của cải thông qua đổi mới, cách tân.

Xin nói đôi lời về việc sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản”. Nhà sử học chuyên về lĩnh vực xã hội học, Fernand Braudel, đã truy nguyên nguồn gốc của thuật ngữ “tư bản” trong giai đoạn trải dài suốt thế kỷ XII và XIII, lúc đó nó có nghĩa là “kho, nguồn hàng, tổng số tiền hay số tiền mang lại lợi nhuận[8]” (Braudel nhận xét một cách lạnh lùng rằng trong số khá nhiều nghĩa của từ “nhà tư bản” mà ông liệt kê được: “Từ này chưa bao giờ… được dùng theo nghĩa thân thiện.[9]”

Từ “chủ nghĩa tư bản” xuất hiện trong thế kỷ XIX như là một từ có tính chất thóa mạ, chẳng hạn như Louis Blanc, một nhà xã hội người Pháp, định nghĩa thuật ngữ này là: “Một số người chiếm đoạt tư bản bằng cách bóc lột một số người khác.[10]” Karl Marx sử dụng thuật ngữ “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”, còn Werner Sombart, một đồ đệ nồng nhiệt của ông, thì, thông qua tác phẩm gây được nhiều ảnh hưởng: Der Moderne Kapitalismus (1912) đã biến thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” thành một từ thông dụng. (Friedrich Engels, người đồng chí thân cận của Marx, coi Sombart là tư tưởng gia duy nhất ở Đức thực sự hiểu được Marx; sau này Sombart lại trở thành người cổ vũ nhiệt tình cho một hình thức bài tư bản khác là Chủ nghĩa xã hội dân tộc hay còn gọi là chủ nghĩa quốc xã).

Trong cuộc tấn công vào “bọn tư sản” và “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”, Marx và Engels nhận xét rằng “giai cấp tư sản” đã làm cho thế giới thay đổi một cách triệt để:

Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Chinh phục những lực lượng của tự nhiên, sản xuất bằng máy móc, sử dụng hoá chất trong công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá cả những lục địa, việc khai thông các dòng sông cho tầu bè đi lại được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, có thế kỷ nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội?[11]

Marx và Engels cảm thấy kinh ngạc không chỉ trước những cách tân về mặt công nghệ mà còn trước “hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên”, được cho là nguyên nhân của việc giảm thiểu tử suất, nâng cao mức sống và gia tăng tuổi thọ của chính con người. Mặc dù có những thành tựu như vậy, nhưng Marx và Engels vẫn kêu gọi phá tan “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”, hay nói một cách chính xác hơn, hai ông cho rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ tự hủy diệt và mở ra một hệ thống mới tuyệt vời đến mức không cần – thậm chí làm như thế là phản khoa học – đưa ra bất kỳ gợi ý nào về cách thức hoạt động của nó hết[12]!

Quan trọng hơn là, Marx và Engels đã đưa ra những lời chỉ trích chủ nghĩa tư bản của họ (những lời chỉ trích, mà mặc cho sự kiện là tất cả các chế độ cộng sản đều không thực hiện được những lời hứa của họ, vẫn còn giữ ảnh hưởng cực kì to lớn đối với những người có học trên toàn thế giới) trên cơ sở của sự hiểu biết sai lầm của quần chúng về cái mà họ gọi là “giai cấp tư sản”, tức là giai cấp mà họ liên kết với “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”. Một mặt, họ sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người chủ “tư bản”, tức là những người tổ chức các xí nghiệp sản xuất, nhưng mặt khác họ lại sử dụng từ này để chỉ những người sống dựa vào nhà nước và quyền lực của nhà nước, như Marx viết trong một trong những luận văn hay nhất của ông về chính trị:

Nhưng quyền lợi vật chất của giai cấp tư sản Pháp lại gắn bó một cách mật thiết nhất với việc duy trì chính cái bộ máy nhà nước to lớn và có nhiều cành nhánh như thế. Bộ máy này tạo việc làm cho những kẻ vô dụng của giai cấp tư sản và nuôi họ bằng tiền lương của chính phủ mà họ không thể đút túi được dưới hình thức lợi nhuận, lợi tức, tiền thuế hay phí. Mặt khác, quyền lợi chính trị cũng buộc họ phải thường xuyên tăng cường bộ máy đàn áp và vì vậy mà phải củng cố nguồn lực và gia tăng số nhân viên của bộ máy chính phủ[13].

Như vậy là, một mặt Marx đánh đồng “giai cấp tư sản” với các doanh nhân, tức là những người những người tạo ra “cho quá trình sản xuất và tiêu thụ ở mọi nước đặc điểm mang tính toàn cầu”, những người làm cho “đầu óc dân tộc hẹp hòi” “càng ngày càng trở thành bất khả thi hơn”, những người tạo ra “một nền văn học thế giới”, những người đem lại “sự cải tiến nhanh chóng tất cả các công cụ sản xuất” và “làm ra rất nhiều phương tiện thông tin liên lạc”, và những người đã khắc phục được “lòng hận thù man rợ, dai dẳng người ngoại quốc” bằng cách cung cấp “những món hàng giá rẻ[14]”. Mặt khác, ông lại sử dụng từ “giai cấp tư sản” để chỉ những người sống bằng “tín dụng công” (nghĩa là nợ của chính phủ):

Toàn bộ thị trường tiền tệ hiện đại, toàn bộ hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện đại đều đan xen một cách mật thiết nhất với tín dụng công. Một phần vốn kinh doanh của họ phải được đầu tư vào quỹ công trái ngắn hạn của nhà nước để thu lời. Những món tiền họ được các thương nhân và các nhà công nghiệp trả trước và được họ phân phát giữa những con người ấy với nhau, một phần là từ lợi tức của những người nắm trái phiếu của chính phủ[15].

Marx coi “giai cấp tư sản” là người tham gia một cách sâu sắc vào và hưởng lợi từ cuộc đấu tranh nhằm kiểm soát bộ máy nhà nước:

Tất cả các biến động chính trị đều hoàn thiện bộ máy này chứ không phải là đập tan nó. Các đảng phái từng chiến đấu nhằm giành quyền cai trị đều coi việc nắm bộ máy nhà nước đồ sộ đó như là chiến lợi phẩm chính của chiến thắng[16].

Theo nhà sử học Shirley Gruner thì “Marx cảm thấy – khi tìm được “giai cấp tư sản” – là đã hiểu rõ được hiện thực, nhưng trên thực tế ông mới chỉ tóm được một thuật ngữ cực kỳ khó nắm bắt mà thôi[17]”.

Trong một số tác phẩm, Marx dùng thuật ngữ này để chỉ những doanh nhân đầy sáng kiến, tức là những người tổ chức ra các xí nghiệp sản xuất và đầu tư vào việc tạo ra của cải, còn trong những tác phẩm khác thì ông lại dùng thuật ngữ này để chỉ những người tụ tập xung quanh bộ máy nhà nước, tức là những kẻ sống bằng tiền thuế, những kẻ vận động hành lang nhằm cấm đoán cạnh tranh và ngăn chặn tự do thương mại; nói tóm lại, đấy là những kẻ đầu tư không phải nhằm tạo ra của cải mà nhằm bảo đảm cho quyền tái phân phối tài sản hay phá hoại tài sản của người khác, và giữ cho thị trường luôn ở tình trạng khép kín, làm cho người nghèo cứ nghèo mãi, còn xã hội thì bị họ khống chế.

Do ảnh hưởng của Marx và đồ đệ của ông ta là Sombart mà thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” đã trở thành thông dụng. Cần nhắc lại rằng thuật ngữ này đã được những người – không chỉ lẫn lộn giữa quá trình sản xuất hàng hóa và trao đổi trên thương trường với việc sống bằng thuế khóa tước đoạt được của những người khác mà còn là những người biện hộ cho việc thủ thiêu tài sản, thị trường, tiền tệ, giá cả và phân công lao động, và toàn bộ cơ cấu của chủ nghĩa tự do: các quyền cá nhân, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, bình đẳng trước pháp luật, và chính phủ dân chủ nằm trong khuôn khổ của hiến pháp.

Đáng chú ý là, tương tự như nhiều từ có tính chất thóa mạ khác, “chủ nghĩa tư bản” được những người trí thức ủng hộ thị trường tự do sử dụng nhằm chống lại những người xuyên tạc thuật ngữ này. Kết quả là những người áp dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” cho những điều mà họ ủng hộ hay đơn giản như một thuật ngữ trung lập cho những cuộc thảo luận trong lĩnh vực khoa học xã hội đã rơi vào tình thế khó khăn vì (1) thuật ngữ này được sử dụng một các lập lờ (để chỉ cả tinh thần kinh doanh trên thị trường tự do lẫn việc sống bằng tiền thuế và sức mạnh cũng như sự bảo trợ của chính phủ) và (2) từ này hầu như bao giờ cũng bị sử dụng theo nghĩa rõ ràng là tiêu cực.

Một số người đề nghị bỏ hẳn thuật ngữ này vì nó chứa đựng những ý nghĩa trái ngược nhau và còn bao hàm cả ý thức hệ nữa[18]. Nghe có vẻ hấp dẫn, nhưng vấn đề thì vẫn còn. Cho phép người ta tự do buôn bán và lời ăn lỗ chịu chắc chắn là điều kiện cần cho sự tiến bộ của nền kinh tế, nhưng không đủ cho việc hình thành thế giới hiện đại. Thị trường hiện đại xuất phát từ và cung cấp năng lượng cho sự cách tân trong các lĩnh vực như định chế, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật cũng như xã hội, tức là những sự cách tân vượt ra ngoài mô hình trao đổi trứng lấy bơ. Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do hiện đại cải tiến không phải bằng bước chân chậm chạm của những thiên niên kỉ trước mà ngày càng nhanh hơn – đúng như những người xã hội chủ nghĩa (nhất là Marx) và các đồng minh của họ, cũng như những người bảo thủ thù nghịch với thị trường, những người cảm thấy hốt hoảng trước thế giới hiện đại.

Trong tác phẩm Capitalism, Socialism, and Democracy (Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và chế độ dân chủ), Joseph Schumpeter đã phê phán những người mà “vấn đề thường được mường tượng là chủ nghĩa tư bản quản lý những công trình hiện hữu như thế nào, trong khi vấn đề lại là xây dựng và phá hủy chúng như thế nào[19]”

Khác với các chợ phiên trong quá khứ, thị trường tự do hiện đại không chỉ là chỗ trao đổi hàng hóa. Thị trường hiện đại được mô tả như là những làn sóng “của sự phá hoại mang tính sáng tạo”; những cái mà cách đây mười năm là mới thì nay đã trở thành cũ kỹ, bị những mẫu mã cải tiến hoặc thiết bị mới thế chỗ, những dàn xếp về mặt định chế, công nghệ và cách thức tương tác mà không ai có thể tưởng tượng nổi. Đấy chính là sự khác biệt giữa thị trường tự do hiện đại với những phiên chợ của quá khứ. Theo tôi, thuật ngữ tốt nhất hiện có nhằm phân biệt những quan hệ của thị trường tự do, tức là những quan hệ tạo ra thế giới hiện đại từ những thị trường tiền bối của nó là “chủ nghĩa tư bản”.

Thế nhưng chủ nghĩa tư bản không phải là tình trạng hỗn loạn. Nó là trật tự tự phát, một trật tự xuất hiện ngay trong tiến trình. (Một số tác giả gọi trật tự này là “trật tự nổi dần lên”). Sự ổn định có thể dự đoán được của chế độ pháp quyền và việc bảo đảm các quyền làm cho quá trình cách tân như vậy trở thành khả thi. Như đã được viết trong cuốn The Futurist (Nhà vị lai học):

Người ta bao giờ cũng khó nhìn thấy trật tự trong thị trường rõ ràng là hỗn loạn. Ngay cả hệ thống giá cả luôn luôn đưa các nguồn lực đến những nơi mà chúng được sử dụng một cách tốt nhất, nhưng trên bề mặt của thị trường thì lại dường như hoàn toàn trái ngược với trật tự – doanh nghiệp phá sản, người lao động mất việc làm, thịnh vượng tiến lên với những bước đi chập chững, những khoản đầu tư hóa ra là bị mất trắng. Dường như thời đại cách tân diễn ra nhanh chóng thậm chí sẽ hỗn loạn hơn, những doanh nghiệp khổng lồ phát đạt và lụn bại nhanh chưa từng có và chẳng còn mấy người có công ăn việc làm lâu dài nữa.

Nhưng năng lực gia tăng của ngành vận tải, của thông tin và của thị trường tài chính trên thực tế có nghĩa là thậm chí có nhiều trật tự hơn là thị trường có thể đạt được trong thời đại công nghiệp. Vấn đề quan trọng là phải tránh sử dụng chính phủ áp bức nhằm “giải quyết những sự quá lạm” hay “hướng thị trường đến kết quả mà một người nào đó muốn![20]”

Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do chống lại chủ nghĩa tư bản ô dù

Để tránh sự lầm lẫn do cách sử dụng mập mờ thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” của những nhà trí thức theo trường phái xã hội chủ nghĩa gây ra, cần phải tách biệt một cách rõ ràng giữa “chủ nghĩa tư bản thị trường tự do” với “chủ nghĩa tư bản ô dù”, tức là tách biệt khỏi cái hệ thống đã và đang đẩy rất nhiều dân tộc vào vũng bùn tham nhũng và tình trạng lạc hậu. Trong rất nhiều nước, nếu một người nào đó giàu có thì có nhiều khả năng là ông ta (hiếm khi là bà ta) có quyền lực chính trị hay là họ hàng gần gũi, bạn bè hoặc người ủng hộ – nói ngắn, có “ô dù” – của những người có quyền lực và người này có tài sản không phải là vì ông ta là người làm ra những món hàng tốt mà do ông ta được hưởng đặc quyền đặc lợi do nhà nước ban phát cho một số người, gây thiệt hại cho một số người khác.

Đáng tiếc là “chủ nghĩa tư bản ô dù” có thể được áp dụng với độ chính xác ngày càng cao đối với nền kinh tế của Mĩ, một đất nước mà những công ty phá sản thường được nhà nước “cứu trợ” bằng tiền của người đóng thuế, trong đó thủ đô của quốc gia cũng chẳng khác gì một cái tổ ong cực lớn, gồm toàn những kẻ kiếm lời bằng thủ thuật vận động hành lang, những quan chức, các chính khách, các nhà tư vấn và tài xế và các quan chức được bổ nhiệm của bộ tài chính và ngân hàng trung ương tự tung tự tác trong việc tưởng thưởng cho một số công ty và làm cho một số công ty khác bị thiệt hại.

Không được lẫn lộn hệ thống ô dù thối nát như thế với “chủ nghĩa tư bản thị trường tự do”, tức là thuật ngữ dùng để nói về hệ thống sản xuất và trao đổi trên cơ sở chế độ pháp quyền, trên sự bình đẳng của tất cả mọi người, trên cơ sở tự do lựa chọn, tự do buôn bán, tự do cải tiến, trên nguyên tắc lời ăn lỗ chịu làm kim chỉ nam, và quyền hưởng thành quả lao động, tiết kiệm, đầu tư mà không sợ bị tịch thu hay bị những kẻ không đầu tư vào sản xuất của cải vật chất mà đầu tư vào quyền lực chính trị ngăn cản.

Những làn sóng thay đổi mà chủ nghĩa tư bản thị trường tự do tạo ra thường làm cho những tầng lớp tinh hoa cha truyền con nối tức giận. Theo cách nhìn của họ về thế giới thì những nhóm người thiểu số trở thành tự cao tự đại và chẳng bao lâu nữa những tầng lớp dưới sẽ nhận thức được vị trí của mình. Khủng khiếp hơn nữa – đấy là theo quan điểm của họ – là trong chế độ tư bản chủ nghĩa thị trường tự do phụ nữ sẽ khẳng định được giá trị của họ. Địa vị của họ đã bị đe dọa. Người dân sẽ tạo lập các mối quan hệ trên cơ sở lựa chọn và thỏa thuận chứ không còn dựa vào nguồn gốc hoặc địa vị nữa[21]. Trong các tác phẩ của mình, Marx đã tóm tắt một cách tài tình và chỉ ra một cách khéo léo lòng hận thù của những người bảo thủ đối với chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, đấy là sự tức giận trước những thay đổi và mất mát đặc quyền đặc lợi.

Leo Melamed (chủ tịch danh dự của CME Group [trước đây là Chicago Mercantile Exchange], câu chuyện của cuộc đời ông về quá trình trốn tránh cả Gestapo lẫn KGB và cuộc cách mạng nền tài chính thế giới là câu chuyện về lòng dũng cảm và tầm nhìn), dựa vào chính kinh nghiệm của mình khi nói: “Trong thị trường tài chính Chicago, vấn đề không phải bạn là ai – dòng dõi của bạn, lai lịch của bạn, sức khỏe của bạn, giới tính của bạn – mà vấn đề là khả năng của bạn trong việc xác định nhu cầu của người tiêu dùng và xu hướng của thị trường. Ngoài ra chẳng có gì quan trọng hết![22]”

Chấp nhận chủ nghĩa tư bản thị trường tự do nghĩa là chấp nhận tự do trao đổi, tự do cách tân, tự do sáng chế. Nghĩa là chấp nhận thay đổi và tôn trọng quyền tự do hành động của người khác – theo nguyện vọng và với những thứ mà họ có. Nghĩa là tạo không gian cho các công nghệ mới, lí thuyết khoa học mới, hình thức nghệ thuật mới, bản sắc mới và quan hệ mới. Nghĩa là chấp nhận quyền tự do làm ra của cải, đấy cũng là phượng tiện thoát nghèo duy nhất. (Của cải có nguồn gốc, nhưng nghèo đói thì không; nghèo đói là do không sản xuất ra của cải, nhưng của cải thì không phải là do không sản xuất ra nghèo đói[23]). Nghĩa là hân hoan chào đón quá trình giải phóng con người và biến tiềm năng của con người thành hiện thực.

Các tác giả được giới thiệu trong cuốn sách này là những người đến từ những nước khác nhau, những nền văn hóa khác nhau, từ những nghề nghiệp khác nhau và từ những ngành học khác nhau. Những thương vụ trên thị trường tự do gắn bó với đức hạnh mật thiết đến mức nào và chúng giúp củng cố những hành vi mang tính đạo đức của chúng ta đến mức nào? – mỗi người sẽ cung cấp cho độc giả đánh giá của của mình. Chúng tôi đưa vào cuốn sách này những bài tiểu luận khác nhau, có bài rất ngắn, một số bài dài hơn, có những bài rất dễ hiểu, nhưng lại có những bài có tính hàn lâm hơn. Có hai bài được dịch từ tiếng Hoa và tiếng Nga.

Hai tác giả khác là những người đã từng đoạt giải Nobel, một người là nhà văn, còn người kia là một nhà kinh tế học. Có một bài phỏng vấn với một doanh nhân thành đạt và cũng là một người ủng hộ bộc trực cho điều mà ông gọi là “chủ nghĩa tư bản tự giác”. Các bài tiểu luận ở đây không thể cung cấp đầy đủ tất cả những luận cứ ủng hộ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, nhưng chắc chắn là chúng giúp độc giả thâm nhập vào một lĩnh vực tài liệu khá đồ sộ (Một số tác phẩm được liệt kê trong phần tài liệu tham khảo ngắn ở cuối sách).

Tại sao cuốn sách này lại chỉ chứa đựng những lời biện hộ hùng hồn cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do? Vì đã có hàng trăm – thực ra là hàng ngàn – cuốn sách đang có mặt trên thị trường với mục đích cung cấp những cuộc thảo luận “không thiên vị” nhưng trên thực tế lại chẳng có gì ngoài những cáo buộc quá trình làm ra của cải, cáo buộc tinh thần dám nghĩ dám làm, tinh thần sáng tạo, cáo buộc hệ thống hệ thống lời-ăn-lỗ-chịu và cáo buộc chủ nghĩa tư bản trị trường tự do nói chung.

Trong quá trình hoạt động của mình, tôi đã đọc hàng trăm cuốn sách tấn công chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, tôi đã suy tư về những luận cứ của những cuốn sách đó và đã đánh vật với chúng. Ngược lại, những người phê bình chủ nghĩa tư bản thị trường tự do lại ít đọc những người dám ủng hộ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, họ thường chỉ đọc một tác giả. Tác giả được trích dẫn nhiều nhất – ít ra là trong giới trí thức Anglo-Saxon – là Robert Nozick, và ngay cả trường hợp này thì họ cũng chỉ đọc một chương trong một cuốn sách mà thôi, đấy là chương mà ông đưa ra một thí nghiệm mang tính giả thuyết đầy thách thức nhằm sát hạch những người chống lại chủ nghĩa tư bản thị trường tự do.

Phần lớn những người xã hội chủ nghĩa đều cho rằng chỉ cần đọc một tiểu luận và bác bỏ bất kì thí nghiệm mang tính tư duy nào[24]! Sau khi đã đọc và đã bác bỏ rồi, nếu những người kết án chủ nghĩa tư bản thị trường tư do vẫn còn nghĩ là cần phải tiếp tục phê phán thì họ lại thường dựa vào ý kiến sai lầm của Milton Friedman hay Ayn Rand hoặc F. A. Hayek hoặc Adam Smith hay ý kiến của các vị này nhưng đã bị cắt xén, được họ trình ra mà không trích dẫn.

Những người nghiêm túc phải làm tốt hơn họ. Tôi khuyên bạn, khuyên những độc giả của tiểu luận này và của cuốn sách này phải làm tốt hơn những người đó. Hãy đọc những bài phê bình chủ nghĩa thị trường tự do hay nhất. Hãy đọc Marx. Đọc Sombart. Đọc Rawls. Đọc Sandel. Hãy hiểu họ. Hãy mở lòng để cho họ thuyết phục. Hãy nghĩ về họ. Tôi đã đọc nhiều luận cứ chống chủ nghĩa tư bản thị trường tự do hơn phần lớn những kẻ thù của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do từng đọc và tôi nghĩ là tôi có thể trình bày mạch lạc hơn họ vì tôi biết rõ hơn họ. Ở đây, tôi muốn cung cấp cho người đọc phía bên kia của cuộc thảo luận, đấy là cái phía mà thậm chí chẳng có mấy người công nhận là nó có tồn tại.

Xin tiếp tục, hãy tận dụng cơ hội. Hãy vật lộn với những luận cứ được trình bày trong những bài viết của tập sách này. Hãy suy nghĩ về chúng. Và sau đó thì tự đưa ra quyết định.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: The Morality of Capitalism Introduction

Tom G. Palmer
Washington, D.C.

[themify_box style=”green rounded” ]Giáo sư Tom Gordon Palmer (sinh năm 1956 ở Bitburg-Mötsch, Đức) là cộng tác viên cao cấp của Viện Cato (Cato Institute), phụ trách lĩnh vực đào tạo của Viện (Cato University), phó chủ tịch chương trình quốc tế của quĩ nghiên cứu kinh tế Atlas (Atlas Economic Research Foundation), và là tổng giám đốc Sáng kiến toàn cầu vì tự do thương mại, hòa bình và thịnh vượng của quỹ Atlas (Atlas Global Initiative for Free Trade, Peace, and Prosperity).

Đây là Lời giới thiệu cho tác phẩm The Morality of Capitalism (Đạo đức của chủ nghĩa tư bản) do Quĩ ATLAS xuất bản. Chúng tôi dùng bài viết của Tom Gordon Palmer làm lời giới thiệu cho cả tập sách, trong đó có nhiều bài được dịch từ cuốn Đạo đức của chủ nghĩa tư bản do giáo sư Tom G. Palmer làm chủ biên.[/themify_box]


[1] Robert Nozick, Anarchy, State, and Utopia (New York: Basic Books, 1974), p. 163.
(Trong tác phẩm này các chú thích trong nguyên bản được đánh số Lain: 1, 2, 3…; còn các chú thích của người dịch thì được đánh số La Mã: I, II, III…
[2] Joyce Appleby, The Relentless Revolution: A History of Capitalism (New York: W. W. Norton and Co., 2010), pp. 25-26.
[3] David Schwab and Elinor Ostrom, “The Vital Role of Norms and Rules in Maintaining Open Public and Private Economies,” in Moral Markets: The Critical Role of Values in the Economy, ed. by Paul J. Zak (Princeton: Princeton University Press,2008, pp. 204-27.
[4] Deirdre McCloskey, Bourgeois Dignity: Why Economics Can’t Explain the Modern World (Chicago: University of Chicago Press, 2010), p. 48.
[5] Muốn tìm hiểu lợi thế tương đối, xin đọc tomgpalmer.com/wpcontent/uploads/papers/The%20Economics%20of
%20Comparative%20Advantage.doc.
[6] Muốn biết bạo lực đã giảm thiểu đến mức nào xin đọc: James L. Payne, A History of Force (Sandpoint, Idaho: Lytton Publishing, 2004).
[7] Ghen tị như là xung lực có hại đối với sự hợp tác xã hội và có hại cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do đã được nhiều nhà tư tưởng nghiên cứu. Có thể thấy cách tiếp cận khá hay và vừa được thực hiện trong thới gian gần đây trong công trình nghiên cứu bản anh hùng ca Ấn Độ Mahabharata trong tác phẩm của Gurcharan Das: The Diffculty of Being Good: On the Subtle Art of Dharma (New York: Oxford University Press, 2009), esp. pp. 1-32.
[8] Fernand Braudel, Civilization and Capitalism, 15th–18th Century: The Wheels of Commerce (New York: Harper & Row, 1982, p. 232.
[9] Ibid., p. 236.
[10] Louis Blanc, Organisation du Travail (Paris: Bureau de la Societé de l’Industrie Fraternelle,1847, cited in Braudel, Civilization and Capitalism, 15th–18th Century: The Wheels of Commerce, op. cit., p. 237.
[11] Karl Marx and Frederick Engels, Manifesto of the Communist Party, in Karl Marx and Frederick Engels, Collected Works, Volume 6 (1976: Progress Publishers, Moscow), p. 489.
[12] Phê bình lí thuyết của Marx, xin đọc Eugen von Böhm-Bawerk, Karl Marx and the Close of His System 1896; New York: Augustus M. Kelley, 1949). A better translation of Böhm-Bawerk’s title would be, “On the Conclusion of the Marxian System.” Böhm-Bawerk refers in his title to the publication of the third volume of Capital, which “concluded” the Marxian system. It should be noted that Böhm-Bawerk’s
criticism is altogether an internal critique, and does not rest in any way on the results of the “marginal revolution” in economic science that took place in 1870. See also the essay by Ludwig von Mises, “Economic Calculation in the Socialist Commonwealth,” in F. A. Hayek, ed., Collectivist Economic Planning (London: George Routledge & Sons, 1935) on the inability of collectivism to solve the problem of economic calculation.
[13] Karl Marx, “The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte,” in David Fernbach, ed., Karl Marx: Surveys from Exile: Political Writings, Volume II (New York: Vintage Books, 1974), p. 186. I describe the contradictions and confusions of Marxian economic and social analysis in “Classical Liberalism, Marxism, and the Conflict of Classes: The Classical Liberal Theory of Class Conflict,” in Realizing Freedom: Libertarian Theory, History, and Practice (Washington: Cato Institute, 2009), pp. 255-275.
[14] Karl Marx and Friedrich Engels, Manifesto of the Communist Party, p. 488
[15] Karl Marx and Friedrich Engels, Manifesto of the Communist
[16] Karl Marx, “The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte,” p. 238.
[17] Shirley M. Gruner, Economic Materialism and Social Moralism (The Hague: Mouton, 1973, pp. 189-190.
[18] See, for example, Sheldon Richman, “Is Capitalism Something Good?” www.
thefreemanonline.org/columns/tgif/is-capitalism-something-good/.
[19] Joseph Schumpeter, Capitalism, Socialism, and Democracy (London: Routledge, 2006), p. 84.
[20] David Boaz, “Creating a Framework for Utopia,” The Futurist, December 24, 1996, www.cato.org/pub_display.php?pub_id=5976.
[21] The legal historian Henry Sumner Maine famously described “the movement of the progressive societies” from inherited relations, based on family membership to personal liberty and civil society as “a movement from Status to Contract.” Henry Sumner Maine, Ancient Law (Brunswick, NJ: Transaction
Publishers, 2003, p. 170.
[22] Leo Melamed, “Reminiscences of a Refugee,” in For Crying Out Loud: From Open Outcry to the Electronic Screen (Hoboken, NJ: John Wiley & Sons, 2009, p. 136.
[23] I address the issue of poverty and free-market capitalism more systematically in “Classical Liberalism, Poverty, and Morality,” in Poverty and Morality: Religious and Secular Perspectives, William A. Galston and Peter H. Hoffenberg, eds. (New York: Cambridge University Press, 2010), pp. 83-114.
[24] This is an especially common attitude among philosophers, perhaps the saddest of whom was the late G. A. Cohen, who devoted much of his intellectual career to attempting, but failing, to refute Nozick’s one thought experiment. Citations to Cohen’s articles and a demonstration of the failure of his critique can be found in “G. A. Cohen on Self-Ownership, Property, and Equality,” in Realizing Freedom, pp. 139-54.
[i] Tác giả chơi chữ: mua chip máy tính và bán những miếng cà chua thái mỏng, cũng gọi là chip.

Sự giàu có được tạo ra từ đâu? [THĐP Vietsub]

 

“Đây là cách nó hoạt động. Nhiều tự do hơn, nhiều tri thức hơn, nhiều phát minh hơn. Và nhiều phát minh hơn dẫn đến kinh tế tăng trưởng nhiều hơn. Ít tự do, ít tri thức, ít phát minh… kinh tế tăng trưởng ít hơn. Vì vậy, nếu tự do khích động kiến thức và sáng tạo, dẫn đến tăng trưởng kinh tế, tại sao mọi người và chính phủ không nắm lấy nó? Để hiểu được điều đó chúng ta phải trở lại với những gì tôi đã nói rằng đổi mới luôn mang yếu tố bất ngờ, không thể đoán trước. Sự bất khả đoán định này làm cho nhiều người khó chịu. Mục tiêu của họ là loại bỏ bất ngờ.”

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=41KQ2IrCBbI?rel=0]

 

 

Vietsub được thực hiện bởi Team Freenamese, một team học thuật đặc biệt của THĐP. Ai muốn gia nhập team thì liên lạc với chúng tôi.

 

[BDTT8] Chuyện Con Mèo Dạy Hải Âu Bay – Luis Sepúlveda

Featured Image: Bìa sách “Chuyện Con Mèo Dạy Hải Âu Bay”

 

Không chỉ là một câu chuyện thiếu nhi

Tôi vẫn nhớ như in cảm giác khi lần đầu thấy cuốn sách, khá thích thú với trong bìa ngộ nghĩnh, dễ thương. Nhưng thực sự, từ trước đến giờ, tôi không hào hứng lắm với những câu chuyện thiếu nhi. Những truyện thiếu nhi tôi thường đọc chỉ là truyện tranh, truyện cổ tích chứ chưa bao giờ là một câu chuyện nước ngoài của một tác giả hiện đại. Cuối cùng tôi cũng mua nó, với lí do đơn giản: tôi đang rảnh rỗi nên muốn tìm một cuốn sách để đọc, mà nó lại chỉ có giá trên 20 nghìn đồng. Nhưng chính quyết định đó lại đem đến đầy những điều bất ngờ thú vị.

Với tôi, “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” đầu tiên đó là một câu chuyện hài hước với những nhân vật dễ thương – chú mèo béo Zorba, con mèo Anh-xtanh, con đười ươi,….mỗi con vật ấy hài hước và đáng yêu theo cách riêng của nó.

Thế giới trong ấy, khi ta đọc chỉ đơn giản là thế giới loài vật, nhưng khi ta ngẫm nghĩ thì nó là một xã hôi loài người thu nhỏ. Nơi ấy có những nỗi đau phải chịu từ hậu quả tàn phá thiên nhiên của con người. Nơi ấy có sự đe dọa của cái xấu, của những kẻ mưu đồ trục lợi.Đó là những con mèo xấu xa chặn đường Zorba bên bãi rác, nhưng con mèo quả cảm ấy cũng kiên gan, chống lại cái xấu – dù một chọi hai nhưng vẫn không lùi bước.

Xã hội ấy còn có những tâm hồn cao đẹp – như chúng nói – “lời hứa danh dự của những con mèo ở cảng” – điều mà chúng không bao giờ quên, như một niềm tự hào sâu sắc về quê hương mình. Với con mèo Đại tá không biết chữ, với chú mèo Zorba ngây ngô, và cả Anh-xtanh tri thức, mỗi lời chúng nói ra là một lời thề danh dự không thể xóa bỏ. Và có lẽ, chính lòng tự tôn ấy giúp chúng vượt qua mọi khó khăn thử thách.

Tôi nhớ về giây phút khi Zorba nhìn thấy chú chim ra đời, một chú chim non yếu ớt, mỏng manh và hồn nhiên biết bao.Tiếng gọi “Mẹ” làm chú mèo ngỡ ngàng, xúc động và cũng rất đỗi hoang mang. Chú đã ấp ủ và mong chờ nó ra đời để thoát khỏi sự khó chịu khi nằm im một chỗ, nhưng tiếng gọi ấy làm tim chú rung động. Dường như giây phút đó, Zorba đã cảm nhận được về một sinh linh bé bỏng cần được chú bảo vệ và chở che. Nhưng rồi chú cũng hoang mang, lo sợ vì chẳng biết bắt đầu từ đâu, nên làm gì với cái cá thể hoàn toàn lạ lẫm với chú. Cái loài vật mà đến cái tên chú cũng chỉ biết qua lời trăn trối của chim mẹ. Và có lẽ, sợi dây gắn kết duy nhất giúp chú biết đi đúng đường chính là tình thương.

Chuỗi ngày tưởng chừng như vô vị của Zorba nay lại “sôi động” biết bao. Như thể có một đứa trẻ trong nhà chúng ta vậy, Zorba tất bật với vai trò cả bố lẫn mẹ, yêu thương và lo lắng cho chim non. Tôi nhớ đến cảnh chú giấu chim non khi người dọn nhà đến – vội vàng, lúng túng nhưng đáng yêu biết bao. Dường như chú vận dụng hết trí thông minh của mình để bảo vệ cho chim non, và  như suy nghĩ của chú – là cả danh dự của mình. Chú chấp nhận làm một chú mèo hư, phá hỏng đồ đạc để bảo vệ chú chim, với hi vọng duy nhất, người đó không phát hiện ra và mang chú chim đi.

Tại sao thế? Chim non là nỗi phiền toái, và chú cũng biết rằng, con người sẽ biết cách chăm chim non tốt hơn. Nhưng, như thể sợ mất đi đứa con của mình, chú che giấu và “ích kỉ” dành nó cho riêng mình.Một tình thân đã hình thành mơ hồ mà chú không hề nhận ra.

Những ngày tiếp theo với những chú mèo ở cảng quả là bận rộn. Chúng không còn mối lo nào khác ngoài chim non, lo lắng mọi bề để bảo vệ cho sinh linh yếu ớt ấy. Chúng phải thương lượng với lũ chuột, phải hăm dọa con đười ươi,…để không ai có thể làm hại chim non. Có thể nói, lúc này, chim non là điểm yếu của tất cả bọn chúng.

Cao trào câu chuyện bắt đầu khi những con mèo nghĩ – đã đến lúc để chim non tung cánh. Khó khăn và ngoài sức tưởng tượng của bọn chúng. Khi quyển “Bách khoa toàn thư” không còn tác dụng, chúng hoàn toàn bất lực. Dường như, niềm tin duy nhất khi chúng hoang mang – niềm tin vào tri thức – không còn, chúng hoàn toàn bất lực.Và càng khó khăn hơn khi chim non đã lớn lên trong suy nghĩ “mèo là mẹ nó” và không còn ý định muốn bay. Nhưng chú đâu biết rằng, bản năng nơi chú vẫn còn đấy, để rồi Zorba nhận ra chim mãi là chim, khi chú chim non muốn nhấc mình bay lên khi nhìn đàn hải âu sải cánh. Chính lúc ấy, Zora tin rằng, để chim non bay đi là điều bắt buộc.Khi không thể tự mình giải quyết, những chú mèo đã tìm đến “kẻ” mà chúng cho là thông minh nhất – con người.

Niềm tin vào con người mãnh liệt và chúng tin rằng họ có thể giải quyết mọi thứ. Hình ảnh nhà văn – đại diện cho con người ấy, là đại diện cho những “người lớn” giữa thế giới “trẻ con” này. Những người lớn cuốn vào vòng xoáy công việc, tiền bạc, dường như không còn quan tâm và tin vào con mắt trẻ thơ, tin vào thế giới cổ tích nữa. Nhưng nhà văn ấy, như một tâm hồn đồng điệu với trẻ thơ, tôn trọng và tin tưởng, là chỗ dựa vững chắc cho những chú mèo nơi đây. Và chính sự đồng lòng, hợp sức ấy đã giúp chú chim non dám tung cánh, vươn mình, để vượt qua bão tố phong ba mà bay lên bầu trời cao rộng.

Cả câu chuyện, lời đối thoại mà tôi nhớ nhất là lời Zorba nói với chim non “Con là hải âu, và con phải biết bay”. Đó chính là minh chứng cho tình yêu cao cả, một tình yêu không còn ích kỉ để giữ khư khư bên mình, mà muốn những điều tốt đẹp nhất với người mình yêu thương. Con mèo hiểu rằng, chim non sẽ chỉ hạnh phúc khi được sải cánh trên bầu trời mênh mông, lướt trên từng con sóng nước ấy. Tình yêu giúp con mèo ấm lòng và hạnh phúc khi thấy chim non được sống đúng nghĩa là chính mình.

Khép lại câu chuyện thiếu nhi với giọng văn đầy hài hước và đáng yêu. Một câu chuyện không chỉ dành cho trẻ con, mà chứa đựng những bài học khiến người lớn phải suy ngẫm. Một câu chuyện, chỉ vô tình đọc được, nhưng có lẽ đó là câu chuyện đáng giá nhất tôi được đọc từ trước đến nay.

 

Đặng Thị Thủy Tiên


Cuộc thi hân hạnh được tài trợ bởi ThachPham.com (website hướng dẫn tạo blog), Phi Tuyết, hai thành viên giấu tên, Karmi Phuc (developer chính của THĐP), Kính Kong (shop phụ kiện).

Các bài viết dự thi tháng 8

Bảng điểm và nhận xét các bài thi

[BDTT8] Mơ Những Giấc Mơ Mới – Jai Pausch, luôn có những giấc mơ mới, bạn có dám mơ không?

Featured Image: Bìa sách “Mơ Những Giấc Mơ Mới”

 

Có lẽ chưa bao giờ tôithấy những ngày trong tháng Tám trôi qua nặng nề như năm nay. Cứ mỗi ngày qua đi là một ngày tôi thấy tim mình trĩu nặng thêm vì một lời tự hứa với lòng vẫn chưa được thực hiện, đó là viết một bài giới thiệu sách cho Triết học Đường phố. Bản thân tôi luôn tự nhủ bất cứ khi nào có cơ hội sẽ tìm cách để tạ ơn cuộc đời vì đã ban cho mình thật nhiều ưu ái. Bất cứ khi nào có thể!Tôi đã rất vui khi nghĩ đến lúc có thể cảm ơn Triết học Đường phố vì rất nhiều kiến thức và niềm vui tôi nhận được từ trang này. Một bài viết giới thiệu một quyển sách tâm đắc là một cơ hội để tôi có thể làm điều đó. Vậy mà cứ với hụt tay hoài. Hôm nay phải mạnh tay giết một con bò*(Tác phẩm Ngày xưa có một con bò của Camilo Cruz) lý do lý trấu để viết những dòng chữ này…

Với một người thường thấy được nhiều điều hay trong những quyển sách, thật khó để có thể chỉ chọn ra một quyển tâm đắc nhất. Tuy nhiên, khó không có nghĩa là không làm được. Và quyển sách tôi chọn đó là Mơ những giấc mơ mới của Jai Pausch, nhưng xin được ‘đèo bồng’ thêm một chút cho lòng khỏi ấm ức; đó là để thưởng thức ‘tròn vị’ Mơ những giấc mơ mới, bạn nên đọc kèm với nó cuốn Bài giảng cuối cùng (The last lecture) và xem video Thật sự đạt được giấc mơ thời thơ ấu của Randy Pausch.

Có thể bạn đã nhận ra cái họ chung trong tên của hai tác giả. Phải, họ đã từng là một gia đình cho đến khi căn bệnh ung thư tụy mang Randy trở về cát bụi. Bốn năm sau khi Randy mang đi hết “mọi phép màu của cuộc đời” Jai, bà đã “hình dung lại cuộc đời sau mất mát”và rồi tự tạo ra cho mình một châm ngôn sống mới: Mơ những giấc mơ mới.

Tôi vẫn thường chia sẻ về những quyển sách trên trang cá nhân, nhưng chưa bao giờ thấy thú vị với việc tóm tắt lại nội dung, vì với tôi, làm như vậy là tước mất của độc giả cơ hội được tự mình khám phá mọi ngóc ngách của quyển sách. Trong bài viết này cũng vậy, tôi sẽ chỉ chia sẻ một vài điểm mà tôi thích.

Điểm đầu tiên là vì đây là một quyển tự truyện. Giữa nhiều thể loại sách tôi hay đọc, tôi thích đọc tự truyện, vì đó là những câu chuyện thật đã xảy đến với tác giả. Tác giả viết sách từ chính cuộc đời đã qua những trải nghiệm của họ, và giờ họ chia sẻ với chúng ta. Để chúng ta biết rằng, những đôi vai của những người khổng lồ ngoài kia vẫn hàng ngày vươn ra chờ đợi được nâng đỡ bước ta đi bằng những trải nghiệm đôi khi thấm đầy nước mắt và những mất mát thương đau của họ.

Tôi có đọc một số nhận xét về cuốn sách, cũng như nhiều tác phẩm khác, ý kiến khen chê đủ cả. Có người trách sao Jai lại vạch áo cho người xem lưng, sao lại mang những câu chuyện đằng sau cánh cửa phòng ngủ của gia đình bày ra cho thiên hạ phán xét. Cũng có người đồng cảm với quyết định chia sẻ những chuyện cá nhân của Jai, họ nói rằng chính những chia sẻ này đã giúp họ hiểu hơn về cuộc đời của Randy, về hành trình đấu tranh với bệnh tật (dù thất bại) của gia đình Pausch, và giúp những người đang trong hoàn cảnh tương tự tìm được cho mình những câu trả lời riêng. Tôi cũng đồng cảm với Jai, và nghĩ rằng mình phần nào hiểu được việc làm của bà. Tuy nhiên, tôi cũng hiểu được rằng “chín người mười ý”, và bạn đọc hoàn toàn có thể thêm vào ý thứ mười một khi đọc tác phẩm này.

Điểm thứ hai là những câu chuyện về những lần Jai theo hỗ trợ Randy trong quá trình điều trị ung thư. Jai kể về hệ thống hỗ trợ người bệnh và thân nhân của họ ở Mỹ như thế nào, cách các bác sỹ chuẩn bị tâm lý cho người nhà bệnh nhân để đón nhận một tin xấu ra sao, và cả những thông tin họ tư vấn để người bệnh và thân nhân có thể tìm thêm sự hỗ trợ..v..v.. Tôi mong sao những vị bác sỹ, y tá của nước mình cũng có mong muốn được chia sẻ phần nào nỗi đau của những người bệnh và người nhà bệnh nhân bằng những hành động cụ thể như những vị bác sỹ mà tôi gặp trong quyển sách của Jai vậy.

Điểm cuối cùng tôi muốn nói đến đó là tựa đề của cuốn sách. Thật tình cờ, dạo gần đây khi tôi xem phim hay đọc sách, tôi nhận thấy các nhân vật hay chia nhau một nỗi lo sợ, sợ nếu một ngày giấc mơ của mình thành sự thật, sẽ không còn lý do gì để sống hay để phấn đấu nữa, như cô nàng Rapunzel trong phim Công chúa tóc dài của Disney hay như ông lão bán pha lê trong cuốn sách Nhà giả kim của Paulo Coelho (cuốn sách mà tôi có dịp đọc được nhờ lời giới thiệu của Bùi Phương Linh trên Triết học Đường phố). Jai Pausch một lần nữa khẳng định rằng, luôn có những giấc mơ mới để mơ, vấn đề là, bạn có dám mơ những giấc mơ mới hay không mà thôi.

Đối với riêng tôi, quyển sách này còn có thêm những điều đặc biệt khác. Tôi thường chỉ ra nhà sách để mua những quyển sách đã xác định trước, nhưng quyển sách đến với tôi thật tình cờ. Hôm đó tôi ra nhà sách chỉ vì tâm trạng không được tốt,giữa rất nhiều những bìa sách bắt mắt, tôi đã cầm quyển sách này lên và nhận ra tựa đề một chương trong quyển sách thật quen thuộc(Chương 8: Phép màu của Bài giảng cuối cùng), vì tôi đã từng xem video buổi nói chuyện của Randy Pausch trên Youtube; tôi mua quyển sách chỉ vì lý do như vậy. Tôi tin vào duyên số, và tôi tin có một cái duyên đủ lớn để đưa tôi đến với quyển sách này.

Những ngày sau đó, tôi như bị ám ảnh bởi những gì tôi đọc được. Đi đâu, gặp ai tôi cũng kể về Jai, về Randy, về những câu chuyện của họ, và thậm chí ngồi một chỗ tôi cũng làm được bằng cách chia sẻ vài dòng trên trang cá nhân. Trong bài luận gởi nộp cho các chương trình học, tôi cũng đưa câu chuyện về quyển sách này vào. Giờ ngồi ngẫm lại, tôi thấy thật thú vị. Và tôi mơ rằng, những ai quyết định đọc cuốn sách này vì những dòng giới thiệu của tôi cũng sẽ tìm thấy những điều thú vị riêng cho bản thân mình. Giấc mơ ấy, dù không hề mới, cũng đáng mơ, phải không nào?

 

Uyên Uyên
29.08.14


Cuộc thi hân hạnh được tài trợ bởi ThachPham.com (website hướng dẫn tạo blog), Phi Tuyết, hai thành viên giấu tên, Karmi Phuc (developer chính của THĐP), Kính Kong (shop phụ kiện).

Các bài viết dự thi tháng 8

Bảng điểm và nhận xét các bài thi

[BDTT8] Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano – Marina Fiorato

Featured Image: Bìa sách “Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano”

 

Con gái bây giờ ưa ngôn tình Trung Quốc. Chẳng phải vì lý do cầu kỳ gì, đơn giản vì con gái tìm được thứ mình mong muốn trong đó: một tình yêu mỹ mãn và một kết thúc có hậu. Thế nhưng con gái nhiều khi chẳng nghĩ, câu chuyện mỹ mãn ấy thực sự có ý nghĩa gì hay không. Nói thế không có nghĩa là tôi ghét chúng, bản thân tôi cũng thích ngôn tình Trung Quốc; nhiều lúc tự dưng mất niềm tin vào cuộc sống, kéo một quyển ngôn tình ra rồi chìm đắm tận đến khi đóng quyển sách lại. Nhưng đến khi đóng quyển sách lại, tôi lại thấy dường như mình lại vừa mất đi tất cả niềm tin vừa tìm thấy; cảm giác giống như tỉnh dậy từ một giấc mơ vốn không có thực vậy.

Ngôn tình Trung Quốc, nhiều khi chỉ làm con gái mơ mộng quá đáng. Trước giờ, tôi nghĩ chỉ có truyện ngụ ngôn mới có thể để lại chút ý tứ trong lòng người đọc. Nhưng rồi một hôm, chị gái tôi đem một quyển sách về, được đính kèm câu: “Tiểu thuyết ăn khách nhất châu Âu”, bìa sách in hình một trong những con kênh nổi tiếng nhất ở Ý: Grand Canal. Đó là quyển The Glassblower of Murano – Người thổi thủy tinh xứ Murano.

Tôi hiếm khi đọc tiểu thuyết của châu Âu, vì nó có vẻ “khó gần” và “khó hiểu”. Tôi thực sự không nghĩ rằng mình sẽ chạm đến quyển sách ấy, thứ nhất là vì nguyên nhân phía trên; thứ hai, là vì tôi chả có chút hứng thú nào về chuyện thổi thủy tinh cả, chưa kể đến cái “người thổi thủy tinh” kia nữa. Cho đến một hôm tôi “thèm” đọc sách, “thèm” kinh khủng. Và tôi nhìn thấy nó, Người thổi thủy tinh xứ Murano.” Sách mà, đọc có mất mát gì đâu.” Tôi nghĩ rồi mở nó ra.

Người thổi thủy tinh xứ Murano, ban đầu, có thể là một quyển sách khó hiểu. Marina Fiorato viết nên câu chuyện của Leonora Manin, người phụ nữ sau khi ly hôn với chồng đã quyết định đi theo tiếng gọi của tổ tiên, để tìm về Venice quê hương nơi cô được sinh ra, tìm về với quá khứ bí ẩn của ông cố Corradino Manin – người làm nên danh tiếng của thủy tinh xứ Murano. Lối kể chuyện song hành, một của Leonora, một của Corradino làm người đọc chìm đắm trong dòng xoáy của câu chuyện về những mối “tình”. Không chỉ có tình yêu; tình cha con, tình bạn bè, tình thầy trò, tình bạn, và cả tình yêu với nghề thổi thủy tinh cũng được tác giả đề cập và nhấn mạnh.

Lấy bối cảnh là thành phố Venice tráng lệ, người ta không tìm thấy được sự khác biệt của nó trong cái nhìn của Leonora và ông cố Corradino, mọi thứ có vẻ như không hề thay đổi sau bốn trăm năm cách biệt. Từ những lâu đài nguy nga, mỗi dòng phá uốn lượn – hay người Ý gọi là laguna, từng viên đá lát vỉa hè cho đến những lò lửa tạo ra thứ quý giá nhất và độc nhất của Venice thế kỉ thứ 17: thủy tinh, thủy tinh Murano.

“ Faccia soltanto una passeggiata, Signorina. Soltana una passeggiata. Cứ đi, cô gái à. Chỉ đi thôi. ” Leonora đã đi lang thang mất dấu của thời gian và phương hướng, chìm đắm trong vẻ đẹp mê hoặc của thành phố Venice như một con thuyền được tháo dây buộc sau những năm tháng tưởng chừng như đã sống một cách vô nghĩa. Venice chảy trong dòng máu cô, như thôi miên dẫn lối cô đi về nhà thờ Pietà, nơi Leonora con gái Corradino đã từng sống.

Cô cầm trái tim thủy tinh óng ánh trên sợi dây ruy băng xanh mà Corradino làm ra cho con gái ông, thứ bà Elinor mẹ cô đã trao cho cô mà cha cô – ông Bruno đã tặng bà, thứ cho cô niềm tin và sức mạnh đến đây để làm một người thổi thủy tinh như tổ tiên cô, thứ duy nhất nhắc nhở dòng máu trên người cô đang sôi sục lên vì háo hức. Để rồi cuối cùng, cũng giống như mẹ cô, cô tìm thấy “một người đàn ông giống như từ trong tranh bước ra”, một người đàn ông Ý. Cô cũng hoảng sợ, sợ tình yêu này cũng đi theo vết xe đổ của mẹ cô, chỉ vì một sai làm nhỏ mà tan vỡ.

Leonora ở lại Venice, cố gắng chen chân vào làm công việc của một người thợ cả, một nghề trước giờ chỉ dành cho đàn ông. Những giấy tờ phức tạp đe dọa đến sự dừng chân của cô tại Venice làm cô mất kiên nhẫn. Những mưu toan, tính toánh, ganh ghét trong công việc đôi lúc cũng làm cô mệt mỏi. Những đầu mối về ông tổ Corradino lúc ẩn lúc hiện đẩy cô vào vòng xoáy của thù hận. Nhưng cô có Alessandro, người đàn ông bước từ trong tranh ra luôn ở bên cô, dẫn cô đi đường tắt một cách vô cùng “Ý”, kéo cô ra khỏi mớ hỗn độn ấy. Và yêu cô. Và cô cũng yêu anh.

Nhưng những tin đồn rằng Corradino phản bội nước Ý, phản bội lại Venice làm Leonora suy sụp. Quyết tâm làm rõ lời đồn về vụ việc ông cố của mình bỏ trốn sang Pháp và bán lại bí quyết làm thủy tinh của Ý cho người Pháp, cô vùi đầu vào công cuộc tìm kiếm tất cả những tư liệu liên quan và những mối quan hệ nhằm lấy lại thanh danh cho dòng họ Manin. Nhưng mọi thứ ngày càng rối rắm. Những bài báo chỉ trích vu khống xuất hiện, rồi cô vô tình phát hiện mình có thai với Alessandro sau cả-cuộc-đời bị gán cho cái mác vô sinh với người chồng cũ, rồi mâu thuẫn với anh, rồi cãi nhau gây gổ. Nhưng cuối cùng cũng chính anh đã bí mật giúp cô tìm ra bức thư chứng minh sự trong sạch của Corradino, cô sinh đứa bé an toàn trong lời cầu hôn vội vàng của anh, và cũng đặt tên cho thằng nhóc là Corradino. Điều cuối cùng là cô đã trở thành một thợ cả, một người thổi thủy tinh chính thức đầy tài năng như cô mong muốn, như ông cố của cô, Corradino Manin.

Câu chuyện còn nhấn mạnh tình thầy trò của Corradino và Giacomo – người đã mạo hiểm che giấu Corradino khỏi những người truy sát ông, người thầy cũng là người bạn trong suốt cuộc đời của Corradino. Tuy cuối cùng bị Giacomo phản bội đến mức phải buộc quay lại Venice để chịu chết, Corradino vẫn tha thứ cho ông. Bên cạnh đó, sự hy sinh vì lòng yêu nghề cũng được nhắc đến. Corradino đã dùng chính đôi bàn tay của mình để cảm nhận và tạo nên hình thù cho từng vật mình tạo ra, đến mức “sức nóng của thủy tinh đã bào mòn toàn bộ dấu vân tay”. Và nổi bật nhất là tình cha con giữa Corradino và Leonora. Chính vì cô bé mà ông trốn khỏi Murano sang Pháp, cũng chính vì cô mà ông đã quay lại nhận cái chết để đảm bảo sự an toàn cho cuộc sống của cô sau này. Không chỉ có tình yêu nam nữ mới là thứ tình cảm đặc biệt, mà bất cứ thứ tình cảm nào cũng được Marina Fiorato nhấn mạnh và tô vẽ cẩn thận.

Luôn cẩn thận sau mỗi lời nói, cử chỉ và hành động của mình; không vì một chút khó khăn mà buông bỏ thứ mình đang cố gắng chạm đến, dám mạo hiểm theo đuổi ước mơ của bản thân; không sống quá phụ thuộc vào người khác nhưng luôn cố gắng đứng trên đôi chân của mình; đủ tỉnh táo để không lầm bước nhưng cũng đủ mù quáng để yêu thương ai đó một lần là những thông điệp nổi bật nhất mà Marina Fiorato muốn người đọc tự cảm nhận được nó sau khi đóng quyển sách lại.

Cuốn sách là một thế giới khác biệt mà khi bước chân vào, ta sẽ không cưỡng lại được cảm giác bị cuốn theo từng tình tiết của câu chuyện, mỗi biểu hiện và suy nghĩ của nhân vật làm ta tưởng như mình đang sống trong đó – một cách lặng lẽ nhưng đầy chân thực. Đôi lúc ta biết chuyện gì sẽ xảy ra ở trang kế tiếp, đôi khi không. Nhưng bản thân lại không thể tự chủ để có thể đặt cuốn sách xuống; từng dòng chữ như nước ở những dòng kênh tại Venice, cuốn tâm trí ta nhè nhẹ trôi theo.

 

[L.]


Cuộc thi hân hạnh được tài trợ bởi ThachPham.com (website hướng dẫn tạo blog), Phi Tuyết, hai thành viên giấu tên, Karmi Phuc (developer chính của THĐP), Kính Kong (shop phụ kiện).

Các bài viết dự thi tháng 8

Bảng điểm và nhận xét các bài thi