12.4 C
Da Lat
Thứ Hai, 29 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 165

Bạn không nhất thiết phải đi du học đại học

Featured Image: Khánh Hmoong

 

Đã có khá nhiều bài viết về du học và các vấn đề liên quan trên Triết Học Đường Phố. Có lẽ nhiều bạn cũng sẽ quan tâm tới chủ đề: liệu chúng ta có nên đi du học hay không? Vì thế hôm nay mình muốn chia sẻ cách nhìn và quan điểm của mình. Để trả lời câu hỏi trên, việc đầu tiên chúng ta phải kể đến lợi ích của việc đi du học. Vậy đi du học có những lợi ích gì?

Môi trường học tập tốt hơn

Nếu nói về điều kiện học tập, có lẽ bạn sẽ nhận được rất nhiều lợi ích từ việc đi du học: thầy cô có chuyên môn tốt hơn, thư viện tốt hơn, bạn bè chăm chỉ học tập hơn, kỷ luật cao hơn. Hơn thế nữa, kiến thức bạn nhận được trong lớp học cũng thực tiễn hơn và có tính ứng dụng cao hơn.

Tính tự lập cao hơn

Khi bạn tách biệt với gia đình và sự yêu thương của bố mẹ, bạn phải tự thân vận động làm mọi thứ. Không có ai rảnh ngồi nấu cơm cho bạn ngày qua ngày như ba mẹ bạn đã làm. Bạn phải tự quyết định hôm nay làm món gì, lúc nào thì phải đi giặt quần áo, khi nào thì phải dọn phòng…

Có nhiều việc bạn sẽ không thể hiểu ý nghĩa của nó cho đến khi bạn phải tự làm và vấp ngã. Bạn không thể hiểu tầm quan trọng của việc học nấu ăn cho đến khi ngày nào bạn cũng ăn mì tôm, không thể hiểu tại sao phải chuẩn bị áo ấm khi trời lạnh – trước đây bạn hay phụng phịu khi bố mẹ bạn bắt bạn mặc nhiều đồ khi đi học.

Hiểu biết về sự khác biệt giữa các nền văn hóa

Có những điều bạn thấy đúng nhưng họ thì không. Bạn cảm thấy việc đến muộn trong một cuộc họp là bình thường nhưng đối với họ, đó là việc thiếu tôn trọng, bởi bạn đang làm lãng phí thời gian quý báu họ bỏ ra. Bạn không thích nhìn vào mắt người khác quá lâu, bởi nó làm bạn cảm thấy khó chịu, nhưng đối với họ, bạn đang lẩn tránh điều gì đó hoặc không hứng thú với câu chuyện họ đang kể…

Một cuộc sống hoàn toàn khác

Ở một vùng đất có ngôn ngữ khác, khung cảnh khác. Có nhiều điều mới mẻ và bạn có thể cảm nhận được những trải nghiệm trước đây bạn chưa từng có. Du học tạo lợi thế ngôn ngữ khi bạn được tiếp xúc nghe nói hằng ngày, và dễ dàng sử dụng khi quay về nước hơn.

Vân vân và vân vân. Có rất nhiều điều khác nữa, nhưng mình chủ yếu liệt kê những ý mình cho là quan trọng.

Lợi ích quan trọng nhất: môi trường. Nhưng điều gì là hữu ích nhất cho du học sinh?

Theo mình, đó chính là môi trường học tập. Bạn đã bao giờ nghe câu: “Con người được hình thành bởi môi trường sống xung quanh.” Hay những câu tương tự như: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Ở một đất nước mà quay cóp đã trở thành lệ thông thường, chỉ có một thằng “ngu” mới ngồi nhà học bài cẩn thận cho tất cả các môn. Khi ngủ gật trên lớp là phổ biến, chỉ có thằng “dở người” mới ngẩng mặt lên chăm chú nghe giảng.

Ngược lại, khi cả lớp đang chăm chú nghe giảng, liệu bạn có dám gục mặt xuống bàn và ngủ?! Khi tất cả những người bạn của bạn đang cố gắng học tập, thâu đêm suốt sáng học bài, liệu bạn có khả năng mở mồm rủ họ đi uống rượu. Họ sẽ đánh giá bạn và nhìn bạn với một ánh mắt khác. Nhiều khi, điều đúng đắn không phải là điều nên làm mà là điều số đông đang làm. Môi trường sẽ rèn giũa bạn, giúp bạn thay đổi theo hướng tích cực một cách dễ dàng hơn.

Còn những điều khác chỉ là yếu tố phụ

Thầy cô có chuyên môn tốt hơn, nhưng hãy nhớ, thầy cô chỉ là người giúp việc hấp thụ kiến thức một cách dễ dàng hơn. Nhiều điều thầy cô nói đều được ghi lại trong cuốn sách giáo khoa. Nếu bạn có khả năng tự học, bạn hoàn toàn có thể lấy thông tin mà không cần đến giáo viên. Hơn thế nữa, nhiều khi bạn sẽ cảm thấy mình chẳng học được hơn gì từ giáo viên cả, bởi đại học nước ngoài khuyến khích tư duy tự học, giáo viên chỉ là người giải đáp khúc mắc khi cần.

Bạn hoàn toàn có khả năng tự lập đơn giản bằng việc tách biệt với gia đình. Chuyển từ quê lên thành thị học tập hay thuê một căn nhà nhỏ và thử tự sống một mình

Giữa người với người trong cùng một quốc gia cũng có sự khác biệt về văn hóa. Đã bao giờ bạn nghe đến 12 cung hoàng đạo, đó là một tiêu chí để đánh giá sự khác biệt về văn hóa giữa các cung khác nhau. Sự khác biệt này sẽ khó nhận biết hơn là sự khác biệt văn hóa giữa các quốc gia, nhưng nếu bạn muốn tìm hiểu, bạn sẽ hiểu sự khác biệt này thôi.

Còn về khung cảnh sống và ngôn ngữ? Bạn đã đi hết 64 tỉnh thành trong cả nước. Nếu bạn đang ở thành thị, hãy xuống nông thôn hay lên miền núi, sự khác biệt về cảnh vật và con người là rất rõ ràng. Còn ở khía cạnh ngôn ngữ, không phải tự nhiên mà những người đi du học có khả năng ngôn ngữ tốt hơn. Điều kiện cần của môi trường buộc họ phải cố gắng hơn trong việc học ngôn ngữ. Nếu bạn muốn thành thạo ngôn ngữ mới, bạn không nhất thiết phải đi du học. Nhiều bạn còn đưa ra lời khuyên rằng: hãy thành thạo ngôn ngữ trước khi du học chứ không phải đi du học để thành thạo ngôn ngữ.

Làm thế nào để vượt qua khó khăn về môi trường trong nước?

Như mình vừa đề cập, khó khăn lớn nhất có lẽ là môi trường học tập trong nước. Bởi vì môi trường điều khiển hành vi, cách nghĩ và cách sống. Vậy làm thế nào để có thể vượt qua khó khăn đó?

Khi tồn tại sự không hòa hợp giữa bạn và môi trường xung quanh, theo mình có 4 khả năng xảy ra:

  1. Bạn bị thay đổi – diễn ra phổ biến nhất.
  2. Bạn thay đổi môi trường – điều này cực cực khó, nhiều khi thay đổi chính mình còn khó, nói gì đến thay đổi mọi người xung quanh.
  3. Bạn tách biệt bản thân với môi trường – bạn chấp nhận sự cô đơn, sự khác biệt, hạn chế giao tiếp. Việc này tương đối dễ dàng với những người hướng nội, nhưng đối với những người hướng ngoại, đó như một sự tra tấn tinh thần
  4. Bạn chọn một môi trường khác – du học hay cố gắng tìm kiếm những người có cùng lý tưởng để cảm thấy mình bớt cô đơn và lẻ loi. Hãy nhớ rằng, bạn luôn có sự lựa chọn dù sự lựa chọn đó không phải là tối ưu.

Lợi ích của việc học tập trong nước

Nếu bạn có khả năng du học, đó ắt hẳn là một điều tốt. Nhưng nếu không, đừng lãng phí thời gian than thở hay đau buồn suy nghĩ. Điều bạn cần làm là tạo cho mình một môi trường học tập tốt và cố gắng nhiều hơn nữa. Hơn thế nữa, hãy nhớ rằng không đi du học cũng có những lợi thế không thể phủ nhận. Nếu như chịu khó lao động và học hỏi, bạn sẽ có những hiểu biết nhất định về xã hội và con người ở Việt Nam. Sự am hiểu văn hóa người Việt sẽ giúp bạn tiến xa trên con đường sự nghiệp. Sự tiếp xúc với văn hóa bên ngoài của du học sinh có thể khiến họ trở nên lạc lõng khi quay trở về đất nước và dễ mắc phải những sai lầm trong giao tiếp không đáng có.

Hơn nữa, học tập và làm việc ở Việt Nam tạo cho bạn mạng lưới quan hệ rộng khắp. Dưới văn hóa lòng tin dựa trên sự quen biết, các mối quan hệ sẽ giúp bạn dễ dàng tiến bước hơn. Hãy tận dụng tốt những lợi thế mình có và vượt qua những bất lợi như môi trường cũng như điều kiện học tập nếu như bạn không có khả năng du học. Du học được thì tốt nhưng nếu không được thì nó cũng không phải là một vấn đề quá lớn, điều duy nhất bạn cần là sự quyết tâm và kiên định.

P/s: Nếu bạn đã quyết định hay có khả năng du học, vậy liệu bạn có nên về Việt Nam sau khi học xong? Đây là câu hỏi mình sẽ giải đáp ở bài sau (đương nhiên là theo quan điểm của mình).

 

Nguyễn Đình Tùng

Hãy cứ tin đi, cuộc sống luôn có phép nhiệm màu!

Featured image: Cristalissed

 

“Giữa vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp.” Điều này khiến bạn nghĩ gì? Một thiên nhiên sinh tồn khắc nghiệt, một loài cây mạnh mẽ, kiên cường hay một sức sống khiến người ta phải thốt lên rằng “thật kỳ diệu”. Cuộc sống là thế, muôn màu muôn vẻ, muôn hình vạn trạng, hạnh phúc xen lẫn khổ đau. Và con người luôn trong tư thế sẵn sàng trên hành trình khám phá cuộc sống. Như Paustovsky đã nhận định: “Dù người ta có nói với bạn điều gì đi nữa, hãy luôn tin rằng cuộc sống là điều kỳ diệu và đẹp đẽ.”

Cuộc sống được tạo nên từ những mảng màu sáng tối hòa trộn với nhau. Nó không chỉ là nụ cười mà còn là nước mắt. Nhưng dù ai có nói với bạn điều gì, đó là những sóng gió, khổ đau, những nghịch cảnh hay nghịch lý trong cuộc đời, thì bạn đừng bi quan, hãy luôn tin rằng: cuộc sống còn có biết bao điều tốt đẹp, bao điều kỳ diệu đang chờ bạn khám phá. Niềm tin là sự kỳ vọng, đặt hy vọng của mình vào cuộc sống, vào con người bất kể các điều kiện, các tác nhân không tích cực bên ngoài. Một niềm tin tưởng đúng đắn là niềm tin đặt vào những gì tốt đẹp và có cơ sở.

Nó có thể là sự tin tưởng về những điều lớn lao và vĩ đại, sự tin tưởng về những việc nhỏ bé, thường ngày hay sự tin tưởng vào những điều kỳ diệu trong cuộc sống. Sự diệu kỳ trong cuộc sống có rất nhiều cách hiểu, cách cảm nhận tùy thuộc vào mỗi người. Người ta thường cho rằng, những ước mơ, những khát khao, những điều mong muốn tưởng chừng như không xảy ra trong cuộc sống là những điều đẹp đẽ và kỳ diệu. Thế nhưng, đôi khi điều kỳ diệu vẫn luôn tồn tại xung quanh chúng ta một cách bình dị và đơn giản nhất, Nhận định trên chính là tư tưởng được trích trong câu nói của nhạc sĩ E-đua Gri-giơ tặng cô bé Đanhi trong truyện ngắn Lẵng quả thông của Paustovsky. Đó cũng là món quà mà Paustovsky muốn gửi đến con người, giúp con người có thêm niềm tin vào cuộc sống, niềm tin vào sức mạnh kỳ diệu của cuộc sống dù không phải lúc nào nó cũng tươi đẹp.

Càng lớn lên tôi càng thấm thía rằng, hóa ra cuộc sống không chỉ có màu hồng như mình tưởng. Cuộc sống ngoài kia vẫn luôn có những nỗi buồn qua nhiều thế hệ do chiến tranh, do thiên tai, do bệnh tật,… gây nên. Và cuộc sống của những người xung quanh hay chính bản thân tôi cũng không hề đơn giản và bình lặng. Tôi chưa trải qua nhiều chông gai của cuộc đời nhưng phần nào đó, tôi đã cảm nhận được nỗi vất vả, trăn trở của ba mẹ để kiếm tiền nuôi bốn chị em tôi ăn học giữa cuộc sống ngày một khó khăn này, hay chính nỗi lo sợ của tôi trước việc chọn trường, chọn nghề dựa vào thực lực…

Nhiều khi, nhìn vào những mảng tối trong cuộc sống, tôi thấy buồn và chán nản thậm chí là mất niềm tin vào cuộc sống. Thế nhưng, có lẽ do quá chăm chú vào vết mức mà tôi quên rằng trên tờ giấy vẫn còn rất nhiều khoảng trắng. Nó cũng giống như việc chỉ biết nhìn vào những nỗi đau mà quên mất được sống là điều đẹp đẽ và kỳ diệu. Ngay từ khi là một bào thai lớn dần trong bụng mẹ, ta đã là một diệu kỳ của tạo hóa. Trong từng bước đường đời, có vô vàn điều kỳ diệu vẫn xảy đến xung quanh ta nhưng nó luôn tồn tại một cách lặng lẽ và cần thiết như không khí khiến ta dường như không nghĩ tới và hầu như quên mất.

Nhà văn Mỹ Helen Keller từng tâm sự: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày.” Bên cạnh những nỗi đau con người phải gánh chịu, người ta vẫn có thể nhận ra những điểm tích cực của nó bằng một tâm hồn lạc quan, biết tin tưởng vào những gì đẹp đẽ của cuộc sống. Có niềm tin cuộc sống, dù chỉ một chút thôi, ta có thể nhận ra rằng, chính nhờ một tuổi thơ không bình lặng, ta trở nên cứng cáp và bản lĩnh hơn, chính nhờ lần ta bị ốm và phải nằm viện, ta làm quen được với một người bạn bị bệnh tim bẩm sinh nhưng luôn có những ước mơ đẹp đến nhường nào, đặt niềm tin vào những gì tốt đẹp, con người sẽ vượt lên hoàn cảnh của bản thân, có nghị lực để thay đổi hay sống cuộc đời hạnh phúc mà ta mong muốn.

Có lẽ không ai ngờ một người bị điếc như Beethoven lại có thể sáng tác nên những bản nhạc tuyệt mĩ lưu danh muôn đời, một người có thể vượt qua căn bệnh ung thư để chiến thắng những vòng đua nước Pháp như Lance Armstrong, một Andersen từng phải đi quét dọn và đóng những vai kịch tầm thường lại trở thành ông hoàng của truyện cổ tích… Một khi đã có thể tin rằng, cuộc sống này tươi đẹp, bạn sẽ dành nhiều thời gian hơn để quan tâm, chia sẻ với người khác. Bạn sẽ nhận ra rằng, hóa ra đứa bạn ngồi bàn trên luôn nói cười vui vẻ vẫn luôn phải vất vả đi làm thêm mỗi tối để trợ giúp gia đình. Bạn sẽ nhận ra rằng trước nay chỉ có bạn lãng tránh mọi người, còn mọi người vẫn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi bạn cần hay những lúc bạn gặp khó khăn và cần họ bên cạnh. Phải chăng đó cũng là những điều rất nhỏ nhoi, rất ý nghĩa mà với cách nhìn cuộc sống trước kia bạn chưa hề nghĩ tới.

Cuộc sống của con người trước nay vẫn thế, đối diện với muôn mặt đối lập khác nhau. Nhưng nhờ những mặt khác nhau ấy, ta mới nhận ra cuộc sống đáng quý biết nhường nào. Cùng một vấn đề nhưng với điểm nhìn và cách giải quyết khác nhau thì sẽ tạo ra hệ quả khác nhau. Có thể cùng bị hỏng xe khi gần đến trường nhưng một người sẽ bực bội cả ngày hôm đó còn người kia vẫn vui vẻ vì nghĩ rằng, thật may khi nó không hỏng lúc rời nhà một đoạn. Thực ra, trước một trường hợp xấu xảy ra trong cuộc sống, theo bản năng con người sẽ buồn phiền, chán nản, thất vọng hay bực tức nhưng nếu bình tĩnh lại, ta có thể thấy những mặt tích cực của nó.

Để có thể gạt bỏ những gì người ta nói và có niềm tin vào cuộc sống kỳ diệu này, điều quan trọng hơn cả là cần tư duy và nhìn nhận sự việc theo hướng tích cực. Đôi khi cũng cần thoát ly sách vở, lý thuyết để tự mình cảm nhận cuộc sống đẹp đẽ đến nhường nào. Có lẽ khi đó, chỉ cần thấy tán bàng trước sân nhà dường như sau một đêm đã thay màu lá, cái mầm non ươm trồng ngày nào giờ đã trở thành cây xanh tỏa bóng mát, từng đàn chim én đã bay trở về khi mùa xuân ấm áp… Đó là lúc con người đã thấy được: “Cuộc sống thật diệu kỳ và đẹp đẽ.”

Nhưng cũng thật lạ, xã hội bây giờ điều kiện tốt hơn rất nhiều so với trước đây song số lượng người mắc bệnh trầm cảm và tự kỷ lại tăng lên rất lớn. Thay vì việc hy sinh tất cả để có quyền được sống, được tự do như trước kia thì không ít người đã, đang chìm đắm vào bi quan thái quá và tìm đến cái chết với nhiều hình thức. Phải chăng, đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường khi con người ta chỉ lao đầu vào công việc mà quên dừng lại để dành một chút thời gian cảm nhận và tận hưởng những vẻ đẹp kỳ diệu từ cuộc sống. Nghệ sĩ áp lực vì công việc, thanh niên vì người yêu từ chối, học sinh vì bị không đạt được kết quả như mong ước hay con cái vì bị ba mẹ mắng chửi mà quyết định tự kết thúc cuộc đời mình,…

Giờ phút họ quyết định làm những việc như vậy, có lẽ họ đã quên mất rằng ở nhà vẫn có người chờ mong họ cùng ăn cơm và nghe họ kể về một ngày đầy trải nghiệm, vẫn có người vì một lời động viên của họ mà đang cố gắng thay đổi bản thân tốt lên, vẫn có một bờ vai sẵn sàng làm chỗ dựa khi họ mệt mỏi… Bên cạnh đó, cũng lại có những người đặt niềm tin vào cuộc sống một cách ngây thơ như truyện cổ tích.

Họ mong muốn sẽ đi du học, tìm hiểu và khám phá những vùng đất khác nhau trên thế giới mặc dù ngày hôm nay chẳng chịu bỏ ra 15 phút để luyện ngoại ngữ. Họ bàng quan với cuộc sống của tất thảy mọi người xung quanh mà vẫn đinh ninh rằng, khi mình gặp khó khăn không ít người sẽ giơ tay ra giúp đỡ. Thật tình cuộc sống này đều có nhân quả cả! Truyện cổ tích cũng vậy, Lọ Lem, Bạch Tuyết, Nàng công chúa ngủ trong rừng,… đều gặp được những bà Tiên tốt bụng hay vua cha, chàng hoàng tử vì họ là những cô gái xinh đẹp, tốt bụng, chăm chỉ, luôn sống hết mình vì một cuộc sống tốt đẹp.

Người nghệ sĩ Eđua Gri-gơ đã nhận ra những khoảnh khắc kỳ diệu trong cuộc sống khi gặp cô bé Đanhi 4 tuổi và quyết tâm viết một bản nhạc tặng cô bé sau mười năm, cô bé ấy cũng đã xúc động biết bao khi đã nhận nó vào năm 18 tuổi. Paustovsky không tặng riêng ai món quà kỳ diệu của cuộc sống. Nhưng ông khiến nhiều người nhận ra sự tồn tại của nó và biết đặt niềm tin vào nó. Đó thực sự là một điều đáng quý, đáng trọng.Những gì xuất phát từ rung cảm của trái tim và trải nghiệm của cuộc sống là những gì bền vững nhất.

Đối với tôi, gặp được gặp được câu nói này của Paustovsky cũng là một điều kỳ diệu. Có lẽ, nó không cho tôi cuộc sống đẹp hơn nhưng tôi sẽ có ý chí để sống tốt hơn. Tôi sẽ thôi buồn vì tuổi thơ tôi không đẹp như mấy đứa bạn tôi kể, sẽ không oán trách cuộc đời vì sinh ra không may mắn đươc giàu sang như chị họ của mình, sẽ không khóc vì một ngày trôi qua chẳng lấy gì làm suôn sẻ,…

Đôi khi, trong một hoàn cảnh không thuận lợi, sức sống của con người sẽ bền bỉ và mãnh liệt hơn. Chính tôi đây, nếu biến cố ngày ấy không xảy ra với tôi, thì giờ đây tôi đã không có gì để viết, để chia sẻ với các bạn. Tất cả những thử thách và khó khăn trong đời đều có thể trở thành điều kỳ diệu nếu chúng ta biết nhìn nhận một cách lạc quan và coi nó như là một nấc thang để nâng ta bước cao hơn.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà Cantauzene nói rằng: “Hãy can đảm mà sống vì ai cũng phải chết một lần. Đừng đi qua thời gian mà không để lại dấu vết. Chúng ta hãy cố gắng để chỉ chết một lần thôi.” Được sinh ra trên cuộc đời này đã là một điều kỳ diệu, vì thế đừng sống đơn giản chỉ là tồn tại. Hãy sống để cảm nhận sự đẹp đẽ và kỳ diệu của cuộc đời để “khỏi thấy xót xa, tiếc nuối cho những ngày sống hoài, sống phí.”

 

Hana Nguyen

Nếu bạn muốn, thì hãy làm!

Featured Image: Cameron Gadner

 

Nếu bạn muốn làm một điều gì đó
Chẳng hạn như muốn viết một bài thơ
Và nếu bạn muốn theo đuổi một ước mơ
Đừng ngại ngần, hãy làm đi, bạn nhé!

Vì chúng ta chẳng có gì ngoài một tuổi trẻ
Tuổi trẻ qua đi, không trở lại bao giờ
Đừng để sau này ngồi nhớ lại ngày xưa
Mà ta thấy xót xa, rồi nuối tiếc…

Tuổi trẻ của ta có gì đây ngoài những nhiệt huyết?
Những trải nghiệm chẳng mua được bằng tiền
Cho dù phải đối mặt với biết bao những nỗi buồn
Thì những nụ cười vẫn ở đằng sau cuối…

Rồi sau này ta sẽ tiếc nuối
Nhưng là tiếc cho những gì ta đã chẳng dám làm!
Tuổi trẻ ơi, xin ta đừng hoang mang
Hãy đứng dậy, và làm đi, bạn nhé!

 

Một Đời Quét Rác

Du học, “Về đi, đừng ở!”

 Hannover nơi tôi sống.
Ảnh: Duwcs Baor – Một người bạn của tác giả

 

Tôi, 21 tuổi, là một du học sinh tại Đức. Lớn lên trong một gia đình cơ bản, cha mẹ làm trong ngành giáo dục Việt Nam, nhưng cả hai người đều đã định hướng cho tôi việc đi du học từ ngày tôi mới bước vào cấp ba. Cho dù tôi học không kém và cũng đã đáp ứng nguyện vọng của cha mẹ: vào một ngôi trường cấp ba có tiếng, thế nhưng tư tưởng “ra nước ngoài để mở mang tri thức” đã ăn sâu vào tiềm thức từ đời cha tôi.

Ông đi du học từ thuở sinh viên, sang Nga học Đại Học rồi lại sang Mỹ học lên cao, trở về tiếp tục làm trong ngành giáo dục. Sau từng ấy năm cống hiến, cha tôi chỉ nói với tôi rằng: “Học ở nhà chẳng nên cơm cháo gì đâu. Con hãy đi đi. Ngày con trở về, nếu hiểu được điều ba nói, chỉ cần bắt tay cảm ơn ba như hai người đàn ông là đủ rồi.”

Ba tôi có sức ảnh hưởng lớn trong cả cuộc đời tôi. Ông là thần tượng. Thế nên tôi đi. Ngày xách ba lô lên máy bay, tôi hứa sẽ có ngày ca khúc khải hoàn trở về. Ngày ấy, với bao khát khao và hoài bão của tuổi trẻ, tôi ngây thơ nghĩ rằng sẽ chẳng sao cả, “vì cuộc đời là những chuyến đi”, rằng tôi mạnh mẽ đủ để chống đỡ mọi vấn đề đã và sẽ hiện hữu trước mắt.

Không. Tôi nhầm. Tôi khóc ngay đêm đầu tiên đặt chân tới Hannover, một thành phố không nhỏ cũng không lớn ở miền Tây Bắc nước Đức. Lý do? Tôi bị lạc đường. Những bước chạy mỏi mệt giữa đêm đông vắng lặng ấy lại là những bước chân đầu tiên của tôi trên xứ người. Và tôi không bao giờ quên.

Ba năm trôi qua, tôi đã trưởng thành lên nhiều: cứng cáp hơn, hiểu biết hơn, quen biết những người anh lớn tuổi, có những người bạn vong niên. Nhưng có một câu hỏi vẫn cứ sẽ làm tôi đau đầu, bạn biết đấy, cái câu hỏi mà hẳn nếu bạn là du học sinh, bạn sẽ thường xuyên được hỏi mỗi khi có dịp trở về thăm mảnh đất quê hương: “Về hay ở?”

Như bao thanh niên thời đại khác, cái gì không biết, tôi Google. Và tôi tìm được bài viết này trên Triết Học Đường Phố. Lẽ thường, sau khi đọc, tôi nên tiếp tục hoang mang. Một bên là đất nước, là quốc tịch tôi vẫn hay điền vào tờ đơn gia hạn visa, là nơi tôi thuộc về, là cha, là mẹ mà cũng là chiến trường tương lai của cuộc đời. Một bên là lý do để trở về chưa ai tìm thấy, là sự bất công đã được nói lên trong bài viết, là bản năng cầu toàn của mọi cá thể con người, là cái giá tốt được trả sau nhiều năm khổ sở đèn sách và những giọt nước mắt nhớ nhà tuyệt vọng. Tôi nên hoang mang tiếp.

Không. Nhầm. Tôi sẽ trở về. Tôi phải trở về. Lý do cá nhân tôi đưa ra là tôi, một cách tiêu cực, chẳng bao giờ thích chạy theo xu hướng đám đông. Nhưng để thuyết phục người khác, tôi cần nhiều hơn cái lý do chẳng giống ai đấy.

Ở lại có chắc cuộc sống sẽ tốt hơn?

Tôi đang không nói về mặt vật chất. Đức, nền kinh tế lớn mạnh bậc nhất lục địa già, có cơ chế an sinh xã hội bậc nhất thế giới. Vậy nếu đặt lên bàn cân, tại sao tôi phải trở về? Bạn bè tôi, có người học những ngành học như công nghệ na-nô, lắp ráp máy bay, công nghệ môi trường, họ hỏi tôi rằng họ sẽ kiếm việc thế nào được ở Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này, hãy đọc mục sau.

Tôi là sinh viên, chỉ đi làm thêm chạy bàn, thi thoảng thì được vào các cửa hàng châu Á tại đây để dọn dẹp, bê vác gạo. Chỉ vậy thôi cũng làm tôi đủ sống đủ tiêu, vậy ra trường đi làm những công việc với mức lương cơ bản cũng đã sướng lắm rồi. Tôi còn đòi hỏi gì nữa.

Không, không. Tôi đang nói về ý nghĩa của đời người. Nghe có vẻ to tát đấy, nhưng lại rất đời người. Ý tôi là, ở lại, sung sướng, kiếm thật nhiều tiền, và rồi “khi đã có kinh tế, muốn làm gì cho quên hương mà chẳng được” như một ví dụ ở bài viết trên, điều đó có thực sự đúng? Khoan nói về việc các bạn có thực sự thành công trong việc tìm một việc làm đúng nguyện vọng ở nơi có sức cạnh tranh còn dữ dội hơn cả Việt Nam hay không, mà kể cả có được đi chăng nữa, “cống hiến cho quê hương” bằng cách đấy, liệu có phải là cách duy nhất và tốt nhất hay không? Và rồi liệu rằng sau nhiều năm ổn định kinh tế cho bản thân, bạn có còn là người con của dân tộc Việt, có còn hướng về quê hương?

Tôi không dám trả lời những điều trên, chỉ đưa ra một câu hỏi cho các bạn để chúng ta cùng suy ngẫm. Câu trả lời là của riêng mỗi người, nhưng nó sẽ chỉ được gọi là câu trả lời nếu bạn thực sự ngồi xuống và cân nhắc cho thật cẩn thận. Chỉ nên nhớ rằng, giá trị của mỗi người con dân tộc Việt vẫn luôn nằm đó, khát khao vươn lên từ bùn đất, và tỏa sáng rực rỡ như những ngôi sao vàng.

Đừng đổ lỗi cho đất nước

Về câu chuyện của sinh viên và các ngành học “lạ”. Lý do đưa ra luôn là “ở Việt Nam không có ngành này” hoặc “ở Việt Nam ngành này kém phát triển” thế nên “tôi không có chỗ đứng”. Tôi cho rằng đó là những lý do quá yếu kém, được đưa ra không có mục đích gì khác ngoài sự chống chế yếu ớt của cá nhân mỗi người.

Cái gì cũng có lần đầu. Xã hội nói chung hay các ngành nghề nói riêng, nơi nào cũng phải có người đi tiên phong trong những cuộc cách mạng mới mẻ. Các bạn học ở một môi trường xuất sắc, có kiến thức sâu đậm, có tư tưởng mới lạ, giỏi giang và cho rằng mình có thể cạnh tranh rồi cống hiến tốt hơn ở những đất nước giàu mạnh, vậy mà lại sợ trở về để đi tiên phong cho lĩnh vực mình đam mê hay sao? Không, không. Các bạn sợ thất bại. Các bạn sợ mình không đủ giỏi hay bản lĩnh để làm nên sự thay đổi.

Vậy tại sao các bạn lại đổ lỗi cho quê hương, tại sao các bạn lại dám nói rằng “đất nước không cho tôi lý do để về”? Đất nước cần các bạn, nhưng chính các bạn đã sợ rồi đấy thôi?

Chúng ta chưa có công nghệ này, chúng ta yếu kém ở ngành nghề kia, thế nhưng không một ai dám đi tới và làm nó phát triển. Suy cho cùng, đất nước nên đổ lỗi cho chúng ta mới phải. Vì ai trong chúng ta cũng chờ đợi, chờ một người đi tiên phong, một lá cờ đỏ, một cái gì đó phát triển rồi để trở về làm cho nó thêm phần hoa lá cành.

Tiếng khóc trước tổ tông

Lý do này tuyệt nhiên không phải của tôi, mà của một người bạn vong niên đã chỉ ra cho tôi thấy. Đó là vào một ngày nắng đẹp trời, giữa mùa hè ấm áp, tôi và anh ngồi uống bia ở bãi cỏ rộng thênh thang trước cửa trường đại học. Tôi nói đùa với anh: “Sướng thế này còn về làm gì anh nhỉ? Mùa hè thế này ở Việt Nam chỉ có vào nhà ngồi điều hòa. Bẩn lắm.” Anh cười. Thế rồi trầm tư một lúc, anh nói: “Phải về chứ em. Về để đến ngày cuối đời, đứng trước tổ tiên, ta cười và nói mình đã không làm các cụ thất vọng.”

Ngày ấy, tôi cho rằng đó là một lời đùa lại, và tôi cười hô hố. Thế nhưng bây giờ ngồi nghĩ lại, thì ánh mắt của anh khi ấy là ánh mắt của người từng trải, nếm đủ sung sướng trên đất người, và hiểu biết về nỗi khổ của dân ta.

Lý do này, các bạn có thể cho rằng nó chỉ là lý thuyết sáo rỗng, là sách giáo khoa đạo đức lớp năm, sao cũng được. Dù gì tôi cũng chỉ đưa vào cho có, cho đủ ba lý do, vì số ba là số tôi thích.

Lời kết

Còn vô vàn lý do khác mà các bạn có thể đưa ra để từ chối việc trở về. Tin tôi đi, tôi cũng vậy. Chúng ta đều thấy cả mà.

“Bọn ta chứng kiến sự phai nhòa của các bản sắc, lấy phá cách làm tôn chỉ, thế giới bọn ta nhìn thấy là một đống hổ lốn, không chỉ logic mà phi logic, phản logic cùng được chấp nhận, sự lan truyền nổi bật hơn cả sự thẩm thấu và lý tưởng thì không mang lại cơm gạo.”

– Du Đãng, Báo bóng đá điện tử 4231.vn

Nhưng cũng chính vì những lý do ấy, đất nước mới cần các bạn. Đừng ngó lơ nó vì sự ích kỷ của mỗi bản thân. Vì nơi đâu cũng có bất mãn, cũng có vấn đề, nhưng chỉ có những người con của đất Việt mới giải quyết được tận gốc những vấn đề của đất Việt thôi.

Thế nên, các bạn ạ. Về đi, đừng ở lại. Về đi cho một ngày cất đầu lên.

 

D8

Quan sát để cảm nhận cuộc sống sâu sắc hơn

Featured Image: Khánh Hmoong

 

Bạn có chắc là mình đã quan sát mọi thứ? Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi này nhé.

Bạn có biết chiếc áo bạn đang mặc có bao nhiêu chiếc nút không? Cái đồng hồ bạn đang đeo có kim giây không? Chữ số trên đồng hồ là la mã, la-tinh, dấu chấm hay dấu gạch? Hôm nay bạn gái của bạn mang giày màu gì? Cái cột tóc có màu sắc và hình dáng như thế nào? Nếu bạn trả lời được những câu hỏi đó ngay lập tức mà không cần nhìn lại thì bạn đã có sẵn một kỹ năng quan sát rồi đấy.

Quan sát là gì?

Quan sát là cách nhìn sự vật, hiện tượng, hành vi, thái độ của con người một cách chi tiết và có phân tích. Hầu hết chúng ta chỉ nhìn chứ không quan sát. Hai hành động đó khác nhau ở chỗ khi ta quan sát ta có mục đích hay chủ ý rõ ràng, còn nhìn đôi khi chỉ là thoáng qua, hoặc vô tình. Khi nhìn, chúng ta không tập trung vào sự vật trước mặt mình mà thật ra mà chỉ là một cách vô thức hay có phản xạ thôi. Tuy nhiên, mọi người thường nhầm lẫn với hai khái niệm này.

Quan sát không chỉ dùng thị giác thôi, mà phải dùng cả những giác quan còn lại như Nancy Farmer có viết:

“Hãy nhìn xung quanh… Cảm nhận làn gió, ngửi khí trời. Lắng nghe tiếng chim và ngắm nhìn bầu trời. Hãy cho tôi biết những gì đang diễn ra ngoài kia.”

Quan sát chứ không Soi mói

Hai vấn đề này có điểm khác nhau là soi mói chỉ cốt để tìm ra mặt xấu của vấn đề hay của đối tượng. Một người hay soi mói sẽ nhìn được mọi thứ, vẫn có phân tích, nhưng chỉ lại đưa ra những ý kiến, những đánh giá nhận xét rất tiêu cực. Trong khi đó quan sát thì ngược lại. Do đó, càng không thể nhầm lẫn hai khái niệm này.

Quan sát để cảm nhận cuộc sống sâu sắc hơn

“Một lữ khách không biết quan sát cũng giống như một con chim không có đôi cánh.” – Moslih Eddin Saadi

Trong mỗi người chúng ta hầu như chỉ chú ý đến bản thân mình nhiều đến nỗi quên mất thế giới bên ngoài bao la và phong phú vô vàn. Bạn sẽ không nhìn thấy trái đất đang chuyển động từng ngày, những người bên cạnh đang thay đổi từng giờ, những vật xung quanh bạn đang di chuyển từng phút, từng giây. Ở đây không phải tôi muốn nói bạn vô tình, mà bạn chỉ là đang bỏ quên mọi thứ. Bạn bận bịu, lo lắng, bạn xoay quanh với những con số, vò đầu bức tóc với những rắc rối trong cuộc sống, bạn chộn rộn với những thứ vớ vẩn trong công việc, thế nên bạn đã bỏ quên thế giới.

Bạn vô tình “bỏ quên” một người bạn thân đang buồn phiền, bạn “bỏ quên” một cơn gió âu yếm thổi qua tán lá, bạn “bỏ quên” màu son môi mới của vợ, bạn “bỏ quên” ánh mặt trời đỏ chói đang lặn phía trời tây, bạn “bỏ quên” niềm vui của đứa con gái mới đi học về, bạn tiếp tục “bỏ quên” cây bàng trước cửa đang lâm râm vài lá đỏ, bạn đang “bỏ quên” mọi thứ.

Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn quan sát kỹ hơn? Bạn có thể chia sẻ với người bạn những u sầu, bạn sẽ nói với vợ rằng: “Màu son mới rất hợp với em.” Bạn sẽ cảm nhận cơn gió cũng đang ấp ôm bạn, bạn sẽ hỏi con gái: “Có gì mà con vui thế?” Bạn sẽ thấy hoàng hôn rất ấm áp nhưng gợi buồn, bạn sẽ thấy thời gian trôi nhanh mỗi khi lá bàng đỏ rơi xuống, và khi đó bạn sẽ thấy mình đang sống, đang hòa mình vào thế giới bao la.

Quan sát như thế nào?

Hãy tìm một chỗ thật thoải mái ở một quán cà phê nhỏ, ngồi xuống, im lặng, và bắt đầu quan sát xung quanh nhé. Hãy bắt đầu từ người phục vụ. Hãy để ý tóc ngắn hay dài, quần áo màu gì, dáng đi, giày, nghe giọng nói của người đó. Và khi họ bê thức uống ra, hãy quan sát thái độ của anh ta. Trong quá trình quan sát hãy tự phân tích một vài chi tiết nhỏ ví dụ: nếu anh chàng này đeo kính có thể là một sinh viên đi làm thêm, bộ đồng phục còn mới có lẽ là mới vào làm,… Thật ra điều này cũng chẳng có ý nghĩa gì nhiều, mục đích của nó là tự tập cho bạn thói quen phân tích các sự việc thôi.

Tiếp theo, hãy chuyển mục tiêu sang những nhân vật xung quanh quán. Tìm một người mà bạn hứng thú và bắt đầu quan sát người đó và phân tích. Ví dụ như anh ta đang làm gì? Chân anh ta bắt chéo hay để thẳng? Anh ta cầm điện thoại tay nào? Gương mặt anh ta có gì đặc biệt,… Từ đó, bạn sẽ phần nào đoán được tính cách của người mà bạn đang quan sát. Điều đó sẽ giúp bạn nhận ra rằng có rất nhiều chi tiết nhỏ nhưng lại tạo cho mỗi người một phong cách rất riêng.

Và bây giờ, hãy quan sát khung cảnh xung quanh, và cũng bắt đầu từ vật gần nhất là cái bàn bạn đang ngồi. Có bao nhiêu cái ghế, kiểu dáng, chất liệu như thế nào. Sau đó bạn chuyển hướng sang những vật xa hơn mình. Mỗi lần quan sát, bạn phải mất một thời gian để thật sự chú ý và đối tượng. Khi đã quen, bạn sẽ quan sát rất nhạy và nhanh như Sherlock Holmes vậy.

Nếu bạn đã thuần thục kỹ năng này rồi thì thì bạn sẽ nhận ra mình có thể học hỏi mọi thứ rất nhanh và dễ dàng vì:

“Chúng ta không cần theo học bất cứ chương trình hay lớp học nào cả, vì sự quan sát đã mở ra những cửa sổ kiến thức xung quanh chúng ta.” – Sukant Ratnakar (Open the Windows)

Thực tế, kỹ năng quan sát sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều trong công việc và cuộc sống. Điều đó cũng thể hiện sự tinh tế của bạn đối với mọi người xung quanh. Đó cũng là một cách giúp bạn thiền hơn. Vì nếu tâm càng tịnh, cảm nhận của bạn mỗi khi quan sát một đối tượng lại càng sâu sắc hơn và phân tích cũng logic hơn.

Để tóm lại bài này tôi chỉ có thể nói: Nếu đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thì quan sát là chìa khóa mở cánh cửa tâm hồn ấy từ bên trong để nhìn ra ngoài một cách trọn vẹn. Sáng mai thức dậy, hãy thôi nhìn mà thay vào đó là quan sát. Quan sát để lắng nghe, quan sát để cảm nhận, quan sát để thưởng thức những hương vị mà bạn đã lãng quên bấy lâu nay.

 

Thụy Yên

Trường đại học: Chiến trường hay thị trường?

Featured image: Kik// allisonmorris

 

Tôi còn nhớ hồi thơ ấu, tụi học trò cấp một, cấp hai chúng tôi khi đi qua các trường đại học với những cánh cổng to cao, thường im ỉm đóng cứ đứng nhìn các anh chị sinh viên trông rất trí thức một cách đầy khâm phục và kính nể. Chúng tôi cũng thường đọc cho nhau nghe hai câu thơ truyền khẩu như là một lời nhắc nhở mình: “Cổng trường đại học cao vời vợi. Mười thằng vươn tới, chín thằng rơi.” Đối với chúng tôi hồi đó, trường đại học là một ước mơ xa xôi nhưng đầy cảm hứng, bởi nó hứa hẹn những chân trời mới sẽ mở ra, những vận mệnh mới sẽ hình thành sau những năm dài miệt mài trên giảng đường.

Nay, giáo dục đại học đã khác xưa nhiều lắm. Trường đại học không còn là một sự chọn lọc xã hội dành cho trí thức trình độ cao nữa. Hầu hết các trường đại học đều mở cửa để đón sinh viên, không chỉ là cửa chính mà còn của hậu, cửa hông, cửa điều khiển từ xa đều được mở hết thông qua các chương trình đào tạo chính quy, phi chính quy, cử tuyển, từ xa…

Người người học tập, nhà nhà học tập để tiến tới xây dựng một xã hội học tập suốt đời. Mục đích mà nền giáo dục nước nhà đặt ra là rất chính đáng, vậy nhưng quá trình xã hội hóa giáo dục đã được thực hiện thế nào để gần đây, trên một diễn đàn chính thống của nhà nước là báo Tuổi Trẻ, người học, người dạy lại phản biện lẫn nhau bằng thứ ngôn ngữ công kích được dùng trên chiến trường thay cho ngôn ngữ nhân văn chốn học đường: trường đại học đang “giết” sinh viên hay sinh viên đang “tự giết” mình? Cố sát hay tự sát trong ngữ cảnh này đều là một thực tế đầy đau đớn, bởi lẽ nó đi ngược lại những nguyên tắc của một nền giáo dục vị nhân sinh.

Nhân đọc nhiều bài viết và ý kiến đa chiều về đào tạo giáo dục đại học phổ cập và tỷ lệ cử nhân thất nghiệp cao ở Việt Nam, tôi xin được đóng góp một vài ý nhỏ từ góc độ của một người nghiên cứu về giáo dục đại học, một giảng viên và một người bạn thân thiết với trò để nhìn nhận vấn đề qua lăng kính của các em.

Giáo dục đại học Việt Nam ở thời điểm hiện tại có một điểm tương đồng với giáo dục đại học Hoa Kỳ, đó là việc hướng đến một nền giáo dục đại chúng. Tôi không so sánh hai mô hình đào tạo đại học này mà chỉ bàn đến một điểm chung duy nhất: “Tính mở.”

Hoa Kỳ có rất nhiều loại hình đại học, từ các trường chọn lọc nhất theo định hướng nghiên cứu đến các trường nhập học tự do. Khoảng 40% sinh viên ở Hoa Kỳ bắt đầu từ các trường cao đẳng cộng đồng và các trường đại học không chọn lọc dành cho học sinh tốt nghiệp phổ thông, có năng lực thấp hoặc chưa có định hướng rõ ràng cho nghề nghiệp tương lai. Đây là cơ hội để sinh viên “thử” một loại hình đào tạo ít đòi hỏi về trình độ trước khi có một sự lựa chọn nghiêm túc để tiếp tục đầu tư thời gian và tiền bạc ở các trường đại học có uy tín, đào tạo bốn năm hoặc dài hơn và thường khắt khe về các tiêu chuẩn tuyển sinh để đảm bảo chất lượng đầu ra.

Để dễ hiểu, bạn hãy hình dung giáo dục đại học Hoa Kỳ có hình miệng phễu: mở rộng đầu vào và thắt chặt đầu ra. Trên bước đường xã hội hóa giáo dục đại học, Việt Nam cũng cung cấp nhiều loại hình đào tạo và nhiều trường đại học mới ồ ạt ra đời, hồ hởi đón nhận các em học sinh vừa rời ghế phổ thông và gắn cho các em một cái mác mới: Sinh viên đại học. Đáng nói hơn, các em nào năng lực thấp không qua nổi kỳ thi tuyển đại học nhưng phụ huynh có khả năng thì lại được gắn một cái mác khác “oai” hơn: “Sinh viên một số trường đại học và viện đào tạo quốc tế với chuẩn đầu vào là điểm tuyển sinh dưới điểm sàn.” Điều đáng nói ở đây là ở Việt Nam, đã được gọi là sinh viên thì hầu hết phải tốt nghiệp đại học, dù con đường đi có dài ngắn khác nhau.

Để dễ hiểu, bạn hãy hình dung giáo dục đại học Việt Nam gần giống hình lăng trụ tròn: đầu vào và đầu ra gần như bảo toàn về số lượng. Vậy thì rõ ràng các trường đại học đâu có “giết” sinh viên trên giảng đường? Tuy nhiên, với cách đào tạo này, các em lại gián tiếp bị “giết” trên một chiến trường khốc liệt khác là thị trường lao động với những quy luật chọn lọc và đào thải của nó.

Tôi lại nhìn nhận vấn đề từ góc độ một giảng viên để xem tôi và đồng nghiệp có “giết” sinh viên không. Tôi đọc một nhận xét của một đồng nghiệp trên báo, rằng thầy cực ghét kiểu tư duy kiểu giảng viên phải nhai cơm rồi mớm cho sinh viên, người chỉ biết nuốt mà đôi khi cũng không hề biết cơm có ngon không, rất ít người tự mình gắp lấy thức ăn và tự nhai và càng ít người biết tự chọn nguyên liệu mà thầy cô đã cung cấp, rồi tự chế biến món ăn cho chính mình… Tôi thấy buồn.

Khi những thầy cô giáo đã ghét, đã có định kiến về học trò của mình như thế, làm sao chúng tôi có thể làm tốt được nhiệm vụ của mình là truyền đạt cho các em tri thức? Đành rằng không phải sinh viên nào vào trường đại học cũng có thái độ học tập nghiêm túc, nhưng nhận định rằng rất ít người tự giác học tập thì cũng là một sự khái quát vội vã và không công bằng với các em.

Sinh viên cần những người dẫn đường có khả năng truyền cảm hứng để các em tìm một lối đi, vậy giáo viên đừng nên tự cho mình là bảo mẫu bị bắt buộc phải chăm bẵm những đứa trẻ hư đốn và lười biếng. Xin giáo viên đừng “giết” tình thầy trò và trách nhiệm bằng những suy nghĩ vắng bóng tình thương yêu. Tôi lại nhìn nhận vấn đề từ góc độ của học trò tôi, thông qua lời các em tâm sự.

Để có một chỗ ngồi ở giảng đường, cha mẹ của các em phải lao lực nhiều đóng cho con tiền học phí, bởi mức sống trung bình của nước ta nói chung vẫn thấp. Tuy nhiên, tình trạng các em đến lớp không học được nhiều hoặc không học được gì do giáo viên năng lực kém và giáo viên bỏ lớp không báo trước không phải là hiện tượng cá biệt.

Bản thân tôi cũng không thể biện hộ được khi các em than phiền các trường hợp thầy chấm điểm theo kiểu “đo gang” “đọc lướt, cho điểm vừa phải” bởi tôi biết tình trạng này có tồn tại. Và thực tế xã hội đã cho thấy một tỷ lệ rất lớn các cử nhân có đến trường, có bằng nhưng không có việc làm.

Vì bức xúc, các em cũng có những hành xử không đúng mực: gọi thầy cô bằng ông này bà nọ, thể hiện sự vô ơn và có khi sỉ nhục thầy cô ở nhiều ngữ cảnh khác nhau. Các em cũng “giết” tình yêu nghề của thầy cô giáo. Nhưng phân tích để chỉ trích nhau thì có ích gì không? Tại sao chúng ta không nghĩ một cách nào đó để thay đổi kiểu tư duy “chiến tranh” về nền giáo dục của nước nhà?

Tôi nghĩ chúng ta nên nhìn nhận và vận hành nền giáo dục theo cơ chế thị trường. Chữ “thị trường” ở đây không có nghĩa là một môi trường bát nháo người mua kẻ bán để làm đảo lộn hết mọi giá trị của nền giáo dục “tôn sư trọng đạo”. Tính “thị trường” sẽ điều tiết, hướng dẫn các bên liên quan thực hiện đúng chức năng của mình theo quy luật cung cầu.

Các trường đại học nên được phân tầng rõ ràng về chất lượng và có trách nhiệm sản phẩm của mình, đừng bán cái mình có; hãy bán cái thị trường cần. Đừng duy trì những chương trình đào tạo lỗi thời đang có sẵn; hãy nhạy bén với thị trường lao động để cập nhật những kiến thức, trang bị những kỹ năng có tính áp dụng thực tiễn cho sinh viên.

Các giáo viên nên xem học trò là khách hàng để làm tốt nhiệm vụ của mình. Ngành giáo dục cũng là một ngành dịch vụ, nơi những ứng xử, giao tiếp với khách hàng là một yếu tố quan trong để tạo nên thành công và sự hài lòng.

Nói cho cùng, lương của giáo viên một phần cũng từ nguồn học phí của phụ huynh sinh viên đóng góp trên cơ sở chia sẻ chi phí của chính sách xã hội hóa giáo dục, vậy nên giáo viên cũng nên cố gắng làm tốt nhiệm vụ của mình vì trách nhiệm và vì lòng tự trọng nghề nghiệp.

Các sinh viên cũng nên là một khách hàng khôn ngoan và có một thái độ đúng khi lựa chọn một sản phẩm giáo dục. Các em đừng lựa chọn một trường học, một ngành học theo hiệu ứng đám đông vì đến thời điểm tốt nghiệp, nhu cầu của thị trường đối với một ngành từng rất được ưa chuộng có thể đã bão hòa.

Các em đừng đổ lỗi hoàn toàn cho nhà trường khi gặp phải một môi trường học tập không tốt, bởi theo luật thị trường, người mua phải có trách nhiệm với lựa chọn của mình. Đây là nguyên tắc phổ biến trên thế giới mà tiếng La Tinh gọi là Caveat Emptor (tạm dịch: Xin người mua hãy cẩn trọng).

Tôi thực tâm mong rằng chúng ta hãy biến chiến trường giáo dục thành một thị trường lành mạnh, để xã hội tương lai sẽ phồn thịnh hơn với những chủ nhân có năng lực, được đào tạo từ những định hướng đúng đắn và bởi những người thầy, người cô có tâm huyết và có tình thương.

 

Đỗ Thị Diệu Ngọc

18 tuổi, tôi ngộ ra

Featured image: Scott Wade

 

Viết cho những năm tháng 18 đã qua…

Một ngày đầu năm, tự dưng nghĩ về những mối quan hệ cũ, bạn bè đồng trang lứa. Ai cũng giỏi, ai cũng cá tính, chỉ có điều là không phải ai cũng đi cùng nhau, thế rồi mỗi người đi một con đường riêng, và tôi cũng thế. Thôi thì cũng sao để cố gắng cho bản thân mình. Mọi thứ đều xoay quanh việc tu thân: tức rèn luyện bản thân trước đã.

Như Khổng Tử nói: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh,lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ.” 15 tuổi đã chuyên tu học hành, sau đó mới đến ngưỡng 30 thành người phong thái, để rồi đến tuổi 50 thì thấu hiểu mệnh trời. Đàn ông, về cơ bản thì phải ngoài 30 mới vào độ chín, còn khi trẻ tuổi thì muôn chuyện.

Tuổi trẻ là tuổi rất đẹp, luôn khao khát dấn thân, luôn khao khát thể hiện bản thân, mặc dù biết ít. Đôi khi sự đời biết ít lại càng muốn thể hiện nhiều. Nhưng ai cũng phải trải qua giai đoạn bồng bột để đạt được đến ngưỡng hết “thơ” nhưng không còn “ngây” nữa, thì mới trưởng thành được. 18 – 25 tuổi là giai đoạn quan trọng trong cuộc đời mỗi người được gọi là giai đoạn bản lề. Giống như cánh cửa muốn chắc thì bản lề phải tốt. Bất cứ điều gì làm trong tuổi này đều ảnh hưởng đến tương lai sau này. Vì thế, tuổi 18 thường là một bước ngoặt.

Thay đổi môi trường sống, bắt đầu tự lập, bước chân vào xã hội, biển rộng trời cao để vẫy vùng, bài viết này xin ghi lại những cảm xúc của tuổi 18 để gửi tới các bạn trẻ. Tôi đã bước qua tuổi 18 từ lúc còn đang miệt mài ôn thi đại học. Ngày tôi 18, tôi ở tuổi còn quá trẻ để có thể ngộ ra được nhiều điều. Giờ đây nhìn lại, tôi thấy mình vẫn đang đi một hành trình để ngộ những điều mình chưa ngộ được trong cuộc sống.

18 tuổi, tôi ngộ ra được giá trị của sức khỏe

Tôi hiểu một điều rằng, sức khỏe vô cùng quan trọng. Rất nhiều người lớn ngày trẻ không trân trọng sức khỏe, lười vận động, hút thuốc, rượu bia, nhậu nhẹt, lo nghĩ, tính toán… để bây giờ họ không thật sự khỏe mạnh. Họ bệnh tật, thuốc thang, đau ốm….

Tôi ngộ ra một điều rằng, 18 tuổi tôi càng sống vội, thức thâu đêm cắm mình bên quán game, nhậu nhẹt những quán xá vỉa hè không đảm bảo chất lượng, cả ngày chỉ ù lì bên chiếc máy tính không chịu vận động… sau này tôi sẽ phải trả giá. Sinh viên còn trẻ còn khỏe, tôi không ăn uống đầy đủ ngay từ bây giờ, nhịn ăn, mì tôm qua ngày, không ăn sáng, ngủ không đủ giấc, không tập thể dục… sau này hậu quả sẽ đến.

18 tuổi, tôi ngộ ra giá trị của đồng tiền

Tôi hiểu một điều rằng, đồng tiền vô cùng quan trọng, dù nó không phải là tất cả. Có một giá trị hiển nhiên mà đồng tiên mang lại: nó giúp con người ta đỡ đau đầu vì rất nhiều chuyện liên quan tiền trong cuộc sống.

Tôi cũng ngộ ra được sức mạnh chi phối của đồng tiền. Tôi chứng kiến cảnh có những người hàng tháng chỉ riêng tiền trả lãi ngân hàng thôi cũng khiến họ đủ vất vả như thế nào. Cái nghèo nó khiến người ta phải lo nghĩ. Tôi cũng biết được vì đồng tiền mà có những gia đình cãi cọ, sứt mẻ. Tôi chứng kiến cảnh, vì thiếu thốn gia đình trợ cấp, nhiều sinh viên khao khát kiếm tiền một cách mù quáng để rồi bị lừa vào đường dây bán hàng đa cấp.

Tôi ngộ ra một điều, 18 tuổi tôi phải ngưng đốt tiền ngay từ bây giờ. Không được phép lãng phí cho những cuộc chơi vô bổ. Tiền chỉ thực sự được dùng cho những việc chính đáng. Tiền không phải là mục đích sống của tôi nhưng tôi cần tiền để làm những việc cần phải làm.

18 tuổi, tôi ngộ ra giá trị của thời gian

Tôi hiểu một điều rằng, thời gian vô cùng quan trọng. Cách tôi sử dụng thời gian như thế nào sẽ tạo ra kêt quả cuộc đời tôi. Tại sao có những chiếc đồng hồ giá lên tới hàng trăm triệu? Có một lí do là bởi vì những chiếc đồng hồ đắt tiền ấy sẽ nhắc người chủ của nó về cái giá của thời gian. Ngay từ bây giờ, tôi phải trân trọng những khoảnh khắc thời gian mình có, phải trân trọng giây phút bên những người mình thương yêu, và quyết tâm sử dụng thời gian sao cho có ích.

Tôi ngộ ra ngay bây giờ là lúc tôi phải sống cuộc đời thật vì thời gian không trở lại. Ngay bây giờ mình phải tận hưởng cuộc sống. Dù có chuyện gì, tôi cũng phải sống trọn vẹn mỗi ngày. Sống hạnh phúc để đạt được thành công chứ không phải đau khổ để có thành công rồi khi đó mới cho phép mình hạnh phúc. Ngay bây giờ, dù chuyện gì xảy ra, tôi cũng điềm đạm, bình tĩnh với nó. Đơn giản để tôi luôn được sự bình an trong tâm hồn.

Tôi ngộ ra một điều rằng tuy thời gian không bao giờ quay trở lại, nhưng cũng không bao giờ là quá muộn cho một sự khởi đầu. 18 tuổi, tôi có rất nhiều việc phải làm phía trước nhưng tôi sẽ không nóng vội muốn giải quyết vấn đề cả đời chỉ trong một ngày. Tôi sẽ lập kế hoạch cụ thể, và đơn giản, cứ đi đi, làm từng việc nhỏ, việc nhỏ, mọi thứ sẽ đi đúng trật tự của nó

18 tuổi, tôi ngộ ra sức mạnh của trí tuệ

Tôi hiểu một điều rằng, trí tuệ vô cùng quan trọng. Trí tuệ mang lại rất nhiều giá trị. Nếu mình tư duy kém cỏi, mình bất lợi rất nhiều. Có những người phải làm công việc cực nhọc không được như ý muốn như chạy xe ôm, đẩy xe rác.. Và ngoài kia, rất nhiều người tôi chứng kiến họ không có sự lựa chọn nghề nghiệp, phải vắt kiệt mình để mưu sinh sống qua từng ngày, họ phải vất vả, lăn lộn, cũng chỉ vì một điều là họ không học hoặc không được học hành tử tế.

Tôi nhìn thấy những cái giá đó và tôi quyết tâm mình phải là một người có tư duy tốt. Ngay từ 18 tuổi, tôi phải học hành cẩn thận. Học tốt ở trường học là chưa đủ, bởi tôi cần học hỏi cả ở trường đời. Giống như câu nói: “Mỗi ngày trôi qua tôi sẽ học một điều gì đó. Mỗi người tôi gặp đều sẽ là một người thầy của tôi.”

18 tuổi, tôi ngộ ra tầm ảnh hưởng của những mối quan hệ

Tôi hiểu một điều rằng, những mối quan hệ thân thiết nhất của tôi tạo ra cuộc sống của tôi. Dù bố mẹ có lúc mắng chửi, dù trước đây có lúc tôi ghét bố mẹ mình nhưng nếu không có bố mẹ, tôi không tồn tại trên đời này. Cuộc sống hàng ngày của tôi, những đồng tiền tôi tiêu: từ tiền ăn, tiền học cho đến tiền nhà đều do bố mẹ trợ cấp.

Tôi ngộ ra một điều rằng, có những lúc trên đường đời, tôi sẽ phải đối mặt với khó khăn, thử thách. Có thể sẽ có những lúc mọi người quay lưng đi, không có ai bên cạnh mình. Những lúc ấy, tôi sẽ rất cần một điểm tựa, một sự ủng hộ, một lời động viên. Tôi sẽ phải trả giá nếu chọn nhầm bạn, vì thế tôi phải chọn những người bạn đúng đắn. Không cần có nhiều bạn, chỉ cần những người bạn có chất lượng. Và đặc biệt mình phải luôn trân trọng, biết ơn những người đã đi qua cuộc đời mình cho dù họ là ai.

18 tuổi, tôi ngộ ra còn nhiều điều tôi chưa ngộ ra

Tôi chưa ngộ ra được ý nghĩa cuộc đời, tôi chưa ngộ ra được những quy luật cuộc sống, tôi chưa ngộ ra được mình sống để làm gì… Chỉ có một điều tôi chắc chắn: cứ sống, cứ cháy hết mình, tham gia trọn vẹn mỗi ngày, tôi sẽ có câu trả lời cho những điều bí ẩn đang chờ đón phía trước.

18 tuổi, tôi ngộ ra…

 

 

Không có trải nghiệm, tuổi trẻ không đáng một xu

Featured image: Mani

 

Tuổi trẻ không chỉ có nghĩa là trẻ tuổi, mà còn có nghĩa là năm tháng tươi đẹp nhất cuộc đời. Ở cái tuổi ấy, trong ba thứ: sức khỏe, thời gian và tiền bạc, chúng ta chỉ thiếu tiền thôi, còn thời gian và sức khỏe thì luôn đong đầy. Năm tháng qua đi khi về già ta sẽ nhận thấy tiền bạc hóa ra là thứ ít quan trọng nhất trong ba thứ trên. Nghĩa là tuổi trẻ là giai đoạn quý giá nhất đời người vì sỡ hữu trọn vẹn hai món quà lớn nhất của cuộc sống là sức khỏe và thời gian. Ta vốn được nghe nhiều người nói đến điều này rồi, nhưng hỡi ôi, sao chúng ta vẫn đang để cho tuổi trẻ của mình trôi qua một cách hời hợt và vô nghĩa đến thế? Với trí óc hạn hẹp được định hướng, phần lớn tuổi trẻ hiện tại của chúng ta vẫn cho rằng tiền bạc, hơn hết, mới là thứ quan trọng nhất, cần thiết nhất là đáng lưu tâm nhất. Và rồi ta vô tình lãng quên hai món quà quý giá nhất đời, thời gian và sức khỏe. Thật ngu ngốc, thật đáng trách nhưng cũng thật đáng thương làm sao.

Tại sao lại như thế? Tuổi trẻ của chúng ta dường như đang ngủ quá say và quá lâu không chịu thức dậy để tận dụng hai món quà quý giá nhất? Đó là lãng phí, là ngu ngốc, hay cả hai? Trong bài viết trước tôi có gợi một nguyên nhân nho nhỏ, chính xác hơn là một sự đổ lỗi, cho các bậc phụ huynh, rằng chính họ là nguyên nhân góp phần tạo nên sự thụ động, ù lì nơi thế hệ trẻ, làm mất đi khả năng tự lập của chúng ta bằng thứ tình yêu bao la vô bờ bến. Thật ra, thoạt nghe thì những điều đó có vẻ hợp lý, nhưng dù hợp lý đến thế nào cũng vẫn không đủ, không đủ vì đó là chỉ cách để đổ lỗi, để biện minh mà thôi. Tuổi trẻ của chúng ta chỉ nên nhìn nhận nguyên do đó cho biết để mà tương lai bớt bao bọc con cái mình như thế. Còn thứ chúng ta thật sự cần, không phải là đổ lỗi, tất nhiên, cũng không phải là ngậm ngùi bực tức rồi để đó. Thứ mà thế hệ trẻ thật sự cần, là hành động, hành động để đập tan những gì ta chưa hài lòng, hành động để xây dựng nên một thế giới tốt đẹp hơn, cho mọi người hay đơn giản là cho chính mình. Điều này thật sự không khó, nhưng sao mọi người cứ tránh né và nêu hoài những lý do cũ rích mốc meo? Phải chăng lại tại vì ta đã ngủ quá lâu để có thể sẵn sàng thức dậy? Một giảng viên của tôi từng nói “Thật ngạc nhiên khi quá nhiều người sống như thể họ có một cuộc đời khác đang cất trong ngăn tủ vậy”. Câu này nếu viết cho tuổi trẻ có thể thành “Thật ngạc nhiên khi quá nhiều bạn trẻ sống như thể họ còn có một tuổi trẻ khác cất trong ngăn bàn.” Bạn biết đấy, đồ ăn để lâu không ăn sẽ bị hư, quần áo để lâu không xài sẽ bị lỗi mốt, đồ điện lâu không xài có thể bị chập điện. Riêng tuổi trẻ, nếu bạn cứ để đó mà không xài, không tận dụng, tôi e là nó sẽ không hư, không lỗi mốt, không chập điện nhưng nó sẽ biến mất mãi mãi, không một dấu vết và rồi cả phần đời còn lại bạn sẽ phải sống trong nuối tiếc ngập tràn mà thôi. Viễn cảnh đó, thật tôi không dám tưởng tượng thêm nữa.

“Hai mươi năm sau lúc này, bạn sẽ thấy thất vọng vì những điều mình không làm hơn vì những điều mình đã làm. Vậy nên hãy tháo nút dây. Hãy cho thuyền rời khỏi bến cảng an toàn. Hãy căng buồm đón gió. Tìm tòi. Ước mơ. Khám phá.”

— Mark Twain

 

Tạm thôi không so sánh về tuổi trẻ Việt Nam và thế giới. Bỏ qua luôn không nhắc đến khả năng tự lập, tư duy, chính kiến, sáng tạo, mối quan tâm và thành tựu của tuổi trẻ Việt Nam và thế giới. Tự bản thân mỗi người trẻ đều có thể hiểu và đánh giá.

Vậy thì, chắc chắn sẽ có người hỏi, câu hỏi muôn đời: thế thì phải làm sao? Tuổi trẻ phải làm gì để thay đổi, để khác biệt, để mang lại ý nghĩa đúng với trọng trách nó được giao phó?

Câu trả lời đơn giản làm sao, hãy tận dụng tốt nhất hai món quà lớn mà cuộc sống dành riêng cho tuổi trẻ chúng ta: Thời gian và sức khỏe. Hãy dùng nó để nhào vào đời, để quyện vào cuộc sống, để trải nghiệm mọi thứ khi còn có thể.

Vâng, là trải nghiệm. Đó chính là điều quan trọng nhất tôi muốn nói đến ngày hôm nay. Đó là điều tối cần thiết tạo nên một thế hệ trẻ khác biệt. Đó cũng là điều tuyệt vời nhất mà mọi người đều có thể làm dù đang ở vạch xuất phát nào trong cuộc sống. Dù bạn giàu hay nghèo, công việc tốt hay không tốt, bạn đẹp hay xấu, bạn cá tính hay mực tính… bất kể bạn thế nào, bạn đều có thể bắt đầu trải nghiệm cuộc sống này, biến nó trở nên ý nghĩa, và chính nó sẽ khiến bạn trở nên khác biệt hơn bao giờ hết.

Bởi vì, bạn có thể không tin, nhưng tuổi trẻ mà không có trải nghiệm, là tuổi trẻ vứt đi. Giống như một cuốn sách không có nội dung, một bài hát không có giai điệu, một khu rừng không có chim thú cỏ cây, một đời người không có tuổi trẻ… Tất cả đều rất vô nghĩa.

Chính trải nghiệm, chứ không phải thứ gì khác, là thứ làm nên con người bạn. Tôi đang nói con người thật sự bên trong bạn ấy, không phải gia cảnh, xuất thân, đồ trang trí trên người, bằng cấp học vị hay gì cả. Con người thật sự của bạn, muốn biết nó như thế nào, muốn tìm kiếm nó, thật không cách gì ngoài việc bạn  phải bước vào đời, trải nghiệm, trộn bản thân mình vào cuộc sống, rồi cảm nhận, rồi đúc kết và rồi cuối cùng là phát huy hết sức những gì mình đã học được trong quá trình đó.

Giá trị của những trải nghiệm chính là giá trị con người bạn

Tôi hay nhắc đi nhắc lại câu nói này trong các bài viết của mình như một sự tâm niệm, hi vọng các bạn cũng có thể học được gì đó từ chúng. Câu nói về giá trị bản thân trong sách 7 thói quen “Nếu như tôi có những thứ giúp chứng minh tôi là ai, thì khi những thứ đó mất đi, tôi là ai?” Chúng ta thường hay tìm kiếm những thứ bên ngoài để chứng minh bản thân mình, quần áo, điện thoại, hàng hiệu, xe cộ, nhà cửa, công việc, gia thế… Tất cả những thứ này là những vật chứng hoàn hảo nói về một con người ở thì hiện tại này. Nhưng tất cả chúng, lại là những thứ có thể mất đi. Bạn dùng chúng để chứng tỏ mình, bạn có dám đảm bảo chúng sẽ tồn tại mãi mãi không? Một công việc tốt, một tình yêu đẹp, một gia đình hạnh phúc, một căn nhà tiện nghi… Tất cả chúng đều có thể biến mất. Và khi đó, bạn là ai? Đấy là vấn đề của vật chất. Còn riêng với trải nghiệm ư, hãy yên tâm rằng chúng là của bạn, luôn là của bạn,  mãi mãi là của bạn, bên trong bạn, chúng sẽ không bao giờ mất đi. Hãy dùng những trải nghiệm để chứng tỏ giá trị bản thân và rồi bạn sẽ nhận ra bản thân mình thật đặc biệt và quý giá, hơn hết mọi những vật phẩm trang trí bên ngoài.

Hãy luôn tâm niệm rằng, cuộc sống, thực chất là một cuộc trải nghiệm lớn, mà trong đó bạn phải đi tìm những mảnh ghép là những trải nghiệm nhỏ để từ đó ghép nên cuộc đời mình. Khi tâm niệm cuộc đời chỉ là cuộc trải nghiệm, bạn sẽ không quá áp lực nên mọi sự lựa chọn của mình trong cuộc đời. Đó là cuộc chơi, không ai thắng và cũng không ai thua cả, vì suy cho cùng, ai rồi cũng đến lúc phải giã từ cuộc sống, nhưng người may mắn hơn, là người sống được nhiều hơn những người khác, sống nhiều hơn, không có nghĩa là sống lâu hơn nhưng là sống được nhiều khoảnh khắc hơn trong đời, như Jean Jacques Rousseau nói:

“Người sống nhiều nhất không phải người sống lâu năm nhất mà là người có nhiều trải nghiệm phong phú nhất.”

Mục tiêu của thế hệ trẻ, có lẽ nên thay đổi ngay việc sống sung sướng hơn, sống tốt hơn, sống lâu hơn, thành “sống nhiều hơn”, thế là đủ.

Nhưng làm thế nào để sống nhiều hơn? Cách duy nhất là hãy biến từng phút giây có thể đều trở nên ý nghĩa và giải pháp là hãy không ngừng đặt bản thân vào tâm thế sẵn sàng trải nghiệm mọi thứ xảy ra xung quanh mình, đừng ngại ngùng, đừng lười biếng, đừng sợ hãi.

Còn làm thế nào để trải nghiệm cuộc sống ư? Hãy thay suy nghĩ bằng hành động, thay lời nói bằng hành động, thay kế hoạch bằng hành động, hành động ngay đi thôi. Hãy ngưng nói mà làm, ngưng suy tính quá kĩ càng, ngưng nghi ngờ và sợ hãi. Như Steve Job nói câu nổi tiếng nhất “Hãy cứ khát khao, hãy cứ dại khờ”. Henry David Thoreau nói: “Những người trẻ tuổi học sống thế nào nếu không phải là ngay lập tức thử trải nghiệm cuộc sống?” Tôi thì sẽ nói lại “Khi ta muốn ta sẽ tìm cách, khi không muốn, ta tìm lý do.”

 Nếu bạn không phải là một cái cây, lý gì bạn phải ở yên một chỗ?

Nếu muốn trải nghiệm, việc bạn cần làm là phải không ngừng hành động, không ngừng đặt bản thân vào thế chủ động và thế sẵn sàng, đi những vùng đất mới, thử những cái mới, làm những điều mới, học những thứ mới, quen những người bạn mới. Phải thoát ra khỏi vùng an toàn của mình càng sớm càng tốt. Đừng nói bạn không thể vì chắc chắn bạn có thể, lý do là vì tôi biết bạn không phải một cái cây. Cái cây đứng một chỗ nhận tất cả những gì nó cần: ánh sáng, nước, chất dinh dưỡng nhưng bản thân nó vẫn luôn khao khát được vươn ra xa hơn. Thế nên rễ nó mới dài tủa đi khắp nơi, thế nên tán nó mới vươn rộng và cành không ngừng vươn cao để nhìn được những vùng đất xa lạ. Bạn may mắn hơn cái cây, bạn có thể tự dịch chuyển mình đi khắp chốn, thế thì tại sao lại không? Thoát khỏi vùng an toàn của mình là bước đầu tiên trong quá trình trải nghiệm. Mọi hành trình đều bắt đầu từ một bước chân. Ngay ngày mai, hãy thử làm những việc bạn chưa từng làm, dù nhỏ bé và đơn giản nhất thôi: hãy cười với một người lạ cùng tòa nhà, hãy đi một con đường khác tới công ty, hãy gọi một món ăn nghe tên thật lạ, hãy nghĩ một cách giải quyết khác cho công việc quen thuộc hàng ngày… Những thứ nhỏ bé này có thể đem đến cho bạn nhiều nguồn cảm hứng để bắt đầu những trải nghiệm khác to lớn hơn, bắt đầu hành trình lắp ghép cuộc đời mình bằng những điều mới mẻ và thú vị.

Cái giá của trải nghiệm là gì?

Cái gì trên đời cũng có giá cả, chỉ cần bạn trả đúng giá, bạn có thể mua được mọi thứ. Và tiền là cái giá rẻ nhất nếu muốn có gì đó. Còn trải nghiệm ư. Nếu bạn muốn có nó, tất nhiên không ngoại lệ, bạn cũng phải trả giá. Cái giá của trải nghiệm là ban đầu bạn sẽ cảm thấy sợ hãi, lo lắng, bất an, hoài nghi và rất nhiều cảm xúc tiêu cực khác nữa. Nhưng tin vui đó chỉ là những cảm xúc ban đầu thoáng qua mà thôi. Khi đã quen với nó thì mọi cảm xúc đó đều tan biến hẳn, thay vào đó sẽ là sự hào hứng, thích thú, tò mò, vui sướng lẫn hài lòng.

Một cái giá khác nữa của trải nghiệm, đó là bạn có thể mất đi một số thứ cũ kĩ quen thuộc, nhưng đừng lo, chắc chắn bạn sẽ lại nhận thêm rất nhiều thứ khác tuyệt vời hơn. Như câu “Đừng e ngại sự thay đổi, bạn có thể mất đi một số thứ, nhưng bạn sẽ lại nhận lại những thứ khác tuyệt vời hơn!

Cái giá của trải nghiệm, là bạn sẽ phải đưa bản thân vào tâm thế sống cho chính mình, chứ không vì dư luận, vì xã hội, hay vì gia đình… không vì một cái gì hết. Chính vì thế bạn sẽ có thể bị người ta dèm pha, chê cười hay thậm chí là bị chửi mắng là ngu ngôc nữa. Và đôi khi, bạn cũng nghĩ là mình… ngu thật.

Nhưng này, đây chính là phần thưởng lớn dành cho bạn.

Yêu đời, yêu cuộc sống

Người trải nghiệm nhiều sẽ có cái nhìn về đời, về cuộc sống toàn diện và thông thoáng hơn. Họ thường nhìn ra được những thứ thật sự quan trọng với bản thân để rồi tập trung vào đó, hơn là việc phí công sức vào những thứ vô bổ phù phiếm hàng ngày. Đi đi, trải nghiệm đi, để thấy những mảnh đời bất hạnh, để nhận ra bản thân mình dù gặp nhiều rắc rối nhưng vẫn còn hạnh phúc và may mắn bao nhiêu. Những người đi nhiều trải nhiều gặp nhiều việc sẽ có cái nhìn tổng quát và bao dung hơn. Họ có xu hướng trân quý cuộc sống hơn và dễ dàng hòa nhập hơn vào mọi hoàn cảnh trên đời. Đó chính là phần thưởng. Cứ mỗi khi trải qua một chuyện ta lại thấy mình lớn hơn, già hơn, thấy cuộc đời đáng sống hơn rất nhiều.

Trải nghiệm giúp ta tìm ra kẻ mang tên “chính mình”

Hàng ngày chúng ta cứ nghe ra rả bên tai và đọc được hàng ngàn thông điệp kiểu “hãy là chính mình, hãy tìm chính mình” nhưng khoan, hãy là chính mình bằng cách nào khi ta còn đang phải mải mê tìm kiếm chính mình là gì? Thật ra chỉ có một cách thôi, một câu trả lời cho tất cả, đó là hãy trải nghiệm đi, trải nghiệm mọi điều trong cuộc sống. Chỉ có trong trải nghiệm, trong những hoàn cảnh cụ thể bạn mới biết mình là người như thế nào. Chỉ có trong trải nghiệm bạn mới tìm ra được chính mình. Trải nghiệm sẽ cho bạn biết bạn là người can đảm hay sợ sệt. Trải nghiệm sẽ cho bạn biết bạn là người giữ lời hay là kẻ thất hứa, là người trọng tình cảm hay luôn bị lý trí lấn át. Chỉ trong trải nghiệm bạn mới biết được khả năng sinh tồn, khả năng xoay chuyển tình huống và khả năng đối phó với những khó khăn. Chính những nét tính cách đó là con người bạn. Làm sao bạn có thể tìm ra nó, tìm ra chính mình khi không trải qua những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống?

Người thầy vĩ đại

Trải nghiệm sẽ là thầy dạy tốt nhất cho bạn trong cuộc đời mà không bất cứ người thầy nào khác có thể dạy tốt hơn. Kinh nghiệm từ đâu ra nếu không từ trải nghiệm? Chúng ta đương nhiên có thể học hỏi từ những kinh nghiệm của người khác, nhưng thôi nào, chẳng mấy ai chịu học từ bài học của người khác cả. Tôi có rất nhiều ví dụ thực tế chứng minh nhận định này, một trong số chúng là khi các bạn tôi đến hỏi kinh nghiệm mở shop thời trang hoặc quán cafe. Đương nhiên tôi luôn chỉ họ mọi điều, kể cả những kinh nghiệm đau thương của mình, nhưng rồi sao? Họ ờ à và rồi sau đó họ lờ nó đi và mắc những lỗi i chang tôi đã cảnh báo. Nhiều đến mức tôi chẳng thấy lạ hay buồn lòng gì nữa cả. Người ta thực sự chỉ học được từ chính trải nghiệm của bản thân.

Một người mới bắt đầu kinh doanh sẽ không thể biết tại sao vốn dự phòng lại quan trọng. Một người không bao giờ đọc sách sẽ chẳng hiểu nổi tại sao người ta phải đọc sách. Một người chưa đi du lịch bụi bao giờ sẽ không biết tại sao người ta phải mang theo mình thứ này thứ nọ như vài viên thuốc tây, chai nước lọc hay ít đồ ăn khô… Thật sự là như thế, bạn chỉ có thể học hỏi được nhiểu khi và chỉ khi chính bạn phải trải nghiệm cuộc sống trong từng hoàn cảnh xảy đến mà thôi.

Trải nghiệm đơn giản là hãy nhào ra ngoài đời, nhào vào cuộc sống, không sợ thử những điều mới lạ, những thử thách và cơ hội với tâm thế của người học hỏi mọi thứ, nhưng cũng đừng quên ước chừng trước những gì bạn có thể mất, hay cái giá bạn phải trả để có những trải nghiệm đó.

Tham gia một tổ chức đa cấp, đó là trải nghiệm. Làm thêm gia sư, phục vụ, lễ tân… đó là trải nghiệm. Tham gia một câu lạc bộ, những hoạt động xã hội, thử sức kinh doanh bất kì lĩnh vực nào, đó là trải nghiệm. Thử học những điều mới, làm quen bạn bè mới… đó là trải nghiệm. Đi đây đi đó, đi phượt, đi du lịch bụi… đi chính là kiểu trải nghiệm mạnh mẽ nhất.

Làm những việc mình chưa làm bao giờ, đó là trải nghiệm

Trên thế giới đã từng có một cuộc khảo sát về những điều người ta thường nuối tiếc trước khi chết. Và một trong số những điều người ta nuối tiếc nhất, đó là mọi người tiếc rằng mình đã sống quá an toàn, đã không trải nghiệm nhiều hơn, trải nghiệm nhiều hơn nữa.

Còn tiếc hơn khi chúng ta, những người còn sống, biết được điều đó nhưng lại cứ thế cho qua, cứ thế tiếp tục sống một cuộc sống an toàn, bình lặng, cứ thế sống hết kiếp người rồi sau cùng nhìn lại lại ước gì, lại giá như lại hối tiếc.

Ta không thể đánh mất những gì ta từng tận hưởng. Tất cả những gì ta yêu sâu sắc trở thành một phần trong ta.

– Helen Keller

 Món quà vô giá

Tiền là có giá, con người hiện tại luôn dùng tiền để định giá mọi thứ. Thời gian, xét về mặt nào đó, cũng có giá, người ta có thể bỏ tiền ra mua thời gian của bạn. Chúng ta hay nói sức khỏe là vô giá, nhưng rõ ràng người nhiều tiền có điều kiện vẫn có thể mua được những dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn, kéo dài hơn thời gian sống trên đời. Còn trải nghiệm ư? Không một ai có thể trả bất cứ gì để mua trải nghiệm của bạn cả. Trải nghiệm của bạn là của bạn, của riêng bạn, nó vĩnh viễn không bao giờ thuộc về ai nữa cả. Nó không thể bị mất đi, không thể bị cướp, không thể mua bán được, nó là vĩnh viễn và thuộc về duy nhất người trải qua nó. Đó chính là điểm đặc biệt của việc trải nghiệm. Chỉ qua trải nghiệm, người ta mới trân trọng những đau thương và nhắc về nó với lòng tự hào tha thiết. Chỉ qua những trải nghiệm, con người ta mới lớn dần lên, tâm trí rộng mở đón chào mọi điều xảy đến trong đời.

Chỉ qua những trải nghiệm ta mới định nghĩa được bản thân một cách chính xác, sâu sắc và rõ nét.

Chỉ qua những trải nghiệm, ta mới sống được nhiều hơn, ta sẽ hơn được nhiều người vì chính điều đó, ta trải nghiệm nhiều hơn, ta yêu cuộc sống hơn, hiểu về nó và rất nhiều khi sẽ khiến những người khác ghen tỵ.

Ngập tràn cơ hội

Mỗi khi trải qua một điều gì mới mẻ, đến một nơi ở mới, làm quen những người bạn mới… chắc chắn bạn sẽ nảy ra vô vàn ý tưởng hay ho cho cuộc đời sau này. Những ý tưởng kinh doanh thành công đôi khi cũng chỉ bắt đầu từ những trải nghiệm thực tế. Một người đi làm thêm chẳng mấy chốc học đủ nghề và ra mở cửa hàng riêng. Một người đi du lịch vì quá nghiền món này món nọ mà cho ra đời những quán ăn địa phương trên những vùng đất khác. Một lần trải nghiệm làm người lãnh đạo một nhóm thuyết trình có thể khiến ai đó nhận ra tài năng lãnh đạo của mình. Việc gặp gỡ những người bạn trên đường trải nghiệm giúp ta hình thành một mạng lưới những người bạn ít gặp nhưng rất thân… Càng trải nghiệm nhiều bao nhiêu bạn lại càng thu lượm được nhiều ý tưởng và cơ hội bấy nhiêu để phát triển cuộc đời riêng của mình.

Trải nghiệm làm nên con người, trải nghiệm làm nên cuộc đời

Trên thế giới đã từng có một cuộc khảo sát về những điều người ta thường nuối tiếc trước khi chết. Và một trong số những điều người ta nuối tiếc nhất, đó là mọi người tiếc rằng mình đã sống quá an toàn, đã không trải nghiệm nhiều hơn, trải nghiệm nhiều hơn nữa.

Còn tiếc hơn khi chúng ta, những người còn sống, biết được điều đó nhưng lại cứ thế cho qua, cứ thế tiếp tục sống một cuộc sống an toàn, bình lặng, cứ thế sống hết kiếp người rồi sau cùng nhìn lại lại ước gì, lại giá như lại hối tiếc.

Chúng ta thường được nghe những lời kêu gọi như “hãy khác biệt, hãy sống hết mình, sống là không chờ đợi, hãy cứ dại khờ…” nhưng áp dụng cụ thể những lời khuyên đó như thế nào thì dường như lại chẳng mấy ai biết và cũng thật khó khăn vô cùng.

Tôi là một kẻ lắm điều và lắm lời, nhìn độ dài các bài viết của tôi thì biết, tôi khuyên mọi người đủ thứ, đủ việc, tôi làm mọi cách, dùng mọi lời để khiến mọi người làm những gì tôi đã làm: viết sổ tay, đặt mục tiêu, lên kế hoạch, kiểm soát cảm xúc, tạo thói quen tích cực, quan tâm mọi người, đọc sách, tập thể dục thể thao, bớt mua sắm và thậm chí là tặng quà miễn phí, viết thư tay cho nhau nữa. Cũng chẳng hiểu tại sao tôi lại bao đồng thế, nhiều người sẽ cho rằng sao phải đi khuyên mọi người làm vậy làm gì, sống tốt thì cứ sống tốt đi, ai cũng có cuộc đời riêng cần phải lo, đâu ai giống ai đâu mà phải khuyên, khuyên rồi cũng chẳng mấy ai làm theo thì khuyên làm gì… Ờ, nghĩ cũng đúng, tôi cũng không chắc có ai làm theo những điều tôi nói không, có ai vì đọc những lời viết đó mà muốn thay đổi, mà tự giác thay đổi, mà hành động không. Tôi không biết, nhưng có một điều tôi biết chắc chắn, những lời khuyên của tôi là không vô nghĩa, không giáo điều. Tôi không viết suông, viết láo, tôi chỉ viết những gì mình trải nghiệm, những gì mình đã làm, đã thực hành và thấy hiệu quả, thấy tác dụng tích cực thì mới khuyên. Và nhất là, đó là những việc hết sức bình thường, hết sức nhỏ bé mà ai cũng có thể làm được cả. Những việc nhỏ nhưng giá trị thì rất to.

Nếu như có một điều khiến tôi tự hào vào cuộc sống của mình, đó nhất định là tôi không sợ chết. Tôi không thích chết, nhưng tôi cũng không sợ nó. Tôi không muốn chết vì tôi còn quá nhiều dự định và kế hoạch muốn thực hiện. Vì tôi nhận ra cuộc đời thật quá đẹp tươi, quá thú vị và lôi cuốn. Vì còn quá nhiều thứ tôi chưa được trải qua, chưa được khám phá nên nếu vì lý do gì đó mà chết đi, hẳn tôi sẽ tiếc lắm. Nhưng mà tôi lại không sợ chết chút nào? Tại sao? Tại vì tôi hài lòng với cuộc sống hiện tại, với những gì mình đã làm và đang làm. Dù nhiều chuyện không như ý muốn, dù đôi khi cuộc sống này làm tôi phát điên, nhưng tôi vẫn không hối hận những tháng ngày đã sống trên đời.

Nên hôm nay, tôi lại mạo muội xin được đưa ra một lời khuyên nữa, một lời khuyên mà tôi đã dùng những năm tháng qua để thực hành và chứng minh. Một lời khuyên có thể giúp bạn cũng như tôi, sẽ không hối hận, sẽ không tiếc nuối và nhất là sẽ không sợ chết nữa, không sợ lúc về nhà lại nằm một chỗ ao ước giá như. Một lời khuyên ngắn gọn thôi: Sống, hãy trải nghiệm, trải nghiệm nhiều hơn, nhiều hơn nữa…

Bạn đã đọc bài “Thế giới khác rất tuyệt thời sinh viên” rồi chứ. Trong đó tôi có nói rõ rằng mình không phải một sinh viên giỏi, càng không thích môi trường đại học chút nào, nhưng để đánh đổi bất cứ gì để lấy khoảng thời gian làm sinh viên, tôi sẽ không đổi. Đơn giản vì đó là một khoảng thời gian tuyệt vời, tôi được trải nghiệm rất nhiều điều mới lạ, chính vì thế khoảng thời gian sinh viên trở thành khoảng thời gian tươi đẹp, ý nghĩa và đáng giá.

Cuộc sống hiện tại của tôi cũng vậy, khi đặt bản thân vào tâm thế trải nghiệm cuộc đời, mỗi ngày xảy đến với tôi đều thật tươi vui và mới mẻ. Ngày xưa tôi đi được mấy nơi và tưởng rằng mình đi được nhiều lắm. Ngày nay tôi đi được nhiều hơn xưa rất nhiều nhưng lại cảm thấy mình đi quá ít so với những người bạn tôi quen. Những người bạn tôi, bất cứ ai mà trải nghiệm cuộc sống nhiều hơn tôi, thú vị hơn tôi, tôi đều rất ghen tỵ với họ. Tôi thèm cái cảm giác được homestay trong nhà một người thiểu số của họ, tôi thèm được xách mũ bảo hiểm vừa đi vừa quá giang mọi người, tôi thèm được tự đi phượt khắp trời Âu, tôi thèm đủ thứ, bất cứ thứ gì người ta được trải qua còn tôi thì không, tôi thèm lắm, thế nên tôi vẫn sẽ và vẫn mãi không muốn dừng lại hành trình trải nghiệm của mình.

Trong công việc kinh doanh tôi thường hay bị một cậu bạn thân đang khá thành công lĩnh vực thời trang lắc đầu khó hiểu. Cậu ấy hỏi tôi sao lại phân tán đủ thứ như thế làm gì? Làm ít thôi, tập trung dô, làm cho một cửa hàng thật hiệu quả còn hơn mở đủ thứ mà không quản lý được. Tất nhiên tôi hiểu cậu, hiểu sự quan tâm của cậu và những gì cậu ấy nói hoàn toàn có lý. Nhưng tôi chỉ đơn giản là không thể nghe theo, vì hiện tại tôi không muốn chỉ làm việc vì tiền. Và nhất là, khác biệt ở chỗ tôi làm mọi thứ với tâm thế của người trải nghiệm. Tôi thử sức mình ở mọi lĩnh vực tôi yêu thích, ban đầu là thời trang, sau đó là lưu niệm, quán cafe, viết lách, sắp tới sẽ là về trà, nông nghiệp, sản xuất kinh doanh, dịch vụ homestay và rồi bất động sản… Bất cứ thứ gì tôi đủ quan tâm tôi sẽ làm thử, không chắc là mình làm tốt và thành công nhưng chắc chắn sau mỗi thất bại đi chăng nữa tôi đều học hỏi được rất rất nhiều.

Tôi 24, cái tuổi không lớn, nhưng tôi dám cá là mình hơn rất nhiều người lớn tuổi khác về khoản những trải nghiệm. Đó là điều khiến tôi tự hào. Vậy nên, nếu bạn cũng muốn có gì đó để bản thân thấy tự hào, mà những thứ đó không thể là gia cảnh, công việc tốt, ngoại hình đẹp…. thì hãy chọn con đường làm giàu trải nghiệm để bản thân có thể tự hào về chính mình. Bạn có làm được không?

Tự  nhiên tôi tưởng tượng về một thế giới, mà không, một Việt Nam hoàn toàn khác. Một Việt Nam mà tuổi trẻ thực sự là một món quà lớn lao, nơi đó người ta xông pha trải nghiệm mọi thứ. Mọi sinh viên đều chủ động đi làm thêm, đều có những mục đích, định hướng cho riêng mình. Một nơi mà đi khắp nơi đều gặp tuổi trẻ đi trải nghiệm đông vui trên mọi nẻo đường. Nơi mà tuổi trẻ không ù lì, không thụ động, không ca thán, không đổ lỗi… Nơi mà tuổi trẻ mặc sức sáng tạo và được quyền làm mọi điều mình muốn. Khi đó, sức sống của dân tộc Việt Nam sẽ lại hồi sinh, mãnh liệt và đáng tự hào. Còn hiện tại thì sao? Việt Nam có thật là một quốc gia trẻ trung không? Hay chỉ đơn thuần là một quốc gia nhiều người trẻ tuổi nhưng khả năng vận động lại yếu ớt như những cụ già? Bạn có yêu nước không? Có muốn thay đổi điều đó không? Thế thì hãy bắt tay hành động đi, đừng nói câu “tương lai đất nước nằm trên vai các con, các cháu” nữa. Biết bao thế hệ người Việt Nam ta nói câu đó mỗi ngày rồi? Tại sao không chính chúng ta chịu một phần trọng trách đó mà toàn trốn tránh và đùn đẩy cho các thế hệ sau? Tuyệt đối đừng nói câu đó nữa mà hãy tự mình hành động đi thôi. Với các bạn trẻ, hãy nhào vào đời, hãy trải nghiệm đi, mà mở mang tầm mắt, mà học hỏi, mà lớn lên… Bởi vì, không có trải nghiệm, tuổi trẻ không đáng một xu đâu!

Tuyệt đối không một ai trên đời phải hối hận vì trải nghiệm quá nhiều. Bởi lẽ với trải nghiệm thì bao nhiêu cũng không đủ. Ấy thế mà bạn vẫn  muốn để tuổi trẻ trôi qua mà không có trải nghiệm gì sao? Đừng tìm kiếm xa xôi, kho báu tuổi trẻ là thời gian và sức khỏe đang ngay trong bạn đấy. Hãy tận dụng nó đi! Ngay đi!

 

 Phi Tuyết

 

 

 

 

Thị trường và đạo đức (kỳ 16)

 

Ludwig von Mises – Cơ sở kinh tế của tự do

Động vật hành động vì những thôi thúc bản năng. Chúng làm theo những xung động mạnh mẽ nhất và đòi đáp ứng ngay tại mỗi thời điểm. Chúng là những con rối của những ham muốn của chính chúng.

Con người khác loài vật ở chỗ biết lựa chọn giữa những phương án khác nhau. Con người điều chỉnh hành vi của mình một cách có cân nhắc. Con người có thể làm chủ được những xung động và ước muốn của mình, con người có đủ sức kìm nén những ước muốn mà để đáp ứng chúng thì phải hy sinh những mục tiêu quan trọng hơn. Nói ngắn: con người hành động, con người hướng tới những mục tiêu đã được lựa chọn. Đấy là điều chúng ta nghĩ trong đầu khi chúng ta tuyên bố rằng con người là một nhân vật đức hạnh, nhận vật tự chịu trách nhiệm cho nhân cách của mình.

Tự do là định đề của đức hạnh

Tất cả những học thuyết và những lời giáo huấn về đức hạnh, dù là dựa trên tín điều tôn giáo hay học thuyết thế tục, thí dụ như những người khắc kỷ, đều giả định rằng các cá nhân tự chủ về mặt đạo đức và vì vậy mà tất cả những học thuyết và lời giáo huấn đó đều viện đến lương tâm của mỗi cá nhân. Tất cả các học thuyết này đều giả định rằng cá nhân có quyền tự do lựa chọn giữa những phương án hành xử khác nhau và đòi hỏi rằng phải hành xử phù hợp với những quy tắc xác định, tức là phải hành xử theo các quy tắc đạo đức. Làm điều tốt, tránh xa điều xấu.

Rõ ràng là những lời cổ vũ và khuyên răn về đức hạnh chỉ có ý nghĩa khi ta nói với những người tự do mà thôi. Nói điều đó với những người nô lệ là việc làm vô nghĩa. Nói với người nông nô cái gì là tốt, cái gì là xấu cũng chẳng được ích lợi gì. Anh ta không được tự do lựa chọn cách hành xử của mình, anh ta bị buộc phải nghe theo mệnh lệnh của chủ. Thật khó có thể lên án anh ta nếu anh ta làm theo lệnh của chủ dù có thể bị những hình phạt cực kỳ tàn ác, đe dọa không chỉ anh ta mà cả người thân trong gia đình anh ta nữa.

Đấy là lý do vì sao tự do không chỉ là định đề chính trị mà còn là định đề quan trọng của mọi nền đạo đức, cả tôn giáo lẫn thế tục.

Cuộc đấu tranh cho tự do

Trong hàng ngàn năm, phần đông nhân loại hoàn toàn hay ít nhất là về nhiều mặt đã không được quyền lựa chọn giữa cái đúng và cái sai. Trong xã hội chia thành đẳng cấp của những ngày đã qua đó, những giai tầng bên dưới (đa phần dân chúng) thường bị hệ thống kiểm soát khắt khe ngăn chặn. Biểu hiện rõ ràng nhất của nguyên tắc này là quy chế của Đế chế La Mã, cho phép các ông hoàng và bá tước của đế chế có quyền quyết định trách nhiệm tôn giáo của những người dưới quyền họ.

Người phương Đông ngoan ngoãn quy thuận tình trạng này. Nhưng những người Thiên chúa giáo và hậu duệ của họ ở những vùng lãnh thổ hải ngoại chưa bao giờ ngừng đấu tranh cho tự do. Họ đã xóa bỏ dần tất cả đặc quyền đặc lợi của các giai tầng và đẳng cấp và xóa bỏ những điều kiện bất lợi cho đến khi thiết lập được điều mà những nhà tiên khu của chế độ toàn trị cố gắng bôi nhọ bằng cách gọi đấy là hệ thống tư sản.

Uy thế của người tiêu dùng

Nền tảng kinh tế của hệ thống tư bản là kinh tế thị trường, trong đó người tiêu dùng là “thượng đế”. Người tiêu dùng, nghĩa là tất cả mọi người, quyết định – bằng cách mua hay không mua – cần sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu và chất lượng ra sao. Các doanh nhân – do tính toán lời lỗ – buộc phải tuân thủ mệnh lệnh của người tiêu dùng. Chỉ những doanh nghiệp cung cấp một cách tốt nhất và rẻ nhất những món hàng và dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua nhất mới có thể phát đạt được mà thôi. Những doanh nghiệp không đáp ứng được người tiêu dùng sẽ bị lỗ và cuối cùng phải ngừng kinh doanh.

Trong giai đoạn tiền tư bản người giàu là những người có những điền sản lớn. Họ hay tổ tiên của họ có được tài sản là do nhà vua – người mà nhờ họ giúp đỡ đã chiếm được đất nước và nô dịch được những người sống trên vùng đất đó – ban tặng (dưới dạng thái ấp hay đất phong). Những điền chủ quý tộc đó là những ông chủ thật sự, họ không cần người mua. Nhưng người giàu trong xã hội công nghiệp tư bản lại phụ thuộc vào thị trường. Họ kiếm được tài sản là do phục vụ người tiêu dùng tốt hơn những người khác và họ sẽ bị mất tài sản khi những người kia đáp ứng được ước muốn của người tiêu dùng tốt hơn hay rẻ hơn họ.

Trong nền kinh tế thị trường tự do, người chủ tư bản buộc phải đầu tư vào những ngành có thể phục vụ xã hội một cách tốt nhất. Do đó, quyền sở hữu hàng hóa tư bản liên tục được chuyển vào tay những người biết cách phục vụ người tiêu dùng một cách tốt nhất. Hiểu theo nghĩa này, trong nền kinh tế thị trường, tài sản tư nhân là một loại dịch vụ công cộng, buộc người chủ sở hữu phải sử dụng nó nhằm đáp ứng một cách tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng. Đấy là cái mà các nhà kinh tế học hàm ý khi họ gọi kinh tế thị trường là nền dân chủ, trong đó từng đồng xu đều có quyền bỏ phiếu.

Khía cạnh chính trị của tự do

Chính phủ đại diện là hệ quả chính trị tất yếu của nền kinh tế thị trường. Phong trào tư tưởng xây dựng lên chế độ tư bản hiện đại cũng là phong trào đã đưa các quan chức được bầu thế chỗ cho chính quyền độc tài của những ông vua chuyên chế và những nhà quý tộc cha truyền con nối. Chính cái chủ nghĩa tự do tư sản vẫn bị người ta chê bai đó đã đem đến tự do lương tâm, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí và đặt dấu chấm hết cho những sự ngược đãi bất công đối với những người bất đồng.

Đất nước tự do là đất nước, trong đó mỗi công dân đều có quyền tự do sống theo ý mình. Người công dân được tự do cạnh tranh trên thương trường nhằm giành lấy những công việc mà anh ta ưa thích nhất và trên sân khấu chính trị thì giành lấy những chức vụ cao nhất. Anh ta phụ thuộc vào thiện ý của người khác như thế nào thì những người kia cũng phụ thuộc vào thiện ý của anh ta như thế ấy. Muốn thành công trên thương trường, anh ta phải làm cho người tiêu dùng hài lòng; muốn thành công trong lĩnh vực công, anh ta phải làm cho cử tri hài lòng.

Hệ thống này đã đem đến cho những nước tư bản phương Tây, Mĩ, Australia mức độ gia tăng dân số chưa từng có trước đây và đem đến cho họ mức sống cao chưa từng thấy. “Người dân bình thường” được hưởng những thứ mà ngay cả những người giàu có nhất trong thời tiền tư bản cũng không dám mơ ước. Anh ta được hưởng những thành quả tinh thần của khoa học, của thi ca và nghệ thuật mà trước đây chỉ có nhóm tinh hoa trong số những người giàu có mới được tiếp cận mà thôi. Và anh ta được tự do thờ cúng theo lương tâm của mình.

Sự xuyên tạc của phái xã hội chủ nghĩa

Tất cả những sự kiện liên quan tới hoạt động của hệ thống tư bản chủ nghĩa đã bị các chính trị gia và người cầm bút tự dán lên mình nhãn mác của chủ nghĩa tự do xuyên tạc và bóp méo. Thế mà trong thế kỷ XIX chủ nghĩa tự do chính là trường phái tư tưởng đã đập tan chính quyền độc đoán của vua chúa và quý tộc và mở đường cho tự do thương mại và tự do kinh doanh. Theo những người biện hộ cho sự trở lại của chế độ chuyên chế thì tất cả những điều xấu xa đang làm bại hoại nhân loại đều từ những âm mưu nham hiểm của những nhà tư sản kếch xù mà ra, muốn đem lại của cải và hạnh phúc cho người dân lương thiện thì phải đặt những công ty này dưới quyền kiểm soát ngặt nghèo của chính phủ.

Họ thừa nhận – mặc dù mới chỉ gián tiếp – rằng điều đó có nghĩa là chấp nhận chủ nghĩa xã hội, chấp nhận Liên Xô. Nhưng họ bảo là chủ nghĩa xã hội trong các nước phương Tây sẽ hoàn toàn khác với chủ nghĩa xã hội ở Nga. Và dù thế nào đi nữa thì đấy cũng là biện pháp duy nhất có thể áp dụng nhằm tước đoạt quyền lực của những công ty khổng lồ và ngăn chặn, không để chúng tiếp tục xâm phạm lợi ích của nhân dân.

Muốn chống lại trò tuyên truyền cuồng tín này thì phải nhắc đi nhắc lại sự thật là chính các doanh nghiệp lớn đã mang đến cho quần chúng mức sống cao chưa từng có. Những món hàng xa xỉ phẩm dành cho một số ít người giàu có có thể được những doanh nghiệp nhỏ sản xuất. Nhưng nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa tư bản là sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người. Chính những người làm cho các công ty lớn lại cũng là những người tiêu thụ những sản phẩm do họ làm ra.

Quan sát gia đình những người có thu nhập trung bình ở Mĩ, bạn sẽ thấy bánh xe của máy móc đang quay vì ai. Chính các công ty lớn đã làm cho người dân bình thường tiếp cận được với những thành tựu của công nghệ hiện đại. Năng suất lao động cao của nền sản xuất lớn làm cho mọi người đều được lợi.

Nói về “quyền lực” của doanh nghiệp lớn là việc làm ngu xuẩn. Biểu hiện chủ yếu nhất của chủ nghĩa tư bản trong tất cả các vấn đề kinh tế là quyền lực tối cao nằm trong tay người tiêu dùng. Tất cả các doanh nghiệp lớn đều phát triển từ một xuất phát điểm khiêm tốn, chúng lớn lên là nhờ sự ủng hộ của người tiêu dùng. Không có doanh nghiệp vừa và nhỏ nào có thể đưa ra những sản phẩm mà không người Mĩ nào muốn mua.

Công ty càng lớn thì càng phụ thuộc vào thiện ý của người tiêu dùng. Chính ước muốn (có người nói là sự điên rồ) của người tiêu dùng đã thúc đẩy ngành sản xuất ô tô làm ra những chiếc xe to đùng và bây giờ lại buộc họ phải sản xuất những chiếc xe nhỏ hơn. Các cửa hàng và siêu thị phải thường xuyên điều chỉnh, thường xuyên đổi mới hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu luôn luôn thay đổi của người tiêu dùng. Quy luật căn bản nhất của thị trường là: khách hàng bao giờ cũng đúng.

Những người phê phán hoạt động kinh doanh và làm ra vẻ như nắm được những biện pháp cung cấp tốt hơn thực chất chỉ là kẻ ba hoa chích chòe vô công rồi nghề mà thôi. Nếu những người đó nghĩ rằng biện pháp của họ hoàn hảo hơn thì tại sao họ không tự mình đem ra thử? Ở đất nước này lúc nào cũng có những nhà tư sản đang tìm kiếm cơ hội đầu tư, họ sẵn sàng cung cấp vốn cho bất kỳ sáng kiến hữu lý nào.

Xã hội bao giờ cũng muốn mua những món hàng tốt hơn hoặc rẻ hơn hoặc vừa tốt hơn vừa rẻ hơn. Trên thương trường, giá trị không phải là lời nói mà là việc làm. Nói không làm cho các “ông trùm tư bản” trở thành giàu có được, phục vụ những người tiêu dùng đã làm cho họ trở thành những người giàu có như thế.

Tích lũy tư bản làm cho mọi người đều được lợi

Hiện nay sành điệu là người phớt lờ sự kiện sau đây: tất cả sự tiến bộ về mặt kinh tế đều phụ thuộc vào quá trình tiết kiệm và tích lũy tư bản. Không một thành tựu tuyệt vời nào của khoa học và công nghệ có thể được đem ra áp dụng trong thực tiễn nếu số vốn cần thiết không được tích lũy sẵn từ trước.

Điều cản trở những nước lạc hậu về kinh tế, không cho họ triển khai tất cả những lợi thế của những phương pháp sản xuất của phương Tây và vì vậy mà tiếp tục giam hãm nhân dân các nước đó trong cảnh bần hàn không phải là họ chưa làm quen với công nghệ mà là do đồng vốn ở đó không có hiệu quả. Khẳng định rằng vấn đề của các nước chưa phát triển là thiếu hiểu biết kỹ thuật, không có “know-how” là sai. Đa số các doanh nhân và các kỹ sư của họ đều tốt nghiệp tại những trường tốt nhất của châu Âu và Mĩ, những người này nắm được các môn khoa học ứng dụng. Nhưng họ bị trói chân trói tay vì thiếu vốn.

Một trăm năm trước, nước Mĩ thậm chí còn nghèo hơn các nước này. Chính “chủ nghĩa cá nhân thô lậu”, trong những năm trước khi có Chính sách mới (New Deal), không tạo ra những trở ngại trầm trọng cho những người có sáng kiến đã biến nước Mĩ thành đất nước giàu có nhất thế giới. Doanh nhân trở thành những người giàu có vì họ chỉ tiêu dùng một phần nhỏ lợi nhuận của mình và đầu tư trở lại phần lớn số tiền kiếm được. Đấy là cách họ làm cho mình và đồng thời làm cho những người khác cùng trở thành giàu có. Tích lũy tư bản làm cho năng suất lao động tăng lên và đồng lương cũng tăng lên theo.

Trong chế độ tư bản, lòng tham của từng doanh nhân riêng lẻ làm cho không chỉ anh ta mà tất cả những người khác đều được lợi. Có mối quan hệ hỗ tương giữa tài sản mà anh ta thu về thông qua việc phục vụ người tiêu dùng và số tư bản tích lũy được, và sự cải thiện điều kiện sống của những người làm công ăn lương, cũng là những người tiêu dùng.

Quần chúng nhân dân, cả trong vai trò người làm công ăn lương lẫn người tiêu dùng đều muốn việc làm ăn luôn phát đạt. Đấy chính là tâm tư của những người theo trường phái tự do trước đây khi họ tuyên bố rằng trong nền kinh tế thị trường quyền lợi chân chính của tất cả các nhóm dân cư đều được điều hòa, hài hòa quyền lợi là hiện tượng giữ thế thượng phong.

Chế độ tập quyền đe dọa thịnh vượng kinh tế

Người công dân Mĩ sống và làm việc trong trạng thái tinh thần và đạo đức của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Điều kiện ở một số khu vực ở Mĩ vẫn còn kém xa so với dân cư những khu vực phát triển hơn, mà đây lại là phần lãnh thổ rộng lớn hơn. Nhưng tốc độ công nghiệp hóa nhanh chóng đáng lẽ đã xóa bỏ được những khu vực lạc hậu nhỏ bé này từ lâu nếu chính sách Kinh tế mới không làm chậm lại quá trình tích lũy tư bản, một phương tiện không thể thay thế được đối với sự cải thiện nền kinh tế.

Đã quen với những điều kiện của chủ nghĩa tư bản, người dân bình thường ở Mĩ coi việc doanh nghiệp mỗi năm đều tạo ra một điều gì đó mới mẻ và dễ dàng tiếp cận hơn là chuyện đương nhiên. Nhìn lại những năm trước đây của chính cuộc đời mình, người ta thấy rằng nhiều đồ đạc mà thời trai trẻ người ta chưa hề biết và nhiều thứ thời đó rất ít người được sử dụng thì nay đã trở thành thiết bị bình thường hầu như của mọi gia đình.

Người ta tin tưởng rằng xu hướng đó sẽ vẫn còn giữ thế thượng phong trong tương lai. Người ta gọi nó một cách đơn giản là “Lối sống Mĩ” và không hề suy nghĩ nghiêm túc về câu hỏi: điều gì làm cho sự cải thiện liên tục như thế trở thành khả thi? Người ta không hề bận tâm về hoạt động của những tác nhân chắc chắn sẽ chặn đứng quá trình tích lũy tư bản mà còn có thể chẳng bao lâu nữa sẽ làm cho nó phân tán ra nữa.

Người ta không phản đối những lực lượng (bằng cách gia tăng những khoản chi tiêu công, cắt giảm việc tích lũy tư bản và thậm chí còn mang ra dùng ngay một phần vốn đã được đầu tư vào doanh nghiệp và cuối cùng là gây ra nạn lạm phát) đang phá hoại ngay chính cơ sở của sự thịnh vượng về mặt vật chất của anh ta. Người ta không bận tâm tới sự phình ra của bộ máy nhà nước, mà ở đâu làm như thế thì cũng đều dẫn đến kết quả là tạo ra hoặc giữ lại những thứ mà người ta cho là cực kỳ xấu xa.

Không có tự do kinh tế thì không thể có tự do cá nhân

Đáng tiếc là nhiều người cùng thời với chúng ta không nhận thức được rằng sự phình lên của bộ máy nhà nước và đem quyền năng vô hạn của nhà nước thay cho nền kinh tế thị trường thì chắc chắn sẽ làm cho đạo đức của người ta thay đổi đến mức nào. Người ta nghĩ rằng hoạt động của con người chia thành hai lĩnh vực rõ ràng – một bên là lĩnh vực hoạt động kinh tế còn bên kia là lĩnh vực hoạt động được coi là phi kinh tế. Họ nghĩ rằng hai lĩnh vực này chẳng liên quan gì với nhau hết. Cái tự do mà chủ nghĩa xã hội xóa bỏ “chỉ là” tự do hoạt động kinh tế, còn tự do trong tất cả các lĩnh vực khác đều vẫn giữ nguyên không suy xuyển.

Nhưng đây không phải là hai lĩnh vực độc lập với nhau như học thuyết này nói. Loài người không bơi trên chín tầng mây. Mọi việc con người làm đều nhất định sẽ tác động tới lĩnh vực kinh tế hoặc vật chất và đều đòi hỏi người đó phải có đủ sức mạnh để có thể tác động tới những lĩnh vực này. Muốn sống sót người ta phải đổ mồ hôi sôi nước mắt và phải có cơ hội sử dụng một số tài sản vật chất hữu hình nào đó.

Nhiều người lầm lẫn khi cho rằng những sự kiện diễn ra trên thương trường chỉ liên quan đến khía cạnh kinh tế của đời sống mà thôi. Nhưng trên thực tế, giá cả trên thị trường phản ánh không chỉ “những mối quan tâm về mặt vật chất” như thức ăn, nhà ở và những tiện nghi khác, mà còn phản ảnh cả những mối quan tâm thường được gọi là tinh thần hay cao quý nữa.

Theo hoặc không theo những điều răn của tôn giáo (hoàn toàn không làm một số việc nào đó hoặc không làm trong những ngày đặc biệt nào đó, giúp những người khốn khó, xây dựng hoặc sửa chữa nơi thờ phụng và nhiều việc khác nữa) là một trong những nhân tố quyết định việc cung cấp và nhu cầu về những loại hàng hóa tiêu dùng khác nhau và vì vậy mà cũng quyết định giá cả và hành động của doanh nghiệp.

Cái tự do mà nền kinh tế thị trường bảo đảm cho cá nhân không đơn giản chỉ là tự do “kinh tế”, tách biệt hẳn với những quyền tự do khác. Nó còn ngụ ý cả quyền tự do quyết định tất cả những vấn đề được coi là đạo đức, tinh thần hay trí tuệ nữa.

Bằng cách kiểm soát toàn diện và tuyệt đối tất cả các tác nhân của quá trình sản xuất, chế độ xã hội chủ nghĩa còn kiểm soát toàn bộ đời sống của cá nhân nữa. Chính phủ phân cho mỗi người một công việc cụ thể. Chính phủ quyết định được in và được đọc những loại sách báo nào, ai được hưởng thú vui viết lách, ai được quyền sử dụng phòng họp công cộng, được quyền phát ngôn và được quyền sử dụng tất cả các phương tiện thông tin liên lạc khác.

Điều đó có nghĩa là những người nắm quyền điều khiển những công việc của chính phủ cũng là những người quyết định tối hậu tư tưởng nào, học thuyết nào, giáo lý nào thì được tuyên truyền còn tư tưởng nào, học thuyết nào, giáo lý nào thì không. Dù hiến pháp thành văn và được phổ biến có thể nói về tự do lương tâm, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và về việc không can thiệp vào các vấn đề tôn giáo thì trong chế độ xã hội chủ nghĩa, khi chính phủ không cung cấp những điều kiện vật chất cho việc thực hiện những quyền đó thì chúng chỉ là những ngôn từ chết mà thôi. Người nào nắm độc quyền toàn bộ phương tiện thông tin thì kẻ đó cũng nắm chắc trong tay mình trái tim và khối óc của tất cả những người khác.

Điều làm cho nhiều người hoàn toàn không nhận thức được những tính chất căn bản của hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng như những hệ thống toàn trị khác là ảo tưởng cho rằng hệ thống này sẽ được vận hành theo đúng như những gì họ nghĩ là đáng ao ước nhất. Trong khi ủng hộ chủ nghĩa xã hội, họ cho rằng đương nhiên là “nhà nước” lúc nào cũng sẽ làm cái mà họ muốn nó làm. Họ chỉ coi chế độ toàn trị kiểu đó mới là chủ nghĩa xã hội “chân chính” “thực tế” hoặc “tốt đẹp”, đấy là chế độ mà những người cầm quyền tương thích với ý tưởng của chính họ.

Tất cả những kiều khác đều bị họ coi là giả mạo hết. Điều đầu tiên họ chờ đợi ở bạo chúa là ông ta sẽ dẹp hết những ý tưởng trái ngược với ý tưởng của họ. Trên thực tế, tất cả những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội kiểu đó đều là những người bị ám ảnh bởi phức cảm độc tài hay toàn trị mà chính họ cũng không biết. Họ muốn chính phủ dùng vũ lực tiêu diệt hết những ý kiến và kế hoạch mà họ không đồng ý.

Ý nghĩa của quyền được bất đồng

Những nhóm ủng hộ chủ nghĩa xã hội khác nhau – dù họ có tự gọi là cộng sản, xã hội hay đơn giản là cải cách xã hội thì cũng thế – đồng ý với nhau về một cương lĩnh chính trị nòng cốt. Tất cả bọn họ đều muốn dùng bộ máy kiểm soát hoạt động sản xuất của nhà nước (hay như một số người thích gọi là kiểm soát của xã hội) thay thế cho kinh tế thị trường cùng với những người tiêu dùng đầy uy quyền của nó. Họ chia rẽ không phải vì những vấn đề về quản lý kinh tế mà vì đức tin tôn giáo hay ý thức hệ.

Có những người xã hội chủ nghĩa Thiên chúa giáo (Tin lành hay Công giáo) và có những người xã hội chủ nghĩa vô thần. Mỗi một kiểu chủ nghĩa xã hội này lại cho rằng quốc gia xã hội chủ nghĩa đương nhiên là sẽ được dẫn dắt bởi những giáo huấn tôn giáo của họ hoặc phủ nhận bất kỳ giáo lý nào. Họ không bao giờ nghĩ đến khả năng là chế độ xã hội chủ nghĩa có thể được cai trị bởi những người thù địch với đức tin hay những nguyên tắc đạo đức của họ, những kẻ có thể coi nhiệm vụ của họ là sử dụng tất cả sức mạnh khủng khiếp của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm đàn áp tất cả những gì mà dưới con mắt của họ là sai lầm, mê tín dị đoan hay sùng bái ngẫu tượng.

Sự thật đơn giản là cá nhân chỉ được quyền tự do lựa chọn giữa điều mà họ coi là đúng và điều mà họ coi là sai khi họ độc lập về mặt kinh tế với chính phủ. Chính phủ xã hội chủ nghĩa có đủ sức mạnh làm cho bất đồng ý kiến trở thành bất khả thi, bằng cách kỳ thị những nhóm tôn giáo hay ý thức hệ mà họ không ưa và không cung cấp cho những nhóm này phương tiện vật chất cần thiết cho việc truyền bá và thực hành đức tin của họ. Hệ thống độc đảng, cũng là nguyên tắc chính trị của luật pháp xã hội chủ nghĩa, còn hàm ý một tôn giáo và một hệ thống đạo đức nữa.

Chính phủ xã hội chủ nghĩa nắm trong tay những phương tiện có thể được sử dụng nhằm tạo ra sự phục tùng nghiêm ngặt trên tất cả các mặt, chính phủ quốc xã gọi đấy là Gleichschaltung (phục tùng chính trị). Các nhà sử học đã chỉ ra rằng trong giai đoạn Cải cách[i], in ấn có vai trò quan trọng. Nhưng nếu tất các máy in đều do chính phủ dưới quyền Charles V của Đức hay những ông vua vương triều Valois của Pháp[ii] thì các nhà cải cách còn có cơ hội nào hay không? Tương tự như thế, nếu tất cả các phương tiện thông tin liên lạc đều nằm trong tay nhà nước thì Marx còn có cơ hội nào hay không?

Tất cả những người yêu chuộng tự do lương tâm đều phải kinh tởm chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên là tự do tạo điều kiện cho con người làm không chỉ việc tốt mà còn cả việc xấu nữa. Nhưng hành động được thực hiện dưới áp lực của một chính phủ có quyền lực vô giới hạn thì dù tốt đến đâu cũng chẳng có tí giá trị đạo đức nào.

[themify_box style=”gray rounded” ]Ludwig von Mises (1881-1973) là lãnh tụ nổi tiếng của trường phái kinh tế Áo. Ông giảng dạy và viết về lý thuyết kinh tế, lịch sử, nhận thức luận, chính quyền và triết lý chính trị. Ông có những đóng góp quan trọng trong lý thuyết kinh tế, trong đó có lý thuyết về quan hệ giữa lượng tiền lưu thông và giá cả, lý thuyết về chu kỳ kinh doanh… Mises là học giả đầu tiên công nhận rằng kinh tế học chỉ là một phần của môn khoa học lớn hơn về hành vi của con người mà Mises gọi là “nghiên cứu hành vi của con người”.[/themify_box]

Bài này được đăng lần đầu trên tờ The Freeman, vào tháng 4 năm 1960, sau đó trở thành chương 1 cuốn: Tự do kinh tế và chủ nghĩa can thiệp (Economic Freedom and Interventionism – 1980).

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/daily/5310


 

[i] Ý nói cải cách tôn giáo ở châu Âu thế kỷ XVI-XVII.
[ii] Charles V của Đức (1500–1558), theo Thiên chúa giáo, khủng bố những người dị giáo ở Hà Lan và chiến đấu chống lại đạo Tin lành trong các công quốc Đức. Trong giai đoạn trị vì của dòng họ Valois ở Pháp (1328–1589) đã xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo, đấy là người tin lành, trong đó có người Huguenots, chiến đấu giành tự do thờ phụng.

Văn học nước nhà và quan điểm sáng tác của Nam Cao

Featured Image: Lê Huy

 

Thị trường là nơi chuyển giao sản phẩm, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, là một tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau, dẫn đến khả năng trao đổi. Thế nhưng, gần đây, ta lại thấy xuất hiện nhan nhản trên khắp các mặt báo hai chữ “thị trường” gắn sau các lĩnh vực nghệ thuật như: âm nhạc thị trường, phim thị trường… và mới đây nhất là văn học thị trường. Điều này làm không ít người lo ngại rằng văn học ra đời là để phục vụ nghệ thuật và phản ánh xã hội hay chỉ là để mua bán?!

Văn học là một loại hình sáng tác tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Và thế nào là một tác phẩm văn học hay? Nói một cách dễ hiểu thì đó là những tác phẩm phải chịu đựng được sự đào thải của thời gian. Nhà văn người Pháp André Maurois đã khuyên chúng ta:

“Chúng ta nên tin cậy nơi sự lựa chọn của các thế kỷ qua. Một người có thể lầm, một thế hệ có thể lầm nhưng cả nhân loại không thể lầm. Homère, Shakespeare, Molière chắc chắn là những người xứng đáng với danh tiếng của họ. Chúng ta sẽ chuộng các tác giả này hơn là các nhà chưa chịu sự thử của thời gian.”

Chúng ta có thể thấy các tác phẩm nổi tiếng khác đã trải qua không biết bao nhiêu sương gió của thời gian mà vẫn giữ nguyên giá trị của mình, như: Trà Hoa Nữ của Alexandre Dumas (con), Trăm Năm Cô Đơn của Gabriel Garcia Marquez, Chuông Nguyện Hồn Ai của Ernest Hemingway, The Godfather (Bố Già) của Mariopuzo… Ở Việt Nam thì có các tác phẩm như: Truyện Kiều của Nguyễn Du; Đời Thừa, Chí Phèo… của Nam Cao; Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng; Tắt Đèn của Ngô Tất Tố…

Các tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam đều được các tác giả viết trong giai đoạn đất nước gặp muôn trùng khó khăn. Tản Đà đã nói: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo.” Hay thậm chí nhà thơ Nguyễn Vĩ đã nói: “Thời thế bây giờ vẫn thấy khó / Nhà văn An nam khổ như chó / Mỗi lần cầm bút nói văn chương / Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương.” (Gửi Trương Tửu) Nhưng họ vẫn sẵn sàng cầm bút và cho ra những tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn bẳng cả một trái tim nhiệt huyết và một cái nhìn ngay thẳng, đúng đắn về thời thế. Nói đến đây, ta thử nhìn lại xem dòng văn học hiện tại của nước ta – dòng văn học thị trường – đã làm được những điều ấy chưa?

Dòng văn học nước ta đang ở mức báo động nếu không muốn gọi là mục nát, đến nỗi phải gọi là “văn học thị trường” âu cũng chỉ là để phục vụ một phong trào mà thôi. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các tác giả trẻ có lẽ là một phần làm cho văn học thị trường phát triển mạnh, vì họ ở tuổi còn trẻ, sống trong xã hội bây giờ và họ hiểu tâm lý của giới trẻ hơn các tác giả khác.

Phần lớn các tiểu thuyết, các sách do các tác giả trẻ viết đều là lối văn chương lãng mạn, ướt át và đánh đúng vào “tim đen” của giới trẻ. Giới trẻ tìm đến dòng văn học này ngày càng nhiều vì họ cảm thấy sự đồng cảm và an ủi trong những cuốn tiểu thuyết diễm tình đó, họ không cân nhắc trước khi đọc, họ bị “hiệu ứng đám đông” làm cho mù quáng và họ đã đánh mất đi “cái tôi” thực sự của mình.

Dẫu biết tình yêu là vẫn để muôn thuở của con người và việc đưa nó vào tiểu thuyết cũng là lẽ đương nhiên, nhưng nếu chúng ta không cân nhắc phải trái đúng sai thì hậu quả ắt sẽ khó lường. Cố học giả Nguyễn Duy Cần (hiệu Thu Giang) đã nói:

“Những loại tiểu thuyết diễm tình xa sự thực dẫn dắt những kẻ đầu óc non nớt, nhất là phụ nữ đa cảm đa tình đi vào con đường phiêu lưu lãng mạn ngoài thực tế đến nỗi quên rằng đời là một trường tranh đấu các danh vọng, quyền lợi của con người, và chỉ có những kẻ nào thật có bản lĩnh mới sống nỗi.”

Nếu xét sâu xa hơn ta sẽ thấy chính những cuốn tiểu thuyết diễm tình như thế này sẽ tạo nên những ảo mộng nơi con người, và khi hai “tâm hồn” ảo mộng ấy gặp nhau thì họ tưởng rằng người kia là ý trung nhân của mình. Cuộc hôn nhân này nếu có thể xảy ra thì cũng sẽ rất dễ đổ vỡ vì những hệ lụy sau hôn nhân quả là điều chưa dám nói tới. Cũng chính Nguyễn Duy Cần, ông đã nhấn mạnh:

“Tính lãng mạn của những tiểu thuyết kiểu như Tố Tâm, Werther đã làm hư hỏng đầu óc của thanh thiếu niên nam nữ không ít.”

Và hơn lúc nào hết, những lúc văn học nước ta đang phải chịu nhiều tai tiếng như thế này thì ta lại càng nhớ đến nhà văn Nam Cao, nhớ đến những quan điểm sáng tác của ông biết chừng nào. Nam Cao là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, là người có nhiều đóng góp lớn cho dòng văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945. Trước khi bước chân vào dòng văn học hiện thực, Nam Cao đã trải qua thứ văn chương ướt át, ủy mị của văn học lãng mạn và từ đó ông đã rút ra những kinh nghiệm để bày tỏ những quan điểm văn học đúng đắn và tiến bộ.

Là một nhà văn không nên chạy theo cái đẹp, cái thơ mộng của loại văn chương phù phiếm, loại văn chương xa lạ với đời sống để rồi quay lưng với thực tại xã hội. Nhà văn phải nói lên hiện thực, phải phản ánh nỗi khổ của cuộc đời, bởi văn học không thể tách rời cuộc sống. Tư tưởng này đã được Nam Cao thể hiện rõ trong truyện ngắn “Trăng Sáng” với nhà văn Điền: “Chao ôi! Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng kêu đau khổ thoát ra từ mọi kiếp lầm than.” Rõ ràng Nam Cao đã phê phán thứ văn chương lãng mạn và thoát ly hiện thực.

Bản chất của văn chương là sự sáng tạo, bởi văn chương không chấp nhận sự rập khuôn dễ dãi. Nếu nhà văn không tìm tòi, không sáng tạo thì không có văn chương. Tư tưởng này đã được Nam Cao bày tỏ trong truyện ngắn “Đời Thừa” qua phát ngôn của nhân vật Hộ:

“Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi những gì chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có.”

Nam Cao còn đưa ra quan điểm về thứ văn học chân chính. Văn học chân chính là thứ văn học thấm đẫm tính nhân đạo và đòi hỏi người cầm bút phải có lương tâm. Nhà văn muốn viết cho nhân đạo thì trước hết phải sống cho nhân đạo. Ông quan niệm: “Sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện.”

Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác rất nhiều, ông có trên 60 tác phẩm và đỉnh cao của văn học hiện thực. Nhưng, sau Cách mạng Nam Cao chỉ viết có hai tác phẩm, đó là truyện ngắn “Đôi Mắt” và “Nhật Ký Ở Rừng”. Điều này không phải do nhà văn cạn nguồn cảm hứng mà do ông quan niệm: “Sống rồi hãy viết.” Nhà văn phải xâm nhập thực tế, tìm được các nguồn cảm xúc thì mới có được những tác phẩm có giá trị. Đây là thái độ sống đẹp đẽ của một nhà văn chân chính.

Vậy là đã hơn 62 năm kể từ ngày Nam Cao trở về với cát bụi, nhưng quan điểm sáng vẫn được xem là cổ nhưng không cũ và đã trở thành kim chỉ nam của nhiều nhà văn. Trong thời kỳ đổi mới, đến năm 1987, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho ra đời truyện ngắn: “Chiếc Thuyền Ngoài Xa” và vẫn còn phản phất rất nhiều quan điểm văn học của Nam Cao.

Nếu nhà văn nào đến bây giờ vẫn còn vận dụng những quan điểm này trong các sáng tác của mình thì ắt sẽ có được những tác phẩm hay. Và để vì một đất nước với một nền văn học chân chính thì đã đến lúc các nhà văn, các hội nhà văn cần phải áp dụng các quan điểm nghệ thuật này của Nam Cao vào các sáng tác của mình.

 

Linh Hoàng