26 C
Nha Trang
Thứ tư, 6 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 149

Sự phục vụ nhân dân thật sự

Featured Image: Wendell

 

Giới thiệu: chúng ta đa số nghĩ rằng làm việc trong các cơ quan nhà nước mới thật sự là phục vụ và cống hiến. Thomas Sowell thì không nghĩ như vậy. Những người công hiến thật sự cho nhân dân là những doanh nhân, những người đi làm trong các ngành nghề, chứ không phải là các cán bộ quan chức nhà nước.


 

Hàng năm gần thời điểm tốt nghiệp, các nhà tri thức và cán bộ nhà nước đứng trước các tân cử nhân trong các lễ tốt nghiệp trên toàn quốc và kêu gọi họ hãy làm một việc cao thượng nhất có thể – trở thành một cán bộ công chức nhà nước để cống hiến cho đất nước.

Đương nhiên họ không nói thẳng ra vậy. Họ thường tôn vinh các việc làm trong các cơ quan nhà nước và so sánh nó với lòng tham trong giới doanh nghiệp tư nhân. Họ không cảm thấy một chút thẹn nào khi so sánh sự nghiệp cao cả của họ trong các cơ quan nhà nước – với những ngành nghề của những người đã làm ra thức ăn cho chúng ta ăn, những căn nhà để chúng ta ở, quần áo cho chúng ta mặc và thuốc men để chúng ta trị bệnh.

Có một điều tôi muốn thấy là một người nào đó có đủ can đảm để nói với các sinh viên rằng: bạn có muốn làm gì đó để phục vụ nhân loại không? Nếu có thì hãy để họ nói cho bạn biết họ muốn gì – không phải bằng lời nói, mà bằng cách để họ dùng tiền của mình để quyết định.

Bạn muốn thấy mọi người ở trong căn nhà tốt hơn? Hãy xây nhà! Hãy trở thành một thợ xây hoặc nhà phát triển – nếu bạn có thể chịu đựng được sự mỉa mai của các bạn sinh viên và giáo sư khác, những người cho rằng lối suy nghĩ đó là nhảm nhí.

Bạn có muốn thấy nhiều thứ có giá phải chăng hơn đối với nhiều người hơn không? Vậy thĩ hãy tìm ra một cách sản xuất hiểu quả hơn hoặc cách đem hàng hóa từ nhà sản xuất đến nhà tiêu dùng với chi phí thấp hơn.

Đó là một điều khi một người đàn ông tên Sam Walton đã làm khi ông ta thành lập Wal-Mart (chuỗi của hàng bán lẻ lớn nhất nước Mỹ), một ân huệ cho những người với thu nhập khiêm tốn và một cái gai trong mắt giới trí thức. Trong quá trình giúp đỡ người khác, ông Sam Walton đã trở nên giàu có. Đó có phải là lòng tham bạn thường nghe các sinh viên và giáo sư khác lên án hay không? Nếu vậy thì chính lòng tham đó đã đem giá cả xuống và nâng cao mức sống của người dân Mỹ lên.

Đầu thế kỷ 20, chỉ 15% gia đình Mỹ có toilet dội nước. Chỉ gần một phần tư có ống cống. Chỉ 3% có điện và 1% có hệ thống sưởi ấm. Chỉ 1 trong 100 gia đình Mỹ có chiếc xe hơi.

Đến thập niên 1970, đại đa số các gia đình Mỹ dù sống trong nghèo khổ vẫn có toilet dội nước, hệ thống nước và điện. Đến cuối thế kỷ 20, có nhiều người Mỹ được kết nối với mạng internet hơn số người Mỹ có hệ thống vệ sinh ở đầu thế kỷ.

Bây giờ, nhiều gia đình có máy lạnh hơn con số gia đình có điện ở đầu thế kỷ. Hôm nay, hơn phẩn nửa các gia đình với thu nhập dưới mức nghèo khó có xe hơi hoặc chiếc xe tải và lò vi sóng.

Những điều đó đã không xảy ra vì công lao của các nhà chính trị, cán bộ quan chức, các nhà hoạt động chính trị hoặc những thành phần khác trong bộ máy “phục vụ nhân dân”. Không có một quốc gia nào đi từ nghèo khổ đến thịnh vượng bằng hệ thống hành chính.

Chính Thomas Edison đã đem điện tới công chúng, chứ không phải là tổ chức môi trường Sierra Club. Chính anh em nhà họ Wright đã cho chúng ta được bay, chứ không phải là Cơ Quan Quản Lý hàng Không (Federal Aviation Administration). Chính Henry Ford đã chấm dứt sự cô độc của hàng triệu người dân Mỹ bằng cách sản xuất ra những chiếc xe hơi với giá phải chăng, chứ không phải là Ralph Nader (một nhà hoạt động chính trị về môi trường).

Những người đã giúp đỡ người nghèo nhiều nhất không phải là những người mạnh miệng kêu gọi chúng ta nên giúp đỡ người nghèo. Mà chính là những người đã tìm cách để tăng năng suất và sự hiệu quả trong các ngành nghề. Để cho người nghèo của ngày hôm nay có thể mua được những thứ mà chỉ có người giàu của ngày hôm qua mới có đủ điều kiện chi trả.

Các cơ quan nhà nước,những nơi bạn nghĩ bạn đến để phục vụ nhân dân chỉ là một ảo tưởng. Một ảo tưởng mà bạn đã học được trong 4-6 năm đại học. Những người trong môi trường đó chỉ nói và nói, chỉ những người đi làm bên ngoài thực sự mới thực hiện những điều đó.

Đại học có thể dạy bạn rất nhiều điều, nhưng nó cũng có thể nuôi nấng nhiều ảo tưởng. Nếu bạn thật sự muốn phục vụ người khác, hãy để những người khác tự quyết định họ cần phục vụ cái gì bằng cách dùng tiền của họ để chi trả cho nó.

 

Tác giả: Thomas Sowell
Dịch: Ku Búa

Một người đàn ông từng sống trên thế gian và có ba điều ước

Featured Image: Catrin Austin

 

Một người đàn ông từng sống trên thế gian và có ba điều ước: Có được một công việc thu nhập cao, lấy một cô vợ đẹp và trở nên nổi tiếng trên khắp thế giới.

Vào một mùa đông giá buốt người đàn ông vội vã đến một cuộc phỏng vấn tại một công ty nổi tiếng. Bỗng nhiên, trước mắt ông có một người đàn ông lớn tuổi bị trượt ngã. Ông nhìn sang người vừa ngã, trong đầu lóe lên ý nghĩa rằng người đó chắc hẳn là bị say rượu và đã không đưa tay đỡ ông ta dậy, điều đó có thể làm ông đến cuộc gặp bị muộn. Thế nhưng cuộc phỏng vấn diễn ra không thành công: Ông không được bầu vào chức vụ mơ ước.

Lần khác vào một buổi tối mùa hè người đàn ông này đi dạo trong thành phố. Nhận thấy có một đám đông các nghệ sỹ đường phố ông liền dừng lại để xem họ biểu diễn. Khán giả không đông, nhưng vở kịch thật vui vẻ và cuốn hút. Sau khi kết thúc buổi diễn, những tràng vỗ tay vang lên và mọi người bắt đầu tản đi. Người đàn ông cũng quay về nhà nhưng lúc đó có ai đó đã rụt rè chạm tay vào vai ông. Đó chính là nữ nhân vật chính của vở kịch – một bà cũ diễn vai hề. Bà liền hỏi ông có thích vở kịch đó không, có hài lòng về các nghệ sỹ không. Nhưng người đàn ông đã không muốn tiếp tục cuộc trò chuyện với bà và khinh khỉnh quay người bước về nhà.

Một lần khác nữa vào một buổi chiều mưa người đàn ông nọ vội vã trở về nhà sau buổi sinh nhật ở nhà một người bạn. Ông đã rất mệt mỏi và trong đầu ông hiện lên ý nghĩ về một chiếc bồn tắm hoa sen và một chiếc giường ấm áp tiện nghi. Bỗng nhiên ông nghe thấy có tiếng nức nở đang cố nén lại của ai đó.

Đó là một người phụ nữ đang khóc. Cô ta ngồi trên chiếc ghế dài đằng sau ngôi nhà của ông. Cô ngồi một mình và không có ô che mưa. Nhìn thấy người đàn ông, cô gái liền quay sang nhờ ông giúp đỡ. Cô đang gặp bất hạnh trong gia đình và cô chỉ cần có một người để chia sẻ trò chuyện. Người đàn ông nghĩ ngợi, trước mắt ông là hình ảnh chiếc bồn tắm và chiếc giường, thế rồi ông vội vã đi tiếp.

Người đàn ông đã sống một cuộc đời bất hạnh, rồi ông qua đời! Khi đến thiên đường, người đàn ông gặp lại người bạn của mình là Thần cứu thế.

– Bạn có biết không, tôi đã trải qua một cuộc đời hoàn toàn bất hạnh và vô giá trị. Tôi đã có ba điều ước mơ nhưng chẳng đạt được một điều ước nào cả. Thật đáng tiếc.
– Hừm…. Bạn của tôi ơi, tôi đã làm tất cả để mọi ước mơ của bạn được trở thành hiện thực, nhưng để làm được điều đó, điều mà tôi cần ở bạn chỉ là: đôi tay của bạn, đôi mắt của bạn và trái tim của bạn.
– Rồi sao nữa?

– Cậu còn nhớ người đàn ông đã bị ngã trên con đường trơn vào một mùa đông chứ? Bây giờ tôi sẽ cho bạn biết điều này….. người bị ngã đó là giám đốc điều hành của công ty mà bạn đang muốn được vào. Một sự nghiệp rạng rỡ đã chờ bạn. Mọi thứ cần ở bạn – là đôi tay của bạn đó.

Bạn còn nhớ về bà cụ diễn vai hề, người sau buổi biểu diễn đường phố đã tiếp cận với cậu bằng những câu hỏi. Đó là một nữ nghệ sỹ trẻ đẹp, người đã yêu cậu từ cái nhìn đầu tiên. Một hạnh phúc tương lai chờ đợi hai người – những đứa con, một tình yêu bất tử. Tất cả những điều cần ở bạn – là đôi mắt của bạn đó.

Cậu có nhớ đến người phụ nữ đã khóc ở gần lối vào nhà cậu không? Khi đó là một buổi chiều mưa và người cô ấy đã bị ướt cùng với nước mắt…..

Đó là một nữ văn sỹ nổi tiếng. Cô ấy đang trải qua cuộc khủng hoảng gia đình và cô ấy đã rất cần có sự nâng đỡ về tinh thần. Giá như cậu có thể giúp cô ấy được sưởi ấm trong căn phòng của mình, được sưởi ấm tâm hồn nhờ vào những lời động viên an ủi thông minh của cậu thì cô ấy sẽ viết nên một cuốn sách kể về chuyện đó. Cuốn sách sẽ trở nên nổi tiếng trên khắp thế giới và cậu sẽ được vinh danh bởi trên trang đầu cuốn sách tác giả sẽ đề tên người đã trở thành nguyên mẫu tác phẩm đó. Và tất cả những điều cần ở cậu khi đó – là trái tim của cậu đó. Cậu đã không quan tâm đến điều đó, bạn của tôi ạ.

Người đàn ông thở dài và đi theo con đường nhỏ sáng láng ánh trăng bước vào cõi xa xăm của những vì sao….

Hãy lắng nghe thế giới vì nó vẫn mang đến những cơ hội và bạn không chỉ biết đòi hỏi về sự giúp đỡ, mà bạn còn phải xứng đáng để được đón nhận nó!

 

Tâm Giao

Tự do và sự phát triển của con người

Featured Image: Gonzalo Saenz

 

Hôm nay tôi ra công viên đọc sách, có lẽ nằm nhà vẫn có thể đọc được nhưng dường như nếu ta đến một nơi tương đối xa lạ với một mục đích định trước thì cái mục đích đó dễ thực hiện hơn, đó là cách thức lấy hoàn cảnh để buộc ta phải hoàn thành.

Quanh quẩn tìm vị trí ngồi không nắng nên vô tình phía đối diện tôi cũng có một chú đang đọc sách. Rồi có một bác đến ngồi cạnh chú ấy và hỏi về quyển sách đang đọc, vì ngồi khá xa nên tôi nghe loáng thoáng họ tranh luận về Thượng Đế và Khoa Học, đó là đề tài mà tôi rất muốn được trò chuyện cùng ai đó nhưng cho đến giờ vẫn chưa tìm ra. Bác kia thì tin vào sự tồn tại của Thượng Đế, còn chú kia thì nhìn Thượng Đế theo con mắt của các nhà khoa học. Ngay chính lúc đó tôi rất muốn tiến về phía họ để trò chuyện nhưng tôi cảm thấy rất ngần ngại, tôi muốn bảo rằng Khoa Học có những giới hạn của nó và ngày nay những vấn đề về tâm linh bắt đầu được khoa học xem xét.

Rồi tôi nghe chú kia bảo: “Khoa Học đã bỏ qua sự việc Thượng Đế có tồn tại hay không bởi nếu Khoa Học buộc Tôn Giáo chứng minh Thượng Đế tồn tại thì đến lượt họ bị Tôn Giáo buộc chứng minh Thượng Đế không tồn tại, và đó (việc chứng minh có và không có Thượng Đế) là sự bất lực của Khoa Học hay Tôn Giáo nói chung.” Khi nghe đến đây tôi hiểu rằng chú đó đã đứng trên một cái nhìn công bằng. Lúc ấy tôi ra về dù rằng vẫn rất muốn trò chuyện với họ.

Cái sự việc đó làm tôi nghĩ về một điều rất quan trọng đối với con người, khoan nói đến chuyện Thượng Đế có tồn tại hay không, nội chuyện tự do chọn lựa một trong 2 quan điểm đã là rất khó khăn rồi. Tất cả chúng ta tưởng chúng ta có quyền chọn lựa tin hoặc không tin nhưng thực tế không phải như vậy.

Từ khi sinh ra tôi đã sống trong một gia đình Công Giáo truyền thống, hay như bạn là một người theo đạo Phật, hay như ai đó không theo tôn giáo nào cả. Tôi tin Chúa, bạn tin Phật, ai đó lớn lên trong nền giáo dục Việt Nam có nền tảng duy vật sẽ không tin có Thượng Đế. Từ khởi đầu chính hoàn cảnh đã chọn cho ta tin hoặc không tin vào điều gì đó mà phương diện Tôn Giáo chỉ là một trong số ấy. Có thể nói Tự Do là một thứ rất khó có được trong cuộc sống của con người, dù nhiều người bảo là rất dễ dàng. Hầu hết đa số chúng ta sinh ra, lớn lên và chết đi với cái niềm tin có sẵn đó mà không có sự chọn lựa.

Bàn về con người nói chung, tức loại bỏ những truyền thuyết mang tính tâm linh như “vạn sự tự thông” hay được “các Đấng phù hộ độ trì” để có được sự hiểu biết, con người muốn hiểu ra sự thật thì buộc phải học hỏi và tìm kiếm những nguồn thông tin từ hoàn cảnh đang sống. Sẽ như thế nào nếu những thông tin mà con người có được đều là một chiều?

Ông bà cha mẹ nói với đầu óc non nớt của ta rằng Thiên Chúa hay Đức Phật tồn tại, và sự việc diễn ra là… ta đã tin. Vì nếu ta không tin tức là ta đang chống lại những con người sinh ra và dưỡng dục ta. Khi cả một nền giáo dục hoặc xã hội bảo rằng Thượng Đế chỉ là sự tưởng tượng của con người nhưng nếu ta cứ tin thì nghĩa là ta chống lại chính cái xã hội đó, điều đó rất dễ khiến ta bị loại trừ hoặc ít nhất bị cười chê hay nhạo báng. Từ đó có thể thấy, hoàn cảnh sống chẳng khác nào như một nhà tù giam hãm con người mà các song sắt của nó chính là những định kiến có sẵn.

Không lạ khi mục đích lớn nhất của những con người ở đỉnh cao trí tuệ của nhân loại chính là đi tìm Tự Do, có Tự Do thì con người có thể tìm thấy chính bản thân mình và Giác Ngộ ra sự thật. Sự thật hay chân lý có lẽ là điều rất khó tìm kiếm nhưng Tự Do là điều kiện đầu tiên cần phải có.

Đôi lúc tôi tự hỏi, một sự thật được chấp nhận một cách máy móc và mù quáng có phải là sự thật chân chính đối với tôi? Bạn có cảm thấy khó hiểu suy nghĩ này của tôi không? Một hành động bố thí cho người nghèo không xuất phát từ tình yêu thương đồng loại mà do thói quen từ trước liệu có ý nghĩa và giá trị của nó? Rất nhiều người đã và đang làm những việc đúng và tốt nhưng không hề xuất phát từ ý muốn của họ mà do được bảo hoặc bị bắt buộc hay được khen ngợi.

Tất cả những điều đó có thể mang lại điều tốt cho người nhận nhưng đối với bản thân người làm thì chúng vốn vô nghĩa hoặc có rất ít ý nghĩa. Tất nhiên ta vẫn khuyến khích họ làm những điều ấy nhưng phải chăng chỉ có thế là đủ? Đủ với bản thân từng người?

Khi bàn đến những vấn đề này thì ta lại phải xét xem điều gì mới thật sự ý nghĩa đối với đời sống của một con người? Đây là một câu hỏi khó mà con người vẫn luôn tìm lời giải đáp qua nhiều thế hệ. Có 2 quan điểm mà con người thường đưa ra để tranh luận. Một là chỉ sống trong trần gian này rồi sau đó biến mất vĩnh viễn, hai là còn có một linh hồn bất tử sau khi thân xác này chết đi và linh hồn đó phải nhận lấy những kết quả mà thân xác này tạo ra.

Với quan điểm “1” thì mục đích sống là khá đơn giản vì câu trả lời chính là mang lại sự thỏa mãn cho thân xác này một cách cao nhất. Với quan điểm “2” thì ta còn phải lo cho phần hồn của mình sau này. Như dù là quan điểm nào đi nữa thì theo tôi điều quan trọng nhất chính là “ta phải là chính ta, ta phải thật sự sống”, sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi ta sống như những thân cỏ dại mưa xuống thì xanh tươi còn nắng lên lại khô héo. Đó là một cách sống không ý thức được mình đang sống, sống như một bộ máy được lập trình, như loài động vật chạy theo bản năng.

Có không ít triết gia đã lớn tiếng chống lại sự tồn tại của tôn giáo hay nền giáo dục của loài người. Họ cho rằng hãy để con người sống một cách tự nhiên và tự do trong thế giới, khi đó con người sẽ tự tìm ra chân lý của mình. Với quan điểm này tôi có nửa đồng ý và nửa chống đối. Đồng ý vì nền giáo dục hay tôn giáo thường tạo ra những định kiến kiềm kẹp sự tự do nhận biết thế giới và cuộc sống của con người. Tất cả đều hướng con người đi theo một con đường, một phương hướng có sẵn.

Một quốc gia chú trọng phát triển kinh tế thường lái suy nghĩ của con người đến chuyện làm giàu về vật chất và xem nhẹ những giá trị tinh thần. Một đất nước cần phát triển công nghiệp sẽ định hướng con người chạy theo các môn tự nhiên mà bỏ qua các môn xã hội. Công Giáo thì bảo những lời dạy, những lề luật của mình mới là chân lý, Phật giáo thì bảo lời Phật dạy mới đưa con người đến sự siêu thoát để đến bến vĩnh hằng… và bản thân mỗi nhà nước, mỗi chế độ, mỗi tôn giáo hay tổ chức cố dùng mọi cách để bảo vệ quan điểm của mình và chống lại những quan điểm khác biệt để tồn tại.

Mà cách họ thường làm là bắt con người phải tin vào đó một cách mù quáng không suy xét, chính điều này đã giết chết ý nghĩa cốt lõi trong đời sống con người, ngăn cản con người đi đến những tầm cao mới của nhận thức. Sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu con người chỉ biết chấp nhận mà không tìm kiếm và thấu hiểu.

Chống đối quan điểm trên vì một mô hình nhà nước, giáo dục hay tôn giáo là cần thiết cho những bước đầu tiên của con người. Đó là những mô hình giúp xã hội này tồn tại một cách ổn định, vì trước khi con người có thể đi tìm ý nghĩa trong đời sống thì trước tiên cần phải sống sót.

Ngoài ra một điều cần phải nói là hầu hết những triết gia đó để có thể đạt được những tầm nhận thức đó thì điều họ cần là được sự giáo dục từ những người đi trước, chính những điều họ được dạy đã tạo nên con người họ nhưng sau đó cũng chính họ phủ nhận giá trị của nền giáo dục đó. Tôi hầu như chưa từng thấy một nhà tư tưởng nào tự họ sống tự do trong thiên nhiên và không được giáo dục hay không tìm hiểu những tư tưởng khác.

Không thể phủ nhận những mô hình nhà nước mang lại sự ổn định về đời sống con người trong xã hội, nó tạo ra những trật tự. Nền giáo dục có mục đích sơ khai là giúp con người đủ giúp mình tồn tại trong đời sống vật chất này. Những tôn giáo mang đến cho xã hội những giá trị đạo đức xác thực và hướng con người đến những tầng ý thức siêu việt. Nhưng sẽ hoàn hảo hơn nếu bản thân của tất cả những mô hình hay tổ chức đó mang trong đó sự Tự Do và không định kiến.

Không thể phủ nhận mô hình nhà nước tự do nhất sẽ mang đến sự phát triển cho con người lớn nhất, nền giáo dục hoàn hảo nhất chính là nền giáo dục có thể khai phóng tâm trí con người đến mọi mặt trong cuộc sống, tôn giáo thiên liêng nhất là tôn giáo đưa con người đến gần Thượng Đế nhất, thúc đẩy sự phát triển của tâm linh nhanh nhất, vì xét cho cùng thì Thượng Đế đã đứng trên và bao hàm tất cả mọi tôn giáo (chân – thiện – mỹ) trên thế giới này.

Vậy với những gì đã viết trong bài, theo quan điểm của tôi thì điều ý nghĩa nhất đối với con người chính là Tự Do, tự do nhận thức, tự do tìm kiếm, tự do học hỏi… để phát triển tâm trí của bản thân đến mức cao nhất. Chỉ có như thế mới không phụ việc ta được sinh ra trong thế giới này.

Hãy nhìn lại chính mình và niềm tin của mình xem mình có là mình và niềm tin đó có phải là của mình. Hãy tìm kiếm và thấu hiểu chân lý chứ đừng tin chỉ vì người khác bảo ta tin.

Và tất nhiên có điều tôi cần phải nói, bài có phê phán tôn giáo nhưng tôi tin có Thiên Chúa và tin con người có một linh hồn bất diệt, tin con người mang trong mình thiên tính của Thiên Chúa vì tất cả chúng ta là con của Ngài.

 

Mắt Đời

Giải pháp giảm học thêm và tăng thu nhập cho giáo viên

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Giới thiệu: đây chỉ là một phương pháp/mô hình đề xuất, có thể không áp dụng được ngoài đời.


Mô hình giáo dục của chúng ta hiện nay quá tệ. Học sinh bị bắt đi học thêm quá nhiều mà đa số học cho có chứ không hiểu gì. Giáo viên thì nhận lương thấp. Vì lương thấp nên họ mới tìm cách dạy thêm để tăng thu nhập và cố tình dạy thiếu và dạy kém trong giờ dạy chính thức. Điều này rất lãng phí về thời gian và chất xám. Tôi có mô hình này nhằm giúp giáo viên tăng thu nhập và giảm thời gian học thêm cho mấy em.

Mô hình đề xuất sau đây:

Vấn đề:

  1. Lương giáo viên quá thấp nên họ cần phải dạy thêm để tăng thu nhập.
  2. Giáo viên cố tình dạy thiếu và dạy kém trong giờ dạy chính thức để bắt học sinh học thêm.
  3. Học sinh học thêm quá nhiều mà đa số học cho có chứ không hiểu hay tiếp thu được gì đáng kể.
  4. Tiền học phí dạy phụ đạo phải chia hoa hồng cho trường.
  5. Tốn sức, tốn thời gian, tốn tiền.

Giải pháp:

  • Thành lập hội phụ huynh cho từng lớp.
  • Các thành viên (phụ huynh) thỏa thuận với nhau và với giáo viên ngoài sự kiểm soát của nhà trường.
  • Mỗi tháng mỗi thành viên sẽ trả thêm cho giáo viên.
  • Đảm bảo lương giáo viên 1 tháng không dưới 10 triệu (lương chính thức/biên chế cộng lương phụ từ hội phụ huynh).

Ví dụ:

  • Một lớp trung bình có 35 học sinh.
  • Trung bình một giáo viên dạy một các môn chính (toán, văn, sinh, hóa, anh) dạy 3 lớp, nghĩa là 175 học sinh.
  • Lương trung bình của 1 giáo viên là 3 triệu (lương biên chế).
  • Các phụ huynh họp lại để thành lập hội phụ huynh cho từng lớp.
  • Mỗi phụ huynh một tháng sẽ trả thêm cho giáo viên (ví dụ) 50,000 VND – 80,000 – 90,000 – 100,000.
  • Lương từ hội phụ huynh mà giáo viên sẽ nhận được nếu mỗi phụ huynh trả 50,000 VND: 50,000 x 35 học sinh x 3 lớp = 5,250,000 VND. (cộng với 3 triệu lương biên chế là 8.25 triệu/tháng).
  • Lương từ hội phụ huynh mà giáo viên sẽ nhận được nếu mỗi phụ huynh trả 80,000 VND: 80,000 x 35 học sinh x 3 lớp = 8,400,000 VND. (cộng với 3 triệu lương biên chế là 11.4 triệu/tháng).
  • Lương từ hội phụ huynh mà giáo viên sẽ nhận được nếu mỗi phụ huynh trả 90,000 VND: 90,000 x 35 học sinh x 3 lớp = 9,450,000 VND. (cộng với 3 triệu lương biên chế là 12.45 triệu/tháng).
  • Lương từ hội phụ huynh mà giáo viên sẽ nhận được nếu mỗi phụ huynh trả 100,000 VND: 100,000 x 35 học sinh x 3 lớp = 10,500,000 VND. (cộng với 3 triệu lương biên chế là 13.5 triệu/tháng).
  • Chưa tính mỗi năm giáo viên được thưởng nóng.
  • Lương trên 10 triệu là mức lương của một nhân viên văn phòng với trên trung bình 3-5 năm kinh nghiệm hoặc là quản lý trung cấp.
    Mức lương này hoàn toàn xứng đáng và quá rẻ để trả cho một môi trường giáo dục trong sạch.

Lợi ích:

  1. Học sinh sẽ không phải bị đì/ép đi học thêm.
  2. Học sinh sẽ có thời gian cho các hoạt động thể thao, kỹ năng.
  3. Giáo viên sẽ không có tâm lý bắt nạt học sinh học thêm để tăng thu nhập chi riêng mình.
  4. Khuyến khích giáo viên sáng tọa tỏng phương pháp giảng dạy.
  5. Khuyến khích giáo viên tăng năng suất trong giờ học.
  6. Giảm tham nhũng và tác phong tiêu cực trong giáo dục.
  7. Cân đối hóa quyền lực giữa nhà trường – giáo viên – phụ huynh và học sinh.

Đơn giản vậy sao không ai nghĩ ra và không ai làm ta?

 

Ku Búa

Người đi vòng quanh

Featured Image: Piero Fissore

 

Người đi vòng quanh” là tên một bài hát. Tôi được nghe lần đầu tiên tại Tăng thân Làng Mai Thái Lan dịp tết Ất Mùi. Thầy Pháp Niệm, tác giả phổ nhạc bài hát từ thơ của thiền sư Nhất Hạnh, vừa đàn vừa thể hiện. Khi đó, cái tiết trời cuối tháng Hai khá hanh khô, nhưng tôi lại cứ run lên từng hồi, bởi cả tâm can tôi đang choáng ngợp trong cái sâu sắc kỳ lạ của bài hát, dù rằng cả lời và nhạc mộc mạc vô cùng.

Chẳng có gì ngoài những ca từ giản dị thế này:

“Đi vòng quanh, hãy dừng lại, đi tìm anh, đi tìm người thương…”

Chỉ bấy nhiêu nhưng lại có thể xoáy sâu theo từng hơi thở, làm run lên những thớ thịt trong trái tim mong manh nhạy cảm, để mỗi người có dịp nhìn thấy được cuộc đời mình ẩn hiện trong đó.

Đến với cuộc đời cùng nhiều may mắn tốt đẹp, tôi có được cơ thể lành lặn và không thiếu cái ăn cái mặc. Nhưng oái ăm tôi lại dư dả nhiều thứ chẳng vui vẻ tí nào: sự lo lắng, ganh tỵ, so sánh thiệt hơn, v.v. Chúng chính là chất liệu xây dựng nên những câu hỏi lúc nào cũng lởn vởn quanh tâm trí tôi: làm sao để bằng để hơn người này người kia, làm sao để được trọng vọng ngưỡng mộ trong lòng anh em bạn bè,..v.v.

Vậy là, tôi cũng như nhiều người bạn đã khởi đầu hành trình mưu cầu của riêng mình. Và hành trình đó gói gọn trong lời bài hát mô tả: đi vòng quanh. Phải rồi, đi vòng quanh mới tìm được của cải danh tiếng, mới tìm được cái ngon cái đẹp, cái sắc nước hương trời. Đi vòng quanh mới tìm được niềm vui, niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ. Đây chẳng phải là những gì tôi mưu cầu tìm kiếm hay sao? Nếu không đi vòng quanh thì tôi biết đi đâu để tìm được tất cả những điều mơ ước trong đời người?

Tôi đã không đủ thông minh để nhận chân được đâu là giấc mơ thực sự của mình. Tôi đã cài đặt những tham vọng của danh tài sắc vào giấc mơ cuộc đời của mình. Tôi đã dại dột đánh cược hạnh phúc bản thân vào những điều kiện bên ngoài mà không bao giờ tôi kiểm soát được. Thế nên, tôi đã đi vòng quanh. Nhưng “nếu tôi chấm dứt việc đi, thì tôi cũng chấm dứt chính tôi“. Bối rối. Hoang mang. Khắc khoải, thao thức. Tôi đã đắm chìm.

“Anh có thể có thề đi. Nhưng không cần không cần đi quanh.
Anh hãy đi tìm anh. Anh hãy đi tìm người thương.”

Tôi đã may mắn được soi chiếu trong tuệ giác lớn. Hạnh phúc bản thân không thể tìm kiếm nơi đâu bên ngoài tự thân. Hạnh phúc tự thân là chân thật và vững chãi. Hạnh phúc ấy không ở quá khứ đã qua hay tương lai chưa tới. Hạnh phúc ấy có ở đây và bây giờ, trong khoảnh khắc hiện tại mầu nhiệm. Hạnh phúc được dưỡng nuôi bằng tuệ giáctình thương rộng lớn. Tôi hạnh phúc, và rồi người thương cũng sẽ hạnh phúc vậy.

Đã và sẽ có nhiều con đường dẫn đến hạnh phúc chân thật. Nhưng tôi khắc cốt ghi tâm lời thiền sư Nhất Hạnh: Hạnh phúc là con đường. Hạnh phúc không nằm ở đích đến.

Bài hát “Người Đi Vòng Quanh“:

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=z97ned45OuQ]

 

Võ Quân Zeroman

Câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã được chứng minh

Featured image: Manhhai

 

Một bữa nọ ngồi xem Paris By Night, hình như là cuốn Huế – Sài Gòn – Hà Nội thì phải, tôi được xem một tiết mục vô cùng xúc động. Đó là tiết mục nhạc cảnh Hát Trên Những Xác NgườiNhững Con Đường Trắng do Khánh Ly & Quang Lê trình bày. Một câu hỏi bỗng nảy ra trong đầu tôi: Tại sao lại quá nhiều dân thường chết thế kia? Thế là tôi bắt đầu tìm hiểu và thật khốn nạn khi biết rằng, thỏa thuận ngừng bắn ngày Tết thế rồi trở mặt tấn công để “địch không kịp trở tay”. Đã vậy còn sát hại những người dân Huế vô tội chẳng có lý do y như phiến quân IS bây giờ. Câu nói của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã được chứng minh:

“Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy xem những gì cộng sản làm.”

Chưa hết, tôi còn thật sự thấy sốc khi biết rằng từ lúc thành lập cho đến tận nay, đảng Cộng Sản Việt Nam còn làm nhiều trò bẩn thỉu và độc ác khác (cố ý hay vì ngu dốt mù quáng?) như sát hại, giam cầm các nhân sĩ trí thức không theo lý tưởng của Đảng (vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Hồ Con Rùa), cải cách ruộng đất 1950 cho ném đá tới chết những người từng cưu mang Đảng, giam cầm tù tội hơn nửa triệu quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa sau 1975, tịch thu và đốt văn hóa phẩm miền Nam dưới chiêu bài “đồi trụy, ủy mị, tàn dư Mỹ Ngụy”, cho công an chìm, côn đồ hành hung những người bất đồng chính kiến dám nói lên sự thật… Nhiều lắm, nhưng mà những cái này chẳng có trong sách giáo khoa đâu.

Tôi là một sinh viên. Tầng lớp mà đã từng góp phần làm sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Sài Gòn trước 1975, tầng lớp đã làm rúng động Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1976 & 1989, tầng lớp đã làm rung chuyển chính phủ Hồng Kông năm 2014.
Tôi cũng muốn được dấn thân mình đấu tranh cho lý tưởng cao đẹp như những Alex Chow, Joshua Wong. Thế nhưng…

Khó lắm, chẳng làm gì được vì chính phủ này quá tinh vi. Này nhé, từ lớp 10 trở lên tôi đã bị bắt buộc phải kết nạp Đoàn viên (Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh). Một cái tổ chức mà tham gia mỗi tháng bạn phải đóng phí để các anh các chị cán bộ họp. Khi có phong trào nào như Mùa Hè Xanh, mít tinh ngày phòng chống HIV/AIDS, hiến máu… thì bạn sẽ được gọi đi cho đủ “quân số”. Đi với những đứa đi làm thì ít mà chụp ảnh tự sướng thì nhiều. Làm xong rồi thì bye bye em, cấp trên có khen gì, thưởng gì anh chị lãnh giùm cho. Rồi sinh hoạt, nội dung: “Cảnh giác với thế lực thù địch, không được tham gia biểu tình chống Trung Quốc vì nhà nước mình chưa cho phép, phải noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Hồi vụ Nguyễn Phương Uyên truyền đơn bị bắt, tập hợp đoàn viên lại nói bóng nói gió “một số sinh viên trường khác bị thế lực phản động mua chuộc, hại dân hại nước”. Thằng cha đang phát biểu (xin nhấn mạnh là Bí thư Đoàn TN Thành Phố BL tỉnh tôi) tháng trước nhậu xỉn lái xe tay ga đụng xe đạp người bán kem bên đường không xin lỗi mà còn đánh người ta, bị dân gần đó nhào ra đạp.

Rồi chưa đâu, khi kiếm việc làm thì bạn phải tiếp tục chịu kết nạp Đảng, dù là làm ở bệnh viện hay trường học. Không kết nạp hả, đừng có mơ bạn được nhận việc, tín nhiệm, tăng lương. Gia nhập đảng chính trị mà cũng bị bắt buộc là sao? Suy cho cùng thì chẳng ai muốn tham gia vào hai cái tổ chức vớ vẩn này làm gì cho mệt, toàn bị bắt buộc, ngoại trừ mấy thằng muốn thành quan để kiếm tiền.

Nên tôi quyết định sẽ viết cho quê hương tôi, viết như nhà văn Lỗ Tấn đã viết. Mặc cho những người thân bạn bè bị nhồi sọ còn đang mê muội gọi tôi là phản động. Mặc cho có bị tù đày, hành hung vô cớ. Vì chăng hy sinh một con én nhỏ mà làm nên cả mùa xuân thì cũng đáng phải không các bạn?

 

Hồ Nhất Duy

Những ngày tù chung với ông Đạo Dừa

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Tôi biết về ông Đạo Dừa rất ít.

Trước kia, có một dạo tôi hiểu lầm ông. Nói hiểu lầm thì không đúng lắm, tôi đã đánh giá sự đấu tranh của ông một cách phiến diện, hời hợt. Tôi được biết ông tên Nguyễn Thành Nam, một nhà trí thức tân tiến, đỗ bằng kỹ sư Canh Nông ở Pháp, có tinh thần ái quốc cao. Ông thành tài về nước, không làm việc cho Pháp, dấn thân vào cuộc cách mạng dân tộc.

Vào thuở tôi còn mài đũng quần nơi những lớp trung học Pháp, tên tuổi của ông đã lẫy lừng, tương lai rạng ngời hào quang. Người Pháp ở Đông Dương rất ưu đãi dân thuộc địa thông thạo Pháp ngữ. Từ các công sở đến tòa án, hễ ai nói thông được tiếng Pháp kể như nắm được chiếc chìa khóa vàng trong tay, vào cửa nào cũng thông cũng lọt. Huống chi đối với những nhà khoa bảng xuất thân từ những đại học ở “chánh quốc” áo gấm về nước! Với cái tài ấy, cái thế ấy, giá khéo luồn lọt một tí, làm gì chẳng thừa miếng đỉnh chung?

Nhưng ông kỹ sư Nam ấy lại không đem cái tài học của ông làm việc cho Pháp. Ông cũng không dùng cái vốn liếng văn hóa Tây phương gây lợi cá nhân, cho có được vợ đẹp con ngoan, cho có trang trại giàu sang trưởng giả, hoặc khai khẩn dinh điền màu mỡ cò bay thẳng cánh… Ông đã rũ bỏ cảnh phồn hoa quyến rũ, dứt lìa văn minh vật chất ông có thể thụ hưởng thừa thãi, để về một cồn vắng… trèo lên ngồi trên ngọn cây dừa mà tu, và thành là ông Đạo Dừa!

Tôi từng nghe mấy người anh bà con, cùng ở Pháp về chuyến tàu với ông, không ngớt bàn tán về hành động ấy của ông:

– Kỹ sư Nam ở Bến Tre tính gì thế? Toan làm chính trị? Hay muốn chóng nổi danh?
– Hắn bất hợp tác với nhà cầm quyền ư? Chủ trương tranh đấu bất bạo động như thánh Gandhi bên Ấn Độ à? Bối cảnh chính trị ở Việt Nam khác xa với bên ấy lắm cơ mà!
– Hay hắn lập dị? Cũng muốn tỏ ra ta đây anh hùng cách mạng?

Tôi nghe nói mà chán ngắt cho mấy ông anh họ ấy. Họ còn ham thụ hưởng, có dám dấn thân như thế đâu. Cũng có kẻ xu thời, làm chính trị sa lông. Thứ chánh trị không tốn kém gì, không hy sinh nguy hiểm gì, mà lại được tiếng là kẻ thức thời.

Tôi là lớp trẻ vừa trưởng thành, vừa mới hiểu biết, trong thập niên 30-40. Chúng tôi thường thao thức theo tiếng gọi thức tỉnh của hồn nước, của các bậc tiền bối yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng, ông Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ… Và cái chết oanh liệt của các bậc anh hùng Yên Bái Nguyễn Thái Học, Ký Con… đã khơi dậy lòng yêu nước khắp nơi.

Chúng tôi sống trong ký túc xá, giữa bốn bức tường kín học đường, song cũng biết được đại khái những hoạt động của các ông Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Hồ Văn Ngà… và vô số nhà trí thức Trung Nam Bắc… đã không chạy theo vinh hoa phú quý thuở bấy giờ mà lại dấn thân làm quốc sự. Những quyển sách quốc cấm như Phan Đình Phùng, Con hùm Yên Thế Hoàng Hoa Thám, Giặc Cờ Vàng… được chúng tôi lén lút chuyền tay nhau, nửa đêm chun vào cầu tiêu, xem mê mệt không thôi.

Phong Trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục với những tổ chức đưa thanh niên du học nước ngoài, những trường bí mật đào tạo nhân tài đất nước đã nhiều đêm là mộng trắng canh trường của lòng trai háo hức dấn thân vào phiêu lưu của chúng tôi. Chúng tôi không còn lòng học hành nữa. Cái học trong nước, dẫu đến cao đẳng, cũng chỉ để làm nô lệ. Chúng tôi từng chứng kiến, căm hờn và ứa lệ, khi trông thấy đang trong giờ giảng bài, vị giáo sư đáng kính mến bỗng bị lính kính, mật thám Pháp vào lớp, xích tay lại dẫn ra xe…

Giữa cái buổi giao thời đặc biệt ấy của đất nước, bọn thực dân cai trị cố tình bên trên đè ép xuống, dân chúng ở dưới ngộp ngạt trôi mình, có một số thanh niên Tây học, đâm ra hoang mang mất hướng. Một số bỏ sở làm lương to, đi lên núi Cấm tu hành, hoặc toan luyện bùa phép chống lại súng đạn, hoặc toan tìm hậu duệ các tiền bối kháng Pháp thời xưa? Một số lại ủy mị hơn, tìm quên lãng hận mất nước trong làn khói phù dung! Một số tìm đường trốn ra nước ngoài, cố sao móc nối được một anh thủy thủ ngoại quốc có tàu buông neo ở Nhà Rồng, năn nỉ sao cho anh ta thương tình dấu dưới hầm tầu để đi được thoát. Nếu rủi ra khơi rồi mà thuyền trưởng hay được, bất quá hắn xiềng chân lại, chờ đến một bến cảng nào đó thì tống khứ lên bờ, miễn đừng trong thuộc địa của Pháp thôi, là cũng sướng đời rồi!

Tuy không nói nhiều ngoại ngữ, chỉ biết tiếng Pháp rất hạn chế trong thương trường quốc tế, nhưng những thanh niên mạo hiểm vẫn tin tưởng ở sức lực và bàn tay tháo vát của mình để có thể kiếm được cái ăn qua buổi, miễn không ngửa tay xin ăn. Mà dù không kiếm sống được, chết đói xứ lạ là cùng, còn hơn sống nô lệ nơi quê nhà vốn nổi tiếng vựa lúa Châu Á!

Tôi có một số bạn bắt mối được với một bạn thủy thủ tàu buôn Pháp, bọn này đòi 50 đồng mới cho xuống tàu. Ba đứa đều là học sinh, còn trong cảnh cơm cha áo mẹ, làm sao có đến một số bạc to lớn như thế? Bán cả đồ đạc, quyên góp khắp bạn bè mãi mới được 40 đồng, định sẽ năn nỉ xin bớt, chắc bọn chúng cũng chịu, nhưng khi đem tiền ra bến, hỡi ôi, con tàu buôn hôm nọ đã nhổ neo, ra lòng sông Sài Gòn rồi!

Sở dĩ tôi nói lên việc này là để cùng quý bạn hình dung lại thời điểm ấy của những công dân Việt Nam, như dòng sông Cửu Long đợt sóng này nối tiếp đợt sóng khác, đã ý thức được những việc cần phải làm của người bị trị. Quyền yêu nước không phải ở một người, ở một đảng phái nào. Bây giờ, người ta tha hồ tô hồng, chuốt lục lịch sử đảng họ. Bẻ cong cả lịch sử. Phủ nhận công ơn của những người ngoài đảng ta!

Các văn sĩ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa tán tụng tận mây xanh về việc đi tìm đường cứu nước của “bác”, làm như chỉ có “bác” của họ mới độc đáo đi nước ngoài. Ở Sài Gòn, có một dinh thự to tát và tráng lệ của thực dân Pháp bỏ lại bến Nhà Rồng, đáng lẽ thuộc về nhân dân đang thiếu nhà ở, thì đảng lại làm thành ngôi nhà kỷ niệm nơi xuất xứ đi ra nước ngoài của lãnh tụ. Để thờ những vật vớ vẩn! Sao không thờ bao nhiêu bậc tiền hiền cách mạng trước “bác” hoặc đồng thời với “bác”, tài ba hơn và sự hy sinh cống hiến nhiều hơn?

Cổ nhân bảo: luận anh hùng, chớ luận vào thành công hay thất bại, phải luận vào sự tiên phong khởi đầu. Những người thắp sáng, những nhà khai hoang, trong lãnh vực thương nước yêu nòi mới thực hiển hách. Cũng như nơi tuyến đầu, người lính trước tiên nhận diện được quân thù mà cảnh giác cho bạn đồng ngũ, dù có bị bắn ngã chết, vẫn giữ công đầu! Tổ quốc Việt Nam không quên ơn những người con ấy. Dầu hiện nay, họ bị bôi nhọ, hay xuyên tạc. Trong số đó có ông Đạo Dừa. Với một năm ở tù chung ở khám Cần Thơ, tôi mới thật sự biết ông. Khâm phục ông nhẫn nại, kiên quyết và bất khuất hơn người.

Trước kia, tôi chỉ biết ông có chí hướng hơn người. Ông tìm con đường tranh đấu riêng. Ông không theo phe này, lập hội kín nọ. Ông làm cách mạng quần chúng. Lấy số đông dân chúng làm hậu thuẫn. Ông pha màu tôn giáo vào chính trị, và ông đã khởi xướng lên một mình. Một loại tôn giáo hòa đồng. Thực chất là lấy tình thương bao la để khuyến dụ và cảm hóa mọi người. Ông đã gặt hái ít nhiều thành công. Lúc bấy giờ, tôi vẫn còn cho ông là một con người đáng tôn kính, song có phần lập dị.

Nhân một dạo, tôi có dịp đi đò máy từ bến bắc Rạch Miễu sang tỉnh lỵ Bến Tre, khi con đò chạy ngang qua một cái cồn đất nọ, người đi đò cùng trầm trồ trỏ tay bảo:

– Ông Đạo Dừa ngồi trên đọt dừa đó, thấy không? Ổng ngồi mấy năm nay rồi. Mặc nắng mưa, trưa tối!
Một bà lão già nói bằng giọng cung kính:
– Ai cũng tưởng ổng chịu không nổi, mà chết rồi! Nhưng người ta vẫn thấy ông ngồi trơ trơ đó. Mà ông phải nhà nghèo hèn gì, con nhà giàu sang, danh giá. Vậy mà ông lại đi tu. Nói là để độ đời!
Tôi hỏi lại:
– Tây để cho ông làm như vậy sao? Ông ra vẻ chống đối như vậy, bỉ mặt cho người Pháp ở Đông Dương lắm.
– Mèn ơi, họ bắt ổng giam vô tù mấy lần. Ổng tịnh khẩu, không thèm nói chuyện. Nhưng viết giấy hỏi Tây là ổng có tội gì mà bị bắt? Đụng chạm nhân quyền sao đó! Tây cãi không lại lý của ổng, phải thả ổng ra. Ổng lại trèo lên cây dừa mà ngồi. Tây giận lắm, sai người đốn bỏ cây dừa của ổng. Mất cây dừa đó, ổng lại trèo lên cây dừa khác. Mèn ơi, ai trông thấy ổng trèo dừa mà hổng thương đứt ruột! Tây lại sai người đốn dừa nữa, ổng lại ngồi trên cây khác. Đốn hết dừa cù lao này, thì ổng sang qua cù lao kia. Bến Tre là xứ dừa mà. Không lẽ Tây đốn hết dừa của tỉnh? Thằng Tây đành chịu thua ổng luôn.
– Rồi ổng ăn gì?
– Ổng chỉ uống nước dừa, có khi ăn thêm vài trái chuối để sống. Vậy nên người ta mới kêu ổng là ông Đạo Dừa.
– Thời buổi lộn xộn, ổng ngồi hoài như vậy, không sợ nguy hiểm?
– Ổng hổng sợ. Mà dân cũng thương ổng, ngấm ngầm bảo vệ cho ổng.
– Ổng tịnh khẩu hoài, không mở miệng nói chuyện? Không thuyết pháp sao? Vậy làm sao truyền đạo?
– Ổng không nói. Chỉ viết ra trên giấy. Nói chuyện cũng bằng giấy tờ. Vậy mà đệ tử đông lắm. Ở khắp nơi, đâu cũng có. Cả ở Lục tỉnh, ở miền Trung nữa. Vì đạo của ông tốt một cái là thờ kính ông bà, tôn trọng lễ nghĩa và ăn ở hòa mục với mọi người.

Tôi chăm chú nhìn lên ngọn dừa khi phà chạy ngang mé cồn. Trên ngọn một cây dừa cao, một hình bóng người nhỏ thó, mặc áo vải vàng, ngồi thu lu trên một giạt bằng cây to, trông thấy bấp bênh lơ lửng. Trời trưa nắng như hun đốt, mắt nhìn lên lóe sao. Thế mà bóng người nọ vẫn ngồi xếp bằng an tọa, tịnh nhiên. Ông ngồi như thế đã mấy năm trời? Gương kiên nhẫn của ông thật đáng phục!

Tôi vì bận việc ở Bến Tre, đến xế chiều mới xuống phà trở sang tỉnh Mỹ Tho. Ông Đạo Dừa vẫn ngồi trên ngọn dừa nơi cồn đất nọ. Ngọn gió chiều thổi lộng lòng sông rộng. Cây dừa trông từ xa thấy chao đảo. Thế nhưng ông đạo vẫn ngồi bằng an, tâm tư vắng lặng vào cõi hư vô nào? Hay ông đang nghiền ngẫm một thế cờ hay để giải thoát cho đất nước, cho con người? Bên kia bờ tỉnh lỵ Mỹ Tho đang sáng choang ánh đèn phồn hoa, lại có tiếng ca nhạc từ đài phát thanh nào đó phát ra âm điệu xa vời quyến rũ, mê ly. Như tất cả giục giã con người đừng hoài phí tuổi xuân, cứ quyện hồn vào những hoan lạc, say sưa…

Tôi bất giác ngước nhìn hình bóng ông Đạo Dừa ngồi nơi hoang tịch nọ. Cái bóng dáng gầy còm của người trí thức ngậm câm tiếng nói ấy lại có một sức mạnh huyền vi rọi xuống lương tâm con người. Cảnh giác người đời đừng mê bả béo mồi thơm mà quên hờn mất nước!

Sau đó, tôi bị kẹt! Mãi lâu sau tôi mới lại có dịp về miệt Tiền Giang. Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường những người đàn ông có, đàn bà có, già có, trẻ có, mặc quần áo bằng vải màu vàng hoặc màu già, áo thì là áo bà ba gài nút ở giữa hay là vạt miễng, có người để tóc dài chít khăn màu vàng. Những người ấy ăn nói lễ phép, từ tốn và thân thiện. Tôi hỏi ra mới biết đấy là đệ tử của ông Đạo Dừa. Ông Đạo chủ trương hòa đồng tôn giáo. Ông thờ các bậc sáng thế. Phật Thích Ca ông cũng trọng, Chúa Ki Tô ông cũng kính, cả đến Lão Tử ông cũng theo, Khổng Tử ông cũng học… Tất cả các vị có lòng từ bi, bác ái, yêu thương nhân loại, xả thân vì chúng sanh, ông đều phụng thờ.

Đó là tình thương yêu phải học tập, phải noi theo. Đệ tử của ông rải rác khắp nơi. Họ hành đạo và truyền đạo với lòng tin vững chắc, dù phải gặp rất nhiều khó khăn, cả những hiểm nguy. Vì trong cái thế giới nhiễu nhương, còn lắm người nhắm mắt chạy theo thế lực kim tiền, thì trái tim thương yêu của người thiện lương dù mở rộng mấy cũng ít có người cảm thông. Rồi sau đó, tôi lại gặp một số đệ tử của ông Đạo Dừa trong cảnh nhà tù! Hỏi đến Thầy họ, Thầy họ chắc cũng bị cầm giữ đâu đó. Họ vẫn không rời chiếc áo bà ba vạc miễng của họ. Sau lưng áo, họ vẽ hai chữ Tu Tù thật lớn. Họ lặng thinh, không nói gì. Ai muốn hiểu sao hiểu.

Có thể bảo là vì tu nên mới bị tù. Có thể có nghĩa ở tù vẫn cứ tu. Lại có nghĩa lấy việc ở tù làm công quả học thành đạo. Theo họ, họ bảo tu cho đất nước hòa bình, con người thương yêu con người hơn. Chỉ có tình thương yêu mới khai trừ họa chiến tranh. Chỉ có tình thương yêu, mới san sớt đồng đều, mới thông cảm nhau, không cần đấu tranh giai cấp!

Tôi hỏi người đệ tử của ông Đạo Dừa:
– Nghe nói Thầy anh muốn làm người hòa giải?
– Phải. Cậu Hai yêu nước thương dân, không nỡ nhìn triệu triệu thanh niên ở hai phía bị nướng thiêu trong nạn nồi da xáo thịt. Chiến tranh đã hơn ba mươi năm, dân chúng điêu linh, xã hội tàn hoại, đất nước nghèo khổ lắm rồi, sao người ta lại không chịu ngưng tay?
– Thấy anh tin là hai bên có thể ngồi lại với nhau?
– Cậu Hai tin ai cũng có lòng yêu nước thật sự. Lòng yêu nước đứng trên quyền lợi của bè cánh, đảng phái.
– Và Thầy anh tin “bác Hồ” sẽ từ bỏ đảng cộng sản? Hay đặt quyền lợi của đảng, của Nga Sô, của Trung cộng ra ngoài để cứu nước cứu dân?
– Nếu ông Hồ yêu nước, ông phải làm như vậy!
Tôi khẽ thở dài:
– Thầy anh chủ trương tốt, nhưng tình hình chính trị phức tạp lắm, lại thêm lòng dạ tham lam của con người, tham vọng của quốc tế… Không như việc Thầy anh nuôi con mèo chung với con chuột một lồng…
– Thú vật còn biết dung nhau, con người lại không thể sao? Việc nước nhà mình đã đến lúc mình phải tính với nhau, không cần đến anh Mỹ, anh Nga, anh Tàu chen vào nếu họ không có thiện chí giúp đỡ!
– Tôi sợ Thầy anh ôm mãi cái không tưởng ấy. Giá mà thành được như thế, người dân Việt nào lại không thích?

Về sau, tôi lại nghe tin ông Đạo Dừa trở về Cồn Phụng, tức là cái cồn đất ông trèo lên ngồi trên cây dừa mấy mươi năm về trước. Khi ấy cồn đã có đông dân cư tụ tập. Nhà ở khang trang. Dân tình dễ sống. Có văn hóa. Có tình người. Có trật tự. Có cả mấy người Mỹ tu ở đấy. Ai trông thấy tướng đi lênh khênh của họ trong bộ quần áo bà ba màu vàng may rộng khổ mà vẫn thấy túm bó, với đôi bàn chân đi đất rón rén của họ, đều phải che miệng cười. Nhưng là cái cười đầy thiện cảm, thân ái. Họ gặp ai cũng chắp tay cúi đầu, nói trọ trẹ:

– Chào ông! … Chào bà! … Chào anh! … Chào chị! … Mạnh giỏi!

Nơi Cồn Phụng còn treo một biểu ngữ to Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Đó là một câu sấm xưa từ mấy trăm năm, mà người ta cho là trong bài sấm Trạng Trình, tiên đoán về hậu vận nước nhà. Nhưng không ai hiểu câu sấm ấy ứng vào thời kỳ nào? Sao không đánh nhau mà thành? Và cái thành ấy có lợi cho phe nào? Tôi thầm nghĩ ông Đạo Dừa đưa lên câu biểu ngữ để kêu gọi ngưng chiến.

Nơi bến cồn có đậu một chiếc tàu sắt mà ông Đạo Dừa cho trang trí theo mỹ thuật Việt Nam và đặt tên là thuyền Bát Nhã. Trên con thuyền rộng lớn ấy, nơi phía trước, ông bầy ra nhiều hàng ghế sắt cho du khách ngồi. Nhiều phái đoàn ngoại quốc đến phỏng vấn ông, thu băng, quay phim. Ông ngồi nơi chiếc ghế đặt phía trước, có hai đệ tử đứng hai bên. Chính hai đệ tử nọ trả lời những câu hỏi của khách, thỉnh thoảng ông mới biên vào giấy cho họ phát biểu thêm những chi tiết.

Tôi đến nhằm lúc hết giờ phỏng vấn, nhưng cũng được đệ tử của ông nói về chánh kiến của đạo. Ông nhận ra tôi, chỉ mỉm cười. Nụ cười hiền hòa và thân thiết. Ông vẫn không ngớt tay lẫy những hột bắp, để sau đó tự ông nấu lấy ăn. Trước kia ông chỉ uống nước dừa. Dạo sau này, vì làm việc nhiều, vì đệ tử khuyên lơn, ông mới ăn thêm buổi ngọ (buổi trưa) bằng bắp nấu. Tôi trông thấy ông gầy ốm quá, thân hình nhỏ thó, đôi tay khẳng khiu, mặt thỏn như trẻ nít, song đôi mắt tinh anh sáng rực khác thường. Các phóng viên truyền hình ngoại quốc không ngớt tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục trước một ông già ốm tong teo như cây sậy mà lại có một mãnh lực chịu đựng kiên cường.

Tự ông làm ra thức ăn cho ông, tuy rằng đệ tử của ông rất đông. Nếu ông để cho họ phục dịch, chắc họ sung sướng lắm. Nhưng ông chủ trương có làm mới có ăn, ông phải tự tay làm lấy thức ăn cho ông. Nếu ông bị rủi ro nằm bệnh ngày nào, ngày đó ông nhịn đói. Không ai khuyên lơn, năn nỉ ông được một miếng nào. Tôi trông thấy những việc ông làm, lòng vơi bớt đi những thành kiến thắc mắc về ông.

Ông thật sự thể hiện tình thương yêu to lớn. Ông xót xa đau đớn khi thấy chiến tranh kéo dài, dân tộc điêu linh tang tóc, đất nước kiệt quệ tài nguyên, lẽ ra có thể làm dân giàu, nước mạnh! Nhưng giữa khi đôi bên say chiến, nhất quyết một được một thua, tiếng gọi hòa bình của ông chỉ là tiếng gào khản trong sa mạc! Rồi đây, Cồn Phụng của ông, nơi ông tạo được một xã hội kiểu mẫu nho nhỏ ấy có được yên? Thân phận của ông và bầy đệ tử rồi sẽ nổi trôi, chìm ngụp thế nào trong cảnh biến loạn tang thương của đất nước?

Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái ngày uất hận của người Việt tự do! Cộng sản đã thôn tính được miền Nam Việt Nam, và chỉ qua một thời gian ngắn đã làm cho toàn quốc đói rách và sa đọa hơn bao giờ hết! Tôi lại gặp ông Đạo Dừa trong ngục thất Cần Thơ. Đầu tiên, tôi trông thấy ông, cũng như tôi, bị liệt kê vào thành phần tối nguy hiểm và bị biệt giam. Tức là nhốt trong co-nét, thùng sắt to tướng đựng đồ viện trợ của Mỹ hồi xưa.

Mỗi người một co-nét. Nằm ngồi, ăn uống, ỉa đái — xin lỗi độc giả — cũng tại chỗ. Cửa co-nét đóng lại, mình một mình trong tối bưng, trơ trọi và… thối bung! Không trông thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Không biết ngày tháng, thời khắc. Thỉnh thoảng mới được chúng mở cửa co-nét dọn dẹp vệ sinh. Ôi mừng ơi là mừng. Mừng trông thấy được ánh sáng. Trông thấy những vật cử động sao lạ mắt quá chừng! Mới biết rằng mình còn sống ở nhân gian!

Bọn cai tù, bọn cán bộ, đối xử rất tàn nhẫn. Chúng ngoài miệng nói khoan hồng mà lòng thâm như rắn độc. Vô cớ cũng chửi rủa hạ nhục. Chúng như thể rửa hờn giai cấp bằng trút lên đầu kẻ sa cơ, thất thế dưới tay chúng. Chúng oán ghét ông Đạo Dừa vô cùng. Chỉ có ổng thản nhiên và coi thường chúng. Chúng càng đọa đầy ông bao nhiêu, ông càng quyết liệt và quật cường bấy nhiêu. Quyết không chịu thua chúng. Và lắm lần hành hạ ông mãi không xong, chúng phải chịu thua ông. Ông phản đối chúng bằng cách gõ cái ca uống nước vào cửa co-nét… xèng xèng… xèng xèng… có khi cả ngày không ngớt tiếng…

Tên lính gác bực mình quát hỏi:
– Làm gì om sòm thế? Giờ này khuya rồi, làm thế ai ngủ được?
Tiếng nói chậm rãi và rắn rỏi của ông Đạo Dừa đưa ra sau cửa co-nét:
– Cậu ơi, tôi thương cậu lắm…
– Tôi chả cần ông thương!
– Có ai ngăn trở được tình thương? Cậu không cần tôi thương là quyền cậu. Còn tôi thương cậu là quyền tôi. Tôi thương cậu chỉ là một kẻ tay sai. Như thiên lôi, lính trên bảo đánh đâu là phải làm vậy thôi. Thương cậu chiến đấu mấy năm trời, vào sanh ra tử biết bao lần, rốt cuộc cũng chỉ là anh lính gác, thương cậu chức vụ bé nhỏ quá, không làm sao giải quyết nổi chuyện của tôi…
– Nhưng ông muốn gì?
– Thương cậu quá! Cậu không giải quyết nổi, hỏi làm gì. Cậu kêu người lớn hơn cậu lại cho tôi nói chuyện.
– Giờ này mấy đồng chí cán bộ ngủ cả rồi.
– Tôi thương cậu quá! Nhưng khỏi cần nói chuyện với cậu.

Ông Đạo Dừa lại gõ lanh canh… lanh canh… Gõ nhịp đều như tiếng mõ hồi một. Mấy người bạn tù gần đấy giật mình thức giấc, thì thầm bảo nhau:

– Cậu Hai lại tranh đấu nữa rồi Bọn quản giáo, cán bộ rồi đây khổ sở với cậu không ít!

Những người bị “học tập cải tạo” bất đắt dĩ ấy tuy phải làm lụng cực nhọc ban ngày, ban đêm cần giấc ngủ cho lại sức, song không phiền hà khi phải thức giấc vì tiếng khua lon của ông Đạo Dừa. Trái lại, họ rất thích cảnh ông Đạo Dừa chống báng lại bọn hung tàn giết người không gớm tay ấy. Chỉ có ông Đạo Dừa mới dám làm, mới không biết sợ, không khuất phục trước uy vũ. Ông gõ lon gọi mãi cho đến khi tên lính canh phải đi gọi tên cán bộ cai tù đến. Tên này quát tháo lên:

– Ông muốn gì ?

Giọng nói của ông Đạo Dừa từ trong co-nét đưa ra, mềm mỏng, ngọt ngào:

– Tôi thương chú cán bộ quá. Thương chú đang ngủ ngon giấc mà bị dựng dậy vì tôi. Nhưng đành phải gọi chú nửa đêm, nửa hôm như thế này là vì tôi bị… bỏ đói!

Bọn quản giáo, thường ngày hay sừng sộ, mắng chửi phạm nhân. Với ai dầu già lão, bạc phơ tóc trắng, chúng cũng gọi là anh, tức là tử tế lắm rồi. Song đặc biệt chúng lại gọi ông Đạo Dừa là ông.
Tên cán bộ bực tức bảo:

– Ai bỏ đói ông?
– Không bỏ đói tôi, sao không cho tôi uống nước dừa?
Tên cán bộ mở cửa co-nét, chỉ tay về ổ bánh mì và lon sữa:
– Không có nước dừa nhưng có bánh tây và sữa đây thôi!
– Tôi không ăn những thứ đó. Tôi chỉ uống nước dừa.

Ông trả lời rất quả quyết. Tên cán bộ cầm ổ bánh mì lên xem có bị cắn mất miếng nào hay chăng? Lại bưng lon sữa xem xét tỉ mỉ. Hắn nghi ông Đạo Dừa giả bộ không ăn, nhưng kỳ thật đã nhấp nháp chút ít rồi giả bộ làm khó. Nhưng ổ bánh mì vẫn y nguyên, cả lon sữa cũng vẫn còn đầy. Mùi bánh và mùi sữa đưa vào mũi hắn, thơm ngon đến nỗi hắn phải nuốt nước bọt đến đánh ực một cái trong cổ họng. Hắn ăn no đầy đủ thế mà thấy ổ bánh và sữa ngọt bùi, béo bổ phải thèm rỏ dãi, thế mà lão già ốm nhom kia lại có gan cóc tía, đã đói rã ruột, vẫn chẳng thèm rớ tới.
Gã dằn ổ bánh mì và lon sữa xuống nền sắt co-nét, sầm nét mặt bảo:

– Ngon bổ thế này mà ông chê. Chả có thứ khác đâu!
Ông Đạo Dừa vẫn ngọt ngào:
– Tôi thương chú cán bộ! Chú nhỏ chức quá, không giải quyết được vấn đề của tôi. Thương đã làm mất giấc ngủ của chú. Thôi chú về ngủ lại đi. Để tôi gọi cấp trên của chú. Tôi thương chú ít quyền quá!…

Và rồi ông lại gõ lanh canh… lanh canh… Gõ đến sáng vẫn không dứt tiếng. Tên trưởng trại phải đến gặp ông:

– Ông đòi hỏi chuyện ngoài luật lệ của nhà tù.
– Mấy chú bỗng dưng giam cầm tôi, giam cầm hàng ngàn người vô tội, có theo luật lệ nào không?
– Mấy người có nợ máu với nhân dân. Còn ông là tay sai của CIA.
– Chú có biết CIA là thế nào mà mở miệng ra là buộc tội cho mọi người. Ai làm sở Mỹ là CIA? Tiếp xúc với người Mỹ là CIA? Biết tiếng Ăng-lê cũng là CIA? Học thức một chút cũng CIA. Chỉ có bần cố nông mới không là CIA? Thế hồi Việt Minh còn ở chiến khu Việt Bắc, có Mỹ trợ lực cho cũng là CIA? Bác Hồ lúc ấy cũng CIA?
– Này ông đừng nói bậy mà khốn!… Cứ nói đến việc ông kêu đói. Tại ông chê thức ăn đặc biệt của nhà tù cho ông dùng….
– Ê, không phải à. Thức ăn đó Tín hữu của tôi gởi cho. Tôi thương chú Trưởng trại nói sai. Cố tình bóp méo sự thật. Tín hữu của tôi sợ tôi bị bỏ đói chết nên mới gởi vào cho dừa nước, bánh mì, sữa… Tôi không ăn bánh mì sữa, chỉ muốn nước dừa thôi. Tôi thương Trưởng trại không giải quyết nổi việc này, thì tôi gọi cấp Đảng ủy của quản giáo vậy!

Và ông lại gõ lanh canh… lanh canh…. Bọn cai tù nghiến răng căm tức lắm mà không làm gì đặng ông. Chúng không muốn ông bị chết đói để khỏi bị mang tiếng. Nhưng ông Đạo Dừa cũng biết như vậy, vẫn kiên trì mà sống. Như thể thi gan luôn cả đến cái chết. Trưởng trại và bọn quản giáo phải họp khẩn cấp. Dừa trái thì có sẵn do đệ tử của ông Đạo Dừa gởi vào, nhưng ai chặt cho ông uống? Lũ răng đen mã tấu chặt đầu người thì sành, nhưng chặt quả dừa đâu có biết! Chúng đâu dám phát dao cho ông. Nhỡ ông lấy dao rạch bụng tự tử thì sao? Bàn cãi mãi, chúng mới nẩy ý kiến tìm trong số tù gốc người Bến Tre ra chặt dừa cho ông. Chúng gọi anh NVA ra, bảo đem dừa đến cho ông uống. Anh này ngơ ngác, bảo:

– Tôi có biết chặt dừa đâu?
– Anh là dân Bến Tre mà không biết chặt dừa ư?
– Tôi chèo đò. Có vườn dừa đâu mà biết chặt.

Có anh TVT tình nguyện ra. Anh này trước có bán dừa, biết cách thức. Anh chỉ cần dựng đứng trái dừa, bổ ba nhát dao, chặt xéo nơi núm dừa thành tam giác, bật tung núm dừa ra, không một giọt nước sóng sánh ra ngoài. Anh bưng quả dừa đến bên ông Đạo. Tuy anh không phải là đệ tử, anh cũng cung kính bảo nhỏ:

– Cậu Hai uống đi để mà sống.
– Cám ơn em. Tụi này bạo phát, bạo tàn. Qua sẽ không sống đến ngày đó. Qua biết chúng quyết làm cho qua chết. Nhưng thể xác thời chết chứ tinh thần thời không!

Bọn Việt cộng hành hạ ông Đạo Dừa đủ cách. Chúng lôi ông ra để tắm rửa cho ông:

Ông ở dơ quá không chịu tắm rửa, không thay đổi quần áo, hôi hám kinh tởm quá. Lại chí rận, bọ chét cùng mình, lây bịnh nguy hiểm cho cả khám!

Chúng cầm vòi nước xịt vào ông. Nước xịt rất mạnh, làm ông té lăn lốc. Ông cố gắng bò dậy. Lại bị nước bắn tung người đi, lăn cuồng như bông vụ. Ông không hề rên rỉ, than van một tiếng. Vẫn gượng ngồi dậy, lại té lăn. Chúng cười ầm lên. Ông vẫn cương quyết không khuất phục. Bọn tù chúng tôi nhìn ông, xót thương biết mấy, và khâm phục ông không lời nào cho xiết. Ông bao giờ cũng ngẩng cao đầu không cúi luồn. Cả đời ông bị tù đầy cũng lắm, ông sợ gì lũ trẻ ranh muốn giết ông mà khỏi mang tiếng này! Chả bù trong khám, biết bao kẻ xưa kia giầu sang danh giá, oai quyền hống hách, bây giờ khúm núm sợ sệt trước lũ cán bộ ngu dốt:

– Dạ bẩm thưa cán bộ, em lỡ lầm, lần sau không dám. Xin cán bộ rộng lòng tha thứ một phen.

Một điều dạ thưa, vâng bẩm, khúm núm, sợ sệt, như muốn thun người nhỏ bớt đi. Uốn lưng khòm cong lại, cầu an, tắc trách, thủ phận mình, quên đồng bạn. Lại còn một hạng khác, ti bỉ hơn, cam làm ăng-ten cho thù. Phản bạn, bội tình đồng ngũ, nghĩa bạn bè, để được một lời hứa sẽ cứu xét cho về sớm, hoặc được một vài ân huệ cỏn con… Ôi, điếm nhục!

Tôi nhìn gương can cường của ông mà lại xấu hổ cho mình. Mới bị tù đầy vài bận thôi mà tôi tưởng rằng hãnh diện lắm. Tù Pháp thuộc tôi có ở. Tù Nhật Bổn tôi cũng đã nếm mùi. Rồi lại tù Việt Minh vào năm 1945, lại còn hai năm vướng mắc trong nhà tù của chế độ trước vì chống nạn độc tài tham nhũng nữa! Nay lại vào khám Cần Thơ, bị liệt vào thành phần biệt giam nguy hiểm, biết chừng nào được ra? So với các bậc cách mạng xả thân tranh đấu thời trước, tôi nào có ăn nhằm gì?

Trừ lúc ở tù Việt cộng những năm ấy ra, cảnh ngồi tù Nhật Bổn là đáng nhớ nhất. Năm ấy 1942, tôi bị Hiến binh Nhật bắt giam ở “Chambre de Commerce” ở bến sông Sài gòn, sau này là Thượng Nghị Viện của chế độ trước. Vì tội rải truyền đơn chống thực dân, cả Pháp lẫn Nhật, mà bọn Hiến binh nghi tôi là gián điệp Trùng Khánh. Chúng giam vào phòng Thương Mại ấy, hai bên là chỗ giam người có song gỗ chắn trước mặt, chừa một lối đi ở giữa.

Mỗi sáng, 7 giờ, tụi Nhật cho chúng tôi đem thùng vệ sinh ra đổ xong lại bưng vào căn phòng giam hẹp của mình. Chúng bắt ngồi xếp bằng, thẳng lưng lên, tay để nơi đầu gối, không được nhúc nhích. Sáng ngồi tới 12 giờ trưa, được nghỉ ngơi cơm nước. Cơm thì được phát một chén gạo Thái Lan dẻo như nếp, có nêm tí muối. Chiều 2 giờ ngồi đến 6 giờ mới được nghỉ ngơi, cơm nước như khi trưa. Tối lại phải ngồi từ 7 giờ đến 9 giờ mới có quyền nằm xuống. Khi ngồi, phải ngồi yên như pho tượng. Nếu mỏi mệt khom lưng, nghiêng quẹo người, hay lệch đầu qua bên là bị một côn gỗ gõ đánh cốp trên đầu như bị sét đánh, tá hỏa tam tinh!

Đó là thằng đội Trâu, thân hình trùng trục như con trâu nước, đầu vấn khăn lông trắng, dưới bẹn thắt cái khố, đi qua lại nơi khoảng đường giữa, vai vác cây gậy gỗ tròn và nặng. Nó thường đập chẩy máu đầu tội nhân. Đấy là chỉ trừng phạt sơ sài về tội ngồi không thẳng thắn thôi. Còn khi bọn Nhật tra khảo để lấy lời cung khai thì thật kinh khủng rởn cả tóc gáy. Cứ hai thằng Nhật thân hình như hộ pháp quần một phạm nhân; vật, ném, tung, hứng… nạn nhân của chúng như quả bóng rổ! Thường thì có máu đổ, nạn nhân chết giấc năm ba phen mới tạm được buông tha cho về khám. Khi ấy tôi còn trẻ, háo động, làm sao ngồi yên tĩnh như thế từ giờ này sang giờ khác được. Nên cũng đã nếm mùi côn gỗ bao nhiêu phen.

Một hôm tôi trông thấy có một con gián bò ở kẹt song gỗ. Tôi mừng như bắt được vàng. Có được một sự sống động dưới mắt. Trông nó chạy tới chạy lui, cũng đỡ buồn trong cảnh hoang lương, tịch mịch. Dầu rằng khít bên đó cũng có nhiều bạn đồng cảnh, nhiều pho tượng sống! Tôi khi ấy chưa biết trầm tĩnh, nhẫn nhục của người luyện công tĩnh tọa. Dẫu có nén lắm, lòng vẫn xôn xao không định.

Đến nay, trông thấy ông Đạo Dừa nhẫn nại, trầm tĩnh và xem thường bạo tàn, vũ lực của chúng, tôi mới thấy đó làm gương cho mình. Quyết không ủy mị, buồn rầu, khổ đau, rên rỉ dưới bạo tàn. Ông Đạo Dừa bị xịt nước ướt loi ngoi, nằm im trong vũng nước lênh láng, da thâm tím lại. Nhưng một lát sau ông lại lồm cồm bò dậy. Lại ngồi xếp bằng ngay ngắn, ngẩng cao đầu. Trông thấy hình dáng gầy gò, ốm nhom của ông, da bọc trơ xương như cái xác ướp khô mà đôi mắt vẫn linh động, vẫn ảnh hiện tình nhân đạo, vị tha bao la…
Ông thường chống đối bọn Việt cộng:

– Các anh mà cách mạng cái gì? Cách mạng gì không biết thương dân, yêu nước, cam làm tay sai ngoại bang. Cách mạng gì mà giam cầm hàng triệu người vô tội? Làm hằng triệu người tán gia bại sản, tan nát gia đình? Làm cho sáu mươi triệu đồng bào phải rách rưới đói nghèo, không trông thấy ánh sáng hy vọng nào, một tương lai tốt đẹp nào. Thiên đường hứa hẹn của cộng sản các anh là hố thẳm muôn đời chôn vùi dân tộc!

Bọn chúng giam nhốt ông vào chuồng chó. Đó là một nơi nhỏ hẹp bên vòng rào, có mái thiếc che thấp, có giây chì gai bao quanh. Trước kia nơi đó nhốt chó nên có danh từ chuồng chó. Ban ngày nắng rọi xuống mái thiếc nung nóng như lò lửa. Đêm đêm về, gió khuya lạnh buốt như cắt da. Đến chó ở đấy còn chịu không nổi huống chi con người. Nhưng ông Đạo Dừa vẫn bền bỉ chịu đựng. Mềm dẻo như cây sậy giữa phong ba. Dầu cho cuồng phong, nghịch khí đến đâu, cây sậy tạm thời phải cong, phải ngả nghiêng, oằn oại trước bạo lực đàn áp hung tàn, nhưng không đổ gẫy!

Bọn Cộng sản chỉ muốn ông Đạo Dừa khuất phục chúng, thốt ra lời hứa hẹn với chúng không tranh đấu nữa, không chống đối nữa. Chúng chẳng những buông tha ông, còn cho ông những ơn huệ đặc biệt, hậu hĩ hơn người. Xưa kia, Pháp không mua nổi ông, Nhật không dụ dỗ ông nổi, Việt cộng nào đáng gì để ông nghe theo!

Cuối năm đó tôi bị chuyển trại. Khi đi ngang qua chỗ ông ngồi, tôi khẽ cúi đầu như chuyển lời nói qua tâm tưởng với ông:

– Cậu Hai ráng gượng sống…

Ông mỉm cười nhân hậu. Nụ cười ngậm ngùi vĩnh biệt!

Mấy năm sau, tôi được trả tự do. Không tội gì, mà mất tự do rồi được trả!  Và sau ba chuyến vượt biên cam go, tôi thoát ra được nơi vùng trời tự do. Nhờ vẫn đeo đuổi chí hướng phục quốc, tôi lê một giò qua nhiều nơi Âu, Mỹ, cả Á Châu. Khi đến địa phương nào có trồng cây dừa, tôi bất giác nhìn lên ngọn cây, liên tưởng đến ông Đạo Dừa. Hình bóng của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thành Nam hiện ra mờ ảo trước mắt tôi. Gầy gò ốm yếu, tưởng chừng gió thổi cũng bay như ông, ngờ đâu lại có lòng sắt đá kinh người! Tôi nghe như văng vẳng bên tai những lời nhỏ nhẹ của ông:

– Tôi thương mấy chú lắm, mấy chú Việt Cộng ơi. Mấy chú ngu dại lắm. Mấy chú không biết bạo tàn, bạo diệt! Chỉ có nhân nghĩa mới trường tồn!

Năm 1988, tôi gặp một người bạn mới vượt biên sang, bảo rằng ông Đạo Dừa đã tịch! Tôi bỗng nhiên cay xè mắt, đôi giòng lệ tiếc thương chan hòa… Cộng sản Việt Nam phạm rất nhiều lỗi lầm đối với Quốc gia, Dân tộc, trong đó có sự giết hại nhà chí sĩ hiếm có Nguyễn Thành Nam. Ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam là người trí thức cuối cùng đã hạ mình xuống tin tưởng vào thiện chí của Việt Cộng, dẫu sao cũng có lòng xúc động trước cảnh huynh đệ tương tàn… Nhưng ông đã mang mối thất vọng đấy xuống tuyền đài …


 

Đến hôm nay, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có một thiểu số trí thức thơ ngây cụ hoặc hoạt đầu, đang toan luồn lưng, cụp gối hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản Việt Nam bá quyền và ngoan cố. Các vị ấy có biết chăng đang vô tình nối giáo cho giặc? Cùng a tòng vào tội phản dân, hại nước? Xin hãy xem gương chiến đấu can cường của ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam và vô số chiến sĩ cách mạng đã bị Việt cộng hãm hại chết, để làm đài soi lại lương tâm mình!

Kẻ hèn này, cùng đồng bào trong và ngoài nước, rất mong được vậy lắm thay!

 

Hoàng Ngọc Giao
* Viết theo lời kể của Joseph Cao ở Paris để tặng những chiến sĩ can trường của đất nước.

Cảm xúc mùa xuân

Featured Image: Toan Quach

 

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa…”

– Nguyễn Du

Đất nước đã vào Xuân. Trời đất giao hòa, lòng người mênh mang…Đông qua Xuân tới, con tạo xoay vần, thời gian như bóng cây qua cửa sổ… Trước ngưỡng cửa của Mùa Xuân mới, tâm hồn ta lại lâng lâng, xao xuyến đến kỳ lạ; đôi lúc là nỗi lòng bâng khuâng, tiếc nuối vì thời gian trôi nhanh quá, mới đó mà một năm đã qua rồi…

Ai trong chúng ta chắc cũng từng đặt câu hỏi: sống là gì? Và mỗi người lại có câu trả lời cho riêng mình. Tuy vậy, để trả lời câu hỏi này lại không đơn giản chút nào. Khi đã “va đập” (chữ của Nguyễn Trần Bạt) cuộc sống chút ít, khi đã có chút vốn sống nho nhỏ thì tôi đã hiểu được một phần rằng sống là đấu tranh, là sự trải nghiệm. Sự trải nghiệm có thể là vui hay buồn, nhỏ bé hay lớn lao… nhưng con người thường luôn hướng tới những trải nghiệm mới, những trải nghiệm lớn lao.

Chính vì “không bao giờ dừng bước trước những trải nghiệm đỉnh cao” (Sony); “Hãy vượt qua chính mình để làm chủ thế giới ” (Archimeses)… nên xã hội loài người mới luôn phát triển. Một năm qua đi, tức là mỗi người chúng ta đã có cơ hội trải nghiệm cuộc sống một năm. Những trải nghiệm đó dù vui hay buồn, dù bình yên hay bão tố thì cũng “xin cám ơn đời, cám ơn người đã cho tôi cuộc sống này” (lời một bài hát của Trịnh Công Sơn)…

Một năm hay 365 ngày là một đơn vị thời gian. Một năm qua đi thế là chúng ta đã tiêu mất một năm Sự Sống và tiến gần đến Cái Chết cũng một năm. Cái Chết – là sự kỳ diệu nhất của tạo hóa – theo thiên tài sáng tạo Steve Jobs. Bởi theo Ông, tất cả sẽ bị tan biến trước Cái Chết. Chính vì có Cái Chết nên mọi sự già cỗi, trì trệ sẽ được thay mới bằng sự tươi mới, khoáng đạt… Cái Chết giúp xã hội loài người phát triển, đó chính là Creative Destructive – Sự hủy diệt tích cực! Có lẽ với suy nghĩ đó của bậc thiên tài nên ông đã luôn sống với phương châm: hôm nay là ngày cuối cùng trong đời mình, luôn nghĩ và làm những việc lớn lao, luôn Think Diffirent, bởi thế ông đã tạo ra giá trị nhân loại mang tên Apple, và ông đã góp phần cho thế giới này tốt đẹp hơn.

Dù chưa hiểu sâu sắc được như thế ý nghĩa của Cái Chết, chưa tu luyện đến mức thượng thừa để sống như “hôm nay là ngày cuối cùng trong đời” nhưng tôi cũng hiểu được phần nào rằng thời gian trôi nhanh không hẳn chỉ là sự khắc nghiệt mà nó còn có ý nghĩa tuyệt vời: “Chính thời gian trôi nhanh – hay là sự khắc nghiệt của thời gian” nên chúng ta mới thấy ý nghĩa của nó! Bông hoa hồng thật đẹp nhưng nó sớm tàn phai nên nó càng đẹp, bởi nếu bông hoa hồng mãi không tàn thì ta nhìn mãi vẻ đẹp của nó ta cũng thấy nhàm. Vì sự sống là hữu hạn mà thời gian lại trôi nhanh nên ta mới quý cuộc sống này. Chính điều đó nên: thời gian trôi nhanh chính là điều tuyệt diệu nhất của SỰ SỐNG!

Đã thế Sự Sống là hữu hạn nhưng đôi khi lại rất mong manh. Xin chia sẻ một câu chuyện nhỏ (với tôi là chuyện lớn) với mọi người. Vì mưu sinh, nên giao thừa vừa rồi với tôi không phải là chuyện quây quần bên người thân, bạn bè hay hái lộc cầu may mà là chuyện cơm áo gạo tiền, là chuyện kiếm sống.

Khoảng 3 giờ sáng Mồng Một Tết công việc mới xong. Về phòng trọ tắm rửa, vào mạng xem không khí đón xuân đến 5 giờ sáng mới về quê. Chắc ít người đi trên đường lúc 5 giờ sáng Mồng Một Tết bởi lúc đó mọi người đang ngon giấc hoặc chuẩn bị mâm cơm cúng Tổ tiên nên lúc này đường không một bóng người. Trên đường quốc lộ thênh thang gần sáng Mồng Một Tết như là chỉ có mình tôi. Hoà trong cái se lạnh của Mùa Đông, sự kỳ diệu của Mùa Xuân là sự cô đơn lẻ loi của mình trong trời đất bao la mà một năm chỉ có cơ hội trải nghiệm một lần vào đêm Mồng Một Tết làm cảm xúc của tôi thật khó tả. Một mình thênh thang trên đường quốc lộ mà ngày thường luôn kẹt cứng người và xe…

Rồi đến lối rẽ sang đường. Dù theo thói quen là quan sát mỗi khi qua đường nhưng vì đi đường chẳng gặp ai nên tôi có phần chủ quan, quan sát một chút rồi sang ngay! Khi vừa sang đến bên kia đường thì có một xe hơi vớ tốc độ hơn 100km/h lao tới. Ớn lạnh sống lưng bởi chỉ cần chậm hay nhanh 5 giây là tôi… đi rồi.

Vẫn biết Cái Chết là điều bình thường nhưng nếu chẳng may mình chết lúc đó thì cũng như bao người khác trước khi chết sẽ tiếc nuối lắm lắm những trải nghiệm mới đang chờ họ nếu họ sống, tôi còn thêm niềm tiếc nuối là chưa cống hiến được gì cho cuộc sống này, chưa góp phần nhỏ bé của mình để cho cuộc sống này tốt đẹp hơn. Sự tiếc nuối này mới là lớn lao nhất. Chắc lúc đó mà chết thì tôi sẽ không nhắm mắt được. Rất may cho tôi là vẫn còn sống!

Hàng ngày tôi vẫn luôn thấy cuộc sống thật đẹp dù cuộc sống đôi khi rất khó khăn vất vả. Qua sự việc với mình vào rạng sáng Mồng Một vừa qua thì tôi còn thấy Sự Sống còn thật mong manh nữa. Tôi thêm trân trọng từng giây cuộc sống và tôi lại càng thấy cuộc sống thật đẹp.

“Xin cám ơn đời, cám ơn ai đã cho tôi cuộc sống này…” Tôi sẽ từng giây từng phút “tu luyện“ để ngày một trưởng thành hơn, để đến lúc sẽ hiểu thât sâu sắc và sống như “hôm nay là ngày cuối cùng trong cuộc đời“. Để rồi sẽ cháy hết mình vì “sống đúng nghĩa là cháy hết mình”! Để rồi vào thời điểm này của những năm sau, sau sau… nữa tôi sẽ vẫn thốt lên rằng: Xuân đã sang diệu kỳ. Để rồi đến khi từ giã cõi đời này dù qua bao bể dâu vẫn được như Bố Già Vito Corleone (trong Bố Già của Mario Puzzo): môi vẫn nở nụ cười và vẫn thốt lên được rằng: CUỘC ĐỜI THẬT ĐẸP…

Pham AQ
Hà Nội, Mùa Xuân 2015

4 trái chuối giá 50.000 VND

 

Tôi vừa mua 4 trái chuối ở một cửa hàng tiện lợi của Nhật với giá 266 yên (246 yên + 8% thuế tiêu thụ). Nếu tính tỉ giá 1 yên = 180 đồng thì 4 trái chuối này có giá 47.880 đồng. Tôi nhắc lại: đây là giá của 4 trái chuối, 4 trái chứ không phải 4 nải! Ở Việt Nam, với số tiền đó bạn có thể ăn bao nhiêu chuối?

Trước khi bạn đem vật giá ra so sánh, trước khi bạn bàn đến chi phí vận chuyển các thứ thì cho phép tôi nói thêm: 4 trái chuối đó có xuất xứ từ Peru, Nhật Bản không có chuối! Và đây là lần đầu tôi ăn chuối Peru ở Nhật, bình thường thì tôi vẫn ăn chuối Philippines với giá 136 yên (24.480 đồng) cho 4 trái, nhưng hôm nay chuối Phi hết hàng. Đọc đến đây có lẽ bạn cũng nghĩ được điều mà tôi đã nghĩ: Tại sao lại là chuối Peru và Philippines mà không phải là Việt Nam? Tại sao?

Có lẽ bạn chưa biết rằng nông sản nội địa của Nhật chưa bao giờ đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân nước này. Cho nên họ buộc phải nhập thêm nông sản từ khắp nơi trên thế giới về để bổ sung nguồn cung. Vậy nông sản Việt chiếm bao nhiêu % thị phần?

Nếu bạn hỏi tôi thì tôi xin thành thật trả lời rằng: Tôi không biết! Tôi không phải một nhà thống kê kinh tế nên tôi không trả lời câu hỏi đó cho bạn được. Nhưng không khó để dẫn chứng cho các bạn mường tượng qua những thông tin báo chí đã đăng.

Vào tháng 6 năm 2014 nông dân tỉnh Bắc Giang đem bán tháo vải ra đầy đường. Dự báo với sản lượng vải 140.000 tấn, trong đó, tiêu thụ nội địa khoảng 60%, xuất khẩu 40% (Trung Quốc chiếm khoảng 95% sản lượng xuất khẩu.). Trong khi đó thị trường Nhật không có lấy 1 kg vải Việt Nam nào được nhập. Bộ Khoa học đã xuất khẩu 10 tấn vải ngay trong tháng 7 năm 2014 để làm mẫu cho Nhật Bản kiểm định, người ta bắt đầu mơ về cái giá 16$/5 quả vải ở thị trường này. [1]

Thêm một thông tin khác: theo ông Hoàng Trung, Phó Cục trưởng Cục BVTV thì “Vải ở Mỹ thì tôi không rõ lắm, nhưng ở Nhật, 3 quả vải trị giá 1 USD. Hay như nhãn của Thái Lan XK sang Mỹ, tôi thấy họ bán khoảng 30-40 USD/hộp 5kg. Như vậy so với Việt Nam thì cao hơn rất nhiều lần. Tôi nghĩ nếu XK sang Mỹ thì cũng sẽ có giá cao như vậy thôi.” [2]

*Nếu bạn nào thắc mắc sao lại có 2 cái giá: 3 quả/1$ và 5 quả/16$ ở cùng thị trường thì xin mời bạn tìm hiểu về tương quan giữa giá vốn – giá bán và lượng hàng hóa, quan hệ cung cầu.

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=m9ePheZ2aos]

Câu hỏi dành cho bạn ở đây: Tại sao lại phải là các cơ quan nhà nước đem nông sản đi giới thiệu, kiểm định ở các nước mà không phải là các doanh nghiệp tư nhân? Liệu cơ quan nhà nước có bao quát hết các mặt hàng nông sản không? Liệu cơ quan nhà nước có thể giới thiệu nông sản Việt đến tất cả các nước không?

Còn rất nhiều vụ bán đổ bán tháo, thậm chí là vứt cho gia súc làm thức ăn. Còn rất nhiều vụ đốt bỏ, chặt bỏ, đổ bỏ khác mà tôi không nêu ra. Đơn giản vì tôi không chắc các loại nông sản đó có thể tiêu thụ được ở Nhật hay một quốc gia nào đó hay không.

Đến đây mời bạn trả lời các câu hỏi sau:

  1. Ai là người quyết định số phận của nông dân? Là doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thương lái nội địa hay người tiêu dùng?
  2. Ai là người quyết định số phận doanh nghiệp và thương lái? Là người tiêu dùng hay là chính sách xuất nhập khẩu, các quy định về chất lượng sản phẩm trong thị trường nội đia, các khâu vận chuyển, kiểm duyệt sản phẩm?
  3. Ai là người quyết định chính sách xuất nhập khẩu, các quy định về chất lượng sản phẩm trong thị trường nội địa, các khâu vận chuyển, kiểm duyệt sản phẩm? Là người tiêu dùng hay các cơ quan nhà nước?
  4. Ai là người quyết định bổ nhiệm, tuyển dụng các cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề trên? Là người tiêu dùng, nông dân hay là một Đảng phải chính trị nào?
  5. Ai là người quyết định sức khỏe của người tiêu dùng khi tiêu thụ nông sản? Là nông dân, các cơ quan nhà nước hay một Đảng phái chính trị?

*** Nếu bạn không trả lời được các câu hỏi trên thì xin theo dõi tiếp những bài viết của chúng tôi trong thời gian tới. Kinh tế học có thể trả lời những câu hỏi trên và nhiều câu hỏi nữa.

Gửi các Zombie và độc giả của Triết Học Đường Phố

Các bạn nằm trong số ít giới trẻ Việt Nam hiện nay quan tâm đến tình hình đất nước, chịu đầu tư suy nghĩ để tìm ra một con đường đưa đất nước này đi lên. Đó thực là một điều đáng quý.

Tuy nhiên, hẳn các bạn cũng đồng ý với tôi, khát vọng và nhiệt huyết muốn thay đổi không thôi chưa đủ. Muốn đưa đất nước tiến lên, các bạn còn cần phải có tri thức.

Trong đó, tôi trộm nghĩ tri thức về kinh tế học nằm trong những thứ tri thức quan trọng nhất.

Bởi vì sao? Vì phải hiểu kinh tế học thì mới đề ra được những chính sách tốt. Chính sách không tốt thì người tài sẽ bỏ đi, tài nguyên sẽ bị phí phạm, sản xuất sẽ không phát triển được. Mà chính sách tốt thì kinh tế vững.

Chúng ta muốn không bị phụ thuộc vào Trung Quốc, muốn xây nhiều trường học, bệnh viện, muốn xóa bỏ hủ tục. Nếu kinh tế nước ta giàu mạnh thì có phải làm những điều đó dễ hơn biết bao nhiêu?

Nếu không hiểu biết về kinh tế học, thì sẽ không thể biết được và không thể tranh luận một cách nghiêm túc được chính sách nào tốt, chính sách nào kém. Và cần nhiều người như các bạn quan tâm và có ý kiến đúng đắn về các chính sách, thì xã hội dân chủ mới hoạt động được hết hiệu quả, đất nước mới tiến bộ được.

Vậy thì bây giờ học kinh tế bằng cách nào? Cái này mỗi người một ý, nhưng theo tôi thì các bạn nên bắt đầu từ các trường phái Neoclassical và Keynesian. Không hẳn là các trường phái này ưu việt nhất, nhưng cả thế giới này đang học và dùng chúng, do đó chúng ta cần phải biết và hiểu chúng.

(*Ghi chú: THĐP không đi theo 2 trường phái kinh tế này, mà đi theo hướng của trường phái kinh tế Áo, Austrian Economics, muốn tìm hiểu thêm thì tìm đọc Ludwig von Mises, Keynesian economics được giảng dạy đại trà là vì nó thiên về chủ nghĩa nhà nước, còn Austrian economics thì thiên về chủ nghĩa tự do.)

Nếu không hiểu các trường phái này thì chúng ta sẽ không nói cùng một thứ ngôn ngữ với đa số các nhà kinh tế học hiện hành.

Có lẽ ai cũng ngại việc bắt tay vào tìm hiểu một bộ môn mới từ con số không. Vì thế tôi xin giới thiệu với các bạn một sê-ri video Kinh Tế nhập môn của các bạn Kinh Tế Không Kinh Thế. Các video này khá nhẹ nhàng, không quá cầu kỳ, có thể giúp người xem bổ sung những khái niệm cơ bản nhất về kinh tế. Các bạn xem sẽ thấy kinh tế không khó hiểu như các “chuyên gia” vẫn thường dọa chúng ta để giữ cho người dân không muốn tìm hiểu về kinh tế và bóc trần những sai sót của họ.

Nếu mỗi ngày bạn dành ra 30 phút để tìm hiểu về kinh tế, tham gia thảo luận, nhìn nhận các vấn đề thì bạn sẽ nhanh chóng tích lũy được kiến thức kinh tế và nhìn ra các vấn đề.

 

Zetal

 

Link các bài báo có nội dung được nêu trong bài:

  • [1] http://cafef.vn/nong-thuy-san/vai-thieu-bac-giang-va-giac-mo-16-usd5-qua-2014060916141849017.chn
  • http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/hang-hoa/10-tan-vai-thieu-luc-ngan-se-xuat-sang-nhat-ban-3011150.html
  • [2] http://nongnghiep.vn/vai-thieu-sang-my-se-con-gian-nan-post132429.html

41 câu nói của Tổng Thống Mỹ George W. Bush

Featured image: Papba.org

 

Lời giới thiệu

George W. Bush, vị tổng thống 43 của nước Mỹ là một trong những tổng thống thời chiến tranh của Mỹ. Chính sách ngoại giao và quân sự của ông ta đã biến đổi nước Mỹ từ sự cố 911. Mời các bạn đọc để hiểu thêm về vị tổng thống này.


 

1. Nước Mỹ sẽ không bao giờ bỏ chạy. Và chúng ta sẽ luôn mang ơn tự do đã sinh ra những người con anh dũng.

2. Nước Mỹ chưa bao giờ đoàn kết bởi dòng máu, nơi sinh hay địa lý. Chúng ta được kết nối bởi những lý tưởng cao quý hơn.

3. Sự trao quyền trong hòa bình là một điều hiếm có trong lịch sử, nhưng là điều thường xuyên ở nước ta. Với một lời tuyên thệ đơn giản, chúng ta giữ gìn truyền thống và xây dựng một cuộc bắt đầu mới.

4. Thượng Đế không đứng bên phía của một quốc gia nào, nhưng chúng ta biết rằng Thượng Đế luôn đứng bên phía công lý.

5. Là người Mỹ, chúng ta muốn hòa bình — chúng ta làm việc siêng năng và hy sinh cho hòa bình. Nhưng sẽ không có hòa bình nếu an ninh của chúng ta được dựa vào sự quyết định của một nhà độc tài ác độc. Tôi sẽ không bao giờ giao mạng sống của một người Mỹ nào vào niềm tin với Saddam Hussein.

6. Tôi tin rằng tự do là điều tất cả con người đều cần.

7. Dù chúng ta đem địch thủ tới công lý hay công lý tới địch thủ, công lý sẽ được thực hiện.

8. Chúng ta sẽ không mệt mỏi, chúng ta sẽ không nản chí và chúng ta sẽ không thất bại. Hòa bình và tự do sẽ chiến thắng.

9. Sự lan rộng của tự do là lối dẫn đến một thế giới an toàn và thịnh vượng hơn.

10. Sự khát khao cho tự do nằm ở trong tất cả con người. Và sự khát khao đó sẽ không bị kìm hãm bởi những nhà tù, những luật truy nã hoặc cảnh sát chìm. Qua từng giao đoạn, tự do sẽ tìm lối đi.

11. Chúng ta biết rằng các nhà độc tài sẽ nhanh chóng chọn bạo lực, trong khi đó các nước tự do sẽ giải quyết các vấn đề trong hòa bình.

12. Nước Mỹ chưa bao giờ là một đế chế. Chúng ta có thể là một cường quốc vĩ đại nhất trong lịch sử có cơ hội và đã từ chối – để chọn sự cao thượng thay vì quyền lực và công lý thay vì vinh quang.

13. Tự do kinh tế tạo nên nền tảng cho tự do.

14. Người Mỹ là một dân tộc tự do, họ biết rằng tự do là một quyền lợi của tất cả con người và là tương lai cho các quốc gia. Sự tự do mà chúng ta tự hào không phải là một món quà của Mỹ ban cho thế giới, nó là một món quà của Thượng Đế cho nhân loại.

15. Tôi tin rằng Thượng Đế đã gieo mầm trong mỗi con người sự khát khao để sống trong sự do. Và khi sự khát khao đó bị đe dọa bởi độc tài, nó sẽ nổi dậy.

16. Sự lãnh đạo đối với tôi có nghĩa là trách nhiệm, danh dự, tổ quốc. Nó nghĩa là đức tính và biết lắng nghe.

17. Hành động của chúng ta trong thập niên này sẽ có những hậu quả cho thế kỷ này. Nếu nước Mỹ yếu đuối và không dứt khoát, thế giới sẽ trôi dần vào thãm họa. Điều đó sẽ không xảy ra dưới sự lãnh đạo của tôi.

18. Một trong những khoảnh khắc mà tôi tự hào nhất là khi tôi đã không bán mình để đổi lấy sự hâm mộ.

19. Tôi muốn được mọi người nhớ tới là một người có những mục đích ưu tiên và sẵn sàng sống vì những điều đó.

20. Sự khủng hoảng tài chính không nên được dùng để làm viện cớ tăng thuế, thuế chỉ sẽ làm suy giảm khả năng phục hồi của nền kinh tế chúng ta.

21. Tôi sẽ không chỉ trích người kế vị của tôi (tống thống Obama). Lịch sử sẽ làm điều đó.

22. Hôm nay, tự do đã bị tấn công bởi một nhóm người hèn hạ giấu mặt, và tự do sẽ được bảo vệ.

23. Bất cứ chính phủ nào ủng hộ, bảo vệ hay chứa chấp các tổ chức khủng bố cũng phạm tội khủng bố.

24. Nước Mỹ là một quốc gia với một mệnh lệnh – và mệnh lệnh đó đến từ những tín ngưỡng căn bản nhất. Chúng ta không có khát vọng để thống trị, cũng không có khát vọng để trở thành một đế chế. Mục đích của chúng ta là hòa bình và dân chủ.

25. Nhân dân Afghanistan đang xây dựng một đất nước tự do, và tự hào và chung sức chống lại khủng bố – và nước Mỹ rất vinh dự khi có một đồng minh như thế.

26. Nước Mỹ và đồng minh rất quyết tâm: Chúng ta không chịu sống trong cái bóng của nguy hiểm.

27. Sự sử dụng khôn ngoan nhất của sức mạnh Mỹ là để thúc đẩy tự do.

28. Những giá trị của nước Mỹ xứng đáng để chúng ta chết để bảo vệ.

29. Một người dân đang ở nơi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới sau khi bị tấn công: “Tôi không nghe ông được.” Tổng Thống Bush: “Tôi có thể nghe được bạn, cả thế thới có thể nghe được bạn, và những người đã tấn công tòa nhà này sắp tới sẽ nghe thấy tất cả chúng ta.”

30. Chính phủ không tạo ra sự thịnh vượng. Vai trò tối cao của chính phủ là tạo ra một môi trường để mọi người chấp nhận rủi ro và tạo công ăn việc làm.

31. Bất cứ nơi đâu mà tự do đang quấy trộn, chế độ độc tài sẽ lo sợ.

32. Tôi biết chắc rằng giới tư sản sẽ là người kéo đất nước khỏi sự khủng hoảng kinh tế này. Tôi tin các bạn sẽ dùng tiền của các bạn tốt hơn chính phủ dùng tiền của các bạn.

33. Tôi thấu hiểu mọi người trong nước không hoàn toàn đồng ý với những quyết định của tôi. Và tôi đã có những quyết định khó khăn, nhưng mọi người đều biết lập trường của tôi là gì.

34. Chế độ độc tài đã sụp đổ, Iraq đã được tự do.

35. Tôi không tin các nhà làm luật nên quyết định thay cho người dân Mỹ.

36. Mục đích tất yếu của chính sách kinh tế của tôi là giảm thuế cho những ai đã đóng thuế.

37. Thế kỷ này sẽ là thế kỷ của tự do.

38. Những lý tưởng và lợi ích đã dẫn Mỹ giúp đỡ Nhật Bản để biến thất bại thành dân chủ cũng là lý do tương tự để Mỹ tham gia vào Afghanistan và Iraq.

39. Chiến lược phòng thủ mà đã không cho phép người dân Nam Hàn sống dưới chế độ độc tài đã giúp biến họ trở thành một con hổ Châu Á. Đó là một mô hình cho các nước đang phát triển trên thế giới.

40. Ba thập niên sau, có một cuộc tranh luận về nguyên nhân gì đã dẫn nước Mỹ tham chiến vào Việt Nam và cách thức chúng ta đã rút quân. Cho dù định kiến của bạn là gì, một trong những di sản của Việt Nam khi Mỹ rút quân đã được trả giá bởi hàng triệu người trong khổ cực và đem cho chúng ta những ngôn từ mới như thuyền nhân, trại cải tạo và những cánh đồng xác chết.

41. Tôi nhớ gì nhất từ khi không còn là tổng thống nữa? Tôi nhớ những lần tôi chào các quân nhân và làm Chỉ Huy Trưởng của quân lực tuyệt vời nhất thế giới.

 

Dịch: Ku Búa
Review: LX