14.6 C
Da Lat
Thứ Hai, 29 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 158

Gửi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng — Vì sao giảm thuế có thể giúp gia tăng ngân sách

Featured image: Quoc Dung Phạm

 

Gửi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và các thành viên Quốc Hội,

Kinh tế chúng ta đang bị suy thoái, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, chính phủ càng ngày càng phải vay thêm tiền để trả nợ. Tôi xin đề xuất một ý tưởng sau đây nhằm giúp doanh nghiệp, người dân và chính phủ thúc đẩy sự hồi phục và phát triển của nền kinh tế nước nhà.

Vấn đề trở ngại nhất hiện tại của doanh nghiệp là thuế. Nếu nói về thuế thôi thì không đúng, thuế ở đây là thuế chính thức và thuế “không chính thức”. Nhưng tôi sẽ không nói về vấn đề đó ở đây. Ở đây tôi chỉ muốn gợi ý chúng ta nên làm gì nhanh nhất, gọn nhất và hiệu quả nhất.

Tôi đề xuất Quốc Hội nên xóa bỏ TẤT CẢ các loại thuế lớn và nhỏ, chính thức và không chính thức và chỉ nên áp dụng 3 loại thuế với 3 mức thuế như sau nhằm tạo sự công bằng cho tất cả mọi người:

1) Thuế thu nhập cá nhân, 20%. Không phân biệt cao hay thấp, ai cũng phải đóng 20% để mọi người đều đóng vai trò lớn nhỏ trong việc xây dựng đất nước. Hiện tại nước ta có quá nhiều người ăn không ngồi rồi và không góp một xu nào vào kho bạc. Làm vậy để các cán bộ dư luận viên khỏi phải lặp đi lặp lại câu hỏi kinh điển “Bạn đã làm gì cho đất nước chưa?” Sẽ không còn ai hỏi câu hỏi đó nữa vì mức 20% mà ai cũng phải đóng đã là câu trả lời.

2) Thuế VAT, 20%. Không phân biệt loại hàng hóa. Điều này sẽ giảm đi một bộ phận cán bộ không làm gì trừ việc phân tích hàng này có nên đóng thuế hay không và đóng bao nhiêu. Với 20% thì khỏi mất thời gian, tính một cái là ra. Tất cả các doanh thu sẽ được gửi trực tiếp qua điện tử mà không nhiều cán bộ thuế quản lý.

3) Thuế doanh nghiệp 20%. Không phân biệt doanh nghiệp. Điều này sẽ cân bằng hóa thị trường và độ canh tranh cho tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngoài nước. Sẽ không có một sự ưu ái nào vì doanh nghiệp nào cũng góp phần. Chính phủ cũng khỏi cần cử mấy anh cán bộ thuế đi lòng vòng kiểm tra kiểm toán coi doanh nghiệp có đóng đúng không. Doanh nghiệp cũng không cần cử người xếp hàng ở Sở Thuế để nộp. Tất cả sẽ được nộp trực tiếp bằng điện tử.

Như vậy thì đất nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam của chúng ta mới xứng đáng với câu Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc. Xin cảm ơn Thủ Tướng và các thành viên Quốc Hội.

Ký tên,
Ku Búa

 

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=U6eiwOTuLyg?list=PL-t6x6PzuIMs3Y7-u-GppEVhAmCnmTo93]

Nơi mặt trời không biết khóc

Featured image:  Tanwir Jogi

 

Bước qua mớ tầm thường
là vô cực?
mặt trời đốt những đốm tàn trên thân thể khuyết
cháy bộng ánh mắt mộng du
con rắn trườn qua sự im lặng cúi đầu
uốn ép chiếc lưỡi huyền sử
có khi cứng
nhọn
đâm
bị thóc
mật ngọt phủ ngoa ngôn
ngày ánh sáng tắt
mặt trời không khóc trên đọt cây
khi đêm xuống
bước ra
từ những vũng lầy
lạnh giá
bình minh
không mang khuôn mặt nguyên khôi
tôi ôm tôi.

Sáng mù sương
rất chậm
nơi mặt trời không biết khóc.

 

Phương Uy

 

Tử nạn chữ

Featured image: Laganart

 

những con chữ xếp bằng – ra lối
kiết già – mang máng mùi tạp lai giao cấu không cùng loại
cuộc chửa đẻ ngoại tình lén lút phạch phò đạo chích
tâm chữ nảy lung tung trong nồng sực giả cầy – lạch bạch

những con chữ bị ép- quái thai – nặng mùi bợ đỡ
bâng bô xô châụ – rưng rức chiều
nắng quái – hàn huyên cỏ xanh lá xanh
giữa mùa gió giá – thốc ngược gió- thốc ngược nắng – cực cùng
dối trá – ngụ ngôn cẩu tạp chủng – chữ
khóc lóc giả tạo phường lòi tói – bè đảng vong nô- chữ
xác chết già – dòi bọ than van khóc mướn – chữ

những con chữ đeo kính trắng kính lão kính viễn thị
loạn thị – tẩm cổ cồn
sặc sừ long não-sặc
triết lý- nắng mưa nửa mùa nạc mỡ
ba phân hai lạng rưỡi – chắc bóp
chi li giả danh hào phóng – làm từ thiện
nhộn nhạo trận nôn ráng chiều ói – vàng xanh
tươm mật

những con chữ béo núc ních – trận cuồng
tưởng – mỹ nhân mặt mo mặt mốc – đua đòi
chòi mâm son – dầu mỡ
vàng suộm khói – xém – quá lửa – dư gia vị
nêm nếm không kheo khéo – thảm họa
ẩm thực – ngộ độc chữ

những con chữ chết oan – không siêu sinh – ức
như ngày đoạn tụ – hờn căm
cuộc o ép – đánh tráo – đánh cắp – bắt chước – học đòi – lu loa
trên mộ địa – tấm tức
nhị tỳ hương khói tha ma
bị áp chế – bị tầm nã ý nghĩ – chữ bay
tầng không thiên hà bát quái – ngã
lộn cổ – treo ngược cành cây
ngày tử nạn chữ…
Phương Uy

Đừng hỏi vì sao…

Featured Image: Réhahn Photography

 

Đừng hỏi vì sao người ta không thể dễ dàng tin tưởng nhau
Vì người ta đã chứng kiến quá nhiều nỗi đau, nên lòng tin dần dần bị mai một
Vì cuộc đời này, không phải ai cũng đều là người tốt
Nên xin đừng trách người, nếu người vẫn hoài nghi.

Nhưng xin người hãy tự bảo vệ mình
Hãy nghi ngờ, và rồi hãy tin tưởng
Và người hãy tin nhau nhiều hơn trước
Có được không?

Vì sống ở đời cần có một tấm lòng
Nên hãy sống vì nhau, dù chỉ là một chút
Mỗi người một chút thôi, hãy sống vì người khác
Thì cuộc sống sẽ khác, và sẽ khác rất nhiều…

Phải có niềm tin rồi mới có tình yêu
Yêu cuộc đời, và yêu con người nhé!
Để đặt niềm tin, và để có được niềm tin không phải là chuyện dễ
Nên xin người đừng làm vỡ vụn những niềm tin...

 

Một Đời Quét Rác

Rồi cũng sắp đi qua mùa đông

Featured Image: blmiers2

 

Rồi cũng sắp đi qua mùa đông
địa cầu tan tuyết chảy
thôi
không nhặt nước mắt thành dòng
để dễ dàng đi qua đêm
ánh sao lạ
bùng cháy
triệu năm đã cửa đóng
thiên đường

Rồi cũng sắp hết những ngày hành khất nỗi buồn
vay trả giấc mơ một cuộc tình không thật
đêm hai bốn nghe lòng mình chật
thánh hóa được không khúc dối lừa?

Bên ô cửa chồn chân còn sót cơn mưa
đám mây lơ đãng bỏ quên trong một ngày ký ức
đóa trạng nguyên nhuốm máu sương mờ

Rồi cũng sắp hết một ngày
bằng tiếng chuông giục giã giờ canh thức
bài thánh ca hối tiếc
cho một đức tin dang dỡ
trốn vội vàng vào ngùn ngụt  mù sương
những ngón tay mê sảng bò đi
rối loạn trong túi áo khoác
con đường đã mất tích
làm sao còn nắm được tay em?

Phương Uy
24.12.14

(cho Bình An)

6 nguyên nhân vì sao năng suất làm việc của người Việt thấp nhất khu vực

Photo: ULTIMATE

 

Gần đây có một bài phân tích kinh tế nói rằng năng suất làm việc của người Việt Nam kém nhất khu vực. Không có gì bất ngờ, điều này ai cũng biết, nhiều người cũng hiểu, nhưng khổ nổi những người kia không hiểu. Bài viết này chỉ nói lên những gì ai cũng biết nhưng ít khi nào nói ra.

Năng suất chúng ta thấp hơn không phải vì chúng ta kém thông minh hơn mà vì văn hóa làm việc của chúng ta có quá nhiều vấn đề. Năng suất thấp đồng nghĩa với việc thu nhập của chúng ta thấp hơn. Có rất nhiều nguyên nhân và vấn đề nhưng ở đây chỉ nói về văn hóa từ phía cạnh cá nhân. Năng suất làm việc của người Việt thấp vì:

1. Sự ảnh hưởng của thời bao cấp
2. Sự ảnh hưởng của tư tưởng Khổng Tử Giáo
3. Kỹ năng làm việc nhóm kém
4. Nhậu
5. Kỷ luật kém
6. Văn hóa truyền thống

Ảnh hưởng của thời bao cấp

• Kinh tế Việt Nam chỉ bắt đầu là kinh tế thị trường (chỉ một phần) khi chính sách Đổi Mới 1986 bắt đầu. Nên tác phong và văn hóa làm việc vẫn còn bị ảnh hưởng rất nặng từ thời bao cấp theo cơ chế “xin – cho”.

• Người bán hàng không mang tư tưởng là mình cần khách hàng (thị trường), mà chỉ nghĩ là khách hàng cần mình (bao cấp). Vì vậy nên thái đội coi thường khách hàng/đối tác vẫn còn rất nặng, nhất là ở miền Bắc và những vùng miền ít va chạm với thế giới hiện đại.

Sự ảnh hưởng của tư tưởng Khổng Tử Giáo

• Việt Nam đã bị Trung Quốc đô hộ hơn 1000 năm nên văn hóa Trung Quốc đã có sự ảnh hưởng rất lớn. Lớn nhất là Khổng Tử Giáo.

• Mục đích tối cao của Khổng Tử Giáo là giữ sự ôn hòa, không cho phép ai đi ra ngoài rìa, không cho phép ai suy nghĩ khác. Mục đích đó không sai, nhưng khi áp dụng vào môi trường làm việc hiên đại, nơi yêu cầu sự sáng tạo và đột phá thì Khổng Tử Giáo là một tư tưởng vô cùng độc hại. Nếu ai suy nghĩ khác sẽ bị soi mói, chơi xấu, nói xấu, bị dìm xuống ngay lập tức. Một ý kiến dù nhỏ gấp mấy cũng không tồn tại được, cho nên sáng tạo rất hiếm còn sự đột phát thì quá xa vời.

• Trong môi trường doanh nghiệp, có sự phân biệt rất lớn giữa nhân viên và quản lý. Quản lý là phải quản lý nhân viên, và nhân viên phải nghe lời quản lý. Trong cuộc họp thì nhân viên chỉ ngồi nghe quản lý trình bày rồi sau đó làm theo, dù đồng ý hay không vẫn gật đầu và tươi cười, rất hiếm khi nào có ý kiến. Đây là một điểm yếu rất khó sửa trong văn hóa làm việc ở Việt Nam.

• Trong văn hóa làm việc Tây Phương thì quản lý cũng chỉ là người làm công ăn lương như nhân viên, mọi ý kiến đều được tôn trọng và khuyến khích.

• Khổng Tử Giáo đã làm cho đại đa số người Việt sống một cách giả tạo, hoặc sống với 2 bộ mặt. Trước mặt thì luôn tươi cười gật đầu đồng ý, nhưng sau lưng thì luôn tìm cách đâm chọt và nói xấu nhau. Bằng mặt nhưng không bằng lòng, một điều vô cùng độc hại trong môi trường doanh nghiệp.

Làm việc nhóm kém

• Người Việt làm việc cá nhân thì giỏi còn làm việc nhóm thì không ai làm được gì.
• Người này đẩy việc cho người kia, làm việc vô trách nhiệm.
• Cái tôi quá cao.

Nhậu

• Nhậu đã trở thành 1 văn hóa ở Việt Nam và đã ăn vô máu, nhất là đàn ông.
• Đi đâu cũng thấy quán nhậu mà quán nào cũng đông người nhậu.
• Ở Việt Nam cái thứ dễ nhất để tìm là quán nhậu và khó nhất là 1 con đường hay khu phố nào không có quán nhậu.
• Lâu lâu nhậu thì quá bình thường, hoặc uống vài ly thì không là vấn đề. Nhưng ngày nào cũng nhậu, nhậu quên trời quên đất, nhậu không cần lý do, nhậu quên giờ quên giấc, thì lúc đó mới có vấn đề.
• Ở Việt Nam nếu ai đó không biết nhậu, không thích nhậu sẽ bị mọi người cho ra rìa. Vì nhậu là cách để hòa đồng để kết nối lại.
• Nhậu làm suy giảm sức khỏe và trí tuệ của con người, làm cho con người trì trệ và lãng phí thời gian tiền bạc.
• Mấy anh làm ơn bớt nhậu cho đất nước nhờ nha?

Kỷ luật kém

• Đi trễ về sớm.
• Trong giờ làm việc hay nhả nhớt và ăn cắp thời gian làm việc quá nhiều.
• Không dựa theo kế hoạch ban đầu.

Văn hóa truyền thống

• Tết nghỉ việc quá lâu, có cần phải vậy không? Nên nghỉ tối đa là 3 ngày. Nghỉ nguyên 2-3 tuần thì ai còn làm được gì nữa. Chưa kể đầu óc từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 2 thì chỉ nghĩ đến Tết, làm cho công việc bị trì trệ. Vì đây là truyền thống lâu đời nên rất khó thay đổi.

…..và còn nhiều nguyên nhân nữa. Nhưng ở đây chỉ nhìn từ phía cạnh văn hoá. Chúng ta luôn tự hào rằng chúng ta siêng năng, cần cù, chăm chỉ, chịu cực. Nhưng nếu thật lòng tự nhận xét thì có gì đó không đúng, phải không?

Gửi anh em Việt Nam, tôi hiểu được vì sao các bạn chửi

Featured image: Nah

 

Gửi anh em, đồng chí, chiến hữu,

Tôi viết những dòng này dưới tiết trời Thành phố Hồ Chí Minh nóng gắt. Những ngày qua, các cuộc tranh luận đã nổ ra kể từ sau khi anh Nah – hay Nguyễn Vũ Sơn, xuất bản một bài hát có nội dung có ca từ kịch liệt lên án và phê phán chế độ nhà nước hiện tại của chúng ta. Tôi hiểu được tại sao các bạn chửi. Tôi hiểu được tại sao các bạn nóng giận. Tôi cũng là một con người Việt Nam, nên tôi nghĩ rằng tôi hiểu được những điều đó.

Có những bạn lên án hành động của Nah, cho rằng anh phản động, bán nước, làm tay sai cho các thế lực thù địch, nội gián, gây mâu thuẫn và chia rẽ nội bộ, thù trong để tiếp tay cho giặc ngoài, phát triển các diễn biến hòa bình. Tôi biết tại sao các bạn lên án như vậy, vì tôi cũng đã từng đọc qua những lời đó ở trong sách vở, trong những tài liệu đường lối cách mạng của chúng ta.

Tôi là con dân Việt Nam. Và tôi là một con người chủ nghĩa dân tộc. Các bạn ở đây, các bạn liệu có bằng lòng với việc mỗi khi nhắc đến dân tộc mình, người ta luôn gán thêm 2 chữ ở trong cùng câu nói: Xấu hổ? Liệu hàng triệu người Việt Nam có bằng lòng không, với việc dân tộc mình bị chà đạp lên danh dự, bởi tất cả các dân tộc khác, và bởi chính những người trong dân tộc của chúng ta? Hằng ngày đọc báo xem đài, các bạn có vui sướng và hạnh phúc khi thấy các tệ nạn cướp của, giết người, hiếp dâm, lừa đảo xảy ra với tần suất càng ngày càng dày đặt?

Cha tôi là một người nông dân, và là một người lính Cộng Sản. Tôi tự hào về ông. Tôi tự hào vì ông đã cầm súng lên và chiến đấu trong Chiến tranh biên giới 1979 Việt – Trung. Bởi vì ông đã tâm niệm rằng mình phải đứng lên và bảo vệ cho dân tộc, bảo vệ cho nhiều triệu người Việt Nam, bảo vệ cho sự ấm no của họ. Ông không đứng lên vì tiền, vì quyền lực, mà vì lòng yêu quý chính mảnh đất đã sinh ra ông. Và tới hiện tại ông vẫn sống mà không có cả tiền lẫn quyền lực. Liệu các bạn có dám đứng lên vì an nguy dân tộc, vì chính hai chữ Việt Nam thiêng liêng khắc ghi trong tim mình như ông? Những lời Nah nói ra có gai góc, có thô tục, nhưng tôi tin đó là những lời được thốt ra từ chính trái tim của anh, từ chính những điều nhỏ nhoi như vậy.

Các bạn bảo chúng tôi phản động. Đúng, chúng tôi là những con người phản động. Chúng tôi phản lại chính những sai lạc và bất công trong xã hội mà chúng tôi thấy được, trải nghiệm được. Chúng tôi không chấp nhận những thứ đó.

Các bạn bảo chúng tôi bán nước. Đúng, chúng tôi đã bán nước. Chúng tôi đã bán đất nước mình cho những con người có quyền hành, có thế lực, để vận mệnh dân tộc nằm trong tay những kẻ mà dân chúng không kiểm soát nổi. Chúng tôi đã không biết được mình có được quyền lợi gì, nghĩa vụ gì cho đất nước mà chỉ mong có được lợi lộc cho bản thân, sống an nhàn trong sung sướng để bỏ mặc những người nông dân, công nhân phải chịu đau khổ.

Các bạn bảo chúng tôi làm tay sai cho những thế lực thù địch. Đúng, chúng tôi chỉ là con rối. Chúng tôi chỉ hành động theo những gì được bảo để những kẻ ngồi trên có thể mặc nhiên hưởng thụ công sức của chúng tôi, xem chúng tôi tranh giành từ chiếc xe, lon bia đến từng đồng bạc; hưởng thụ nền giải trí cục súc và thấp kém để thỏa mãn nhục dục cho bản thân mà không biết được từng đồng xu mình làm ra có thể cải tạo cho xã hội như thế nào.

Các bạn bảo chúng tôi nội gián, gây chia rẽ tình đoàn kết dân tộc. Đúng, dân tộc tôi là Việt Nam. Tôi là người máu đỏ da vàng như các bạn, tôi đau khổ vì đất nước mình lầm than. Tôi muốn dân tộc mình phát triển, không phải làm thuê cho ngoại bang mà tự đứng lên trên đôi chân mình. Và ước muốn của tôi đã đi ngược lại mong muốn của những con người muốn đất nước mình mãi là xưởng gia công bậc thấp cho thế giới, và là thị trường tiêu thụ những sản phẩm thừa, lỗi, độc hại cho hành tinh này. Và tôi không thể đoàn kết được với những con người như thế.

Các bạn bảo thù trong giặc ngoài. Đúng, giặc ngoài rất mạnh, rất hung hăng. Chúng muốn chiếm biển Đông, chúng muốn nhìn dân ta mâu thuẫn để xâu xé. Nhưng thù trong không là gì với giặc trong cả. Giặc trong hàng ngày vơ vét từng đồng thuế, chiếm từng mảnh đất ruộng vườn của người dân, xây những con đường nguy nga tráng lệ ở tỉnh, ở huyện, để thỏa mãn cho bản thân và làm giàu cho dòng họ. Bác Hồ đã nói “Phải phòng ngừa giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Tôi sợ giặc đói và giặc dốt cũng như các bạn sợ giặc ngoại xâm vậy.

Các bạn đề cập đến diễn biến hòa bình của các nước đế quốc. Đúng, diễn biến hòa bình là một động thái của các nước đế quốc. Nhưng chúng tôi không bao giờ làm theo diễn biến hòa bình đó. Chúng tôi tự đứng lên, nói tiếng nói của chính chúng tôi, cho đồng loại của chúng tôi, không lệ thuộc vào tài chính, viện trợ, huy động của bất kì đế quốc hay xã hội nào. Chúng tôi nói bằng lời, bằng câu, bằng ca từ, để mong các bạn suy nghĩ nhiều hơn về tương lai của đất nước, chống lại cả diễn biến hòa bình từ bất kì đâu.

Các bạn bảo các bạn không đồng tình với quan điểm của Nah. Đúng, chính tôi cũng không đồng tình. Lời văn của anh mơ hồ, không mạch lạc, đầy mùi thù hằn và oán trách. Nhưng tại sao chúng ta không dám lên tiếng và nói với lời văn của chính chúng ta, như tôi đang nói với các bạn lúc này? Anh có cách của anh, và chúng ta cũng có cách của chúng ta.

Đến đây thì có nhiều bạn sẽ nói rằng, cách của chúng tôi là đợi dân trí cao lên, đất nước thay đổi, xã hội tốt hơn. Đúng, đó là phương án tốt nhất. Nhưng liệu xã hội có tự làm được điều đó? Chính chúng ta là những nhân tố cấu thành nên xã hội, chính chúng ta là xã hội. Bạn thờ ơ, xã hội sẽ thờ ơ với thay đổi. Rồi con cái bạn cũng sẽ thờ ơ, cháu chắt bạn sẽ không để tâm đến. Như vậy nghĩa là quốc nhục của chúng ta truyền mãi lại sao?

Tôi là một người theo chủ nghĩa dân tộc, và tôi yêu Việt Nam. Tôi yêu áo dài, yêu ca Huế, yêu ngày Tết có bánh chưng bánh dày. Yêu đức tính cần cù chịu thương chịu khó của những người nông dân, tự hào về truyền thống 4000 năm dù đứng dưới ách đô hộ của ngoại bang vẫn giữ được bản sắc dân tộc.
Và tôi đau, đau lắm mỗi khi đọc những biểu tượng văn hóa đó dần mai một mà không có cách gì cứu vãn nổi. Và vì một nguyên nhân thôi: Tiền.

Tôi nhìn qua một nước Đông Á gần chúng ta, một đất nước mà họ giữ được sự độc đáo đến lạ kỳ trong nền văn hóa dị biệt của họ dù có bao lần đứng trước sự đe dọa của thế giới. Đó là Nhật Bản. Tại sao những nghệ nhân đàn koto, shamisen của họ có thể sống được, và sống hạnh phúc, nhờ tình yêu với nghệ thuật dân tộc? Trong khi chúng ta cũng có cả một nền văn minh từ thời Âu Lạc và phát triển rực rỡ với nhiều tinh hoa mà không thể qua nổi vòng gửi xe của chuyện lương bổng? Xứ từng xâm lược ta, bị ta lên án và phê phán, lại có một nền văn hóa như vậy đấy. Tôi mong các bạn hãy bắt đầu suy nghĩ, chỉ suy nghĩ thôi, về những thứ bạn tự hào trong dân tộc, và những thứ bạn không tự hào. Và rồi, một lúc nào đó, bạn sẽ muốn thay đổi những thứ không tự hào ấy, như chúng tôi.

Thân,

8/2/2015
T.N

Bác Hồ nói hạnh phúc là phải đấu tranh mới có được

Hôm vừa rồi mình xem bộ phim Đèn Lồng Đỏ Treo Cao do Trương Nghệ Mưu đạo diễn, cảm thấy câu nói này rất đúng:

“Nếu anh diễn tốt, anh có thể lừa được người khác. Nếu anh diễn không tốt, anh chỉ có thể tự lừa được chính mình.”

Cuộc đời có nhiều thứ thật nực cười. Cho dù có phải khó khăn làm trái với lòng mình, diễn vở diễn cho trọn vai, thì con người vẫn phải làm. Ai có đủ dũng cảm mà sống thật với chính cảm xúc của mình. Hay tất cả chỉ là sự lừa dối lẫn nhau. Người khẩu Phật tâm xà hiển hiện khắp nơi. Mình có thực sự đủ nhẫn tâm, thủ đoạn để làm như vậy.

Rốt cuộc phải trải qua những gì mới có thể hạ mình xuống như vậy. Kẻ có thể hạ mình như vậy một là kẻ không có lòng tự tôn tự trọng, hai là kẻ vô cùng nham hiểm âm mưu, quyết dùng mọi thủ đoan để đạt được điều mình muốn. Thì ra đó là cách mà họ dùng để kiếm tiền, để níu giữ các mối quan hệ. Nhưng cái gì cũng vậy, nếu làm quá thì nó sẽ phản tác dụng. Người ta sẽ xem thường anh.

Mình vốn dĩ là một ngừoi thực tế, thực tế đến đau lòng. Do đó, cả phim cả truyện mình đều tìm xem và đọc những tác phẩm mang tính hiện thực cao nhất. Mình không tin truyện ngôn tình, càng cho rằng điện ảnh sướt mướt hàn Quốc đang đầu độc và làm giới trẻ hiểu sai về thực tế của tình yêu.

Đúng là mỗi người có một góc nhìn khác nhau về những sự việc. Cùng một sự việc,nhưng mỗi thời điểm quan niệm của mình lại khác. Lúc còn là sinh viên, ăn no mặc ấm, chỉ nghĩ đơn giản tình yêu là thứ khiến người ta thật đớn đau, khiến người ta không thể chịu đựng được. Giờ đi làm kiếm tiền rồi, cũng lâm vào những tháng ngày không đủ tiền mà ăn cơm, mới thấy không có tình thì vẫn sống được, nhưng không có tiền thì chỉ có chết. Quả thật, đồng tiền là một trong những thước đo chuẩn mực nhất của cuộc đời này.

Bạn không có tình, người ta chỉ thắc mắc rồi hỏi thăm cho qua. Nhưng bạn không có tiền, mọi chuyện sẽ hoàn toàn khác. Họ sẽ khinh miệt và thậm chí xa lánh bạn. Họ sẽ dựa vào điểm yếu đó mà làm khổ bạn. Rồi bạn sẽ hiểu nếu như lâm vào hoàn cảnh không tiền bạn sẽ phải tủi nhục và cay đắng nhường nào. Có thể độc giả sẽ cho rằng tôi quá thực dụng. Nhưng như tôi đã nói, tôi thực tế đến đau lòng là vậy. Tôi muốn các bạn hãy bớt mộng mơ.

Tôi muốn các bạn hãy tỉnh lại và đừng chìm đắm vào những ngôn tình diễm lệ kia. Làm gì có một cô gái nghèo khổ ngốc nghếch cưới được con trai chủ tịch tập đoàn như trong phim. Ngoài đời, nếu không phải là một người phụ nữ thông minh sắc sảo và đầy bản lĩnh, phải có luôn cả học thức, phải đứng ngang hàng với họ. Không thì bạn cũng phải là ca sĩ, diễn viên, hoa hậu nổi tiếng nhất nhì showbiz. Bạn phải đem lại được giá trị gì đến cho họ, cho gia đình họ, cho tập đoàn kinh doanh của họ. Cuộc đời có qua có lại, làm sao người giàu có ở địa vị như thế có thể để mắt tới cô gái ngu ngốc được. Việc bạn cần làm đó chính là phải phấn đấu giành thật nhiều thành công cho mình, khi đó bạn sẽ ngang hàng và hãnh diện xứng đôi vừa lứa với họ.

Tình yêu, kiếm tiền tất cả đều là những cuộc chiến. Bác Hồ nói hạnh phúc là phải đấu tranh mới có được. Giờ tôi đã thấm thía câu nói ấy. Tất cả là một cuộc chiến. Từ chiến với bản thân mình cho đến chiến với người ngoài. Bạn phải luôn luôn là một chiến binh. Mọi quyết định của bạn bạn đều phải chịu trách nhiệm. Vì đó là cuộc đời bạn. Con người đứng trước sự việc xảy ra, một khi đã ra quyết định thì chớ nên hối hận. Có hối thì sự việc cũng đã xảy ra rồi.

Làm sao diễn cho tròn vai diễn cuộc đời.. Làm sao nhìn ra được đâu là bộ mặt thật ẩn dưới tất cả những vai diễn xung quanh ta ngoài kia?

 

Trinh Hoang

Bố mẹ nghe con nói được không?

Featured image: y ♪ fotodisignorina ♪ Felicia Violi

 

Bố mẹ…. Bố mẹ có biết con có rất nhiều thứ trong lòng con muốn bố mẹ nghe được không? Nhưng thật sự quá khó, con không biết phải bắt đầu như nào. Con sẽ bắt đầu như nào khi bố mẹ vẫn coi con là một đứa bé, con sẽ bắt đầu như nào khi bố mẹ vẫn cứ áp đặt mọi thứ vào cuộc sống của con và con sẽ bắt đầu như nào khi bố mẹ vẫn luôn đúng còn con thì luôn sai.

Có thể con chưa trưởng thành nhưng con đâu còn là đứa trẻ chỉ biết vâng lời và làm theo. Mọi thứ thay đổi rồi bố mẹ ạ… Thay đổi từ khi con được trải nghiệm, thay đổi từ khi con được vấp ngã, thay đổi từ khi con biết được đâu là cuộc sống thật sự của con. Dẫu vậy bố mẹ đâu có hiểu con, bố mẹ vẫn luôn vô tình biến con thành một đứa trẻ dù điều đó là vô lý, là đau khổ đối với con. Con biết bố mẹ muốn tốt cho con nhưng lại chẳng bao giờ quan tâm đến cái tốt đó có thừa không hay thậm chí là đang dần dần làm hại con.

Có bao giờ bố mẹ để ý đến cảm xúc của con, có bao giờ bố mẹ xem con cần gì, có bao giờ bố mẹ quan tâm xem con muốn trở thành ai? Nhưng không! Bố mẹ vẫn áp đặt, vẫn muốn con trở thành người mà bố mẹ muốn, như vậy liệu có phải tốt cho con hay bố mẹ đang từ từ giết chết tâm hồn, giết chết đam mê, giết chết cái cuộc sống đầy màu sắc của con mà nhốt con vào căn phòng ngột ngạt, không lỗi thoát. Như vậy đâu phải bố mẹ giúp con…

Bố mẹ không bao giờ đặt mình vào vị trí của con nhưng bố mẹ có biết con luôn nghĩ tới bố mẹ không? Nhiều đêm trắng con nghĩ liệu bố mẹ có buồn không, bố mẹ có cảm thấy xấu hổ với người khác không? Có lúc con nghĩ con nên làm gì để bố mẹ được vui? Lại có lúc con nghĩ không biết trong lòng bố mẹ có tâm sự gì hay có những lúc con cảm thấy buồn chỉ vì thấy bố mẹ mệt mỏi.

Nhưng… còn làm được gì, con đã cố gắng, cố gắng hết sức mình, cố gắng chỉ vì muốn làm bố mẹ cười, cố gẳng chỉ vì muốn bố mẹ được “mát mày mát mặt” với người ta. Con không thể bố mẹ ạ, có lẽ những thứ làm bố mẹ vui nằm ngoài khả năng của con, nó hoàn toàn đối nghịch với đam mê, đối nghịch với cuộc sống mà con muốn, nó không thể nào song hành cùng con được bởi đơn giản con chọn con đường mà lại không khớp với con đường bố mẹ vẽ ra cho con. Liệu có phải con bất hiếu không bố mẹ?

Thật sự con vẫn đang rối bời lắm bố mẹ, con thắc mắc tại sao chữ “Hiếu” và “Đam Mê” nó luôn đối nghịch vậy? Sống trên đời quan trọng nhất là “Hiếu” nhưng có phải luôn vâng lời bố mẹ, làm theo những điều bố mẹ bảo là “Hiếu”… Con nghĩ chắc không phải đâu, “Hiếu” là biết chăm sóc bộ mẹ khi về già, là không phải khiến bố mẹ lo lắng, là tự có cuộc sống tốt cho bản thân. Nếu “Hiếu” thực sự là như vậy thì con chỉ mong bố mẹ hãy yên tâm về con, còn sau này tuy không chắc chắn nhưng con tin rằng cuộc sống con sau này sẽ tốt và con sẽ bên cạnh bố mẹ khi bố mẹ già. Như vậy là con được chữ “Hiếu”. Nhưng để được chữ hiếu vẹn toàn ấy thì con phải có cuộc sống tốt, lúc ấy thì nó lại liên quan đến hai chữ “Đam Mê” bố mẹ à…

Làm sao con có thể sống tốt nếu con không được làm cái mình muốn, cái mình đam mê? Bố mẹ luôn lo lắng rằng đam mê ấy là viển vông, là hại cho bản thân nhưng con thấy nó đâu có như vậy? Nó không hề gây hại cho ai, lại chẳng khiến con của bố mẹ gặp nguy hiểm và hơn nữa có thể nó còn là thứ nuôi được con thì tại sao bố mẹ lại lo lắng về nó quá nhiều như vậy? Vả lại cuộc sống đâu phải chỉ có sống mỗi vì đam mê? Con vẫn ở ngoài kia, vẫn trải nghiệm, vẫn kiếm sống, kiếm sống để nuôi đam mê và bản thân bố mẹ ạ…

Nhưng sống vì đam mê cũng thú vị, cũng ý nghĩa lắm chứ bố mẹ. Thử hỏi bao nhiêu người ngoài kia khi về già cảm thấy hối tiếc khi không được làm điều mình muốn, không được thực hiện đam mê của bản thân họ, chắc rằng cuộc sống của họ thật vô nghĩa, sống cả đời làm bao nhiêu việc, thực hiên bao nhiêu thứ mà chẳng thể làm được việc họ muốn, thực hiện được thứ họ đam mê. Đối với con cuộc sống như vậy thực rất vô nghĩa, con hứa sẽ không bao giờ phải để bản thân hối tiếc như họ bởi con cũng đã từng như họ…

Con cũng muốn bố mẹ đọc được những dòng này những chắc khó bao giờ có thể. Nhưng thôi, viết được những dòng này con cảm thấy nhẹ nhõm và thoải mái hơn nhiều rồi. Nếu có thể con chỉ muốn bố mẹ và con sẽ hiểu nhau hơn, đừng coi con là đứa trẻ nữa bố mẹ.

Kevin Sickit

Định mệnh của Việt Nam – Phần I

Featured image: A. Wee

 

Dạo gần đây thấy rất nhiều bạn bàn luận về chính trị, nhưng bản thân tự thấy lại chưa có một bài viết chất lượng nào về tình hình và các góc nhìn đầy đủ về Việt Nam. Hôm nay mình xin giới thiệu một cuốn sách được viết bởi người Mỹ, nhưng lại hàm chứa đầy đủ và có những cái nhìn rất chính xác về vị trí và tình hình của Việt Nam hiện tại. Các bạn trẻ nếu có ý muốn thay đổi, nếu có ý muốn làm chính trị thì trước hết hãy trang bị cho mình những kiến thức căn bản cần biết. Đây là một trong những tài liệu quý giá nên được đọc và nghiên cứu.

Quyển sách Chảo dầu tại Châu Á – Biển Đông và sự kết thúc của một Thái Bình Dương ổn định (Asia’s Caudron – The South China Sea and the End of a Stable Pacific) của ông xuất bản đầu năm 2014.  Sách gồm 8 chương, trong đó tác giả dành riêng Chương III để đề cập đến Việt Nam, mối quan hệ lịch sử với Trung Quốc và những nhìn nhận của người Việt Nam về mối quan hệ đó, về mối đe dọa của một Trung Hoa đang tìm cách khuynh loát cán cân quyền lực trong khu vực và đặc biệt  về quan điểm bảo vệ chủ quyền Biển Đông, bảo vệ nền tự chủ quốc gia của Việt Nam.

Xin được giới thiệu phần dịch của chương nói về Việt Nam.

Người dịch: Trà Điêu từ Blog Xuyên Sơn

Chương III

Định mệnh của Việt Nam

Ảnh hưởng của Hà Nội là đáng để suy nghĩ: Những gì thủ đô của Việt Nam đạt được tại thời điểm, tự thân nó là tiến trình của lịch sử. Tôi không hàm ý là lịch sử đơn thuần đã là một định mệnh nào đó, đã được xác định trước do vị trí địa lý, hình thành nên các triều đại và các cuộc nổi dậy kế tiếp nhau, tuy nhiên lịch sử là tổng hòa của các hành động dũng cảm đơn lẻ và những toan tính không ngừng nghỉ. Những bản đồ, đồ họa và một số lớn bia đá tại Bảo tàng Lịch sử đã dành để kỷ niệm cho những cuộc kháng chiến gian nan của Việt Nam chống lại các triều đại Tống, Minh và Thanh của Trung Hoa vào các thế kỷ XI, XV và XVIII: cho dù Việt Nam đã từng bị sát nhập vào Trung Hoa cho đến thế kỷ X, đặc tính chia tách về mặt chính trị với đế chế Trung Hoa (Middle Kingdom) từ lâu đã là một điều kỳ diệu mà không lý luận nào trong quá khứ có thể biện giải đầy đủ.

Một số nhiều hơn các bia dựng từ hậu bán thế kỷ XV ở Văn miếu, đã sâu sắc ghi giữ lại tên tuổi và đóng góp của tám mươi hai học giả tiền nhân, vượt lên trên sự lãng quên. Trên thực tế, đó là một ấn tượng đặc biệt về hình dung lịch sử của Việt Nam. Sự thâm trầm và náo nhiệt của Đền Ngọc Sơn (xây dựng để ghi nhớ chiến thắng trước nhà Nguyên Trung Hoa vào thế kỷ XIII), với bức tượng Phật uy nghi sơn son thếp vàng mờ trong khói trầm, bao quanh bởi một hồ nước mờ sương và rậm lá, là sự dọn chỗ về mặt tâm linh cho một ngôi lăng Hồ Chí Minh chân phương hơn. Hồ, một trong những nhân vật nhược tiểu vĩ đại của thế kỷ XX, và là một trong những nhà thực dụng vĩ đại nhất lịch sử, đã hợp nhất chủ nghĩa Mác, tư tưởng Khổng giáo và tinh thần quốc gia vào chung thành một thứ vũ khí chống lại người Trung Quốc, người Pháp và người Mỹ; là nền tảng thành công trong các cuộc kháng chiến của Việt Nam chống lại ba đế quốc mang tầm vóc toàn cầu. Tượng mạ vàng như Phật của ông được đặt khắp các phòng hội nghị tại thủ đô này.  Lăng của ông ta nhô cao giữa những ngôi nhà và nhà thờ kiểu Âu châu đã xưa hàng thế kỷ, nơi từng là đầu não chính trị của Đông Dương thuộc Pháp, một xứ phụ thuộc không chắc chắn mà Paris đã cố sức và quyết liệt nắm lại sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, dẫn đến cuộc chiến tranh chống lại người Việt mà đỉnh điểm của nó là một sự kiện quá bẽ bàng cho người Pháp: Trận Điện Biên Phủ năm 1954.

Đông Dương thuộc Pháp bao gồm cà Lào và Campuchia, nhưng với chỉ Hà Nội là đầu não chính trị và Sài Gòn là thủ phủ thương mại. Việt Nam đã thống trị Đông Dương, nói cách khác, điều đó đã dẫn đến chỗ các lực lượng Thái và Khơ me đôi khi có các mối liên kết ít ỏi với Trung Hoa để chống lại sức mạnh của Việt Nam. Trên thực tế, khi mà Hoa Kỳ bảo hộ cho một Nam Việt Nam độc lập chống lại Phía Bắc cộng sản, thì sự thống nhất của Việt Nam dưới chế độ cộng sản và thất bại của người Mỹ đã minh họa cho một mối đe dọa lớn hơn rất nhiều cho Trung Hoa hơn là cho Hoa Kỳ. Đó là một dấu ấn cho động lực Việt Nam trong khu vực.

Bên dưới những công trình kiến trúc kiểu Pháp là cuộc đấu tranh mới nhất mang tính sử thi chống lại định mệnh của lịch sử: những khu phố thương mại Hà Nội ồn ào náo nhiệt, với hàng đoàn xe máy – người lái ô tô ngồi nhắn tin điện thoại di động khi tắc đường – những mặt tiền mới đầy vẻ hiện đại chen lấn với những gian hàng cũ kỹ ngay kế bên. Đó là cái không gian mua bán tiền tư bản, với hàng cà phê khắp nơi – mỗi hàng là một kiểu cách và bài trí riêng biệt – cung cấp những món cà phê thuộc hàng ngon nhất thế giới, và vẫn chưa có Starbucks hiện diện ở đây. Hà Nội, với bề dày lịch sử của nó, lại không có những bảo tàng ngoài trời như những thành phố lớn tại Châu Âu. Nó vẫn còn trong một tiến trình vụng về để trở thành, và vẫn gần gũi với sự hỗn loạn rối rắm của Ấn Độ hơn là sự cằn cỗi khó gần của Singapore. Người Việt Nam đang dò dẫm tìm hướng đi vào thế giới hiện đại, vì lợi ích đầy hứa hẹn của bản thân họ và gia đình, nhưng cũng phải làm sao để bảo toàn sự độc lập của mình trước một Trung Hoa cũng có động lực ngang bằng.

Hà Nội, như từ thời cổ xưa, là một thành phố đầu não của những tính toán chính trị: sự nổi lên thời gian gần đây của thành phần trung lưu đầy tiềm năng – nước đông dân thứ mười ba thế giới – với một bờ biển dài ngay tại ngã tư đường của nhiều tuyến hàng hài quan trọng và gần với những nguồn năng lượng dự trữ ngoài khơi. Việt Nam là “vai diễn chính” của Đông Nam Á trong cuộc tranh chấp tại Biển Đông, đã tuyên bố chủ quyền của mình đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, “trên cơ sở cứ liệu lịch sử có ít nhất là từ thế kỷ XVII”, theo các nhà nghiên cứu Clive Scholfield và Ian Storey.  “Nếu Trung Quốc cản trở được Việt Nam, họ sẽ chiếm được Biển Đông,” một quan chức cấp cao chính phủ Hoa Kỳ nói với tôi như vậy. “Malaysia đã buông tay, Brunei đã giải quyết những vấn đề của họ với Trung Quốc, Indonesia không xác định rõ ràng lập trường của mình trong vấn đề này, Philippines không có nhiều lá bài để đi ngoại trừ những phản ứng quyết liệt và tuyên bố kích động, Singapore có khả năng nhưng quy mô lại nhỏ bé”.

Tất cả đổ dồn lên Việt Nam, nói một cách khác

Bước đi của Việt Nam tại thời khắc này đang là những bước đi chậm. Ngô Quang Xuân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, đã nói với tôi trong một cuộc trao đổi kéo dài nhiều tuần lễ, rằng, năm tháng mang tính then chốt đối với nước Việt Nam mới không phải là năm 1975, khi Nam Việt Nam bị Miền Bắc cộng sản thôn tính; mà là năm 1995; khi quan hệ được bình thường hóa với Hoa Kỳ và cũng là khi Việt Nam gia nhập ASEAN, và bước vào một thỏa ước “khung” với Liên minh Châu Âu. “Chúng tôi hội nhập với thế giới, nói một cách khác.” Ông thừa nhận rằng trước khi đi đến những quyết định đó, “chúng tôi đã có những cuộc tranh luận quyết liệt trong nội bộ.” Sự thật là, cho dù liên tiếp chiến thắng trước người Pháp và người Mỹ, những người cộng sản Việt Nam, như những viên chức của họ giải thích với tôi trong một loạt những cuộc trao đổi kéo dài nhiều tuần, thì sau đó họ vẫn tiếp tục cảm thấy thua kém.

Hãy ghi nhận: Việt Nam đã tiến chiếm Cambodia vào năm 1978, giải phóng đất nước này thoát khỏi cơn điên diệt chủng dưới chế độ Khơ-me Đỏ của Pol Pot. Cho dù cuộc tiến chiếm là một hành động mang tính hiện thực chủ nghĩa thật lạnh lùng – do Khơ-me Đỏ thân Trung Quốc đã đại diện cho sự de dọa mang tính chiến lược đối với Việt Nam – thì những hệ quả của nó lại mang tính nhân bản tích cực rộng lớn và sâu sắc. Tuy nhiên, chính vì hành động mấu chốt mang tính nhân từ đó mà Việt Nam thân Liên Xô đã bị cấm vận bởi một liên minh thân Trung Quốc bao gồm cả Hoa Kỳ, mà kể từ chuyến đi của Tổng thống Nixon năm 1972 đến Trung Quốc, đã ngả về hướng Bắc Kinh. Năm 1979, Trung Quốc chính họ cũng đã xâm lấn Việt Nam, nhằm giữ chân không cho Việt Nam tiến quân vượt qua Cambodia vào Thái Lan. Trong khi đó, Liên bang Xô viết đã không bước đến trợ giúp cho đất nước nằm trong tầm ảnh hưởng của mình ở Hà Nội. Việt Nam đã trơ trọi về mặt ngoại giao, sa vào một vũng lầy tiêu hao sinh lực tại Cambodia, oằn lưng bởi sự đói nghèo cùng cực, chủ yếu do chính sách quân sự hóa. Thăm Hà Nội vào những năm 1970, Thủ tướng Singapore khi đó là Lý Quang Diệu đã viết, ông phát hiện ra rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam là “không thể chịu đựng được”, hãnh diện tự cho họ như là “những người Phổ” ở vùng Đông Nam châu Á. Nhưng sự tự cao, như những nhà lãnh đạo Việt Nam nói với tôi, đã kéo dài không lâu. Qua những lần thiếu thực phẩm nghiêm trọng và sự sụp đổ của Đế chế Xô viết những năm 1989-1991, Việt Nam cuối cùng đã rút quân khỏi Cambodia. Việt Nam đã trở nên không còn bạn bè – chiến thắng người Mỹ đã thành một ký vãng xa xôi. “Cảm giác chiến thắng trong cuộc chiến đó luôn bị lắng xuống vì đã không bao giờ có được sự yên bình,” một nhà ngoại giao Việt Nam giải thích.

“Người Việt Nam không quên về cuộc chiến với Hoa Kỳ những năm 1960-1970,” một nhà ngoại giao Phương Tây nói với tôi. “Huống hồ là, một vài thế hệ người Mỹ vẫn còn nằm trong vũng lầy của thời gian.” Người Việt Nam không quên rằng hai mươi phần trăm đất nước họ không thể ở được hoặc do bom mìn Mỹ còn chưa được rà phá hết; hoặc vì tác động của chất độc màu da cam, không thứ gì có thể sinh sôi được trên phần đất đai đáng kể đó. Có đến ba phần tư người Việt Nam ra đời sau “Kháng chiến chống Mỹ”, như họ gọi – để phân biệt với những cuộc đấu tranh mà họ tiến hành trước và sau đó. Và thậm chí một tỷ lệ người còn nhiều hơn không có bất cứ ký ức gì về cuộc chiến đó.

Các sinh viên và viên chức trẻ tuổi tôi gặp tại Học viện Ngoại giao, một nhánh trực thuộc của Bộ Ngoại giao, còn thoát ra được khỏi cuộc Kháng chiến chống Mỹ hơn là những đứa trẻ của giai đoạn bùng nổ sinh đẻ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tại một hội trường địa phương – nơi thường diễn ra những cuộc gặp gỡ mà họ dành cho tôi, trên thực tế, họ đã phê phán Hoa Kỳ nhung không có gì liên quan đến chiến tranh. Họ đã bực bội trước việc Hoa Kỳ không hề can thiệp với Trung Quốc vào năm 1990 khi Bắc Kinh đe dọa chủ quyền của Philippines đối với Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa tại Biển Đông; và với việc Hoa Kỳ không gắn kết về mặt kinh tế và ngoại giao với Myanmar nhiều hơn trước năm 2011, để có thể ngăn chặn đất nước này trở thành vệ tinh của Bắc Kinh. Một sinh viên tổng kết: “Sức mạnh của Hoa Kỳ là cần thiết cho nền an ninh của thế giới.” Thật vậy, các sinh viên và viên chức kế tiếp nhau sử dụng thuật ngữ “cân bằng sức mạnh [với Trung Quốc]” để miêu tả Hoa Kỳ. “Người Trung Hoa quá mạnh, quá tham vọng,” một nhà nghiên cứu nữ nói, “đó là lý do tại sao Thời Đại Trung Hoa là mối đe dọa to lớn đối với chúng ta.”

Cả Việt Nam và Hoa Kỳ “chia sẻ lợi ích trong việc ngăn ngừa Trung Quốc… có thể thống trị xương sống thương mại hàng hải và gia tăng những đòi hỏi lãnh thổ thông qua con đường cưỡng chiếm,” Giáo sư Carlyle A. Thayer của Học viện Quốc phòng Australia tại Canberra đã nói như vậy. “Việt Nam xem sự hiện diện của Hoa Kỳ như là một rào cản ngăn chặn việc gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc.”

David Lamb, người đã từng theo dõi cuộc chiến những năm 1960 cũng như đã trở lại đây vào những năm 1990 với tư cách phóng viên của Thời báo Los Angeles tại Hà Nội, nói rằng, đơn giản là “Người Việt Nam thích người Mỹ… Họ đã mất ba triệu người [một trong số mười người bị chết hoặc bị thương], đã bị dội lên người 15 triệu tấn đạn dược – gấp hai lần số dội xuống cả Châu Âu và Châu Á trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã phải sống qua một cuộc chiến tranh khiến cho 7 triệu người Nam Việt Nam phải di tản và tàn phá toàn bộ công nghiệp và hạ tầng của Miền Bắc Việt Nam. Vâng,” ông viết tiếp, “họ đã bỏ lại cuộc chiến sau lưng họ theo cái cách mà nhiều người Mỹ đã không thể làm. Bệnh viện của họ đầy những cựu chiến binh với những cơn ác mộng hậu chiến, nhưng họ không có được một tượng đài kỷ niệm quốc gia như kiểu Bức tường Việt Nam tại Washington. Họ không viết sách về chiến tranh. Cựu chiến binh không ngồi quanh vại bia để nói về điều dó. Học sinh học về điều đó chỉ như là vài trang ngắn gọn trong suốt quá trình lịch sử 2500 năm của đất nước họ.

Trên thực tế, do cái cung cách nhạo báng và làm trầm trọng hóa vấn đề mà một vài người Âu châu và các thành viên phe hữu của Hoa Kỳ thể hiện khi đánh giá hàng năm, nước Mỹ đã hoàn toàn vắng bóng tại Việt Nam.  Tóm lược quan điểm chung ở đây, Nguyễn Đức Hùng, cựu Đại sứ tại Canada, đã nói với tôi: “Cũng như Việt Nam đã mở rộng về phương nam hàng thế kỷ để xác định mình như là một quốc gia, người Mỹ cũng tiến về hướng tây – và điều đó không phải vì vàng ở California, mà vì sự tự do.”