21.9 C
Da Lat
Thứ Hai, 18 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 154

19 câu nói đáng nhớ của Tổng Thống Mỹ John F. Kennedy (1917-1963)

Featured image: HavardPolitics

 

1. “Hãy tha thứ cho địch thủ, nhưng đừng bao giờ quên tên họ.”

2. “Cái giá để trả cho tự do luôn luôn đắt, nhưng người Mỹ đã luôn trả giá. Và có một lối mà chúng ta sẽ không bao giờ chọn, đó là đầu hàng và khuất phục.”

3. “Hãy để tất cả các quốc gia biết rằng, dù họ chúc chúng ta an lành hay điều xấu, rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh nặng nào, gặp bất cứ gian khổ nào, hỗ trợ bất cứ người bạn nào, chống đối bất cứ địch thủ nào, để đảm bảo sự sống còn và thành công của tự do.”

4. “Sự cố gắng và dũng cảm đều không đủ nếu không có mục đích và phương hướng.”

5. “Một con người có thể chết, một quốc gia có thể vươn lên và sụp đổ, nhưng một lý tưởng sẽ sống mãi.”

6. “Các thư viện nên được mở cho tất cả mọi người, trừ những ai muốn kiểm duyệt.”

7. “Nền dân chủ và an ninh quốc phòng không thể nào thay thế được nhau. Cả hai sẽ sụp đổ nếu thiếu đi một.”

8. “Tôi tin vào một nước Mỹ, một nơi nền kinh tế thị trường tự do sẽ nảy nở để các chế độ khác nhìn thấy và khâm phục – một nơi không một doanh nhân nào sẽ thiếu sự cạnh tranh hoặc vốn – và không có sự độc quyền, không có cướp giật, không có một cơ quan chính phủ nào có thể làm anh ấy phải phá sản.”

9. “Chúng ta chọn để đi đến Mặt Trăng trong thập niên này và làm những điều khác, không phải vì nó dễ, mà vì nó khó.”

10. “Tự do có rất nhiều rắc rối và dân chủ không hoàn hảo, nhưng chúng tôi chưa bao giờ phải dựng lên một bức tường để giữ mọi người ở lại, để ngăn chặn họ chạy trốn.”

11. “Tự do không thể nào phân chia được, khi một người bị tù đày, tất cả đều không được tự do. Khi tất cả được tự do, lúc đó chúng ta có thể hướng tới cái ngày mà thành phố (Berlin) này gia nhập chung với Châu Âu trong một thế giới hòa bình và hy vọng.”

12. “Tất cả những người tự do, cho dù đang ở đâu, đều là công dân của thành phố Berlin, và, với tư cách là một người tự do, tôi tự hào với lời nói sau đây “Ich bin ein Berliner” (Tôi là một người Berlin).”

13. “Chúng ta không bao giờ đàm phán trong sự sợ hãi. Nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ sợ hãi để đàm phán.”

14. “Chúng ta không thể nào đàm phán với những người cho rằng ‘Những gì của tôi là của tôi và những gì của bạn có thể đàm phán được.'”

15. “Chúng ta cần những người có thể ước mơ những thứ chưa bao giờ có.”

16. “Tất cả hành động đều có cái giá và rủi ro, nhưng nó luôn thấp hơn nếu chúng ta không hành động.”

17. “Một quốc gia nào lo sợ để cho người dân họ xét xử sự thật và giả dối một cách công khai là một quốc gia đang sợ người dân.”

18. “Chiến thắng có hàng ngàn người cha, nhưng thất bại là một đứa trẻ mồ côi.”

19. “Con đường tốt nhất dẫn đến sự phát triển là con đường tự do.”

 

Dịch: Ku Búa


 

Wikipedia: John Fitzgerald Kennedy (29 tháng 5 năm 1917 – 22 tháng 11 năm 1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK, là tổng thống thứ 35 của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm từ năm 1961 đến năm 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 là một bước ngoặt trong dòng lịch sử Hoa Kỳ vào thập niên 1960, khi khắp thế giới thương tiếc ông và các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia đã đi theo quan tài đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Là chính khách trẻ tuổi nhất từng đắc cử tổng thống Hoa Kỳ[1] (Theodore Roosevelt, ở tuổi 42, là chính trị gia trẻ tuổi nhất từng phục vụ trong cương vị tổng thống: vì là phó tổng thống đương chức, Roosevelt kế nhiệm tổng thống William McKinley bị ám sát vào tháng 9 năm 1901), Kennedy cũng là tổng thống trẻ tuổi nhất đã qua đời – ông sống được 46 năm và 177 ngày. Kennedy là tín hữu Công giáo Rôma, duy nhất trở thành ông chủ toà Nhà Trắng và là Tổng thống đạt giải Pulitzer duy nhất của Hoa Kỳ.[2] Ông cũng là ứng cử viên cuối cùng thuộc đảng Dân chủ đến từ một tiểu bang miền Bắc giành được thắng lợi trong một cuộc tuyển cử tổng thống, là tổng thống đầu tiên sinh ra trong thế kỷ 20, và cho đến nay ông là tổng thống sau cùng qua đời khi đương chức.

 

Đôi điều bạn nên biết về lạm phát

Featured image: Paul

Lạm phát là gì?

Không có chủ đề nào được bàn luận nhiều trong thời buổi hiện tại – hoặc được hiểu quá ít – như lạm phát. Các chính trị gia ở Hoa Thịnh Đốn đề cập đến nó như đó là một sự viếng thăm khủng khiếp từ bên ngoài, một việc mà họ không thể kiểm soát được chút nào – như một cơn lũ, một cuộc xâm lược từ bên ngoài, một cơn dịch. Nó là một thứ họ lúc nào cũng hứa hẹn sẽ “chống lại” – nếu Quốc Hội hay dân chúng trao cho họ “vũ khí” hoặc “một điều luật cứng rắn” để thực hiện công việc.

Tuy nhiên, sự thật trần trụi là các lãnh đạo chính trị của chúng ta đã gây nên lạm phát bằng tiền bạc các chính sách tài khóa của họ. Họ hứa hẹn sẽ chống đỡ bằng bàn tay phải những gì mà bàn tay trái của họ đã gây ra.

Lạm phát, ở bất kỳ lúc nào và thời điểm nào, chủ yếu xảy ra bởi sự gia tăng của lượng tiền và lượng tín dụng cung ứng. Thật ra, lạm phát chính là sự gia tăng mức cung của tiền và tín dụng. Nếu bạn mở Tự điển Đại học Hoa kỳ ra tra thì bạn sẽ thấy định nghĩa đầu tiên của lạm phát như sau:

Mở rộng quá mức hay sự gia tăng của lượng tiền trong một quốc gia, đặc biệt là qua việc phát hành tiền giấy không có giá trị để hoàn lại.

Tuy vậy, trong những năm gần đây, thuật ngữ này đã bị sử dụng với một ý nghĩa hoàn toàn khác. Ý nghĩa này được ghi nhận trong định nghĩa thứ hai trong Tự điển Đại học Hoa kỳ:

Một sự gia tăng đáng kể của vật giá, đưa đến bởi sự mở rộng quá mức của tiền giấy hay nợ ngân hàng.

Rõ ràng là giá cả gia tăng gây nên bởi cung tiền tệ gia tăng không đồng nghĩa với sự nới rộng của chính lượng tiền cung ứng. Một nguyên nhân hay điều kiện rõ ràng không thể xem là tương tự như một trong những hậu quả của nguyên nhân hay điều kiện đó. Việc sử dụng từ “lạm phát” với hai ý nghĩa khá khác biệt dẫn đến những nhầm lẫn vô tận.

Từ “lạm phát” ban đầu được áp dụng chỉ với số lượng tiền. Nó có nghĩa là số lượng tiền đã bị phình to ra, thổi phồng lên, nới rộng quá mức. Không có gì gần như là mô phạm khi đòi hỏi rằng thuật ngữ này nên được sử dụng bằng định nghĩa gốc của nó. Sử dụng nó để ám chỉ “một sự gia tăng của giá cả” là để đánh lạc hướng sự quan tâm khỏi nguyên nhân thật sự gây nên lạm phát cũng như phương thức cứu chữa thực sự cho lạm phát.

Chúng ta hãy xem điều gì xảy ra trong lạm phát, và tại sao nó lại xảy ra. Khi lượng tiền cung cấp gia tăng, người ta có thêm tiền để trả cho hàng hóa. Nếu lượng hàng hóa cung cấp không gia tăng – hoặc gia tăng không nhiều bằng lượng tiền cung cấp – thì giá cả của các mặt hàng sẽ gia tăng. Giá trị của mỗi đồng đô sẽ thấp hơn vì giờ có nhiều đô hơn. Cho nên sẽ có nhiều tiền đô được chi trả cho, chẳng hạn như, một đôi giày hay 100 giạ lúa mì so với trước đây. Một “cái giá” là một tỷ lệ trao đổi giữa giữa một đồng đô và một đơn vị hàng hóa. Khi người ta có thêm tiền đô, giá trị của mỗi đồng đô đối với họ thấp hơn. Giá cả của mặt hàng sẽ cao hơn, không phải vì các mặt hàng trở nên hiếm hơn trước đó, mà bởi vì tiền đô giờ dồi dào hơn trước.

Khi xưa, các chính quyền thổi phồng lạm phát bằng cách cắt xén và làm giảm giá trị của tiền xu. Sau đó, họ khám phá ra họ có thể lạm phát một cách bớt tốn kém hơn và nhanh chóng hơn bằng cách tung ra tiền giấy từ những máy in. Điều này đã xảy ra với đồng assignats của chính phủ Pháp năm 1789, và với đồng tiền của chúng ta trong Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Phương pháp hiện nay gián tiếp hơn. Chính quyền của chúng ta bán trái phiếu hoặc những khoản tôi-nợ-anh cho các ngân hàng. Để đổi lại, các ngân hàng tạo ra những “khoản tiền gửi” trong sổ sách của họ để chính phủ có thể rút. Các ngân hàng sau đó có thể bán những “khoản nợ” của chính phủ cho Ngân hàng Dự trữ Liên bang, nơi mà để thanh toán những khoản nợ thu mua này, họ sẽ tạo ra những “khoản tiền gửi” trong sổ sách hoặc in thêm chi phiếu để ghi trả. Đây là cách để sản xuất tiền.

Phần lớn “cung tiền tệ” của đất nước này được đại diện không phải bởi tiền mặt trao qua tay mà là bởi những khoản tiền gửi vào ngân hàng được rút ra bằng chi phiếu. Cho nên khi đa số các nhà kinh tế đo lường cung tiền tệ của chúng ta họ cộng thêm tiền gửi thanh lý (và bây giờ thường xuyên cộng luôn cả tiền gửi tiết kiệm) vào số tiền mặt bên ngoài các ngân hàng để có được tổng số. Tổng số tiền và tín dụng đo được cuối tháng mười Hai năm 1939 là 63.3 tỉ USD và cuối tháng 12 năm 1963 là 308.8 tỉ. Mức gia tăng đến 388% trong nguồn tiền cung cấp là lý do áp đảo cho việc giá cả thị trường gia tăng 138% trong cùng khoảng thời gian.

Một số các Chuẩn Mực

Người ta thường cho rằng việc quy lạm phát thông qua một sự gia tăng khối lượng tiền cung cấp là “đơn giản hóa quá mức”. Điều này đúng. Có nhiều chuẩn mực cần phải được lưu ý.

Thí dụ như, “cung tiền tệ” cần phải được xem như không chỉ bao gồm nguồn tiền trao qua tay thôi mà còn cả nguồn tín dụng của ngân hàng – nhất là ở Hoa kỳ, nơi mà đa số các khoản thanh toán được giải quyết bởi chi phiếu.

Nói rằng giá trị của mỗi đồng đô chỉ phụ thuộc vào lượng cung ứng hiện hành của tiền đô cũng là “đơn giản hóa quá mức.” Giá trị của mỗi đồng đô còn phụ thuộc vào dự kiến về nguồn cung cấp của đồng đô trong tương lai. Chẳng hạn như trong trường hợp số đông lo sợ rằng nguồn tiền cung cấp sẽ nhiều hơn so với hiện tại trong một năm tới đây, thì giá trị hiện tại của đồng đô (tính theo sức thu mua của nó) sẽ thấp hơn giá trị hiện tại đáng lẽ ra nó phải có.

Một lần nữa, giá trị của mọi đơn vị tiền tệ như đồng đô, phụ thuộc không chỉ vào số lượng của tiền đô mà còn vào chất lượng của chúng. Thí dụ như, khi một quốc gia sử dụng kim bản vị, điều đó có nghĩa là vàng, hay quyền tiếp thu vàng, bỗng dưng trở thành tiền giấy. Giá trị của đơn vị tiền tệ theo đó thường rơi ngay lập tức, kể cả khi không có sự gia tăng trong lượng tiền cung cấp. Đó là vì người ta đặt niềm tin vào vàng nhiều hơn vào những lời hứa hẹn hay sự phán xét của các nhà quản lý tiền tệ của chính phủ. Không có một trường hợp nào được ghi nhận khi mà việc rời khỏi kim bản vị không tiếp nối bởi sự gia tăng của tín dụng và tiền in.

Nói một cách ngắn gọn, giá trị của đồng tiền thay đổi cùng các lý do với giá trị của bất kỳ mặt hàng nào. Chẳng hạn như khi giá trị của một giạ lúa mì phụ thuộc không chỉ vào nguồn cung cấp lúa mì hiện có mà còn phụ thuộc vào dự kiến tương lai về nguồn cung cấp và chất lượng của lúa mì thì giá trị của đồng tiền cũng phụ thuộc vào những cân nhắc tương tự như thế. Giá trị của đồng tiền, cũng như giá trị của hàng hóa, không được quyết định đơn thuần bởi các quan hệ cơ hóa hay vật chất, mà chủ yếu bởi các yếu tố tâm lý thường có thể rất phức tạp.

Để đối phó với các nguyên nhân và giải pháp của lạm phát, lưu ý đến các biến chứng là một chuyện, bị nhầm lẫn hoặc bị định hướng sai lệch bởi các biến chứng không cần thiết hoặc không hiện hữu lại là một chuyện khác.

Ví dụ như khi người ta thường nói giá trị của đồng tiền phụ thuộc không chỉ đơn thuần vào số lượng của tiền đô mà là vào “tốc độ lưu thông” của lượng tiền đó. Tuy nhiên, “tốc độ lưu thông” gia tăng không phải là một lý do của một sự sụt giảm thêm trong giá trị của đồng đô; chính nó lại là một trong những hậu quả của sự lo sợ rằng đồng đô sẽ tụt giá (hoặc, để nói ngược lại, của niềm tin vào việc giá cả hàng hóa sẽ gia tăng). Chính niềm tin này đã khiến người ta hối hả trao đổi tiền đô lấy mặt hàng nhanh hơn. Một số các ngòi bút kinh tế đã nhấn mạnh “tốc độ lưu thông” chỉ là một ví dụ nữa của của sai lầm trong việc thay thế các lý do cơ hóa đáng ngờ với các lý do tâm lý thật sự.

Một ngõ cụt nữa là trong câu trả lời cho những ai đã chỉ ra rằng lạm phát chủ yếu xảy ra bởi một sự gia tăng trong lượng tiền và tín dụng, người ta hài lòng khi cho rằng sự gia tăng giá cả hàng hóa thường xảy ra trước sự gia tăng của cung tiền tệ. Điều này đúng. Đây là những gì đã xảy ra ngay sau khi chiến tranh xảy ra ở Hàn quốc. Các nguyên liệu chiến lược bắt đầu tăng giá khi người ta sợ rằng chúng sẽ trở nên hiếm đi. Các nhà đầu cơ và các nhà sản xuất bắt đầu thu mua chúng để tích trữ sinh lợi hoặc để bảo đảm số lượng hàng tồn kho. Nhưng để thực hiện việc thu mua này họ phải mượn thêm vốn từ các ngân hàng. Sự gia tăng giá cả được kèm theo bởi sự gia tăng không kém phần đáng kể trong các khoản vay và tiền gửi ngân hàng. Kể từ 31 tháng 5 năm 1950 đến 30 tháng 5 năm 1951, các khoản vay của các ngân hàng của nước này đã tăng thêm 12 tỉ. Nếu Nếu các khoản vay này đã không xảy ra, và số tiền mới (gần 6 tỉ kể đến cuối tháng 1 năm 1951) đã không được cung ứng để giải quyết các khoản vay, sự gia tăng giá cả có thể đã được duy trì. Nói một cách ngắn gọn, giá cả gia tăng đã có thể xảy ra chỉ bởi một sự gia tăng cung tiền tệ.

 

Tác giả: Henry Hazlitt
Dịch: Hoàng Triết

5 nhận định về cách lập luận chính trị ở Việt Nam

Featured image:  the rik pics

 

Gửi các admin của Triết Học Đường Phố: Mình rất ấn tượng về page của các bạn, các bạn là page bàn luận về chính trị sạch nhất mà mình từng thấy. Nên mình xin mạn phép đóng góp một bài. Mình là 1 sinh viên năm nhất, tuy chỉ mới 18 tuổi nhưng sống trong một đoạn thời gian mà có nhiều sự kiện chính trị và tồn tại một thế giới mở như fb nên mình cũng rất chú ý tới những cuộc tranh luận về chế độ, nhà nước của Việt Nam, đồng thời sau khi vào đại học mình học những bộ môn như Mác, như học phần quốc phòng mình. Qua những cuộc tranh luận cùng với những gì mình học trong các bộ môn chính trị mình nhận thấy lối suy nghĩ và lập luận của mọi người, từ cả 2 phe, đều có vài điểm sai lầm, mang tính cực đoan và khiến mọi cuộc tranh luận được đưa ra rơi vào bế tắc. Vì vậy mình xin mạn phép post bài này để chia sẻ với mọi người, cùng đọc, ngẫm. Những ý kiến, nhận định của mình chỉ mang tính cá nhân, xuất phát từ bản thân mình nên đừng hỏi những cái ấy từ đâu ra, đừng phán xét đúng sai.

Đầu tiên các bạn thường hay bác bỏ ý kiến trái chiều bằng lý do kiểu như “Bọn phản động, bọn bán nước” từ phía các bạn ủng hộ chế độ hoặc là “Ôi cộng sản, lũ ngu dốt!!!” từ phía các bạn còn lại. Đây gọi là chụp mũ về tư tưởng, về niềm tin, các bạn muốn bảo vệ tư tưởng niềm tin của bạn thì bạn phải có lập luận, phải có lý lẽ để bảo vệ nó, chứ không phải bác bỏ mọi ý kiến phản bác bằng cách phán xét đối tượng tranh luận với bạn.

Thứ hai, không chấp nhận ý kiến bên đối diện dù cho họ đưa ra đầy đủ lý lẽ và chứng cứ thuyết phục. Các bạn phải tập chấp nhận những ý kiến đúng đắn từ phía bên kia. Nếu bên kia đưa ra được bằng chứng lý lẽ thuyết phục thì bạn phải chấp nhận nó, có như vậy thì lý lẽ, bằng chứng của bạn mới được người khác lắng nghe, tán thành. Không nên tranh luận theo kiểu cãi bướng, cứ đinh đinh cái định kiến rằng bên mình luôn đúng và bên kia luôn sai.

Thứ ba, 1 vấn đề rất là nhức nhối, chửi thề. Nếu các bạn không có văn hóa, không biết cách ứng xử thì mình khuyên các bạn đừng tham gia những vấn đề thế này, xem cho biết đi. Vì tranh luận là giải quyết vấn đề bằng ngôn ngữ, lập luận, chứ không phải cãi nhau ngoài đường bên nào chửi cho bên kia im miệng là thắng.

Thứ tư, thường xuyên lôi lịch sử, những chính sách sai lầm của bên đối lập trong quá khứ ra để phán xét tư cách, độ đúng đắn của họ. Mình nói thật, trong mắt mình cuộc chiến 1954-1975 không phải cuộc chiến giải phóng, cũng không phải cuộc chiến chống xâm lược, mà là 1 cuộc nội chiến. Mà nội chiến thì không có đúng sai, chỉ đơn giản là anh em trong nhà giành nhau quyền kiểm soát (và sai lầm của cả 2 bên là đều lôi nước ngoài vào). Đồng thời, thứ chúng ta tranh luận là những vấn đề hiện nay, với những cá nhân sống trong thời đại này chứ không phải vào thời nào đó. Cho nên việc lôi lịch sử ra để xuyên tạc phán xét là hành động không hợp lý và mang tính thù địch hơn là tranh luận.

Thứ năm, so sánh vấn đề trong nước với nước ngoài. Các bạn có thể dẫn chứng những thành công thất bại của nước khác để củng cố cho lập luận của bạn nhưng cái mình nói ở đây là cái kiểu lấy nguyên nước người ta ra so sanh với nước mình mà không nêu ra thua ở đâu, vì sao thua. Như “Bên Singapore hồi xưa thua mình, giờ nó hơn mình chục năm”, các bạn chỉ nhìn tới việc nước mình thua nước họ với tâm thái là ganh tị, chứ không phải học tập. Biết mình thua người khác rồi thì phải xem mình thua ở đâu và có niềm tin phấn đấu chứ ko phải cứ luôn miệng nói mình thua người này người kia như vậy.

Có lẽ do nước ta độc Đảng nên người dân không quen với việc tranh luận những vấn đề thế này. Nhưng theo mình, trước khi bàn về tự do, bàn về dân chủ, bàn về đa đảng thì mỗi người dân trong chúng ta, dù tư tưởng chính trị như thế nào, đều phải biết cách làm thế nào để tranh luận, đưa ra lý lẽ hợp lý chứ không phải thực hiện những hành động đưa mọi cuộc tranh luận nào vào ngõ cụt.

P/S: Nếu bạn nào tâm đắc về bất kì quyển sách nào về nghệ thuật tranh luận, lập luận thì cho mình xin vì những cái trên là do mình tự rút ra và còn phải học nhiều. Xin cảm ơn.

 

KR

Quà Tết tôi gửi đến các bạn – Những tên giám ngục trường Hớt Wơ

Featured image:  www.joedanielprice.com

 

Tôi tên là Mary Bọt Bèo. Trường tôi từng học là Trung học phổ thông pháp thuật Hớt Wơ. Nó nằm cách trường Hogwarts của Harry Potter 300 dặm về hướng bắc. Ở ngôi trường này, tôi có 3 cô bạn thân là Misa Bọt Biển, Anna Bọt Nước và Lyly Bọt Sủi. Nếu như Hogwarts là ngôi trường dành cho các pháp sư ưu tú như Harry Potter thì trường tôi dành cho các pháp sư thường thường, dạng như tôi chẳng hạn. Đầu năm tôi được tuyển vào lớp 10 ở trường đó, thật lòng thì tôi không có mấy hứng thú với việc này lắm. Chúng tôi phải trải qua một khóa học mùa hè trước khi được vào trường. Thay vì được quản lý bởi những thầy cô và các huynh trưởng như ở Hogwarts, chúng tôi lại được cai trị bởi những tên giám ngục. Không khí trong trường u tối và ảm đạm như một cái nhà xác. Tất cả những học sinh sai quy định hay bị mắc lỗi dù rất nhỏ cũng có thể bị hút cạn linh hồn.

Ngày đầu tiên tôi vào trường, một tên giám ngục ốm đói, lùn tịt tên là L. đang lăm lăm một dây xích nhôm rượt đuổi một số pháp sư nhỏ tuổi ăn mặc trái quy định. Tên giám ngục bắt trúng đứa nào thì quất vào lưng đứa đó khiến chúng khóc ré lên đau đớn. Trong lớp Vật lý pháp thuật tôi đang học, tên giám ngục xông vào, kéo một pháp sư đứng lên vì cái đầu xịt keo vuốt thẳng. Tên giám ngục vung dây xích nhôm lên quật mạnh vào lưng nó. Tôi trào máu. Tôi muốn lao tới bóp cổ tên giám ngục nhưng tôi biết tôi sẽ bị hút cạn linh hồn.

Suốt những năm học sau đó, tôi phải học nhiều môn pháp thuật mà bản thân tôi không thích. Tôi thường thắc mắc rằng vì sao tôi phải bỏ những gì mình yêu thích để vào nhà tù này cố nhét vào đầu những thứ tôi không hề ưa. Tôi muốn múa bút trên những trang giấy trắng với những hình hài đầy màu sắc. Tôi muốn nhìn thấy tận cùng trong thẳm sâu của thứ nghệ thuật phóng khoáng và ẩn dụ kia. Tôi muốn nhìn những con số. Tôi thích sự bí ẩn của chúng trong cách mà các tỷ lệ giao nhau trên đường biên của chiếc vỏ ốc. Tôi muốn nhìn thấy chúng múa hát trên những trang sách cổ, nơi mà những người xưa đã cố tìm ra thực thật về chúng và tỷ lệ mà chúng tạo ra cho vũ trụ. Tôi muốn hát. Tôi muốn nắm lấy tay người pháp sư bên cạnh mình để hát bài ca vui vẻ. Tôi muốn đi vào rừng, nơi có các sinh vật lạ lùng và nhìn thấy sự sinh sôi nảy nở của chúng trong những hình hài độc đáo bởi tạo tác của thiên nhiên.

Nhưng vì lý do gì tôi ngồi trong cái trường pháp thuật này? Nơi đây không có niềm vui, tôi chưa bao giờ cảm thấy tự do nhìn ngắm sự bí ẩn của vũ trụ qua những con số, qua những bức họa, qua thiên nhiên. Ở đây chỉ có luật lệ, cai ngục, sách vở và bốn bức tường. Nhưng tôi buộc phải làm thế. Vì tất cả những người xung quanh đều làm thế. Và nếu tôi không làm thế, tôi sẽ bị hành hình. Tất cả các pháp sư ở đây, hằng ngày chúng tôi đem sách vở ra ngồi học thuộc, rồi làm bài tập, rồi kiếm điểm. Ai có điểm cao người đó được thưởng một cây gậy thần. Vì sức hấp dẫn của cây gậy thần quá lớn, các bạn xung quanh tôi tranh nhau, dùng đủ thủ đoạn để có nó. Đã gọi là “thủ đoạn” thì tất nhiên không đẹp, nó chỉ có thủ đoạn xấu hay ít xấu hơn mà thôi. Tất cả các pháp sư đều trở nên hung dữ, thâm hiểm, tàn bạo. Dường như đây là công thức chung để tạo ra những con người bất hạnh và tàn bạo. Đó là tiêu diệt tình yêu với thứ mình thích, tiêu diệt sự tò mò về những bí ẩn xung quanh, thay thế vào đó là sự cạnh tranh, ganh tỵ và thù ghét – chỉ vì những cây đũa thần. Và tôi bị cả thế giới phép thuật ép đi vào cái trường này chỉ để học những thứ đó.

Tôi có cảm giác rằng hạnh phúc đã mất. Toàn bộ cái hạnh phúc thật sự đã mất. Bởi vì hạnh phúc thật sự nằm trong chính tâm hồn mình. Trong tình yêu với những nét vẽ đầy ma lực, họ hạnh phúc. Trong tình yêu với tiếng hát vang lên, họ hạnh phúc. Trong tình yêu với những con số bí ẩn, họ hạnh phúc. Họ – các pháp sư, hoàn toàn không hạnh phúc với những cây đũa thần họ lấy được. Vì để lấy chúng chỉ có ganh tỵ, chỉ có tranh giành, chơi xấu, cướp giật. Họ không hề hạnh phúc trong ganh tỵ, họ không hạnh phúc trong cạnh tranh, họ không hạnh phúc trong cướp bóc. Nhưng để tồn tại trong cái trường này, họ phải làm tất cả những điều đó.

Tôi cảm thấy mệt mỏi. Tôi không muốn tham gia vào trò chơi cướp đũa thần này. Tôi phát hiện ra cơ chế hoạt động của bọn giám ngục. Chúng treo một giải thưởng cho một trò chơi, tất cả đều phải chơi. Ai chơi thắng được nhiều đũa thần, ai không chơi sẽ bị đóng đinh trên cây thập giá. Vì nỗi sợ đó, mọi người đều phải chơi và phải cố lấy được đũa thần – một ảo ảnh giả lập của thứ hạnh phúc bần tiện được nhỏ giọt cho những pháp sư nô lệ. Các pháp sư biến thành những con gà giành nhau mổ thóc trong tiếng cười sặc sụa bốc mùi thối rữa của những tên giám ngục. Đến một thời điểm nhất định, các giám ngục này, dựa vào ma thuật mà chúng có được thông qua nhiều lần hút cạn linh hồn của các pháp sư, chúng biến các pháp sư thành những con vật. Nhiều nhất là loài chuột. Khi bị biến thành chuột, các pháp sư này chỉ còn cách sống chui sống nhũi, ban ngày lẩn trốn, ban đêm bò vào kho gạo kiếm ăn chút đỉnh bằng cách cắn rách các bao gạo. Gạo không thể đủ và họ đói lả. Lũ chuột bắt đầu đi cướp bóc, cắn nhau, đánh nhau để giành gạo.Khi chuột chết, xác của chúng được hóa lỏng quay trở lại làm thức ăn cho các giám ngục.

May mắn thay, tôi tìm được một hang động bí mật trong trường Hớt Wơ và trốn khỏi các cai ngục này. Đồng hành với tôi còn có Misa Bọt Biển và Lyly Bọt Sủi. Chúng tôi chuyên bày ra nhiều trò vui nhộn và cầm đầu là tôi.  Một lần nọ, trong một tiết Phép thuật toán học, tôi không có hứng thú với mấy bài toán sin, cos nhàm chán. Trong đầu tôi đang nghĩ xem nó là cái quái gì và nó đóng vai trò gì trong đời sống của tôi nhưng tôi nghĩ không ra. Thế là tôi lấy bút chì ra vẽ hoa cúc và vẽ mấy con chuột Mickey trong nhà bếp. Tôi cố gắng nắn nót vẽ nó vào cuốn vở bài tập toán sao cho thật đẹp. Không may là tên giám ngục cai quản đã nhìn thấy, hắn ta lôi tôi lên trước bảng bắt tôi giải bài toán đó. Tất nhiên tôi không biết làm vì suốt buổi học tôi chỉ lo vẽ hoa cúc và chuột. Tên giám ngục dạy toán la hét và trêu tôi trước mặt các pháp sư khác. Mọi người cười ồ lên và tôi biến thành một học sinh ngu ngốc. Nhưng không sao, đây không phải là lần đầu tiên tôi được nói cho biết là mình ngu ngốc. Tôi đã từng bị nhiều lần rồi đến mức tôi nghĩ thế thật. Không những tôi, mà cả Misa Bọt Biển cũng thế. Nó bị tên giám ngục dạy môn Sinh học về các loài vật pháp thuật bêu rếu khắp lớp. Còn Lyly Bọt Sủi thì nhiều lần bị túm lên phòng kỷ luật vì leo tường trốn ra ngoài chơi.

Càng ngày, những trò quậy của tôi càng tăng và tôi càng hăng máu. Có bữa tôi đi trễ, có bữa tôi không học bài. Tên giám ngục dạy môn Lịch Sử pháp thuật rất ghét tôi vì tôi thường xuyên quên mất các sự kiện pháp thuật xảy ra từ mấy trăm năm trước. Tôi không cố tình lười, nhưng trong lúc học, đầu tôi nảy lên câu hỏi: “Lịch sử pháp thuật suy cho cùng cũng do các pháp sư kể lại bằng miệng, thế cái miệng có bao giờ nói dối không?” Và chính vì ý nghĩ đó mà tôi chẳng thể nào tập trung được. Một ngày nọ, tên giám ngục lôi tôi lên bảng bắt đọc thuộc 2 bài, tôi không thuộc một chữ. Thế là tôi bị me cả năm đó. Xui thật.

Nhưng vui nhất là tiết học Vật lý pháp thuật của một giám ngục dạy-bao-chán và béo phì do ăn quá nhiều. Tôi đã từng yêu thích các thí nghiệm lạ lùng nhưng giờ đây tôi không còn hứng thú với những bài toán vật lý mà tôi không hề tìm thấy nét tương đồng nào trong đời sống. Nó chỉ là một công cụ để kiếm đũa thần mà thôi. Thế là tôi, Misa Bọt Biển và Lyly Bọt Sủi bàn nhau trốn tiết. Chúng tôi mượn thẻ thư viện của mấy con ma bay xung quanh căn hầm bí mật rồi trốn vào thư viện. Suốt năm lớp 11 ở Hớt Wơ, cứ chiều thứ 6 là chúng tôi lại ở thư viện. Đứa đọc sách, đứa học bài môn khác. Tôi ngồi…nghĩ xem cái gì đang xảy ra xung quanh mình. Có lần chán thư viện, tôi và Lyly Bọt Sủi lén đi ra nhà để xe, 2 đứa lấy xe đạp vọt ra ngoài lúc giám ngục đi vắng. Lần đó chúng tôi thoát nạn. Tôi và nó đi ăn chè thỏa thích.

Một ngày xấu trời nọ, bụi bay mù mịt, mưa giăng kín lối và gió thổi vù vù. Tên giám ngục Mama tổng quản thay đổi. Nó ban luật ra là các pháp sư không được mang nước uống, thức ăn vào phòng học. Các pháp sư lỡ mang nước hoặc bánh kẹo vào phòng học đều bị tịch thu, kỷ luật, hút linh hồn. Một vài pháp sư giấu bánh, nước trong cặp bị tra hỏi. Mỗi buổi sáng, một toán giám ngục đứng trước hành lang lục cặp của chúng tôi xem có kẹo hay không. Tôi không thèm nghe. Trong cái “quyền được sinh sống” không lẽ không có quyền mang nước vào phòng học để uống à? Thế là Tôi, Misa, Lyly, Anna lén đem nước, đồ ăn, rồi thậm chí còn ăn vụn trong lớp. Trò này vui thật. Trong lúc các giám ngục đói bụng đi lả lướt ngoài kia thì chúng tôi ăn vụn. Một niềm vui dựa trên sự đau khổ của kẻ khác, nhất là kẻ mình ghét, là một niềm vui bệnh hoạn nhưng trong lúc này thì tôi thấy sự bệnh hoạn đó có thể chấp nhận được.

Đến năm tôi học lớp 12 ở trường Hớt Wơ, chúng tôi phải vượt qua một kỳ thi cuối cùng để chính thức gia nhập tập đoàn pháp sư của Hội liên hiệp các Pháp sư trong thế giới pháp thuật. Giám ngục Mama Tổng quản ban hành lệnh cấm nghỉ học và bắt buộc đóng tiền luyện thi cho dù chúng tôi không cần. Tôi vẫn đóng tiền bằng các đồng Bit bằng vàng, nhưng tôi cảm thấy việc đi tới lớp và ngồi học thuộc mấy thứ vớ vẩn quá phí thời gian. Tôi cùng với Misa Bọt Biển rủ nhau trốn học 2 tuần. Giám ngục chủ nhiệm mời người thân của tôi đến trường để méc vụ này. không sao, tôi đã nhiều lần đối mặt với chuyện này và không có gì phải nao núng cả.Nhưng không may, giám ngục đòi phạt tôi thì mới chịu đưa cho tôi giấy báo thi. Hình phạt như mọi khi, là tôi sẽ bị rút một phần linh hồn, và bị đóng dấu bằng cách làm dâng lên một ký ức khủng khiếp trong não.

Có 5 tên giám ngục thi hành mệnh lệnh này. Tôi cảm thấy hơi lạnh của họ. Họ bắt đầu hút tôi, trong đầu tôi hiện lên hình ảnh tôi rớt kỳ thi, tôi đã từng bị la mắng khi hồi xưa tôi bị điểm kém, tôi đã từng bị chửi ngu khi làm sai bài tập, tôi đã từng bị đánh…tất cả những ký ức đó hiện về… Nhưng vào lúc mà những đen tối đó hiện lên trong đầu, bỗng nhiên tôi nhận ra một điều kỳ lạ xảy đến. Vì sao họ muốn làm sống dậy những ký ức đó? Vì sao nỗi sợ hãi bị mắng, bị đánh, bị cô lập lại được tái đi tái lại trong quá trình tôi bị thi hành hình phạt này? Tôi nhận ra một điều, các hình phạt này làm cho nỗi sợ hãi dâng lên tột đỉnh. Nó khiến cho tôi không dám là chính tôi nữa, tôi phải là họ hay ai đó khác. Tôi không còn là tôi vì vậy tôi sẽ thành một cái xác biết đi. Tôi phải thoát khỏi điều này, vào lúc mà hơi lạnh của cái chết đến gần cũng là lúc cái PHẦN NGƯỜI tham sống trỗi dậy. Tôi thấy điều này trong những tình thế cấp bách, khó khăn. Như một cách trị liệu tích cực. Nghĩa là khi cận kề cái chết, cận kề một tình thế nguy hiểm, chúng ta bỗng nhiên thức tỉnh. Bởi vì nếu không, hậu quả khủng khiếp sẽ ập xuống đầu chúng ta. Đó là lúc mà TÍNH NHÂN BẢN, việc muốn hướng về sự sống bị đẩy lên cao nhất. Nó làm tăng tốc cho phần người được phát hiện và được hoàn thiện. Trải nghiệm cận kề cái chết là một trải nghiệm sâu sắc.

Hèn chi bác Jobs bảo “Tất cả những thứ x, y,z sẽ biến mất trước mặt cái chết.”

Khi muốn có một kiến thức thật, chúng ta phải trải nghiệm Thật, phải đi qua nó. Tôi nhớ đến cái lần tôi suýt gãy cổ khi học võ và từ đó hiểu ra mình không có “trí thông minh điều khiển cơ thế” như Thomas Amstrong đã nhắc tới trong cuốn 7 loại hình thông minh. Tôi phát hiện ra tôi có khả năng viết khi tôi ngồi viết một đoạn thơ. Tôi phát hiện ra tôi có khả năng hát khi tôi hát. Tôi phát hiện ra tôi ghét bóng đêm khi tôi đi vào bóng đêm… Kiến thức là trải nghiệm thật. Không có trải nghiệm thật, không có gì là chắc chắn. Tất cả rất có thể chỉ là bịa đặt.

Thế là vào cái lúc họ định rút một phần linh hồn tôi ra, tôi phát hiện ra phần hồn đó là phần hồn rất can đảm, phần hồn của sự nhân bản, của nhân tính, của yêu thương và sáng tạo đang nằm trong tôi. Tôi lật đật lấy nó ra trước họ, giấu nó trong túi rồi chạy. Bọn họ đuổi theo, tôi càng giấu kỹ nó. Tôi với tay lấy được một cây đũa thần của ai đó vứt. Khi họ đâm dao, tôi tự biến phần hồn thành dòng nước. Khi họ ném đá, tôi biến phần hồn thành không khí. Khi họ muốn vùi lấp nó, tôi biến nó thành hạt đậu. Linh hồn chính là cái PHẦN NGƯỜI nhân ái trong tôi, họ không thể lấy mất. Bọn giám ngục bó tay với tôi nên một hồi chúng bỏ đi. Tôi đã hiểu ra được bí mật. Là khi chúng muốn phần NGƯỜI của tôi, tôi phải tìm mọi cách bảo vệ nó, dùng thân người bảo vệ phần hồn đó giúp nó không bị xâm phạm. Một khi PHẦN NGƯỜI nhân ái và sáng tạo đó bị cướp đi, tôi sẽ trở thành một cái xác. Tôi sẽ không hiểu mình là ai, mình muốn gì trong đời này.

Phần người đó chính là phần hồn đã cùng tôi chiêm nghiệm về vẻ đẹp của bông hoa. Nó đã cùng tôi phiêu du trong những sắc màu trên những bức tranh gấm thêu chim chóc. Nó đã cùng tôi nhảy múa dưới ánh trăng rằm trong tiếng ru của mẹ. Nó đã cùng tôi nhìn ngắm những ảnh hình được thiên nhiên khắc lên trên vỏ của con ốc biển và sáng tạo nên những bài thơ chưa bao giờ được nói. Viết nên những đoạn mã lập trình đầy mê hoặc và búng tay trên những con số tàng hình…Và cho đến giờ, trong lúc sắp cận kề với việc bị rút nó đi tôi mới phát hiện ra nó. Thật đáng yêu!

Tôi bỗng nhiên thấy mình hiểu được Steve Jobs (Pháp Sư Công Nghệ Tài Ba Lỗi Lạc), tôi bắt đầu hiểu được Tagore (Pháp sư Múa Chữ Thành Thơ), và J.K. Rowling (Pháp Sư Biến Truyện thành Đời sống Thực)…và nhiều pháp sư tài ba khác…Họ cho dù hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau nhưng đều có chung một đặc điểm: Phần Người Nhân Bản chưa bao giờ bị đánh cắp. Họ có khả năng tối đa hóa phần người đó, đưa về cái Gốc Rễ Nguyên Thủy, cái kết nối cao nhất với sự Nhân Bản đã được lập trình sâu trong Vũ Trụ. Bởi vì con người là một tế bào của Vũ Trụ. Tế bào đó phải chảy trong cơ thể của Vũ Trụ Tối Cao đầy bí ẩn. Vì vậy những tác phẩm họ làm ra đều là những Tác Phẩm Nghệ Thuật Vĩ Đại. Steve Jobs KHÔNG phải là một con buôn, ông ta là một NGHỆ SĨ. Một nghệ sĩ kết nối sâu với PHẦN NGƯỜI bên trong con người sẽ tạo ra một tác phẩm nghệ thuật làm lay động trái tim, làm lay động cái PHẦN NGƯỜI bị cất giấu quá sâu, quá kỹ dưới lớp trầm tích của nỗi sợ hãi, những hệ thống ý thức, những ganh tỵ và lòng tham. Cái phần người chúng ta biết là có tồn tại nhưng chưa bao giờ dám thừa nhận.

Tôi cần có một phương thuốc cứu lấy nó. Thế là tôi trốn Hớt Wơ sang Hogwarts gặp Severus Snape. một ông thầy giáo bẳn tính khó gần. Tôi xin ông ta điều chế cho tôi một liều thuốc huyền bí có thể giúp tôi làm trong sạch phần người. Ông ta, sau một hồi làm khó dễ đã đồng ý đưa cho tôi công thức bào chế. Tôi định bụng dùng nó để cứu sống những ai đã trở thành xác chết biết đi.Tôi đem nó tới cho Misa Bọt Biển, nó đồng ý uống. Tôi đem nó tới cho một cái xác biết đi nọ tên là Lễ Văn T****. Cái xác không thèm nhìn tới và bảo: “Cảm ơn, nhưng tôi sẽ làm theo cách của tôi.” Và rồi cái xác bỏ đi thật nhanh, gia nhập vào hàng ngũ của những tên giám ngục. Tôi thấy nó tội nghiệp, nó rất nhút nhát, nó đã luôn sợ hãi, nó đã luôn sống trong ảo ảnh. Nó chưa bao giờ dám đối mặt trực diện với điều gì. Một kẻ sống trong ảo ảnh KHÔNG BAO GIỜ có thể tìm được con người thật của mình.

Đến lúc tốt nghiệp, bọn pháp sư khóc như mưa. Tôi không hiểu vì sao chúng tiếc nuối việc ở trong cái trường này, tiếc nuối việc phải xa những tên cai ngục kia. Vì sao họ khóc cho những kẻ canh gác? Vì sao họ khóc cho tất cả những gì đã cướp mất linh hồn, phần người của họ? một ký ức nảy lên, tiếng khóc này tôi đã thấy ở đâu đó. Hình ảnh nảy đã có ở đâu đó. Hình như ở một vùng đất tên là Triều Tiên thì phải.

Thế là tôi cùng con Misa Bọt Biển đi về nhà vui vẻ với liều thuốc đó, không việc gì phải khóc. Đời thật đẹp làm sao.

 

Phuc Dinh

Viết vội 30 Tết

Featured image: Amybread

 

Tôi có ý định viết những dòng chữ này từ lúc sau khi kết thúc hiệp 2 của trận đấu rạng sáng nay giữa Chelsea vs PSG lúc 2h45 sáng. Chủ đề thì thực ra cũng chưa được định hình nhưng thôi cứ viết đi tại đây là những lời văn cuối cùng của năm cũ 2014 theo lịch Âm.

Tết quả thực đem lại những niềm vui khôn tả cho nhiều người. Trong tâm khảm mỗi con người, Tết luôn là lúc tràn ngập tiếng cười và niềm vui. Và Tết là một sự kiện rất đáng được chờ đợi trong năm của mỗi chúng ta. Là lúc những học sinh được có những ngày “chủ nhật” liên tiếp xả hơi, là lúc mà những người đi làm có được những thời gian để xả stress sau những chuỗi ngày căng thẳng và mệt mỏi, là những lúc tất cả mọi người già trẻ gái trai dành cho mình những khoảng thời gian “chất lượng” theo cách riêng của mỗi người…

Tôi thấy được cách cảm nhận về Tết của bản thân và những người trẻ khác cùng tuổi có vẻ như đã khác xưa. Không còn bốc đồng, náo loạn mỗi lần thấy khách đến nhà vì biết rằng sẽ có tiền lì xì để xung quỹ, không còn độ háo hức một cách điên cuồng cho những ngày nghỉ Tết… Phải chăng tôi và họ đã chán Tết? Không phải, có lẽ chỉ là sự thay đổi từ bên trong tiềm thức mỗi người. Qua thời gian, Tết có lẽ chỉ là ngày mà chúng tôi coi đó như một kỳ nghỉ dài ngày “đáng được chờ đợi”.

Nó đáng được chờ đợi bởi đã đến lúc ngồi với nhau bên nồi bánh chưng cùng ông bà bố mẹ để cùng nhau kể những câu chuyện suốt 1 năm qua. Nó đáng được chờ đợi để tổng kết những gì chưa được và được của chúng ta qua 1 năm. Nó đáng đợi chờ đợi bởi là lúc chúng ta có những khoảnh khắc hiếm hoi được cùng nhau chia sẻ một cách đầy thoải mái… Người trẻ bằng một nỗi niềm nào đó đã mất dần sự hứng thú với Tết nhưng có một điều tôi xin được khẳng định rằng trong tâm khảm mỗi người, cái cảm giác được “nghỉ Tết” nó hoàn toàn khác với những ngày nghỉ khác.

Một ngày lễ thiêng liêng của cả một dân tộc đã đến và rồi sẽ lại đi để hẹn sang tiếp một năm nữa, tất cả dường như là một sự luân hồi hoàn hảo để đêm nay thời điểm giao thừa, vào khoảnh khắc đồng hồ điểm 0h, vào khoảnh khắc pháo hoa toả sáng trên bầu trời, mỗi người chúng ta sẽ trút bỏ hoàn toàn những thăng trầm của năm cũ ở lại đằng sau để hướng tới bản thân mới vào năm mới. Vẫn con người đó nhưng với một tâm thế, tinh thần mới sảng khoái hơn, thoải mái hơn để chúng ta có được những thăng trầm cuộc sống mới và tôi tin rằng có được NHỮNG TRẢI NGHIỆM MỚI luôn là điều đáng quý và đáng trân trọng với tất cả chúng ta. Hy vọng là thứ tốt đẹp nhất. Và chẳng có thứ tốt đẹp nào có thể chết cả.

Cuối cùng, năm hết Tết đến, tôi xin chúc tất cả chúng ta đặc biệt là những người trẻ có được một năm mới tràn trề năng lượng, hãy làm mới bản thân mình mỗi ngày và sống một cách có trách nhiệm, sống để cảm nhận xung quanh và để thấy được rằng: Dù ngày mai có đến hay không, chúng ta vẫn thuộc về nhau hôm nay. Chúc cho tất cả luôn có sức khoẻ, tại tôi quan niệm rằng, có sức khoẻ là có tất cả, chúc cho tất cả luôn giữ trong mình được nhiệt huyết với những điều chúng ta đang làm,…

 

No Name

Phút giao thừa không lặng lẽ…

Featured image: Trần Thái Hòa

 

Cách đây vài năm, tôi làm việc tại một công ty có trụ sở ở Hà Nội. Chiều 29 Tết Âm Lịch công việc mới giải quyết xong, tôi ra bến bắt xe về quê. Hết xe mất rồi. Xe đi tỉnh đã nghỉ từ 28 Tết. Gay quá. Xe ôm, taxi có nhưng mắc lắm, Tết mà! Nếu đi xe ôm, taxi thì tôi may mắn lắm chỉ trả đủ tiền vé, chẳng còn tiền để tiêu Tết. Tự nhiên trong tôi hiện lên câu hỏi: Hay ở lại xem thiên hạ… ăn Tết thế nào? Thử một lần ăn Tết xa nhà (mà bây giờ tôi gọi là cảm giác mạnh) xem sao? Thế là tôi quyết định không về nhà mà…lên đại một xe khách để rồi sau đó đón giao thừa ở … bến xe một tỉnh phía Bắc cách Hà nội hơn 300km.

Khi xe về bến, chẳng biết đi đâu, hòa vào dòng người tấp nập, vội vã chiều cuối năm tôi đi xem chợ hoa, vào siêu thị, đi bát phố… Thành phố một tỉnh phía Bắc đang trên đà phát triển, đâu đâu cũng gặp những ngôi nhà, những công trường mới đang xây dựng, những con đường mới mở… Thành phố như một công trường lớn, như một chàng trai với nội lực sung mãn.

Trời đã tối một lúc lâu, những căn nhà, những con đường… được trang hoàng lộng lẫy với những cờ hoa, khẩu hiệu, những ánh đèn màu rực rỡ. Rồi dòng người có vẻ thưa thớt, vội vã hơn. Có lẽ giờ này nhà nhà đang quây quần bên mâm cỗ tất niên. Giờ này chắc nhà tôi cũng vậy, còn tôi lại là người…lữ hành bất đắc dĩ của thành phố này. Tự nhiên tôi nhớ gia đình, nhớ bố mẹ quá, nỗi cô đơn xâm chiếm tâm hồn tôi. Bài hát Đêm đông của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từ đâu vọng về trong tôi, nỗi cô đơn, nhớ nhà càng thêm da diết. Ôi thời gian sao mà nặng nề thế, bao giờ mới đến giao thừa, bao giờ mới được về nhà đây? Sao lớn rồi mà như trẻ con thế này, yếu đuối quá. Thôi nào, chiều mai là được về thôi. Nghĩ thế làm tôi vui vẻ hơn, môi nở nụ cười…một mình, hòa vào dòng người đón chào xuân đến.

Giao thừa! Mọi người khắp nơi đổ ra đường phố. Nam thanh, nữ tú, người lớn, trẻ em với những bộ quần áo xênh sang, nụ cười trên môi trong dòng người bất tận đổ về trung tâm thành phố. Mọi người hái lộc cầu may, chúc nhau hạnh phúc. Nhìn những đôi nam thanh nữ tú tay trong tay, những gia đình bát phố lại làm tôi chạnh lòng. Tôi cô đơn trong đêm giao thừa vui vẻ. Giờ tôi đã không còn giữ nổi lòng mình nữa dù tôi là người cứng rắn. Trong lòng tôi tự nhiên thổn thức. Tôi thua tôi mất rồi. Nhớ gia đình quá. Sao mình lại mạo hiểm đón Giao thừa nơi xa thế này? Chiều mai mới có xe về quê cơ. Ôi, thời gian sao mà nặng nề đến vậy.

Chồn chân mỏi gối vì đói & khát, tôi tìm quán để ăn. Đi mãi mới có quán mở nhưng mà đắt kinh khủng, dễ hơn ngày thường 2,3 lần. Nhưng không ăn biết ăn ở đâu? Tôi khỏe hơn sau khi ăn bát cháo nóng nhưng vẫn “như có tiếng sóng ở trong lòng ” nên nụ cười tôi vẫn có phần gượng gạo, méo xệch. Trông tôi lếch thếch, tha phương giống như …nghiện! Rồi có một thanh niên trông môi thâm, mặt mũi bơ phờ đi tới hỏi tôi:
– “Có lấy hàng không?”

À tôi hiểu rồi, hắn là thằng nghiện, hắn bán ma túy.

– “Không.” Tôi trả lời, hắn bỏ đi.

Đi một đoạn nữa lại có người khác, lần này là một thanh nữ, trông xinh xắn và quyến rũ lắm. Cô hỏi tôi:

– “Có mua hàng không?”

Giật mình tôi nghĩ, sao xinh xắn thế này mà lại đi bán ma túy? Tôi lắc đầu. Rồi một cô gái khác,trông cũng thanh mảnh nhưng nhìn kỹ thì phấn son lòe loẹt, gương mặt mệt mỏi. Cô hỏi tôi:

– “Đi chơi không anh? Đầu xuân em giảm giá cho… lấy may.”

Trông bộ dạng cô đã khiếp, hứng thú đâu mà đi chơi nữa. Tôi từ chối, rút điếu thuốc mời cô. Tôi hỏi nhỏ:

– “Không về quê ăn Tết với thầy u hả em?”

Em cười u uẩn thay cho câu trả lời. Đằng kia là bác xe ôm đợi khách từ lâu. Bác cho biết, hai cô gái kia đều là cave, nghiện ma túy nặng. Một cô vừa là con nghiện kiêm luôn bán thuốc kiếm lời để hút, chích. Họ không nhà, không cửa, lang thang, vạ vật. Thật tôi nghiệp một kiếp người! Người khách đầu tiên trong năm mới của bác là một chàng trai khôi ngô tuấn tú lắm. Anh ta về cách đấy 2km, bác đòi 20k.

– “Tiền đâu?” Bác hỏi.
– “Về nhà tôi lấy tiền đưa cho bác.” Anh ta trả lời.
– “Đưa tiền trước thì chở, không thì thôi.” Bác trả lời.
– “Hay cháu cởi quần, cởi áo để bác làm tin?”
Kỳ kèo, mặc cả một lúc không được, anh ta bỏ đi. Bác bảo, trông sạch sẽ thế mà là con nghiện nặng đấy. Ôi đúng rồi, lúc nãy anh ta cùng cô bán hàng trắng chích ở bên đường. Bây giờ tôi mới nhận ra. Ôi anh bạn trẻ, tương lai ngời ngời mà anh tự hủy hoại đời anh mất rồi. Anh thật đáng giận. Không biết anh đã đóng góp được gì cho quê hương đất nước nhưng chắc chắn là anh đã làm hại đất nước rồi.

Bác xe ôm có khách. Bác chở một cuốc, rồi hai cuốc nhưng chỉ được ít tiền vì đường ngắn. Người lao động như tôi, như bác kiếm được đông tiền thật khó. Mình phải quý trọng những đồng tiền mà mình vất vả kiếm được nhé, tôi nhắc mình thế. Tôi nhờ bác tìm nhà trọ, nhà nghỉ để qua đêm giao thừa nhưng đành chịu. Mọi nhà nghỉ, nhà trọ đều đóng cửa. Đi rồi!

– “Thôi không phải tìm nhà trọ nữa, về nhà tôi.” Bác nói.

Ôi, một điều ngoài sức tưởng tượng của tôi. Ngại ngùng vì là đầu năm nhưng…không về nhà bác thì chả nhẽ vạ vật qua đêm giao thừa? Thôi, về nhà bác kiểu…home-stay vậy. Đợi một lúc không thấy có khách, tôi cùng bác về nhà. Được cái cả nhà bác coi tôi như con cái nên tôi vui hẳn, không ngại ngùng gì. Lau người xong tôi cùng gia đình bác uống chén rượu xuân, rồi ngủ một giác ngủ ngon lành… cứ như là đang ở nhà mình vậy!

Sáng mồng một Tết sau bữa cơm đầu xuân, bác đưa tôi ra bến xe. Bác đón khách còn tôi đợi xe. Chưa có xe, tôi lại đi…lang thang. Vô tình tôi vào…Bệnh viện thành phố! Tôi ngồi ở khuôn viên Bệnh viện để giết thời gian. Bệnh viện sáng mồng một Tết vắng vẻ đến ghê người. Phá tan bầu không khí tĩnh lặng là một, hai…tiếng khóc nghe sởn gai ốc. Hóa ra có một vụ tai nạn giao thông do đua xe. Ngồi một lúc thôi mà có đến mất vụ tai nạn giao thông. Nhìn những nạn nhân được quấn kín trong lớp drap trắng mà thấy họ thật đáng thương nhưng cũng đáng trách biết bao. Thương những người mẹ có những đứa con như vậy. Có người bảo: có lúc ta nên vào bệnh viện chơi để thấy ta còn may mắn. Thật chí lý.

Chiều. Có xe về rồi. Ngồi trên xe lòng tôi nghĩ vẩn vơ. Nỗi cô đơn đêm giao thừa thật khủng khiếp. Nhưng tôi cũng được thấy những cảnh đời không có Tết vì đua xe, vì ma túy … Những thanh niên đã không làm gì cho đất nước mà lại làm hại đất nước, thật xót xa thay. Tôi cũng được thấy tấm lòng trong sáng, thánh thiện của bác xe ôm dù cuộc sống còn rất nhọc nhằn. Tôi thấy một thành phố phía Bắc còn có nhiều góc khuất nhưng đang thay đổi từng ngày. Chắc chắn vài năm nữa nếu tôi quay lại tôi sẽ ngạc nhiên lắm.

Cùng với niềm vui rộn ràng của Mùa xuân mới, sự háo hức được trở về, lòng tôi trào dâng một niềm vui khó tả. Ước mơ cho mình, cho Tổ Quốc ùa về mơn man tâm hồn tôi. Với nội lực sung mãn của mình, của Đất nước, tôi hoàn toàn có quyền tin rằng: những giấc mơ đầu xuân của tôi sẽ thành hiện thực ; nhất định rồi mình, Tổ Quốc Việt Nam thân yêu của mình sẽ sớm phát triển.

Về nhà đón Tết..muộn nào. “Dẫu gì thì con cũng về; Chỉ bên Mẹ là Mùa Xuân thôi…”

Pham AQ

Diễn biến tại một phiên tòa — Ayn Rand, Atlas Shrugged

Featured image: Richie Stutler

 

– Anh giờ có thể đưa ra bất cứ lời bào chữa nào anh muốn để biện hộ cho mình.

– Tôi không có gì để bào chữa cả.

– Có phải anh…. Có phải anh muốn phụ thuộc tất cả vào lòng nhân đạo của tòa án này?

– Tôi không công nhận thẩm quyền của tòa án này đối với việc xét xử tôi.

– Anh nói gì?

– Tôi không công nhận thẩm quyền của tòa án này đối với việc xét xử tôi.

– Nhưng, thưa anh Rearden, đây là tòa án đã được pháp luật ủy quyền để xét xử các tội danh thuộc thể loại này.

– Tôi không nhìn nhận điều tôi làm là một tội hình.

– Nhưng anh đã thú nhận là đã vi phạm các quy định quản lý việc buôn bán Kim Loại Rearden của anh.

– Tôi không nhìn nhận quyền quản lý của các ông đối với việc buôn bán kim loại của tôi làm ra.

– Chúng tôi có cần nhấn mạnh lại cho anh rõ rằng việc anh nhìn nhận là không cần thiết hay không?

– Không, tôi nhận thức rõ điều đó và đang hành xử dựa trên nhận thức đó.

– Có phải anh đang nói rằng anh không chịu tuân thủ pháp luật hay không?

– Không. Tôi hiện đang tuân thủ pháp luật – đến tận từng chữ được ghi trong đó. Pháp luật của các ông buộc rằng cuộc sống của tôi, sự nghiệp của tôi, và tài sản của tôi có thể bị thanh lý mà không cần đến sự đồng ý của tôi. Được lắm, giờ các ông có thể thanh lý tôi, không cần đến sự hợp tác của tôi trong việc này. Tôi sẽ không đóng vai trò biện hộ cho bản thân tôi khi mà không có lời nào có thể biện hộ được cả, và tôi sẽ không vờ tạo ra ảo tưởng là mình đang đối mặt với một tòa án công minh.

– Nhưng, thưa anh Rearden, pháp luật định rõ rằng anh phải được trao cho cơ hội để tường trình sự vụ từ phía của anh và để bào chữa cho anh.

– Một tù nhân bị đem ra xử có thể biện hộ cho anh ta chỉ khi nào một nguyên tắc khách quan của công lý được các thẩm phán công nhận, một nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của anh ta, nguyên tắc mà họ không thể vi phạm, mà anh ta có thể dùng đến. Còn luật pháp mà các ông đang dựa vào để xét xử tôi cho thấy rằng trong đó không có nguyên tắc nào cả, rằng tôi không có quyền lợi gì, rằng các ông có thể làm bất cứ điều gì với tôi cũng được. Tốt thôi, các ông cứ làm đi.

– Anh Rearden, pháp luật mà anh đang tố cáo được đặt ra từ nguyên tắc cao cả nhất – nguyên tắc về điều tốt cho quần chúng.

– Quần chúng là ai? Quần chúng có gì gọi là điều tốt ở đây? Con người đã từng một thời tin rằng “điều tốt” là một khái niệm được định nghĩa bởi một quy tắc về các giá trị đạo đức và không một người nào có quyền tìm điều tốt cho mình qua việc xâm hại các quyền lợi của người khác. Nếu giờ đây mọi người tin rằng các đồng nghiệp của tôi có thể tuỳ tiện hy sinh tôi theo kiểu họ muốn để đối lấy những gì họ tin là điều tốt cho riêng họ, nếu họ tin rằng họ có thể tịch thu tài sản của tôi đơn thuần vì họ cần số tài sản đó – thì, mỗi thằng ăn cướp khác cũng nghĩ vậy thôi. Chỉ có một điều khác biệt là: thằng ăn cướp không đòi hỏi tôi phải thừa nhận, tán thành hành động của nó.

– Chúng tôi có nên hiểu là anh đặt lợi ích của riêng mình lên trên lợi ích của công chúng hay không?

– Tôi thấy rằng câu hỏi đó thật sự không nên có, ngoại trừ trong xã hội của những kẻ ăn thịt đồng loại.

– Cái gì? Ý của anh là gì?

– Tôi tin rằng xung đột lợi ích sẽ không xảy ra giữa những con người không đòi hỏi những gì họ không xứng đáng và đồng thời không có văn hóa dùng người khác tế thần.

– Chúng tôi có nên hiểu rằng là nếu công chúng nghĩ cần phải hạn chế lợi nhuận của anh, anh không nhìn nhận họ có quyền để làm?

– Tại sao? Tôi nhìn nhận chứ. Công chúng có thể hạn chế lợi nhuận của tôi bất cứ lúc nào họ muốn – bằng cách từ chối thu mua sản phẩm của tôi.

– Chúng tôi đang nói về… những cách khác.

– Tất cả những cách khác để hạn chế lợi nhuận là phương cách của những kẻ cướp – và tôi nhìn nhận những cách đó là cướp giật.

– Anh Rearden, đây không phải là cách để anh biện hộ cho mình.

– Tôi đã nói rằng tôi sẽ không biện hộ cho tôi.

– Nhưng chúng tôi chưa bao giờ nghe ai nói vậy cả. Anh có biết là tội danh anh bị cáo buộc nghiêm trọng đến mức nào không?

– Tôi không quan tâm đến điều đó.

– Anh có nhận thức được hậu quả có thể xảy ra đối với lựa chọn này của anh hay không?

– Hoàn toàn nhận rõ.

– Chúng tôi quan niệm rằng tòa án này sẽ không khoan dung chút nào trước các chứng cứ được trình bày bởi phía công tố viên. Hình phạt tòa án này có thẩm quyền để áp đặt đối với anh sẽ rất nghiêm trọng.

– Cứ tự nhiên.

– Anh nói gì?

– Các ông cứ việc kêu án.

– Chưa từng thấy ai như anh cả. Chẳng bình thường chút nào. Pháp luật đòi hỏi anh phải phúc trình lời bào chữa cho phần biện hộ của anh. Sự lựa chọn còn lại là tuyên bố nhận tội và trông cậy vào sự khoan hồng của pháp luật.

– Tôi sẽ không làm vậy.

– Nhưng anh phải chọn lựa.

– Các ông đang nói rằng các ông chờ đợi ở tôi một sự tình nguyện gì đó à?

– Đúng vậy.

– Tôi sẽ không tự nguyện làm gì cả.

– Nhưng pháp luật quy định rằng phải có phần biện hộ của bị cáo trình bày để ghi vào tài liệu của vụ án.

– Các ông đang nói rằng các ông cần sự giúp đỡ của tôi để hợp thức hóa thủ tục tố tụng này à?

– Uh… không… vâng… đó là việc cần thiết theo thủ tục.

– Tôi sẽ không giúp các ông.

– Thật là kỳ quặc và chẳng công bằng chút nào! Anh muốn làm ra vẻ như là một người thành đạt nổi bật như anh đã bị đẩy ra rìa không cần đến một…. (im bặt)

– Tôi muốn tính chất của phiên tòa này được tỏ rõ đúng với bản chất của nó. Nếu các ông cần đến sự giúp đỡ của tôi để che đậy nó, tôi sẽ không giúp các ông đâu.

– Nhưng chúng tôi cho anh cơ hội để bào chữa cho mình – và chính anh lại là người từ chối nó.

– Tôi sẽ không giúp các ông giả vờ như tôi có cơ hội. Tôi sẽ không giúp các ông duy trì cái vỏ bọc chính nghĩa khi các quyền lợi cơ bản đều không được nhìn nhận. Tôi sẽ không giúp các ông duy trì cái vỏ bọc hợp lý trong một cuộc tranh luận mà lý lẽ cuối cùng là một khẩu súng. Tôi sẽ không giúp các ông làm ra vẻ như các ông đang thực thi công lý.

– Nhưng pháp luật bắt buộc anh phải trình ra phần biện hộ.

– Đó là lổ hổng trong lý thuyết của các ông, các ngài thẩm phán ạ, và tôi sẽ không giúp gì cho các ông về điều này. Nếu các ông chọn đối xử với người khác bằng các phương thức ép buộc, các ông cứ tự nhiên. Nhưng rồi bằng nhiều cách khác nhau so với hiện nay, các ông sẽ khám phá ra rằng các ông sẽ cần đến sự hợp tác tự nguyện từ các nạn nhân của mình. Và các nạn nhân của các ông sẽ nhận ra chính ý chí của họ – thứ mà các ông không thể ép buộc – mới là điều khiến các ông có thể ngồi đây. Tôi chọn lựa để thích ứng và tôi sẽ vâng lời các ông trong phương thức các ông đòi hỏi. Các ông muốn tôi làm điều gì, tôi sẽ làm điều đó trước nòng súng. Nếu các ông xử tù tôi, các ông sẽ phải cho người có võ trang đến để khiêng tôi đi – tôi sẽ không tự ý bước đi. Nếu các ông phạt tiền tôi, các ông sẽ phải tịch thu tài sản của tôi để thanh lý tiền phạt – tôi sẽ không tự ý giao nộp. Nếu các ông tin rằng các ông có quyền bắt buộc tôi – hãy sử dụng vũ lực công khai. Tôi sẽ không giúp các ông ngụy trang bản chất và hành động của mình.

– Anh phát biểu như là anh đang tranh đấu cho một nguyên tắc nào đó, thưa anh Rearden. Nhưng điều anh đang tranh đấu cho thật sự chỉ là tài sản của anh, có phải không?

– Vâng, tất nhiên. Tôi đang đấu tranh để bảo vệ tài sản của mình. Các ông có biết điều đó tượng trưng cho nguyên tắc nào hay không?

– Anh biểu lộ bản thân như là một nhà vô địch của tự do, nhưng sự tự do mà anh đeo đuổi đó chỉ là tự do làm ra tiền mà thôi.

– Ồ, tất nhiên. Tôi chỉ muốn được tự do làm ra tiền mà thôi. Các ông có biết thứ tự do đó hàm chứa nghĩa gì hay không?

– Chắc chắn rồi, thưa anh Rearden, anh không muốn thái độ của mình bị người ta hiểu sai lệch. Anh không muốn hỗ trợ cho cái ấn tượng đang lan rộng rằng anh là một người hoàn toàn thiếu lương tâm xã hội, một người không quan tâm gì đến phúc lợi của đồng loại và làm việc không với mục đích gì ngoài lợi nhuận của bản thân.

– Tôi là việc không vì mục đích gì ngoài việc sinh lợi cho bản thân. Tôi xứng đáng với nguồn lợi đó. Không. Tôi không muốn thái độ của mình bị hiểu lầm. Tôi vui lòng nhìn nhận điều này để nó được ghi xuống. Tôi hoàn toàn đồng ý với tất cả những gì được viết về tôi trên báo chí – với các chi tiết, chứ không phải với những bình luận. Tôi làm việc chỉ vì lợi nhuận cho cá nhân tôi, lợi nhuận tôi có được từ việc buôn bán một sản phẩm người ta cần cho những người tự nguyện muốn mua nó và có khả năng mua nó. Tôi không làm ra sản phẩm vì lợi ích của họ khi đổi bằng sự thất thoát của tôi, và họ không mua nó vì lợi ích của tôi và bằng sự thất thoát của họ. Tôi đã không hy sinh lợi ích của tôi cho họ, và họ đã không hy sinh lợi ích của họ vì tôi; chúng tôi giao dịch ngang hàng bằng sự tình nguyện của đôi bên và lợi ích song phương – và tôi lấy làm hãnh diện với từng xu tôi làm ra bằng cách này. Tôi giàu có và tôi tự hào với từng đồng xu tôi sở hữu. Tôi làm ra tiền bằng chính công sức và nỗ lực của tôi, bằng tự do giao dịch và qua sự đồng ý tự nguyện của từng người tôi giao dịch với – sự đồng ý tự nguyện từ từng người thuê mướn tôi khi tôi bắt đầu vào nghề, sự đồng ý tự nguyện từ từng người hiện đang làm việc cho tôi, sự đồng ý tự nguyện từ từng người mua sản phẩm của tôi. Tôi nên công khai trả lời tất cả các câu hỏi các ông đặt ra cho tôi. Tôi có muốn trả lương cho nhân viên cao hơn sức lao động mà họ phục vụ cho tôi? Không. Tôi có muốn bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn giá khách hàng tôi muốn trả hay không? Không. Tôi có muốn bán với giá lỗ hoặc cho không sản phẩm của mình? Không. Nếu như vậy là xấu xa, các ông muốn làm gì tôi cũng được, dựa trên các tiêu chuẩn các ông đặt ra. Còn đây là những tiêu chuẩn của tôi. Tôi chính tay làm nên cuộc sống của mình, như những người thành thật khác cần phải làm. Tôi từ chối xem việc mình làm chủ cuộc sống của mình và việc mình cần phải làm việc để đài thọ cho đời sống là tội lỗi. Tôi từ chối xem việc mình có thể làm chủ cuộc sống và đã làm rất tốt là điều tội lỗi. Tôi từ chối xem việc tôi đã làm tốt hơn nhiều người khác là tội lỗi – về việc mà sản phẩm của tôi tốt hơn sản phẩm của nhiều người khác và đa số đã tự nguyện trả tiền cho tôi. Tôi từ chối xin lỗi về khả năng của mình – tôi không xin lỗi cho sự thành công của tôi – tôi từ chối xin lỗi vì số tiền tôi có được. Nếu đây là điều tồi tệ, xấu xa, hãy sinh lợi tối đa từ đó. Nếu đây là những gì công chúng xem như có hại đến lợi ích của họ, hãy để công chúng diệt trừ tôi. Đây là quy tắc của tôi – và tôi không chấp nhận điều gì khác hơn. Tôi có thể nói với mọi người rằng tôi đã đem phúc lợi đến cho đồng loại của tôi ở mức mà các người chỉ có thể mơ tưởng đạt được thôi – nhưng tôi sẽ không phát biểu như vậy, bởi vì tôi không dùng cái tốt cho người khác để thừa nhận quyền hiện hữu của tôi, cũng như tôi sẽ không xem cái tốt cho người khác để biện hộ cho việc họ chiếm lấy tài sản của tôi hay diệt trừ đường sống của tôi. Tôi sẽ không nói điều tốt cho người khác là mục đích của việc tôi làm – điều tốt cho tôi mới là mục đích, và tôi khinh rẻ người nào chối bỏ những gì tốt cho mình. Tôi có thể nói với các ông rằng các ông không phục vụ điều tốt cho công chúng – rằng không có gì tốt cho ai khi cái giá phải trả là bắt người khác phải hy sinh – rằng khi các ông xâm phạm quyền cơ bản của một người, các ông xâm phạm quyền cơ bản của tất cả; và một công chúng gồm những sinh vật không có quyền cơ bản nào cả là một đám đông sắp bị hủy diệt. Tôi có thể nói với các ông rằng các ông sẽ và chẳng thể đạt được gì ngoài một sự sụp đổ toàn diện – như số phận của mọi kẻ cướp giật khi họ không tìm ra nạn nhân nào nữa. Tôi có thể nói thẳng như vậy, nhưng tôi sẽ không nói. Tôi không thử thách chính sách của các ông, tôi thử thách cơ sở đạo đức của các ông. Nếu sự thật là con người có thể đạt được điều tốt đẹp bằng cách biến một số người thành những con vật hy sinh và tôi được yêu cầu phải tự tàn sát bản thân mình để những sinh vật nào đó có thể sống nhờ vào máu của tôi, nếu tôi được yêu cầu phải phục vụ cho lợi ích của xã hội, không phải và rất xa vời lợi ích của tôi – tôi sẽ không đồng ý. Tôi sẽ từ chối như đó là một điều xấu xa đáng khinh, tôi sẽ chống đối nó bằng tất cả sức lực tôi có, tôi sẽ đối chọi với cả nhân loại. Nếu tôi sống còn chỉ một phút trước khi bị giết chết, tôi vẫn sẽ đấu tranh với đầy đủ niềm tin và công lý của trận chiến này và công lý của quyền được sinh tồn của một sinh vật. Đừng có những suy nghĩ sai lầm về tôi. Nếu đồng nghiệp của tôi, những người đang gọi họ là quần chúng nhân dân, giờ có niềm tin như vậy, rằng họ cần đến những nạn nhân, thì tôi sẽ nói: Đi chết đi, những gì tốt cho công chúng. Tôi sẽ không dính dáng gì đến nó!”

– Anh Rearden, thật đáng tiếc khi anh hoàn toàn hiểu lầm ý của chúng tôi như vậy. Vấn đề là ở đó, giới doanh nhân từ chối tiếp cận với chúng tôi trong niềm tin và tình bạn. Họ có vẻ như xem chúng tôi là kẻ thù. Sao anh lại đề cập đến việc dùng người khác làm vật hy sinh? Điều gì đã đẩy anh vào một thái cực như vậy? Chúng tôi không có ý định chiếm đoạt tài sản của anh hoặc hủy diệt đời sống của anh. Chúng tôi không muốn phương hại đến lợi ích của anh. Chúng tôi hoàn toàn nhận thức được những thành tựu của anh. Mục đích của chúng tôi là quân bình các sức ép của xã hội và thực thi công lý cho tất cả. Mục đích của buổi sơ thẩm này, không như một phiên tòa mà như một buổi làm việc thân mật nhằm hướng đến một sự cảm thông và hợp tác.

– Tôi không hợp tác trước mũi súng chĩa vào mình.

– Sao anh lại nói đến súng ống? Chuyện này không nghiêm trọng đến mức phải đề cập đến những thứ như vậy. Chúng tôi hoàn toàn nhận thức được lỗi lầm của sự việc này chủ yếu là ở ông Kenneth Danagger, kẻ đã xúi giục dẫn đến sự vi phạm pháp luật này, kẻ đã tạo áp lực lên anh và đã gián tiếp nhận tội khi đột nhiên mất tích để không phải hiện diện trước tòa án.

– Không. Chúng tôi giao dịch với nhau một cách bình đẳng, trong sự đồng thuận, và tự nguyện.

– Anh Rearden, tuy anh và chúng tôi không có cùng một vài ý tưởng với nhau nhưng cuối cùng thì cả đôi bên chúng ta đều phục vụ với cùng một động cơ: những gì tốt đẹp cho mọi người. Chúng tôi nhìn ra rằng anh đã bị thúc đẩy bỏ qua các vấn đề chuyên môn pháp lý vì tình hình nghiêm trọng của các mỏ than và tầm quan trọng của năng lượng đối với phúc lợi của công chúng.

– Không, tôi đã bị thúc đẩy bởi lợi tức và lợi ích của bản thân tôi. Mức ảnh hưởng đối với các mỏ than và phúc lợi của công chúng là chuyện ước tính của các ông. Đó không phải là động cơ của tôi.

– Anh Rearden, chúng tôi chắc rằng anh, và cả công chúng, không thật sự tin rằng chúng tôi muốn đối xử với anh như một vật hy sinh. Nếu có ai đã và đang ngộ nhận như vậy, chúng tôi rất muốn chứng minh rằng sự thật không phải như vậy.

 

Nguyên tác: Ayn Rand, Atlas Shrugged
Bản in kỷ niệm 50 của tác phẩm (trang 441-447)
Dịch: Hoàng Triết

Hãy tập trung giáo dục nhân cách cho trẻ em

 

 

  • “Hiền tài là nguyên khí Quốc gia.”
  • “Tiên học lễ, hậu học văn.”

Đó là những khẩu hiệu rất nổi tiếng, mà hầu như mỗi ai trong chúng ta đều thuộc nằm lòng. Khẩu hiệu được treo lên ở những vị trí trang trọng nhất, dễ thấy nhất để nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của hiền lễ. Rõ ràng ông cha ta từ xưa đến nay vẫn trọng chữ lễ nghĩa trước, lấy nhân cách con người làm gốc. Có nhân cách tốt rồi sẽ có thể làm những việc khác. Một nhân cách tốt sẽ hướng con người làm những việc có ích cho xã hội, nếu có tài còn có thể phát triển xã hội lên một tầm cao mới. Còn nếu chỉ có cốt cách, không đủ năng lực thì chí ít cũng không gây hại đến người khác, phá hoại đến sự phát triển chung của loài người.

Nhìn vào thực tế xã hội bây giờ, hôm nay báo đăng chỗ này con cái mắng mỏ, đánh đập cha mẹ, con cái đẩy cha mẹ ra đường, chỗ kia trò đánh thầy, sỉ nhục lăng mạ thầy, hay chỗ khác, học sinh làm đại ca trong trường, lột quần áo, lên mặt dạy đời bạn bè ngay trong lớp học rồi quay clip tung lên mạng. Hay khi ra đường, trên người không dám đeo một đồ trang sức, tay lúc nào cũng vịn vào túi giữ chặt cái ví. Không phải tất cả con cái, học sinh đều làm như vậy, không phải mọi nơi đều như vậy nhưng nhìn chung và dự đoán cho một xã hội tương lai với nguồn nhân lực bắt nguồn từ những thế hệ như vậy, liệu có dám chắc có một xã hội bền vững, vươn tầm sánh vai với các cường quốc khác như lời Bác Hồ đã dặn dò. Những sự việc đáng tiếc như vậy bắt nguồn từ đâu, không ai sinh ra tự như vậy cả, cũng chẳng có sách vở nào dạy như vậy cả, có chăng đó chính là cái lỗ hổng của giáo dục hiện tại.

Nhìn vào các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, hay các nước châu Âu,… cũng có những tình trạng giống như Việt Nam, nhưng đó chỉ là thiểu phần vì không thể có một kế sách nào có thể hoàn hảo cho tất cả được. Tập trung giáo dục nhân cách cho trẻ em luôn là một trong những công việc đầu tiên mà bất kì một quốc gia trên thế giới này đều thực hiện, nhưng mỗi nước có cách thực hiện khác nhau, mỗi nước có mức độ quan tâm khác nhau. Chỉ là nước này theo kiểu này, nước khác theo kiểu khác tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi vùng, mỗi quốc gia.

Mỗi một đứa trẻ sau khi được sinh ra, hầu hết được nuôi dưỡng trong tình thương yêu của cha mẹ, ông bà, thầy cô giáo. Mỗi đứa trẻ đều nhận được sự giáo dục nhân cách để trở thành một con người có ích cho xã hội. Đứa trẻ nào hầu hết cũng được dạy phải biết yêu thương, chia sẻ, trung thực, và những nhân cách cần có trong cuộc sống. Ví dụ như trẻ em ở Mỹ được dạy biết giữ uy tín, kính trọng, lễ phép, tinh thần trách nhiệm, ngay thẳng, lương thiện, biết quan tâm và có bổn phận của một công dân xuyên suốt những năm đi nhà trẻ và 12 năm đi học. Trẻ em ở Nhật đâu được học chữ viết như các nước khác, mỗi ngày đến trường cô giáo đều dạy cho trẻ biết mỉm cười, biết nói câu cảm ơn, xin lỗi, nhường nhịn người khác, tôn trọng người khác, hay là tinh thần tự lập, tập cho trẻ thói quen sinh hoạt hằng ngày, và muôn vàn đức tính cần có trong cuộc sống. Rõ ràng với việc quan trọng hoá giáo dục nhân cách cho trẻ đã và đang phát huy tác dụng tích cực. Những nước phát triển đều là những nước có nền giáo dục rất tốt. Giáo dục ở đây không có nghĩa là dạy chữ tốt, mà còn dạy nghĩa cũng tốt.

Quay lại nước Việt Nam ta, nhìn vào các kì họp Quốc hội, Bộ giáo dục cứ loay hoay mãi các phương án cải cách giáo dục, nào là đổi mới chương trình sách giáo khoa 30,000 tỷ, nên thi đại học hay tốt nghiệp, để rồi cứ chạy theo cái vòng luẩn quẩn đó không thoát ra được. Sách giáo khoa có hay, có hội tụ những kiến thức trong cuộc sống, thi cái này thi cái nọ để phân loại học sinh giỏi yếu nhưng con người thiếu mất chữ nhân thì có để làm gì. Làm sao sách giáo khoa có thể mang lại tất cả kiến thức cuộc sống xung quanh được, vũ trụ bao la sức người có hạn. Làm sao cứ mở kì thi để phân loại thí sinh ra làm gì. Thử hỏi những đứa giỏi thì được giáo dục tiếp, còn những đứa yếu thì không được giáo dục để rồi xã hội dư ra một lượng nhân lực yếu kém. Cớ sao không tập trung giáo dục đồng đều, giáo dục nhân cách đi đã. Có nhân cách rồi, con người tự biết tìm tòi học hỏi vươn lên. Kiến thức xung quanh rất nhiều, từ thực tế có, từ sách báo internet , truyền hình cũng có. Có nhận thức, họ sẽ biết cách thu nhặt kiến thức. Ai cũng có phẩm chất tốt, ai cũng có năng lực tốt thì có phải tạo ra một xã hội mạnh hay không.

Một ví dụ khác như đất nước Butan, đất nước người ta không giàu nhưng đang là mục tiêu hướng đến của nhiều nước khác. Tại sao không giàu, được xếp vào loại nước đang phát triển nhưng đó đang là niềm mơ ước của nhiều người? Đơn giản chỉ là một đất nước lấy nhân cách con người làm gốc, giữ lại những bản sắc thiên nhiên, biết tôn trọng thiên nhiên. Họ không phá hoại môi trường, con người đối xử với nhau hoà thuận, không chém giết, không dùng thủ đoạn tước bỏ quyền sống của con người. Rõ ràng, nước phát triển hay không phát triển thì nhân cách con người quả là quá quan trọng. Chỉ cần các bộ ban ngành nhà nước Việt Nam nhận ra điều này thì cũng chẳng cần đến 30,000 tỷ, hay các kì thi gì đó, mà hãy tập trung tạo ra một thế hệ trẻ lễ nghĩa, chắc chắc sẽ tạo ra một xã hội ổn định bền vững.

 

Tran Duy Khanh

Tôi đã gặp thần chết (nghĩa đen) và sống sót trở về sau 5 hits DMT (Ayahuasca)

Tôi được sinh ra vào thời điểm mà cả bố mẹ tôi đều ngồi tù. Họ không thể nuôi tôi. Từ nhỏ tôi sống cùng dì và ông bà từ khi mới vài tháng tuổi cho đến giờ. Bố mẹ cũng không có liên hệ gì nhiều với tôi cả, rất hiếm khi chúng tôi gặp nhau. Tôi là đứa dè dặt và không mấy khi thích nói chuyện hay hòa đồng với mọi người. Vì lý do này, năm lớp sáu tôi đã suýt nữa bị dì đem đi tới bác sĩ tâm thần. Nhưng tôi đã cố gắng giả vờ nói nhiều để đánh lừa bà ấy, thế là khỏi phải đi gặp bác sĩ. Tôi tin là tôi không hề bị bệnh gì cả. Tôi tin rằng tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời tôi suốt những năm sau đó là một sự sắp đặt để tôi đến với những trải nghiệm mà tôi sắp kể ra đây. Những trải nghiệm về sự tỉnh giác đã làm tôi thay đổi đi cách nghĩ, cách sống của mình. Một cuộc hoán chuyển mạnh mẽ sang một con người hoàn toàn mới.

Trước khi uống ayahuasca, một loại chất thức thần, tôi đã trip 2 lần với nấm. Lần đầu tiên mang tôi đến với những hồi ức của tuổi nhỏ với đầy màu sắc và kỷ niệm êm đềm. Tôi biết điều mà nấm muốn nói với tôi lúc đó. Tôi đã từng là con người thật khi tôi ở vào tuổi đó. Tất cả là thật, và hạnh phúc là có thật. Nhưng trải qua nhiều biến cố, nhiều ảnh hưởng của xã hội, tôi không còn là mình nữa. Bạn có thấy một đứa trẻ sáng tạo chưa? Khi chúng vẽ, chúng tập trung vào vẽ. Vẽ là hạnh phúc. Khi chúng hát, chúng tập trung vào hát. Hát là hạnh phúc có thật. Thế nhưng khi lớn lên, bạn lại phải “đạt được” thứ gì đó mới cảm nhận đc hạnh phúc. Bạn không hạnh phúc trong tâm, bạn chỉ tìm những thứ bề ngoài.

Lần trip thứ 2 là trải nghiệm về tự do và đau khổ. Có lẽ trước lúc trip tôi đã nghe bài Hồ Thiên Nga quá nhiều lần nên trong khi trip, dù không mở nhạc nhưng bài hát đó như vang lên trong tôi. Tôi nghe hàng triệu người hát khúc ca đó. Họ muốn vươn lên từ nơi tăm tối. Tôi nghĩ về loài người. Lẽ ra chúng ta phải khác đi. Lẽ ra cuộc sống của chúng ta phải khác. Chúng ta phải tự do, phải yêu thương. Nhưng hàng nghìn năm qua, cho đến giờ, vẫn chỉ có chủ nô và nô lệ. Tôi hòa vào khúc ca với những nô lệ đó, dưới ánh trăng sáng. Tôi cảm thấy thấu hiểu được nỗi đau vọng lại từ nhiều thế kỷ.

Tuy nhiên, 2 lần trip trước chỉ là một trải nghiệm nhẹ nhàng thì lần thứ 3, với một liều ayahuasca đủ mạnh, tôi đã có một cuộc hành trình đáng giá. Một thử thách thật sự dành cho lòng can đảm của bản thân, và tôi đã sống sót. Đó thật sự không phải là một chuyến đi ngắn ngủi hay sự táo bạo muốn thử cảm giác lạ. Đó không phải là trò đùa của định mệnh đối với tôi. Nó đã đến với tôi như một duyên phận và muốn tôi trải qua để trưởng thành.

Tôi mua ayahuasca qua sự giới thiệu của 1 người anh trên FB. Lần thử đầu tiên không thành công, không có gì xảy ra có lẽ do cách nấu chưa phù hợp. Người bạn ấy gửi lại cho tôi liều thứ 2 mạnh hơn, tương đương 5 hits DMT nếu chiết xuất ra. Tôi nghiền chúng thành bột và nấu riêng rễ với hạt.

Tôi uống nó vào khoảng hơn 6 giờ chiều. Trước khi uống, tôi đeo 1 viên đá thạch anh lên cổ vì nghe người ta đồn rằng thạch anh giúp kết nối linh hồn với vũ trụ. Nếu như nấm cần 30 phút mới có tác dụng thì với ayahuasca, chỉ cần chưa tới 5 phút. Nó rất nhanh và cực mạnh. Đó là thứ thuốc rất khó uống, cực kỳ đắng, chát, chua (do có giấm và vitamine C), có mùi rất khó chịu, khi nuốt vào tôi đã nôn ra mấy lần. Lúc đó tôi đã uống hơn 2/3 liều thuốc, còn 1 ít trong ly với bột hạt nhưng tôi không thể uống tiếp được nữa vì cổ họng như bị thiêu cháy và xay xẩm mặt mày. Tôi cảm nhận được nó đang tới. Tất cả bắt đầu ảo tới mức khó tin. Tôi nằm xuống, và vài phút sau nó đến với tôi. Rất mạnh.

Tôi nhìn thấy toàn bộ đồ vật trong phòng biến hình thành một bộ phim hoạt hình 3D kinh dị. Tất cả đều thay đổi hình dạng tới mức khó tin. 3 cái túi nilon đựng đồ linh tinh tôi treo trên tường biến thành 3 gương mặt chạm khắc bằng đá, giống như tượng các vị thần được đặt trong 1 đền thờ. Tất cả mọi thứ đều biến dạng, tôi có cảm giác mình lạc vào một xứ sở kỳ bí như trong phim Alice in Wonderland nhưng thậm chí còn lạ lùng hơn thế. Âm thanh bắt đầu xuất hiện, tiếng rung của các dòng chảy liên tiếp. Đó không phải là tiếng hát như lần trước, đó là sự rung động mạnh mẽ của vũ trụ. Tôi trôi bềnh bồng giữa những dòng chảy đó, chúng uốn lượn, thâm nhập sâu vào bên trong tôi và điều khiển tôi. Những dòng chảy hiện lên khắp căn phòng hệt như những bộ mã, chúng có điểm giao thoa là tôi, hệt như có rất nhiều vòi bạch tuột quấn lấy tôi. Tôi có thế cảm nhận được cái năng lượng mạnh mẽ đó. Nó không còn là 1 liều thuốc đơn thuần nữa. Đây chính xác là 1 thứ nghi lễ đặc biệt. Nghi lễ này được dẫn dắt bởi ayahuasca, đến với một chiều không gian khác.

Tôi không còn điều khiển được chân tay và thân người của mình nữa bởi vì tôi đã trở thành một dòng chảy. Có lúc tôi ngồi và múa, có lúc nằm uốn éo tan biến, ẩn hiện, hòa nhập, co rúm. Tôi chỉ còn là 1 luồng khí nhẹ như khói và có thể trở thành bất kỳ hình dạng nào. Tôi như 1 dòng nước chảy xuyên qua vách đá, tuôn ào ào rồi bốc hơi lên không trung. Đó là 1 điệu múa kỳ lạ của 1 nghi lễ. Âm thanh của tiếng rung càng lúc càng dày đặc, tôi cảm thấy ù tai. Dòng chảy mỗi lúc 1 nhanh hơn. Tôi lăn lộn và uốn éo liên tục bên trong nó.

Bỗng nhiên cái lạnh thấu xương ập đến. Rất lạnh. Lạnh tới mức tôi co rúm người lại, tôi cảm thấy lồng ngực bị bóp chặt không thể thở được. Cái lạnh tê tái xuyên thấu từng tế bào. Tôi vơ tay túm lấy cái mền nhưng khi lấy được và đắp thì nó liền bị lôi ra. Cái mền bị lôi ra rất mạnh khiến tôi không thể nắm được nó. Tôi hiểu điều này. Những dòng chảy đó không muốn tôi ấm. Nghi lễ này cần phải trần trụi. Tôi co người lại, nắm chặt tay chân vì quá lạnh. Tim đập mạnh tới mức lồng ngực như muốn vỡ ra. Tôi biết thần chết đang đến. Dòng chảy trong đầu hiện lên hàng tỷ gương mặt giống nhau. Tôi biết đó là thần chết. Cái lạnh đó là cái lạnh của cái chết đang tới gần. Tôi như ngừng thở, cổ họng bị nén chặt không thể kêu cứu. Tôi thực sự sợ hãi.

Tôi biết tôi không thể đùa giỡn với thứ này được. Nhưng tôi thực sự không ngờ nó mạnh đến thế. Tôi sợ hãi và muốn thoát ra. Tôi cố gắng ngồi dậy nhiều lần để thoát khỏi dòng chảy và gương mặt ghê rợn của thần chết đang nhìn tôi. Hàng tỷ gương mặt giống hệt nhau, biến đổi liên tục nhưng đều có hình dạng chung giống như 1 con rắn có cặp mắt dài với tròng mắt màu vàng cam. Nhưng mỗi lần tôi ngồi dậy, không gian xung quanh nuốt chửng lấy tôi và tôi bị kéo xuống. Tôi biết, tôi là 1 vật tế đang nằm giữa các đấng linh thiêng trong 1 nghi lễ cổ xưa.

Con rắn tỷ đầu nhìn tôi le lưỡi. Nó biến hình thành những con quái thú khác. Tất cả như 1 bộ phim kinh dị nhiều tập. Nỗi sợ hãi dâng lên tột đỉnh. Tôi nghe thấy nhiều tiếng thét kinh hoàng muốn thoát khỏi ngục tù. Bóng đêm ập đến. Sau đó là tiếng thét của chính tôi, trong đầu tôi. Tôi muốn ra khỏi đây, nhưng đã quá muộn. Tôi quá sợ nhưng đã quá muộn.

Trong suốt quá trình này tôi không mất ý thức. Tôi biết tôi đang cào cấu da thịt, tôi biết tôi đang bứt tóc và lăn lộn, tôi biết tôi sợ hãi. Nhưng tôi tuyệt đối không điều khiển được tay chân và thân người của mình. Chúng không còn là của tôi nữa. Tôi cào rách da mình mà không hề thấy đau đớn. Tôi nghĩ đó là một cách trị liệu nào đó mà “họ” muốn tôi trải qua. Tiếp đó là những hình ảnh ghê gớm hơn xuất hiện thách thức tôi. Tôi sợ tới mức muốn khóc thét. Nhưng tôi không thể la được và không thể thoát khỏi nó. Chứng nghiệm này bắt buộc tôi phải giáp mặt trực diện với nó.

Đó là cái chết. Đó là nỗi sợ. Nó là cái ác, diệt vong, hành hạ. Tôi bị đe dọa trước cái ác lạnh lùng, sự biến dị của thù hận trong những hình hài kỳ ảo cùng với nỗi sợ hãi khủng khiếp. Nhưng tôi biết tôi không thể thoát ra. Tôi lấy hết sức tập trung nhìn vào nó. Mỗi lần tôi nhìn nó và muốn đấu với nó, nó lại biến thành 1 thứ ghê rợn hơn. Mong muốn chiến thắng càng mạnh, những hình ảnh càng đáng sợ. Tôi hiểu điều này. Nghĩa là khi cái tâm càng sáng, cái ác sẽ càng cố gắng tiêu diệt tôi. Tôi tập trung đầu óc cao độ để nhìn chúng. Hết sức tập trung. Có điều gì đó mách bảo với tôi rằng nếu tôi buông tay khỏi sự sống, chúng sẽ nhập vào tôi, sẽ nuốt chửng tôi. Vì vậy tôi cố hết sức tập trung nhìn chúng. Trong cái khoảnh khắc đó, 1 điều kỳ lạ xảy ra. Tôi cảm thấy tôi nhẹ đi, tình yêu dâng tràn. Tôi cảm thấy tình yêu bao bọc lấy cơ thể. Phải rồi, tôi yêu chính mình. Tôi là một sinh linh với một sự sống. Tôi là một tạo vật của tạo hóa trong cuộc đời này. Tình yêu lan tỏa. Tôi hiểu rồi, hiểu ra rồi. Tôi phải tập trung vào sự sống. Khi đó bọn tay sai của thần chết không thể giết được tôi. Tôi dùng hết sức lực tập trung vào giây phút đó, tôi biết rồi, nó hiển hiện để tôi vượt qua. Nó chính là giông bão do thần chết sai khiến đến đây với tôi. Chúng là thứ tôi phải đi qua. Tôi phải vượt qua chúng. Bằng cách tập trung cao độ vào nguồn sống, sự sống của chính tôi.

Nhưng mọi chuyện chưa kết thúc và màn tra tấn bây giờ mới thực sự bắt đầu. Trước mặt tôi là 1 hố sâu, tôi đang ở trong rừng rậm. Có 5 người đàn ông chĩa súng vào đầu, xung quanh là bóng đêm đặc kín. 5 kẻ đó cười lên, bài ca rùng rợn của chúng bắt đầu. Tôi biết mình sắp chết. Cái chết y hệt như khi cộng sản giết người, chỉ khác 1 chỗ là cộng sản dùng rựa chặt đầu, còn tôi bị bắn. Hình ảnh này đột ngột chấm dứt. Chân tay tôi bỗng nhiên đông cứng, thân người thu về một khối tròn y hệt như một tù nhân bị trói. Các móng tay liên tục cào rách da. Tôi biết tôi đang bị hành hạ nhưng tôi không thể dừng lại. Tôi ý thức được toàn bộ quá trình này nhưng tôi không thể làm gì được. Bàn tay sờ lên mặt tôi và bóp chặt 2 má. Đó là bàn tay của tôi nhưng không phải do tôi điều khiển. Tiếng cười điên loạn ré lên, tôi ở giữa chúng đầy bất lực. Sự hành hạ kéo dài rất lâu. Thân người tôi bắt đầu đau đớn như bị xé toạc ra. Tôi cảm thấy sự đau khổ của hàng triệu linh hồn ở nhiều kiếp sống đang đặt lên vai mình. Tôi cảm thấy kiệt sức, tôi muốn kêu cứu. Tôi cần ai đó cứu tôi ra khỏi sự hành hạ này nhưng tôi không thể kêu la. Thật khủng khiếp.

Có một điều kỳ lạ là, tôi chưa từng bị hành hạ như thế bao giờ trong cuộc đời thực nhưng tôi lại cảm thấy tất cả những chuyện này rất quen thuộc như thể nó đã từng xảy ra ở đâu đó. Tôi cảm thấy nó rất thực. Chắc chắn đã từng có những chuyện như thế nhưng tôi không sao nhớ nổi. Chúng thật sự rất quen thuộc.
Một lúc sau, bàn tay tôi bớt cào da và tóc. Tôi cảm thấy nơi tôi nằm bắt đầu có hình dạng trở lại của 1 căn phòng. Tôi cố gắng ngồi dậy nhưng không được. Tôi biết mình đang ở giai đoạn cuối. Tôi bị thúc đẩy ngồi dậy bật đèn lên. Tôi nhìn vào ánh sáng đó. Tôi đã được giải thoát trong ánh sáng. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn và yên bình hơn. Ánh sáng đó thật đẹp.

Bụng của tôi bỗng nhiên bị nén. Tôi nôn ọe nhưng không có gì cả. Nước tiểu đột ngột tuôn ra và tôi không thể kiềm chế được, xối xả. Nhưng nó không có mùi khai bình thường, nó có mùi hạt nho pha lẫn. Tay “của tôi” túm lấy tóc tôi và kéo nó lên giữa đỉnh đầu, kéo liên tục như 1 búi tóc cao lên ở giữa đỉnh đầu. Tôi bắt đầu ý thức được căn phòng xung quanh nhưng tôi vẫn chưa tỉnh. Tôi muốn nói hết những điều này với ai đó và tôi lấy hết sức ngồi dậy, mở latop lên. Màn hình laptop đẹp lung linh màu sắc. Tôi chỉ có thể nói với người hiểu nó. Thế là tôi mở FB và nhắn cho anh Huy trong trạng thái chưa tỉnh hẳn. Y như 1 kẻ đang say rượu lắc lư lắc lư. Tôi gõ bàn phím rất chậm, và vừa gõ vừa lắc lư người. Lúc đó là 1h8 phút sáng. Tôi vẫn chưa thực sự điều khiển đc bản thân nhưng tôi cố hết sức nhìn vào màn hình laptop, thỉnh thoảng nó nhòe đi. Tôi nhắn cho anh Huy trong trạng thái kích động dữ dội. Phải có ai đó biết những chuyện tôi trải qua đêm nay. Cảm giác đó dần tan. Nó chỉ tan hẳn vào khoảng gần 4h30 phút sáng. Suốt đêm tôi không ngủ được. Từ khoảng 4h30 phút trở đi, tôi nằm dài trong phòng, bất động và kinh hãi.

Cả ngày hôm đó mặc dù hơi lả nhưng tôi cảm thấy không mệt mỏi. Tối về cũng không mệt. Tuy nhiên lạ lùng là cho đến giờ, mọi thứ đồ vật rõ nét đến kinh ngạc, màu của chúng đậm lên và rất đẹp, mặc dù trip đã qua cả ngày trời rồi. Cả ngày đó tôi không cảm thấy thèm ăn gì. Tôi có thể nhịn đói nguyên ngày cũng đc nhưng sợ bị kiệt sức nên tôi ăn cơm với cà rốt và cải bó xôi. Mùi thịt trong nhà ăn chỗ làm việc làm cho tôi cảm thấy kinh tởm.

Tối qua cũng lạ. Mới 10h tối mà tôi buồn ngủ không kiềm chế được. Tôi nằm xuống ngủ ngay nhưng không hề mệt mỏi. Tới khoảng 1h30 phút sáng nay thì tôi đột ngột tỉnh dậy do thấy lạnh quá không ngủ được nữa. Khi tỉnh dậy, mọi thứ mờ ảo như giấc mơ, một màn sương nhòe bao phủ căn phòng. Tôi cảm nhận được màu sắc của từng đồ vật như một thực thể sống động, như thể chúng có linh hồn, tôi nghe được và phân biệt được từng thứ âm thanh đang diễn ra vào buổi sáng. Và tôi rất tỉnh táo ngồi viết tường thuật này.

Tôi biết bạn không hiểu những gì tôi trải qua có ý nghĩa gì. Nhưng tôi hiểu nó rõ ràng. Tôi sẽ cố gắng chuyển tải hiểu biết này cho bạn.

Toàn bộ cuộc sống là một dòng chảy liên tục không dứt. Nó giống như một thác nước tuôn chảy. Bất kỳ viên đá chắn ngang nào cũng sẽ làm cho dòng chảy đó chậm đi hoặc ngắt quãng nó. Nhiệm vụ của bạn trong đời sống là hãy gỡ bỏ tất cả những phiền muộn, những thù hận, tham lam, sợ hãi đã chắn ngang cái dòng chảy liên tục của đời sống. Hãy để dòng chảy đó lưu chuyển bên trong và bên ngoài bạn. Nếu một phút giây nào đó bạn thù hận, một phút giây nào đó bạn muốn sở hữu ai đó mà bạn nghĩ là bạn yêu, nghĩa là bạn đang bị dính mắc. Cục đá đó đang chắn ngang dòng chảy và bạn không Sống thật sự. Bạn đang bị mê hoặc bởi một thứ ảo tưởng huyễn hoặc tai hại. Hãy buông bỏ ảo tưởng đó, hãy xả ly con người của bạn khỏi cái ảo ảnh muốn chiếm hữu, muốn cầm nắm, muốn kiểm soát. Hãy để dòng chảy trôi đi trong yên bình và tĩnh lặng. Dòng chảy nào rồi cũng hoán chuyển và điều hòa. Cái nhân bạn đã gieo gặt đó rồi sẽ chảy về nơi bắt đầu. Hãy vứt bỏ những tham sân si trong đời để tuyệt đối là linh hồn trong trẻo, một tế bào sống của dòng thác cuộn chảy trong yên lặng.

Muốn hòa điệu cùng cái điệu nhảy của dòng chảy đó, bạn hãy yêu. Tình yêu là chân lý cao nhất. Bạn hãy yêu tất cả mọi thứ trong cuộc sống bạn đang có. Bất cứ một giây phút nào bạn buông rơi cái nhịp điệu không ngừng của dòng chảy chính là bạn đang chối từ bản thân, chính là không còn yêu chính bản thân mình nữa. Đau khổ từ đó mà thành. Đừng bao giờ buông tay khỏi sự sống. Đừng bao giờ nghe theo cái tiếng nói thì thầm trong đầu bạn, bảo bạn hãy bỏ rơi chính mình để đi theo một điều gì đó. Đó là tiếng nói của cái phần ma quỷ trong chính con người bạn. Nó là cái góc tối song hành với ánh sáng của tâm. Hãy yêu, hãy thắp lên ánh sáng trong tâm thức để soi rọi rõ ràng sự hiện hữu của ma quỷ trong con người mình. Ma quỷ không thể tồn tại trong ánh sáng. Trong ánh sáng chỉ có an bình tĩnh lặng.

Nhưng bạn có biết yêu là thế nào không? Yêu không phải là bạn muốn cưới người đó. Yêu không phải là bạn cần có thứ gì đó bên cạnh mình. Đó là dính mắc. Yêu nghĩa là bạn chỉ yêu thôi. Yêu chỉ là là bạn thấy yêu, thấy rung động trong tim. không phải sự chiếm hữu hay cầm nắm hay kiểm soát. Hãy yêu như thế, cái tình yêu ngây thơ, không hề có chút toan tính nào. không có logic nào cả. Khi tình yêu nó xảy sinh, nó là ánh sáng, bạn hãy đi theo ánh sáng đó. Nó sẽ dẫn bạn luân chuyển theo dòng chảy của sự sống trong hạnh phúc tột cùng. Linh hồn bạn đã được hòa giải. Bạn trở thành một tế bào sống trong cơ thể của tạo hóa.

Tôi biết các bạn, ai đã từng trải nghiệm thức thần đều biết có 2 loại trip: bad trip và good trip. Có lẽ ai cũng mong mình sẽ có good trip. Nhưng cái suy nghĩ đó tôi không nghĩ là đúng. Theo những gì tôi trải qua, bad trip thậm chí còn có tính trị liệu cao hơn good trip nhiều lần. Nếu như good trip là một làn sóng ôm ấp vỗ về đưa bạn về tình yêu chân thật với vũ trụ. Thì bad trip lại là 1 ông thầy giáo cộc cằn khó tính. Ông ta không dạy bạn bất cứ thứ lý thuyết nào cả. Không có lý thuyết. Ông ta quẳng cho bạn một bài kiểm tra khó khủng khiếp, bắt bạn phải làm nó dù bạn muốn hay không. Nếu bạn vượt qua bài kiểm tra đó, bạn sống. Đó là bài kiểm tra thách thức toàn diện con người bạn: nỗi sợ hãi, lòng thù hận, sự tham lam, lòng can đảm, tình yêu, và trên hết: mạng sống của bạn. Bạn phải lột trần toàn bộ những thứ đó ra để làm giấy và bút kiểm tra. Bài kiểm tra đó có thể làm cho bạn đau đớn và nát tan nhưng đằng sau cái đau đớn đó là ánh sáng của THẤU NGHIỆM. Bởi vì quá trình đớn đau đó là tri thức, là tuệ giác riêng biệt chỉ có bạn mới có. Trong sự thấu nghiệm ấy, bạn là một nhân chứng và cũng là một chiến binh. Bạn chạm trán với ma quỷ bên trong con người. Bạn nhìn chúng biến đổi hình dạng để nhát bạn. Bạn đã tách mình và đứng trên một vị trí để quán xét được toàn bộ thân tâm trước cơn mộng mị đó. Bạn nhìn thấy dòng chảy của tâm và từ đó phát sinh tình yêu Sự Sống. Bạn yêu quý chính bản thân mình và không để nó thỏa hiệp với ma quỷ, bạn từ chối bắt tay với ma quỷ của nỗi sợ hãi, lòng tham và thù hận hay tham ái. Vì vậy, phải coi bad trip như một thứ bạn cần phải trải nghiệm, phải đi qua, bởi vì cơ duyên này muốn bạn học được điều gì đó. Nó đến với bạn có lý do của riêng nó.

Cách nhìn nhận này có thể đưa bạn đến một bình diện khác của đời sống. Nó cho tôi biết rằng bất kỳ thứ gì cũng là một quá trình. Không có lối đi tắt nào hết. Không có cái gì gọi là nhanh chóng trên đời này. Nếu bạn muốn có trí tuệ thật, bạn phải trải nghiệm thật. Và cái can đảm duy nhất bạn có thể có để trải nghiệm thật là tình yêu thương, là nguồn gốc thật sự của cái mà người ta gọi là “tập trung” hay “sự tận tâm”.

Thế nhưng đời sống này càng ngày càng “nhanh chóng”. Người ta thích những thứ nhanh chóng với ảo tưởng rằng sẽ biết một “bí mật” nào đó giúp họ có được tức khắc thứ họ muốn mà không phải đi qua đớn đau, sợ hãi, cô độc. Khi mọi sự yên ổn, họ muốn tất cả mọi thứ như thế mãi. Sự bình yên giả dối mà tâm trí đã tạo ra làm cho họ không dám có bất cứ hành động gì. Họ sống trong một ảo ảnh của tâm trí về sự bình yên. Khi họ gặp rắc rối, họ lại tiếp tục quay về với những nghiện ngập của đời sống vật chất hoặc yếu đuối đắm chìm trong đau khổ. Đó chính xác là căn bệnh trầm kha của xã hội Việt Nam. Bị nhốt tù trong chính tâm trí và hoang tưởng bởi sự thêu dệt hoa lụa của đời sống vật chất bệnh hoạn. Và để mọi sự khác đi, chỉ có thể là sự thức tỉnh thật sự.

Bằng cách nào đó phải bứng gốc khỏi ma trận thì may ra có cơ hội để làm người. Và để thực hiện sự thức tỉnh đó, chúng ta cần yêu thương và cần thời gian. Chúng ta đang cố gắng thức tỉnh những người vô minh bị đánh cắp cái trí, họ không hiểu việc mà họ làm. Chúng ta cần yêu thương để có thể có kiên nhẫn trước sự mê muội đó. Chúng ta cần thời gian để sự yêu thương từ trong ta ngấm dần vào họ. Đó phải là một cơn mưa dầm thấm vào đất thật lâu. Nó là một quá trình dài, không có cách nào khác. Bằng yêu thương, chúng ta tuyệt diệt được mầm mống ma quỷ và làm chuyển đổi linh hồn của họ. Chúng ta có bị nguy hiểm không? Chắc chắn có. Đó cũng như một bad trip mà chúng ta bắt buộc phải chạm mặt. Nếu đi qua được nó, chúng ta Sống.

Trong chuyến trip của tôi, tôi cảm nhận sự cô độc tột cùng trong màn đêm đen đặc quánh khi tôi bị 5 thằng lính xử bắn, khi tôi một mình chống chọi với cả một đội quân của thần chết sai đến làm cho tôi sợ hãi cùng cực. Những hình ảnh giả lập mà ayahuasca đã tạo ra thực chất là một bài học sâu sắc: Bạn đang sợ hãi chính mình. Bạn muốn là Steve Jobs, bạn muốn làm Bill Gates, bạn muốn là một ai đó khác chứ không phải là chính bản thân mình. Bởi cái “ai đó” ấy chính là người đã được xã hội chấp nhận và bạn muốn mình vừa khít vào cái khuôn đó. Bởi vì nếu bạn là bạn, bạn sẽ cô độc, bạn sẽ đứng một mình giữa một biển người muốn tiêu diệt cái khát khao thể hiện bản thân như nó thực sự là. Để thoát khỏi cái mê lầm này, bạn phải ý thức được toàn bộ sự cô độc của mình. Sự thật là, bạn chỉ có một mình. Giống như tôi khi bị tra tấn trong chuyến trip. Không ai đến cứu tôi hết. Bạn phải dựa hoàn toàn vào chính bản thân mình vì chỉ có bạn mới cứu được bạn.

Haruki Murakami đã biết điều này khi ông ấy viết cuốn Người tình Sputnik (cuốn tiểu thuyết tôi rất yêu thích):

“Không người nào đi hết cuộc đời mà chưa một lần trải nghiệm tình cảnh cô độc dữ dội, thậm chí buồn chán, giữa chốn thâm sơn cùng cốc, chỉ dựa vào chính mình và nhờ đó biết được sức mạnh thực sự đang ẩn chứa trong con người mình.”

Ông ta đã hiểu nó. Nghĩa là bạn có thể không có khả năng chống lại toàn bộ sự mê man, hoang tưởng của xã hội, nhưng hãy đứng vững như một thành lũy cá thể trong sự giáp mặt với nó. Hãy yêu quý bản thân. Đó là sức mạnh duy nhất mà bạn có, đó là thứ duy nhất bạn có thể trông cậy, chứ không phải ai đó sẽ cứu bạn. không ai cứu được bạn nếu như bạn sợ phải giáp mặt với sự thật trần trụi – nỗi sợ hãi.

Chuyến trip này còn mang đến cho tôi một trí tuệ khác. Đó là sự đồng cảm với tất cả tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Tôi không có tôn giáo nào nhưng gần đây tôi có đọc một số tài liệu Phật giáo và Thiền Minh Sát. Tôi bắt đầu hiểu được chúng rất rõ ràng. Các tôn giáo có 1 mục tiêu duy nhất: Ánh Sáng. Đó là thứ ánh sáng tuyệt đẹp mà tôi cảm nhận khi ở đoạn cuối của trip. Ánh sáng đó là ánh sáng của sự bình yên tuyệt đối, sự im lặng khó giải thích nhưng hàm chứa tình yêu. Tôi bắt đầu nhận ra rằng tôn giáo là một hình thức tu tập tâm linh để dẫn đến giác ngộ. Vậy mà trước đây tôi chỉ nghĩ nó là thứ tưởng tượng vớ vẩn. Toàn bộ cuộc sống này, những gì xảy ra trong đời đều là một cơ duyên trên con đường giác ngộ. Bằng cách bạn vượt qua những chướng ngại với lòng nhân ái, từng chướng ngại một, giống như từng giai đoạn khó khăn của tôi trong trip, bạn đến với giác ngộ. Thực chất, hạnh phúc là vượt qua được những chướng ngại với sức chịu đựng bền bỉ và lòng yêu thương.

Tuy nhiên như thế không có nghĩa là cực đoan tôn giáo. Đó lại là một biến thể của Tham, Hận, Sợ hãi. Chúng ta phải rõ ràng về điều này. Con ma của sợ hãi và thù hận luôn chực chờ lợi dụng cơ hội ẩn mình vào bất kỳ thứ gì để tóm lấy chúng ta. không thể bắt tay với nó. không thể thỏa hiệp với nó. Cực đoan chính là nó, là cái biến thể của việc nghiện ngập sự kiểm soát, sự cầm nắm, vì vậy chúng ta tự do chứ không cực đoan.

Sau cái đêm kinh hoàng ấy, tôi nhận ra sự tồn tại của những năng lượng khác ngoài cái thế giới mà chúng ta vẫn biết. Tôi ý thức được có những thứ mà chúng ta không thể đùa giỡn với sức mạnh của nó bởi vì nó siêu nhiên. Tôi chỉ là hạt bụi trong toàn bộ dòng chảy vĩ đại đó mà thôi. Tôi không dám nói mình đã giác ngộ vì bản thân tôi cũng không biết tôi đã có điều đó chưa. Tôi chỉ biết rằng tôi đã thay đổi, một cái gì đó rất mới tuôn chảy bên trong. Nếu muốn nói điều gì đó với những ai đọc bài viết này, tôi muốn nói rằng chúng ta hãy yêu thương bằng một trái tim không toan tính, hãy can đảm vượt qua những nỗi sợ. Cơ duyên chắc chắn sẽ đến vì cơ duyên là dòng chảy. Đừng thỏa hiệp với cái xấu mà hãy nhìn rõ bộ mặt của nó. Khi chúng ta nhìn nó, chúng ta từ chối bắt tay với nó, nó sẽ bỏ đi.

Đến bây giờ, tôi vẫn chưa bình thường lại được sau khi xài 1 liều quá mạng. Có rất nhiều cảm giác và triệu chứng lạ xảy ra suốt 2 ngày nay. Nếu bạn muốn dùng nó, tôi ủng hộ lòng can đảm của bạn, nhưng nhớ là xài vừa phải thôi, coi chừng thần chết bắt cóc luôn đấy.

Cuối cùng, tôi muốn cảm ơn anh Huy và người bạn đã cho tôi liều ayahuasca đó. Nếu như không có họ, tôi không biết đến bao giờ tôi mới có được những trải nghiệm kỳ diệu này. Họ đã làm việc này vì lòng yêu thương với mọi người chứ không vì bất kỳ toan tính nào cả. Điều này thật sự làm cho tôi khâm phục. Những gì tôi được nhận, tôi sẽ trả lại bằng cách giúp đỡ lại những người khác. Có thể tôi sẽ không phải là người giỏi tới mức thay đổi điều gì to lớn, nhưng tôi sẽ đối đãi bằng tình yêu với tất cả. Tôi tin rằng tình yêu rồi sẽ hoán chuyển được mọi thứ. Nó là giá trị duy nhất trên đời này có ý nghĩa, nó là thứ mà tôi muốn dùng hết cuộc đời còn lại để giúp nó nảy mầm bên trong con người.

Phúc Đinh gửi cho THĐP

Xem thêm: Lần đầu tiên trải nghiệm chất thức thần

Bonus

Trả lời 9 câu hỏi thường gặp về “đa đảng”

Featured image: … Arjun

1) Việt Nam “không cần đa đảng”(?)

Đây là luận điểm thường được các quan điểm chống đa đảng đặt ra. Tuy nhiên nên xác định “Việt Nam” ở đây là ai?

Nếu “Việt Nam” được hiểu là “chính quyền VN” thì là điều dễ hiểu vì “chính quyền VN” được hiểu là ĐCSVN (do “đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội”). Điều này giống như Apple không bao giờ muốn có Samsung tồn tại để cạnh tranh với họ vậy.

Nếu “Việt Nam” được hiểu là “nhân dân Việt Nam” thì phải thực hiện một cuộc trưng cầu dân ý hoặc điều tra xã hội học có điều kiện kèm theo như: những ý kiến, quan điểm ủng hộ hoặc bác bỏ đa đảng hay độc đảng phải được tuyên truyền một cách bình đẳng, bất thiên vị trên các phương tiện truyền thông có thể tiếp cận một cách dễ dàng; có quan sát viên, tổ chức quốc tế giám sát một cuộc trưng cầu dân ý như vậy để quyết định liệu “dân VN có chấp nhận đa đảng hay độc đảng”.

2) Đa đảng “sẽ đổ máu, loạn lạc, đánh nhau”(?)

Truyền thông do chính quyền VN kiểm soát thường đưa tin các vụ đảng phái tranh chấp quyền lực ở Thái Lan hoặc mới đây là Ai Cập để cho thấy “sự nguy hại, bất an bao trùm” là hậu quả của đa đảng.

Tuy nhiên thế giới đến năm 2013 chỉ còn lại 7 quốc gia theo chế độ độc đảng cầm quyền. Hơn 160 quốc gia còn lại theo thể chế đa đảng. Nếu mệnh đề “đa đảng tất loạn” là đúng, có nghĩa là đa số các quốc gia đa đảng trên thế giới phải đang rên xiết trong bao loạn chính trị. Tuy nhiên điều đó chỉ đúng với một vài quốc gia đa đảng trong bối cảnh chính trị đặc thù của nước đó.

Việc Miến Điện sau nhiều chục năm bị cai trị dưới chính quyền độc tài quân sự, nay đã chuyển tiếp sang chế độ dân chủ bằng cách cho đảng đối lập công khai hoạt động, tranh cử mà không có một tiếng súng hay giọt máu nào đổ thêm. Điều này chứng tỏ khả năng chuyển tiếp chính trị từ độc tài, độc đảng sang dân chủ mà không có giai đoạn loạn lạc là hoàn toàn có thể.

3) Đa đảng “nhưng vẫn nghèo”(?)

Điều này là có thật. Một vài ý kiến chỉ trích và không chấp nhận đa đảng cho rằng họ có thể kể ra cả chục nước tuy đa đảng nhưng vẫn tham nhũng và nghèo nàn.

Đa đảng không phài là điều kiện “đủ” để một quốc gia trở nên giàu có, nó chỉ là điều kiện “cần” mà thôi. Điều kiện đủ phải là một nhà nước pháp quyền theo nguyên tắc tam-quyền-phân-lập, và được có một nền kinh tế tự do.

4) Đa đảng sẽ “phụ thuộc vào nước ngoài”(?)

Đây là điều mà quan điểm chống đa đảng thường đặt ra. Họ cho rằng nếu một chính đảng mà bị chi phối bởi nước ngoài thắng cử thì khả năng VN bị lệ thuộc nước ngoài (như TQ chẳng hạn) là rất cao.

Tuy nhiên, luật pháp của nhiều nước có kinh nghiệm đa đảng lâu đời như Hàn Quốc, Nhật Bản có thể tránh được. Luật của các nước này cấm tất cả chính trị gia nhận nguồn tiền có nguồn gốc từ nước ngoài để vận động tranh cử.

Cựu Bộ trưởng ngoại giao Seiji Maehara của Nhật đã phải từ chức vì bị phát giác nhận 600 USD từ một phụ nữ Hàn Quốc cho chương trình tranh cử của ông này, điều mà luật Nhật Bản cấm các chính trị gia không được làm.

Điều này hạn chế khả nặng “phụ thuộc nước ngoài” nếu có của đa đảng.

5) Làm sao đa đảng mà vẫn yên bình(?)

Là nhờ vào luật pháp và tam-quyền-phân-lập.

Nhờ có luật pháp, một chính đảng có thể sẽ bị giải tán nếu: hạ nhục đối lập, dùng trò bẩn trong tranh cử, gian lận bầu cử,…

Và nhờ có hệ thống tòa án độc lập với hành pháp và lập pháp, quyền xét xử không bị chi phối bởi một đảng muốn dùng tòa án làm công cụ để triệt hạ đối thủ chính trị của mình.

6) Tại sao thể chế đa đảng giải quyết tốt các vấn đề hơn là độc đảng?

Apple có lẽ sẽ không bao giờ cho ra các sản phẩm mới, tốt, rẻ hơn nếu họ là nhà sản xuất có quyền độc quyền bán điện thoại trên thế giới mà không bị canh tranh.

Một chính đảng được mặc nhiên cầm quyền vĩnh viễn mà không phải qua tranh cử với đảng khác sẽ không (hoặc rất chậm) cải tổ nếu không có đối lập chính trị.

Một chế độ đa đảng, nơi mà đảng nào làm tốt sẽ được tiếp tục duy trì quyền lực, hoặc không sẽ bị thay thể. Đây là động lực tốt để cải tổ, chống tham nhũng, chống quan liêu, tiêu cực.

7) Độc tài vẫn có thể giàu có(?)

Điều này là có thật nhưng hiếm thấy và phải có điều kiện đi kèm.

Hàn Quốc từng là nước nghèo nhất thế giới sau chiến tranh Triều Tiên, tuy nhiên trong vòng 20 năm sau đó, Hàn Quốc trở thành cường quốc kinh tế mà thành quả được cho là “công” của Park Chung Hee – vị tổng thống khét tiếng độc tài và đàn áp đối lập lúc bấy giờ. Singapore dưới thời Lý Quang Diệu và Lý Hiển Long cũng bị chỉ trích là độc tài nhưng vẫn cho kết quả giàu có.

Tuy nhiên, không thể so bì độc tài kiểu Park Chung Hee và Lý Quang Diệu với độc tài độc đảng kiểu XHCN như Việt Nam hay Trung Quốc. Vì so sánh cho thấy độc tài là cách mà họ duy trì chính sách đúng đắn để đưa đất nước phát triển có định hướng và nhanh chóng, thời kỳ độc tại của hai tổng thống kể trên, tham nhũng bị coi là tội cực kỳ nặng nề như phản quốc.

8 ) Mô hình chính trị đa đảng kiểu Mỹ có phải là “dân chủ nhất”(?)

Mỹ là nước có nền dân chủ lâu đời kể từ khi lập quốc. Tư tưởng bảo vệ quyền con người, dân chủ là giá trị cốt lõi của bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ song vẫn còn nhiều đánh giá trái ngược về nền chính trị lưỡng đảng tham chính tại Mỹ có phải là “dân chủ nhất hay không”.

Bảng xếp hạng về chỉ số dân chủ (Democracy index 2012) với những tiêu chí định lượng để xếp hạng các nước trên thế giới theo thang từ “dân chủ nhất” cho tới “độc tài nhất” của Tạp chí Economist theo đó xếp Mỹ 21 trên tổng 167 nước được đánh giá.

Thứ hạng của Mỹ thua Hàn Quốc (xếp thứ 20/167 nước).

Việt Nam xếp thứ 144/167 nước về mức độ dân chủ.

9) Liệu copy mô hình đa đảng nước ngoài vào VN hiện nay sẽ phù hợp(?)

Một mô hình chính trị có thể thích hợp ở quốc gia này nhưng không thành công ở quốc gia khác.

Mô hình chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô chủ trương đấu tranh giai cấp, công hữu tư liệu sản xuất, nền kinh tế tập trung bao cấp đã thất bại khi được “nhập khẩu” nguyên xi vào VN trong lần thử nghiệm từ 1976 đến 1986 tại VN. Sau đó các nhà lý luận Marx – Lenin đã buộc phải “Mở Cửa” để cứu vãn tình thế bằng cách cho phép kinh tế nhiều thành phần, mở cửa giao thương với “các nước tư bản”, đảng viên được làm kinh tế tư nhân, được thuê mướn nhân công (điều mà vốn từ trước bị coi là bóc lột giá trị thặng dư)….

Việc thử nghiệm một mô hình chính trị đa đảng tại VN cần được nghiên cứu nghiêm túc bởi những người thực tâp muốn cải cách và khước từ chế độ độc đảng vốn đã bộc lộ nhiều khuyết điểm.

 

AH – Nhật Ký Yêu Nước