20.8 C
Da Lat
Chủ Nhật, 27 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 180

Giáo dục cũng là một sự đầu tư

Featured Image: Artist Banksy

 

Giáo dục, nhìn chung, cũng là một sự đầu tư.

Bao nhiêu người học cao vì thật sự muốn mở rộng tầm nhìn, mở mang kiến thức? Hay đa phần đơn thuần chỉ là muốn nâng cao cơ hội kiếm thêm thu nhập sau khi tốt nghiệp?

“Rất nhiều bậc phụ huynh sẽ làm bất cứ điều gì cho con cái của họ – ngoại trừ việc cho chúng được là chính mình.” — Bansky

Người người, nhà nhà thúc đẩy con cái học nhiều, học cao. Bản thân nhiều người cũng chỉ vì theo ba, theo mẹ, theo bạn, theo bè mà học nhiều, học cao. Ai ai cũng cắm cúi học, có người thành công, có người học rớt, rớt hoài vẫn ráng đắm đuối học lại. Rồi nếu lỡ có ai vô tình hỏi: “Ủa, học để chi vậy?” Thì hầu như cả xã hội hồn nhiên trả lời đúng có nội dung chính như này: “Cho bằng với người ta!”

Trời đất ơi, ai đời học chỉ để sáng mặt hai chữ “sĩ diện”? “Học”, thật ra , cũng đơn giản như việc “ăn uống”. Ăn cho hết đói, uống cho hết khát chứ đâu có ai tranh ăn, tranh uống cho bằng người nọ người kia để rồi có lúc chết ngất vì bể bụng? Học cũng y vậy thôi! Nhu cầu bản thân tới đâu thì học tới đó, chạy theo người khác là hoang phí thời gian và tiền bạc của chính mình!

Nếu bản thân nhìn nhận thực tế rằng giáo dục chính là một sự đầu tư thì tuyệt đối rất nên làm một bài toán kinh tế để nâng cao lợi nhuận cuối cùng một cách hiệu quả nhất. Dĩ nhiên, “học” là một sự đầu tư tốt, chẳng ai lại dại dột đội chữ “dốt” để ra đường làm ăn nhưng căn bản nên xét chừng đầu tư đến đâu là đủ!

Sự thông minh được chia thành 7 loại :

  • Thông minh ngôn ngữ
  • Thông minh logic
  • Thông minh không gian
  • Thông minh âm nhạc
  • Thông minh thể chất
  • Thông minh xã hội
  • Thông minh nội tâm

Thế nên, con người từ đó phân chia thành nhiều loại, có những người giỏi học không giỏi làm, có những người giỏi làm không giỏi học, cũng có những người giỏi cả học và làm. Mỗi người là một kết cấu khác biệt nên hãy giữ mình đặc biệt, chứ đừng chạy theo số đông. Khả năng mình tới đâu, bản thân giỏi cái gì, dở cái gì, cần gì và muốn gì, hãy trả lời đầy đủ những câu hỏi này trước khi quyết định có nên đi theo người khác hay không.

Nếu biết chắc bản thân không đủ giỏi trong việc xoay sở cùng mớ lý thuyết ở trường đại học, biết chắc mình có đậu cũng không thể nào cầm được tấm bằng ưu tú nhất và biết chắc rằng nếu không là ưu tú nhất thì có bằng cấp cũng sẽ rồi lang thang ngày tháng thất nghiệp thì tại sao lại vẫn đầu tư lỗ vốn?

Bận rộn trăn trở cùng những điều không là thế mạnh của mình thì tại sao không dùng thời gian đó đấu tranh cho những thứ mình biết mình có khả năng làm được giỏi hơn, tốt hơn những người khác? Đầu tư miệt mài cho những thứ chắc chắn khó lòng kiếm được lợi ích cho mình thì tại sao không xoay chuyển đầu tư để nâng cao kết quả gặt hái thành công?

“Nếu bạn đang phải sống một cuộc sống buồn chán, khổ sở vì bạn đã nghe lời mẹ bạn, bố bạn, thầy cô của bạn, hay một người nào đó trên TV thì bạn ĐÁNG BỊ NHƯ VẬY LẮM!” – Frank Zappa

Đừng mù quáng tranh đua vô nghĩa với người khác mà tự biến mình thành những cỗ máy xây dựng ước mơ cho ông này, bà nọ để rồi cho rằng ước mơ của mình là thứ xa vời, không thể với tới!

Hoang phí cuộc đời lắm.

 

KBee Deng

Những mối quan hệ

Featured Image: Live Life Happy 

 

Con người luôn cần những mối quan hệ..

Thế nhưng những mối quan hệ chưa chắc đã luôn cần đến chúng ta. Đôi lúc, trong một mối quan hệ với nhiều người khác, bạn cần phải là người luôn nằm trong tâm điểm của người khác; khi đó, bạn thấy mối quan hệ với những người này thật tốt, thật hòa hợp, thật vui vẻ. Thế nhưng bỗng nhiên có một ngày, bỗng dưng bạn không là tâm điểm của cuộc trò chuyện như mọi khi.

Chỉ một lần như thế, có khi nào bạn cảm thấy mối quan hệ này không như bạn vẫn nghĩ? Có khi nào bạn thấy, thật ra những con người này không thật sự cần mình? Có khi nào bạn thấy, trong câu nói “vắng mợ thì chợ vẫn đông”, bạn chính là nhân vật “mợ” đó hay không? À, nếu bạn là con trai, chắc là không phải đâu.

Những mối quan hệ luôn phức tạp. Mối quan hệ giữa hai người cũng phức tạp, ba người sẽ phức tạp hơn. Mối quan hệ nhiều người? Dĩ nhiên là phức tạp. Hai người, mối quan hệ được xem trọng nhất, nhưng không chắc rằng có quan trọng nhất và sẽ kéo dài hay không. Ba người, chắc chắn là khó kéo dài.

Nhiều người? Không chắc chắn lắm. Đẩm bảo đối xử công bằng với nhiều người là không thể. Thử đặt mình vào vị trí của người bị đối xử không công bằng đi, hiển nhiên bạn không muốn ở trong mối quan hệ đó lâu dài đâu.

Giống như một con mòng biển đang chao liệng trên bầu trời, lúc thấp lúc cao. Bạn cất tiếng gọi, chắc gì nó đã bay xuống đậu bên cạnh bạn. Bạn hét lên, đuổi nó bay đi, nó sẽ theo ý bạn mà bay thật xa sao? Những mối quan hệ cũng không khác gì mấy. Nhạc sĩ Nguyễn Nhất Nam than vãn: “Người đã ra đi sao em còn đợi chờ, người đứng bên em em đành để bơ vơ?”

Thực ra cũng đã mô tả gần như chính xác một cách hoàn hảo về những mối quan hệ. Bạn quý một người, chưa chắc người đó đã quý bạn. Ai đó thích bạn, chưa chắc bạn đã ưa người ấy. Cảm xúc là thứ vớ vẩn và khó định hình vô cùng, chưa kể đến những lúc bị ảnh hưởng bới thời tiết, sự vật, sự việc hay bất kỳ thứ gì khác. Nhưng bạn có QUYỀN và NGHĨA VỤ kiểm soát nó, bất kể nguyên nhân nào.

Có rất nhiều lúc bạn không thể để mọi chuyện xảy ra theo đúng ý của mình, dĩ nhiên. Bụt mình vẫn chưa được diện kiến. Tiên thì có gặp rồi, nhưng chảnh lắm, mình hỏi mà không có giải đáp những câu hỏi của mình. Nhân tiện nếu bạn muốn gặp thì ra chợ vào hàng chén đĩa, hỏi người bán hàng loại tô chén có cô Tiên ở trong ấy, nhiều vô kể luôn.

Quay lại vấn đề đang bàn, mình không tin sẽ có phép màu xảy ra, mọi thứ diễn ra ngoài sự tác động của bản thân còn phải chịu đựng tác động của hàng ti tỷ thứ không liên quan, huống hồ những mối quan hệ. Làm thế nào để giữ được những mối quan hệ bền vững à? Mình không biết, mình không có nhiều mối quan hệ, mình cũng không biết cách duy trì nó. Có bao nhiêu thì dùng bấy nhiêu vậy, vì nếu muốn duy trì nó, một mình bạn cố gắng là điều không thể.

Nếu có một ngày, một mối quan hệ nào đó của bạn đột nhiên biến mất, hoặc dần phai nhạt theo thời gian một cách rõ ràng, thì cũng đừng nuối tiếc làm gì cả. Bạn có thể tiếp tục níu giữ nếu muốn, nhưng kết quả có thay đổi hay không thì không ai rõ. Để mọi chuyện tự nhiên đôi lúc cũng tự dưng sẽ dẫn những mối quan hệ đến đúng nơi cần đến.

 

À, nhân tiện mời các bạn, nếu đang rảnh rỗi, nghe bài hát của Nhạc sĩ Nhất Nam mình đã đề cập phía trên.

Chúc ngủ ngon. Một ngày tốt lành, vui vẻ, hạnh phúc hoặc ít nhất là không buồn vu vơ.

 

[L.]

Lười biếng có được xem là bản chất?

Photo: Searle, Ronald William Fordham

 

Chắc hắn mọi người ai cũng đều đã nghe chữ “lười biếng” đến vô vàn lần không đếm xuể trong đời. Chúng ta gọi ai đó là lười biếng hoặc ai đó gọi chúng ta như vậy. Nhưng thật lạ lùng thay, không ai hiểu như thế nào là lười biếng. Cũng giống rất nhiều từ ngữ khác có tính chất mơ hồ như: Đẹp – xấu, khách quan – chủ quan, đúng – sai, hay và dở, vân vân…

Tại sao chúng ta dùng từ lười biếng thường xuyên đến vậy? Hàng ngày, hàng tuần, hàng năm, hàng trăm năm, hàng ngàn năm, nó mọc ở đâu ra vậy?

Trước tiên hết để nghiên cứu một vấn đề gì, chúng ta phải bỏ lại hết mọi khái niệm, định kiến, chuẩn mực mà chúng ta đã từng tạo nên, vì rất có thể nó chỉ là ảo tưởng. Vậy sau khi trút bỏ đi rồi, chúng ta hãy tự cho phép mình trở thành một kẻ ngốc để khám phá một vấn đề bằng trí óc của mình; có thể không cần phải thừa nhận lời của người viết hay bất cứ người nào cả.

Bây giờ, nên bắt đầu từ câu hỏi: Tại sao chúng ta gọi một người là lười biếng? Hay khác hơn, tại sao người ta gọi mình là kẻ lười biếng? Tốt hơn hết chúng ta nên đi tìm những hình thái mà con người dễ dàng bắt chẹt và phán xét nhau là lười biếng, có thể ta sẽ biết tại sao từ điều đó.

Trường hợp dễ thấy nhất của nhất, một người bị gọi là lười biếng khi anh ta không làm một điều mà người khác nghĩ là tốt. Nếu không tin, thử tưởng tượng loài người xung quanh ta biến mất, và ta là Tarzan thì ai sẽ nói đến hai từ “lười biếng”? Chẳng ai biết nó là gì cho đến khi có người sáng chế ra và rồi được lưu truyền và bảo tồn rộng rãi một cách ngớ ngẩn.

Một thằng nhóc nằm phơi nắng dưới gốc cây ớt không biết như thế nào là lười biếng cho đến khi nó được một người đến và cài đặt tư duy: NẰM PHƠI NẮNG LÀ KHÔNG TỐT, ĐỌC SÁCH MỚI LÀ TỐT – chẳng hạn vậy. Những so sánh như vậy dường như chẳng có một điểm chung nào ngoài việc nó cũng là một “HÀNH ĐỘNG”! Nó giống như việc so sánh lá của một cây dừa và lá của một cây ớt, rồi bảo là lá cây dừa đẹp hơn, và trái ớt thì đẹp hơn trái dừa. Nói cho rõ ràng, nó có tính chất “CẢM TÍNH”.

Nhưng tại sao người ta dùng cảm tính của mình để áp đặt lên một sự vật, sự việc? Đó là cảm giác sâu thẳm của việc muốn được đồng tình. Tôi sẽ dạy anh cách HÀNH ĐỘNG như thế nào là không lười biếng, và nhớ là tôi và mọi người cũng làm vậy đấy nhé. Và thế là, khi anh ta tiêm vào não ta điều đó, bằng bất cứ lý luận mê hoặc nào, ta tự nhiên tưởng chừng như mình thoắt ngộ ra và đồng ý nghĩ đó. Kết quả là anh ta được an toàn, không có ai làm gì khác biệt với anh ta, không có ai gọi anh ta là khùng điên, thay vào đó người ta gọi anh ta là chăm chỉ, anh ta được lên mây xanh. Hơn thế nữa, nó sẽ đáp ứng được nhu cầu cảm xúc cao nhất của con người mà nhiều nhà tâm lý học đã thừa nhận của ngài Maslow: Nhu cầu được thể hiện bản thân. Nói một cách khác, anh ta muốn được thỏa mãn những gì anh ta cho hoặc nghĩ rằng nó là đúng.

Con người nghĩ cái gì là tốt? Cái này cực kỳ khó nói, thẳng thắn luôn thì nó không có gì để nói. Mỗi người theo mỗi cảm nghĩ của mình sẽ tự mặc nhiên cho một điều gì đó là đúng hay sai thông qua tiềm thức mà hồi bé anh ta đã góp nhặt. Một cậu bé quý tộc đi về vùng quê, thấy tụi con nít vác cuốc ra đồng đào một cái lỗ rồi phóng uế ngay tại chỗ đến tởm, ngay tức khắc cho đó là gớm ghiếc, là sai, là không khoa học. Một cậu bé trong một gia đình tri thức, suốt ngày đọc sách, thấy bọn trẻ ở quê ăn rồi đi câu cá, thá diều, nhảy múa, hát hò là vô bổ. Vậy những gì mà một cá nhân nghĩ là đúng, nó chỉ có nghĩa là phù hợp với cá nhân đó, bởi vì những gì mà cá nhân đó đã trải nghiệm, đã ngộ ra mà thôi. Nó cũng giống như việc đất tốt để trồng cây cà phê không có nghĩa nó sẽ tốt cho cây lúa.

Theo lối đó, trong sự phát triển tất nhiên của xã hội, một đứa trẻ khoái ngồi bấm điện tử chắc chắn sẽ bị gọi là lười biếng; một đứa trẻ ngồi một chỗ suy tư về triết học dưới gốc cây mít cũng rất có thể bị xem là lười biếng. Victor Hugo đã từng nói:

“Người ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghĩ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên thiên đường là sáng tạo.”

Với con người thời hiện đại, một là bạn phải lao động tay chân, hai là bạn phải làm gì đó mà ít nhất là ngay hiện tại hoặc trong tương lai có thể kiếm ra tiền, có thể làm mọi người tán dương, có thể đem lại danh dự và sự tự hào. Nếu bạn chỉ thích đi câu cá đến cuối đời, người ta sẽ chỉ thẳng vào mặt bạn và bảo rằng bạn là một đứa không có ý chí, lười tư duy.

Nhưng tất cả những gì người ta nghĩ là đúng, không có nghĩa rằng nó chắc chắn là đúng. Anh ta ngồi im như chết suy tưởng về triết học không có nghĩa là anh ta lười biếng. Anh ta nhìn lá rơi và suy nghĩ về gia tốc không có nghĩa là anh ta lười biếng. Cậu ta bấm điện tử, lướt facebook, chơi điện thoại không có nghĩa là cậu ta lười biếng. Không thể nói một người “ĐANG HOẠT ĐỘNG” là lười biếng được. Có thể anh ta không làm đúng như những gì người khác nghĩ là tốt, nhưng việc anh ta làm không liên quan gì tới sự lười biếng.

Nếu xét sâu hơn, đến mức độ tâm lý của con người, thì càng lại vô vọng trong việc chứng minh họ là lười biếng. Một người cảm thấy cô đơn khi không có ai chơi cùng, rõ ràng là anh ta đang khao khát để được hoạt động, được tương tác với người khác, được kể chuyện, được cười nói, và như vậy, anh ta không hề lười, nếu lười thì anh ta đã chẳng mong như vậy.

Giới trẻ thường cảm thấy nhàm chán, bởi vì họ không biết phải làm gì, đây lại là một điều cực kỳ quan trọng chứng minh là loài người không lười biếng. Khi người ta chán, là người ta muốn làm một điều gì đó, nhưng chưa có gì làm cho họ hứng thú cả. Rõ ràng, bạn có thể bắt gặp 99,99% con người ngoài việc ngủ luôn làm điều gì đó; đôi lúc họ nằm phè, nhưng không nhiều, thường thì họ sẽ làm điều gì đó dù có thể là ngớ ngẩn đi nữa.

Theo góc độ sinh học của các nghiên cứu trước đây cho rằng người ta cảm thấy tích cực hơn sau khi tập thể dục vì hoạt động này giải phóng nhiều endorphin – chất giảm đau và cải thiện tâm trạng – ở trong não. Điều này chỉ ra, nếu hoạt động, đổ mồ hôi, con người sẽ cảm thấy sướng nhờ giải tỏa được cái chất chết tiệt mang tên Edorphin. Mà con người thử hỏi có ai không thích vui, thích hạnh phúc, thích sướng?

Vậy đó! Trên đời này có những tội ác xảy ra, cũng chẳng phải vì họ lười biếng. Có thể là họ tham lam nên tàn ác, nhưng sau cùng cũng có một ước muốn là được sung sướng. Nếu họ lười biếng, loài người đã chẳng gặp phải đau khổ nào. Ngay cả những tên nát rượu và nghiện ngập, bọn chúng cũng chẳng lười biếng gì cả, bọn chúng thích chơi, thậm chí là quậy phá người khác, như vậy thì chúng ta cũng phải cắn răng xét họ vào loại “CÓ HÀNH ĐỘNG”. Như đã nói ở trên, dù là hành động ngớ ngẩn, vô bổ, xấu xa, bỉ ổi hay tốt lành, thánh thiện, người ta vẫn không hề lười biếng. Vậy vấn đề chính là ở chỗ, mỗi người thấy điều gì là quan trọng mà thôi.

Đó là những gì tôi muốn nói. Và từ nay, hễ ai mà còn chỉ thẳng vào mặt bạn bảo bạn là một kẻ lười biếng, hãy chộp cổ hắn và bắt hắn đọc bài viết này. Nếu hắn còn chưa chịu ngộ ra, thì cứ kệ hắn. Còn nếu hắn lỳ lợm cứng đầu thì cứ dần cho một trận ra trò để giải phóng Edorphin cũng không phải là một ý tưởng tồi đâu!

Tôi chỉ hy vọng, ai đọc xong bài này sẽ không nghĩ là mình lười nữa nếu trước nay từng có nghĩ thế và tốt hơn chút thì cũng đừng nói ai là lười biếng dù là sau lưng họ. Có thể chúng ta chưa tìm được chuyện làm mình hứng thú, cảm thấy phấn khích, cảm thấy vui vì được sống nên đôi khi ta làm những việc ngớ ngẩn, thì đó cũng không phải là lười. Tất cả những gì chúng ta cần, chỉ là tìm ra điều mình cảm thấy vui khi sống cùng nó, mặc kệ ai nghĩ gì là đúng hay sai, ta vẫn ở bên nó mỗi ngày. Thiết nghĩ vậy là tốt lắm rồi.

Nếu bạn thích ngồi im suy nghĩ thì cứ suy nghĩ đi, nhưng đừng quên là phải vui với điều đó, còn nếu buồn thì đừng. Nếu bạn thích câu cá và sống ở vùng quê yên tĩnh, thì bạn cứ câu cá đi, cưỡi ngựa đi, miễn là bạn thấy vui vì điều đó, mặc kệ người ta chỉ thẳng vào mặt bạn và bảo bạn là một kẻ lười tư duy. Nhưng ai quan tâm điều đó chứ? Chẳng có gì là lười hay không lười, mà chỉ có bạn và niềm vui của bạn mà thôi.

 

Lục Phong

Chử Đồng Tử, một phần tính cách Việt

Featured image: Wiki Commons

Một trong những nét rất hay trong văn hóa người Việt chúng ta, đó là tuy bị “Tàu” đô hộ hàng ngàn năm,  nhưng ba trong bốn vị Thánh bất tử (Tứ bất tử) của dân tộc ta đều đã có từ thời Hùng Vương, rất lâu trước khị bị Bắc thuộc. Chỉ có Liễu Hạnh Công Chúa là mới được đưa vào danh sách Tứ bất tử từ thời nhà Lê.

Trong khi Liễu Hạnh Công Chúa tượng trưng cho tinh thần, phúc đức, thịnh vượng và nghệ thuật thơ ca, thì ba vị nam thần còn lại mỗi người đại diện cho một đức tính, tinh thần rất đặc trưng của người Việt, đó là chống giặc ngoại xâm – Thánh Gióng; Đấu tranh và chống chọi với thiên tai – Sơn Tinh; và đặc biệt người còn lại, Chử Đồng Tử – đại diện cho “tình yêu”, “hạnh phúc” và “sung túc”.

Có thể thấy rằng, Tổ tiên của chúng ta, thông qua thực tiễn cuộc sống đã mượn hình tượng mang tính đại diện của bốn vị thánh này để phản ánh (và có thể là mong muốn) tiến trình phát triển của mình trên đất nước chúng ta ngày xưa. Tiến trình đó bào gồm: chinh phục thiên nhiên (đắp đê, tôn cao nền nhà,v.v) để ổn định cuộc sống và khi đã yên ổn được phần nào rồi thì lại phải chống lại ngoại xâm. Sau khi quân thù bị đánh bại, mọi người cùng nhau xây dựng một xã hội sung túc cùng sự bình đẳng trong tình yêu lứa đôi. Và một khi xã hội đã thịnh vượng thì mọi người sẽ có điều kiện quan tâm đến nghệ thuật, thơ ca và các lĩnh vực tinh thần khác.

Một chi tiết khá thú vị là ngay khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng đã vội vã bay ngay về trời mà không hề để lại bất kỳ “cẩm nang” hay “nhắn nhủ” nào cho hậu thế. Có thể đây chính là một điểm mấu chốt trong tính cách Việt, đó là “thiếu tính kế thừa” và “giải quyết vấn đề theo kiểu sự vụ”. Khi lũ lụt đã được hạn chế, kẻ thù đã bị đánh tan thì dĩ nhiên là chúng ta đều mong muốn được sống một cuộc sống yên bình và thịnh vượng.

Trong thực tế, lúc chiến tranh, con người dễ đồng cam, cộng khổ, khi thời bình rồi thì lợi danh lấn át nên khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, vua tôi rạch ròi chứ không còn ngồi chia nhau tí muối như trong thời chiến nữa. Thật là không tưởng để một anh làm nghề câu cá có thể gặp và kết hôn với một cô công chúa, lá ngọc cành vàng và nếu chuyện đó có xảy ra đi nữa thì đâu là nền tảng để họ có thể sống với nhau dài lâu? Xin thưa, mong ước về một xã hội công bằng và đầy đủ đã được nhân dân ta gửi gắm vào câu chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung.

Không xét đến các nghi ngờ là chuyện này (hai người lấy nhau) có thật hay không hoặc các thắc mắc về việc Chử Đồng Tử đã làm thế nào để khiến cho Tiên Dung công chúa chấp nhận bỏ lại tất cả để theo chàng, mà chỉ tập trung phân tích vấn đề là hình tượng này có ý nghĩa như thế nào trong văn hóa Việt khi đươc người dân tôn thờ là Thánh và đại diện cho tình yêu, hôn nhân và sung túc giàu có.

Xét trên khia cạnh ngẫu nhiên thì việc Tiên Dung ngượng khi dội nước tắm và vô tình làm lộ thân hình của Chữ Đồng Tử ra là rất có khả năng xảy ra. Tôi không hiểu rõ về người Việt thời Hùng Vương khi đó, nhưng tôi cho rằng nếu chuyện đó xảy trong khoảng một nghìn năm trở lại đây thì chắc là anh đánh cá không những không thành được phò mã mà còn bị mất cả đầu. Kể cả khi vì lý do nào đấy mà Tiên Dung muốn lấy Chử Đồng Tử để rồi sau này bị Vua Cha ngăn cấm thì chắc là chỉ mấy tháng sau công chúa đã có thể chán chàng rồi! Bởi vì sao, bởi vì nếu nhìn vào cặp đôi “hoàn hảo” này thì chúng ta có thể thấy không có chút hoàn hảo nào cả. Chính vì vậy nên Tiên Dung tuy đã cùng chồng làm nghề buôn bán rất tấp nập nhưng vẫn cố gắng thuyết phục chồng đi học (đạo) và thật bất ngờ chỉ trong một thời gian ngắn chàng đã thành công.

Nếu như chúng ta xem chuyện Tàu thì hầu hết những ai muốn thành tiên đều phải cực kỳ gian nan vất vả và khổ luyện. Ngoài căn tu ra thì Thượng đế còn phải thử thách lòng kiên trì, quyết tâm của người đó rồi mới có thể đưa họ thành Thần Thánh hay Tiên được, nhưng có vẻ đối với dân Việt chúng ta thì mọi chuyện thật đơn giản, đó là chỉ cần có duyên (phận) và may mắn chút thì bạn, một người cùng khổ và mù chữ có thể lấy được không những vợ đẹp mà còn là công chúa và đắc đạo cùng bao nhiêu phép thuật trong một khoảng thời gian rất ngắn.

Tuy câu chuyện và hình mẫu của Chử Đạo Tổ có thể thuần túy là để thể hiện mong ước và khát vọng của đại bộ phận dân Việt ta ngày trước, nhưng có thể thấy rằng hình như đã từ lâu rồi người Việt chúng ta tuy có muốn thay đổi nhưng không nhìn thẳng vào vấn đề để đưa ra các giải pháp hợp lý mà trông đợi ở phép màu nào đó.  Chúng ta không nghiêm túc khi đánh giá các thành công của người khác, bởi vì mọi người vẫn nghĩ đơn giản như chuyện Chử Đồng Tử gặp được Tiên Dung rồi sau đó thành Tiên. Và quan trọng hơn nữa là thay vì hành động, chúng ta lại ngồi chờ để phép màu tự đến và vì vậy đến bây giờ chúng ta đã bỏ qua rất nhiều cơ hội cho một đất nước hùng cường.

Dù sao thì Chử Đông Tử vẫn sẽ mãi là một trong Tứ bất tử của người Việt – một dân tộc chọn cho mình lối sống khiêm nhường và không quá phức tạp trong cách nghĩ. Và cũng học được từ ngài – biểu tượng của tình yêu Việt, chúng ta chắc hẳn đều có ít nhiều trong mình mấy cái gien “râu quặp”.

Hãy tận dụng những biến cố cuộc đời

Featured Image: Emmanuel Rosario

 

Cuộc đời chúng ta nhất định sẽ có lúc xảy ra những biến cố lớn hoặc nhỏ. Đó là điều không ai mong muốn, trông đợi hay thậm chí chỉ là nghĩ tới cả. Nhắc đến biến cố, trong ta chắc hẳn toàn dâng lên cảm giác sợ hãi, lo lắng và bất an khủng khiếp. Thay vì ngồi cầu nguyện biến cố đừng xảy ra, chúng ta hãy thử ngồi lại và nhìn thẳng vào chúng, như một bước chuẩn bị sẵn sàng để nếu chúng có xảy ra thật, ta sẽ không sợ hãi, ta sẽ không trốn tránh và than thở, mà sẽ đối mặt và đạp lên chúng để tiếp tục xây dựng một cuộc sống mới ngập tràn hy vọng.

Giống như câu chuyện, nếu tôi đưa bạn một tờ giấy bị nhỏ một giọt mực lên, và hỏi bạn thấy gì? Phần lớn mọi người sẽ trả lời, thấy giọt mực. Chỉ một số ít trả lời rằng họ thấy một giọt mực nhỏ trên tờ giấy trắng. Và càng ít hơn, người có thể thấy được bức tranh toàn cảnh: “Ồ, tôi thấy còn khá nhiều chỗ trống để sử dụng tờ giấy.”

Đúng vậy, đó mới là câu trả lời chính xác và cần thiết đối với cuộc sống của chúng ta. Hãy tập trung vào những việc bạn có thể, thay vì không thể. Hãy để những biến cố cuộc đời trở thành những giọt mực nhỏ, trên một tờ giấy to, nó có thể không đẹp, nhưng chẳng ảnh hưởng gì mấy đến tác dụng của cả tờ giấy. Nếu như bạn cũng có thể đối xử với những biến cố cuộc đời như thế, bạn sẽ nhận ra, biến cố cũng không có gì quá đáng sợ.

Nếu như bạn không xinh đẹp

Khi bạn thấy mình không xinh đẹp, cả ngày bạn sẽ chẳng làm được gì ngoài đau buồn, than thân trách phận. Và bạn sẽ càng đau buồn hơn, đau buồn đến chết đi được nếu mỗi ngày đều đặn dành thời gian để cập nhật các trang tin tức hay các mạng xã hội như facebook. Trên cái thế giới đó, ai cũng đẹp xinh, cũng lung linh và tỏa sáng. Làm sao bạn có thể sống vui với ngoại hình của mình khi cả ngày đều chấp nhận những hình ảnh đó ngập tràn tâm trí?

Điều bạn cần làm, là phải biết tập trung vào những thứ quan trọng hơn, đáng giá hơn. Khi bạn chưa đẹp, người ta sẽ chẳng quan tâm đến bạn nhiều hơn bạn nghĩ. Chính lúc này, bạn có điều kiện để làm mọi thứ cho bản thân trở nên giá trị hơn theo những cách khác. Bạn không cần phải quá lo lắng trông mình sẽ ra sao khi đến một bữa tiệc, bạn không cần phải lo tương lai mình thế nào.

Việc bạn cần làm, như một tâm sự tôi từng được đọc về một cô gái. Nhận thức được mình không xinh đẹp, cô gái ấy tập trung tinh lực của mình vào những mục tiêu khác: học hành, sự nghiệp thay vì tình duyên hay nhan sắc. Sau một thời gian phấn đấu, trong khi bạn bè cô chỉ tiệc tùng, mua sắm, vui chơi. Cô gái này đi học các ngoại ngữ, nâng cao trình độ chuyên ngành. Cô học rất giỏi, đạt thành tích cao. Sau khi ra trường, bảng điểm đỏ và năng lực làm việc đã biến cô thành một người quan trọng trong công ty, dù không hề dễ dàng. Và sau đó cô được cử đi tu nghiệp nước ngoài và bạn biết đấy, cô trở thành một phụ nữ thành đạt, khi còn rất trẻ.

Khi là một người phụ nữ thành đạt, cô đủ điều kiện để nâng cấp bản thân thành một người phụ nữ xinh đẹp và duyên dáng hơn. Phẫu thuật thẩm mỹ không có gì xấu nếu người ta không lạm dụng nó, mà cho dù cô gái trong câu chuyện có không dùng cách này, thì với địa vị là một người phụ nữ thành đạt, cô luôn toát ra một vẻ đẹp hấp dẫn khó tả. Mọi thứ bỗng trở nên quy củ và dễ dàng.

Tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu cô gái này không biết tập trung vào những mục tiêu đúng đắn? Điều gì sẽ xảy ra nếu như ngày xưa cô chẳng làm gì cho việc nâng cao giá trị bản thân ngoài việc cố làm cho mình đẹp hơn? Nếu vậy liệu cô có được tương lai như ngày hôm nay?

Vậy nên, nếu như bạn không xinh đẹp, bạn hãy nghĩ cách để tương lai mình có những điều kiện tốt nhất làm cho mình xinh đẹp hơn. Bạn có thể tập trung toàn bộ thời gian và khả năng vào những việc mà những cô nàng xinh đẹp không bao giờ có thời gian để bận tâm tới, tham gia các câu lạc bộ mà người ta không chú trọng nhan sắc nhiều: nhiếp ảnh, nấu ăn, viết lách… Có rất nhiều việc bạn có thể làm tốt hơn người thường, đó là những điều khiến bản thân bạn trở nên khác biệt và đáng giá.

Khi bạn không xinh đẹp, bạn có điều kiện để tập trung hơn, mà bạn cũng biết rồi, tập trung chính là chìa khóa để mở cánh cửa thành công mà đúng không? Sẽ thật khó để bạn đua sắc đẹp với nhan nhản những người đẹp xung quanh, nhưng nhất định sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu bạn đổi tên cuộc đua đó thành cuộc đua giành danh hiệu ai tài giỏi hơn, ai năng lực hơn, ai giá trị hơn trong cuộc đời.

Tôi không nói bạn phải tự hào khi mình không được đẹp, vì làm cho bản thân đẹp hơn, đó không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của chúng ta. Nhưng tôi thành thật khuyên bạn nếu như bạn không được đẹp, hãy xác định những mục tiêu đáng giá hơn mà bạn có thể tập trung, thay vì cả ngày cả đêm chỉ đau buồn về ngoại hình của mình. Điều đó chẳng giúp ích gì cho bạn cả.

Nếu một ngày nào đó, bạn thất tình

Hãy để nỗi đau khổ đó làm động lực cho bạn tiến lên. Bạn có thể và hãy nên dành thời gian trước đây bị tình yêu độc chiếm để quan tâm hơn đến cuộc sống của mình. Khi thất tình bạn có thể làm những điều như ở trên, như khi bạn không xinh đẹp. Đó là hãy bớt thời gian suy nghĩ về chuyện đau buồn, thay vì đó tập trung vào những thứ tốt đẹp bạn có thể làm được.

Việc tập trung vào những mục tiêu khác của cuộc đời, khi thất tình, có rất nhiều ý nghĩa:

  • Thứ nhất, bạn sẽ không còn nhiều thời gian để nghĩ về mối tình đó, không còn thời gian để đau buồn, tiếc thương cho nó. Cách nhanh nhất để quên đi một chuyện đau buồn, là làm mọi việc khác để không nghĩ về nó nữa.
  • Thứ hai, bạn tập trung mọi nguồn lực và trí óc của mình để làm việc hay học hành. Bạn sẽ không nhận ra được kết quả làm việc hoặc học tập sẽ tốt thế nào nếu bạn có thể tập trung. Và từ đó, bạn mở ra muôn ngàn cơ hội cho chính mình. Những cơ hội về cả sự nghiệp lẫn tình duyên tuyệt vời bạn không thẻ có nếu như cả ngày chỉ đau khổ chuyện bị phản bội hay chia tay.
  • Thứ ba, bạn có cơ hội để chứng minh rằng bản thân mình là một người mạnh mẽ, một người có đầy tinh thần trách nhiệm với chính mình và cuộc đời mình. Bạn sẽ nhận ra chẳng có ai là quan trọng với cuộc đời bạn hơn chính bản thân bạn. Và không chỉ với bản thân, mọi người xung quanh cũng sẽ nhận ra bạn là người mạnh mẽ đến thế nào.

Và đây là một vài lợi thế hay mặt tích cực của việc thất tình mà tôi sưu tầm được:

Thất tình giúp bạn nhận ra bản thân mình

Cuộc sống bận rộn khiến bạn hiếm có thời gian ngồi nhìn lại bản thân mình. Bạn luôn hối hả với công việc, cuộc sống, tình yêu. Những tháng ngày ở bên người ấy, quan tâm chăm sóc, lo lắng cho người ta khiến bạn đôi khi bỏ quên đi việc chăm sóc bản thân, bạn cũng không kịp nhìn lại xem mình là người như thế nào, Vậy thì khi chia tay là lúc thích hợp nhất để ngồi suy nghĩ về tất cả. Bạn cũng có thể dành thời gian đi chăm sóc sắc đẹp, làm mới mình. Đây là dịp để bản thân nhận ra những ưu nhược điểm và những gì cần phải cố gắng để có những mối quan hệ tốt đẹp hơn.

Tìm ra những cơ hội mới tốt hơn

Bạn hoàn toàn có thể tìm ra những cơ hội mới tốt hơn sau khi chia tay. Bởi khi một cánh cửa cũ đóng lại sẽ có một cánh cửa mới mở ra. Thậm chí, cánh cửa mới có thể tốt hơn cánh cửa cũ rất nhiều. Do đó, đừng bao giờ buồn bã nghĩ rằng người yêu cũ của mình là tốt nhất, hoàn hảo nhất, mình sẽ không bao giờ tìm được tình yêu mới.

Nếu nhận xét khách quan, bạn sẽ thấy người đó có rất nhiều khuyết điểm, chẳng qua là bạn đang quen với cảm giác ở bên cạnh người đó mà thôi, và do quá yêu nên bạn bị mù quáng, không nhận ra những điểm yếu của họ, cũng có khi, bạn nhận ra nhưng khi yêu, bạn sẵn sàng bỏ qua chúng.

Trưởng thành và chín chắn hơn

Một cuộc tình đi qua luôn khiến cho bạn đau khổ. Do vậy, khi vượt qua được nỗi đau chia tay, bạn sẽ trở thành một người trưởng thành và chín chắn hơn. Khi đó, sẽ khó có nỗi đau nào khiến bạn gục ngã nữa. Bạn hoàn toàn tự tin rằng mình có thể đi qua những giông bão của cuộc đời với sự tự tin và thanh thản.

Có nhiều kinh nghiệm

Chắc chắn một điều là, dù trong cuộc tình cũ bạn có là người ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng đến đâu, thì khi đi qua nó, bạn cũng đã tích lũy thêm được một vài điều, một vài kinh nghiệm. Chuyện ôm hôn, giận dỗi, làm lành, cách chinh phục, hay bất cứ điều gì, bạn đều có thể có những trải nghiệm mới. Và nó sẽ giúp bạn trong những lần yêu sau. Bạn sẽ không còn bỡ ngỡ như ban đầu và có lẽ sẽ không phải thất bại nữa.

Mở rộng nhiều mối quan hệ hơn

Khi bạn đau khổ vì chia tay, bạn sẽ nhờ bạn bè, người thân giúp vượt qua giai đoạn khó khăn này. Và một điều không ai có thể phủ nhận được là thấy bạn buồn, mọi người sẽ giúp đỡ, mối lái cho bạn khá nhiều những người đàn ông khác. Bạn cũng có cơ hội có thể làm quen, gặp gỡ, mở rộng mối quan hệ ra với mọi người. Do đó, bạn hoàn toàn có thể tự tin rằng, bạn có thể có nhiều mối quan hệ và những người bạn thật sự tốt sau khi chia tay.

Có thời gian tập trung cho công việc

Khi yêu, bạn dành mọi thứ tốt đẹp nhất cho người yêu mà quên đi công việc, cuộc sống riêng tư, vậy thì khi chia tay, trong lúc buồn, bạn hoàn toàn có thể tập trung cho công việc, cho những dự định trong tương lai mà khi yêu bạn không thể làm. Và có thể, chính trong những lúc buồn chán nhất, bạn lại là người quyết tâm nhất, vì thế, bạn sẽ có thể thành công và giỏi giang hơn những cô gái đang hạnh phúc trong men say tình yêu.

Khi thất tình, hoặc để cho nỗi đau gặm nhấm mình, hoặc gặm nhấm ngược lại những nỗi đau, nuốt chửng nó bằng cách tập trung vào những mặt tốt nó mang lại. Bạn sẽ thấy, thất tình cũng không có gì đáng sợ cả.

 

Phi Tuyết

Thị trường và đạo đức (kỳ 13)

 

Ludwig Lachmann – Kinh tế thị trường và phân bố tài sản

Trong tiểu luận này Ludwig Lachmann, một nhà kinh tế học nổi tiếng, khảo sát những luận cứ phê phán chủ nghĩa tư bản thị trường tự do từ quan điểm “công bằng xã hội” và tìm ra những mâu thuẫn của chúng. Ông giải thích sự khác biệt giữa “quyền sở hữu” và “của cải” và chỉ rõ vì sao việc tôn trọng quyền tư hữu (quyền sở hữu) là tương thích với quá trình tái phân bố của cải thông qua thị trường. Đây là tiểu luận quan trọng, nó giúp độc giả hiểu rõ tính năng động của những mối quan hệ xã hội và kinh tế trong chế độ tư bản.

Ludwig Lachmann (1906-1990) nhận bằng Ph.D. tại Đại học tổng hợp Berlin. Ông rời Đức và sang Anh vào năm 1933, nơi ông tiếp tục theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu tại Trường kinh tế London (London School of Economics). Lachmann có những đóng góp quan trọng vào lý thuyết về tư bản, về phát triển kinh tế và cơ sở mang tính phương pháp luận của kinh tế học và xã hội học. Ông đã cho xuất bản những tác phẩm quan trọng như Tư bản và cơ cấu của nó (Capital and Its Structure); Di sản của Max Weber (The Legacy of Max Weber); Tư duy kinh tế vĩ mô và kinh tế thị trường (Macro-Economic Thinking and the Market Economy); Tư bản, kỳ vọng và tiến trình trên thương trường (Capital, Expectations, and the Market Process); và Thị trường như là tiến trình kinh tế (The Market as an Economic Process).

Tiểu luận này là bản rút gọn tác phẩm xuất bản lần đầu vào năm 1956.

________________________________________________________________

Bây giờ ai còn có thể nghi ngờ điều mà giáo sư Mises đã nói cách đây 30 năm rằng mỗi vụ can thiệp của chính quyền đều kéo theo một vụ can thiệp khác nhằm ngăn chặn những hậu quả kinh tế chắc chắn sẽ xảy ra từ vụ can thiệp trước đó? Ai còn phủ nhận rằng nền kinh tế chỉ huy đòi hỏi phải có lạm phát thì mới vận hành được và hiện nay ai còn không biết hậu quả tai hại của hiện tượng “lạm phát có kiểm soát”? Nhưng một số nhà kinh tế học vẫn phát minh ra được thuật ngữ được họ tán dương là “lạm phát thường trực” nhằm mô tả hiện tượng lạm phát thường xuyên mà tất cả chúng ta đều biết, có vẻ như là chẳng ai bị lừa hết.

Thực ra là không cần phải có thí dụ về trường hợp nước Đức để chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng thậm chí ngay cả trong những hoàn cảnh bất lợi nhất, nền kinh tế thị trường cũng thiết lập được trật tự từ những hỗn loạn “được nhà nước kiểm soát”. Hình thức tổ chức kinh tế dựa trên sự hợp tác tự nguyện và trao đổi kiến thức chắc chắn là ưu việt hơn bất kỳ cơ cấu thang bậc nào khác. Người nào có khả năng học từ suy luận và kinh nghiệm thì đã biết điều đó từ trước, còn người nào không có khả năng thì có vẻ như hiện nay vẫn chưa học được.

Đứng trước tình hình như thế, những người phản đối kinh tế thị trường đã thay đổi lý lẽ, bây giờ người ta phản đối nó trên cơ sở “xã hội” chứ không dùng luận cứ kinh tế nữa. Họ kết án nó là bất công chứ không phải là không hiệu quả. Họ bảo rằng sở hữu tài sản đã làm “méo mó” mọi thứ và cam đoan rằng “số đông ủng hộ thị trường trong những cuộc trưng cầu dân ý là do có nhiều người bỏ phiếu nhiều lần, tại nhiều địa điểm khác nhau”.

Họ nói rằng phân bố tài sản ảnh hưởng tới sản xuất và phân bố thu nhập vì những người hữu sản không chỉ được hưởng “lợi lớn, bất công” từ thu nhập của toàn xã hội mà còn gây ảnh hưởng tới cơ cấu sản phẩm xã hội: hàng xa xỉ thì quá nhiều mà nhu yếu phẩm thì lại quá ít. Hơn thế nữa, vì những sở hữu chủ này là những người có nhiều tiền nhất cho nên họ cũng là người quyết định quá trình tích lũy tư bản và bằng cách đó, quyết định cả tiến bộ kinh tế nữa.

Một số người không phủ nhận hoàn toàn rằng phân bố tài sản là hệ quả mang tính tích lũy của sự vận động của các lực lượng kinh tế, nhưng họ cũng nói rằng vốn tích lũy đó lại hoạt động theo cách thức làm cho hiện tại là tù binh của quá khứ, là tác nhân độc đoán và “quá đát” trong hiện tại.

Thu nhập ngày hôm nay được định hình bởi phân bố tài sản ngày hôm nay, và mặc dù là một phần tài sản ngày hôm nay được tích lũy từ ngày hôm qua, nó được tích lũy thông qua những quá trình phản ánh ảnh hưởng của sự phân bố tài sản từ ngày hôm kia. Cốt lõi là, luận cứ của những người phản đối kinh tế thị trường dựa trên định chế về “thừa kế”, theo đó, ngay cả trong các chế độ tiến bộ thì đa số những sở hữu chủ có của là do trước đó họ đã có của rồi.

Hiện nay luận cứ này có vẻ như đang được nhiều người chấp nhận, thậm chí cả những người thực tâm cổ xúy cho tự do kinh tế nữa. Những người này tin rằng “tái phân bố tài sản”, thí dụ như thông qua thuế đánh vào tài sản thừa kế, sẽ mang lại kết quả có lợi về mặt xã hội, nhưng bất lợi về mặt kinh tế. Nhưng ngược lại, vì những biện pháp như thế sẽ giải phóng hiện tại khỏi “bàn tay của thần chết” cho nên sẽ giúp điều chỉnh thu nhập hiện tại cho phù hợp với nhu cầu hiện tại.

Phân bố tài sản là một sự kiện của thị trường và bằng cách thay đổi những sự kiện, chúng ta có thể làm thay đổi kết quả mà không cần can thiệp vào cơ chế của thị trường! Kết quả là bằng chính sách liên tục tái phân bố tài sản hiện có ta có thể đưa các quá trình diễn ra trên thương trường đến kết quả “chấp nhận được về mặt xã hội”.

Quan niệm này, như chúng tôi đã nói, được nhiều người chia sẻ, thậm chí cả một số nhà kinh tế học, những người hiểu rõ tính ưu việt của kinh tế thị trường so với kinh tế chỉ huy và những thất bại của chính sách can thiệp, nhưng lại không thích những điều mà họ coi là hậu quả xã hội của kinh tế thị trường. Họ sẵn sàng chấp nhận kinh tế thị trường khi và chỉ khi hoạt động của thị trường song hành với chính sách tái phân bố tài sản vừa nêu.

Tiểu luận này là để phê phán cơ sở của quan điểm vừa nói

Trước hết, toàn bộ lập luận dựa trên sự lầm lẫn theo nghĩa đen của từ này, do tính đa nghĩa của thuật ngữ “sự kiện”. Trong ngôn ngữ hàng ngày cũng như trong nhiều ngành khoa học, thí dụ như trong môn thống kê, từ “sự kiện” có nghĩa là một cái gì đó, tại một thời điểm nào đó, “được trình ra” cho những người quan sát tại hiện trường.

Theo nghĩa này thì hiển nhiên là cách thức phân bố tài sản là một sự kiện tại bất kỳ thời điểm nào, bởi đơn giản là theo nghĩa thông thường thì chỉ có một cách phân bố như thế, không còn cách nào khác. Nhưng trong lý thuyết cân bằng – tốt hay xấu không biết – một thuyết có ý nghĩa rất lớn đối với tư duy kinh tế hiện này và có đóng góp rất lớn vào việc định hình nội dung của kinh tế học thì từ “sự kiện” lại có nghĩa thứ hai, khác hẳn nghĩa thứ nhất: Ở đây sự kiện có nghĩa là điều kiện cần cho sự cân bằng, là một thông số độc lập và “những sự kiện” có nghĩa là tổng các điều kiện cần và đủ để một khi chúng ta đã biết toàn bộ những điều kiện đó, chúng ta có thể suy ra được giá và số lượng cân bằng mà không cần phải làm gì thêm nữa.

Theo nghĩa thứ hai này thì phân bố tài sản, cùng với những sự kiện khác, là một YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH, mặc dù không phải là yếu tố quyết định duy nhất, của giá cả và số lượng các loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau được bán và được mua.

Nhưng nhiệm vụ chính của chúng ta trong tiểu luận này là chỉ ra rằng phân bố tài sản không phải là “sự kiện” theo nghĩa thứ hai này. Nó không những không phải là “thông số độc lập” của những quá trình diễn ra trên thương trường, mà, ngược lại, liên tục bị các lực lượng của thị trường tác động làm cho nó phải thay đổi. Không cần phải nói là không thể phủ nhận được rằng tại bất kì thời điểm nào nó đều là một trong những lực lượng định hướng cho các tiến trình của thị trường trong thời điểm tiếp liền sau đó, nhưng có thể nói rằng hình thức phân bố đó cũng chẳng thể có ảnh hưởng lâu dài. Mặc dù của cải luôn luôn được phân bố theo một cách nào đó, nhưng cách thức phân bố lại liên tục thay đổi.

Chỉ khi mà một hình thức phân bố đó cứ giữ hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, trong khi phần tài sản mà cá nhân nhận được là do thừa kế thì hình thức phân bố bất biến đó mới là lực lượng kinh tế không thay đổi. Trên thực tế thì không phải như thế. Phân bố của cải là đối tượng được định hình bởi các lực lượng trên thương trường, chứ không phải là tác nhân và dù hôm nay hình thức phân bố có như thế nào thì nó cũng nhanh chóng trở thành quá khứ, chẳng có liên quan gì tới hiện tại hết.

Như vậy là, phân bố của cải không nằm trong các sự kiện của phương trình cân bằng. Xã hội cũng như các nhà kinh tế học không cần phải quan tâm tới cách thức phân bố của cải tại một thời điểm mà phải quan tới tới cách thức thay đổi của nó theo thời gian. Sự thay đổi như thế – như chúng ta sẽ thấy – đưa nó tới vị trí thực sự của nó trong các sự kiện xảy ra trên “con đường” có thể – nhưng trên thực tế thì ít khi – dẫn tới sự cân bằng. Đấy thường là hiện tượng “động”. Lạ lùng là trong khi người ta nói rất nhiều về việc cần phải tiến hành và khuyến khích các công trình nghiên cứu các hiện tượng động thì vấn đề này lại ít được chú ý đến như thế.

Quyền sở hữu là khái niệm pháp lý trỏ vào những đối tượng vật chất cụ thể. Của cải là khái niệm kinh tế trỏ vào những nguồn lực khan hiếm. Tất cả những nguồn lực có giá trị đều là các đối tượng vật chất, hoặc phản ánh hay bao gồm đối tượng vật chất, nhưng không phải tất cả các đối tượng vật chất đều là nguồn lực: ngôi nhà hoang hay đống rác là những thí dụ rõ ràng, đấy là những đối tượng mà chủ sở hữu sẵn sàng cho đi nếu có thể tìm được người muốn lấy.

Hơn nữa, cái là nguồn lực ngày hôm nay có thể ngày mai sẽ không còn là nguồn lực nữa, trong khi những đối tượng chẳng có giá trị gì trong ngày hôm nay lại trở thành có giá trị vào ngày mai. Vì vậy, đối tượng vật chất có phải là nguồn lực hay không và nguồn lực đó có giá trị như thế nào, luôn luôn là một vấn đề khá tù mù và ở mức độ nào đó, phụ thuộc vào khả năng nhìn xa trông rộng của chủ nhân. Đối tượng chỉ trở thành tài sản khi nó là nguồn gốc của thu nhập. Đối với chủ sở hữu, giá trị của đối tượng – giá trị thực tế hay tiềm tàng – tại mỗi thời điểm là khả năng tạo ra thu nhập mà người ta kỳ vọng. Điều này, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào công năng mà đối tượng có thể có.

Vì vậy, chỉ sở hữu không thôi chưa chắc đã làm người ta giàu lên, sử dụng nó một cách hữu hiệu mới thành giàu có được. Không phải là sở hữu nguồn lực mà là sử dụng nguồn lực mới là nguồn gốc của thu nhập và tài sản. Nhà máy sản xuất kem ở New York có thể là phương tiện làm giàu cho chủ nhân, nhưng nhà máy kem ở Greenland chắc chắn không phải là nguồn gốc của thu nhập rồi.

Trong cái thế giới của những biến động đầy bất ngờ này, giữ được của cải luôn luôn là vấn đề khó khăn, và trong dài hạn, có thể nói rằng đấy là nhiệm vụ bất khả thi. Muốn giữ được khối tài sản đã có – có thể là tài sản được kế thừa từ thế hệ nọ sang thế hệ kia – gia đình phải có nguồn lực tạo ra thu nhập ròng thường xuyên, nghĩa là giá trị của đầu ra phải cao hơn số tiền chi cho việc phục vụ các nguồn lực tạo ra thu nhập đó.

Có vẻ như điều này chỉ khả thi hoặc là trong một thế giới đứng yên, một thế giới mà hôm nay cũng như hôm qua hay hôm kia, và ngày nào, năm nào chủ sở hữu hay hậu duệ của họ cũng có thu nhập như nhau; hoặc là khả năng nhìn xa trông rộng của tất cả các chủ sở hữu đều trên mức tuyệt vời. Vì cả hai trường hợp như thế đều không thể xảy ra trên thực tế cho nên chúng ta có thể bỏ qua. Thế thì, trên thực tế, trong cái thế giới đầy biến động này, của cải phải chịu những tác động gì?

Cách này hay cách khác, tất cả của cải nằm trong tài sản cố định đều là hiện thân hoặc ít nhất là phản ánh nguồn lực vật chất của quá trình sản xuất, tức là nguốn gốc của đầu ra. Tất cả sản phẩm đều là do lao động của con người, kết hợp với các nguồn lực như thế, mà ra. Muốn đạt được mục tiêu đó, các nguồn lực phải được sử dụng trong một sự phối hợp nhất định, sự liên kết như thế là bản chất của việc sử dụng nguồn lực. Nhà doanh nghiệp, tức là người sản xuất, người khởi xướng và người thực hiện các kế hoạch sản xuất không có sẵn cách thức phối hợp.

Trên thực tế, không có cái gọi là chức năng sản xuất. Ngược lại, trong cái thế giới của những biến động thường xuyên này, nhiệm vụ của doanh nhân chính là tìm xem trong điều kiện của ngày hôm nay, các nguồn lực phải kết hợp với nhau như thế nào để thu được giá trị thặng dư cao nhất so với đầu vào và dự đoán xem kết hợp nào thì sẽ tạo ra thặng dư như thế trong những điều kiện có thể xảy ra vào ngày mai, khi giá trị của đầu ra, giá đầu vào và công nghệ sẽ thay đổi.

Nếu tất cả các nguồn lực đều cực kỳ đa dụng thì vấn đề của doanh nhân chỉ còn là hướng theo các thay đổi của điều bên kiện ngoài bằng cách chuyển hướng kết hợp các nguồn lực để sử dụng cho những hoàn cảnh mà sự thay đổi làm cho nó trở thành có lời. Nhưng, theo quy luật thì các nguồn lực chỉ có một số công năng giới hạn mà thôi, mỗi nguồn lực có riêng một số công năng[1]. Vì thế, việc điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi thường kéo theo nhu cầu thay đổi trong kết cấu của cả nhóm nguồn lực, kéo theo nhu cầu “tái cấu trúc tư bản”.

Nhưng mỗi thay đổi trong sự liên kết các bộ phận – làm vốn tăng hay giảm – sẽ có ảnh hưởng đến giá trị của các nguồn lực cấu thành. Các doanh nhân sẽ trả giá cao cho những nguồn lực mà họ cho là sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn và sẽ trả giá thấp cho những nguồn lực ít lợi nhuận hơn.

Trong trường hợp đặc biệt, khi mà nguồn lực đã từng mang lại lợi nhuận, nhưng nay (hoặc trong tương lai) không còn sử dụng được nữa thì chúng sẽ mất tính chất nguồn lực của mình. Nhưng ngay cả trong trong những trường hợp ít kịch tính hơn thì trong cái thế giới của những thay đổi đầy bất ngờ hiện nay, việc những tài sản lâu bền tăng hay giảm giá là hiện tượng không thể nào tránh được.

Nhìn theo giác độ đó thì những quá trình diễn ra trên thương trường chính là sự cào bằng. Trong nền kinh tế thị trường, quá trình tái phân bố tài sản diễn ra liên tục; so với nó, quá trình tái phân phối mà các chính khách muốn biến thành định chế sẽ chẳng có giá trị gì, vì một lý do duy nhất là thị trường trao của cải vào tay những người biết giữ nó, trong khi các chính khách lại giao cho những cử tri của họ, những người về nguyên tắc là không biết giữa của.

Quá trình tái phân bố tài sản trên thương trường không phải là một chuỗi những may rủi. Những người tham gia trên thương trưởng không chơi trò may rủi mà chơi bằng kỹ năng. Quá trình này, cũng như tất cả các quá trình năng động đang diễn ra trên thực tế, phản ánh sự chuyển giao kiến thức từ người nay sang người khác. Điều đó chỉ có thể diễn ra khi một số người có kiến thức mà những người khác chưa có, vì kiến thức về sự thay đổi và ẩn ý của nó lan truyền trong xã hội một cách từ từ và không đồng đều.

Trong quá trình này, người thành công là người nhận thức trước những người khác rằng một nguồn lực nhất định có thể được tạo ra trong ngày hôm nay, khi nó còn mới hay có thể mua được một nguồn lực hiện hữu với một giá A nào đó, ngày mai nó sẽ là một phần của kết cấu sản xuất và kết quả là sẽ có giá A’. Việc được hoặc mất về tư bản như thế – do may rủi hay nhu cầu – sẽ đưa nguồn lực từ tay người này sang tay người khác – người sau có thể tài giỏi hay kém hơn người trước – tạo thành bản chất kinh tế của tài sản trong cái thế giới luôn thay đổi này và là động cơ chủ yếu của quá trình tái phân bố.

Trong quá trình này, thật khó mà xảy ra hiện tượng là một người nào đó tiếp tục đoán đúng mãi khả năng sử dụng của nguồn lực hiện hữu hay tiềm tàng, trừ phi đấy là một người siêu đẳng thực sự. Và ngay cả với một người siêu đẳng như thế thì hậu duệ của người đó cũng không chắc đã có được thành công như thế – trừ phi hậu duệ của người đó cũng là những người siêu đẳng. Trong thế giới của những thay đổi không lường trước được, việc mất cũng như gia tăng vốn liếng là những sự kiện không thể tránh khỏi. Sự cạnh tranh giữa các chủ sở hữu tư bản và bản chất đặc thù của những nguồn lực lâu bền – ngay cả khi nó là nguồn lực đa dụng – tạo ra kết quả là lỗ đi sau lời cũng như lời theo sau lỗ vậy.

Các sự kiện kinh tế đó đều có một số hậu quả xã hội nhất định. Vì những người phê phán kinh tế thị trường hiện nay thường thích đưa ra luận điểm trên cơ sở “xã hội”, cần phải giải thích rõ hậu quả xã hội đích thực của các quá trình diễn ra trên thương trường. Chúng ta đã nói rằng đấy là quá trình cào bằng. Chúng ta cũng có thể mô tả những kết quả đó như là thí dụ của cái mà Pareto gọi là “sự quay vòng của tầng lớp tinh hoa”.

Của cải thường không nằm lâu trong bàn tay của cùng một người. Nó được chuyển từ tay người này sang tay người khác, đấy là khi những thay đổi không dự đoán được làm tăng giá trị cho khi thì nguồn lực này, khi thì nguồn lực khác, gây ra sự thăng giáng của đồng vốn. Chủ tài sản, nói như Schumpeter, giống như những người ở trọ trong khách sạn hay hành khách trên tàu hỏa vậy: họ luôn có mặt ở đó, nhưng chẳng bao giờ có những người ở lâu.

Bản chất của của cải trong nền kinh tế thị trường, như chúng ta đã thấy, là một vấn đề phức tạp. Tài sản càng lâu bền và càng có tính đặc thù, phạm vi sử dụng càng hạn hẹp thì vấn đề càng trở nên rõ ràng. Nhưng trong xã hội, nơi mà chẳng có mấy vốn liếng được tích lũy dưới dạng các kho hàng hóa – chủ yếu là hàng nông sản và mau hỏng, chỉ tồn tại trong những khoảng thời gian khác nhau – xã hội, nơi các loại hàng hóa tiêu dùng lâu dài – trừ nhà ở và đồ gỗ – chẳng có là bao, thì vấn đề không còn rõ ràng như thế nữa.

Nói chung, đấy chính là xã hội mà các nhà kinh tế học cổ điển đã sống và đương nhiên là họ cũng đưa nhiều đặc điểm của xã hội đó vào trong tác phẩm của mình. Vì vậy mà, trong những điều kiện của thời đó, các nhà kinh tế học cổ điển đã đúng khi coi toàn bộ vốn liếng là cực kì đa dụng và gần như đồng nhất với nhau, ngoại trừ đất đai, đất đai là vốn đặc thù và không thể làm ra được.

Nhưng trong thời đại của chúng ta, quan niệm như thế là không thể chấp nhận hay gần như không thể chấp nhận được. Càng có nhiều vốn cố định, vốn cố định càng lâu bền, thì khả năng là nguồn vốn đó chỉ được sử dụng – trước khi hỏng hẳn – cho mục đích mà nó được thiết kế sẽ càng lớn. Điều đó có nghĩa là trong nền kinh tế hiện đại không có cái gọi là nguồn thu nhập vĩnh viễn. Thời gian sử dụng kéo dài và khả năng chuyển đổi thấp làm cho điều đó trở thành bất khả thi.

Sự kiện mà chúng tôi nhấn mạnh trong tiểu luận này là trong cái thế giới đầy những biến động bất thường này, việc tái phân bố của của cải là sự kiện mà ai cũng thấy. Thế thì tại sao nó lại thường bị người ta tảng lờ đi? Chúng ta có thể hiểu vì sao các chính trị gia lại tìm cách lờ nó: xét cho cùng thì phần lớn các cử tri của họ có vẻ như không bị nó tác động trực tiếp, và như đã thấy trong trường hợp lạm phát, họ không thể hiểu được nếu quả thật có bị nó tác động.

Nhưng tại sao các nhà kinh tế học cũng tìm cách lờ nó đi? Cách thức phân bố của cải là kết quả hoạt động của các lực lượng kinh tế là một nhận định mà họ cho là hấp dẫn đối với họ. Thế thì tại sao nhiều nhà kinh tế học vẫn tiếp tục coi phân bố tài sản là “sự kiện” theo nghĩa thứ hai, như đã nói tới bên trên? Chúng ta đành phải chấp nhận rằng lý do là họ quá lo lắng cho vấn đề cân bằng.

Như chúng ta đã thấy, những hình thức phân bố tài sản kế tiếp nhau là phù hợp với thế giới không cân bằng. Vốn tư bản tăng hay giảm chủ yếu là do các nguồn lực lâu bền phải được đem ra sử dụng theo những công năng khác với công năng ban đầu của chúng và vì có một số người hiểu rõ hơn và sớm hơn những người khác: cần phải thay đổi những gì và nguồn lực của thế giới đang vận động nghĩa là thế nào. Trạng thái cân bằng nghĩa là kế hoạch không thay đổi, nhưng tái phân phối tài sản do thị trường tạo ra lại là kết quả điển hình của những hành động thay đổi liên tục.

Đương nhiên là những quá trình mà chúng ta mô tả bên trên sẽ bị những những người đã quen tư duy bằng những thuật ngữ cân bằng coi là “không đáng xem xét”. Đối với họ, lực lượng kinh tế “chân chính” là những lực lượng có xu hướng tạo ra và duy trì được trạng thái cân bằng. Vì vậy mà những lực lượng làm mất cân bằng bị coi là không thật sự đáng quan tâm và thường bị lờ đi.

Dĩ nhiên là chúng tôi không nói rằng các nhà kinh tế học hiện nay chìm đắm trong học thuyết về cân bằng đến mức bỏ qua các sự kiện của thị trường, họ không có khả năng và không sẵn sàng ứng phó với những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế, nói thế là vô lý. Chúng tôi chỉ nói rằng họ chỉ được trang bị kiến thức để xử lý những dạng thay đổi phù hợp với những hình mẫu cứng nhắc mà thôi.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: The Morality of Capitalism


[1] The argument presented in what follows owes a good deal to ideas first set forth by Professor Mises in “Das festangelegte Kapital,” in Grundprobleme der Nationalökonomie, pp. 201-14. [English trans. in “Epistemological Problems of Economics” (New York: D. Van Nostrand, 1960, pp. 217-31.

Sao mãi là trẻ con

Featured Image: Swarat Ghosh

 

“Dân hai nhăm triệu không người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.”

– Tản Đà

Có nhiều ý kiến cho rằng một trong những hạn chế rất lớn của người Việt, đó là chúng ta luôn mang trong mình các tố chất của một đứa trẻ và mãi không chịu lớn hoặc chỉ chịu lớn dậy khi có các đe dọa hay bị xâm lăng, đô hộ. Khổ một nỗi, sau khi gồng mình lên để đẩy lùi các thế lực ngoại bang thì chúng ta không chịu lớn tiếp mà lại khoái quay trở về thân phận một đứa trẻ.

Minh chứng đầu tiên của việc chúng ta luôn là một đứa trẻ có lẽ bắt nguồn từ truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương – Thánh Gióng, tuy đã ba tuổi mà không biết đứng biết đi hay biết nói. Nó phản ánh một phần tính cách bàng quan và thiếu trách nhiệm với thời cuộc của phần đông dân chúng trong thời bình. Đứa trẻ đó có lẽ sẽ mãi không chịu lớn nếu đất nước không bị ngoại bang xâm lấn; và cũng thật lạ kỳ, cũng vẫn chính là đứa trẻ ấy nhưng chỉ vừa nghe lời hiệu triệu cứu nước, đã có thể vươn mình đứng dậy, trở thành một thanh niên cường tráng khỏe mạnh, giúp đánh tan giặc ngoại xâm và ra đi không một lời từ biệt.

Có lẽ người xưa không thể để Thánh Gióng ở lại trần gian được, bởi vì nếu như vậy thì Ngài sẽ như thế nào nếu không phải trở lại vai trò của một đứa trẻ – vốn không được hay ho cho lắm sau khi đã lập được bao kỳ tích.

Có rất nhiều nguyên nhân khiến chúng ta luôn muốn mình mãi là trẻ con! Bởi vì là trẻ con chúng ta đươc phép sai và không phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm. Là trẻ con, chúng ta được “người lớn” che chở và hay được khen ngợi mỗi khi làm một việc gì đó “được cho là phải” hay “chịu khó nghe lời”. Trong thế giới của trẻ con, mọi chuyện đều có thể xảy ra và được chấp nhận mà không bị đặt câu hỏi hay nghi ngờ. Chỉ khi là trẻ con, chúng ta mới hay “ảo tưởng sức mạnh” mà không bị chỉ trích hay bị phê phán về sự non kém trong khoa học hay quản trị.

Là trẻ con, chúng ta luôn hồ hởi đón nhận những cái mới, tham gia các trào lưu mới và thử nghiệm các mô hình mới mà không cần phải phân tích bối cảnh, sự phù hợp cũng như tác động của chúng đối với cộng đồng. Là trẻ con chúng ta không phải chịu trách nhiệm giải trình trước người lớn về các việc mình làm và nếu có gì sai sót thì người khác cũng dễ thông cảm theo kiểu “trẻ con ấy mà”.

Cũng chỉ có trẻ con mới tin vào “ba điều ước” và tin vào các câu chuyện hoang đường mà không cần phải chứng mình bằng khoa học thực nghiệm. Là trẻ con, chúng ta được phép mơ mộng một chút. Nếu làm người lớn, nhiều lúc cuộc sống không cho phép chúng ta mơ mộng, đặc biệt là trong những quyển sách có ảnh hưởng đến tương lai. Sự mơ mộng có chăng cũng chỉ là tô hồng thêm chút ít các kết quả sẽ đạt được vốn dĩ có thể được đảm bảo bởi các chiến lược đúng đắn trong thực tại.

Nhưng là trẻ con, chúng ta không nhất thiết phải có các hành động cụ thể thời hiện tại nhưng vẫn có quyền mơ mộng một “đông phương hồng” ở tương lai.Cũng bởi vì ai cũng thích được mơ mộng mà không phải làm gì cả nên nhiều người chọn cách không phải lớn để mãi là trẻ con.

Trong khoảng trên một thế kỷ qua, đã có nhiều người, với lòng yêu nước và tự tôn dân tộc, đã tìm nhiều cách giúp dân tộc chúng ta thoát khỏi thân phận một đứa trẻ để một ngày có thể trở thành một thanh niên cường tráng. Không thể phụ nhận một thực tế rằng với các nỗ lực đó, chúng ta đã lớn lên chút ít. Từ một cậu bé gầy gò, ốm yếu và chỉ biết một ít Tam Tự Kinh, chúng ta đã có một bước tiến dài và phổng phao lên rất nhiều trong mấy chục năm qua.

Đã có lúc, nhiều người tin tưởng rằng với đà này, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ lần đầu tiên thoát khỏi quy luật của lịch sử dân tộc để trưởng thành cả về hình thức lẫn nội dung. Than ôi, cũng có thể là do phúc phận của chúng ta chưa đến, khi sắp chuyển mình để chuẩn bị dậy thì, chúng ta đã không vượt qua được sức ì của tâm trí và bóng đè của lịch sử, văn hóa để cho cơ hội bị trôi qua khiến cho không biết đến bao giờ mới có thể lớn lên được nữa.

Là trẻ con, chúng ta thích được sống trong một xã hội mang màu sắc kiếm hiệp, nơi những thường dân yếu thế có thể được các “hiệp sĩ” bóng đêm hay “người dơi” bảo vệ trước những bất công; nơi luôn có những người sẵn sàng “lộ kiến bất bình bạt đao tương trợ”; nơi công lý thỉnh thoảng được bảo vệ bởi một ông Bộ Trưởng vi hành. Ở nơi đó vai trò nhà nước bị lu mờ trong con mắt của người dân.

Trong lịch sử của mình, người Ấn Độ liên tục bị các tộc người khác (người Aryen, Hung Nô, Hôi và Châu Âu) xâm chiếm và đô hộ. Do yếu tố tôn giáo và khí hậu, họ trở nên suy nhược và không có khả năng chống trả. Để giải thoát cho mình, họ phải đi tìm niềm vui và sự an ủi trong tôn giáo – nơi đó tâm hồn họ được giải phóng bất chấp thực tại là kẻ bị thống trị.

Khác với họ, chúng ta trẻ hơn rất nhiều và cũng nông cạn hơn nhiều trong cách nghĩ, hơn nữa chúng ta luôn lớn dậy mỗi khi có ngoại xâm và luôn giành chiến thắng. Điều này khiến cho lòng kiêu hãnh của chúng ta quá lớn – lớn đến nỗi nó lấn át tất cả các thứ khác mỗi khi chúng ta bị đe dọa. Khi đó, tính cách của một đứa trẻ bộc lộ rõ nét nhất trong từng cá thể của người Việt.

Lòng kiêu hãnh không cho phép chúng ta nhượng bộ hay thỏa hiệp. Bất kỳ ai đi ngược lại nguyên tắc này sẽ bị coi là “thỏa hiệp” “cải lương” hay “nhu nhược”. Đây có thể xem là một trong những nguyên nhân khiến dân tộc chúng ta nổi tiếng anh hùng trong chiến trận nhưng hay bị thất bại trong các bước ngoặt lịch sử.

Các bậc Tiền Bối đã là tâm khổ tứ để giúp dân tộc ta lớn dậy. Tuy không được như ước nguyện, nhưng ít nhiều ngày hôm nay chúng ta đã phổng phao hơn rất nhiều. Đây có thể là thời cơ để chúng ta vươn mình đứng dậy bằng các biện pháp đồng bộ về văn hóa, thể chế và giáo dục.

Bạn sẽ làm gì và làm khi nào để sau 4000 năm Quốc Tổ Lạc Long Quân không còn thắc mắc về sự chăm lớn của con cháu?

 

Tuấn Trần

Nhìn

Featured Image: Jill Ferry

 

“Ngày xưa rất xưa, khi mà con người còn rất đơn thuần, ở ngôi làng nọ có một chàng trai vô cùng tốt bụng, anh ta chăm chỉ làm việc và hay giúp người nên tiếng lành đồn xa, khi dành dụm được một số tiền, anh bắt đầu mở ra kinh doanh. Bởi bản tính tốt bụng mà anh được mọi người tin tưởng, công việc càng trở nên khấm khá, càng giàu có hơn thì anh càng giúp nhiều người hơn và rất được kính trọng.

Anh lập gia đình rồi có một con trai, bằng sự dư dã về vật chất nên người con được cho đi học cách kinh doanh ở thành thị. Rồi thời gian qua đi, vào cái ngày lìa đời anh đã gọi đứa con đến và bảo: ‘Cha tuy có rất nhiều tài sản nhưng thứ quý giá nhất cho con lúc này là một lời khuyên: hãy luôn giúp đỡ mọi người.’

Sau khi người cha chết thì đứa con đã thức thâu đêm để nghĩ về những lời ông nói. Bằng trí thông minh tuyệt vời và những gì được học, cậu đã khám phá ra rằng việc làm phúc bố thí sẽ kiến cho nhiều người tin tưởng. Với suy nghĩ đó, anh dùng số tiền mình có đầu tư vào việc làm từ thiện sao cho danh tiếng đạt được là lớn nhất, mang lại nguồn lợi nhiều nhất, và khi cảm thấy danh mình đã đủ, anh liền ngừng đầu tư vào việc đó.

Vì danh tiếng của anh và cha, có nhiều người đến nhờ vả nhưng đều họ nhận được là sự thờ ơ lạnh nhạt, họ kinh ngạc, họ tìm đến vị bô lão già nhất trong làng được cho là thông thái nhất để tìm lời giải đáp. Sau một hồi ngẫm nghĩ ông đã thốt lên rằng: ‘Thật đáng tiếc, chỉ vì những món lợi mà hình thức của lòng bác ái mang lại đã khiến đứa con của một người đạo đức trở nên sa đọa.’

Nhờ vào lời vị bô lão mà nhiều người nhận ra sự thật, nhưng trong số họ cũng có vài người thông minh, họ đã dùng cái bí quyết của người con để đến nơi khác làm ăn, và họ cũng rất thành công. Nhưng sau những thành công đó là sự phơi bày của sự thật. Con người trở nên nghi ngờ lẫn nhau để rồi cuối cùng không ai còn tin tưởng vào điều tốt nữa.” (Nguồn: Mắt Đời, hihi)

Ngày nay, khi bước chân vào các nhà sách, ta có thể tìm được hàng chục đến hàng trăm cuốn sách dạy người ta cách thành công trong mọi mặt của cuộc sống, đa số chúng đều dùng cái phương pháp mà người con trong câu chuyện đã dùng. “50 bí quyết để …” “99 điều cần tránh…” “bí quyết chinh phục tình yêu” “xyz việc cần làm để gia đình hạnh phúc”… Ở góc độ nào đó những quyển sách này rất lợi ích đối với ta, nhưng nếu quá dựa vào chúng, suy nghĩ theo chúng không sớm thì muộn ta sẽ trở nên thực dụng. với tôi một cuốn sách có giá trị khi nó bao hàm cả cái ý nghĩa phía sau những việc làm thực tiễn đó. Một thời tôi từng say mê chúng, nhưng sau đó tôi cảm thấy chán ngấy, tôi muốn đọc những điều sâu sắc hơn.

Bạn đã đọc câu chuyện về chàng Don Joan chưa? Anh ta quyến rũ các cô gái với cùng một công thức, những bó hoa đặt sẵn, những lá thư cùng một nội dung được chừa khoảng trống để chờ điền tên cô gái nào đó. những phương thức thông minh khiến tình nhân tự rời đi sau khi đã chán chê nàng. Hay những trường hợp kinh điển trong tình yêu, cô gái chọn chàng trai tặng chiếc Iphone chứ không chọn anh chàng tặng con gấu bông bằng cả tháng lương làm thêm của mình. Tôi không nói đến việc cô gái ham mê vật chất, tôi đang nói đến việc người ta thường đánh giá tình yêu qua giá trị của những món quà, những biểu hiện bề ngoài. Tất nhiên chưa chắc anh chàng nghèo khó yêu cô gái nhiều hơn anh kia. Nhưng để nhìn được đâu mới là tình yêu thật sự thì khó lắm thay.

Chính việc chuộng hình thức – xem nhẹ nội dung mà căn bệnh thành tích ở Việt Nam ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Báo cáo tài chính năm nào cũng lợi nhuận nhưng đùng một cái mắc nợ chục ngàn tỷ, số lượng giáo sư tiến sĩ hằng hà sa số nhưng được các tổ chức thế giới công nhận chất lượng thì chỉ từ 10 – 20%, nghèo như công nhân nhưng vẫn cố dành dụm để mua một chiếc di động hàng hiệu để được như mọi người, các vị COCC thì nay đổi xe này mai đổi xe kia để thể hiện mình là dân chơi thứ thiệt, trường học thì số học sinh giỏi năm sau cao hơn năm trước rồi cao đến nỗi nhìn đâu cũng toàn là học sinh giỏi cả, nói thật chứ nếu tính theo xếp loại trong học tập thì Việt Nam ta là dân tộc thông minh nhất thế giới.

Điểm số chính là thước đo năng lực của học sinh nhưng vì căn bệnh này là trở nên chẳng có giá trị gì mấy, nó giống như sự lạm phát của đồng tiền, để đạt được điểm số thì giáo viên dạy trước bài kiểm tra, học sinh bói bài, cấp trên đòi hỏi thành tích ở cấp dưới một cách ấu trĩ khiến người ta chỉ biết gian dối. Khi thước đo giá trị bị sai lệch thì ta lấy gì để đo đây? Có nhiều lúc tôi tự hỏi con người ta chạy theo những thành tích đó để làm gì? Để thể hiện mình? Để được khen ngợi? Để thấy mình giỏi? Nhưng thật ra tất cả họ đã sai rồi, người hiểu biết nhìn vào họ không khen đâu, họ đang cười đấy. Và cái cười đó còn đau gấp ngàn lần cái cười khi ta làm một việc kém cỏi. Vì giá trị một con người là ở nhận thức chứ không phải tri thức, tri thức là lượng còn nhận thức là chất.

Con người sống ở đời chỉ thật sự đi lên khi biết nhìn xa trông rộng, biết quý cái lợi ích lâu dài hơn cái trước mắt. Ví như bạn tôi, khi tiếp xúc khách hàng nó vẫn học và dùng các phương thức xã giao, nhưng mục tiêu của nó là biến họ thành những người bạn thân thật sự, có thể ban đầu chỉ là hình thức nhưng sau đó là sự quan tâm thật sự, cũng chính vì thế những công trình tốt luôn có phần nó. Hay trong tình yêu, các bí quyết chỉ nên mang tính tham khảo, cái cốt lõi vẫn là tình yêu, khi có tình yêu thì đừng nói là 99 cách hay 200 cách mà là hàng ngàn cách, trăm ngàn cách, triệu triệu cách để có được hạnh phúc. Nếu chúng ta chỉ học hình thức, chúng ta chỉ có hình thức đó, nếu chúng ta hiểu nội dung, chúng ta sẽ sáng tạo ra muôn vàn hình thức để phục vụ chính mình.

……

(Nói nhỏ một tí: thế tại sao nước ta đi trên con đường XHCN gần 40 năm mà vẫn còn chưa đến nơi? Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng trong đó có một nguyên nhân rất quan trọng, đó là vì cái chúng ta học được chỉ là hình thức, là lý thuyết, là suy luận của một nhà triết học người Đức – không phải người Việt. Khi ông ta chết đi thì cái triết thuyết đó cũng dừng lại, cái chúng ta dùng chỉ là sản phẩm (một sản phẩm cách đây hơn trăm năm), còn cái công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó thì không có.

Nếu nền triết học của ta như nước Đức thì ắt hẳn sẽ có người cải tiến và tiếp nối. bất cứ một tư tưởng nào cũng cần sự tiếp nối để phát triển, nếu không nó sẽ lỗi thời. Thật sự thì tôi cảm nhận được cái khó của các vị lãnh đạo, sự tiến thoái lưỡng nan, con đường nào mới là đúng?! Thường thì trong trường hợp này vài người sẽ chọn cách không làm gì cả và chờ. Nhưng thế giới có chờ chúng ta không?)

 

Mắt Đời

Bàn về “người bạn thân rất thân” của Việt Nam

Featured Image: Peter Collingridge

 

Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, từ quá khứ kéo dài đến hiện tại cho đến tương lai rất xa luôn phải đối mặt với một nguy cơ rất lớn. Nói đến đây chắc bạn biết được nguy cơ đó là gì và xuất phát từ đâu. Câu nói “tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng” cũng xuất phát từ chính nơi ấy, nhưng dường như nhiều lần ta đã quên đi ý nghĩa xương máu của bài học đó. Có người bảo dân tộc ta chỉ trở nên thông minh và mạnh mẽ khi phải đối mặt với những nguy cơ sống còn, tôi cũng thấy nhận định đó rất đúng. Nhưng bài này không nói về chúng ta mà nói về nơi tạo ra nguy cơ đó.

Có một điều đáng buồn là góp phần vào sự trưởng thành của tôi thì công lao của lịch sử Trung Quốc lại lớn hơn vô số lần mà lịch sử Việt Nam mang lại, trong Đông Chu Liệt Quốc tôi học được những bí quyết về quân sự cũng như chính trị, học được cách nhìn mặt mà đoán ý, học được lúc nào nên nói và lúc nào phải im lặng để khỏi mang họa sát thân, học được những nguyên nhân gây ra mất nước, học được các bài học về Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín…, với Xuân Thu Chiến Quốc, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Lã Thị Xuân Thu, Sử Ký Tư Mã Thiên, Hàn Phi Tử tôi học được thế nào được gọi là vị minh quân, thế nào là trí thế nào là dũng, học được cách lợi dụng bản tính con người để đạt mục đích của mình.

Suốt tuổi thơ tôi là sự say mê những bộ phim dài kể về Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang, Đường Minh Hoàng, Võ Tắc Thiên, Thái Bình Công Chúa, Mãn Thanh 13 Hoàng Triều, Thái Bình Thiên Quốc… cùng các phim nhỏ lẻ khác. Không kể sao cho hết những lợi ích mà chúng mang lại. Còn với Việt Nam? Tôi chỉ học được một điều duy nhất: “Chúng ta rất giỏi, đánh đâu thắng đó.” Tất cả những điều này cho thấy rằng chúng ta đang bị đồng hóa đến tận gốc rễ, biết là bị đồng hóa đấy nhưng không có cách nào phản kháng, đơn giản vì đó là những tinh hoa mà chúng ta phải học nếu muốn trưởng thành.

Khởi nguồn của TQ là vài trăm nước nhỏ lẻ san sát nhau, quần hùng cát cứ khắp nơi. Trải qua mấy trăm năm, bằng các cuộc chiến tranh, những nước nhỏ dần dần bị diệt để hình thành 7 nước lớn và cuối cùng thống nhất vào thời Tần Thủy Hoàng. Quá trình chiến tranh liên miên này sinh ra những bài học quân sự vô cùng quý giá mà ta thấy trong Binh Pháp Tôn Tử, thế bạn có biết nội dung cốt lõi của Binh Pháp Tôn tử là gì không? Nó chỉ có 4 chữ “Bất Chấp Thủ Đoạn”.

Trong hằng hà sa số cuộc chiến ta không hề thấy 2 chữ “đạo đức”, có một câu nói mà cho đến tận ngày nay vẫn còn được dùng: “Nhân từ với kẻ địch là tàn nhẫn với bản thân.” Tôi biết có vô số người nhận đồng với câu này mà trong đó có cả tôi và điều này thật đáng sợ. Bạn biết cuộc chiến Trường Bình thời Xuân Thu Chiến Quốc? Bạch Khởi đã tàn sát 40 vạn quân đầu hàng của nước Triệu, 400.000 người đấy. Không ít lần ta thấy rằng nếu một thành trì không đầu hàng quân địch thì có khả năng cả thành bị đồ sát, một họ nếu thua một họ khác trong việc tranh dành quyền lực sẽ bị giết sạch không chừa một mống, sự tàn ác là không thể nói hết.

Vì Trung Quốc hình thành bởi sự thôn tính các quốc gia nhỏ lẻ nên trong bản thân cũng sinh ra một thứ rất nguy hiểm, đó là Chủ Nghĩa Bành Trướng, cái chủ nghĩa này thì bất cứ quốc gia nào cũng có, nhưng riêng đối với Trung Quốc thì nó trở thành một sự khát khao mãnh liệt. Các quốc gia Châu Âu với sức mạnh quân sự, họ xâm chiếm các nước khác, họ biến các nước đó thành thuộc địa nhưng trong họ thiếu cái ham muốn biến nó thành chính mình.

Trung Quốc lại khác, muốn tiêu hóa hoàn toàn quốc gia chiếm được. Điều này chúng ta dễ dàng thấy được ở thói sành ăn trong văn hóa của dân tộc Trung Quốc, cái gì cũng có thể ăn, miễn thấy có lợi là ăn hết, vấn đề này bạn có thể tìm hiểu trên internet sẽ thấy. Tính ra mà nói thì trừ một số nước lớn, những nước nhỏ vẫn còn tồn tại bên cạnh Trung Quốc là rất đáng khâm phục.

Người ta thường nói Anh là một quốc gia thực dụng, tôi thì nghĩ cương vị đó nên để Trung Quốc đảm nhận. Đọc lịch sử Trung Quốc ta thấy nổi trội nhất là điều gì? Là tranh dành quyền lực, để đạt được quyền lực thì anh em có thể giết nhau, cha con giết nhau, vợ chồng giết nhau… việc này diễn ra từ gia tộc lên đến triều đình. Cái lợi là trên hết, họ nghĩ rằng có cái lợi sẽ có tất cả, mọi thứ từ con cái cho đến người thân đều có thể trở thành công cụ để đạt mục đích.

Cái tính duy lợi này hình thành do sự tất yếu của lịch sử, kẻ thất bại chỉ có con đường chết, không có ngoại lệ. Nỗi sợ bị sát hại ám ảnh dân tộc này nên đứng trước sức mạnh vượt qua họ thì họ trở nên vô cùng yếu đuối, nhưng khi họ có sức mạnh thì họ trở thành một con hổ dữ khôn ngoan chực chờ để vồ con mồi dại dột.

Có khi nào bạn tự hỏi, tại sao nền văn hóa đồ sộ ấy lại đi sau các nền văn hóa khác ở phương Tây? Nếu bài trước tôi nhìn Việt Nam là một cậu thiếu niên chưa trưởng thành thì bài này tôi nhìn Trung Quốc như một người trưởng thành chưa lớn. Vì sao đã trưởng thành nhưng không lớn? Vì trong nó mang những khuyết điểm khiến cho không thể tiếp tục đi xa hơn đến sự lão luyện. Đó chính là tính duy lợi và sự tàn ác, nước Anh thực dụng nhưng họ thực dụng ở những lợi ích rất xa và bền vững, còn Trung Quốc thì lại mê cái lợi ở trước mắt.

Để đạt được lợi ích lớn nhất trong hiện tại, họ sẵn sàng hủy diệt những gì cản trở dù những thứ đó có thể mang đến lợi ích lâu dài về sau. Đó là việc tàn sát kẻ địch không khoan nhượng, nhưng kẻ địch đó là ai? Là những trí thức ngay trong chính quốc gia mình. Lẽ ra với một nước lớn như Trung Quốc thì có thể nói nhân tài hằng hà sa số, nhưng kẻ thống trị giết hết để dễ bề điều khiển. Hãy nhìn sự kiện Thiên An Môn bạn sẽ thấy rõ nhất.

Vấn đề này khiến tôi nghĩ đến hai quốc gia, đó là Campuchia và Mỹ, Khơ Me đỏ đã tàn sát gần như toàn bộ trí thức trong nước, biến tất cả thành nông dân để Campuchia trở lại thời kỳ vàng son của một nước nông nghiệp. Khi trí thức bị giết sạch thì lấy gì nâng cao dân trí? Hậu quả dốt nát đó hàng trăm năm nữa cũng chưa chắc khắc phục được. Còn nước Mỹ thì sao? Sau cuộc nội chiến hầu như không hề có bắt bớ tù binh, nếu có thì là những kẻ vi phạm đạo đức chiến tranh hay những sự thù hận cá nhân, không hề có chính sách trả thù từ bên chiến thắng, chính vì vậy nước Mỹ vẫn giữ được nguồn nội lực của mình để phát triển đất nước.

Sự tàn ác một cách thiển cận khiến Trung Quốc chỉ sử dụng được một phần sức mạnh của mình, còn tính duy lợi hẹp hòi lại tạo ra sự ích kỷ. Biết bao tinh hoa của cả một nền văn hóa đồ sộ phải bị chôn vùi, cái gì cũng chỉ giữ cho riêng mình, biết bao bí quyết bị thất truyền. Y học cổ truyền Trung Quốc khiến cho cả thế giới phải khâm phục, nhưng nếu không có thói quen “dấu nghề” đó thì nó còn rực rỡ đến thế nào nữa? Tôi nghĩ sẽ gấp trăm lần lúc này. Chính sự ích kỷ đó thể hiện một tầm nhìn hạn hẹp ngăn cản bước tiến của dân tộc này và vì thế tuy rộng lớn, giàu có, tràn đầy nội lực nhưng nó cũng rơi vào sự trầm luân và làm mồi cho những dân tộc lão luyện hơn.

Còn Trung Quốc bây giờ? Có vài người tin rằng một ngày không xa sẽ trở thành quốc gia số 1 thế giới. Tôi không cho là như vậy, đơn giản vì con đường mà Trung Quốc đang đi mang trong đó những nhược điểm như tôi vừa phân tích. Bao giờ những nhược điểm đó còn tồn tại thì Trung Quốc vẫn còn phải đối mặt với những bất ổn của mình. Thống trị thế giới cần ở cái đầu chứ không phải chỉ bằng một cơ thể khỏe mạnh. Với cùng những điều kiện như nhau thì dân tộc nào có tầm nhìn xa hơn sẽ đi xa hơn, huống chi “người ta” đã có thiên thời – địa lợi – nhân hòa.

Vậy tương lai Việt Nam sẽ thế nào nếu lọt vào tay Trung Quốc? Chúng ta hãy thử tưởng tượng để thấy được sự kinh hoàng đó

Lưu ý: Bài này chỉ viết về những tính cách ảnh hưởng trực tiếp đến những nguy cơ đối với Việt Nam chứ không phải cái nhìn toàn vẹn về tính cách và văn hóa của dân tộc Trung Quốc. Văn hóa Việt Nam bị sự ảnh hưởng từ văn hóa Trung Quốc nên nếu chỉ hiểu theo những chiều hướng trong bài thì khác nào ta tự vỗ mặt mình. Với những nét đẹp trong văn hóa và tính cách của Trung Quốc thì có lẽ nói 3 ngày 3 đêm vẫn không hết, nhưng đó không phải là mục đích của bài viết nên không được đề cập.

Rất mong mọi người vào thảo luận để tôi học hỏi thêm (có ném đá mong ném nhẹ tay tí).

Mắt Đời

Không muốn khác biệt

 

Cách đây không lâu, một ngày nọ tôi đứng hút thuốc và uống cà phê giải lao trước toà nhà nơi tôi làm việc, một ông cụ chừng 75, 78 tuổi đậu xe và sơ ý cạ vào một xe khác. Đây là chuyện rất bình thường đối với người lái xe, đặc biệt là người già.

Tôi thấy ông cụ loay hoay trong xe một đỗi rồi mới bước ra ngoài. Ông đứng nhìn vết xước trên chiếc xe mà ông lỡ gây ra và tắc lưỡi. Nhìn dáng ông, tôi biết ông là một người bị tàn tật nhưng không hiểu sao ông không để thẻ “tàn tật” ở trước kiếng xe. Ông lại lò dò bước vào xe và tìm kiếm cái gì đó. Sau đó ông bước ra và dùng một cái digital camera khá cũ kỹ chụp chiếc xe và vết xước. Tần ngần một chốc, ông tiến lại phía tôi và hỏi tôi có cây viết và mảnh giấy không, cho ông mượn. Tôi nói ông đợi 1 phút để tôi chạy lên văn phòng lấy cho ông.

Đưa ông tờ giấy và cây viết, ông cảm ơn và nói là ông muốn viết vài dòng, gắn lên kiếng xe của khổ chủ kia để họ liên lạc với ông sau vì ông không thể đứng đó chờ khổ chủ ra xe để trình bày chuyện gì xảy ra. Ông hí hoáy viết mấy dòng rồi trao cây viết lại cho tôi và cảm ơn.

Tôi tò mò hỏi ông: “Sao cụ không đậu ở đường song song với đường này, bên đó có mấy chỗ dành cho người tàn tật. Cháu nghĩ cụ là người tàn tật, phải không ạ?”

Ông nhìn tôi cười một cách hiền hậu và trả lời: “Quả vậy, tôi tàn tật nhưng tôi ghét mọi người đối xử tôi như một người tàn tật.”

Tôi ngạc nhiên, hỏi tới: “Sao vậy cụ?”

Ông đáp: “Tôi thấy người tàn tật có quá nhiều quy chế. Đậu xe cũng có chỗ cho người tàn tật, đi thang máy cũng vậy, thậm chí đi cầu tiêu cũng có chỗ dành riêng cho người tàn tật. Nhiều quá, e biến thành phân biệt nặng nề giữa người tàn tật và người bình thường.”

Tôi nghĩ trong đầu, “ông cụ này khác lạ đây” và nói: “Cháu không nghĩ họ phân biệt đâu cụ ạ. Họ chỉ dành những phương tiện giúp cho người tàn tật cảm thấy tiện nghi và dễ dàng thôi đó mà.”

Ông đáp: “Tôi cũng biết vậy nhưng nhiều quá tự dưng tôi cảm thấy khó chịu.”

Biết ông cụ đã “dính chặt” suy nghĩ như vậy, tôi không phiền ông thêm và đáp: “Vâng, thưa cụ. Chúc cụ bình yên.”

Ông cảm ơn, gật đầu chào và bước đi.

Tôi lên văn phòng tiếp tục làm việc.

Chiều hôm ấy, hai chiếc xe, xe ông cụ và xe bị trầy đều không còn ở đó. Tôi không biết sự thể ra sao sau đó. Có lẽ bảo hiểm sẽ giải quyết cho đôi bên.

Điều làm tôi suy nghĩ là đôi khi có những thứ quá bình thường, mình không để ý tới và nhìn lại thì quả là… khác thường. Quả thật, ngay ở Sydney này, không có bãi đậu xe nào không có chỗ dành riêng cho người tàn tật, không có con đường nào cho phép đậu xe mà không có dăm ba chỗ đậu riêng của người tàn tật. Bất cứ nơi công cộng nào cũng có những tiện nghi riêng dành cho người công cộng, tàu lửa, máy bay, xe bus, thang máy, lối đi, nhà hát, trung tâm mua sắm…v.v.. thậm chí những toà nhà tư nhân cũng không hề thiếu những phương tiện cho người tàn tật.

Có những nơi, có những con người bị mất mác được bù đắp nhiều đến độ họ sợ hãi. Có những nơi, có những con người cũng bị mất mác, đôi khi gấp vạn lần, không hề được bù đắp đến độ họ thấy bình thường.

 

Hoàng Ngọc Diêu