24.1 C
Da Lat
Thứ Ba, 19 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 147

Ai giải phóng ai? Những đóng góp của Đế chế Pháp, Mỹ Ngụy và Đảng Cộng Sản cho Việt Nam

Featured Image: Leon_Ting

 

32 thứ đế chế Pháp đã đóng góp cho Việt Nam

Chúng ta đã được dạy rằng Đế Chế Pháp đã xâm lược và đô hộ Việt Nam. Họ đã bốc lột đất nước và người dân Việt Nam để làm giàu cho nước họ. Họ không cho chúng ta tự do ngôn luận và cai trị với phương pháp ngu dân. Đó là lý do tại sao Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã ra đi tìm đường cứu nước. Để giải phóng đất nước và dân tộc khỏi sự cai trị ngu đần và bốc lột của Đế Chế thực dân Pháp.

Nhưng trong bài viết này, với tư cách là một người đang được thừa hưởng sự hòa bình, tôi xin nêu ra những gì mà Đế Chế Pháp đã đóng góp cho Việt Nam. Theo phân tích của tôi, Đế Chế Pháp đã khai sáng đất nước Việt Nam từ 4000 năm đen tối trong 1 thế kỷ mà họ đã cai trị ở đây. Dĩ nhiên, chế độ nào cũng có mặt tích cực và tiêu cực, nhưng nếu chúng ta chỉ coi Pháp là một đế chế xâm lược mà phủ nhận những gì họ đã đóng góp cho Việt Nam, đó là một sự thiếu hiểu biết và ngạo mạn. Sau đây là 32 điều và thứ mà Đế Chế Pháp đã đóng góp cho Việt Nam và sẽ bắt đầu với thứ quan trọng nhất.

  1. Quốc Ngữ (Latin hóa quốc ngữ Việt Nam) – hãy tưởng tượng người Việt Nam sẽ như thế nào nếu giờ vẫn sử dụng chữ Hán và Nôm. Đó là một điều mà không ai muốn xảy ra.
  2. Hạt cà phê – Hiện tại Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Brazil. Cà phê đóng góp tầm 3% cho kinh tế Việt Nam.
  3. Phin cà phê – Một biểu tưởng độc đáo của Việt Nam.
  4. Cà phê đá – Một loại nước uống gần như không thế thiếu vào buổi sáng. Một trong những biểu tượng ẩm thực của Việt Nam.
  5. Cà phê sữa đá – Tương tự. Cũng là 1 thứ tui phải uống vào mỗi buổi sáng. Có khi 2-3 ly 1 ngày.
  6. Văn hóa cà phê – Việt Nam tìm thêm sức sống trong những giọt cà phê là cũng nhờ Đế Chế Pháp giới thiệu.
  7. Đường rầy xe lửa xuyên Việt. Nhờ Đế Chế Pháp mà Việt Nam đã được kết nối từ nam ra bắc, hiện giờ vẫn là một trong những phương tiện vận chuyển.
  8. Quốc Lộ 1A – Khởi hành bởi thực dân Pháp. Hiện tại thì là con đường chính kết nối ba miền bắc trung nam của Việt Nam.
  9. Điện.
  10. Xe đạp.
  11. Xe máy.
  12. Xe hơi.
  13. Cao su.
  14. Bánh mì – Một biểu tượng ẩm thực và văn hóa.
  15. Nhà thờ Đức Bà – Một trong những biểu tưởng của Việt Nam, nhưng lại là một sản phẩm của Đế Chế Pháp.
  16. Thành Phố Đà Lạt – Một trong những thành phố thơ mộng nhất thế giới, được khám phá và xây dựng bởi người Pháp.
  17. Nhà Thờ Con Gà (Đà Lạt) – Khánh thành 1942. Một trong những biểu tượng của Đà Lạt.
  18. Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt (tên cũ: Trường Grand Lycée Yersin) – Thành lập năm 1927, thiết kế bởi kiến trúc sư Moncet. Một trong 1000 công trình xây dựng độc đáo trong thế kỷ 20. Một trong nhưng biểu tượng của Đà Lạt và du lịch Việt Nam.
  19. Khách Sạn Dalat Palace – Một trong những khách sạn 5 sao ở Đà lạt. Xây năm 1916, hoàn thành năm 1922.
  20. Thành Phố Sa Pa – Một thành phố du lịch thơ mộng của Việt Nam.
  21. Thành Phố Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.
  22. Bến Nhà Rồng (Bảo Tàng TP Hồ Chí Minh) – Hoàn tất năm 1863. Cũng tại nơi đây, một chàng thanh niên Việt Nam tên Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu cuộc hành trình xa quê hương để tìm đường cứu nước (làm phản động thời bấy giờ).
  23. Nhà hát lớn thành phố Hồ Chí Minh – Mở cửa năm 1990. Một trong những biểu tưởng của Sài Gòn.
  24. Bưu điện trung tâm Sài Gòn – Một trong những công trình kiến trúc vĩ đại ở Việt Nam.
  25. Thành Phố Vũng Tàu – Một thành phố biển thơ mộng và là một nơi người Sài Gòn đến nhiều nhất nhờ vị trí địa lý.
  26. Bạch Dinh (Vũng Tàu) – Xây dựng thời Pháp từ 1898 tới 1916. Một trong nhưng biểu tượng cảu thành phố Vũng Tàu.
  27. Trường Petrus Ký Sài Gòn (hiện này là trường chuyên Lê Hồng Phong – TPHCM).
  28. Cầu Trường Tiền (Huế) – Một biểu tưởng của Huế.
  29. Khách Sạn Metropole Hà Nội (hiện này là Sofitel Legend Metropole Hanoi).
  30. Cầu Long Biên Hà Nội. Một trong những biểu tưởng của Hà Nội.
  31. Sự khởi nghiệp của Hồ Chí Minh – Trong thời đế chế Pháp, Pháp đã cho ông lên thuyền đi qua Pháp. Pháp đã đón nhận ông trong âm thầm và cho phép ông làm phản động trong âm thầm. Để ông có bước khởi nghiệp vững chắc vì không bị ai quy cho cái tội phản động. Sau khi về nước, một lần nữa Pháp lại cho ông làm phản động để sau này các cháu ngoan của ông lại bắt bỏ tù những đứa phản động giống ông ngày xữa. Có điều gì đó ông đúng.
  32. Âm nhạc tây phương.

Những đóng góp của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cho Việt Nam

Chế Độ VNCH không hoàn hảo và đã phải trải qua thời gia đình trị dưới sự cầm quyền của Ngô Đình Diệm. Nhưng nếu xét về tự do ngôn luận và phát triển kinh tế thì chế độ VNCH đã góp phần không thua kém Đế Chế Pháp trong việc hiện đại hóa Việt Nam.

  1. Tự do ngôn luận là một điều bất khả xâm phạm. Các thành viên của các tổ chức chính trị có thể lên tiếng phản đối chính quyền công khai mà không bị bắt.
  2. Hệ thống chính trị tam quyền phân lập (Đệ Nhị Cộng Hòa 1967-1975). Khái niệm dân chủ theo cơ sở tam quyền phân lập thời đó rất xa lạ, VNCH là một ví dụ hiếm hoi.
  3. Đường lộ ở Tây Nam, tới bây giờ vẫn còn. Và nhiều đường lộ khác nữa.
  4. Giáo dục cao học đa ngôn ngữ và được quốc tế công nhận. Rất nhiều tri thức Việt Nam tốt nghiệp trong thời VNCH sau 1975 di dân vẫn được các nước khác ông nhận bằng cấp. Nhưng nếu tốt nghiệp dưới thời hậu VNCH thì không.
  5. Những bài nhạc cổ điển, chữ tình, nhạc “sến”, tới bây giờ vẫn còn được hát như nhạc Trịnh Công Sơn. Một điều khó xảy ra nếu những nhạc sĩ đó sống ở miền Bắc Việt Nam.
  6. Xe hơi La Dalat. Dưới thời VNCH Việt Nam đã sản xuất được xe hơi. Công Ty Xe Hơi Sài Gòn đã thành công trong việc nội địa hóa công nghệ và vật chất hơn 40% để sản xuất hơn 5,000 chiếc xe hơi La Dalat từ 1970 tới 1975. Đây là điều không tưởng trong một đất nước vẫn còn chiến tranh. Tới bây giờ ngành công nghiệp xe hơi Việt Nam đã thua cả Campuchia.

Những đóng góp của Đảng Cộng Sản cho Việt Nam

  1. Tượng mẹ Việt Nam Anh Hùng ở Quảng Nam, tốn 411 tỷ, đây là một công trình Mount Rushmore của Việt Nam.
  2. 50,000 tiến sĩ và 100,000 thạc sĩ các ngành nghề.
  3. Giá bất động sản cao nhất khu vực và có thể trên thế giới khi tính theo thu nhập đầu người. Một người Việt Nam bình thường phải đi làm 30-40 năm mới có đủ tiền để mua một căn nhà.
  4. Văn hóa xe máy, Việt Nam là nước có xe máy nhiều nhất với số lượng đăng ký trên dưới 30 triệu. Cứ 3 người Việt Nam thì có 1 chiếc xe máy.
  5. Số người chết vì tai nạn giao thông nhiều nhất, trung bình mỗi năm có 9,000-10,000 người chết vì tai nạn giao thông.
  6. Đồng tiền có nhiều con số “không” nhất hiện tại, chỉ sau Zimbabwe. $1 Đô La Mỹ đổi lấy hơn 21,000 Việt Nam Đồng.
  7. Giá xe hơi cao nhất về giá thị trường và dựa theo thu nhập bình quân. Trung bình 1 người Việt Nam phải đi làm 30 năm để có được một chiếc xe hơi. Giá xe hơi ở Việt Nam thường cao hơn giá thị trường thế giới gấp 3 lần vì thuế nhập khẩu cũng như chi phí vận chuyển và lợi nhuận.
  8. Việt Nam hiện tại có thể nói đã trở thành một dân tộc thiểu số lớn nhất nhì ở Đài Loan và Hàn Quốc. Hàn Quốc có hơn 60,000 phụ nữ Việt lấy chồng Hàn và Đài Loan có hơn 100,000 phụ nữ Việt lấy chồng Đài Loan. Nếu cộng thêm số lượng con cái từ những hôn nhân đó và số lượng lao động Việt Nam đang làm việc ở xứ sở tại, dân tộc Việt Nam là thiểu số đông nhất.
  9. Giá thuốc lá và bia rượu rẻ nhất thế giới.
  10. Xin các bạn đọc bài “23 điều vô lý chỉ có ở Việt Nam” tại https://content.triethocduongpho.net/2015/02/04/23-dieu-vo-ly-chi-co-o-viet-nam/ .

Vậy theo các bạn, ai đã giải phóng ai?

Ku Búa

Chủ nghĩa tập thể dựa trên niềm tin rằng tập thể quan trọng hơn cá nhân

Featured image: LibertyManiacs.com Team

 

Đây là khái niệm thứ hai chia rẽ những người theo Chủ nghĩa Tập thể và Tự do Cá nhân. Chủ nghĩa Tập thể dựa trên niềm tin rằng nhóm quan trọng hơn là cá nhân. Theo quan điểm này, nhóm là một thực thể riêng độc lập và nó có quyền của riêng nó. Thêm nữa, những quyền này quan trọng hơn là quyền của cá nhân. Vì thế, nó có thể chấp nhận được việc hy sinh những cá nhân nếu cần thiết cho “lợi ích lớn hơn của đa số.” Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe điều này? Ai có thể phản đối việc mất đi tự do nếu như nó có một lý do thích đáng là cần thiết vì lợi ích lớn hơn của xã hội? Nhóm tối cao, dĩ nhiên, là nhà nước. Vì thế, nhà nước là quan trọng hơn những cá nhân công dân, và nó có thể chấp nhận được việc hy sinh các cá nhân, nếu cần thiết, cho lợi ích của nhà nước. Khái niệm này là trái tim của tất cả các hệ thống chuyên chế hiện đại được xây dựng trên mô hình của Chủ nghĩa Tập thể.

Mặt khác, những người theo chủ nghĩa Tự do nói: Khoan đã. Nhóm? Nhóm là cái gì? Nó chỉ là một danh từ. Bạn không thể chạm vào nhóm. Bạn không thể nhìn thấy nhóm. Tất cả những gì bạn có thể chạm vào hay nhìn thấy chỉ là những cá nhân. Danh từ nhóm là một sự trừu tượng hoá và không tồn tại như là một thực tế hữu hình. Nó giống như là một vật trừu tượng gọi là rừng. Rừng không thực sự tồn tại. Chỉ có cây là tồn tại. Rừng là khái niệm của nhiều cây. Tương tự vậy, danh từ nhóm chỉ miêu tả một là khái niệm trừu tượng của nhiều cá nhân. Chỉ có cá nhân là thực, và vì vậy, không có cái gọi là quyền của nhóm. Chỉ những cá nhân mới có quyền.

Nếu chỉ vì có nhiều cá nhân trong một nhóm này và ít hơn trong một nhóm khác thì nó không có nghĩa cho phép sự ưu tiên cao hơn cho các cá nhân của nhóm lớn hơn – thậm chí nếu bạn gọi nhóm lớn hơn đó là nhà nước đi chăng nữa. Đa số cử tri không có nhiều quyền hơn là thiểu số. Quyền không xuất phát từ việc đếm số lượng. Quyền không đến từ nhóm. Chúng là sở hữu bẩm sinh thuộc về mỗi con người.

Khi một ai đó lập luận rằng cá nhân cần phải hy sinh bản thân cho lợi ích lớn hơn của xã hội, chính xác cái mà họ đang nói là một số cá nhân sẽ bị hy sinh cho lợi ích lớn hơn của những cá nhân khác. Quan điểm đạo đức của những người theo Chủ nghĩa Tập thể dựa trên số lượng. Mọi điều đều có thể làm được miễn là số người được hưởng lợi được cho là lớn hơn số người cần phải hy sinh. Tôi nói được cho là bởi vì, trên thực tế, những người quyết định ai sẽ phải hy sinh không thể đếm chính xác. Kẻ độc tài luôn luôn tuyên bố họ đại diện cho quyền lợi lớn hơn của đa số, nhưng trên thực tế, họ và những tổ chức ủng hộ họ thường chiếm không quá một phần trăm dân số. Khi một ai đó nói minh vì đám đông và đại diện cho quyền lợi tốt nhất của họ, thì lý do bên dưới chỉ có thể là vì đám đông quá ngu xuẩn để có thể tự luận ra cái gì là tốt nhất cho họ. Do đó những nhà lãnh đạo Tập thể Chủ nghĩa, tự cho là khôn ngoan và đức độ, luôn quyết định thay cho họ. Bằng cách này, họ có thể giải thích cho bất kỳ hành động tàn bạo hoặc bất công nào như là biện pháp cần thiết vì lợi ích lớn hơn của xã hội.

A, đúng. Lợi ích lớn hơn dành cho đa số lớn hơn. Những kẻ chuyên chế hiện đại luôn khoác lên mình chiếc áo nhân đạo.

Bởi vì những người theo chủ nghĩa tự do không thừa nhận sự bá quyền của nhóm, nên những người Tập thể Chủ nghĩa thường phác họa họ như là những kẻ ích kỷ và vô cảm đối với khó khăn của người khác. Luận thuyết đó khá phổ biến trong trường học ngày hôm nay. Nếu một đứa trẻ không sẵn sàng đồng hành với nhóm, nó bị chỉ trích là tính cộng đồng kém và không phải là “đồng đội” tốt hay công dân tốt…. Nhưng chủ nghĩa Tự do không dựa trên cái tôi. Nó dựa trên nguyên tắc. Nếu bạn chấp nhận lập luận rằng cá nhân có thể được hy sinh cho nhóm, khi đó bạn đã phạm sai lầm rất lớn ở hai điểm. Thứ nhất, do các cá nhân là thành phần cơ bản của nhóm, nên dù gì thì khi đó chính nhóm cũng bị hy sinh, từng chút từng chút một. Thứ hai, nguyên tắc bên dưới là chết người. Hôm nay, cá nhân bị hy sinh có thể là người bạn không biết hoặc là ai đó bạn không thích. Ngày mai, đó có thể là chính bạn. Phải mất một thời gian suy ngẫm để nhận ra rằng lợi ích lớn hơn cho đa số không đạt được bằng cách hy sinh cá nhân mà phải là bảo vệ cá nhân. Trên thực tế, lợi ích lớn hơn cho đa số được phụng sự tốt nhất dưới Chủ nghĩa Tự do, không phải Chủ nghĩa Tập thể.

Cộng hòa đối lập Dân chủ

Chúng ta đang bàn ở đây một trong các lý do làm nên sự khác biệt giữa cộng hòa và dân chủ. Trong những năm gần đây, dân chủ thường được cho là một thể chế nhà nước lý tưởng. Lấy ví dụ trên thế giới, nhà nước Mỹ là một thể chế Cộng hòa. Tuy nhiên rất nhiều người lầm tưởng rằng Hiến pháp Mỹ đã khai sinh ra một nước dân chủ, và lý do thích đáng cho việc Mỹ tấn công các nước khác và lật đổ các chính phủ chuyên chế báo ngược ở đó là, như chúng ta được bảo, để phổ biến nền dân chủ ra khắp thế giới. Nhưng nếu bạn đọc các tài liệu và bài diễn văn của những bậc khai quốc đã viết nên Hiến pháp Mỹ, bạn sẽ nhận ra rằng họ đã phê phán mạnh mẽ nền dân chủ – và nếu bạn nhìn lại thực tế của cuộc sống tại những vùng đất mà nền dân chủ đã được mang tới, bạn tìm thấy ít sự khác biệt giữa chế độ cũ và chế độ mới, ngoại trừ chế độ mới có thể còn tệ hơn.

Trong nước Mỹ thuộc địa, Samuel Adams, nhà lãnh đạo xuất chúng của phong trào độc lập, đã bày tỏ quan điểm chung của các đồng sự của ông khi ông nói: “Dân chủ không bao giờ tồn tại lâu. Nó sẽ nhanh chóng đào thải, kiệt quệ, và tự giết chính nó. Đã không bao giờ có một nền dân chủ mà cuối cùng không tự sát.”

Sự hiểu biết về mặt tối của dân chủ không phải chỉ duy nhất tìm thấy ở những người Mỹ thuộc địa. Những nhà sử học Âu Châu và các nhà lý luận chính trị đương thời cũng đã đi đến cùng một kết luận. Tại Anh quốc, Lord Acton viết: “Một điều xấu xa của thể chế dân chủ đang tràn ngập khắp nơi là sự bạo ngược chuyên chế của đảng chiến thắng, bằng vũ lực hoặc gian lận, trong cuộc bầu cử.” Ở Scotland, giáo sư lịch sử tại đại học Edinburgh, Alexander Tyler, đã viết:

“Dân chủ luôn luôn là tạm bợ từ trong bản chất – nó đơn giản không thể tồn tại như là một thể lâu dài của chính phủ. Dân chủ sẽ tiếp tục tồn tại cho đến khi các cử tri khám phá ra rằng họ có thể tự bầu cho chính họ những bổng lộc hào phóng từ ngân khố chung. Từ thời điểm đó trở đi, đa số sẽ luôn luôn bầu cho các ứng viên có thể hứa hẹn mang lại nguồn lợi lớn nhất lấy từ ngân khố chung, và đưa đến kết quả là mọi nền dân chủ cuối cùng sẽ sụp đổ bởi vì các chính sách tài khóa thâm thủng – thông thường được theo sau bởi một chế độ độc tài.”

Những bậc khai quốc đã viết nên Hiến Pháp Mỹ tin rằng dân chủ là một trong các dạng thức tồi tệ nhất có thể của chính phủ; và do đó họ đã tạo ra cái mà họ gọi gọi là nền cộng hòa. Thật không may, danh từ này đã không còn mang ý nghĩa kinh điển của nó vào năm 1787. Ngày nay nó được sử dụng một cách bừa bãi cho tất cả mọi thứ từ độc tài quân sự, như là Cộng hòa Angola, cho đến độc tài tập thể chủ nghĩa như là Cộng Hòa Trung Hoa. Nhưng hãy nhớ rằng vào lúc Nước Mỹ Cộng Hòa được thành lập, danh từ này đã có ý nghĩa chính xác và nó được hiểu bởi tất cả mọi người.

Đó cũng là lý do tại sao danh từ dân chủ không hề xuất hiện trong Hiến pháp Mỹ; và khi người Mỹ nguyện thề trung thành với lá cờ, đó là trung thành với nền cộng hòa mà lá cờ đại diện, không phải nền dân chủ. Khi Colonel Davy Crockett gia nhập cuộc Cách mạng Texas trước trận đánh Alamo nổi tiếng, ông đã từ chối ký vào lời thề trung thành với chính phủ tương lai của Texas cho đến khi từ ngữ được sửa thành chính phủ cộng hòa tương lai của Texas. Lý do điều này là quan trọng là ở chỗ sự khác nhau giữa dân chủ và cộng hòa chính là sự khác nhau giữa Chủ nghĩa Tập thể và chủ nghĩa Tự do.

Trong nền dân chủ thuần khiết, đa số cai trị, chấm dứt tranh luận. Bạn có thể nói “Có gì sai với nó?” Chà, có thể có vô khối thứ sai. Lối hành hình linh-sơ không qua xét xử mà theo biểu quyết của đám đông ở Mỹ chống lại những người Mỹ gốc phi trong thế kỷ trước? Chỉ có một người với ý kiến bất đồng, chỉ duy nhất anh ta ở phía bên đối lập. Đó là dân chủ trong lúc thi hành nhiệm vụ.

“Khoan đã,” bạn nói. “Đa số nên cai tri. Vâng, nhưng trong phạm vi không từ chối quyền của thiểu số.” Và, tất nhiên, bạn đã đúng. Như Lord Acton đã quan sát:

“Nó thật tồi tệ khi bị đàn áp bởi thiểu số, nhưng nó còn tệ hơn nữa khi bị đàn áp bởi đa số… Bài thử chắc chắn nhất chúng ta có thể dùng để đánh giá một đất nước có thực sự tự do hay không là tổng lượng an toàn mà thiểu số được hưởng.”

Cung cấp sự đảm bảo cho thiểu số chính xác là vai trò của nền Cộng hòa. Cộng hòa là một nhà nước dựa trên nguyên tắc giới hạn sự cai trị của đa số, sao cho thiểu số – thậm chí dù chỉ là một người – sẽ được bảo vệ khỏi ý thích bất chợt hay cảm hứng của đa số.

Nền Cộng hòa được đặc trưng bởi hiến pháp được viết thành các luật lệ để đảm bảo điều đó có thể thực hiện được. Đó là chức năng của Luật Nhân Quyền của Mỹ, nó không là gì khác ngoài danh sách các việc mà nhà nước không được làm. Nó viết rằng Quốc hội, mặc dù là đại diện cho đa số, sẽ không ban hành bất cứ điều luật nào từ chối quyền của thiểu số thực thi sự tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, hội họp hòa bình, quyền tham gia quân ngũ, và các quyền “không thể tách rời” khác.

Những giới hạn này đối với sự cai trị của đa số là bản chất cốt lõi của nền Cộng hòa, và chúng cũng là cốt lõi của ý thức hệ Tự do. Và đây lại là một điểm khác biệt lớn giữa hai quan điểm: Những người Tập thể Chủ nghĩa ủng hộ bất kỳ hành động nào miễn là nó có thể được cho là vì lợi ích lớn hơn của đa số; và ở phía bên kia những người theo chủ nghĩa tự do bảo vệ quyền của thiểu số chống lại sự giận dữ và lòng tham của đa số.

 

Thánh Ca Tự Do

Nguồn gốc và bản chất của quyền con người

Featured image: michael.veltman

 

Ngày nay có quá nhiều từ được sử dụng để miêu tả các quan điểm chính trị: ví dụ như đảng bảo thủ, tự do, cấp tiến, cánh hữu, cánh tả, chủ nghĩa xã hội, cộng sản, chủ nghĩa Mao, phát xít, quốc xã; rồi chúng ta lại nghe thấy đảng tân bảo thủ, phát xít mới, và các loại “mới” trên đời. Khi được hỏi khuynh hướng chính trị của chúng ta là gì, chúng ta thường được kỳ vọng chọn một trong các từ liệt kê ở trên. Nếu chúng ta không có một quan điểm chính trị vững vàng hoặc nếu chúng ta sợ rằng sẽ lấy phải một chọn lựa tồi, khi đó chúng ta chọn cách an toàn bằng cách nói chúng ta thuộc xu hướng ôn hòa – và thế là lại thêm một từ nữa vào danh sách.

Không có tới một trên một ngàn người có thể định nghĩa rõ ràng ý thức hệ mà bất cứ một trong số những từ này đại diện. Chúng được sử dụng, chủ yếu, như là tên gọi để kể về phần tinh hoa của hoặc là điều tốt hoặc là điều xấu, tùy thuộc vào ai sử dụng những từ này và cảm xúc gì nảy sinh trong tâm trí họ. Hầu hết các tranh luận chính trị nghe như là chúng xuất phát tại tháp Babel, nơi mỗi người đang nói một ngôn ngữ khác nhau. Ngôn từ nghe có vẻ giống nhau, nhưng những người nói và những người nghe, từng người lại có một định nghĩa khác nhau cho những ngôn từ này.

Kinh nghiệm cho thấy, một khi những định nghĩa được hiểu giống nhau, thì rất nhiều các bất đồng chấm dứt. Rất nhiều người đã nghĩ rằng họ đã thuộc những ý thức hệ đối lập sâu sắc, và thường đã rất sửng sốt khi nhận ra rầng về cơ bản họ đồng thuận với nhau. Do vậy, để bàn về chủ đề tập thể chủ nghĩa, trước hết chúng ta phải loại bỏ ra những điều vô nghĩa. Nếu chúng ta muốn hiểu đươc ý nghĩa của các lịch trình chính trị đang chi phối hành tinh chúng ta ngày hôm nay, chúng ta phải không cho phép suy nghĩ của chúng ta bị nhiễm bẩn bởi gánh nặng đầy cảm xúc của những từ ngữ cũ kỹ.

Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các tranh cãi chính trị lớn nhất của thời đại chúng ta có thể được phân chia thành chỉ hai quan điểm. Những cái còn lại chỉ là điều sai lầm. Điển hình, các tranh cãi chỉ tập trung vào câu hỏi là một hành động cụ thể có nên được thực hiện hay không; nhưng mâu thuẫn thực sự không nằm ở sự hay ho của hành động; mà nó nằm ở một nguyên tắc, một tiêu chuẩn đạo đức để làm cơ sở chính đáng cho phép hoặc ngăn cấm hành động đó. Nó là cuộc thi đấu giữa hai quan điểm đạo đức của một bên là Chủ nghĩa Tập thể và một bên là Tự do Cá nhân. Đây là những từ có ý nghĩa và chúng miêu tả vực thẳm ngăn cách về mặt triết học vốn đang chia rẽ cả thế giới, ít nhất là thế giới Phương Tây.

Một điểm chung của cả những người theo chủ nghĩa tập thể cũng như Tự do Cá nhân là đại đa số họ là có ý định tốt. Họ đều muốn cuộc sống tốt nhất có thể cho gia đình họ, cho người dân nước họ, và cho nhân loại. Họ muốn thịnh vượng và công bằng cho mọi người. Cái mà họ bất đồng là cách thức để mang đến những điều đó như thế nào?

Loạt bài gồm 5 phần tiếp theo đây bàn về năm cột trụ cơ bản khác nhau giữa Chủ nghĩa Tập thể và Tự do Cá nhân. Nếu lộn ngược đầu các cột trụ của Chủ nghĩa Tập thể thì chúng trở thành các cột trụ của Tự do Cá nhân. Nói cách khác, có năm khái niệm chính của các mối quan hệ chính trị và xã hội; và, trong mỗi khái niệm này, những người Tập thể Chủ nghĩa và Tự do Cá nhân có quan điểm trái ngược.

Nguồn gốc và bản chất của quyền con người ?

Những người theo Chủ nghĩa Tập thể và Tự do Cá nhân đều đồng thuận rằng quyền con người là quan trọng, nhưng họ khác nhau về mức độ quan trọng khi so với các giá trị khác và đặc biệt là bất đồng về nguồn gốc của các quyền này.

Quyền không phải là thực thể hữu hình để có thể xem hay cân đo được. Nó là các khái niệm trừu tượng trong tư duy của con người. Nó là bất cứ gì mà mọi người đồng ý với nhau tại một nơi, một thời điểm được xác định. Bản chất của nó thay đổi theo tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại. Ngày nay, nó biến tấu rất nhiều từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Có nền văn hóa chấp nhận rằng các quyền được ban cho bởi những người cai trị vốn nhận được sự ủy nhiệm của thần linh. Có nền văn hóa lại cho rằng quyền được ban cho con người trực tiếp bởi Chúa Trời. Trong những nền văn hóa khác, quyền được cảm nhận như là sự sở hữu vật chất những người khác. Những người sống trong các bộ lạc hay chế độ độc tài quân sự thậm chí không dành thời gian để nghĩ về quyền con người bởi vì họ không kỳ vọng gì bao giờ có được chúng. Một số nền văn hóa nguyên thủy thậm chí còn không có danh từ chỉ quyền.

Bởi vì có sự khác biệt lớn trong khái niệm quyền con người, nên chúng không thể được định nghĩa để có thể thỏa mãn tất cả mọi người. Tuy vậy, nó không có nghĩa là chúng không thể được định nghĩa thỏa mãn cho chính chúng ta. Chúng ta không cần thiết phải khăng khăng đòi những người trong nền văn hóa khác đồng ý với chúng ta; nhưng, nếu chúng ta muốn sống trong một nền văn hóa như chúng ta ưa thích, ví dụ nền văn hóa đảm bảo chúng ta có lượng tối ưu sự tự do cá nhân, thì khi đó chúng ta phải rất nghiêm túc về định nghĩa được ưa thích hơn về quyền con người. Nếu chúng ta không có khái niệm quyền nên là cái gì, thì có vẻ như chúng ta sẽ sống dưới một định nghĩa không giống như chúng ta ưa thích.

Việc đầu tiên cần phải hiểu khi tìm tòi một định nghĩa hữu ích về quyền là: nguồn gốc xác định bản chất. Khái niệm này cần phải được bàn rất chi tiết hơn, nhưng nó cần phải được phát biểu trước ở đây. Nếu chúng ta có thể đồng ý về nguồn gốc của quyền, chúng ta sẽ ít gặp khó khăn hơn khi đồng ý về bản chất của chúng.

Lấy ví dụ một nhân viên bảo vệ được thuê bởi hội đồng địa phương để bảo vệ tài sản của cư dân trong vùng, bản chất của các hoạt động của người bảo vệ phải bị giới hạn trong các hoạt động mà các cư dân đó được quyền làm. Điều này có nghĩa là người bảo vệ có thể đi tuần trong địa bàn và, nếu cần thiết, ngăn chặn các tên trộm cắp hoặc tội phạm dùng vũ lực. Nhưng người bảo vệ không có thẩm quyền để bắt buộc cư dân phải cho trẻ em đi ngủ trước 10 giờ đêm hay bắt buộc quyên góp cho Hội Chữ Thập Đỏ. Tại sao không? Bởi vì những cư dân là khởi nguồn của ủy quyền này; bản chất của sự ủy quyền không thể bao gồm bất kỳ hành động nào mà bản thân nguồn ủy quyền không được phép làm; và rõ ràng những cư dân trong cộng đồng không có quyền bắt ép hàng xóm của họ trong những việc này.

Quyền phải được giành lấy từ chiến trường

Trong những xã hội mà trải qua nhiều thế hệ đã không có chiến tranh và cách mạng, người ta rất dễ quên rằng quyền được đảm bảo bởi sức mạnh quân sự. Quyền có thể được chuyển giao cho thế hệ tiếp theo như là một món quà tặng, nhưng chúng luôn luôn được giành lấy từ chiến trường. Tuyên Ngôn Nhân Quyền (Bills of Rights) của Hoa Kỳ là một ví dụ kinh điển. Những người đã soạn thảo văn bản đó chỉ có thể làm thế bởi vì họ đại diện cho mười ba tiểu bang đã đánh bại quân đội của đế quốc Anh. Nếu như họ đã thất bại trong cuộc chiến giành độc lập thì họ đã không có cơ hội để viết Tuyên Ngôn Nhân Quyền hay bất cứ thứ gì khác ngoại trừ lá thư chia tay trước khi bị hành quyết. Thật không may là Mao Trạch Đông đã đúng khi ông ta nói rằng quyền lực chính trị nảy nở và phát triển từ những thùng thuốc súng. Ông ta hoàn toàn đúng. Một người có thể tuyên bố rằng anh ta có quyền làm việc này việc nọ xuất phát từ qui định của Luật hoặc từ Hiến Pháp hay thậm chí từ Chúa Trời; nhưng ở trong hoàn cảnh kẻ thù, hoặc một tên tội phạm hoặc một bạo chúa đang chĩa súng vào đầu, anh ta không có sức mạnh để thực hiện các quyền anh ta đòi hỏi. Quyền luôn luôn dựa trên sức mạnh. Nếu chúng ta mất khả năng hoặc sự sẵn sàng để bảo vệ bằng sức lực các quyền của chúng ta, chúng ta sẽ mất chúng.

Điều này dẫn chúng ta đến với sự khác biệt sâu sắc giữa những người theo Chủ nghĩa Tập thể và Tự do Cá nhân. Nếu quyền là giành được trên chiến trường, chúng ta có thể giả thiết rằng chúng thuộc về người chiến thắng, nhưng họ là ai? Nhà nước chiến thắng cuộc chiến hay nhân dân? Nếu nhà nước chiến thắng cuộc chiến và nhân dân chỉ phụng sự nó, khi đó nhà nước nắm quyền và được phép ban phát cho nhân dân hoặc rút lại. Mặt khác, nếu nhân dân chiến thắng cuộc chiến và nhà nước chỉ phụng sự họ, khi đó nhân dân nắm quyền và được phép ban phát cho nhà nước hoặc rút lại chúng. Nếu nhiệm vụ của chúng ta là phải định nghĩa quyền là gì cho một xã hội tự do, chúng ta phải chọn giữa hai khái niệm này. Những người Tự do Cá nhân chọn lựa khái niệm rằng quyền đến từ nhân dân và nhà nước là đầy tớ. Những người Tập thể Chủ nghĩa chọn lựa khái niệm quyền đến từ nhà nước và nhân dân là đầy tớ.Những người Tự do Cá nhân không an tâm với giả định thứ nhì, là vì nếu nhà nước có quyền lực để ban phát quyền, thì họ cũng có quyền lực để lấy chúng đi, và khái niện đó không tương đồng với tự do cá nhân.

Quan điểm của Tự do Cá nhân đã được thể hiện rất rõ ràng trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ như sau:

“Chúng ta công nhận những gì sau đây là sự thật hiển nhiên, rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng họ được Tạo hóa ban tặng những quyền tự nhiên không thể tách rời; rằng những quyền trong số đó bao gồm quyền được Sống, được hưởng Tự do, và được mưu cầu Hạnh Phúc. Rằng để bảo vệ những quyền này, chính quyền được thành lập từ nhân dân…”

Không gì có thể rõ ràng hơn thế. Từ điển nói với chúng ta rằng không thể chuyển nhượng có nghĩa là “không thể tách rời.” Giả thiết ở đây là quyền là sở hữu bẩm sinh của con người. Mục đích của nhà nước, không phải là để ban phát quyền, mà là để bảo vệ và chống đỡ cho chúng. Trái ngược lại, tất cả các hệ thống chính trị Tập thể Chủ nghĩa đi theo quan điểm đối lập cho rằng quyền được ban cho bởi nhà nước. Nó bao gồm Quốc xã, Đế quốc và Cộng sản. Đáng tiếc khi nó cũng là giáo lý của Liên Hiệp Quốc. Điều 4 của Hiến chương LHQ viết: “Các Đảng Nhà nước tham gia hiệp ước này thừa nhận rằng, trong việc hưởng các quyền được cung cấp bởi nhà nước… nhà nước có thể đưa các quyền này vào trong các giới hạn được xác định bởi luật pháp.”

Cần nhấn mạnh một lần nữa: nếu chúng ta chấp nhận rằng nhà nước có quyền lực để ban phát quyền, khi đó chúng ta cũng phải đồng ý rằng họ có quyền lực để lấy đi các quyền đó. Hãy lưu ý cách dùng từ trong hiến chương LHQ. Sau khi tuyên bố rằng các quyền đó được cung cấp bởi nhà nước, nó nói tiếp theo rằng các quyền này có thể được đưa vào các giới hạn “như được xác định bởi luật pháp.” Nói cách khác, những người tập thể chủ nghĩa tại LHQ đã mạo muội ban cho chúng ta các quyền của chúng ta và, khi đó họ cũng đã sẵn sàng để tước đi chúng, tất cả những gì họ cần để làm việc này chỉ là thông qua dự luật cho phép việc đó.

So sánh với Tuyên Ngôn Nhân Quyền (Bill of Rights) trong Hiến pháp Hoa Kỳ viết: Quốc hội sẽ không ban hành bất cứ luật nào hạn chế những quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, hội họp hòa bình, quyền phục vụ quân ngũ, vân vân và vân vân – không có ngoại lệ như được xác định bởi luật, mà là không có bất cứ luật nào. Tuyên Ngôn Nhân Quyền xứng đáng là hiện thân của đạo lý của Chủ nghĩa Tự do Cá nhân. LHQ là hiện thân của đạo lý của Tập thể Chủ nghĩa, và điều đó làm chúng thật khác biệt biết bao.

Nguồn gốc quyền lực của nhà nước

Liên hệ chặt chẽ với nguồn gốc của quyền con người là nguồn gốc quyền lực của nhà nước. Nó là mặt còn lại của cùng một đồng xu. Như phát biểu ở trên, những người Tự do Cá Nhân tin rằng một nhà nước công bằng nhận được quyền lực của nó từ nhân dân. Điều đó có nghĩa là nhà nước không thể có bất kỳ quyền lực hợp pháp nào ngoại trừ chúng được ban cho bởi công nhân của nó. Nói cách khác là chính phủ chỉ có thể làm những việc mà những công dân của nó có quyền làm. Nếu các cá nhân không có quyền để thực hiện một hành động nào đó, khi đó họ không thể ban cái quyền đó cho những người đại diện do họ bầu ra. Họ không thể ủy quyền cái gì mà họ không có. Bất chấp họ có bao nhiêu người thì nó vẫn là vậy. Nếu không một ai trong số họ có quyền để ủy quyền, thì một triệu người như họ cũng vẫn không có nốt.

Hãy sử dụng một ví dụ cực đoan, giả sử rằng một con thuyền bị chìm trong một cơn bão, và ba con người kiệt sức đang phải vật lộn để sống sót giữa biển khơi. Thình lình họ bắt được một chiếc phao cứu sinh. Chiếc phao được thiết kế để giữ cho một người nổi; nhưng với sự phối hợp rât cẩn trọng, nó có thể giữ cho hai người nổi. Nhưng khi người thứ ba vịn vào phao thì nó bắt đầu chìm, và cả ba một lần nữa lại không thể bảo vệ mình giữa biển khơi. Họ bèn thử xoay vòng với nhau, cứ một người đứng nước thì hai người kia bám vào phao; tuy nhiên sau vài giờ thì không còn một ai trong số họ còn đủ sức để tiếp tục đứng nước. Một sự thật ác nghiệt dần trở nên rõ ràng. Trừ phi một người trong số họ bị tách ra khỏi nhóm, nếu không cả ba sẽ chết đuối. Vậy, theo bạn, khi đó những người này nên làm gì? Hầu hết mọi người sẽ nói rằng hai người trong số họ sẽ áp chế người thứ ba để loại bỏ anh ta. Quyền sống sót là tối cao. Lấy đi mạng sống của người khác, một hành động kinh khủng, là chính đáng về mặt đạo đức nếu cần thiết để bảo vệ cuộc sống của chính bạn.

Điều này rõ ràng đúng đối với hành động cá nhân, nhưng còn hành động tập thể thì sao? Từ đâu hai người có quyền kéo bè chống lại một người? Những người Tập thể Chủ nghĩa trả lời rằng hai người có quyền lớn hơn vì họ làm thành số đông hơn người thứ ba. Nó là câu hỏi của toán học: lợi ích lớn nhất dành cho số đông nhất. Điều đó khiến cho nhóm trở nên quan trọng hơn cá nhân và vì vậy nó có lý do chính đáng để hai người áp chế một người buông tay khỏi chiếc phao. Có một logic nào đó trong lập luận này, nhưng nếu chúng ta đơn giản hóa hơn nữa ví dụ này, chúng ta sẽ thấy rằng, mặc dù hành động có thể đúng nhưng lý do nó được cho là chính đáng lại sai lầm.

Bây giờ hãy giả sử rằng chỉ có hai người sống sót – do đó chúng ta loại bỏ đi khái niệm nhóm – và hãy giả sử rằng chiếc phao chỉ nổi được với một người, không phải hai người. Dưới những điều kiện này, nó sẽ tương đương như là đối mặt với kẻ thù trên chiến trường. Bạn phải giết hoặc bị giết. Chỉ một người có thể sống sót. Bây giờ thì chúng ta đang bàn về sự cạnh tranh quyền được sống sót của mỗi cá nhân, và không có một nhóm tưởng tượng để làm rối rắm vấn đề. Dưới điều kiện cực đoan này, rõ ràng mỗi người có quyền làm bất cứ việc gì có thể để bảo toàn cuộc sống của anh ta, kể cả nó dẫn đến cái chết của người khác. Một vài người có thể lập luận rằng nó tốt hơn là hy sinh cuộc sống mình cho một người xa lạ, nhưng một số khác lại cho rằng không đấu tranh cho mạng sống của mình là sai lầm. Như vậy, khi các điều kiện được đơn giản hoá tới bản chất trần trụi nhất của chúng, chúng ta thấy rằng quyền để từ chối cuộc sống của người khác đến từ quyền của cá nhân để bảo vệ cuộc sống của chính anh ta. Nó không cần đến cái gọi là nhóm để cho phép việc đó.

Trong trong hợp đầu tiên của ba người sống sót, lý do thích đáng cho việc từ chối cuộc sống của một trong số họ không đến từ biểu quyết số đông mà đến từ quyền sống sót riêng biệt của từng cá nhân họ. Nói cách khác, từng người trong họ, hành động độc lập, sẽ được coi là chính đáng trong hành động này. Họ không được trao quyền bởi nhóm.

Khi chúng ta trả tiền cho cảnh sát để bảo vệ cộng đồng của chúng ta, chúng ta chỉ yêu cầu họ làm những gì mà chính chúng ta có quyền làm. Sử sụng vũ lực để bảo vệ cuộc sống, tự do và tài sản của chúng ta là chức năng hợp pháp của chính phủ, bởi vì quyền lực đó bắt nguồn từ nhân dân với tư cách là các cá nhân. Nó không bắt nguồn từ nhóm.

Và đây là một ví dụ nữa, ít cực đoan hơn rất nhiều nhưng khá tiêu biểu cho những gì thực sự diễn ra hằng ngày với các hội đồng lập pháp. Nếu chính phủ một ngày kia ra nghị quyết rằng không ai nên làm việc vào ngày ngày chủ nhật, và thậm chí giả sử rằng cộng đồng nói chung ủng hộ quyết định của họ, thế thì từ đâu họ có thẩm quyền sử dụng sức mạnh của cảnh sát của nhà nước để cưỡng chế nghị định này? Từng cá nhân công dân không có quyền áp buộc người hàng xóm dừng làm việc, do đó họ không thể ủy nhiệm cái quyền đó cho nhà nước. Khi đó từ đâu, nhà nước có được thẩm quyền đó? Câu trả lời là nó sẽ đến từ chính nó; nó sẽ được tự tạo ra. Nó tương tự như là quyền thần thánh của các nền quân chủ cố xưa khi giả thiết rằng vua đại diện cho quyền lực và ý chí của Trời. Trong xã hội hiện đại, hầu hết các chính phủ thậm chí không cần giả vờ có Trời ban thẩm quyền cho họ, họ chỉ dựa vào quân đội và các đơn vị cánh sát đặc nhiệm, và bất cứ ai chống đối sẽ bị loại bỏ.

Khi nhà nước tuyên bố xuất phát thẩm quyền của họ từ bất cứ nguồn nào không phải là nhân dân, nó luôn luôn dẫn đến sự hủy hoại của tự do. Ngăn cấm mọi người làm việc vào ngày chủ nhật không có vẻ gì là mối đe dọa lớn đối với tự do, nhưng một khi tiền lệ đã được thiết lập, nó mở đường cho nhiều sắc lệnh khác nữa, và ngày càng nhiều hơn nữa cho đến khi tự do ra đi. Nếu chúng ta chấp nhận rằng nhà nước hoặc bất cứ nhóm nào có quyền làm những việc mà các cá nhân một mình không có quyền làm, khi đó chúng ta một cách vô thức xác nhận khái niệm rằng quyền không thuộc về bản chất bên trong của từng cá nhân và chúng, trên thực tế, xuất phát từ nhà nước. Một khi chúng ta chấp nhận điều đó, chúng ta đang trên con đường dẫn tới sự cai trị của một chính thể chuyên quyền, độc tài.

Những người tập thể chủ nghĩa không quan tâm đến các vấn đề cầu kỳ này. Họ tin rằng nhà nước, trên thực tế, có quyền lực lớn hơn quyền của các công dân của nó, và nguồn gốc của quyền lực này, theo họ, không phải là các cá nhân trong xã hội, mà là chính xã hội đó, tức là nhóm mà cá nhân thuộc về.

 

Thánh Ca Tự Do
(Trích G.E.G)
Edit: THĐP

Lần thứ hai trong đời sử dụng 4g nấm thức thần psilocybin

Featured image: GeneralArtemis

 

Xin chào các bạn!

Với vị trí là một trong 3 admins hiện tại của trang mới này, mình cảm thấy bản thân có trách nhiệm với sự an toàn của những bạn mới sử dụng nấm thần. Đó là lý do mình viết bài này, những bạn mới nên đọc kỹ bài này để tránh phần nào những điều đáng tiếc (có thể dẫn tới điên loạn hoặc chết người) mà bản thân mình đã hiểu ra khi sử dụng nấm. Nếu bạn không muốn đọc hết bài này (sẽ khá dài) thì ít nhất bạn cũng nên đọc những điều mà mình rút ra được sau 2 lần sử dụng nấm (được in đậm và viết nghiêng).

I. Về Kinh Nghiệm Sử Dụng Nấm Thần 

– Với cần sa: Mình sử dụng cần sa từ 10 năm nay, kiểm soát tốt trong hầu hết trường hợp.

– Với các chất kích thích khác: Ít khi sử dụng.

– Với nấm thần: Tối hôm qua ngày 27/02/2015 là lần thứ 2 mình sử dụng nấm psilocybin trong đời, với liều lượng là 4g khô. Lần thứ nhất là khoảng 3 tuần trước với liều lượng là 3g khô. Điều đầu tiên mình có thể nói là 4g nấm khô cho hiệu ứng Mạnh Hơn Rất Nhiều so với 3g khô.

– Mình chưa đọc nhiều sách vở về nấm thần, cũng chưa có nhiều kinh nghiệm, những gì mình kể dưới đây hầu hết là kinh nghiệm thực tế của một người mới. Nếu bạn là người đã có nhiều kinh nghiệm thì mình mong bạn sẽ viết kinh nghiệm của bạn. Hãy liên lạc với mình để gửi bài!

– Điều thứ 2 mình có thể nói là Nấm Psilocybe cho hiệu ứng không giống bất cứ thứ gì mình đã sử dụng trước đó. Đặc biệt nó khác HOÀN TOÀN hiệu ứng của cần sa.

II. Ngôn Từ Không Thể Diễn Tả Được Đầy Đủ Trip 

Ngôn từ không thể diễn tả hết được những gì mình nhìn thấy trong Trip, hơn nữa mình tin rằng mỗi người sẽ có những trip khác nhau. Do đó mình không chắc chắn lắm vào việc những người khác đều đi cùng hành trình với mình. Và mình đang cố gắng để diễn tả đầy đủ nhất có thể bằng từ ngữ về trip của mình.

III. Lần đầu sử dụng Nấm Psilocybin trip report 

– Thời gian: Đó là cách đây 3 tuần, với liều lượng 3g khô

– Nguồn nấm: Nấm Psilocybin giống Amazona

– Địa điểm: Tại nhà mình. Điều thứ 3 mình có thể nói là bạn NHẤT ĐỊNH phải sử dụng nấm trong một môi trường thân thuộc và ít có người lạ, hãy sử dụng cùng với bạn bè thân thiết của bạn, những người hiểu bạn và không đánh giá về bạn.

– Thời điểm ăn: Lúc vừa ăn cơm xong. Điều thứ 4 mình có thể nói là nếu bạn muốn có hiệu ứng mạnh và nhanh thì nên để bụng đói trước khi ăn nấm.

– Cách ăn: Bỏ vào miệng nhai nhuyễn rồi nuốt cùng một số hoa quả cho dễ ăn.

– Hiệu ứng:

+ Sau 1h mình bắt đầu thấy trí tưởng tượng tăng lên rất nhiều, đặc biệt là các bóng chìm của đồ vật phản chiếu lên kính hoặc sàn nhà bắt đầu nổi lên rõ ràng.

+ Sau đó mình thấy xuất hiện một số triệu chứng buồn nôn, mình nôn khan vài lần như những tiếng ợ, mắt bắt đầu mất đi sự nhanh nhẹn, kết hợp cùng triệu chứng nôn mửa khan này là sự khó chịu, bồn chồn.

+ Sau đó mình cảm thấy các cơ bắp của mình yếu hẳn đi, gần như là không còn sức lực, mình thấy mọi thứ xung quanh đều có vẻ buồn cười và mình cười ngặt nghẽo về tất cả mọi thứ mình nhìn thấy.

+ Sau đó các đồ vật bắt đầu méo mó về hình dạng, một số đồ đạc trong nhà có hình dạng méo mó đến kỳ lạ.

+ Sau đó mình thấy bạn mình cao lớn như người khổng lồ, một người bạn khác lại bé xíu như người tí hon. Mọi thứ thay đổi rất nhanh chóng, mình vẫn có nhận thức về thời gian nhưng không thể đếm nổi các đơn vị số học. Suy nghĩ bị mất dần đi, logic/phân tích bị mất dần đi thay vào là những hình ảnh (não phải được kích thích mạnh hơn não trái chăng?)

+ Sau đó mình cảm thấy hơi sợ hãi nên lên giường nhắm mắt lại, trong khi nhắm mắt mình thấy những hình ảnh về vũ trụ, về những tấm lưới khổng lồ dài và rộng vô hạn, mình cứ chạy trong đó và lúc này mình cảm thấy rất cô đơn và có chút sợ hãi, ý thức của mình nhận diện đó là một con rắn khổng lồ, vô cùng lớn và dài, da rất trơn giống như những bộ lạc người ở vùng Amazon miêu tả trong một cuốn sách nào đó mà mình đã đọc được một đoạn. Do đó mình đã gọi tên bạn mình nằm ngủ ở bên cạnh thức dậy cho bớt sợ. Điều thứ 5 mình có thể nói được là bạn nhất định phải có một người bạn thân thiết, hiểu chuyện ở bên cạnh bạn trong suốt cuộc hành trình.

+ Sau khi hiệu ứng giảm xuống một chút, mình bắt đầu đi bộ ra ngoài phòng bếp và ngồi xuống suy nghĩ về những gì vừa trải qua, lúc này mọi thứ đã hết méo mó. Mình đốt một điếu cần sa để hút nhằm tăng hiệu ứng lên cao hơn.

+ Sau đó mình mở cửa sổ để ngó ra ngoài đường, một cảm giác mới hoàn toàn xâm chiếm cơ thể mình, mọi thứ không giống như lúc bình thường mình nhìn thấy.

+ Khi mình cầm 1 quả táo lên và ăn thì mình có những suy nghĩ như thể cơ thể mình cùng tất cả những vật chất khác tách rời khỏi tâm hồn mình, mình cứ cầm quả táo lên ngắm nghía như thể nó rất xa lạ với mình nhưng lại rất thú vị, đây là lần đầu tiên mình có cảm nhận tâm hồn tách biệt ra khỏi vật chất.

+ Sau đó mình thấy euphoric (vui sướng, tự tin, khả năng vô hạn) chạy trong người – đây là thời điểm mình cảm thấy vui sướng nhất trong cuộc hành trình. Nhưng điều này rất tiếc chỉ kéo dài khoảng 20 phút.

+ Sau đó khi hiệu ứng giảm xuống đáng kế (lúc này là khoảng 3,5h sau khi dùng nấm) mình mới chạm đất và bắt đầu có khả năng sử dụng máy tính. Mình lên mạng tìm kiếm thêm về hiệu ứng của nấm và mình tìm ra được kính vạn hoa (kaleidoscope) – Các bạn có thể đọc về Kaleidoscope ở đây

Thực ra là một hình ảnh bất động nhưng dưới sự tác động của psilocybe não bộ thấy hình ảnh này chuyển động liên tục không bao giờ ngừng.

Điều thứ 6 mình có thể nói được là khi hiệu ứng của nấm tăng lên thì bạn không có khả năng sử dụng máy tính, sách vở mà chỉ có khả năng nghe nhạc/nghe âm thanh.

+ Sau khi tỉnh táo lại hẳn (6h từ lúc bắt đầu sử dụng) mình cảm thấy rất mệt mỏi, cơ bắp và trí não rất mệt mỏi cả ngày hôm sau. Do đó Điều thứ 7 mình có thể nói được là bạn cần phải tắm rửa, đi vệ sinh, dọn dẹp nhà cửa, nấu một vài món ăn trước khi sử dụng nấm psilocybe, và bạn cũng cần phải sắp xếp lịch làm việc sao cho bạn không cần phải làm gì trong vòng 48h trước khi sử dụng nấm.

IV. Trip thứ hai report 

Sau trip đầu tiên mình đã tiến hành trip thứ 2 sau khi sẵn sàng chuẩn bị về tâm lý và tinh thần. Mình cảm thấy đã sẵn sàng trip tiếp vào tối hôm qua nên đã thu xếp công việc và tất cả mọi thứ liên quan rút tỉa được trong kinh nghiệm đầu tiên về nấm. Mình để bụng đói trước khi ăn và đã nhai 4g nấm khô. Sau đây là những từ ngữ cụ thể nhất mà mình có thể tìm được để mô tả.

+ Thời điểm sử dụng: Lúc 10h tối.

+ Số lượng 4g nấm khô vẫn là Amazoe được nhai nhuyễn cùng hoa quả rồi nuốt thẳng vào bụng.

+ Khoảng 10h15 phút mình bắt đầu thấy trí tưởng tượng tăng lên, những hình ảnh phản chiếu từ kính và nền nhà bắt đầu nổi lên.

+ Khoảng 10h30 phút mình cảm thấy rất buồn nôn và đã nôn khan nhiều lần, mắt mờ, cơ bắp yếu hẳn đi tới mức không đi lại được nên mình đã vào giường nằm.

+ Sau đó mình cảm thấy có một nguồn năng lượng vô cùng lớn chạy trong người mình. Ngoài ra âm thanh/hình ảnh/đồ vật…méo mó một cách đáng kinh ngạc.

+ Mình có cảm giác ngón tay mình chạm xuyên qua mọi đồ vật, tất cả mọi thứ vật chất mình không còn phân biệt nổi thứ gì với thứ gì nữa.

+ Sau đó không lâu mình không thể kiểm xoát được cơ thể mình, không thể kiểm xoát được suy nghĩ của mình. Điều duy nhất mình có thể làm là quan sát “Nó.” “Nó” rất mạnh và hoạt động hoàn toàn tự động bên ngoài ý thức của mình – Lần đầu tiên mình trải qua một kinh nghiệm như thế này. Mình nhận ra rằng tiềm thức là cả một cỗ máy rộng lớn (như vũ trụ bao la này), tiềm thức lúc này làm việc gần như hoàn toàn tự động và mình ý thức được rằng mình đang ở trên một con tàu lao với tốc độ rất lớn vào thẳng tiềm thức của mình mà mình thì không thể để mất lái (nếu mất lái sẽ gây ra tai nạn).

+ Mình phải cong người lên, thở mạnh và nhắm mắt lại để có thể giữ được ý thức về “Nó” và không để bị mất “Cái Tôi” – chính là cái nhận thức về những gì đang xảy ra. Cảm giác của mình lúc đó là tiềm thức đang sử dụng cơ thể và não bộ của mình để giải phóng một nguồn năng lượng vô cùng lớn, lớn tới mức mình phải dùng hết sức bình sinh để đảm bảo cho nguồn năng lượng thoát ra được khỏi cơ thể. Và tất cả những gì mình làm lúc đó là đảm bảo cho nguồn năng lượng thoát ra.

+ Mình bị mất hoàn toàn nhận thức về thời gian, không gian, mình có cảm giác con mắt thứ 3 của mình mở ra, và ngay sau cảm giác đó là một điều đáng kinh ngạc lần đầu tiên xảy ra với mình: Nhắm mắt lại hay mở mắt ra thì mọi thứ cũng giống hệt nhau, mình nhìn thấy cùng một thứ cả khi nhắm mắt và khi mở mắt, ánh sáng rất rõ ràng, các hình ảnh không bị hạn chế bởi “mắt thường” nữa.

+ Mình có cảm giác có thể di chuyển trong không gian (toàn vũ trụ) và riêng cơ thể mình thì thật sự là không thể điều khiển được nữa. Mình nằm bẹp dí ở ghế mất một lúc và suy nghĩ của mình lúc đó là về đấng tạo hóa tối cao, về bản chất của mọi vật trong vũ trụ. Mình thấy rõ ràng rằng tất cả mọi thứ trong vũ trụ này đều được làm từ một “chất” duy nhất, “chất” này biến đổi thành nhiều định dạng khác nhau.

+ Mình suy nghĩ về thiền và trạng thái thiền, về nhà sư ở trung quốc đang ở trong trạng thái deep meditation mà bạn có thể đọc ở link này.

Và mình hiểu ra trạng thái thiền ở High Level là như thế nào. Mình chắc chắn rằng tối hôm qua mình cũng đã trải nghiệm điều này. Và mình tin rằng nếu như con người bị lạc ở trong đó thì sẽ mãi mãi không ra được hoặc phải nhờ sự can thiệp của khoa học mới trở về được thực tại.

+ Mình cảm thấy tất cả những gì mà con người làm ra, viết lên, sáng tạo ra… nói chung là tất cả những gì trong cuộc sống thực tế chỉ là một “vũ trụ” siêu nhỏ trong vũ trụ bao la này.

+ Mình suy nghĩ về cỗ máy thời gian và thấy rằng mình hoàn toàn có khả năng di chuyển trong không gian và thời gian. Lúc này mình mất hoàn toàn ý thức về thời gian, không còn có thể lấy lại bất cứ khái niệm gì về giờ giấc cũng như đã bao nhiêu lâu mình ở trong trạng thái này.

+ Lần đầu tiên mình có cảm giác đi sâu vào tiềm thức của mình như thế. Sau đó cao trào là lúc mình gần như mất đi ý thức về “cái tôi” mình đã phải gọi bạn thân của mình lại giúp mình mang một cái chai tới để mình có thể đi tiểu tại chỗ vì mình không có khả năng đi, mình đã ở quá xa thế giới thực tế để quay lại. Và trong suy nghĩ của mình luôn luôn đấu tranh để ý thức được về bản thân (nhất định không được để mất đi cái tôi của mình trong trip). Lúc đó mình rất sợ hãi rằng mình sẽ không bao giờ quay trở lại được cuộc sống thực tế nữa và không hiểu bạn bè người thân của mình có tìm mình và “cứu” mình ra khỏi trạng thái thiền rất mạnh/ rất đẹp nhưng mình chỉ sợ nếu mình đi xa quá thì sẽ không quay về được nên mình đã kêu gào, gọi lớn tên của bạn mình tới giúp. Lúc đo mình nghĩ rằng nếu không có người bạn mình thì mình sẽ mất hết liên lạc với thực tế và không bao giờ quay lại được nữa. Do đó một lần nữa mình chân thành khuyên bạn khi sử dụng nấm nhất định phải có một người bạn thân hiểu chuyện ở bên cạnh. Và điều thứ 8 mình nhận ra (một người bạn thân có kinh nghiệm dùng nấm cũng đã khuyên mình): Trước khi dùng nấm, bạn hãy nhắc đi nhắc lại thật nhiều lần tên tuổi, địa chỉ của bạn, những việc bạn đã làm (càng nhiều càng tốt) trước khi dùng nấm như là những “sợi dây” giữ bạn không bị mất liên lạc với thực tế. Điều này rất quan trọng.

+ Mình nhìn cái chăn có hoa văn bên cạnh và nghĩ tới một dải ngân hà toàn rắn là rắn, nhưng cũng may mình rất biết tránh những suy nghĩ xấu này nên đã không mắc bẫy suy nghĩ.

+ Sau giai đoạn cao trào này psilocybin bắt đầu giảm xuống, mình nghĩ đến Đức Phật Thích Ca và mình khẳng định đã trải nghiệm cuộc sống của ông ta (dù rằng không kéo dài) bằng việc nhớ lại các lời dạy của Đức Phật mà mình đã được đọc, mình hiểu ra tất cả mọi chuyện trên cuộc đời này là do chính bản thân mình quan niệm, chính bản thân mình dựng ra, kể cả mọi vấn đề, mọi quan niệm về hạnh phúc hay đau khổ đều là do chính bản thân mình tạo ra chứ không phải bất kỳ ai khác. Mình thấy rất nhiều khuôn mặt của đức phật và một vài hình ảnh về khuôn mặt của Steve Jobs nổi lên trong những hình khối chuyển động trước mặt mình (dù nhắm mắt hay mở mắt thì mọi thứ cũng như nhau).

+ Mình có cảm giác mình là đấng tạo hóa có thể tạo ra mọi thứ, lúc này mình nghĩ đến Steve Jobs và câu nói của ông ta về LSD, Steve Jobs nói rằng kinh nghiệm của ông ta với LSD là kinh nghiệm quan trọng nhất cuộc đời ông ta. Và mình thấy đúng như thế.

+ Lúc này là khoảng 1h sáng (3h sau khi dùng nấm) mình cảm thấy đã bắt đầu chạm chân được xuống dưới đất. Mọi thứ đã hết méo mó nhưng vẫn ở dưới dạng 3D. Một cảm giác thích thú xâm chiếm con người mình. Cảm giác euphoric và sự linh hoạt trong suy nghĩ bắt đầu quay trở lại, và lúc này mình đã lấy lại được một chút ý niệm về thời gian, không gian, thực tế và bắt đầu online facebook để nói chuyện với bạn bè nhưng điều này không kéo dài được lâu, có vẻ là khi psilocybin khi còn ở trong cơ thể bạn thì bạn không có hứng thú hút thuốc hay viết lách hay sử dụng máy tính hay xem phim ảnh! Ít nhất thì điều này đã xảy ra với mình.

+ Sau kinh nghiệm trip thứ 2 này mình thấy được một số sự thật của đức phật đã chỉ dạy, ngấm lời dạy của phật, trải nghiệm cuộc sống của phật và mình tin rằng nếu có hiểu biết nhiều hơn nữa thì mình có thể trải nghiệm cuộc sống của bất cứ một người nào!

+ Sau kinh nghiệm thứ 2 này mình cũng hiểu ra trạng thái thiền (deep meditation) là như thế nào, và mình cũng hiểu ra trạng thái bị “ma nhập” là như thế nào, và hiểu ra trạng thái của những “đồng cô, đồng cậu” khi lên đồng ở trong trạng thái tâm lý nào.

Hôm nay mình rất mệt, mặc dù đã định viết report này từ hôm qua nhưng không có sức nên bây giờ mới viết nổi.

Trên đây là tóm tắt về 2 trip nấm đầu tiên trong cuộc đời mình. Mình sẽ đợi khoảng 1 tháng sau để dùng LSD trip và so sánh sự khác biệt.

Để kết thúc bài viết này mình sẽ dịch 5 level của Psilocybe (tác động lên người dùng):

Level 1

Màu sắc/hình ảnh/ âm thanh sống động hơn.

Level 2

Màu sắc/âm thanh/hình ảnh sống động hơn. Các đồ vật bắt đầu nhảy múa, méo mó. 2D vision xuất hiện khi nhắm mắt lại. Suy nghĩ bị bóp méo. Tăng cường khả năng sáng tạo.

Level 3

Hình dạng các vật thể thay đổi, Kaleidoscopes cong hoặc biến dạng. 3D vision khi nhắm mắt lại, sự nhầm lẫn về cảm giác, mất nhận biết về thời gian và có cảm giác đang ở trong sự vĩnh hằng.

Level 4

Ảo ảnh mạnh, có nghĩa là vật thể chuyển hình dạng sang những vật thể khác. Phá hủy cái tôi hoặc phát triển mạnh cái tôi (các đồ vật bắt đầu nói chuyện với bạn). Một số người mất nhận thức về thực tế, thời gian không có nghĩa lý gì. Kinh nghiệm thoát ra khỏi cơ thể.

Level 5

Mất hẳn liên lạc với thực tế. Cảm giác và cảm xúc không còn ý nghĩa như bình thường. Mất hẳn cái tôi. Bóp méo không gian, thời gian, các vật thể và vũ trụ.

Tham khảo thêm: http://www.shroomery.org/6255/Trip-Reports

 

Grower Việt
Edit: THĐP

Ám dụ

Feauted Image: Oer-Wout

 

Anh đã đi qua những giọng người trùng trùng. Cơn mưa cũ kỹ, bài thánh ca mang hình chuông, bóng ngày trượt ngã. Anh đã ngồi giải đi giải lại những bất phương trình của sự vô nghĩa, nhưng bất trắc của cuộc sống nào có báo trước điều gì.

Sáng nay những đám mây nhận được điều lệnh từ sự thay đổi thời tiết, những oi nồng mùa hè. Cơn viêm xoang như trúng số độc đắc hành hạ cái đầu bằng cơn đau mọc rễ trong âm u phỏng sinh cho một sự tự do mới. Anh đang nghĩ về một điều gì đấy của cơ hội. Em đang nhận lấy một cơ hội hay chỉ là một chiến binh lạc lối giữa cuộc diện này.

Khi đức tin màu đỏ đã trở nên thẫm đen như miếng tiết khô. Màu hoa loa kèn không còn buồn như năm ngoái, người nữ tù trở nên cô đơn trong phế tích hình hài lưu cữu. Em có thể chặn được bước đi của thời gian bằng một nhát thánh kiếm? Ân sủng chỉ là một sự dối trá và bất công bằng.

Khi sự bình an chỉ là những nốt ngộ độc làm bội thực một buổi sáng bằng tiếng chim non hót trong lá xanh trong gió say trong những vần thơ nhẹ bẫng của em. Những tiếng chim đã hót từ một triệu năm không bao giờ mất mặt. Đừng mở miệng trong sự băng hoại của ngôn từ khi sự thật đã chết trong những huyền ngôn như con muỗi để lại vệt máu cuối cùng.

Bài thơ anh viết lấm lem mạng nhện và xác muỗi. Hơi thở cũ của ngày hôm qua nấp sau chiếc khung lộng kiếng trên tường. Những mộng mơ không thật thà chưa bao giờ thật thà. Anh vẽ tình yêu vào song trắng. Nghe mưa cuộn sóng phai đêm. Nơi cơn gió ủ rũ mang lửa mặt trời. Mộng mơ gãy cánh. Những chiếc lá úp mặt khóc thầm thì để những con chữ tật nguyền mang dối trá bay lên.

 

Phương Uy

Một lương tâm yên tĩnh!

Featured Image: Noah Weiner

 

Anh ta là một lái xe taxi. Một buổi chiều nóng bức, như thường lệ, anh ta lái xe đi vòng quanh một đường phố lớn, gặp hai vị khách lên xe, rất nhanh chóng anh chở họ đến nơi. Khi xuống xe, vì tiền phí trả cho lái xe mà hai bên cãi nhau. Lúc bấy giờ rất nhiều xe tải trong thành phố còn chưa lắp đồng hồ tính giá tiền, mọi người thường cứ xuống xe là trả 5 đồng. Trong khi đó xe của anh ta đã lắp đồng hồ này, chỉ số là 6,3 đồng.

Hai khách hàng này cứ nhất định trả theo kiểu cũ. Hai bên lời qua tiếng lại một lúc, kết quả là hai vị khách ghê gớm kia không trả tiền, đi thẳng. Ngày nào cũng chạy trên đường, chẳng dại gì mà gây thù chuốc oán, gặp loại người như vậy đành im lặng. Anh tự nhủ, hôm nay mình gặp đen đủi nên chỉ lặng lẽ nhìn hai người đó đi xa dần.

Tâm trạng buồn bực mãi, anh mới lái xe đi tiếp may ra chạy được một chuyến nữa rồi về nhà. Vô tình anh quay đầu lại phía sau nhìn, tròn xoe mắt, ghế ngồi đằng sau nằm lại một cái túi to, rõ ràng là của hai vị khách mới lên khi nãy. Anh dừng xe gấp, lấy cái túi lên, mở ra vô cùng kinh ngạc, thở gấp: một túi tiền đầy. Trái tim anh như nhảy ra khỏi lồng ngực, anh không còn tâm tư đâu mà tiếp tục đón khách, vội lái xe về nhà.

Về đến nhà, anh mở cái túi ra đếm: Tròn 40 ngàn đồng. Trước món tiền vô cùng lớn này, anh lạnh ngắt cả chân tay, tâm trạng phấp phỏng không yên. Bố mẹ anh ở nông thôn, anh và gia đình phải ở nhờ nhà bố mẹ vợ, vợ anh thường xuyên đau yếu, không có việc làm, các con còn đi học, cả gia đình chỉ sống nhờ vào thu nhập của anh. Mà anh mỗi ngày lái xe từ sớm đến tối chỉ giỏi lắm là được một ngàn tệ, cố gắng sống qua ngày. Cứ nghĩ thì biết, số tiền ấy có ý nghĩa to lớn đối với gia đình anh như thế nào: Có thể chữa bệnh cho vợ, xây một căn phòng mới, đàng hoàng nộp đủ tiền học phí cho con. Cả nhà từ nay có thể sống sung túc hơn.

Liền mấy ngày, anh không tài nào ngủ được, vừa hưng phấn lại vừa sợ hãi. Nếu người mất tiền tìm đến của nhà anh thì làm thế nào? Quả nhiên sau vài ngày, người mất tiền báo cảnh sát, xin hậu tạ để tìm được nhà anh. Nghĩ đến thái độ của họ hôm ấy, tâm trạng anh rất phức tạp. Nếu mình phủ nhận việc ấy, im lặng thì ai biết. Không còn chứng cứ, cảnh sát cũng chẳng làm gì được, qua một thời gian dài, không còn ai truy vấn anh nữa, tất cả sẽ sóng yên biển lặng. Lúc ấy mình sẽ tiêu dần món tiền ấy.

Nhưng mà anh luôn thấp thỏm không yên. Nghĩ đến ngày hôm ấy, người mất tiền nói mình không ra gì, xỉ vả mình là kẻ thô bỉ, tham lam, nuốt không món tiền không phải của người khác, trong lòng anh không giấu nổi sự hổ thẹn, đến nỗi chỉ cần có người nhìn anh chăm chú là tim anh đập kinh hãi không tự chủ được, chỉ sợ mọi người nhìn thấu sự tham lam của mình.

Anh giấu món tiền đó ở trong nhà, vừa không dám đụng đến vừa sợ mất trộm, ngày nào cũng thấp thỏm không yên. Một lần vợ anh ốm nặng, cần tiền chữa chạy, anh do dự rất lâu rồi lấy ra 200 đồng, sau đó lại để dành bỏ vào cho đủ.

Từ ngày nhặt được tiền, anh cảm thấy như cả ngày mình ôm quả mìn, hết sức căng thẳng. vốn anh hay nói hay cười, giờ trở thành lặng lẽ ít lời. Suốt ngày nghĩ ngợi, vì sao kẻ nhặt tiền lại là mình? Nếu người chủ tìm đến mình sẽ trả họ ngay.

Anh cứ như vậy, đợi đủ mười năm, người chủ số tiền đó vẫn không đến. Cho đến tháng 5 năm 2006, anh không chịu được nổi sự giày vò, cố lấy cam đảm mang bọc tiền đó đến công an trình báo.

Tên anh là Tô Khánh Tài, nhà ở thị trấn Diên Cát, tỉnh Cát Lâm. Hôm đó, trên tivi, anh nói: “Nếu người mất tiền cần tôi bồi thường tiền lãi, tôi sẽ chẳng sợ sẽ phải bán cả nồi niêu nhà mình để trả.”

Để trả lại tiền, thậm chí anh còn phải chuẩn bị ngồi tù, dặn vợ chuẩn bị quần áo, chăn, màn cho anh vào tù. Lời nói thật bi tráng nhưng trên khuôn mặt anh không giấu nổi vẻ kiêu hãnh.

Sự việc này dẫn đến một làn sóng dư luận, có người ca tụng, có người chỉ trích, còn có người nói anh ngu, người ta đâu phải thánh hiền, của cải thì ai mà chả thích. Tô Khánh Tài đương nhiên cũng không ngoại lệ. Anh ta nói: “Nếu món tiền này do tôi làm ra thì hay biết bao nhiêu!”

Mười năm trước, nếu anh thấy tiền không tối mắt lại, chủ động trả lại thì sẽ được muôn người hoan nghênh, nhưng sau mười năm mới trả, thì tình hình đã khác xa, đợi đến khi rước họa vào thân, thân bại danh liệt mới nói, thậm chí còn có thể bị ngồi tù. Đối với hậu quả này, Tô Khánh Tài quá rõ, áp lực quá lớn của lương tâm anh cũng quá biết…

Thế cái gì đã làm cho anh ta cam tâm chịu khổ như vậy mãi mới ra trình báo?

Là vì muốn có một lương tâm trong sạch yên tĩnh. Trong cuộc hành trình của đời người, sớm muộn gì thì cũng có thể bị chao đảo nhưng duy nhất có một thứ không thể lay chuyển, đó là một lương tâm trong sạch, tĩnh lặng.

 

Tâm Giao

Bí ẩn những giấc mơ

Featured Image:  Take The Moment

 

Bài viết này được viết với mục đích thực hiện một lời hứa rằng ngày nào đó tôi sẽ viết một bài cực kỳ lộn tùng phèo không ai có thể hiểu được, điều đó chẳng có gì đơn giản hơn việc viết về thứ mà chính tôi cũng không thể hiểu nổi. Đó là bí ẩn của những giấc mơ.

Giải thích một số ký hiệu để người đọc đỡ bị nhức đầu:

*(): lời văn được viết trong dấu ngoặc này được hiểu là sự diễn giải giấc mơ
*<<>> : lời văn được viết trong dấu ngoặc này được hiểu là sự phân tích sâu hơn của kiến thức dùng để diễn giải giấc mơ.
Đôi khi trong bài tôi có sử dụng lẫn lộn giữa hai cách xưng hô; “mình” lúc ấy tôi đang tự nói với chính mình; “tôi” lúc ấy tôi đang phân giải giấc mơ một cách khách quan.


 

Đây là một giấc mơ khiến cho mình cảm thấy sợ hãi, điều này có nghĩa đó là một giấc mơ trái với lương tâm, đồng thời nó lại khá phù hợp với hoàn cảnh hiện tại để phân tích nó một lần nữa. Các bức tranh.

Bắt đầu giấc mơ là cảnh mình đi lang thang ngoài phố, vào ban đêm, để kiếm bức tranh chân dung của một bá tước. (Điều này làm tôi liên tưởng đến Dorian Gray, bức chân dung của quỷ. Đôi khi trí nhớ rất khó tin tưởng, nó mong manh dễ trộn lẫn như những làn khói, tôi không còn nhớ chính xác được là mình đã xem bộ phim đó trước hay sau khi mơ vì tính chất sẽ khác nhau hoàn toàn.)

<<giấc mơ này chắc hẳn bóc trần cái tôi của tôi để hé ra một phần nào đó rất ghê tởm vì trong khi tôi phân tích giấc mơ này, tôi có cảm giác như có người đứng nhìn mình từ phía sau. Đó là một loại cảm giác khá phổ biến đối với nhiều người, có thể so sánh một cách đại khái giống như “có tật giật mình” khi lén lút làm việc gì đó sai trái và sợ bị người khác bắt quả tang. Cũng là một trong nhiều loại cảm giác được biểu hiện của người mắc bệnh tâm thần phân liệt hay có, thực ra nói chính xác thì người bị chẩn đoán mắc bệnh phải hội đủ nhiều yếu tố và triệu chứng hơn là một biểu hiện.

Nhân cách của những người bị mắc bệnh tâm thần phân liệt đã bị tan rã, người mắc bệnh thường thấy ảo giác hoặc thính giác, hoang tưởng rằng có người âm mưu chống lại mình, âm mưu theo dõi và hãm hại hoặc muốn giết chết mình. Và cái cảm giác như có người đứng nhìn từ phía sau là một biểu hiện đơn độc và là tiền đề cho các chứng hoang tưởng đó ở người bệnh. Tiếp tục nói đến việc nhân cách của người bệnh bị tan rã, chính xác là cấu trúc tâm thần của họ bị tan rã, bao gồm cái Tôi, Siêu tôi và cái Ấy.

Cái siêu tôi có thể hiểu nôm na chính là lương tri của con người, nó là cái sẽ làm bạn cắn rứt lương tâm khi đã nghĩ điều gì hoặc làm điều gì trái với chính nó, tôi nói là với Nó chứ không nói là trái với xã hội. Nó có rất nhiều thứ thậm chí đi ngược với xã hội.

Như nhà văn Harper Lee trong cuốn sách “Giết Con Chim Nhại” đã nói rằng lương tâm là thứ duy nhất đi ngược lại với số đông. Và cái cảm giác ai đó đang nhìn chính là xuất phát từ việc cái siêu Tôi của người ấy, đã bị tách hẳn ra khỏi cấu trúc nhân cách để phán xét việc làm của cái Tôi. Sự cắn rứt lương tâm của người bệnh có thể bị đẩy lên đến cao trào, đỉnh điểm là tưởng như có ai đó muốn giết chết họ chẳng hạn.>>

Quay trở lại với phim Dorian Gray, đó là một bộ phim từng rất đúng với mình, một bộ phim về sự xấu xí đáng ghê tởm của tâm hồn một con người có thể đạt đến vì ham muốn, danh vọng và sắc đẹp. Nhân vật là một người có sắc đẹp mê người, nhưng khi bức tranh được hoàn thành, bản thân bức tranh còn đẹp hơn cả người thực. Và điều kỳ dị bắt đầu xảy ra khi các vụ mất tích không dấu vết, không thủ phạm.

Dorian Gray sống đến cả trăm năm nhưng trông vẫn y hệt như lúc gã được hoạ, vẫn sống xa hoa, thác loạn và giữ được sắc đẹp của mình cho đến khi bức tranh được tìm ra. Bức chân dung của Dorian Gray, bức chân dung của quỷ, bức chân dung đáng lẽ ra phải là của một thiên thần nhưng bây giờ đã biến thành bức chân dung của một con quỷ thực sự, một xác chết trên con đường phân huỷ đã đội mồ sống dậy và nhìn trừng trừng người đang nhìn nó. Đó là linh hồn của Dorian.

Bộ phim kết thúc khi Dorian thực sự tìm được tình yêu đích thực của mình, đã nhận ra được sự giày vò của lương tâm, bức chân dung cả quỷ bị đốt, gã giẫy chết… bức tranh ngày nào của gã trai với lương tâm còn chưa bị vẩn đục bởi danh vọng tái sinh.

Có lẽ nào trong giấc mơ mình đã tìm kiếm bức tranh này? Tức là đang tìm kiếm linh hồn của chính mình? Lương tri của chính mình sao? Nhắc lại bối cảnh lúc đó cũng không phải là không hợp lý. Đó là quãng thời gian rất khó khăn của mình.

<<Nói một chút về sự khác biệt tính chất giữa việc xem bộ phim trước hay sau khi mơ, nếu xem trước thì không có gì nhiều để giải thích, đó là do vô thức đã vay mượn một số chi tiết mà ta có khả năng hiểu giải mã để xây dựng giấc mơ. Nhưng nếu xem bộ phim sau khi mơ thì điều đó có nghĩa là bộ não con người, chính xác là vô thức của con người siêu việt hơn là tôi đã được học.

Điều này có nghĩa là vô thức không ngừng thôi thúc con người hoặc cái tôi – ý thức đi tìm chất liệu để giải mã giấc mơ. Xét về cấp độ rộng hơn thì vô thức có thể khiến cho con người ngày một thấu hiểu bản thân và hoàn thiện mình hơn nhưng với điều kiện cái tôi – ý thức phải biết cách lắng nghe thông điệp của nó>>)

Tiếp tục, hẳn là mình đã từng nhìn thấy bức tranh đó rồi nên trong ký ức vẫn còn một chút hình ảnh về nó (sự diễn giải một cách vô thức này rất ăn khớp với sự đối chiếu bên trên). Dọc con đường hiện ra vài bức tranh khá là sống động, đến mức mình đã lo sợ là người từ trong tranh sẽ bước ra, nhưng tất cả đều không phải là bức tranh mình tìm kiếm (Sống động vì mỗi một bức tranh đều là một linh hồn của một cá thể nào đó).

Đặc biệt, bức tranh đó mình không thể nào nhớ mặt người được vẽ – tức là nhân vật bá tước. (theo Freud thì đó là một người rất gần gũi, rất quan trọng với mình). Mình đi vào một phòng trưng bày tranh, hay là một căn nhà gì đấy và bắt đầu lùng sục bức tranh nhưng vẫn không thấy.

Tiếp theo là hình ảnh họp lớp, chỉ có một vài người và hai người khá là quan trọng đối với mình. Sau khi tiệc tùng được một lúc, mình nghe được một đoạn nhạc: “Khi nơi núi non hết chập chùng…” Lại nhảy đến một cảnh khác, không giống như ngôi nhà nằm trên ngọn núi vừa rồi, ngôi nhà này nằm trên mặt bằng và mình có ý mượn ai đó chìa khoá để vào bên trong nhưng không dám (Nỗi sợ hãi của tôi bắt đầu dâng lên từ đoạn này, tôi sắp sửa làm gì đó sai trái).

Mình mượn cô bạn hàng xóm cái máy ảnh để tìm kiếm bức chân dung bá tước nhưng vẫn không tìm thấy! Sau đó tiệc bắt đầu tàn, Phương Anh, bạn rất thân của mình hồi ấy, nhỏ viện cớ gì đó xin về trước tiên, người đến rước nó đi là một bà nào đó tay đang cầm điều thuốc.

Tiếp đến là là cảnh có người đang sửa lại căn nhà, họ xây dựng những bức tường gạch lấp lối ra vào lại. Mình đã nhanh chóng chạy vào xin lấy đồ đạc vì mọi người đã về hết rồi chỉ còn có mình và một người bạn thời thơ ấu, nhỏ cảm động và bảo rằng mình là người tốt. (Nghe cứ như là lời nhắc nhở vì mình đã quên mất điều đó rồi).

Mình tìm được cuộn băng cassette và cho chạy nghe, đó là lời sau cùng của tác giả bức tranh bá tước. Trong khi lắng tai nghe mình tranh thủ vơ lấy hết tất cả tranh ảnh, sách vở của tác giả, mà lúc đó mình đã nghĩ là Phoenix, một người chị đã dẫn đường mình đến với thế giới sách. Nhưng khi băng cassette chạy, lời nói cất lên lại là của một người nam, anh ta tố cáo rằng chính người bạn gái đã bắt anh ta vẽ bức tranh bá tước rồi sau đó giết chết anh. (Chi tiết này đã bị đảo ngược một chút so với chi tiết trong phim Dorian Gray. Đó là nhân vật hoạ sĩ tư nguyện vẽ chân dung cho Dorian vì cái đẹp quá trong sáng của anh ta. Nhưng sau đó đã bị chính anh ta giết chết để ăn cắp bức tranh quái dị).

Trong khi gói ghém đồ đạc, mình đã nghĩ nếu Phoenix – bạn tôi biết thì tôi sẽ trả, nếu không tôi sẽ lấy luôn vì đâu có ai biết được!!! (đây là hành động ăn cắp một cách trơ trẽn vì người này trong giấc mơ đã chết rồi).

Điều đáng nói là đến cuối cùng, cho dù đã ăn cắp hầu hết tác phẩm của người khác mình vẫn không tìm được bức tranh bá tước. Trong đầu mình vẫn còn nhớ khá rõ hình ảnh một người quỳ một chân (chính là tôi), cúi người lục lọi trên kệ sách những gì mình có thể lấy được, xung quanh là sự sụp đổ của một căn phòng*, đồ đạc đã bị bươi tung lên khắp nơi…

(Nói sơ qua một chút về Phoenix, người bạn chưa bao giờ gặp mặt của tôi, người đã dẫn đường cho tôi đến với thế giới sách Haruki Murakami, người đã đặt viên gạch đầu tiên cho cuộc xây dựng tâm hồn của tôi, vì trước khi đọc sách của Haruki Murakami tôi rất khác. Và sau đó sách của Murakami lại là cánh cửa để tôi gặp được phần con người còn lại của mình. Một Doppelgänger chính hiệu của tôi. Tiếp theo đó là sự sụp đổ cái tôi cũ và chính thức bước vào xây dựng và hoàn thiện cái tôi mới. Lần theo sợi dây của các sự kiện trong cuộc đời mình tôi mới hiểu con người tôi chưa từng gặp này có ý nghĩa đến chừng nào.

Đối chiếu với bối cảnh hiện tại, tức là 2-3 năm gì đấy sau khi tôi có giấc mơ này tôi mới bắt đầu quan tâm đến tranh, bắt đầu hiểu được rằng mỗi một bức tranh là một phần linh hồn của tác giả. Tôi có một mong ước muốn học vẽ, vẽ thật tốt để hoàn thành bức tranh “Kẻ trộm sách” của mình, trước những hình ảnh như thế này thì ngôn ngữ là bất lực. Và Phoenix cũng là một người biết vẽ. Người bạn này đã từng luyện vẽ cực lực để thi tuyển sinh đầu vào ngành Kiến trúc nhưng đáng tiếc lại phải học làm Luật sư.

<<Một vài trích dẫn trong “Khởi Sinh Của Cô Độc” về căn phòng* – Paul Auster, tuy không phải là nhà phân tâm học nhưng cũng là một người Do Thái với sự nhạy cảm siêu phàm của một nhà văn bậc thầy về thể loại phân tâm học. Theo đánh giá chủ quan thì Haruki Murakami vẫn chưa thể sánh bằng vì sự phức tạp dài dòng trong sách của ông, ngay cả Franz Kafka cũng chỉ viết những câu chuyện khó hiểu một cách ngắn gọn nhất.

*“Căn phòng không phải là sự tái hiện của nỗi cô độc mà nó chính là cốt lõi của nỗi cô độc ấy.” Theo Freud thì căn phòng hoặc là căn nhà là biểu tượng của âm hộ hoặc tử cung nhưng điều đó cũng chẳng có giá trị thực tiễn gì trong việc giải thích giấc mơ. Paul thì khác, cách giải thích của Paul thú vị hơn nhiều, tôi thích phân tâm học nhưng thật ra rất ít theo lý thuyết nguyên thuỷ của Freud. Theo Paul, căn phòng là dạ con cũng là chốn khởi nguyên của trí tưởng tượng.

Căn phòng* không phải là nơi trốn tránh khỏi thế giới… Thế giới đã co lại thành kích cỡ của một căn phòng đối với anh, và khi nào nó còn bắt anh phải hiểu về nó, anh phải ở lại nơi mình đang ở. Và nếu anh không tìm được nơi ở này, việc nghĩ đến việc tìm đến một nơi khác thật là ngớ ngẩn.” – Paul Auster.

Mọi nỗi đau khổ của con người bắt nguồn từ một điều duy nhất: anh ta không thể ngồi yên lặng trong phòng của mình.” – Pascal. >>

Sau khi khảo cứu sơ sơ về căn phòng* tôi mới nhớ ra rằng căn phòng trong giấc mơ không phải là “căn phòng của mình”, đó là “căn phòng” của Phoenix và tôi là người đã lẻn vào khua khoắn đồ đạc của chủ nhân. Những thứ tôi lấy cũng chính là sản phẩm của trí tưởng tượng của người khác. Tôi ở trong “căn phòng” của người khác, ăn cắp trí tưởng tượng của người khác, muốn tìm kiếm linh hồn của mình trong “sự cô độc” của người khác, trong sự bắt chước người khác. Điều đó cũng không hẳn là độc ác, nó hèn thôi. Như trong lời của Oscar Wilde: “Chúng ta đều là kẻ khác.” Hoặc lời của Rimbaud: “Tôi là một kẻ khác.

<<Nói về cuốn sách, chắc chắn là tôi đã mua sau khi có giấc mơ đó, điều này có nghĩa là tôi đã tự thúc đẩy mình hoàn thành mục tiêu một cách vô thức. Thế giới vốn kỳ diệu, con người là một phần của thế giới cho nên cũng rất kỳ diệu>>)

Kết

Lúc đầu, khi bắt tay vào viết lại cái thứ giấc mơ dài dòng và quái dị này tôi không nghĩ mình có thể nói được điều gì rõ ràng hơn so với 2-3 năm trước đây. Tôi lôi nó từ cuốn nhật ký bị xếp dưới đáy tủ ra để xem lại chỉ vì hôm nay tôi vô tình gặp đúng người tôi muốn gặp, sự vô tình đó làm cho tôi tin rằng cả thế giới thực sự đồng ý giúp tôi hoàn thành mơ ước của mình, phần tôi chỉ việc hoàn thành nốt những gì trong quá khứ tôi đã bỏ dang dở. Tôi thực sự không ngờ mình lại có thể kéo ra được dòng suy nghĩ mạch lạc và dễ hiểu như thế này, cho nên mục đích lúc đầu đã không còn đúng với bây giờ nữa.

 

Quyên Quyên

Phê bình quan điểm chính trị, kinh tế của Noam Chomsky, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng của Đại Học MIT

Featured image: Public domain

 

Ngoài những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ của Noam Chomsky, ông còn là một nhà phê bình lớn về những chính sách ngoại giao của Mỹ, về một nhà nước tập đoàn, và về hệ thống truyền thông. Có rất nhiều điều để phê bình về những lĩnh vực này, và Chomsky đã làm thế một cách nhiệt huyết. Ông là một nhà phê bình nhiệt huyết đến mức cuối cùng chúng ta cũng phải đặt ra câu hỏi, “Noam Chomsky muốn gì?” Thật khó để nhận ra được từ những bài viết chứa đầy phân tích và phê bình của ông.

Tại sao chúng ta nên quan tâm đến Chomsky, hoặc bất cứ nhà phê bình nào, muốn gì? Đơn giản bởi vì nếu chúng ta loại bỏ những gì các nhà phê bình phê bình, và thành lập một chế độ được họ ưa chuộng, nó có thể còn tệ hơn! Kết luận như vậy không biện hộ được cho hiện trạng; nó chỉ đẩy chúng ta ra xa khỏi một phương án thay thế cụ thể cho hiện trạng.

Hóa ra để biết Chomsky muốn gì không hề dễ dàng. Ông ta không nói nhiều về điều đó. Ông ta không thích những gì chúng ta đang có. Ông ta phản đối chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa phát xít. Ông ta xem thường những biện pháp của chủ nghĩa tự do cho chế độ hiện tại, cái mà ông ta gọi là chủ nghĩa tự do Hoa Kỳ. Do vậy ông ta không muốn một nhà nước hạn chế, chủ nghĩa vô chính phủ tư bản, hay một thị trường tự do.

Ông ấy mô tả tầm nhìn của Murray Rothbard về một xã hội libertarian như “một nơi đầy thù hận tới nỗi sẽ không có ai muốn sống ở đó.” (Tôi sẽ không cố gắng phân tích lời nhận xét điên rồ này ở đây ngoại trừ việc lưu ý một Chomsky-chống-độc-tài có ý nói cho tất cả mọi người). Ông ấy chống lại bất cứ kiểu mẫu nào của chủ nghĩa tư bản. Không cần thiết phải nói ra rằng ông ấy không phải là một conservative*. Nhưng ông ấy đã rất nhiều lần lên án “chủ nghĩa Marx”1, chủ nghĩa Keynes (Keynesianism), và chủ nghĩa bảo vệ (protectionism).2

*người có xu hướng thiên về cánh phải trong kinh tế

Còn lại là gì? Không nhiều. Chomsky sử dụng những thuật ngữ sau để định nghĩa chính mình: libertariana, libertarian socialistb, anarchistc, and anarcho-syndicalistd. Cũng chẳng rõ những thuật ngữ này nghĩa là gì, đối với Chomsky cũng vậy. Nếu chúng ta không rõ ông mấy muốn gì, rất khó để phê bình nó. Nhưng tôi cũng vẫn sẽ cố gắng.

a: người theo chủ nghĩa tự do
b: người vừa theo chủ nghĩa tự do, vừa theo chủ nghĩa xã hội
c: người theo chủ nghĩa vô chính phủ
d: người theo chủ nghĩa vô chính phủ công đoàn

Chomsky theo Marx trong việc chống lại tư hữu các phương tiện sản xuất, cái mà ông ấy tin rằng nó cho phép các “nhóm ưu tú”: “điều khiển các nguồn tài nguyên, dựa trên sự kiểm soát của họ với một nền kinh tế tư nhân,” và cuối cùng dẫn tới loại trừ cộng đồng khỏi “những quyết định cơ bản liên quan tới sản xuất và lao động.”3

Hãy dừng lại ngay đây. Như Ayn Rand đã hùng hồn lập luận, các phương tiện sản xuất cuối cùng chính là tâm trí con người. Tất nhiên Chomsky không muốn xóa bỏ sự tư hữu của tâm trí chúng ta (tôi hy vọng vậy.) Ý ông muốn nói tới là những món tư bản cứng: máy móc, những tòa nhà và vân vân. Một người sẽ nghĩ rằng nếu như các cá nhân riêng lẻ và các doanh nghiệp liên quan không thể sở hữu những thứ này, thì chính phủ sẽ sở hữu chúng. Chúng ta gọi đó là chủ nghĩa xã hội nhà nước. Chomsky rõ ràng cũng phản đối lại điều này.

Như vậy, nếu như chính phủ không sở hữu những tài sản tạo ra thu nhập, và những cá nhân liên quan sẽ không sở hữu nó, thì ai sẽ là người sở hữu chúng? Rõ ràng là, những đều này thật rắc rối, những phương tiện sản xuất bằng cách nào đó sẽ được sở hữu tập thể bởi chính người lao động, chúng ta đang đi tới ở một khái niệm ngớ ngẩn của chủ nghĩa anarcho-syndicalism*. Thay vì các nhà tư bản tham lam sở hữu các tập đoàn, những người lao động sẽ sở hữu chúng. Nhưng nó sẽ không được sở hữu theo kiểu các cổ phần riêng lẻ có thể bán được. Đó là chủ nghĩa tư bản.

*chủ nghĩa vô chính phủ công đoàn

Không, ông ấy ủng hộ một chế độ mập mờ và không rõ ràng về sở hữu tập thể, cái mà người lao động sẽ nghĩ ra cách khi họ cùng nhau đâm đầu vấp ngã hướng tới việc phá sản. Như Mises đã viết trong Chủ nghĩa xã hội, “[n]hư một mục tiêu, Chủ nghĩa công đoàn thật lố bịch, mà nói chung thì, nó không thể tìm thấy bất kì một người cổ động nào dám cầm bút viết một cách công khai và rõ ràng ủng hộ nó.”

Không bàn tới chi tiết, tưởng tượng ý tưởng về chủ nghĩa công đoàn sẽ hoạt động như thế nào ở Mỹ gần đây. Giả sử những người lao động đã có đặc quyền sở hữu Enron. Những syndicalists nhẹ dạ dường như nhìn thấy sự sở hữu doanh nghiệp tập thể luôn luôn tốt đẹp ở bất cứ đâu.

Nhưng sự sở hữu cũng ngụ ý tới rủi ro và những trách nhiệm pháp lý cho những khoản vay và những vụ kiên. Sau khi Enron sụp đổ và bị chia cắt thành nhiều mảnh nhỏ, liệu có bao nhiêu người lao động ước rằng họ đồng sở hữu Enron? Dưới luật pháp hiện hành, những ông chủ phải chịu trách nhiệm cho những sai lầm và những vi phạm hợp đồng đối với người lao động. Có bao nhiêu người lao động muốn đối mặt với rủi ro này?

Các syndicalists rất thích mơ mộng về chuyện sẽ làm gì với các doanh nghiệp “đang tồn tại” và làm thế nào những người lao động có thể kiểm soát chúng trong một cuộc nổi dậy chớp nhoáng. Tuy nhiên, những nhà máy được có mặt ngay từ đầu là bởi vì có những nhà tư bản tham lam nghĩ rằng anh ta có thể làm ra lợi nhuận bằng việc bán những vật dụng, và anh ta đã đầu tư nguồn vốn mà anh ta đã tiết kiệm từ trước đó. Bắt đầu một dự án kinh doanh mới thì sao? Sẽ có bao nhiêu người lao động có vốn để đóng góp? Sẽ có bao nhiêu người dám liều lĩnh bỏ ra số vốn đó ngay cả khi họ có vốn, vào một công ty “vận hành một cách dân chủ bởi các công nhân”?

Chomsky rõ ràng chống lại khái niệm phân chia lao động: “Trong những giai đoạn đầu của nó, hệ thống công nghiệp đòi hỏi lao động chyên môn… Bây giờ điều này không còn đúng nữa.”4 Ở đây ông lại nghe theo Marx. Chúng ta sẽ không có kế toán viên, bác sĩ hay thợ mộc,… Thay vào đó, (cựu) thợ mộc sẽ đứng ở vị trí phẫu thuật não, (cựu) luật sự sẽ xây các tòa nhà chọc trời, các máy bay sẽ được lái bởi các (cựu) nha sĩ và vân vân. Mọi người sẽ thay phiên nhau. Sẽ có rất nhiều cơ hội để làm việc ở một nhà xác cũng nên.

Chomsky rõ ràng đã níu bám vào học thuyết giá trị lao động (the labor theory of value), ở một khái niệm khác của Marx. Theo học thuyết này, mọi giá trị của một doanh nghiệp đều được đóng góp bởi “công nhân”. Người công nhân mà chúng ta gọi là ông chủ rõ ràng không đóng góp bất cứ điều gì. Chỉ có những người chưa bao giờ làm chủ một doanh nghiệp mới có thể tin vào học thuyết ngớ ngẩn này. Vì ông chủ chẳng đóng góp được gì cho doanh nghiệp, tại sao lại có những công nhân tới làm việc ngay từ đầu?

Theo học thuyết giá trị lao động, người lao động có thể sẽ tới một khu đất trống, và sản xuất ra một lượng tài sản tương tự bằng cách lặp lại các hoạt động như cách họ đã làm cho các nhà tư bản tham lam, lần này thì không có được một cơ sở, trang thiết bị, sự điều hành, khách hàng hay kế hoạch kinh doanh nào. Nếu chúng ta loại bỏ đi nhà tư bản tham lam, những chi tiết nhỏ đó cũng phải được bỏ đi.

Chomsky rõ ràng cũng phản đối chuyện sản xuất hàng loạt vì bản chất hạ thấp nhân phẩm công nhân của nó. (Liệu điều này không đi theo quan điểm của Marx? Hãy ghi chú điểm này.) Ông ấy rõ ràng cũng nghĩ rằng mỗi công nhân nên dành một khoảng thời gian lớn cho việc đánh dấu dấu ấn cá nhân và tính nghệ sĩ của riêng mình trên những vật dụng đó. (Bạn sẽ làm điều này như thế nào với một cây búa?) Chomsky không biết sự thật rằng những người lao động như vậy sẽ sống trong cảnh thiếu thốn nghèo khổ bởi sự giảm mạnh năng suất của họ. Ngay bây giờ, con người có thể tự do sống như trong thế giới ảo tưởng của Chomsky. Có một số ít sống như vậy, ở ngoại thành Bohemia, nơi mà họ được biết như những nghệ sĩ đói. Thậm chí Chomsky cũng không được như “lý tưởng” Chomsky, khi ông đang giữ chức giáo sư chuyên ngành ngôn ngữ tại đại học MIT-phi-công-đoàn, hơn 47 năm nay.

Rất quan trọng để hiểu rằng Chomsky và các syndicalists là, thực tế, phương thức sản xuất ưa thích của họ–người lao động cùng sở hữu chung–vẫn có thể tồn tại hợp pháp trong một thị trường tự do. Chúng không hiệu quả, tất nhiên-nghiệp dư thì không thể cạnh tranh lại chuyên gia. Chúng sẽ bị giới hạn trong phạm vi những người có cùng ý thức hệ hoặc tư tưởng ủng hộ chúng. Mặc dù sau đó, những người trung thành với chủ nghĩa sẽ chủ yếu là các sinh viên, những người làm việc cho các nhà hàng hợp tác xã mà tôi thường lui tới hồi đại học, cuối cùng cũng sẽ đuối sức khi phải làm việc nhiều giờ, lương thấp và sự phức tạp của việc đồng sở hữu một doanh nghiệp cùng với ba mươi người nghiệp dư khác khi phảicạnh tranh với các chuyên gia quản trị và các doanh nhân khác.

Liệu các syndicalists sẽ làm giống như vậy và chấp nhận các nhà tư bản? Họ hiếm khi nói về điều này, nó là một bất cập của chủ nghĩa công đoàn và Chomsky. Song, một kết luận hợp lý có thể đạt được. Đầu tiên, nếu syndicalists tôn trọng tư hữu và chủ nghĩa tư bản và chỉ đơn thuần là cố gắng cạnh tranh bằng việc thiết lập những hợp tác xã của họ, vậy thì họ cũng là “American libertarians”, chắc chắn họ không phải là như thế.

Thứ hai, Chomsky phủ nhận ông ấy là một pacifist. Do vậy, nó phải được giả định rằng ông ấy sẽ chấp nhận sử dụng bạo lực để thiết lập nền tảng công lý.

Thứ ba, từ những lời hùng biện cương quyết chống tư bản của ông như là “đồng lương nộ lệ” rõ ràng ông cho rằng chế độ tư bản là cực kì bất công.

Thứ tư, những ví dụ lịch sử ông trích dẫn như những minh chứng tốt nhất cho quan điểm của ông-các anarchists trong và ngoài Barcelona trong suốt cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha–đã sử dụng nhiều hình thức bạo lực cho việc tập thể hóa các công ty và các trang trại.

Nhà sử học Burnett Bolloten, trong cuốn Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha (1991), trích dẫn một anarchist nổi danh từ vùng Barcelona (Catalonia), Diego Abad de Santillan:

“Chúng tôi không muốn phủ nhận rằng ngày 19 tháng bảy [1936] đã mang lại một sự tràn lan đam mê và lạm dụng, một hiện tượng tự nhiên của sự chuyển đổi quyền lực từ tay của những kẻ có đặc quyền sang tay của người dân. Có thể sự thành công của chúng ta đã kết thúc với những cái chết bằng bạo lực của bốn hay năm nghìn người cư trú ở Catalonia, những người nằm trong danh sách cánh hữu và có sự liên quan tới những phản ứng chính trị hay giáo hội. Nhưng việc đổ máu này là một hệ quả tất yếu của một cuộc cách mạng, trong đó, mặc cho tất cả các rào cản, nó càn quét như một cơn lũ và tàn phá mọi thứ trên đường đi, cho tới khi nó dần dần mất đi quán tính của nó.” [trang 52-53]

Do đó, dựa trên toàn bộ các chứng cứ, kết luận hợp lý được đưa ra là Chomsky và đồng bọn không hài lòng với cơ hội để thực hành chủ nghĩa công đòan. Không, cái mà họ thực sự muốn là ngăn cản những người không đồng ý với họ, không muốn họ tham gia vào các loại hình sản xuất dựa trên tư hữu. Và, dù họ hiếm khi nói ra, họ rõ ràng có ý định loại trừ đối thủ của họ khỏi thương trường bằng bạo lực, chết chóc nếu cần thiết.

Đó là tại sao, bất chấp sự phản đối của Chomsky, nói cho cùng thì các syndicalists cũng giống những người anh em Bolshevik và socialists-nhà-nước của họ. Cả hai tin tưởng rằng kế hoạch utopia về lao động tự quản có thể và phải được mang tới thành quả, bằng bạo lực nếu cần thiết, chống lại giai cấp tư sản và bất cứ người nào khác cản lối họ.

Syndicalists ảo tưởng rằng cuộc sống của những người lao động sẽ được yên ổn nếu họ loại bỏ được những ông chủ. Tuy nhiên, như Mises đã cho chúng ta biết, những người chủ thực sự của những người lao động, những người duy nhất có thể xác nhận tiền công, điều kiện làm việc và chính công việc của họ, là những người tiêu dùng lạnh lùng, tham lam và tàn nhẫn, người sẽ quyết định chọn hoặc không chọn sản phẩm đầu ra của những người lao động. Do đó, những hợp tác xã mới của những người lao động sẽ sớm trải qua điều mà bất kì chủ doanh nghiệp Maalox-chewing đều biết-sự độc đoán tuyệt đối các khách hàng trong một thị trường tự do áp đặt lên những cơ sở doanh nghiệp và những người chủ của họ.

Chủ nghĩa công đoàn ngô nghê đã chưa bao giờ đi xa đủ để trải nghiệm tình huống đó. Song, chúng ta có thể tưởng tượng rõ rằng, đối mặt với thực tế mới mẻ và khắc nghiệt này–các cơ sở công đoàn thiếu hiệu quả sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng và giá cao ngất ngưởng không ai muốn mua–sẽ có một nhu cầu cho người bạn cũ của chúng ta, nhà nước, sẽ được đưa lại vào phương trình để đảm bảo những sản phẩm công đoàn này được bán–bằng cách dùng súng. Những “người tự do” cánh tả này có thể gọi chính họ là “anarchists” để gây sốc xã hội tư bản và bố mẹ họ, nhưng tất cả chỉ là giả dối.

Chủ nghĩa Công Đoàn-Vô Chỉnh Phủ, như được thấy trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha, chỉ là một sự ảo tưởng utopia nguy hiểm khác của phe cánh tả. Ở đó, các syndicalists đã thử hủy bỏ tiền tệ, nhưng cuối cùng lại dùng “phiếu” (tiền) để thay thế. Họ đã hứa sẽ hủy bỏ chính phủ, nhưng đã tạo ra nhiều nhóm ủy bản tiểu quốc gia. Họ đã hứa rằng một sự tự do cá nhân mới sẽ nảy nở, nhưng đã bị thay thế bởi một ủy ban toàn trị về mọi mặt trong cuộc sống. Dựa theo những lời kể được báo cáo bởi Burnett Bolloten:

“Ủy ban là người tối cao. Nó sở hữu mọi thứ; nó chỉ đạo mọi thứ. Tất cả mọi việc đều phải xuất trình lên ủy bản để được suy xét; một mình nó có tiếng nói cuối cùng.”

“Nếu một ai đó có bạn gái ở ngoài làng, anh ta có thể kiếm tiền để thăm cô ta không? Những nông dân bảo đảm với tôi rằng anh ta có thể.”

“Tôi đã thử trong tuyệt vọng để mua một chai nước, cà phê hoặc rượu hoặc nước chanh. Nhưng quán nước trong làng đã bị đóng cửa vì bị coi là xấu xa.”

“Với sự hủy bỏ tiền tệ, tập hợp kia có lợi thế bởi vì bất cứ ai muốn đi đâu cũng phải lấy tiền ‘cộng hòa’ từ ủy ban.”

Bolotton đã ghi chú thêm rằng “Chủ nghĩa Thanh Giáo (puritanism) là một đặc tính của cuộc vận động chủ nghĩa tự do… uống bia rượu quá độ, hút thuốc và những sinh hoạt khác bị coi là những đặc tính của giới trung lưu luôn bị kiểm duyệt.” [trang 68-69]. Nói chung, một tù binh ở một nhà tù có an ninh tối đa ở Bang New York ngày hôm nay có nhiều tự do cá nhân hơn những ai đã sống trong thiên đường “chủ nghĩa tự do” của Chomsky.

Một trong những cuốn tạp chí yêu thích nhất của Chomsky thời con trẻ là cuốn Living Marxism (Lối Sống Marxism). Chủ nghĩa Marx đã chết nhưng Chomsky thì vẫn còn đang sống theo chủ nghĩa Marx. Noam đã từng nói, “Phải có những quy luật kinh tế. Nhưng tôi không hiểu chúng.” Thưa ông, ông đúng. Tôi có một lời đề nghị Noam không nên từ chối. Nếu ông tránh xa lý thuyết kinh tế học và chính trị học, tôi sẽ tránh xa ngôn ngữ học.

Tất cả những điều này không phải là để đánh giá thấp những đóng góp của Chomsky vào các chính sách ngoại giao. Chomsky đã đúng khi nhất quyết cho rằng Hoa Kỳ nên kiên quyết với tiêu chuẩn đạo đức trong casc chính sách ngoại giao, và không nên được cho phép xí xóa kiểu cách hai mặt.

Nhưng các chuẩn mực đạo đức không thể thay thế được logic kinh tế. Kinh tế học đòi hỏi sự nghiên cứu và suy luận có hệ thống về những ảnh hưởng của các hành động, lựa chọn, và sự sở hữu trong một thế giới của sự khan hiếm. Nó là một môn khoa học mô tả những giới hạn mà tâm trí con người có thể vươn tới khi tư duy về xã hội; nó có thể, và nên như thế nào. Đây là một lý do khiến nhiều trí thức, thậm chí những trí thức lớn, phải đau đớn né tránh nghiên cứu về kinh tế, thay vào đó họ níu bám vào những ảo tưởng như chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công đoàn.

Chomsky đã nói rằng khoa học xã hội có hai nhiệm vụ chính: “tưởng tượng ra một xã hội tương lai phù hợp với những nhu cầu cấp bách của bản chất loài người, theo cách tốt nhất chúng ta hiểu. Nhiệm vụ kia: phân tích bản chất của quyền lực và tình trạng áp bức trong những xã hội hiện tại của chúng ta.” Chúng ta có thể thêm vào một nhiệm vụ thứ ba: cởi mở với cái khả năng rằng những kết quả nghiên cứu của một người có thể mâu thuẫn sâu sắc với những thiên vị mang tính ý thức hệ của họ.

 

Tác giả: James Ostrowski
Dịch: THĐP’s Team Freenamese


 

1. Noam Chomsky, Language and Responsibility (New York: Pantheon Books, 1977), p. 74
2. Noam Chomsky, The Culture of Terrorism (Boston: South End Press, 1988), p. 26, 32.
3. Noam Chomsky, On Power and Ideology (Boston: South End Press, 1987), p. 123. See also, this interview.
4. Noam Chomsky, Radical Priorities (Montreal, Block Rose Books, 1981), p. 224.

Ngày cứu rỗi

Featured Image: Cvet04ek

 

Anh vớt mình bằng tiếng kinh cầu ê a trong nhà nguyện
Những chuỗi mân côi và những đôi tay rụng la liệt trong lễ đường
Vòng vọng tiếng chuông
Có những tiếng chuông trôi quanh anh
To nhỏ tròn méo sứt mẻ
Chúng động đậy hỗn loạn
Bằng bước đi của những bông huệ trắng và cúc xanh
Đôi nến vẫn cháy trên chiếc khăn trải bàn màu tím
Lặng lẽ
Rơi những giọt nước mắt
Đọng trên chân đèn

Từng dòng người trật tự xếp hàng
Ngay ngắn như những bức phù điêu trên tường

Ánh sáng từ lửa của những chiếc chuông vây quanh anh
Máu trào nhoi nhói
Những nỗi đau bất chợt bạc màu
Thập tự rũ mình mệt mỏi
Có câu kinh vừa rơi.

Anh vớt mình bằng giọt nước mắt em
Rơi lúc đêm khuya rất vội
Giấc mơ anh gột rửa bằng ánh sáng mùa cứu rỗi
Mọc lên từ bóng tối
Giấc mơ chợt hồi sinh.

 

Phương Uy

9 cách để thuyết phục người thân, bạn bè khi tham gia đấu tranh về các vấn đề xã hội

Featured Image: Ibai

 

Giới thiệu:

Bài viết này là một phần trong cuốn sách ‘Cẩm Nang Pháp Lý Dành Cho Bạn Trẻ Hoạt Động Xã Hội‘, do nhóm tác giả trẻ thực hiện. Các bạn có thể tải về ở đây.


Trong thời gian vừa qua, nhiều phong trào của các bạn trẻ quan tâm về các vấn đề xã hội đang diễn ra sôi nổi như phong trào Tôi Không Thích, DMCS, 6700 cây xanh…. Một số bạn trẻ thường nhắn tin tâm sự với mình rằng, các bạn ấy bị gia đình, bạn bè phản đối khi chia sẻ những suy nghĩ của mình trên facebook. Nhiều gia đình còn cấm đoán tư tưởng dẫn đến mâu thuẫn trong gia đình ngày càng nặng nề hơn.

Bài viết này của mình xin chia sẻ một số kinh nghiệm mà mình thu thập được trong quá trình thuyết phục được những người xung quanh đứng về phía mình. Cá nhân mình hiện nay vẫn chưa hoàn toàn có thể thuyết phục được ba mẹ, nhưng cơ bản mình đã có thể tự do làm được những gì mình thích khi áp dụng những phương pháp này.

Vấn đề lớn nhất mà tất cả các bạn trẻ luôn gặp phải khi công khai bày tỏ quan điểm đó chính là thuyết phục bạn bè, người thân xung quanh chấp nhận lý tưởng của bạn. Vậy phải làm gì để thuyết phục được họ? Có thể sẽ rất khó nhưng lại sẽ dễ dàng hơn nếu bạn biết khéo léo áp dụng những mẹo nhỏ sau đây.

1. Trấn an phụ huynh

Khi bị thông báo về gia đình, tất nhiên phụ huynh nào cũng hoang mang, lo lắng và giận dữ. Họ không biết con mình có làm gì nguy hiểm đến bản thân hay không, có vi phạm pháp luật hay không. Trong mắt phụ huynh, chúng ta vẫn luôn là đứa trẻ nhỏ cho dù bạn đã lớn, bạn nhận thức rõ ràng những việc bạn đang làm là hoàn toàn đúng đắn. Vì vậy hãy xoa dịu nỗi lo âu của phụ huynh bằng mọi cách, không nên cãi lại hoặc tạo thêm áp lực cho phụ huynh.

Phụ huynh nào cũng thương con cái, sự giận dữ, ngăn cấm của họ cũng bắt nguồn từ sự yêu thương. Nên xin lỗi phụ huynh vì đã làm phụ huynh lo, sau đó tìm cách giải thích cho họ biết rằng không có gì đáng lo lắng, bạn không làm gì sai và mọi thứ đang trong tầm kiểm soát.

2. Tâm sự, bày tỏ quan điểm bản thân

Sau bước đầu trấn an là bước chọn lựa thời gian phù hợp để nói chuyện với phụ huynh (lúc ba mẹ bạn đang vui chẳng hạn). Bạn nên ngồi tâm sự với phụ huynh nhiều hơn về quan điểm của mình. Hãy nêu lý do hợp lý vì sao bạn lại hành động và chọn lựa con đường này. Lý do càng hợp lý, phụ huynh càng bị thuyết phục.

Không nên tỏ vẻ đối đầu với quan điểm của phụ huynh, nên tâm sự nhẹ nhàng, tránh tạo áp lực căng thẳng. Người ta thường nói “mưa dầm thấm lâu”, thường xuyên tâm sự phụ huynh sẽ hiểu bạn hơn.

3. Thường xuyên chia sẻ, trao đổi thông tin về các vấn đề xã hội với phụ huynh

Nên trao đổi thông tin xã hội nhiều hơn với phụ huynh. Đa số người lớn tuổi không cập nhật thông tin nhạy bằng giới trẻ, vì vậy hãy chia sẻ cho phụ huynh những thông tin xã hội hữu ích mà bạn biết. Những vấn đề nhức nhối trong xã hội mà khiến ai xem cũng thấy bức xúc thì đưa cho phụ huynh đọc luôn. Đó là những chứng cứ vô cùng thuyết phục khiến phụ huynh đứng về phía bạn.

Giới thiệu những người bạn cùng tham gia các vấn đề xã hội với phụ huynh để họ yên tâm rằng, bạn không cô đơn, có nhiều bạn trẻ khác cũng cùng quan điểm đối với bạn. Nên chia sẻ thêm với phụ huynh kinh nghiệm làm việc với an ninh, công an khi họ tiếp cận gia đình để gây áp lực đối với bạn.

4. Trở thành con người gương mẫu, đứa con ngoan trong gia đình

Không cần biết trước đây bạn là người như thế nào, nhưng một khi bạn đã bắt đầu tham gia đấu tranh các vấn đề xã hội thì bạn phải bắt buộc trở thành con người gương mẫu.

Yêu thương, quan tâm nhà cửa và chăm sóc phụ huynh nhiều hơn cũng là những tuyệt chiêu thuyết phục phụ huynh hiệu quả nhất. Ba mẹ sẽ nhận thấy rằng khi bạn tham gia các hoạt động xã hội, bạn sẽ trở thành con người tốt hữu ích cho xã hội. Và tất nhiên, không ba mẹ nào lại nỡ la mắng đứa con của mình khi nó càng ngày càng ngoan ngoãn, giỏi giang và biết thương yêu ba mẹ nhiều hơn.

5. Tự lập, tự nuôi sống được bản thân

Đi làm thêm, tự cung tự cấp cũng là cách hiệu quả nhất cho phụ huynh thấy bạn có thể tự lo cho bản thân không cần phụ huynh lo lắng nữa. Chủ động được tiền bạc nghĩa là bạn có thể làm những gì bạn thích mà không bị kiểm soát nhiều từ ba mẹ. 😉

6. Hạn chế nói dối, hãy nói thật

Trong công việc hoạt động xã hội, đôi khi có những việc bạn không thể chia sẻ với phụ huynh vì sợ phụ huynh lo lắng hơn. Ngoài những tin quan trọng cần được bảo mật, những việc có thể chia sẻ được bạn nên thành thật chia sẻ cho phụ huynh biết và hiểu hơn những gì mà bạn đang làm.

7. Định hướng tương lai, chứng minh bạn đang đi đúng hướng

Con đường tương lai do chính bản thân chúng ta tự lựa chọn, Xác định mục tiêu, vạch ra kế hoạch tương lai là một trong những việc cần thiết để lấy uy tín từ phía phụ huynh. Nếu xác định bản thân sẽ đi theo hướng xã hội dân sự thì trau dồi các kiến thức, kỹ năng liên quan. Nếu xác định vừa tham gia các hoạt động xã hội vừa theo đuổi một công việc nào đó thì bạn nên cân bằng giữa cả hai.

8. Đừng bất cần bỏ mặc những người quan tâm bạn

Có đôi lúc, sau những cố gắng thuyết phục những người xung quanh (bạn bè, gia đình v.v.v…) nhưng không hiệu quả, bạn rất dễ bị áp lực, chán nản, tìm cách né tránh, cắt đứt liên lạc thậm chí bỏ nhà ra đi. Hãy bình tĩnh và suy nghĩ thấu đáo. Bởi vì không ai yêu thương chúng ta bằng chính người thân cả. Nếu bạn không hòa hợp được với những người thân yêu bên cạnh bạn thì bên ngoài chẳng còn ai có thể giúp đỡ được bạn. Chỉ có người thân, gia đình, mới có thể  yêu thương bạn nhất, sẵn sàng bảo vệ khi bạn gặp nạn.

9. Và cuối cùng… Bơ đi mà sống

Sau tất cả những cố gắng nhưng vẫn: bị họ hàng dèm pha, bị hàng xóm dòm ngó, bị mấy đứa bạn không hiểu chuyện cô lập, nói xấu v.v.v… Hãy mặc kệ họ. Bạn không thể làm vừa lòng tất cả mọi người, đừng buồn phiền vì những người dưng không hiểu bạn, nó không đáng.

Còn về phần phụ huynh, Đừng quá thất vọng khi đã cố gắng giãi bày, tâm sự làm tất cả mọi thứ mà phụ huynh vẫn chưa hiểu bạn. Hãy kiên trì nhẫn nại, bởi vì đây là một quá trình cần phải có thời gian. Biết đâu đấy sau những nỗ lực hoàn thiện bản thân của bạn, phụ huynh ngoài mặt tỏ vẻ không ủng hộ nhưng trong lòng lại tấm tắc khen con mình làm đúng đấy ^^.

Xin hãy nhớ rằng, tất cả cha mẹ trên đời này mong muốn lớn nhất là nuôi con lớn lên sẽ trở thành người tốt chứ không phải trở thành con người thành đạt hay làm được nhiều tiền. Vì vậy hãy thể hiện rằng bạn đang trở thành con người có ích cho xã hội. Trong một xã hội mà con người ngày càng yêu thương nhau, không vô cảm, biết quan tâm đến những vấn đề nhức nhối trong xã hội thì đó mới là một xã hội đáng sống, đúng không?


Bài viết trên đây là những kinh nghiệm mà tác giả đúc kết được trong quá trình tham gia các vấn đề xã hội cộng thêm những lời khuyên chân thành từ các anh chị đi trước. Tất nhiên hoàn cảnh cuộc sống của mỗi người hoàn toàn khác nhau, không ai giống ai, không gia đình nào giống gia đình nào. Nhưng những điều trên đây có thể được xem là những chìa khóa quan trọng để thay đổi thành kiến của những người thân xung quanh bạn.

Mọi thắc mắc trong các vấn đề liên quan đến kinh nghiệm bị cô lập, bị áp lực gia đình, bị sách nhiễu, ngăn cản xin hãy inbox facebook cho mình. Mình sẽ chia sẻ những kinh nghiệm mình có được cùng bạn và cùng nhau tìm cách giải quyết. Chúc các bạn thành công và vững bước trên con đường đã chọn.

Nguyễn Nữ Phương Dung