21.5 C
Da Lat
Thứ Hai, 29 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 162

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 1)

 

 

Dẫn nhập

1. Chủ nghĩa tự do

Các nhà triết học, xã hội học và kinh tế học thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX đã trình bày có hệ thống một cương lĩnh chính trị, dùng làm kim chỉ nam cho chính sách xã hội, đầu tiên là ở Anh và Mĩ và sau đó là trên toàn lục địa châu Âu, và cuối cùng đã lan toả ra tất cả những khu vực có người ở trên toàn thế giới. Nhưng nó chưa được thực hiện một cách trọn vẹn ở bất cứ đâu. Ngay cả ở Anh, đất nước được gọi là quê hương của chủ nghĩa tự do và là đất nước tự do mẫu mực, những đồ đệ của chính sách tự do cũng chưa bao giờ thực hiện được tất cả các đòi hỏi của mình.

Một số nước chỉ chấp nhận một phần cương lĩnh tự do, trong khi những nước khác – những nước có vị trí quan trọng không kém – hoặc là từ chối ngay từ đầu hoặc là từ bỏ sau một thời gian. Phải có một chút cường điệu thì người ta mới có thể nói rằng thế giới đã từng trải qua thời đại tự do. Chủ nghĩa tự do chưa bao giờ được hưởng thành quả trọn vẹn.

Mặc dù chỉ giữ thế thượng phong trong những giai đoạn ngắn ngủi và trong những khu vực hạn chế, những tư tưởng tự do cũng đủ sức làm thay đổi toàn bộ bộ mặt của trái đất. Kinh tế đã phát triển vượt bậc. Việc giải phóng sức sản xuất của con người đã nâng mức sống của con người lên gấp mấy lần trước đây.

Trước chiến tranh [Thế giới thứ nhất] (chính cuộc chiến này cũng là kết quả của cuộc đấu tranh khốc liệt và lâu dài nhằm chống lại các tư tưởng tự do và báo hiệu những cuộc tấn công còn khốc liệt hơn vào những nguyên lý của tự do) thế giới đã có mật độ dân cư cao chưa từng thấy, còn dân chúng thì có mức sống cũng cao chưa từng thấy. Sự thịnh vượng mà chủ nghĩa tự do tạo ra đã làm giảm đáng kể tử suất ở trẻ sơ sinh, một tai hoạ khủng khiếp của những thời đại trước, và việc cải thiện điều kiện sống đã dẫn đến kết quả là tuổi thọ trung bình của người dân gia tăng.

Sự thịnh vượng không chỉ đến với giai tầng những kẻ đặc quyền đặc lợi. Trước chiến tranh [Thế giới thứ nhất] công nhân trong các nước công nghiệp ở châu Âu và ở Mĩ cũng như ở những nước thuộc địa của Anh đã sống trong những điều kiện thuận lợi hơn và sang trọng hơn cả những ông hoàng bà chúa trước đó chưa lâu. Người công nhân không chỉ có thể ăn uống đầy đủ mà còn có thể cho con đi học; nếu muốn, anh ta còn thể tham gia vào đời sống sống trí tuệ và văn hoá của đất nước; và anh ta có thể nâng cao được địa vị xã hội của mình, nếu có đủ tài năng và nhiệt huyết.

Trong những nước tiến xa nhất trong việc áp dụng cương lĩnh tự do, thành phần chính của đỉnh kim tự tháp xã hội lại không phải là những người được hưởng đặc quyền đặc lợi nhờ được thừa kế tài sản hoặc địa vị của cha mẹ mà là những người, trong những điều kiện thuận lợi, biết dùng sức mạnh của mình để vượt qua những hoàn cảnh khó khăn và tiến lên.

Hàng rào ngăn cách chủ nhân và người nô lệ trong các thế kỷ trước đã sụp đổ. Chỉ còn lại những người công dân bình quyền. Không ai cản trở ai, không có ai bị truy bức vì lý do sắc tộc, quan điểm hay tôn giáo nữa. Không còn những vụ khủng bố vì lý do chính trị và tôn giáo nữa, chiến tranh giữa các nước cũng ít dần đi. Những người lạc quan đã nói tới bình minh của thời đại hoà bình vĩnh cửu.

Nhưng các sự kiện đã xoay theo hướng khác. Trong thế kỷ XIX đã xuất hiện một loạt những người chống đối mạnh mẽ và quyết liệt chủ nghĩa tự do. Họ đã quét sạch phần lớn thành quả mà những người tự do đã giành được. Hiện nay thế giới không còn muốn nghe về chủ nghĩa tự do nữa. Bên ngoài nước Anh, thuật ngữ Chủ nghĩa tự do đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Còn bên trong nước Anh, chắc chắn là vẫn còn “những người tự do”, nhưng đa phần đấy chỉ còn là tên gọi. Trên thực tế, họ chính là những người xã hội chủ nghĩa ôn hoà.

Hiện nay, ở đâu thì quyền lực chính trị cũng đều nằm trong tay các đảng phái có tư tưởng bài tự do cả. Cương lĩnh của các đảng phái bài tự do đã tháo cũi xổ lồng những lực lượng gây ra cuộc Đại chiến vừa qua, và bằng cách đặt ra hạn ngạch xuất nhập khẩu, thuế quan, hạn chế nhập cư và những biện pháp tương tự khác, những lực lượng này đã đưa các dân tộc trên thế giới vào tình trạng bế quan toả cảng lẫn nhau.

Còn trong mỗi nước, cương lĩnh này đã dẫn đến những cuộc thí nghiệm theo đường lối xã hội chủ nghĩa mà kết quả là năng suất lao động giảm, nghèo đói gia tăng. Tất cả những ai không cố tình nhắm mắt trước hiện thực đều phải công nhận rằng ở đâu họ cũng nhìn thấy tín hiệu của một thảm hoạ kinh tế thế giới đang đến gần. Tư tưởng bài tự do đang dẫn nền văn minh đến một vụ sụp đổ toàn diện.

Đọc lịch sử và tìm hiểu xem những chính khách theo đường lối tự do ủng hộ những chính sách nào và họ đã giành được những gì chưa thể cho ta biết chính xác chủ nghĩa tự do là gì và nó nhắm đến những mục tiêu nào. Vì, chủ nghĩa tự do chưa thực hiện được trọn vẹn cương lĩnh của mình, ở đâu thì cũng thế.

Cương lĩnh và hành động của các đảng hiện nay tự gọi là tự do cũng không giúp chúng ta hiểu rõ được bản chất của chủ nghĩa tự do chân chính. Như đã nói bên trên, ngay cả ở nước Anh, hiện nay chủ nghĩa tự do làm người ta nhớ đến phong trào Tori và chủ nghĩa xã hội hơn là cương lĩnh của những người ủng hộ tự do thương mại xưa kia. Nếu những người theo trường phái tự do mà lại cho rằng quốc hữu hoá đường sắt, hầm mỏ và những xí nghiệp khác, thậm chí ủng hộ những sắc thuế mang tính bảo hộ là phù hợp với quan điểm của mình thì ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng chủ nghĩa tự do chỉ còn là một cái tên mà thôi.

Hiện nay, nghiên cứu các trước tác của những người sáng lập vĩ đại của phong trào cũng chưa thể giúp ta hiểu được tất cả các tư tưởng của chủ nghĩa tự do. Chủ nghĩa tự do không phải là một học thuyết đã hoàn chỉnh hay một giáo điều bất di bất dịch. Ngược lại: đấy chính lá áp dụng lý thuyết khoa học vào đời sống xã hội của con người.

Cũng như kinh tế học, xã hội học không dẫm chân tại chỗ kể thừ thời của David Hume, của Adam Smith, David Ricardo, Jeremy Bentham và Wilhelm Humboldt, học thuyết của chủ nghĩa tự do hiện nay cũng khác với ngày đó, mặc dù những nguyên lý nền tảng thì không thay đổi. Đã nhiều năm nay không có ai đưa ra được một tác phẩm ngắn gọn nói về bản chất của học thuyết này. Đấy có thể là lý do chính đáng cho việc chấp bút tác phẩm mà bạn đọc đang cầm trên tay.

2. Thịnh vượng về vật chất

Chủ nghĩa tự do là học thuyết nói về hành vi của con người trong thế giới này. Nói cho cùng, nó không có mục đích nào khác, ngoài việc gia tăng sự thịnh vượng về mặt vật chất của con người; nó không quan tâm đến những nhu cầu nội tâm, nhu cầu tinh thần và siêu hình học của con người. Nó không hứa hẹn mang đến cho con người hạnh phúc hay an lạc, nó chỉ mang đến sự thoả mãn tối đa những ước muốn có thể thoả mãn được bằng những đồ vật của thế giới ngoại tại mà thôi.

Thái độ hoàn toàn mang tính vật chất và ngoại tại của chủ nghĩa tự do đối với tất cả những gì được coi là trần tục và phù du vì thế thường bị người ta phê phán. Cuộc đời của con người, như người ta vẫn nói, đâu chỉ có ăn và uống. Có những nhu cầu cao cả hơn và quan trọng hơn thức ăn, nhà ở và quần áo mặc. Ngay cả những kho đụn lớn nhất thế giới cũng không đem lại cho con người hạnh phúc; chúng chỉ làm cho tâm hồn con người bất an và trống rỗng mà thôi. Sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa tự do là nó không cung cấp cho người ta những khát vọng cao quý hơn và sâu sắc hơn.

Nhưng những người nói như thế chỉ chứng tỏ rằng họ có một quan điểm rất không đúng và hoàn toàn mang tính vật chất về những nhu cầu sâu sắc và cao quý đó. Chính sách xã hội, với những phương tiện mà nó nắm trong tay, chỉ có thể làm cho con người trở thành giàu hay nghèo, chứ không bao giờ có thể làm cho họ hạnh phúc hay thoả mãn được những khao khát nội tâm của họ.

Trong lĩnh vực này, tất cả các phương tiện vật chất đều là con số không. Tất cả các chính sách xã hội đều chỉ có thể làm được một điều, đấy là loại bỏ những nguyên nhân đau khổ bên ngoài. Nó có thể thúc đẩy cái hệ thống có thể cung cấp thức ăn cho người đói, quần áo cho người thiếu thốn, nhà ở cho kẻ vô gia cư. Còn hạnh phúc và an lạc lại không phụ thuộc vào thức ăn, quần áo mặc và nhà ở; mà trên hết, phụ thuộc vào những gì người ta ấp ủ trong lòng.

Chủ nghĩa tự do chỉ quan tâm tới sự thịnh vượng về mặt vật chất của con người không phải là do nó coi thường những đòi hỏi về mặt tinh thần mà là vì nó tin rằng phương tiện bên ngoài không thể nào động chạm đến được những điều sâu sắc nhất và cao cả nhất trong tâm hồn con người. Nó tìm cách tạo ra sự thịnh vượng về mặt vật chất vì biết rằng kho báu tâm hồn, kho báu nội tâm của người ta chỉ có thể xuất phát từ trái tim mà thôi.

Nó không có mục đích nào khác ngoài việc tạo ra tiền đề ngoại tại cho việc phát triển đời sống tinh thần của con người. Và không nghi ngờ gì rằng một người tương đối phát đạt trong thế kỷ XX có thể dễ dàng thoả mãn những đòi hỏi về mặt tinh thần hơn là, thí dụ như một người sống trong thế kỷ X, tức là một người luôn phải lo tìm cái ăn để sống hoặc thoát được kẻ thù đe doạ.

Dĩ nhiên là nếu những người châu Á và những người theo các giáo phái thời trung cổ, tức là những người tu khổ hạnh và những người cho rằng lý tưởng là nghèo khổ và tự do như chim trời hay cá biển, phê phán thái độ của chủ nghĩa tự do thì chúng ta chịu, không thể nào trả lời được. Chúng ta chỉ có thể xin họ cho chúng ta đường ai nấy đi, cũng như chúng ta sẽ không cản trở họ tìm kiếm thiên đường theo cách của mình. Hãy cứ để họ sống thanh bình trong những cái am nhỏ, cách biệt với thế giới của họ.

Tuyệt đại đa số những người cùng thời với chúng ta đều không chấp nhận lý tưởng khổ hạnh. Nhưng khi đã không chấp nhận sống cuộc đời khổ hạnh thì cũng không được phê phán chủ nghĩa tự do vì nó chỉ nhắm đến mục tiêu vật chất bên ngoài.

3. Chủ nghĩa duy lý

Ngoài ra, chủ nghĩa tự do còn bị phê phán là duy lý nữa. Nó muốn điều chỉnh mọi thứ trên đời một cách duy lý, và như vậy là không công nhận rằng trong công việc của con người tình cảm và nói chung những điều không thể hiểu bằng lý tính có và phải có vai trò quan trọng.

Chủ nghĩa tự do công nhận rằng đôi khi người ta cũng hành động một cách thiếu khôn ngoan. Nhưng nếu lúc nào con người cũng hành động một cách hợp lý thì đã không cần kêu gọi họ sử dụng lý trí rồi. Chủ nghĩa tự do không nói rằng lúc nào người ta cũng hành động một cách thông minh, nhưng nói rằng lúc nào họ cũng nên hành động một cách thông minh, đấy là nói theo cách hiểu về quyền lợi của mình. Bản chất của chủ nghĩa tự do là tìm cách làm cho người ta thừa nhận lý trí trong lĩnh vực chính sách xã hội, cũng như nó đã được thừa nhận vô điều kiện trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của con người

Nếu một người được bác sĩ khuyên là nên sống một các hợp lý – tức là sống hợp vệ sinh – mà trả lời: “Tôi biết rằng lời khuyên của ông là hợp lý, nhưng tình cảm của tôi lại cấm không cho tôi làm theo. Tôi muốn làm những việc có hại cho sức khoẻ của mình, mặc dù đấy có thể là phi lý.” Thì chắc chẳng ai có ý kiến gì được nữa. Để đạt những mục tiêu đã đề ra, dù có làm gì thì ta cũng đều cố làm một cách hợp lý.

Một người muốn băng qua đường sắt sẽ không chọn đúng lúc đoàn tàu đang lao tới để bước. Người khâu cúc áo sẽ có gắng tránh để kim không đâm vào tay. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào con người cũng đã phát triển được kỹ thuật hoặc công nghệ hướng dẫn cho họ cách thức hành động nếu họ không muốn trở thành những kẻ ngớ ngẩn. Mọi người đều công nhận rằng làm người ai cũng phải học những kỹ thuật cần dùng trong cuộc đời, còn người bước vào lĩnh vực mà anh ta mù tịt về mặt kỹ thuật thì bị chế giễu là vụng về.

Chỉ có trong lĩnh vực chính sách xã hội người ta mới nghĩ rằng mọi việc phải làm khác đi. Ở đây, không phải là lý trí mà là tình cảm và nhiệt tình mới là quyết định. Câu hỏi: sắp xếp đồ vật thế nào để trong nhà luôn sáng sủa, nói chung thường được thảo luận bằng những lý lẽ thông thái. Nhưng nếu chuyển sang vấn đề nhà máy sản xuất bóng đèn nên để cho tư nhân hay chính quyền quản thì lý lẽ lại không còn giá trị nữa. Ở đây, tình cảm, quan niệm của xã hội – nói tóm lại, không phải là lý trí – đóng vai trò quyết định. Chúng ta cứ mãi tự hỏi: Tại sao?

Tổ chức xã hội loài người theo một khuôn mẫu phù hợp nhất với những mục tiêu đặt ra là một công việc đơn giản và chán ngắt, cũng tương tự như, thí dụ việc xây dựng đường sắt hay sản xuất vải hay đồ gỗ mà thôi. Công việc quốc gia và công việc của chính phủ thực ra là quan trọng hơn tất cả những vấn đề khác trong hoạt động của con người vì chế độ xã hội tạo ra nền tảng cho tất cả những hoạt động khác, và người ta chỉ có thể đạt được mục tiêu của mình trong một xã hội có những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những mục tiêu đó. Nhưng, dù lĩnh vực của những vấn đề xã hội và chính trị có cao quý đến mức nào thì đấy vẫn là những đối tượng do lý trí của con người kiểm soát và vì vậy mà phải được xét đoán phù hợp với những tiêu chuẩn của lý trí.

Trong những vấn đề đó, cũng như trong tất cả những công việc trần tục khác của con người, chủ nghĩa thần bí chỉ có thể là một tai hoạ. Con người có khả năng hiểu biết rất hạn chế. Không thể hy vọng là một lúc nào đó chúng ta có thể hiểu được những bí mật cuối cùng và sâu xa nhất của vũ trụ. Nhưng việc chúng ta không thể biết được ý nghĩa và mục đích của cuộc đời của mình không phải là lý do để ta không thận trọng nhằm tránh những căn bệnh truyền nhiễm hay sử dụng những phương tiện thích hợp trong việc mưu sinh, cũng như không thể ngăn cản chúng ta trong việc tổ chức xã hội nhằm đạt được những mục tiêu mà ta đang phấn đấu một cách hữu hiệu nhất.

Ngay cả nhà nước và hệ thống pháp luật, chính phủ và bộ máy quản lý của nó cũng không phải là cái gì đó quá cao siêu, quá hoàn hảo và quá cao quý đến mức chúng ta không thể suy tư được. Chính sách xã hội cũng là những vấn đề công nghệ xã hội, cũng phải được giải quyết bằng những biện pháp và phương tiện mà ta nắm trong tay trong khi giải quyết những vấn đề kỹ thuật khác: dùng tư duy lý tính và khảo sát những điều kiện đã biết. Lý trí là tất cả những gì làm nên con người và làm cho con người đứng cao hơn loài vật. Thế thì tạo sao trong lĩnh vực chính sách xã hội con người không tin vào lý trí mà lại tin vào tình cảm và lòng nhiệt tình?

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

Về những người quyết định tự tử

Featured Image: Dave Gingrich

 

“Khi ai đó nhận thấy cuộc đời mình vô giá trị, hoặc là họ tự tử, hoặc là xách balo lên và đi.” – Edward Ehlberg

Trước hết, tôi không nói về giá trị con người, cũng không nói về chủ nghĩa xê dịch, mà nói về cái còn lại trong câu danh ngôn kia: tự tử. Mỗi ngày trên thế giới có hàng ngàn người chết, và một phần trong số họ tự quyết định điều đó. Nguyên nhân là gì, ta sẽ thử lượt qua vài trường hợp:

Đầu tiên, cho thời sự, tôi nói về trường hợp những người trẻ tự tử vì thi rớt đại học. Thất vọng về bản thân, áp lực từ gia đình, hơn thua với bạn bè… và nghĩ: “Thế là hết.” Họ còn quá trẻ để hiểu được thất bại này chẳng là bao so với nhiều trải nghiệm đau thương phía trước. Và họ không có cơ hội để nhận ra rằng: “Sao lúc đó mình ngu ngốc thế?”

Một trường hợp khác, khá điển hình và hay bị gắn mác “dại dột”, đó là chết vì tình, cụ thể là thất tình. Ở giây phút mà “tòa lâu đài tình ái” bị sụp đổ thành tro bụi, họ nghĩ rằng, sẽ chẳng bao giờ có lại được nó. Họ kết thúc cuộc sống để không còn chịu thêm tổn thương nào nữa, hoặc là để khiến kẻ “phá hoại” phải ray rứt… Nhưng, thực tế phũ phàng, chưa có thứ gì ở thế gian này dám đảm bảo sẽ tồn tại vĩnh viễn, huống chi là những cảm xúc tình yêu vốn nóng lạnh thất thường.

Thêm một dạng khác, và nó bắt nguồn từ thất bại. Sau bao nhiêu thành công rực rỡ, đi kèm với những ảo tưởng không giới hạn về bản thân, con người ta dễ dàng quỵ ngã khi những thành tựu gầy dựng bấy lâu biến mất. “Của cải các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi cũng ở đó.” (Kinh Thánh), những người đặt niềm tin của mình vào tiền bạc, danh tiếng, địa vị rốt cuộc sẽ thấy trống rỗng khi nó tan biến. Họ không tin mình có thể đứng dậy thì nói chi đến việc tiếp tục sống.

Điểm qua một số trường hợp như thế, và nếu ai muốn có thêm, cứ việc lên mạng mà tìm kiếm. Thậm chí, sẽ tìm thấy rất nhiều nguyên nhân rất “trời ơi” nữa. Nhưng tôi muốn gom những trường hợp điển hình như vậy để thử tìm trong đó một nguyên nhân chung, và tôi gọi nó là “giá trị.”

Mới vài hôm trước, quê tôi xôn xao vì vụ một cậu bé uống thuốc cỏ tự tử. Lý do là cậu ta nhẹ dạ để người ta lừa bán cho một cái điện thoại dỏm với giá cao nên bị mẹ chửi mắng thậm tệ. Đó là một cậu bé khờ khạo với chứng rối loạn tâm thần, nhưng chắc chắn là cậu ta có cảm xúc. Và cái cảm giác bị mẹ mình đánh giá là một đứa chẳng ra gì đã tạo tiền đề cho một kết cuộc bi thảm.

Có một lần, trong một bộ phim, tôi nhìn thấy một nhân vật cũng treo cổ tự tử. Một ông già 70 tuổi, chậm chạp vì bệnh đau khớp, đã trải qua hầu hết cuộc đời bên trong nhà tù. Được trả tự do vì cải tạo tốt, ông được giúp đỡ để có một chỗ trọ và công việc gói hàng ở siêu thị. Nhưng chỉ kéo dài được một thời gian ngắn, ông đã kết thúc cuộc đời trên dây thòng lọng tại căn hộ tồi tàn trước nhà tù “sẽ chẳng có ai bận tâm vì cái chết của một ông già chậm chạp và đau khớp”. Ở trong nhà tù, ít ra ông còn có một giá trị nào đó.

Ở bất cứ độ tuổi nào, và bất cứ hạng người nào thì vấn đề về giá trị vẫn luôn là một lý do thiết thực để người ta sống. Cho dù không phải để tạo nên những thành tựu vĩ đại gì thì ít ra nếu vẫn còn có người cần đến mình, coi trọng mình thì họ vẫn có động lực để sống.

Tôi không đưa ra lời khuyên cho những người sắp tự tử, ở khoảnh khắc của sự tuyệt vọng và bị chi phối bởi cảm xúc, họ khó mà hiểu được những lập luận lý trí. Vì thế tôi dành lời khuyên cho những người đang sống, những người còn đang mỗi ngày khẳng định giá trị bản thân giữa thế giới rộng lớn này: “hãy cứ khẳng định mình, nhưng nhớ rằng, nếu bạn không thể có được những giá trị lớn thì vẫn có thể sống với những giá trị nhỏ.” Hãy làm quen với suy nghĩ rằng: nếu một ngày những gì mình đang tin tưởng có mất đi thì mình vẫn có thể tiếp tục sống vì một điều gì đó. Và tất nhiên, “điều gì đó” phải do chính bạn tìm thấy.

 

AVKH

Thất bại thì đã làm sao?

Featured Image: Khánh Hmoong

 

Bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống không giết chết bạn sẽ làm bạn mạnh mẽ hơn

Trong cuộc đời của mỗi người, có lẽ không ai là không ai là không tránh khỏi việc thất bại, bởi chúng ta không phải là thánh để có thể hiểu hết khả năng của bản thân, đoán trước được những sự kiện bất ngờ trong tương lai hay luôn luôn đưa ra được quyết định sáng suốt nhất. Nhưng khi thất bại, có những người cảm thấy sợ hãi hay ê chề, có những người lại luôn ngẩng cao đầu. Vậy sự khác nhau giữa họ là gì?

Trong cuộc sống, mình quan niệm, có 2 loại thất bại:

  1. Không chịu làm gì cả và cuối cùng thất bại.
  2. Cố gắng hết sức nhưng không đạt được những gì mong muốn.

Hãy thử tưởng tượng khả năng của bạn đang ở mức độ 5.

Bạn chọn một công việc dễ dàng, mức độ khó 3. Bạn tin bạn không thể thất bại được, mọi người cũng tin thế. Việc hiểu rằng bạn có thể dễ dàng hoàn thành công việc tạo nên sự tự mãn cho bạn, và bạn quên mất một thực tế rằng: khả năng, kiến thức là những thứ sẽ bị bào mòn theo thời gian nếu không được rèn luyện.

Bạn lười, bạn nhảy vào chơi, bạn không tập trung phát triển bản thân, rồi một ngày bạn chợt nhận ra, công việc mức 3 thật khó với mình. Bạn sợ hãi khi nhìn thấy năng lực của mình suy giảm, sợ hãi khi nhận những ánh mắt chế giếu từ mọi người. Cảm giác ê chề và hối hận lan tràn toàn cơ thể. Làm sao một con người đã từng ở mức độ 5 lại không làm được công việc khó ở mức độ 3 cơ chứ.

Bạn chọn một công việc rất khó, mức độ 10. Ngay từ khi bắt đầu, bạn đã hiểu rằng công việc đó cao hơn khả năng hiện tại của bản thân mình. Nhưng bạn cũng biết rằng, nếu cố gắng đủ lớn, bạn hoàn toàn có thể hoàn thành công việc. Bạn cố gắng ngày qua ngày, HẾT SỨC có thể, rồi khi hạn chót đến, bạn chợt nhận ra bạn không thể hoàn thành công việc. Công việc này quá sức đối với bạn. Bạn đã thất bại. Vâng, bạn đã không thể đạt đến mức độ 10, nhưng quá trình đào tạo không phải là một sự nhảy vọt từ mức 5 đến mức 10. Đó là sự di chuyển chậm chạp từ 5, lên 6, lên 7… rồi đến 10.

Bạn có thể không tự hào khi đặt mục tiêu vợt quá khả năng, nhưng bạn sẽ tự hào khi bạn đã cố gắng hết mình. Bạn biết rằng bằng sự cố gắng, bạn đã leo được từ mức 5 đến mức 8. Sự cố gắng đó không phải là một trải nghiệm vô nghĩa. Mọi người có thể đánh giá bạn khi thất bại, nhưng tin tôi đi, bạn đừng nên bận tâm làm gì, bởi họ không nhìn thấy quá trình cố gắng của bạn thôi. Hãy cứ đi tiếp, trải nghiệm rồi thất bại. Rồi một ngày, bạn sẽ làm cho mọi người bất ngờ trước sự tiến bộ vượt bậc của bạn. Bạn tiến bộ trong âm thầm và lặng lẽ (vì toàn thất bại :)) ) chứ không phải trong trống và kèn hoa.

Điều hoàn hảo nhất có thể xảy ra khi đặt mục tiêu là mục tiêu đủ cao để làm bạn cố gắng hết sức nhưng cũng vừa tầm để bạn có thể chạm tay vào được. Nhưng làm thế nào để biết được mục tiêu ra sao là vừa đủ. Không ai có thể hiểu hết khả năng của bản thân và từng góc cạnh của mục tiêu một cách toàn vẹn.

Vì thế, bạn đừng nghĩ nhiều làm gì. Hãy cứ đặt mục tiêu rồi thất bại: lần đầu tiên, bạn đặt mức độ 20 – không thành công, lần thứ 2 – 15 – không thành công, lần thứ 3 -10 – thành công hoặc không thành công. Hãy hiểu rằng, thất bại khi không làm gì khác với thất bại khi cố gắng hết sức. Thất bại trong cố gắng không những giúp bạn hiểu hơn về khả năng hiện tại mà còn gia tăng giá trị cho bản thân. Khi bạn thất bại đã đủ nhiều, bạn sẽ biết khả năng của bạn đến đâu và việc đặt mục tiêu sẽ chính xác và dễ dàng hơn nhiều. Chính vì thế, đừng sợ hãi trước thất bại.

 

Nguyễn Đình Tùng

Kẻ 20 xem kịch 20

Ba tôi từng nói: “Đó giờ xem kịch chỉ Dạ Cổ Hoài Lang là hay nhất, ngay cả Bí Mật Vườn Lệ Chi hay Ngàn Năm Tình Sử có công phu mấy cũng không bằng. Đơn giản, nhẹ nhàng vẫn là nhất.” Còn những người trẻ như tôi, xem kịch phải xem hài vừa vui, vừa giải trí. Cả ngày mệt lắm rồi, dại gì rước thêm “bi” vào cho nặng mình, để dành nước mắt cho chuyện của mình còn hơn là chuyện của người.

Thế nên, khi “Dạ Cổ Hoài Lang” được dựng lại sau 20 năm ở sân khấu Idécaf thì tôi cũng không hào hứng lắm. Trong suy nghĩ của tôi thì chắc vở này nói về chuyện yêu đương những năm 30-40 thế kỷ trước, đúng như cái tên gọi của nó, chắc là hội đồng-tá điền-kép hát thôi… Nhưng không, bối cảnh câu chuyện diễn ra xuyên suốt ở nơi đất khách, lạnh lẽo, trống trải… nơi mùa đông tuyết che lấp đi mọi nẻo đường. Đó cũng là câu chuyện đầy tình cảm, nam có, nữ có, nhưng tuổi đời, lối sống, suy nghĩ của họ cách xa nhau cả 2 thế hệ.

Chú Thành Lộc vẫn hoạt ngôn, làm chủ vở kịch, một ông Tư già bị gia đình đứa con bỏ trong viện dưỡng lão (nơi mà ông hay gọi vui là “trại tâm thần”). Ông thèm được ở gia đình con, được sống cùng gia đình đứa con trai duy nhất, cùng đứa cháu nội tuổi mới lớn với những suy nghĩ bồng bột (mãi đến sau này tôi mới biết, hình tượng ông Tư được khắc họa trên chính hình tượng NS Thành Tôn – ba của chú).

Một ông Năm – Hữu Châu là người bạn thân nhất của ông Tư, hai người cùng làng, cùng lớn lên, cùng yêu một người, để rồi vì tài nghệ kép hát mà ông Tư lấy được bà Tư, còn ông Năm đành tức tưởi bấy nhiêu năm chỉ vì không biết hát. Họ gặp nhau ở trời Tây, trở thành đôi bạn mấy mươi năm, họ thèm quê hương, họ thèm được thấy lũy tre, bờ đê, con sông, thèm mùi đất của quê mình, thèm cả những trò “nghịch dại” mà khi nhỏ từng chơi.

Đúng ngày giổ của bà Tư, ông Tư trốn viện về nhà, định làm mâm cơm cúng bà Tư nhưng con trai đi làm quên giỗ mẹ, cháu nội thì lo cho người yêu nên ông phải lén “mượn” cái bánh kem của đứa cháu làm tặng bạn trai để cúng cho bà. Ông Năm là khách mời duy nhất của lễ giỗ, họ lại hát “Dạ cổ hoài lang”, họ trách quá khứ, họ khóc cười cùng kỷ niệm quê hương.

Đỉnh điểm cho bi kịch khi đứa cháu gái tức giận khi ông nội điên quấy phá gia đình, ông treo những tấm màn có lũy tre, con sông, bờ đê do chính tay ông vẽ nên trong những ngày ở viện. Nó gào khóc trút hết sự tức giận, sự sợ hãi lên đầu ông nội, nó sinh ra tại một đất nước xa xôi không biết quê hương là gì, chỉ thấy quê hương qua hình ảnh hai lão già điên lâu lâu lại lẩm bẩm một mình hay thậm chí leo lên mái nhà giữa trời tuyết, nó kinh sợ ông nội vì cho rằng ông quậy phá, điên khùng, bệnh hoạn, lén đọc nhật ký của ba nó, làm khổ gia đình, ông là gánh nặng khiến ba mẹ nó suốt ngày cãi vả, ông là người khiến ba nó phải làm việc suốt ngày mới đủ trang trải cho cuộc sống. Nếu quê hương là hình ảnh ông nội và ông Năm thì nó sẵn sàng chối bỏ và không cần cái quê hương đó.

Bao nhiêu hiểu lầm của đứa cháu gái được giải bày sau khi ông nội cùng ông Năm khoác tay nhau bước đi giữa trận bão tuyết. Nhờ người bạn trai khuyên bảo, đọc cho nó nghe cuốn nhật ký của ba nó, nó mới biết được sự thật.

Sở dĩ ba nó không muốn nhắc về Việt Nam vì ba má nó sợ nó bị trả thù. Bởi trong lần vượt biên ra đi, ba má nó lênh đênh trên biển, trôi dạt khắp các thuyền bè, hòn đảo. Ba nó nghe được âm mưu của nhóm người giả vờ nhân đạo nhưng thực chất là muốn cướp bóc, hãm hiếp rồi đục thuyền cho chìm giữa biển, nên chuyến đó ba má nó giả bệnh không lên thuyền. Chính nhờ vậy mà bảo toàn mạng sống và vượt biên thành công.

Từ đó, ba nó sợ, ba nó ám ảnh về sự hèn nhát của mình. Ba nó khát khao về quê hương nhưng lại sợ, ba nó nhớ quê hương da diết nhưng hình ảnh vượt biên năm nào lại làm ba nó sợ. Bằng cách nào đó, ba nó làm thật nhiều tiền mong rước ông bà nội nó qua, nhưng bà không kịp đi nên mãi mãi nằm lại trên quê hương, còn ông nội đó cũng không muốn rời khỏi quê hương, muốn bên cạnh bà, nhưng lời trăn trối trước khi chết bà muốn ông sang đoàn tụ gia đình.

Cũng chính bi kịch vượt biên đã khiến người cha ám ảnh về quá khứ, đứa con gái không hiểu chuyện nghĩ xấu về ông nội, gia đình, về quê hương. Nó chối bỏ quê hương bởi nó nghĩ ba nó cũng ghét quê hương nhưng thực ra đó là sự thèm khát được trở về nhưng không dám. Nhờ những dòng chữ, những bức ảnh người bạn trai chụp được trong chuyến về Việt Nam, nó mới thấy được quê hương của nó đẹp lắm.

Quê hương của nó là con sông ông nội đã chèo ghe ra giữa dòng để báo cho cả làng ngày nó ra đời. Quê hương của nó là cây khế trước sân mà bà nội đã chăm sóc, chờ nó về hái quả. Quê hương của nó chính là ông nội, là bà nội, là ông Năm… Khi nhận ra mọi thứ, nó chạy ra đường để tìm ông nội và ông Năm đang đứng trên nóc nhà giữa trời giá lạnh, nó muốn òa khóc xin lỗi, mong được tha thứ vì sự nông nỗi của mình

Ông Tư và ông Năm đi tìm quê hương trên những ống khói nhấp nhô như hình chiếc nón lá, tuyết phủ bao quanh làm hai ông gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh mặc áo dài trắng thướt tha nón lá đến trường. Đó là quê hương, quê hương ở khắp mọi nơi nếu trong trái tim mình luôn khát khao, mong mỏi. Hai ông lại ngân nga “Dạ cổ hoài lang”, lần này ông Năm hát cho ông Tư nghe, tuyết vẫn rơi dầy. Ông Tư chết trên vai người bạn tri kỷ nên nóc nhà đầy tuyết, trong tiếng hát “Dạ cổ hoài lang” khàn đục của ông Năm, ông đã về với quê hương, khi đứa cháu gái chưa kịp nói lời xin lỗi.

Khán giả vỗ tay liên tục, khiến 4 diễn viên cúi chào rất nhiều lần, đâu đó sụt sịt tiếng khóc. Tôi thậm chí nhìn thấy dòng nước mắt hiện rõ trên gương mặt của Chú Thành Lộc, Chú Hữu Châu, Anh Lương Thế Thành và cả Chị Vân Trang. Có người nhớ quê hương, có người nghĩ phận đời, có người cảm thông cho người thân xa xứ, có người chua xót cho phận đời vượt biên…

“Chàng hỡi chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Biết bao thuở đó đây sum vầy
Duyên sắc đừng lạt phai…
Thiếp nguyện theo chàng
Nguyện cho chàng hai chữ an bình an
Mau trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi…” – Đó là khi tôi thấm thía câu nói của ba.

 

Vy Nguyen

Tiếc nuối…

Featured Image: Vitaly & Julia Zaporozhenko

 

Cuộc đời con người là một chuỗi những điều tiếc nuối. Có những tiếc nuối mà qua thời gian có thể sửa sai được, tuy nhiên điều.. tiếc nuối nhất lại là có những sự việc, vấn đề đã qua đi mà khi nhìn lại dù có thời gian ta cũng không thể sửa chữa được. Với tôi, điều tiếc nuối nhất là đã… đi học đại học!

Nếu thời gian quay trở lại, nếu ngày xưa có nhiều thông tin như bây giờ? Nếu như trước kia có được những thông tin quý giá như… sự bỏ học giữa chừng của những thiên tài sáng tạo như Bill Gates, Steve Jobs… Nếu như ta biết được rằng, trước kia phải mất nhiều năm để đào tạo những tiến sĩ làm việc cho các công ty chứng khoán Mỹ giúp giải quyết những bài toán tích phân thì bây giờ để giải những bài toán như thế, những người trình độ bình thường chỉ cần tham gia một khóa học kỹ năng giải Toán cao cấp vài tháng là giải được (ý một bài viết trên báo TG & VN)!

Nếu như hiểu được sâu sắc câu nói của Albert Eistein: “Sự sáng tạo quan trọng hơn tri thức.” Nếu như được nghe sớm câu nói của Bố Già Vito Corleone với con trai Maicon: “Bốn năm học ở đại học của mày không bằng một đêm đi nhà thổ.“ (Bố già – Mario Puzzo). Nếu như ý thức được rằng “tự học, tự học mọi lúc mọi nơi, tự học suốt đời” mới là hình thức giáo dục cao nhất và đúng đắn nhất. Nếu như biết sớm rằng trong tình hình giáo dục khủng hoảng thì “tự giáo dục” là quan trọng nhất.

Dù biết “Tất cả những gì tôi có được là nhờ sự học tập” (Barack Obama); “Vấn đề giáo dục được coi là tuyệt đối trong mỗi gia đình Việt Nam” (trích bài phát biểu của GS Ngô Bảo Châu tại lễ chúc mừng nhân GS đoạt giải Field); “Tri thức là sức mạnh” (Francis Bacon) nhưng cũng chỉ nên đi học đại học khi nào nền giáo dục nước ta thực sự trung thực, thực sự phát triển. Còn nền giáo dục như hiện nay của chúng ta thì… không nên đi học đại học làm gì mà nên… tự học, tự nghiên cứu chắc sẽ tốt hơn là đi học đại học!

Không nên phí hoài thời tuổi trẻ sung sức nhất cả về sức khỏe lẫn open-minded (tâm hồn rộng mở), tiền bạc trong bốn năm đại học của mình trên giảng đường với những bài học vô bổ; những buổi học thụ động: thầy đọc, trò chép; những buổi học không có chút sáng tạo nào… Nhưng thời gian trôi qua mất rồi, biết làm sao được bởi tôi… đã đi học và đã học xong… đại học. Thật tiếc nuối nhưng… “C’est la vie” – Đời là thế!

Nếu thời gian quay trở lại, tôi sẽ… bỏ học ngay trong buổi đầu tiên bước chân đến giảng đường! “Trả lại cho em khung trời đại học, con đường đi học đầy hoa điệp vàng, đầy lá me bay, đầy hoa phượng đỏ…” để lao vào cuộc sống. Lao vào cuộc sống ở đây không phải là rồi sẽ đem tiền mua bất động sản để đầu cơ; khai thác tài nguyên rồi bán rẻ cho nước ngoài… – những cách làm ăn ít có tác dụng tích cực thậm chí chỉ làm hại trong việc thúc đẩy sự phát triển đất nước mà thôi.

Đó là những cách làm ăn ở tầm thấp: manh mún, tủn mủn mang tính chộp giật và nhất thời; là tư duy và suy nghĩ của nhân loại trăm năm về trước; là những lối mòn mà người ta đã đi mòn gót. “Việt Nam đang cố gắng học những gì chúng tôi đã bỏ đi” (Sao quê hương mình già nua đến vậy? – TS Alan Phan)… “Sao chúng ta không cạnh tranh sản xuất những sản phẩm kiểu như iPad, máy Photocopy… mà chúng ta lại chỉ đi cạnh tranh ở việc sản xuất những sản phẩm kiểu như thùng đựng rác…” (ý một bài viết trên Vietnamnet).

Tôi sẽ lao vào cuộc sống với tâm thế của một người trẻ có tri thức, nhiều khát khao cống hiến, open – minded… với hướng đi chắc chắn sẽ là tập trung vào nghiên cứu sáng tạo rồi thương mại hóa sản phẩm trí tuệ của mình (giống như các công ty sáng tạo). Nếu như đi theo hướng này thì sẽ gặp vô vàn khó khăn nhưng với nhiệt huyết của tuổi trẻ, và quan trọng nữa là có nhiều thời gian thì chắc chắn là sẽ có nhiều cơ hội để thành công, sẽ đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Mà thành công hay không thành công thì mình đã có thể phát triển tới giới hạn của mình (một ý trong tiểu thuyết siêu kinh điển Suối Nguồn), được là mình. Và đây mới là điều quan trọng nhất của cuộc đời!

Một phần khác của tâm trạng tiếc nuối là khi nghĩ đến nhiều bạn trẻ học sinh, sinh viên những thế hệ sau. Các bạn vẫn đi vào lối mòn mà nhiều thế thế hệ trước đã đi mòn gót, vẫn “cố gắng sáng tạo cái bánh xe”… Rất nhiều bạn học sinh, sinh viên vẫn đang từng ngày từng giờ phí hoài điều quý giá nhất của mình là tuổi trẻ. Bây giờ mà gặp một bạn trẻ say sưa đọc sách thì hiếm lắm. Hỏi các bạn trẻ có biết những tác phẩm kinh điển như Bố Già, Cuốn Theo Chiều Gió, Suối Nguồn, Số Phận Con Người, Bà Bôravy…hay không thì phần lớn câu trả lời là: không!

Bởi họ còn đang mải chạy theo các giá trị ảo với minh chứng là số hồ sơ vào các trường Kinh tế, Tài chính (những yếu tố liên quan đến phần ngọn của sự phát triển của quốc gia) tăng cao; trong khi số hồ sơ vào các trường KHKT, nghiên cứu cơ bản (những yếu tố liên quan đến phần gốc của sự phát triển của quốc gia) giảm. “Nhà đầu tư nước ngoài hấp dẫn bởi dân số trẻ trung của người Việt Nam nhưng sau khi họ đến họ đã thất vọng. ‘Những người trẻ suốt ngày coffee, nhậu nhẹt, bài bạc, thụ động sẽ không đồng nghĩa với sự sáng tạo. Những người này sẽ đóng góp gì cho sự phát triển của đất nước đây? Sao quê hương mình già nua đến vậy ?” (TS Alan Phan).

Nếu may mắn được đi học thì hãy học, hãy cháy hết mình. Ngược lại, nếu lười học, không đam mê ngành học… thì hãy dừng học ngay lập tức để cho không phí hoài tuổi trẻ bạn nhé. Người ta nói “những gì khi mất mới thấy tiếc” không sai. Hãy đừng để mất rồi mới hối hận, đừng lãng phí tuổi trẻ của mình nữa, tỉnh lại đi các bạn trẻ ơi, tỉnh lại đi trước khi quá muộn!

Là người đã có chút trải nghiệm trong cuộc sống nhưng nhiều lúc tôi vẫn chảy nước mắt vì tiếc nuối đã đi học đại học. Những lúc như thế tôi lại tự nhủ lòng mình: “Thôi mà, thời gian đã qua rồi, không thể lấy lại được.“ Để tự an ủi. Vả lại những suy nghĩ như trên cũng là do những sự trải nghiệm từ những năm học đại học, từ những… va đập (chữ của Nguyễn Trần Bạt) trong cuộc sống mới có được. Những suy nghĩ đó nhất định là sự định hướng cho mình những bước đi tích cực tiến tới tương lai! “Ta không đoán định được tương lai nhưng cuộc đời là kết quả của sự kết nối những gì ta nghĩ, ta làm…” (Steve Jobs).

Giờ đây, tôi sẽ bước vào cuộc sống với tâm thế của một người trẻ có tri thức và open-minded… “Nếu một khi Scalett này đã muốn là sẽ thực hiện được! Và ngày mai sẽ là một ngày mới.” (câu kết của tiểu thuyết Cuốn Theo Chiều Gió). Vâng đúng vậy, mà không phải ngày mai, hôm nay sẽ là một ngày mới…

 

Phạm AQ
(HN, 08-2014)

Văn hóa – Ước gì tôi có thể tự hào!

 

 

Lâu lắm tôi mới xem truyền hình, sáng hôm rồi, khi ở lại nhà cô bạn thân trong chuyến công tác. Chưa kịp mở mắt tôi đã nghe tiếng TV véo von cái gì đó, lặp đi lặp lại cụm từ “Tôi tự hào là người Việt Nam.” Bất giác tôi thở dài. Tôi ước chương trình đó được phát thật lâu, đủ cho những người có mặt trong clip, mỗi người đủ thời gian để nêu lên một lý do, rằng họ tự hào về điều gì, lý do gì khiến họ tươi cười rạng rỡ nói rằng “tôi tự hào là người Việt Nam”? Tôi thật sự muốn nghe, muốn biết những lý do đó? Tôi thật sự muốn biết nguyên do làm sao mà tôi lại không thể có được cái cảm giác như họ đang có, cái cảm giác tự hào, tươi cười nói với mọi người xung quanh rằng tôi tự hào? Nói như Bá Dương trong cuốn Cái Vại Tương: “Mỗi khi nghe những người Trung Quốc tự hào về những nét đẹp của người Trung Quốc, tôi bực bội vì cảm thấy không được dự chút phần nào vào cái niềm vinh dự và tự hào to lớn đó.”

Chẳng lẽ tâm hồn tôi chai đá không biết cảm nhận, hay do môi trường đã thay đổi mà tôi không kịp thích nghi? Ồ không, nhớ lại thì trước đây tôi cũng tự hào về nhiều điều lắm chứ. Tự hào về đất nước anh hùng, vì đã có được hai chiến thắng thần thánh đánh cho bọn đế quốc khổng lồ chạy té khói, tự hào về một đất nước giàu đẹp, đầy ú tài nguyên, đậm đà bản sắc văn hóa, tự hào về cái nguồn gốc con rồng cháu tiên dù chẳng tí nào tin mình có chút máu rồng tiên nào trong người cả. Rồi cụ thể hơn, tôi cũng từng tự hào lắm, rằng người Việt Nam được cả thế giới yêu mến, tự hào rằng có cả mớ các nước xếp hàng sau Việt Nam, tự hào là đất nước yên bình nhất, hạnh phúc nhất. Tự hào là nước xuất khẩu gạo hàng đầu, xuất khẩu cafe đứng thứ ba vân vân và vân vân. Ôi, nhớ lại những ngày xưa tôi có nhiều cái để tự hào thế cơ mà, thật là hạnh phúc.

Còn bây giờ. Tự hào ư? Tôi không thể. Tại sao tôi lại không được dự phần vào cái sự tự hào của mọi người như trước nữa? Tại sao? Có lẽ từ khi tôi biết rằng nước tôi xuất khẩu gạo nhiều nhất nhưng dân tôi vẫn còn người chết vì đói, tự tử vì không muốn con mình bị chết đói. Có lẽ từ khi tôi nhận ra nước tôi xuất khẩu cafe hàng đầu nhưng dân tôi uống cafe bẩn nhất. Có lẽ từ khi tôi biết rằng nước tôi 70% làm nông nhưng gà nhập, heo nhập, rau nhập, trái cây nhập, nói như Tony đến tăm xỉa răng cũng phải nhập. Trong khi ấy, người nông dân nước tôi đổ nông phẩm được mùa cho bò ăn, đổ hoa màu rau củ xuống sông vì không có người thu mua, vì bị ép giá, vì trăm ngàn lý do khác mà hàng ngàn thạc sĩ, cử nhân, tiến sĩ đang ngồi không đợi việc không mấy ai chịu tìm ra cách cứu vãn người dân nước mình, cữu vãn tình trạng thất nghiệp của mình. Từ khi tôi nhìn thấy hàng đoàn xe cơ giới nối đuôi nhau chở những thân cây khổng lồ, chở tài nguyên, quặng mỏ rời khỏi đất nước. Và lại chở về đây nào nội tạng thối, nào rác thải công nghiệp, quần áo si-da… Từ khi tôi được nghe rằng người dân tôi đi ra nước ngoài bị đối xử, bị ghét bỏ, bị xa lánh. Vì những người cùng dòng máu rồng tiên khác vì chút lợi hèn mọn mà đang tâm làm hoen ố hình ảnh của cả một quốc gia, khiến cả một dân tộc bị đối xử như những người tệ hại.

Tôi tự hào nổi không khi khắp phố xá nước tôi toàn bảng hiệu tiếng nước ngoài, còn tiếng nước tôi được trang trọng đặt trên những bảng cảnh báo, cảnh báo ăn trộm, cảnh báo trốn vé, cảnh báo lấy quá nhiều đồ ăn… Tôi tự hào được không khi những nước xuất phát sau nước tôi, như Cambodia, giờ đang vượt mặt nước tôi mọi lĩnh vực. Họ sản xuất được xe hơi riêng cho dân họ rồi, họ xuất khẩu gạo đi các thị trường khó tính nhất rồi, còn nước tôi, xe đạp xe máy đều nhập, xe hơi là thứ phương tiện an toàn, văn minh thì bị tìm mọi cách để hạn chế, bằng thuế phí, bằng hạ tầng còn gạo nước tôi xuất nhiều nhưng chỉ xuất đi các nước trong khu vực hoặc qua Châu Phi?

Tôi tự hào nổi không nền văn hóa ngàn năm văn hiến đậm đà bản sắc dân tộc đang ngày càng nát bét và xuống dốc thảm hại. Văn hóa ư? Văn hóa lúa nước, văn hóa xe máy, văn hóa lũy tre làng, văn hóa tiểu nông, nói toẹt như Đinh Tấn Lực đăng trên góc nhìn Alan, chúng ta là cường quốc văn hóa, văn hóa nhậu, văn hóa đi đêm, văn hóa tự xử, văn hóa phao, văn hóa mặc kệ… Chọn một cái để tự hào về văn hóa thì chọn cái nào đây? Cần cù chăm chỉ siêng năng ư? Thế mà tôi thấy bài viết Đất nước của những kẻ lười biếng của Lục Phong trên Triết Học Đường Phố được ủng hộ và chia sẻ nhanh quá quá chừng.

Hiếu học ư? Hiếu học mà không hiếu hành thì tác dụng gì? Hùng cường mạnh mẽ, hiên ngang bất khuất ư? Ngoại trừ những ngư dân đương đầu với tàu Trung Quốc ngoài biển để cố giữ biển, giữ nước thì còn ai làm được điều đó? Dũng cảm gan dạ ư? Đến nói không thích một thế lực hắc ám còn sợ hãi như sợ Voldermort thì dũng cảm chỗ nào? Chân Thiện Mỹ ư? Đâu, chỗ nào? Thật thà chân thực ư? Có không ở thời này, từ trung ương đến địa phương, từ sách vở tới đời sống? Đoàn kết ư? Nếu dân tộc tôi đoàn kết thì chẳng cần gì phải hô mãi khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, thì bà chị Hoa chẳng thể dám mang một cái tăm qua nước tôi chứ đừng nói tới hàng hóa độc hại, cái học viện bị thế giới tẩy chay hay một cái hạm to chù ụ như cả hòn đảo vô tư đi lại trên biển nước tôi như đi bát cảnh như thế. Thì người dân nước tôi đã chẳng chửi bới nhau trên mọi diễn đàn, thì các thế lực hắc ám chẳng thể ngang nhiên lộng hành đến thế này…

Ông Dương Trung Quốc mới đây đã nói nền văn hóa này đang kéo dân tộc chúng ta tới bờ vực thẳm. Thế thì rõ ràng văn hóa không thể dùng làm lý do để tự hào rồi. Hòa bình và hạnh phúc nhất ư? Có đáng để tự hào khi số người chết vì tai nạn và bệnh tật hàng đầu thế giới, có đáng để tự hào khi ai mở miệng trình bày một quan điểm trái với sự định hướng là sẽ bị mọc đuôi hoặc quản chế liền? Sau cùng là hai cuộc chiến thần thánh, tôi cũng từng tự hào về nó đấy, nhưng là cái thời ngu muội chỉ biết nghe và tin thôi, còn khi tự mình tìm hiểu thì tự hào ư? Tôi không dám nhắc về hai chữ ấy.

Như một câu chuyện vui không biết có thật không mà tôi mới đọc đây sẽ giải thích điểm này cho những bạn vẫn chưa chấp nhận. Một vị lãnh đạo trong chuyến công tác ngoại giao đã nói: “Tôi tự hào dân tộc tôi đã giành chiến thắng lừng lẫy trong hai cuộc chiến với bọn đế quốc thực dân.” Đáp lại lời ông, vị lãnh đạo nước kia trả lời: “Tôi thì tự hào vì dân tộc tôi không phải trải qua cuộc chiến nào cả.”… Vậy thì, trong cái niềm tự hào to lớn được phát trên ti vi kia? Ai đó có thể cho tôi biết điều gì khiến họ tự hào?

Không biết mọi người đang nghĩ gì, dân tộc tôi đang cảm thấy sao, các bạn trẻ quanh tôi đang nghĩ như thế nào, còn tôi, tôi chán lắm rồi. Chán lắm lắm rồi.

Sống trong một thành phố nhỏ xinh đẹp trong lành, tôi chán nhìn những đoàn xe chở quặng boxit đi qua đây về Trung Quốc mỗi ngày. Tôi chán cảnh người ta đào tung nhổ hết những cột đèn giao thông vẫn hoạt động ngon lành để thay bằng những cột mới chẳng khác gì chỉ là to hơn một chút. Cả thành phố mấy chục cột như thế, để làm gì, tác dụng gì? Việc đó tốn kém bao nhiêu? Trong khi cũng khắp cả thành phố, tôi kiếm không ra một cái thư viện công cộng nhỏ? Tôi chán cái tuần lễ văn hóa trà không một hoạt động nào liên quan tới trà, ngoài một bài hát có tên đi hái trà gì đó trong đêm văn nghệ, một vài gian hàng bán đồ phong thủy tiểu cảnh và đèn đóm thắp nhiều hơn một chút cùng tấm bảng chào mừng rất to. Tôi chán những cái cổng khu phố văn hóa, bản làng văn hóa, gia đình văn hóa ở khắp mọi nơi. Chán những câu biểu ngữ phát động phong trào hết sức ngô nghê, sai chính tả, vô nghĩa hoặc không tác dụng gì với ai cả treo khắp mọi ngóc ngách phố phường… Đấy là mới ở cái thành phố nhỏ này thôi.

Rộng hơn ư? Tôi chán những công trình ma, công trình dang dở hay những công trình chưa xong đã sập ở khắp mọi nơi. Chán sự lười biếng của tuổi trẻ. Chán thứ tình yêu mù quáng của những phụ huynh. Chán nền giáo dục. Chán những câu hứa lèo, những phong trào sớm nở tối tàn, những phát ngôn của người nổi tiếng. Chán từ giá cả xăng dầu, giá trị đồng tiền Việt cho tới cái đường truyền internet tệ hại chỉ cần một con cá mập để đổ lỗi là xong. Tôi chán sự thờ ơ của mọi người đối với đồng bào, đối với dân tộc. Chán cả ngành truyền thông chỉ biết đến chiêu trò và quảng cáo. Truyền hình thì toàn cảnh lố lăng, báo chí thì cướp hiếp giết tin sốc, lộ hàng. Âm nhạc phim ảnh nước ngoài được giới trẻ yêu mến gấp vạn lần trong nước. Nghệ sĩ thì chiêu trò. Kinh tế thì tụt dốc. Chán cái nợ công, cái chính sách nhún nhường, cái văn hóa xe máy. Chán những “đầy tớ giàu sụ” và những “người chủ sống bần cùng”. Chán cái trang Chân Dung Quyền Lực dám bóc mẽ những sự thật xấu xa. Chán khủng khiếp nhất là thái độ của mọi người về tất cả những thứ đó, một sự cam chịu, thờ ơ, câm lặng hoặc bàng quan đến rợn người… Kể cho hết những cái chán thì không biết bao giờ mới hết được đây.

Này, đừng ai nói rằng vẫn có chỗ tốt, rằng không phải ai cũng xấu, rằng có người này người kia… Chả lẽ tôi lại không biết à? Nhưng rồi sao? Một vài người không như thế có làm cho cả xã hội không như thế? Xã hội mà chỉ có một điều tốt bị vây quanh bởi một trăm điều xấu vẫn đáng để tự hào ư? Một ai đó đang cố gắng thì liệu có tạo nên thay đổi gì cho cả xã hội?

Tôi chán lắm rồi khi cầm hộ chiếu du lịch bị giữ lại rất lâu ở hải quan, tôi còn nghe kể có những trường hợp chỉ cần là con gái Việt qua Sing sẽ bị từ chối ngay không cần lý do nữa. Tôi chán lắm rồi khi nghe chính bạn tôi sống tại Hàn kể về cách thức người Việt tại đó trộm đồ siêu thị rồi vội vàng phi tang khi bị kiếm tra. Tôi chán lắm rồi khi nghe nói người Cambodia xa lánh người Việt, một hội chợ bên Âu từ chối người Việt tham quan, hải quan Thái tỏ thái độ với hộ chiếu Việt, người Hàn người Đài xem nước Việt như cái chợ chọn vợ khi họ không thể lấy ai ở chính nước của họ. Tôi chán kinh khủng khi đọc những dòng cảnh báo bằng tiếng Việt trên khắp thế giới. Có lẽ nào địa vị nước tôi, văn hóa nước tôi lại tồi tệ đến như thế sao?

Tôi thèm được ngẩng cao đầu khi ra nước ngoài, thèm được cầm hộ chiếu một cách nâng niu, tôi thèm tên Việt Nam được vinh danh trên các đấu trường, người Việt được yêu quý và tiếng Việt được nhiều người muốn học. Thèm lắm chứ. Nhưng tại sao tôi không thể? Có cách nào để tôi cùng được dự phần tự hào với những người đang tươi cười trên tivi kia không?

Sẽ có người cho rằng tại sao tôi không nhìn vào mặt tốt mà chỉ nhìn vào mặt xấu, rằng than thở thì có ích gì, rằng tôi đã làm được gì cho đất nước chưa? Tôi xin trả lời rằng tôi phát chán luôn cả họ.

Đến bao giờ người ta mới chịu nhìn vào lỗi để mà sửa, nhìn vào nhược điểm để mà thay đổi, nhìn vào yếu kém để mà đấu tranh? Đến bao giờ mọi người mới chịu thôi tự hào để thay vào đó là trạng thái xấu hổ để mà tiến lên? Đến bao giờ người ta mới chịu bắt bệnh để mà chữa bệnh chứ không đợi bệnh quá nặng mới vội vàng chạy chữa trong vô vọng? Đến bao giờ người ta mới nhận ra văn hóa của chúng ta đang đậm mùi chứ không phải đậm đà? Đến bao giờ người ta mới chủ động tìm kiếm giải pháp và thực hiện thay vì chỉ trích nhau, chỉ trích những người dám đứng ra chỉ trích?

Mỗi ngày được tiếp xúc với thông tin, kiến thức về thế giới ngoài kia bao nhiêu tôi lại càng chán bấy nhiêu. Bạn có thật sự vui không khi nghe báo chí hôm nay ca tụng văn hóa Nhật Bản, ngày mai tôn vinh những gì Israel làm được, ngày mốt ngợi khen thành quả của Singapore, Hàn Quốc hay thậm chí cả bạn hàng xóm Cambodia. Bạn có hạnh phúc không khi một bản nhạc hot Hàn Quốc vang vọng khắp hang cùng ngõ hẻm, những bà nội trợ khóc lên khóc xuống cùng những đau khổ của các nhân vật trong phim Hàn, phim Đài? Giới trẻ hiểu lịch sử Trung Quốc hơn lịch sử nước nhà. Và mới đây là facebook ngập tràn người muốn hóa thân thành Võ Tắc Thiên… Nói về đất nước mình chán một thì khi nghe về sự tiến bộ của nước người tôi lại càng chán hơn. Nếu văn hóa nước tôi đủ đậm đà, đủ đẹp và đủ mạnh liệu nó có dễ dàng để cho văn hóa ngoại len lỏi vào từng ngóc ngách cuộc sống và được người dân tôi yêu mến đến thế?

Bạn nghĩ tôi bi quan ư? Không, bạn không biết được cuộc sống riêng của tôi đang ổn và lạc quan đến mức nào. Đặc biệt từ khi tôi từ chối xem các chương trình truyền hình, từ chối các kênh tin tức nóng mỗi ngày, từ chối dự phần các trào lưu của giới trẻ. Tôi đang sống rất hạnh phúc. Vậy mà vẫn không cảm thấy tự hào, là nghĩa làm sao? Vì tôi không muốn sống mãi trong cái xã hội như thế, tôi không muốn bạn bè tôi, anh em tôi không được hạnh phúc như tôi vì họ vẫn mê mải trong cái ma trận văn hóa giả tạo. Tôi không muốn dân tộc tôi suốt ngày đi ca tụng văn hóa nước ngoài, dù chính tôi cũng ca tụng nó. Tôi không muốn con cái tôi sống trong bối cảnh văn hóa tệ nạn mục nát như thế này. Tôi thật sự không muốn. Tôi cũng chắc chắn rất nhiều người cũng không muốn những điều đó như tôi, nhưng làm sao đây?

Tôi ước gì mình có thể tạo ra sự thay đổi chỉ bằng cách vào tủ điện thoại yêu cầu của Doremon. Tôi ước mình có đủ sức mạnh và tài trí để tác động lên ý thức của mọi người. Tôi ước mình tài giỏi và xinh đẹp như người nổi tiếng để lời nói của tôi được quan tâm hơn. Tôi ước mình là một thương nhân giàu có để thật nhiều người vì thích tài sản của tôi mà lắng nghe tôi nói. Tôi ước gì mình có đủ thời gian để thuyết phục từng người một. Ước gì mình không cứ mãi ngô nghê thế này để mong mỏi một điều vô tưởng xảy ra. Ấy vậy mà tôi vẫn mong, tôi vẫn ước.

Tôi ước cả dân tộc tôi đồng lòng tạo ra sự thay đổi. Vì tôi biết rằng sự thay đổi được tạo ra từ chỉ ba yếu tố thôi: Một ý tưởng lớn, thật nhiều người cùng đồng lòng tham gia và hành động. Không thể thiếu một trong ba. Không thể. Nhưng nếu đủ cả ba yếu tố, nhất định một sự thay đổi lớn sẽ xảy ra. Vậy thì, ý tưởng thay đổi, cải tổ văn hóa, làm sống lại cái hồn dân tộc liệu có đủ lớn? Nếu đủ rồi thì bao nhiêu người sẵn sàng tham gia cuộc cải tổ này. Đồng ý tham gia rồi đấy nhưng mọi người có sẵn lòng hành động? Mọi người có sẵn sàng đánh đổi những giờ đọc tin tức, xem gameshow để đọc sách? Mọi người có sẵn sàng bỏ thời gian làm việc kiếm tiền để dạy dỗ giáo dục con cái mình thay vì nhường mọi trách nhiệm cho nhà trường? Mọi người có sẵn lòng cư xử lịch thiệp với nhau. Sẵn lòng cảm ơn và xin lỗi ngay trước khi người kia mở lời? Mọi người có dám đánh đổi những giờ nhậu nhẹt, buôn dưa để tăng gia sản xuất. Mọi người có sẵn sàng tiêu thụ nông sản Việt thay cho nông sản Tàu? Mọi người có chịu tuyên truyền những giá trị tốt đẹp của cuộc sống thay vì tuyên truyền rầm rộ cho những tin tức hở ngực lộ hàng? Mọi người có đủ sức rời xa những trang tin lá cải tiêu cực, có chịu giữ lại rác bên mình cho tới khi kiếm được thùng rác, có rủ nhau tham gia những hội trồng cây, hội đọc sách thay vì rủ nhau đi chơi game hay cafe tán gẫu? Mọi người có chịu nói về ý tưởng và tương lai thay vì chuyện yêu đương, trai gái và chuyện quá khứ ngàn đời? Mọi người có chịu tăng hiểu biết của mình về thế giới thay vì hiểu biết về cô này anh kia trên facebook?

Tôi ước chúng ta có một hệ thống quy chuẩn đạo đức, cách thức ứng xử đầy tiến bộ và nhân văn để mỗi người dân Việt Nam đều biết, đều ghi nhớ và quyết tâm làm theo. Một kiểu quy tắc hành xử rõ ràng kiểu “không xả rác nơi công cộng, không nói quá to, xin lỗi ngay cả khi lỗi vô tình…” thay vì những lời hô hào sáo rỗng như “văn minh, đoàn kết, yêu thương…”

Mỗi ngày trăm ngàn cái hội ghét người này, yêu cái kia lập trên facebook, thiết nghĩ nếu như có một nhóm lập hội những người quyết tâm hành động xây dựng một nền văn hóa mới, đi đầu trong việc làm gương, chịu phần thiệt ban đầu về mình nhằm lan truyền cái tinh thần tốt đẹp này thì tôi tin mọi thứ sẽ dần thay đổi thôi. Không có gì là không thể khi ý chí con người đủ lớn mạnh và được hỗ trợ bằng sự đồng lòng. Có lẽ tôi còn quá trẻ, đủ để vẫn còn trí tưởng tượng phong phú tới mức dám mơ ước về một thế giới như thế. Thế giới mà đa phần người ta không thể hình dung chứ đừng nói tới việc mình là một phần trong nó.

Thậm chí tôi còn tưởng tượng thêm nữa, về một biểu tượng kiểu dấu ấn về những người văn hóa mới. Để chỉ cần nhìn thấy dấu ấn đó trên ai, thì người ta biết ngay rằng đó là người văn minh lịch sự, người có thể tin tưởng được. Như Tony Buổi Sáng hay Alan Phan đã gần như trở thành những dấu ấn kiểu mới. Bạn trẻ nào yêu thích và làm theo lời Tony thì rất có thể người đó sẽ có một lý tưởng sống tốt đẹp, thích hành động cụ thể hơn chỉ nói. Bạn trẻ nào là tín đồ của Alan thì rất có thể sẽ là những người hiểu biết và yêu thích kiến thức hơn thông tin hổ lốn trên thế giới mạng. Tôi mong muốn có một kiểu dấu ấn như thế cho những người thật tâm mong muốn thay đổi nền văn hóa này, xã hội này, dân tộc này. Họ sẽ nhận ra nhau và có thể cùng nhau chung sức tạo nên một xã hội mới nhân văn với đầy đủ ba yếu tố chân thiện mỹ.

Đa phần mọi người sẽ cho rằng đây là chuyện nhảm nhí, viễn vông. Đa phần mọi người có thể sẽ cho rằng thay đổi văn hóa là việc họ không liên quan, không thể làm gì, không thể mong chờ gì hoặc chưa đến lúc. Này, bạn đừng quên, một cái đập cánh của con bướm ở Brazil có thể gây bão lớn ở Texas, đừng quên sức mạnh của ý chí và quyết tâm là điều có thể nhìn thấy được, hoàn toàn cảm nhận được và chính xác là đã được ghi lại rất nhiều lần trong lịch sử loài người. Israel đồng lòng xây dựng đất nước từ hỗn loạn và chia ly. Nhật Bản đồng lòng góp sức xây dựng nền văn hóa cả thế giới ngưỡng mộ. Cambodia đồng lòng phát triển đất nước từ một xuất phát điểm thua cả chúng ta… Thế thì tại sao dân tộc ta không thể đồng lòng làm nên điều tương tự?

Văn hóa là cái hồn của dân tộc, là thứ làm nên dân tộc tính, là thứ quyết định hình ảnh, thể diện của quốc gia và tạo thành nhân sinh quan cho mỗi người sống trong nó. Văn hóa là thứ định hình lối sống, phong tục và tạo ra các nền văn minh. Văn hóa thì có thể thay đổi chứ không vĩnh cữu và bất biến. Văn hóa tạo nên con người nhưng cũng chính con người kiến tạo ra nền văn hóa. Văn hóa không phải khi nào cũng đáng được tự hào. Đặc biệt là khi nó đã xuống cấp, không phù hợp với thời đại, cản trở sự phát triển, sự tiến bộ và con đường đi đến văn minh.

Một người trẻ nông cạn như tôi còn nhận rõ điều đó chẳng lẽ lại không ai khác nhìn ra sao? Hay mọi người đều nhìn ra nhưng không một ai thèm nhắc đến vì chưa phải lúc, vì không phải chuyện của mình? Cứ cho cuộc đời mỗi chúng ta chưa cần hay chẳng mong được sống trong một nền văn hóa tốt hơn. Vậy con cái chúng ta thì sao? Bạn đang tâm để nó sống trong cái xã hội tệ nạn từng ngóc ngách như thế này à? Bạn mặc kệ nó cầm tấm hộ chiếu in cờ dân tộc mà cúi gằm mặt xuống hay sao? Hay bạn lại cũng như bao nhiêu thế hệ đi trước, cho rằng: Tương lai đất nước này phụ thuộc cả vào con. Trọng trách này ta không chịu nổi xin giao lại cho con… Nếu như thế hệ nào cũng đùn đẩy cho nhau chỉ bằng một câu nói giản đơn như thế, thì cái giả thiết dân tộc ta bị đày có lẽ cũng là có cơ sở.

Nãy giờ ước nhiều quá rồi. Nhưng nếu chỉ cho thêm một điều cuối cùng, tôi ước một ngày kia tôi chính là người đang cười toe miệng trên tivi và hét thật to với thế giới rằng: TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM.

 

 Phi Tuyết

 Bài liên quan

 

 

 

[Phỏng vấn] Nah, một du học sinh, rapper bất đồng chính kiến

Photo: Từ Nah’s fanpage

Một thử thách lớn cho tương lai

Mới đây một du học sinh đang theo học tại Oklahoma tung lên mạng ca khúc thể loại Rap và một bức thư có nội dung chống lại độc tài hà khắc của cộng sản Việt Nam. Nhạc phẩm này được cư dân mạng dè dặt lẫn bỡ ngỡ đón nhận vì nó được sáng tác theo phong cách rap của những nghệ sĩ đường phố, cách thể hiện có vẻ dung tục vì nhiều tiếng chửi thề kèm theo. Tuy nhiên không ít người thích thú cho rằng đây là một cách tiếp cận mới của người trẻ đối với hiện tình đất nước theo cách nhìn của họ.

Điều khá đặc biệt người trẻ này là một du học sinh và cả gia đình anh đều còn ở lại Việt Nam. Việc trở thành người đấu tranh tại nước ngoài là một thử thách lớn cho tương lai của anh.

Người nhạc sĩ sinh viên ấy là Nguyễn Vũ Sơn với bút danh khi sáng tác là Nah Sơn có những thổ lộ với chúng tôi về bản thân anh và nguyên nhân khiến anh chấp nhận từ bỏ mọi thứ để tiên phong làm một du học sinh bất đồng chính kiến, trước tiên anh chia sẻ:

Nah Sơn: Em tên đầy đủ là Nguyễn Vũ Sơn em sang đây học hồi cuối năm 2013. Hè vừa rồi em có về Việt Nam. Học thì đi du học thôi chứ không có ý định ở lại nhưng khi qua đây học rồi thấy nó có nhiều khác biệt với mình quá. Cách giảng dạy rất mới và đây là lần đầu tiên đi học mà em thấy thích. Em học những vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử… nó làm cho mình nhận ra, mình ngộ ra được nhiều thứ hay lắm. Em tự tìm hiểu thêm trên Google, tự mình đúc kết lại và thấy rõ ràng là đất nước mình đang lâm nguy và nó có quá nhiều vấn đề nên em làm những điều này mong góp phần thay đổi đất nước.

Thật sự cái nền văn hóa của mình, mình đã sống với nó từ nhỏ rồi, nó làm thành tình yêu nhiều khi mình nhớ nó, trăn trở về nó có thể do đó nó cũng là một động lực.

Mặc Lâm: Khi còn ở trong nước Sơn có bao giờ để ý tới những người hoạt động tranh đấu cho tự do dân chủ nói chung là những hình thức chính trị hay không?

Nah Sơn: Thật ra về cái chuyện chính trị khi qua tới đây em mới có được rõ ràng như vậy. Ở Việt Nam em chỉ cơ bản có tính hơi phản kháng với chính quyền nhưng em không cập nhật về chính trị hay bất cứ gì hết. Khi qua đây và đọc nhiều thông tin hiều được nguồn gốc cội nguồn của tất cả vấn đề của bộ máy thì mình mới hiểu à thì ra đây là cốt lõi của mọi vấn đề.

Mặc Lâm: Qua bản nhạc rap mà Sơn vừa giới thiệu thì cách dàn dựng hay mix nó có thể nói là hấp dẫn tuy nhiên rất nhiều người cho rằng những tiếng chửi tục trong bản nhạc đã làm cho nó mất giá trị, nó có vẻ đường phố, bụi đời và dung tục quá… là một sinh viên Sơn có ý đồ gì khi xây dựng tác phầm trên cái nền rất bụi bặm như vậy?

Nah Sơn: Dạ em cũng biết trước là có nhiều người hơi phản cảm đối với những tiếng chửi thề nhưng mặc dù em xuất thân gia đình trung lưu gia đình ba mẹ em cũng dạy dỗ em đàng hoàng nhưng khi đi học thì bạn bè chửi thề rất nhiều. Ngay cả mấy chú xe ôm hồi đó chở em đi học cũng chửi thề… nói chung tiếng chửi thề riết rồi thấy nó cũng bình thường.

Thêm nữa nhạc rap nó giống như loại hình nghệ thuật hiện thực không thể nào viết nó quá bóng bẩy mà đôi khi cũng phải dùng những từ nó dùng trong đời sống mình đem vô. Ngoài ra theo em khi người ta có một cái gì đó khi mà người ta khó chịu, phản cảm thì người ta chú ý tới nó hơn.

Nếu nhìn ra thì cả Việt Nam bây giờ người ta chú ý tới Kenny Sang hay những scandal, những tin đồn này nọ người ta chú ý nhiều hơn. Em dựa vào những suy nghĩ như vậy cho nên em sáng tác bài hát có nhiều tiếng chửi tục nhưng nó là cảm xúc tức giận, nó là cảm xúc thật.

Vượt qua nỗi sợ hãi

Mặc Lâm: Là một du học sinh Sơn nhận xét thế nào về những du sinh từ Việt Nam sang Mỹ cũng như giới trẻ trưởng thành tại Mỹ về những hoạt động mang tính chính trị của họ?

Nah Sơn: Em nghĩ đối với du học sinh thì ai cũng có nỗi sợ mang từ Việt Nam qua. Ai cũng rất sợ vấn đề chính trị nên không ai dám nói điều gì liên quan tới chính trị hết. Đó là những vấn đề nhạy cảm. Giống như được dạy từ nhỏ là không được chơi ma túy vậy.

Bạn bè em hầu như không có ai nghĩ về chính trị hay có tư tưởng về xã hội lắm chỉ là đi học, đi chơi vậy thôi. Ngay cả giới trẻ Việt kiều, nói chung là cũng có người ghét cộng sản, muốn thay đổi nhưng em thấy giới trẻ Việt kiều thì một là họ không quan tâm còn nếu có quan tâm thì họ rất cực đoan. Họ hay đặt mối thù dân tộc khi Việt Nam Cộng hòa bị thất bại thì họ coi như một mối hận lớn. Em thấy cái chuyện đó nó hơi không phù hợp vì nó là chuyện quá khứ có đem ra nói đi nói lại nó cũng không tác dụng lắm. Em nghĩ bây giờ nên tập trung vào hiện tại, cộng sản ngay lúc này nó sai cái gì. Mối thù đó mình nên dẹp qua một bên.

Thí dụ như có nhiều người ghét người Bắc nhưng người Bắc lúc này họ cũng đã nhận ra nhiều vấn đề của cộng sản và rất muốn thay đổi chỉ có điều là bộ máy họ không muốn thay đổi thôi.

Mặc Lâm: Là một du học sinh dù sao khi học xong thì cũng phải về nước, khi ấy thì đón Sơn tại phi trường Tân Sơn Nhất hay Nội Bài không những là thân nhân, gia đình mà còn cả cán bộ an ninh của bộ máy cầm quyền. Sơn đã nghĩ tới những viễn ảnh như thế hay chưa?

Nah Sơn: Em cũng suy nghĩ vấn đề đó rất kỹ trước khi em làm. Nếu như mọi chuyện đi theo hướng tốt thì biết đâu mình có thể làm được những ý tưởng thay đổi gì đó trong giới trẻ. Có thể vài năm thì mình lại có thể về. Nếu trong trường hợp đi theo hướng xấu thì em sẽ tìm cách ở đây để tiếp tục tranh đấu.

Một khi đã quyết định làm thì phải chấp nhận hậu quả, em nghĩ vậy. Nếu em như những bạn du học sinh khác, sợ không về được thì nó sẽ không đi tới đâu hết tại vì em cảm thấy mình cũng có một chút tiếng nói trong giới trẻ vì nhiều bạn trẻ có nghe nhạc của em mình nên dựa vào điều đó để làm việc gì tốt hơn chứ suốt ngày cũng chỉ đi học, rồi về, đi chơi hay làm nhạc linh tinh thì nó phí hoài cái tuổi trẻ, khả năng và một chút tên tuổi của mình.

Mặc Lâm: Sau khi biết Sơn chọn con đường tranh đấu tại hải ngoại gia đình, bạn bè người thân của Sơn có phản ứng ra sao và những phản ứng ấy có làm Sơn đau buồn lắm hay không?

Nah Sơn: Ba mẹ em khi thấy em có những cái chuyển biến mang tính chính trị thì ba mẹ em có vẻ rất tức giận, như cảm thấy là mình mất một đứa con vậy. Ba mẹ em la em dữ lắm. Ba em có nói nếu bây giờ con còn tiếp tục làm chính trị như vậy thì cắt đứt mọi liên hệ gia đình. Em cũng trăn trở vì chuyện đó nhiều lắm.

Mặc dù em thích nhạc ráp em chơi với bạn bè đường phố nhưng em cũng rất thích học. Em đã có một bằng cử nhân bên Singapore học trường RMIT cũng do muốn đi nhiều nước học hỏi thêm nên ba mẹ cho đi Mỹ học. Em học cũng rất tốt em lấy điểm A không, từ khi qua Mỹ tới giờ không có lúc nào bị B hết em chỉ lấy A thôi vì em rất thích học. Cũng vì tính thích học nó làm cho em muốn tìm tòi cái này cái kia, càng tìm càng thấy bất mãn.

Em rất trăn trở, bây giờ mình học tiếp mình có tấm bằng, đi ra đi làm rồi mọi thứ cũng như cũ nó chẳng thay đổi được gì, nó cứ bế tắt. Còn nếu bây giờ mình làm chuyện này mình phải đánh đổi nhiều thứ. Bạn em thấy em cũng liều! (đúng là em làm chuyện này cũng hơi điên thiệt) Sau khi đắn đo em nghĩ nếu bây giờ mình không làm thì cũng không ai làm. Không bao giờ có ai làm chuyện này hết thành ra có được thì mừng còn nếu không được thì coi như mình đã cố gắng rồi, nếu không cố gắng làm sao biết được hay không? Vì vậy em cứ làm còn ba mẹ có nói thì em cũng… phải nói là em rất buồn, em rất là buồn nhưng mà biết sao được?

Người thân của em, bạn gái em, gia đình bạn gái em, rồi bạn bè em những người chơi với em 7 – 8 năm luôn vẫn quay lưng với mình.

Mặc Lâm: Sơn đã từng trình diễn trong một live show tại Hà Nội và nhiều bạn trẻ bây giờ vẫn còn nhắc đến trên Facebook. Chương trình ấy diễn ra vào lúc nào và do ai tổ chức vậy?

Nah Sơn: Cái show đó tên là CAMA Festival của Đại sứ quán Mỹ tổ chức ở Hà Nội hàng năm, nó mới bắt đầu mấy năm thôi. Hằng năm họ mời nhạc sĩ ca sĩ từ nhiều nước Đông Nam Á lại biểu diễn ở Hà Nội. Đầu năm 2013 em có ký hợp đồng với công ty Làng Văn bên Cali lúc họ về Việt Nam họ mở chi nhánh thì họ có ký hợp đồng với em nên em được đi diễn chương trình đó ở Đại sứ quán Mỹ. Em diễn ba bài, em remix bài “Sài gòn đẹp lắm” của nhạc sĩ Y Vân. Em diễn bài Đi bụi… Sau khi em diễn xong có một tờ báo tên Lao Động Online có đăng một bài rất dài chửi em và bạn em đã diễn những bài mang tính kích động, nói chung là lời lẽ phản cảm kích động phê phán xã hội ở ngay giữa đất Hà Nội và rất là buồn cười là lại được giới trẻ hưởng ứng trong khi những tiết mục khác của các nhóm nhạc khác thì ít được hưởng ứng hơn.

Nói chung là em thấy mình làm được những chuyện ấy thì mình vui thôi chứ em không nghĩ nó có yếu tố chính trị gì. Bây giờ nghĩ lại thấy có sự sắp xếp sao đó, cái duyên nên chuyện đó nó chọn mình… em cũng không biết…

Mặc Lâm: Cám ơn Sơn.

 

Mặc Lâm – RFA

Đâu rồi khát vọng tuổi trẻ Việt

Featured Image: John Holcrof

 

Đánh thức một thế hệ trẻ đang ngủ quên…

5 năm kể từ ngày bắt đầu cuộc sống tự lập xa nhà. Cách đây 5 năm tôi chưa có gì cả. Bây giờ nhìn lại, tôi cũng vẫn không có gì cả. Nếu được hỏi về điều mà tôi làm được lớn nhất trong vòng 5 năm qua, có lẽ nó giống như hình ảnh những cầu thủ U19 Việt Nam khi họ thất bại: những giọt nước mắt.

Trải qua nhiều cung bậc cuộc sống, có khi hạnh phúc thăng hoa, có khi thất bại đau đớn ê chề, đằng sau đó, có một thứ tài sản quý giá vô cùng đối với tôi là những giọt nước mắt: nước mắt khi thất bại khó khăn, nước mắt khi thành công, hạnh phúc. Bởi đó là dấu hiệu của sự trưởng thành.

Tôi là một người trẻ. Với những kinh nghiệm và vốn sống ít ỏi của mình, tôi chưa đủ tầm để đưa ra những phán xét, đánh giá. Tôi chỉ đơn giản là đưa ra những góc nhìn để hy vọng rằng bạn cũng như tôi – thế hệ trẻ của Việt Nam, nếu còn đang “ngủ quên” vào một số thực trạng thì hãy làm ơn cùng nhau tỉnh giấc để sống, để cống hiến, để làm nhiều điều ý nghĩa, để có thể thực sự trưởng thành, cho dù có phải khóc, cho dù có phải mất nhiều nước mắt khi nhìn về thực trạng tuổi trẻ bây giờ.

Tuổi trẻ bây giờ đang bị ngủ quên khi quá tập trung vào những khó khăn trong cuộc sống của mình.

Tuổi trẻ bây giờ đang bị ngủ quên khi quá thờ ơ và vô cảm vì quá nhiều người được đầy đủ dẫn đến việc không biết trân trọng những gì xung quanh.

Tuổi trẻ bây giờ ngủ quên khi đã quá lãng phí thời gian vào những việc vô bổ, tào lao như suốt ngày ngồi lỳ bên máy tính, la cà các quán nhậu.

Tuổi trẻ bây giờ ngủ quên khi ít người dám nghĩ lớn mà chỉ mơ ước những hiện thực vật chất tầm thường.

Tuổi trẻ bây giờ ngủ quên khi chẳng mấy người dám cống hiến sức trẻ mà đám đông chỉ để ý đến lợi ích cá nhân nhỏ nhoi cho riêng mình.

Tuổi trẻ bây giờ còn đang bị mắc kẹt trong cái tư duy “mì ăn liền”

Cái gì cũng muốn nhanh, muốn gọn, muốn rẻ. Tuổi trẻ bây giờ muốn làm giàu nhanh chóng, không mất sức nhưng mù quáng về hiểu biết và thiếu bản lĩnh, thế nên mới có chuyện bao nhiêu sinh viên bị lừa vào đường dây bán hàng đa cấp. Tôi không phản đối bán hàng đa cấp. Tôi là dân luật, tôi chỉ nói lên những điều mà pháp luật quy định. Ở Việt Nam bán hàng đa cấp được pháp luật chấp nhận bởi hình thức bán hàng này có những ưu điểm của nó.

Hành vi bán hàng đa cấp bất chính chủ yếu nằm ở hai chỗ: cách thức bán hàng và cách thức trả thưởng. Trong đó có một hành vi vi phạm phổ biến như bắt người tham gia phải nộp một khoản tiền đầu tư để trở thành thành viên, một món hàng nhưng bán đi bán lại nhiều cấp để lấy phần trăm; trả hoa hồng chủ yếu từ việc dụ dỗ, giới thiệu người khác vào mạng lưới mà không dựa trên kết quả bán hàng thực sự, thu phí từ việc đào tạo người trong hệ thống…

Bản chất bán hàng đa cấp là tốt, vì nó tiết kiệm chi phí khi phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất. Nhưng khi triển khai thì nhiều cái tốt bị biến tướng, và đặc biệt là nó đánh vào khát vọng làm giàu nhưng mù quáng về kiến thức và thiếu bản lĩnh của các bạn trẻ. Khi bạn còn trẻ, bạn không bao giờ thành công được nếu không xây dựng nền tảng kiến thức và kinh nghiệm vững chắc cho mình. Cứ đứng núi này trông núi nọ, làm nhiều thứ nhưng chẳng giỏi thứ gì thì làm sao mà đi xa được.

Bạn thường chỉ có thể tích lũy nhiều kinh nghiệm đủ để trơ và có bản lĩnh khi làm việc trong một lĩnh vực ít nhất từ 3 năm – 5 năm, không bao giờ có cái gì là nhanh, là gọn cả. Và như nhiều người nói, để trở thành chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực gì, bạn phải có 10,000 giờ cho nó. Thế nhưng, là chuyên gia thì phải là chuyên gia đúng nghĩa, và quan trọng nhất là phải có chữ TÂM. Khi có TÂM, có TÀI, chắc chắn sẽ có TẦM ảnh hưởng.

Tôi ngỡ ngàng khi được nghe chia sẻ thực trạng sinh viên Việt. Rằng Việt Nam mình bây giờ không phải là thừa thầy thiếu thợ, mà là thừa BẰNG nhưng thiếu cả thầy và thợ giỏi. Thực trạng đám đông: việc chân tay thì lười không muốn làm, việc chất xám thì không đủ trình độ để làm được. Tìm đâu một giải pháp?

Tuổi trẻ bây giờ lười học quá

Tôi dự một hội nghị tầm cỡ quốc tế được tổ chức ở Hà Nội – đại hội quảng cáo châu Á – Adasia 2013. Tôi ngỡ ngàng vì trước đây cá nhân tôi lúc nào cũng thoái thác việc học ngoại ngữ trong khi mọi giờ giải lao của hội nghị hôm đó, người ta đều chủ yếu nói hai thứ ngoai ngữ là Tiếng Anh và Tiếng Trung. Ngơ ngác chẳng hiểu gì, tôi thấy hổ thẹn, thấy mình kém cỏi và nhỏ bé. Tôi giật mình khi nghe câu chuyện của một đại biểu với lời khuyên về một thứ rất nhỏ, gần gũi thôi nhưng mà mình quá vô tình không để ý.

Đó là bài học về việc tiết kiệm nước bởi vì trên thế giới có hàng tỷ người không có nước sinh hoạt mỗi ngày trong khi bao lâu nay mình chẳng thèm quan tâm và cứ sử dụng một cách xả láng. Những bài học cho dù là nhỏ như vậy, cũng cần phải học. Lười đọc, lười học, lười phát triển bản thân. Cứ như vậy bao giờ mới lớn lên được? Nếu bạn 30 tuổi mà bạn không chịu học hỏi, phát triển bản thân mình cho tốt đẹp lên thì chẳng khác gì bạn chỉ là một đứa trẻ 1 tuổi sống cuộc đời mình lặp đi lặp lại 30 lần.

Tuổi trẻ bây giờ ít người “dám bước đi”

Nói đúng hơn là ngại bước đi. Tuổi trẻ bây giờ thích ngồi quá. Thích ngồi trong phòng trọ, ngồi trong lớp học, ngồi trong quán ăn, ngồi trong hàng net. Và đặc biệt là ngồi trong những cái sai lầm của tư tưởng. Có phải tự nhiên không khi mà Chế Lan Viên từng than rằng: “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp – Giấc mơ con đè nát cuộc đời con?” Thơ ông sâu xa, nhiều tầng ý nghĩa. Nhưng có thể thấy một điều hiển nhiên rằng, cái sự không dám bước đi là ở chỗ mắc kẹt vào “những giấc mơ con” một cách quá sâu, quá lâu mà không tách ra được. Cứ mắc kẹt trong những cái giấc mơ tầm thường trong suốt cả cuộc đời mà không dám nghĩ lớn, không dám làm việc lớn.

Có lần được hỏi về điều trăn trở của vua cà phê Việt Đặng Lê Nguyên Vũ, ông trả lời rằng:

“Điều trăn trở của tôi còn là sự day dứt của nhiều bạn trẻ đang mặc cảm của sự nghèo khó, của lòng tự ti. Nhưng tiền bạc vốn không phải là vấn đề mà điều quan trọng là phải có những ước mơ lớn lao. Hiện nay, có nhiều bạn trẻ đang mang trong lòng những ước mơ rất hạn hẹp về những giá trị vật chất mà thiếu đi “chất lửa” của tuổi trẻ khát khao được cống hiến, được chia sẻ và tâm huyết với những thay đổi lớn lao của dân tộc, của đất nước – đó cũng là một phần lỗi không nhỏ ảnh hưởng của nền giáo dục hiện nay đang làm bào mòn đi tính sáng tạo trong suy nghĩ của họ.”

Đâu rồi khát vọng tuổi trẻ Việt?

Lịch sử ghi nhận vô cùng nhiều con người trẻ nhưng thực sự tài năng, không chỉ có bài học ở người Việt, mà còn trên cả thế giới. Năm 27 tuổi, Gia Cát Lượng đã trở thành quân sư của Lưu Bị đi xây dựng mộng phục hưng nhà Hán sau 10 năm tu luyện ở Long Trung, là một “đứa con nít” trong mắt Tào Tháo nhưng đã làm kinh thiên động địa đánh tan 830,000 quân Ngụy sau trận Xích Bích.

Năm 37 tuổi, Võ Nguyên Giáp – một vị tướng không qua bất kỳ trường lớp quân sự chính thống nào được phong hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm cả thế giới bất ngờ và khâm phục khi chỉ huy các chiến dịch và các chiến thắng lớn đánh bại thực dân Pháp, đánh tan Mỹ thống nhất đất nước, dẹp loạn quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc.

Chẳng có gì là diễn ra tự nhiên cả, những con người đó, họ cần rất nhiều yếu tố để làm được những việc đó, nhưng khởi đầu là họ phải có tư duy lớn, khát vọng lớn chứ không chấp nhận mơ những giấc mơ tầm thường.

Cuộc sống chỉ bắt đầu khi thực sự tỉnh giấc. Tuổi trẻ là thế hệ quan trọng của đất nước. Tự tin quá không tốt, bi quan quá cũng không tốt, hãy là một người thực tế biết hy vọng. Cuộc đời này ngắn ngủi, đừng lãng phí cuộc đời vào những giấc ngủ quá lâu.

Tự vấn bản thân mình, rằng mình đã làm điều gì khác biệt trong chính cuộc sống mình? Mình đã làm điều gì ý nghĩa cho cuộc sống của mình? Mình đã mang đến những giá trị gì cho cuộc sống của người khác? Mình đã tạo ra những giá trị gì cho cuộc đời? Mình đã cống hiến được những gì cho đời? Bởi những gì bạn làm được cho bản thân sẽ ra đi cùng bạn, những gì bạn để lại cho đời sẽ ở lại mãi mãi.

Để làm được những điều đó, thế hệ trẻ – quan trọng là phải DÁM BƯỚC ĐI.

 

Đỗ Việt Cường

Em có mệt không em? (Phần 3)

 Featured Image: Elizabeth Gadd

 

Em có mệt không em?
Khi em cứ yêu cầu mình là người giỏi nhất
Khi em cứ yêu cầu mình phải là người xuất sắc
Rằng em phải là người đặc biệt nhất cuộc đời.

Này em ơi
Xin em đừng tự giày vò mình như thế
Để tôi nói em nghe điều này nhé
Mỗi chúng ta đều là một người đặc biệt rồi đó em!

Em hãy nhìn chiếc lá rơi bên thềm
Đó chỉ là một chiếc lá nhỏ nhoi, không có gì đặc biệt
Nhưng chắc chắn em sẽ không tìm được chiếc lá nào giống như thế
Nên em hãy sống thật sự là chính mình!

Này em xinh!
Chỉ cần em cố gắng hết mình, làm những gì em có thể
Và em hãy mỉm cười để đón nhận kết quả
Vì đó là tất cả những gì em cố gắng, em à…

Đừng tự yêu cầu mình là người giỏi nhất nữa nhé em!
Sẽ khiến em vô cùng mệt mỏi…

Một Đời Quét Rác

Peter St. Onge – Cách mạng bạo lực thường ăn thịt những người sinh của nó

Featured image: the impossible cool

 

 

Lời người dịch: Đây có thể được coi là lời bạt cho những tác phẩm như: Đêm Giữa Ban Ngày, Bên Thắng Cuộc, Đèn Cù, Giai Cấp Mới… và nhiều tác phẩm khác nữa.

********

Cách mạng cánh tả* là một trong những cú lừa lớn nhất trong lịch sử. Cả các nhà trí thức, những người khao khát bắn phá lẫn những người bị thiệt thòi, những người bị đưa vào trại tập trung chứ không phải vào thiên đường trên cõi thế, đều được hứa như thế cả.

*THĐP: Cánh tả trong chính trị có nghĩa là những tư tưởng thiên về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cánh hữu là thiên về chủ nghĩa tư bản.

“Cách mạng thường ăn thịt những đứa con của mình.” Nhận xét này, do một nhà báo đưa ra trong cuộc Cách mạng Pháp, chỉ đúng một phần. Trên thực tế, các cuộc cách mạng ăn thịt chính những người sinh ra nó. Cụ thể là, các cuộc cách mạng tả khuynh trong lịch sử ăn ngay những trí thức cánh tả, tức là những người tạo điều kiện cho cách mạng xảy ra. Tôi dùng từ “cánh tả” ở đây là để chỉ những cuộc cách mạng có mục tiêu rõ ràng là sử dụng sức mạnh của chính phủ nhằm cải tạo xã hội. Để cải tạo xã hội cho phù hợp với cách hiểu về “công lý” mà những người cổ động cho nó coi là hấp dẫn.

Tất nhiên, trong những cuộc cách mạng mang tính cải cách như thế, các nhà trí thức chỉ là một món khai vị mà thôi. Những cuộc cách mạng mang tính cải cách của lịch sử chuyển thẳng vào món chính: nó bắt đầu ăn xơi những người bị thiệt thòi và những người thiểu số, tức là những người ủng hộ cách mạng nhiệt tình nhất.

Tất cả những cuộc cách mạng cánh tả trong thế kỷ XX đều theo mô hình này: được những nhà trí thức không tưởng trợ giúp, quyền lực nhanh chóng bị các nhà chính trị chuyên nghiệp – những kẻ luôn luôn lợi dụng những bản năng thấp kém nhất của những người bình thường – chiếm đoạt. Ngay cả ở những nơi “văn minh” nhất, như nước cộng Weimar ở Đức hay “sân chơi của những ngôi sao” Cuba trong những năm 1950, những kẻ vừa mới được đưa lên ngai vàng đều lấy làm sung sướng khi nhìn thấy những nhà trí thức và những bạn bè “đã thoái hóa” của họ bị bỏ tù, bị tra tấn và bị treo cổ trên những cột đèn.
Nhắc lại chỉ thêm buồn. Nhất là đối với những người cấp tiến muốn lấy tiền của người đóng thuế để cổ vũ cho bạo lực. Mao nổi tiếng khi khoe rằng đã “chôn sống 46.000 trí thức”, ý là ông ta đã đưa tất cả bọn họ vào các trại tập trung để họ ngậm miệng và chết ở đó. Phong trào cộng sản cực đoan của Pol Pot nổi tiếng vì đã giết hàng ngàn trí thức, đến mức tất cả những người đeo kính đều bị giết. Ngay cả các chế độ được cho là “mát mẻ”, ví dụ như của Fidel Castro, cũng lập ra các trại tập trung dành cho cho người đồng tính, trong khi Liên Xô cấm đồng tính luyến ái trong hơn năm mươi năm, vượt cả Putin.

Khôi hài nhất là, từng là ngôi sao sáng trong trường đại học, nhưng người hùng cực đoan Che Guevara đã tỏ ra vui sướng và tự mình giết những người đồng tính, những người mà ông ghét cay ghét đắng, trong khi giúp xây dựng hàng loạt trại tập trung của Fidel trên khắp cả nước để tra tấn những người đồng tính và những người đàn ông biến thái nhằm buộc họ phải từ bỏ điều được coi là trụy lạc, được coi sản phẩm của chủ nghĩa tư bản suy đồi về mặt đạo đức.

Tại sao các cuộc cách mạng mang tính cải cách đều thích giết cả những người trí thức cánh tả và những “nhóm dễ bị tổn thương” vốn gần gũi như thế với trung tâm của cánh tả? Bởi vì quyền lực có logic riêng của nó. Bởi vì tất cả các chính phủ dựa vào bạo lực đều phải thường xuyên ngó lại phía sau. Và điều đó có nghĩa là nó phải kêu gọi những bản năng thấp kém nhất của quần chúng. Nếu quần chúng ghét người đồng tính, hay người Do Thái, hay các nhà trí thức thì chính phủ sẽ làm những gì nó nói, nó sẽ đưa những người đồng tính, người Do Thái và trí thức vào trại khổ sai. Những người thấp hèn nhất ghét cái gì thì chính phủ toàn trí toàn năng ghét cái ấy.

Tại sao các nhà trí thức lại không nhìn thấy mô thức hành động khủng khiếp này? Có lẽ, họ hy vọng rằng lần này khác và lần này những người cấp tiến trong các trường đại học và các chính trị gia sa lông của họ sẽ nắm được dây cương. Nếu lịch sử là người dẫn đường thì những người đó sẽ không giữ được dây cương. Không những thế, những nhà chính trị chuyên nghiệp sẽ giật mất cuộc cách mạng của họ và biến nó thành cơn ác mộng khủng khiếp nhất đối với họ: biến thành cuộc cách mạng phản-trí-tuệ, chống người đồng tính, phân biệt chủng tộc và bài Do Thái. Dù khởi nguồn của cách mạng có trong sạch đến đâu thì lịch sử cũng cho thấy kết quả tất yếu là như thế.

Chẳng có gì vui cả. Không ai trong chúng ta muốn những người cánh tả cấp tiến bị treo lên cột đèn hay bị giết trong văn phòng của Che cho ông ta xem. Chúng ta muốn là những nhà cải cách ủng hộ bạo lực sẽ phải có thái độ thận trọng hơn nữa với mồi lửa mà họ đang nhóm lên. Họ nên nghiên cứu thêm một chút về lịch sử. Để hiểu lý do tại sao, lúc nào và ở đâu nó cũng như thế, để hiểu cưỡi lên con hổ mang tên chính phủ có quyền lực không hạn chế là việc nguy hiểm đến mức nào.

Những người cánh tả nghĩ rằng họ có thể kiểm soát được con hổ mang tên quần chúng đã được phá cũi sổ lồng. Nhưng họ không thể kiểm soát được và trên thực tế, họ sẽ là người đầu tiên bị treo lên cột đèn. Và đấy là điều rất đáng buồn cho tất cả chúng ta, cả những người tả khuynh lẫn hữu khuynh.
[themify_box style=”yellow rounded” ]Peter St. Onge là Phó giáo sư tại Taiwan’s Fengjia University College of Business.[/themify_box]

 

 

Dịch: Phạm Nguyên Trường

Nguồn: https://mises.org/library/revolutions-eat-their-parents