20.4 C
Da Lat
Thứ Ba, 19 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 145

Câu hỏi gây khó chịu nhất lịch sử nhân loại

Trong chuyến hành trình tìm kiếm cuộc sống mơ ước, bạn có thể phải trải qua rất nhiều công việc khác nhau. Điều này hoàn toàn bình thường. Trước khi tìm được vị hoàng tử của mình, bạn sẽ phải hôn nhiều con ếch khác nhau (thậm chí là rất nhiều).

Công việc cũng không phải là một ngoại lệ

Để vượt qua quá trình này, một trong những thử thách lớn nhất bạn phải đối mặt chính là hoàn thành Bản sơ yếu lý lịch (CV).

Nếu như bạn chưa có CV, hãy bắt đầu nghĩ đến điều đó. Ngay bây giờ.

Nếu như đã từng một lần viết CV? Bạn sẽ nhận thấy rằng việc sử dụng CV cũ để ứng tuyển công việc mới chưa bao giờ là lựa chọn sáng suốt. Tại sao? Ngoài những phần cơ bản như thông tin cá nhân, trình độ học vấn, kỹ năng nghệ nghiệp hầu như không có nhiều sự thay đổi, một CV hoàn thiện đòi hỏi một phần cực kỳ quan trọng khác.

Nó là một phần bắt buộc nếu như bạn ứng tuyển qua các trang mạng nghề nghiệp như Vietnamwork hay LinkedIn. Nó càng đặc biệt có ý nghĩa hơn nếu như bạn đang có ý định chuyển sang làm việc tại một ngành nghề khác.

Bạn đã đoán ra đó là phần nào rồi chứ?

Nếu chưa, hãy tham khảo những câu hỏi sau đây. Chúng sẽ giúp bạn.

  • “Bạn muốn trở thành ai trong cuộc sống này?”
  • “Mục tiêu trong năm năm tới của bạn là gì?”
  • “Bạn sẽ là ai sau mười năm nữa?”

Đây là những câu hỏi mà bạn phải trả lời để hoàn thành phần “mục tiêu nghề nghiệp”, phần mà nhà tuyển dụng sẽ dùng để đánh giá mức độ phù hợp của bạn cho vị trí ứng tuyển. Bạn đã từng gặp khó khăn khi viết phần này?

Và nếu như vượt qua được thử thách này, câu chuyện vẫn chưa dừng tại đó. Bạn sẽ tiếp tục phải đối mặt với những câu hỏi tương tự, ít nhất một lần nữa, trong các vòng phỏng vấn trực tiếp sau đó. Điều này minh chứng cho mức độ quan trọng của mục tiêu trong bất kỳ lựa chọn nào. Không chỉ có công việc.

Nếu như đã từng đọc một cuốn sách về lĩnh vực phát triển bản thân, hẳn bạn cũng nhận thấy rằng những câu hỏi này không quá xa lạ. Hoặc nếu như bạn đã từng tham dự bất kỳ một khóa học về kỹ năng nào trước đây, xác định mục tiêu luôn là một trong những đề tài đầu tiên được nhắc đến.

Vì phải trả lời những câu hỏi về xác định mục tiêu rất nhiều lần trong rất nhiều trường hợp khác nhau, tôi đã dần hình thành nên suy nghĩ:

“Xác định mục tiêu hẳn phải là điều kiện tối quan trọng để hoàn thành bất kỳ điều gì. Kể cả cuộc sống mơ ước.” – Khuyết danh

Tôi hân hoan trước những gì vừa phát hiện. Càng xuy xét, tôi càng thấy điều này có lý. Gật gù trước nguyên tắc sống mới, tôi xem đây như kim chỉ nam cho tất cả mọi hành động, công việc của mình. Không những thế, trong tâm trạng háo hức, tôi còn mong muốn được chia sẻ thông điệp này đến với nhiều người hơn nữa.

“Mục tiêu của bạn là gì? Phải luôn có mục tiêu trước khi bắt đầu bất kỳ một công việc nào.”

Tuy nhiên, tôi đã lầm.

Đây không phải là những câu hỏi kì diệu như tôi đã nghĩ. Thực chất, tôi đã phát hiện ra một bí mật kinh hoàng ẩn chứa bấy lâu nay:

“Đây là những câu hỏi gây khó chịu nhất trong lịch sử nhân loại!”

Tôi ước gì bạn có thể ngồi cạnh tôi trên những chiếc ghế sofa mang phong cách Retro của quán cafe Coffee House vào một đêm giữa tháng 04/2013 để chứng kiến mội buổi sinh hoạt đáng nhớ của Câu Lạc Bộ Diễn Thuyết Sài Gòn. Như bao buổi sinh hoạt khác, mỗi thành viên sẽ có thời gian bảy phút để trình bày suy nghĩ của mình về một chủ đề đã được lựa chọn trước đó.

Đêm hôm ấy là một đêm đặc biệt với rất nhiều cảm xúc. Một chia sẻ của Tuấn, một sinh viên năm tư điển trai với cặp kiếng cận, về những trăn trở của tuổi trẻ, đã để lại trong lòng tất cả các thành viên một bài học sâu sắc về mục tiêu cuộc sống.

Một bài học khiến cả căn phòng chìm đắm trong thinh lặng.

Đây là giai đoạn khó khăn nhất của em từ trước đến nay. Hiện tại em thật sự không biết mình muốn gì. Em đang học năm tư đại học FPT chuyên ngành lập trình code. Mãi đến gần đây, em mới phát hiện ra mình không hề hứng thú với ngành đã lựa chọn.

Em không thể chịu đựng được việc phải ngồi yên một chỗ bên máy tính từ tám giờ sáng đến sáu giờ chiều. Em thấy mệt mỏi khi công việc thường xuyên đòi hỏi nhân viên làm tăng ca đến tận khuya. Vậy mà chỉ sau đó một vài năm, em có thể dễ dàng mất việc vì công ty có thể thuê những bạn sinh viên mới ra trường với chi phí rẻ hơn rất nhiều…”

“Bây giờ, em phải làm sao?”

Quá tâm đắc với những giá trị vừa tìm được trong việc xác định mục tiêu, bằng một giọng hờ hững, tôi phản ứng ngay với câu hỏi của em mà chưa kịp suy nghĩ một cách thấu đáo:

– “Vậy em muốn sau năm năm nữa, mình sẽ trở thành người như thế nào? Mục tiêu mười năm kế tiếp của em là gì?”

Giá như tôi có thể rút lại những lời vừa nói.

Chỉ hai giây tiếp theo, khuôn mặt của Tuấn biến sắc từ hồng nhạt sang đỏ thẫm. Đôi môi em mím chặt trong khi mắt long lên vì giận dữ. Tuấn đứng lặng một mình giữa sân khấu. Dường như phải rất rất kìm nén, em mới có thể ngăn mình khỏi việc nhảy chồm lên người vừa đưa ra những câu hỏi thiếu tế nhị ấy.

Tuy vậy, đó không phải là những gì khiến sự kiện tối hôm ấy trở nên đặc biệt đáng nhớ.

Tuấn vẫn kiểm soát được bản thân. Trong khi đó, tôi bắt đầu thủ thế và cố gắng dịch ghế ngồi ra xa hơn để đề phòng trường hợp xấu nhất. Tuấn bình tĩnh đáp lại câu hỏi của tôi với đôi tay nắm chặt. Có lẽ, đây cũng không phải là lần đầu tiên bạn trải qua tình huống tượng tự.

– “Đây là lời khuyên mà em đã được nghe rất nhiều lần trước đây. Câu hỏi này rất hay với những ai đã có mục tiêu và mong muốn thành công trong cuộc sống.” – Tuấn ngừng lại, đôi mắt đằng sau cặp kính bỗng đượm buồn. – “Tuy nhiên, vấn đề của em bây giờ là em còn không biết mình muốn gì nữa… Và câu hỏi này thật sự làm em cảm thấy rất khó chịu….”

Câu nói của bạn mất hút trong thinh lặng.

Đã bao giờ bạn là nạn nhân của những lời khuyên tương tự?

Hay, đã bao giờ chính bạn là người đưa ra những lời khuyên như thế?

Xác định chính xác mục tiêu trong cuộc sống chưa bao giờ là một nhiệm vụ dễ dàng đối với hầu hết mọi người. Bạn có thể nhận thấy rằng có rất nhiều người, dù đã dành cả đời tìm kiếm, nhưng cũng không thể biết chính xác mình muốn gì. Hoặc, có những người chỉ phát hiện ra điều đó vào những khoảnh khắc cuối cùng, khi đối diện với cái chết, khi mọi thứ dường như quá muộn…

Vì vậy, thay vì mang ý nghĩa định hướng hiệu quả, trong rất nhiều trường hợp, những câu hỏi như: “Bạn muốn trở thành ai trong mười năm nữa?” Tạo cho người nhận một tâm lý cực kỳ căng thẳng.

Xác định mục tiêu không phải là điều kiện tiên quyết như tôi đã lầm tưởng. Nó càng không phải là câu hỏi đầu tiên cần được đặt ra khi xác định cuộc sống mơ ước.

Câu hỏi cần đặt ra hoàn toàn khác.

Không khí im lặng đến mức đáng sợ.

Tiếng kêu rè rè của máy điều hòa lúc này cũng trở nên quá ồn ào. Hầu hết các thành viên đều cúi đầu xuống và tránh nhìn vào ánh mắt nhau. Căn phòng chìm trong căng thẳng. Không ai nói với ai thêm một lời nào.

Tuấn vẫn đứng lặng lẽ một mình trên sân khấu. Buổi sinh hoạt có lẽ đã trở thành một thảm họa nếu như tôi không nhớ đến một sự kiện xảy ra trước đó, một cuộc trò chuyện đã giúp tôi biết mình nên làm gì để giúp đỡ Tuấn.

Buổi sinh hoạt đêm hôm ấy diễn ra tại một quán café nằm trên con đường nhỏ Nguyễn Thị Huỳnh, thuộc quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Tôi chưa từng đến địa điểm này trước đây và chỉ biết đến thông qua sự giới thiệu của người bạn gái. Vì vậy, trước khi xuất phát, tôi phải tra cứu Google Map để có thể biết được đường đi chính xác.

Tuy nhiên, sự cẩn thận ấy cũng không giúp ích được nhiều. Khu vực này rất phức tạp với những con hẻm chằng chịt đan xen nhau. Loay hoay hơn ba mươi phút, tôi hoàn toàn mất phương hướng. Cuối cùng, vì đã trễ giờ hẹn, tôi quyết định từ bỏ niềm kiêu hãnh vào khả năng tìm đường để lấy điện thoại gọi ngay cho người bạn gái:

– “Quán cafe đó nằm ở đâu vậy? Anh đã tìm này giờ rồi mà vẫn không thấy?”

– “Khoan đã, anh đang ở đâu vậy?”

– “…thì anh đang đứng ngay trước sân khấu kịch Phú Nhuận…”

– “Anh chỉ cần chạy lên khoảng 20m, nhìn bên tay phải là sẽ thấy một con đường nhỏ, quẹo vào đó là anh sẽ đến quán café.”

Cứ ngỡ rằng sau một thời gian dài lạc lối, hẳn tôi đã phải đứng ở một nơi nào đó cách rất xa đích đến. Thế mà, tôi chỉ cách quán café đó chưa đầy ba phút chạy xe. Song, điều làm tôi ngạc nhiên hơn chính là sự hướng dẫn hết sức đơn giản và hiệu quả của người bạn gái. Trong khi tôi chỉ chăm chăm tập trung vào một thông tin duy nhất: vị trí quán café cần đến, thì người bạn gái của tôi, ngay trong câu hỏi đầu tiên, đã giải quyết được toàn bộ vấn đề:

“Anh đang ở đâu vậy?”

Thông thường, trên mỗi chuyến hành trình, hầu hết mọi người đều dành sự quan tâm để biết được vị trí chính xác nơi mình muốn đến. Vì lý do đó, mà cũng không ít người đã phải lạc lối trong những mê cung kéo dài dường như bất tận.

Để đến được nơi mình muốn, điều quan trọng nhất không phải là: “Bạn muốn đi đâu?” Điều quan trọng nhất bạn cần biết chính là: “Bạn đang ở đâu?”

Chỉ khi nào xác định rõ điều này, bạn mới có thể định hướng được vị trí và lựa chọn con đường phù hợp. Hơn thế nữa, biết được chính xác nơi mình đang đứng cũng là điều vô cùng hữu ích nếu như bạn rơi vào tình huống khủng hoảng và cần sự hỗ trợ từ người khác. (Bạn sẽ đồng cảm điều này nếu như đã từng đi lạc).

Tương tự như vậy, trước khi trả lời câu hỏi “Tôi muốn trở thành ai?” Câu hỏi bạn cần đặt ra chính là “Tôi là ai?” Nếu như không biết mình là ai, bạn không có cách nào có thể trở thành một người khác.

Sự hướng dẫn đơn giản, hiệu quả của người bạn gái cùng bài chia sẻ đầy cảm xúc của Tuấn luôn là bài học mà tôi nhớ mãi trong suốt chuyến hành trình. Hiểu rõ được bản thân, hiểu rõ được vị trí mình đang đứng sẽ giúp bạn tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức trong việc xác định chính xác ước mơ tương lai.

Không trả lời được câu hỏi mình là ai là một trong những nguyên nhân chính tạo nên rất nhiều bất hạnh trong quá trình tìm kiếm ước mơ. Đây cũng là nguyên nhân khiến rất nhiều bạn trẻ hiện nay phải mò mẫm các mục tiêu sống bằng phương pháp thử sai đầy may rủi.

Mặc dù có thể gia tăng sự trải nghiệm, nhưng cách thức này lại tiêu tốn rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc. Tuy vậy, nó vẫn không đảm bảo bạn sẽ tìm được câu trả lời mong muốn. Nguy hiểm hơn, trên chặng đường thử sai ấy, việc gục ngã quá nhiều lần có thể khiến bạn trở nên tuyệt vọng và vơ vội bất kỳ một lựa chọn nào làm mục tiêu cuộc đời. Kết quả khi ấy chắc chắn không hề tốt đẹp.

Vì vậy, trước khi hướng đến mục tiêu cuối cùng, hãy bắt đầu bằng việc xác định vị trí nơi bạn đang đứng, nơi mà những giá trị, tính cách mà bạn đã được hình thành dựa trên tất cả những trải nghiệm trong quá khứ. Nếu như đang trong giai đoạn hoang mang, lạc lối không biết mục tiêu cuộc sống là gì, đây chính là thời điểm để bạn dừng lại và đặt câu hỏi: “Mình là ai?”

Nếu như một quyển sách có thể chứa đựng hàng nghìn thông điệp giá trị, một bộ phim hay cũng có khả năng tương tự như thế. Cộng thêm rất nhiều yếu tố giải trí hấp dẫn.

Trong những bước đầu tiên của hành trình, sự động viên, đồng cảm sẽ là liều thuốc cần thiết để bạn luôn duy trì những cảm xúc tích cực. Thử thách đầu tiên dành cho bạn chính là trong tuần này, hãy dành ra ba giờ đồng hồ để theo dõi bộ phim nổi tiếng của Ấn Độ về chủ đề theo đuổi ước mơ với tựa đề “Ba chàng ngốc” (Three Idiots).

Nếu như bạn đã từng xem qua bộ phim, tôi vẫn tin rằng những giá trị sâu sắc chứa đựng trong tác phẩm vẫn xứng đáng để bạn dành thời gian xem thêm một lần nữa. Bộ phim này sẽ làm thay đổi cuộc sống bạn.

Tôi biết điều này.

Vì nó đã hoàn toàn thay đổi cuộc sống của tôi.

Nếu như trong tuần này, bạn vẫn không thể nào sắp xếp được ba giờ đồng hồ để tìm kiếm câu trả lời về ý nghĩa cuộc sống ước mơ trong bộ phim trên, rất có khả năng, bạn sẽ phải tiếp tục đối mặt với việc lạc lối trong những con hẻm chằng chịt của mục tiêu trong suốt quãng đời còn lại.

Bạn có thể dễ dàng tìm thấy bộ phim này trên trang web Youtube với phụ đề tiếng Việt. Hãy xem và cảm nhận. Bắt đầu từ hôm nay, bạn đặt bước chân đầu tiên trong hành trình hiểu về chính mình.

Điều quan trọng nhất không phải bạn muốn đi đâu.

Điều quan trọng nhất là hãy biết bạn đang ở đâu.

 

 

Đặng Quốc Bảo

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 2)

 

 

Chương 1 – Nền tảng của chính sách tự do

1. Sở hữu

Xã hội loài người là hợp quần của những cá nhân để phối hợp hành động. Khác với hành động riêng lẻ của các cá nhân, hành động phối hợp dựa trên nguyên tắc phân công lao động có ưu điểm là năng suất lao động cao hơn rất nhiều. Nếu một số người cùng làm việc và hợp tác, dựa trên nguyên tắc phân công lao động (những điều kiện khác vẫn giữ nguyên) thì họ sẽ sản xuất không chỉ được số lượng vật phẩm bằng với số lượng khi từng người làm việc riêng lẻ, mà cao hơn rất nhiều.

Đấy là cơ sở của toàn bộ nền văn minh nhân loại. Phân công lao động làm cho con người khác với loài vật. Phân công lao động làm cho những con người yếu đuối, yếu hơn nhiều loài vật về mặt thể chất, trở thành chủ nhân ông của trái đất và là người sáng tạo những kỳ tích của công nghệ. Nếu không có phân công lao động thì chúng ta cũng chẳng khác gì tổ tiên sống cách đây một ngàn, thậm chí cả chục ngàn năm trước.

Tự bản thân lao động không làm cho chúng ta giàu có lên được. Phải làm việc với những vật tư và nguồn lực của trái đất mà Tự Nhiên đã giao vào tay chúng ta thì sức lao động của con người mới tạo được thành quả. Đất đai với tất cả mọi nguồn tài nguyên và sức mạnh chứa trong nó và sức lao động của con người là hai nhân tố của quá trình sản xuất, sự kết hợp có chủ đích của hai nhân tố này tạo ra tất cả những sản phẩm hàng hoá có thể đáp ứng những nhu cầu vật chất ngoại tại của chúng ta.

Muốn sản xuất, con người cần có cả sức lao động lẫn điều kiện vật chất, bao gồm không chỉ các nguyên vật liệu và nguồn lực của Tự Nhiên – đa số có thể tìm thấy trên bề mặt hay trong lòng đất – mà còn phải sử dụng các sản phẩm trung gian, đã được chế biến bằng sức lao động trong quá khứ và từ những nguyên vật liệu ban đầu nói trên.

Trong kinh tế học người ta chia ra thành ba tác nhân tương ứng là: lao động, đất đai và tư bản. Đất đai được hiểu là tất cả những gì Tự Nhiên để cho chúng ta toàn quyền sử dụng dưới dạng vật chất và nguồn sức mạnh ở ngay bề mặt, bên dưới và bên trên bề mặt trái đất, trong nước, cũng như trong không khí; hàng hoá tư bản được hiểu là tất cả những hàng hoá trung gian được bàn tay con người làm ra từ đất để phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo, như máy móc, thiết bị, bán thành phẩm đủ mọi loại ..v.v..

Bây giờ chúng ta muốn xem xét hai hệ thống hợp tác khi có sự phân công lao động: một đằng dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và một đằng dựa trên sở hữu công cộng tư liệu sản xuất. Hệ thống dựa trên sở hữu công cộng tư liệu sản xuất được gọi là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản, còn hệ thống kia được gọi là chủ nghĩa tự do hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản (từ khi nó tạo ra trong thế kỷ XIX sự phân công lao động bao trùm khắp hoàn cầu).

Những người theo trường phái tự do khẳng định rằng trong xã hội dựa trên sự phân công lao động thì sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất là hệ thống hợp tác giữa người với người hiệu quả nhất. Họ cho rằng chủ nghĩa xã hội, tức là hệ thống thu gom vào trong lòng nó toàn bộ các tư liệu sản xuất, là hệ thống không hiệu quả và việc áp dụng nguyên lý xã hội chủ nghĩa lên các phượng tiện sản xuất, mặc dù không phải là việc bất khả thi, sẽ dẫn tới suy giảm năng suất lao động, cho nên không những không thể làm ra nhiều của cải hơn mà ngược lại, chắc chắn sẽ làm cho của cải ít đi.

Vì vậy mà cương lĩnh của chủ nghĩa tự do, nếu thu gọn bằng một từ, sẽ là: sở hữu, nghĩa là sở hữu tư nhân các tư liệu sản xuất [đối các hàng hoá tiêu dùng, thì sở hữu tư nhân là điều đương nhiên, ngay cả những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa cũng không tranh cãi về vấn đề này]. Tất cả những đòi hỏi khác của chủ nghĩa tự do đều có xuất xứ từ đòi hỏi căn bản này.

Người ta có thể đặt bên cạnh từ “sở hữu” trong cương lĩnh của chủ nghĩa tự do hai từ “tự do” và “hoà bình”. Đấy không phải là vì cương lĩnh cũ của chủ nghĩa tự do vẫn đặt nó ở vị trí đó. Chúng tôi đã nói rằng cương lĩnh hiện nay của chủ nghĩa tự do đã vươn cao hơn chủ nghĩa tự do cũ, nó được soạn thảo trên những nhận thức thấu đáo hơn và sâu sắc hơn những mối quan hệ qua lại và thành quả của khoa học trong hàng chục năm qua.

Tự do và hoà bình được đưa lên mặt tiền của cương lĩnh của chủ nghĩa tự do không phải vì nhiều người theo phái tự do “cũ” coi nó là tương đương với chính nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa tự do chứ không phải là hậu quả tất yếu của nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa tự do – tức là nguyên tắc sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất; mà chỉ vì tự do và hoà bình đã bị những đối thủ của chủ nghĩa tự do tấn công một cách quyết liệt nhất và những người theo phái tự do không muốn từ bỏ những nguyên tắc này để chứng tỏ rằng họ không công nhận những lời cáo buộc của đối thủ.

2. Tự do

Ý tưởng tự do đã ăn sâu bén rễ trong tất cả chúng ta đến nỗi suốt một thời gian dài không ai dám nghi ngờ. Người ta đã quen nói tới tự do với lòng sùng kính vô bờ bến, chỉ có Lenin mới dám gọi đó là “thành kiến tư sản” mà thôi. Đấy chính là thành quả của chủ nghĩa tự do, mặc dù sự kiện này hiện đã bị nhiều người quên. Chính từ chủ nghĩa tự do cũng có xuất xứ từ từ tự do, còn khởi kỳ thuỷ đảng chống lại những người tự do [cả hai tên gọi đều xuất hiện trong cuộc đấu tranh lập hiến trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIX ở Tây Ban Nha ] lại được gọi là nô lệ (“servile”).

Trước khi chủ nghĩa tự do xuất hiện, ngay cả những nhà triết học sáng láng nhất; những ông tổ của các tôn giáo và giới tăng lữ, những người mang trong tâm tưởng những ý định tốt đẹp nhất, và các chính khách thực sự yêu thương người dân nước mình, đều coi tình cảnh nô lệ của một phần nhân loại là chính đáng, hữu ích và rất có lợi.

Người ta cho rằng một số người và một số dân tộc được phú cho quyền tự do, còn những người khác thì phải chịu cảnh nô lệ. Không chỉ các ông chủ nghĩ như thế mà phần lớn nô lệ cũng nghĩ như thế. Họ chấp nhận địa vị nô lệ không chỉ vì họ buộc phải khuất phục sức mạnh vượt trội của các ông chủ mà họ còn cho rằng thế là tốt: nô lệ không phải lo miếng ăn hàng ngày vì chủ có trách nhiệm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất của anh ta.

Khi chủ nghĩa tự do xuất hiện, trong thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, với mục đích loại bỏ chế độ nô lệ và tình cảnh lệ thuộc của người nông dân châu Âu cũng như tình cảnh nô lệ của người da đen trong các nước thuộc địa ở hải ngoại, thì nhiều người theo chủ nghĩa nhân đạo chính hiệu đã đứng lên chống lại nó.

Những người lao động nô lệ đã quen với sự phụ thuộc và không cảm thấy đấy là xấu xa. Họ không sẵn sàng đón nhận tự do và chẳng biết làm gì với nó. Sẽ là tai hoạ đối với họ nếu chủ không còn quan tâm đến họ nữa. Họ sẽ không thể quản lý được công việc của mình sao cho lúc nào cũng kiếm được nhiều hơn nhu cầu tối thiểu và chẳng bao lâu sau họ sẽ rơi vào cảnh nghèo túng, bần hàn. Giải phóng sẽ chẳng mang lại cho họ lợi lộc gì mà chỉ làm cho hoàn cảnh kinh tế của họ xấu đi mà thôi.

Thật đáng ngạc nhiên khi nghe thấy nhiều người nô lệ được hỏi nói như thế. Nhằm chống lại những quan điểm như thế, nhiều người theo trường phái tự do tin rằng cần phải trình bày những vụ hành hạ nô lệ, thậm chí nhiều khi phải nói quá lên, như là những việc thường ngày. Nhưng những vụ quá lạm như thế hoàn toàn không phải là quy luật. Dĩ nhiên là có những vụ lạm dụng riêng lẻ, và những vụ như thế được coi là một lý do nữa cho việc bãi bỏ hệ thống này. Nhưng nói chung, nô lệ thường được chủ đối xử một cách nhân đạo và ôn hoà.

Khi người ta bảo những người đề nghị bãi bỏ tình cảnh nô lệ trên cơ sở những quan điểm về lòng nhân đạo nói chung rằng giữ hệ thống này là nhằm bảo đảm lợi ích cho cả những người nô lệ và nông nô nữa thì họ không biết phải trả lời thế nào. Vì để chống lại những người ủng hộ chế độ nô lệ thì chỉ có một lý lẽ đủ sức bác bỏ và trên thực tế đã bác bỏ tất cả những lý lẽ khác: lao động tự do có năng suất cao hơn hẳn lao động nô lệ.

Người nô lệ không cần cố gắng hết sức. Anh ta chỉ cần làm và hăng hái vừa đủ để không bị trừng phạt vì không hoàn thành nhiệm vụ tổi thiểu được giao mà thôi. Còn người lao động tự do thì biết rằng càng làm nhiều anh ta càng được trả nhiều. Anh ta sẽ làm hết sức mình để có được nhiều thu nhập hơn.

Chỉ cần so sánh những yêu cầu được đề ra với người công nhân lái máy cày hiện nay với những đòi hỏi tương đối thấp cả về trí tuệ, sức lực và sự cố gắng mà trước đây chỉ hai thế hệ người ta cho là đã đủ đối với một người nông nô ở nước Nga thì sẽ thấy. Chỉ có lao động tự do mới có thể thực hiện được những đòi hỏi đặt ra với người công nhân công nghiệp hiện đại.

Chỉ có những tên ba hoa chích choè vô công rồi nghề mới có thể cãi nhau suốt ngày về việc liệu có phải tất cả mọi người đều có quyền tự do và đã sẵn sàng nhận nó hay không mà thôi. Họ có thể tiếp tục nói rằng Tự Nhiên đã buộc một số sắc tộc và dân tộc phải sống cuộc đời nô lệ và một số sắc tộc thượng đẳng có trách nhiệm giữ phần còn lại của nhân loại trong cảnh nô lệ. Người theo phái tự do không bao giờ tranh luận với những người như thế vì họ đòi tự do cho tất cả mọi người, không có bất kỳ phân biệt nào, luận cứ của họ khác hẳn với những người kia.

Chúng tôi, những người theo phái tự do, không khẳng định rằng Chúa Trời hay Tự Nhiên có ý bảo mọi người đều được tự do vì chúng tôi không được biết ý Chúa hay ý của Tự Nhiên, và về nguyên tắc chúng tôi tránh, không lôi kéo Chúa và Tự Nhiên vào những cuộc tranh luận về những vấn đề trần thế.

Chúng tôi chỉ khẳng định rằng hệ thống đặt căn bản trên quyền tự do cho tất cả mọi người lao động là hệ thống có năng suất lao động cao nhất và vì vậy mà đáp ứng được quyền lợi của tất cả mọi người. Chúng tôi tấn công vào chế độ nô lệ không phải vì rằng nó chỉ có lợi cho các “ông chủ” mà vì chúng tôi tin rằng nói cho cùng nó có ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của tất cả mọi người, trong đó có các “ông chủ”.

Nếu loài người cứ bám mãi vào thói quen là giữ toàn bộ hay chỉ một phần sức lao động trong tình cảnh nô lệ thì sự phát triển vượt bậc về kinh tế trong một trăm năm mươi năm qua đã không thể nào xảy ra được. Nếu cứ giữ như thế, chúng ta sẽ không có đường sắt, không có ô tô, không có máy bay, không có tầu thuỷ, không có đèn điện và máy điện, không có ngành công nghiệp hoá chất, chúng ta sẽ vẫn cứ sống như người Hi-Lạp hay La-Mã cổ đại, với tất cả tài năng của họ, nhưng không có các thứ vừa kể.

Chỉ cần nhắc đến chuyện đó là mọi người, cả các ông chủ nô cũ lẫn người nông nô, đều có thể hài lòng với sự phát triển của xã hội sau ngày bãi bỏ chế độ nô lệ rồi. Người công nhân châu Âu hiện nay còn sống trong những điều kiện thuận lợi và dễ chịu hơn là các ông vua Ai-Cập cho dù những ông vua này nắm trong tay hàng ngàn nô lệ, trong khi đó người công nhân chỉ dựa vào sức khoẻ và tài khéo của hai bàn tay lao động của mình. Nếu một viên quan thái thú thời xa xưa được thấy hoàn cảnh của một người thường dân hiện nay thì chắc chắn ông ta sẽ tuyên bố rằng so với một người trung bình hiện nay thì ông ta chỉ là một kẻ ăn mày.

Đấy chính là thành quả của lao động tự do. Lao động tự do có thể làm ra nhiều của cải cho tất cả mọi người, nhiều hơn là lao động nô lệ đã từng tạo ra cho các ông chủ.

3. Hoà bình

Có những con người cao thượng, họ căm thù chiến tranh vì nó mang đến chết chóc và đau khổ. Nhưng dù có hâm mộ chủ nghĩa nhân đạo của họ đến mức nào, phải công nhận rằng tất cả luận cứ phản chiến của họ đều dựa trên cơ sở của lòng bác ái, những luận cứ như thế có thể sẽ mất rất nhiều, thậm chí toàn bộ sức mạnh khi chúng ta xem xét những lời tuyên bố của những kẻ ủng hộ chiến tranh.

Những kẻ như thế không phủ nhận chiến tranh sẽ mang đến đau khổ. Nhưng họ tin rằng chiến tranh và chỉ có chiến tranh mới giúp nhân loại đạt được tiến bộ. Chiến tranh là cha đẻ của mọi thứ trên đời, một nhà triết học Hi Lạp đã nói như thế, và hàng ngàn người đã nhắc lại câu nói đó của ông ta. Trong thời bình con người sẽ bị thoái hoá. Chỉ có chiến tranh mới đánh thức được tài năng và sức mạnh đang ngủ yên trong mỗi con người và gieo vào lòng họ những ý tưởng vĩ đại. Không có chiến tranh, nhân loại sẽ rơi vào tình trạng lười nhác và đình trệ.

Thật khó, thậm chí không thể bác bỏ được cách lập luận như thế của những người ủng hộ chiến tranh nếu chỉ nói rằng chiến tranh đòi hỏi phải hy sinh. Vì những người ủng hộ chiến tranh nghĩ rằng hi sinh không phải là vô ích và đấy là cái giá phải trả. Nếu chiến tranh đúng là cha đẻ của mọi thứ trên đời thì những hi sinh mà nó đòi hỏi lại là đòi hỏi tất yếu, nó thúc đẩy sự thịnh vượng của mọi người và sự tiến bộ của nhân loại. Người ta có thể xót thương những nạn nhân, thậm chí có thể tìm mọi cách làm giảm nhẹ số người bị thiệt hại, nhưng ước muốn trừ bỏ chiến tranh và nền hoà bình vĩnh viễn thì không thể nào biện hộ được.

Lập luận của những người theo trường phái tự do nhằm chống lại những luận cứ ủng hộ chiến tranh khác hẳn với lập luận của những người theo chủ nghĩa nhân đạo. Nó xuất phát từ giả thuyết cho rằng không phải chiến tranh mà hoà bình mới là cha đẻ của mọi thứ trên đời. Điều duy nhất giúp cho nhân loại tiến bộ và làm cho con người khác với con vật là sự hợp tác mang tính xã hội. Chỉ có lao động mới tạo ra của cải: nó tạo ra của cải và bằng cách đó, tạo ra cơ sở vật chất cho sự đơm hoa kết trái trong tâm hồn con người.

Chiến tranh chỉ gây ra tàn phá, chiến tranh không thể tạo dựng được bất cứ thứ gì. Trong tâm tưởng của chúng ta, chiến tranh, giết chóc, huỷ diệt và tàn phá cũng giống như loài quỷ sứ trong rừng hoang, còn sức lao động sáng tạo là bản chất mà chỉ con người mới có. Khác với những người theo trường phái nhân đạo chủ nghĩa, đấy là những người căm thù chiến tranh dù mặc dù họ nghĩ rằng nó cũng có ích; người theo trường phái tự do căm thù chiến tranh là vì nó chỉ gây ra những hậu quả có hại.

Người yêu hoà bình theo trường phái nhân đạo chủ nghĩa cầu xin đức vua toàn trí toàn năng: “Xin đừng gây chiến, ngay cả khi ngài nghĩ rằng chiến thắng sẽ làm cho ngài thịnh vượng thêm. Xin hãy tỏ ra cao thượng và hào hiệp và hãy từ bỏ sức cám dỗ của niềm vinh quang chiến thắng ngay cả nếu ngài có phải chịu thiệt thòi và mất mát.”

Người theo trường phái tự do có suy nghĩ khác. Người theo trường phái tự do tin rằng dù có chiến thắng thì chiến tranh vẫn là xấu xa ngay cả đối với người chiến thắng, hoà bình bao giờ cũng hơn chiến tranh. Người theo trường phái tự do không yêu cầu kẻ mạnh phải hy sinh mà muốn kẻ mạnh nhận thức được đâu là quyền lợi thực sự của anh ta, muốn anh ta hiểu rằng hoà bình mang lại lợi ích cho cả kẻ mạnh lẫn kẻ yếu.

Khi một dân tộc yêu chuộng hoà bình bị kẻ thù hiếu chiến tấn công thì họ phải chiến đấu và tìm mọi cách chống lại cuộc xâm lăng. Sự nghiệp anh hùng của những người chiến đấu cho nền tự do và cuộc sống của họ hoàn toàn xứng đáng được ca tụng, chúng ta có quyền tán dương trí kiên cường và lòng dũng cảm của những người chiến sĩ đó. Ở đây lòng can đảm, tinh thần dũng cảm và coi thường cái chết đáng được ngợi ca. Vì chúng phục vụ cho những mục tiêu tốt đẹp. Nhưng người ta đã lầm lẫn khi coi đức hạnh của người chiến binh là đức hạnh tối thượng và là những phẩm chất tốt trong chính họ và dành cho họ, thậm chí không cần để ý đến mục đích mà chúng hướng tới.

Những người có quan niệm như thế, nếu đấy là một người nhất quán thì anh ta phải công nhận sự liều lĩnh, táo tợn và coi thường chết chóc của kẻ cướp cũng là những đức tính cao thượng. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ nhìn vào hành vi thì ta không thể nói rằng đấy là hành vi tốt hay xấu. Ta chỉ có thể nói rằng đấy là hành vi tốt hay xấu sau khi biết được kết quả hay hậu quả mà nó gây ra. Ngay cả Leonidads cũng không xứng đáng với những vinh quanh mà chúng ta dành cho ông nếu như ông không ngã xuống như một người chiến sĩ bảo vệ tổ quốc mà lại ngã xuống như thủ lĩnh của một đội quân xâm lược nhằm cướp bóc tự do và của cải của một dân tộc yêu chuộng hoà bình.

Tác hại của chiến tranh đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại sẽ càng trở nên rõ ràng hơn sau khi người ta hiểu được lợi ích của việc phân công lao động. Phân công lao động biến một con người sống tự cấp tự túc thành một con vật chính trị, thành một người lệ thuộc vào những người đồng bào của mình, thành một con vật xã hội mà Aristotle đã nói tới. Những hành động thù địch giữa hai con vật hay hai con người bán khai không thể tạo ra bất kỳ thay đổi nào trong cơ sở kinh tế của cuộc đời chúng. Vấn đề sẽ khác hẳn khi cuộc tranh cãi phải giải quyết bằng vũ lực xuất hiện giữa các thành viên của một cộng đồng đã có sự phân công lao động.

Trong xã hội đó mỗi cá nhân đều có một chức năng riêng; không ai còn có thể sống tự cấp tự túc được nữa, vì tất cả mọi người đều cần sự giúp đỡ và ủng hộ của người khác. Những ông chủ đất sống tự cấp tự túc, tức là những người có thể làm ra trong trang trại của họ tất cả những thứ mà họ và gia đình họ cần, có thể tuyên chiến với nhau. Nhưng khi một làng đã chia thành các phe nhóm, ông thợ rèn vào phe bên này còn ông thợ giày vào phe bên kia, thì một bên sẽ khổ vì không có giày, còn bên kia sẽ khổ vì thiếu công cụ và vũ khí. Nội chiến triệt tiêu sự phân công lao động, nó buộc mỗi nhóm phải tự lập, tự hài lòng với thành quả lao động của những người bên phía mình.

Nếu xung đột có khả năng xảy ra thì phân công lao động sẽ không bao giờ được phép phát triển đến mức sẽ làm cho người ta lâm vào tình cảnh thiếu thốn nếu xảy ra chiến tranh. Việc phân công lao động chuyên sâu chỉ có thể xảy ra trong xã hội nơi người ta tin rằng hoà bình sẽ kéo dài. Phân công lao động chỉ có thể phát triển khi an ninh được bảo đảm. Không có điều kiện tiên quyết như thế, quá trình phân công lao động không thể vượt qua biên giới một ngôi làng hay thậm chí không vượt ra khỏi một gia đình.

Phân công lao động giữa thành thị và nông thôn – người nông dân trong các khu ngoại vi cung cấp lương thực, gia súc, sữa, bơ cho thành phố để đổi lấy những món hàng do dân thành thị làm ra – đã giả định rằng nền hoà bình sẽ được bảo đảm, ít nhất là trong khu vực đó. Nếu phân công lao động bao trùm lên cả nước thì nội chiến phải bị loại bỏ, còn khi phân công lao động đã bao trùm lên toàn thế giới thì cần phải bảo đảm giữ được một nền hoà bình dài lâu giữa các dân tộc.

Hiện nay mọi người đều nghĩ rằng việc các thành phố thủ đô hiện đại như London hay Berlin chuẩn bị chiến tranh với dân chúng sống trong khu vực ngoại ô là việc làm vô nghĩa. Nhưng trong suốt nhiều thế kỉ, các thành phố châu Âu đã từng suy nghĩ như thế và đã có dự phòng về mặt kinh tế nếu điều đó xảy ra. Đã có những thành phố mà phương tiện phòng thủ được xây dựng ngay từ đầu sao cho nó có thể đứng vững được một thời gian, người ta còn trồng cấy và nuôi gia súc ngay trong thành phố nữa.

Đầu thế kỷ XIX, cũng như trước đây, phần lớn những vùng có người ở trên thế giới vẫn còn bị chia ra thành những khu vực kinh tế ít nhiều đều mang tính tự cấp tự túc. Ngay cả trong những khu vực phát triển nhất của châu Âu, phần lớn nhu cầu vẫn được đáp ứng bằng sản phẩm của chính khu vực đó. Buôn bán – chỉ diễn ra trong khu vực hạn hẹp ngay trong những vùng lân cận – có vai trò tương đối hạn chế và nói chung chỉ bao gồm những loại hàng hoá mà do điều kiện khí hậu từng khu vực không thể sản xuất được.

Tuy nhiên, hấu hết các khu vực trên thế giới, sản phẩm do làng xã tự cung cấp có thế đáp ứng hầu như tất cả mọi nhu cầu của dân chúng. Đối với người nông dân, những xáo trộn trong hoạt động buôn bán do chiến tranh gây ra nói chung không tạo ra bất kỳ ảnh hưởng tiêu cực nào. Thậm chí những người dân sống trong các nước phát triển hơn ở châu Âu trong thời gian chiến tranh cũng không phải chịu đựng quá nhiều thiếu thốn.

Ngay cả nếu Hệ thống Lục địa mà Napoleon I áp đặt cho châu Âu nhằm ngăn chặn hàng hoá Anh quốc hoặc hàng hoá từ các châu lục khác phải đi qua Anh quốc rồi mới thâm nhập vào lục địa có được áp dụng một cách khắc khe hơn là nó đã diễn ra trên thực tế thì nó cũng chẳng gây ra cho dân chúng châu Âu một sự thiếu thốn đáng kể nào. Chắc chắn là họ sẽ không có cà phê và đường, bông và sản phẩm vải bông, đồ gia vị và nhiều loại đồ gỗ quý hiếm; nhưng tất cả những loại hàng hoá này đều chỉ có vai trò thứ yếu trong đời sống gia đình của đa phần dân chúng mà thôi.

Sự phát triển của hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp chính là sản phẩm của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản thế kỷ XIX. Chỉ có chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản mới có thể làm cho việc chuyên môn hoá sản xuất rộng khắp và đi kèm với nó là việc cải tiến trong lĩnh vực công nghệ trở thành hiện thực. Hiện nay dân chúng các nước trên cả năm châu cùng hợp tác để làm ra những sản phẩm mà một gia đình người công nhân Anh đang dùng hoặc đang muốn dùng.

Chè cho bữa ăn sáng được đưa đến từ Nhật hay Ceylon, cà phê từ Brazil hay đảo Java, đường từ Tây Ấn, thịt từ Australia hay Argetina, bông từ Mĩ hay Ai-Cập, vải da từ Ấn Độ hay Nga..v.v.. Đổi lại, hàng hoá Anh quốc được đưa đến tất cả các vùng trên thế giới, đến cả những làng xã và nông trại xa xôi và khó đến nhất.

Sự phát triển như thế chỉ có thể xảy ra và tưởng tượng được vì cùng với chiến thắng của những nguyên lý tự do, người ta đã không còn coi ý tưởng cho rằng một lúc nào đó một cuộc chiến tranh cực kỳ lớn sẽ xảy ra là ý tưởng nghiêm túc nữa. Trong thời vàng son của chủ nghĩa tự do, chiến tranh giữa các sắc dân da trắng được coi là câu chuyện của thời quá khứ.

Nhưng các sự kiện đã diễn ra theo cách khác. Các tư tưởng và cương lĩnh của chủ nghĩa tự do đã bị chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa quân phiệt thế chỗ. Trong khi Kant và Von Humboldt, Bentham và Cobden ngợi ca nền hoà bình vĩnh cửu thì những người đại diện cho thời đại sau họ lại tán dương không mệt mỏi chiến tranh, cả nội chiến lẫn trên trường quốc tế. Và họ đã nhanh chóng thu được thành công. Kết quả là cuộc Chiến tranh thế giới (Chiến tranh thế giới thứ I – ND), một cuộc chiến tranh đã mang đến cho thời đại của chúng ta bài học về sự xung khắc giữa chiến tranh và phân công lao động.

4. Bình đẳng

Sự khác biệt giữa chủ nghĩa tự do trước đây và chủ nghĩa tự do hiện đại thể hiện rõ nhất và dễ thấy nhất trong cách họ xử lý vấn đề bình đẳng. Những người theo phái tự do thế kỷ XVIII, được hướng đạo bởi những tư tưởng của luật tự nhiên và thời đại Khai sáng, đòi quyền bình đẳng về chính trị và dân sự cho tất cả mọi người vì họ cho rằng mọi người đều giống nhau. Chúa sinh ra mọi người như nhau, phú cho họ những khả năng và tài năng như nhau, phả vào tất cả mọi người cùng một hơi thở của Chúa.

Tất cả những khác biệt giữa người với người đều là nhân tạo, là sản phẩm của xã hội, của con người – nghĩa là do những định chế nhất thời mà ra. Cái còn lại vĩnh viễn trong con người – tức là tâm hồn anh ta – chắc chắn là giống nhau cho cả người giàu lẫn người nghèo, quý tộc và thường dân, da trắng và da màu.

Tuy nhiên, không có khẳng định nào lại thiếu căn cứ hơn là lời khẳng định về sự bình đẳng giữa người với người như thế. Mỗi người mỗi khác, không ai giống ai. Ngay cả anh em ruột cũng khác nhau rất xa về sức khoẻ cũng như trí thông minh. Tự nhiên không bao giờ lặp lại sản phẩm của chính nó; nó không sản xuất hàng loạt và không có sản phẩm đã được tiêu chuẩn hoá. Mỗi người khi rời khỏi xưởng chế tạo của nó đều mang theo dấu ấn riêng, duy nhất và không bao giờ lặp lại. Mỗi người mỗi khác, và đòi hỏi về sự bình đẳng trước pháp luật hoàn toàn không thể dựa vào khẳng định rằng những người giống nhau phải được đối xử y như nhau.

Có hai lý do giải thích vì sao mọi người đều phải được bình đẳng trước pháp luật. Lý do thứ nhất đã được nhắc tới khi chúng ta phân tích những luận chứng nhằm chống lại chế độ nô lệ. Sức lao động sẽ có năng suất cao nhất khi và chỉ khi người công nhân được tự do vì chỉ có người lao động tự do, tức là người được hưởng thành quả lao động của anh ta dưới dạng tiền lương, mới cố gắng hết sức mà thôi. Giữ gìn hoà bình trong xã hội là luận cứ thứ hai.

Như đã chỉ ra bên trên, cần phải tránh mọi xáo trộn đối với sự phát triển một cách hoà bình quá trình phân công lao động. Nhưng giữ hoà bình trong một xã hội trong đó quyền lợi và trách nhiệm được phân chia theo giai cấp là nhiệm vụ hầu như bất khả thi. Người nào không cho một bộ phận dân chúng được hưởng các quyền như các bộ phận khác thì phải luôn luôn sẵn sàng đối phó với cuộc tấn công của những người bị tước quyền nhằm chống lại những kẻ được hưởng đặc quyền đặc lợi. Đặc quyền đặc lợi giai cấp phải bị bãi bỏ, lúc đó xung đột vì lý do giai cấp sẽ chấm dứt.

Như vậy nghĩa là tìm kiếm sai lầm trong cách đặt vấn đề bình đẳng của chủ nghĩa tự do, cho rằng nó chỉ tạo ra sự bình đẳng trước pháp luật chứ không phải bình đẳng thật sự là việc làm vô lí. Có sử dụng toàn bộ sức mạnh của loài người cũng không thể làm cho người ta trở thành giống nhau được. Con người đã và sẽ mãi mãi khác nhau. Chính những quan điểm tỉnh táo hữu ích vừa được trình bày là luận cứ ủng hộ cho việc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Chủ nghĩa tự do không bao giờ đặt ra mục tiêu cao hơn, cũng chẳng bao giờ đòi hỏi cao hơn. Biến một người da đen thành da trắng là việc làm bất khả thi. Nhưng cho người da đen được hưởng những quyền như người da trắng và bằng cách đó tạo điều kiện cho anh ta có thu nhập như người da trắng nếu anh ta cũng có năng suất lao động như người kia.

Nhưng những người xã hội chủ nghĩa lại nói rằng làm cho mọi người bình đẳng trước pháp luật là chưa đủ. Muốn làm cho họ trở thành những người bình đẳng thật sự thì phải cho họ phân phối thu nhập giống nhau. Bãi bỏ đặc quyền đặc lợi được hưởng theo kiểu cha truyền con nối và theo chức tước là chưa đủ. Cần phải hoàn thành sự nghiệp, cần phải loại bỏ một trong những đặc quyền đặc lợi quan trọng nhất và lớn nhất, mà cụ thể là đặc quyền đặc lợi do sở hữu tư nhân mang lại cho người ta. Chỉ có như thế thì cương lĩnh tự do mới được thực hiện trọn vẹn, và nếu nhất quán thì chủ nghĩa tự do cuối cùng sẽ dẫn tới chủ nghĩa xã hội, dẫn tới việc bãi bỏ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất.

Đặc quyền đặc lợi là sự dàn xếp mang tính định nhằm chế tạo điều kiện thuận lợi cho một số cá nhân hay một nhóm người nhất định, gây thiệt hại cho những người khác. Đặc quyền đặc lợi tồn tại, mặc dù nó làm cho một số người phải chịu thiệt hại – có thể là đa số – trong khi ngòai những người được hưởng thì nó chẳng mang lại lợi ích cho ai. Trong chế độ phong kiến thời Trung Cổ, một số vương hầu công tước được quyền tài phán theo kiểu cha truyền con nối. Họ là những quan toà vì được kế thừa, không cần biết họ có khả năng và phẩm chất phù hợp với quan toà hay không. Trong mắt họ, địa vị này đơn giản chỉ là một nguồn thu nhập béo bở. Ở đây quyền tài phán là đặc quyền đặc lợi của giai cấp quý tộc.

Nhưng nếu trong nhà nước hiện đại các quan toà bao giờ cũng được tuyển chọn trong số những người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm thì đấy không phải là đặc quyền đặc lợi của các luật sư. Các luật sư được ưu tiên không phải vì lợi ích của họ mà vì lợi ích của toàn xã hội, vì mọi người đều nghĩ rằng kiến thức về luật học là điều kiện tiên quyết đối với một quan toà. Khi xem xét một định chế có phải là đặc quyền đặc lợi đối với một nhóm người, một giai cấp, một cá nhân hay không, ta không được dựa vào những khoản ưu tiên ưu đãi mà nó mang lại cho nhóm đó mà phải dựa vào lợi ích mà nó mang lại cho toàn xã hội.

Chỉ có một người thuyền trưởng trên con tàu giữa biển khơi, những người khác đều là thuyền viên và bị ông ta chỉ huy, thuyền trưởng chắc chắn là có lợi thế rồi. Nhưng đây không phải là đặc quyền đặc lợi của vị thuyền trưởng vì nếu ông ta biết cách lái tàu đi giữa nhửng tảng đá ngầm trong cơn giông bão thì không chỉ ông ta được lợi mà cả thuỷ thủ đoàn cùng được lợi nữa.

Để có thể quyết định xem một định chế có phải là đặc quyền đặc lợi cho một cá nhân hay một giai cấp hay không, ta không được hỏi nó có mang lại lợi ích cho cá nhân hay giai cấp cụ thể đó hay không mà phải hỏi nó có mang lại lợi ích cho toàn xã hội hay không. Khi ta rút ra kết luận rằng chỉ có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới làm cho xã hội loài người phát triển một cách thịnh vượng thì rõ ràng đấy cũng là nói rằng sở hữu tư nhân không phải là đặc quyền đặc lợi của người chủ sở hữu mà là một định chế xã hội vì phúc lợi và lợi ích của tất cả mọi người, ngay cả khi nó đồng thời mang lại lợi ích và sự thoả mãn đặc biệt cho một số người.

Chủ nghĩa tự do ủng hộ định chế sở hữu tư nhân không phải vì quyền lợi của những người có sở hữu. Những người theo trường phái tự do muốn bảo vệ quyền sở hữu tư nhân hoàn toàn không phải là vì việc bãi bỏ nó sẽ xâm phạm quyền sở hữu của ai đó. Nếu họ nghĩ rằng việc xoá bỏ định chế sở hữu tư nhân sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người thì chắc chắn họ sẽ ủng hộ việc xoá bỏ nó, dù rằng chính sách như thế có thể gây tổn thất cho các chủ sở hữu đến như thế nào.

Nhưng duy trì định chế này là lợi ích của tất cả các giai tầng trong xã hội. Ngay cả một người nghèo, một kẻ chẳng có tí tài sản nào, cũng có đời sống khấm khá hơn rất nhiều so với đời sống trong xã hội không có khả năng sản xuất được một phần những gì được sản xuất vào ngày hôm nay.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

Một ngày đi lạc ở Kuala Lumpur

Featured Image: Peter Nguyen

 

Giới thiệu: Tôi có một ngày đi lạc ở Kuala Lumpur. Dù chỉ là một ngày nhưng tôi sẽ không bao giờ quên nó. Lần đầu tiên tôi bước chân ra khỏi biên giới Việt Nam, cũng là lần đầu tiên tôi bị lạc ở một đất nước xa lạ. Tôi đã được va chạm với những tình huống mà cả đời tôi tôi vẫn chưa nghĩ đến:

  • Tôi bị lạc ở trạm xe lửa.
  • Khóc vì không nói được tiếng Anh cho người ta hiểu tình huống của mình.
  • Lo lắng vì không biết tôi phải làm gì.
  • Lo sợ vì không biết làm sao để gặp lại bạn trai.
  • Không những vậy, tôi đã gặp được người tốt người xấu.
  • Bị dê xồm.
  • Bị phục vụ tồi bởi một lễ tân khách sạn bất lịch sự.
  • Bị lạc lõng vì mù công nghệ và thiếu kỹ năng giải quyết tình huống và kỹ năng sống.

Sau khi nghĩ lại, tôi thấy mình thật tệ và kém cỏi. Nhưng cũng vì ngày đi lạc này mà tôi đã trưởng thành hơn.


 

Ấn tượng ban đầu ở cửa khẩu Kuala Lumpur

Trong dịp nghỉ lễ 30-4 tôi với bạn trai quyết định đi du lịch sang thủ đô của Mã Lai, Kuala Lumpur 3 ngày. Tôi chưa bao giờ bước chân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, còn bạn trai tôi thì khác, anh ta đã đi rất nhiều lần.

2 đứa chúng tôi bay sang Kuala Lumpur lúc 9 giờ sáng, tới nơi thì đã 12 giờ trưa. Lúc làm thủ tục ở quầy xuất nhập cảnh ở Kuala Lumpur, tôi đã hiểu và thấy được một sự khác biệt đối với những người cầm cái hộ chiếu màu xanh Việt Nam. Những người khác thì nhân viên cửa khẩu chỉ quẹt hộ chiếu và hỏi thăm vài câu rồi cho qua, tầm 1 phút. Còn những ai cầm hộ chiếu Việt Nam thì lâu hơn, 3-5 phút, không biết vì lý do gì. Riêng tôi vì đây là lần đầu tiên tôi bước ra khỏi biên giới nên đã bị hỏi lâu hơn. Những câu hỏi như:

  • Vé khứ hồi của bạn đâu?
  • Bạn đi với ai?
  • Khách sạn ở đâu?
  • và vài câu khác

Tôi không biết mấy bạn sao chứ theo tôi có một điều gì đó hơi bất công với những ai cầm hộ chiếu màu xanh Việt Nam.

Ngày thứ 1 và thứ 2

2 đứa chúng tôi dành 2 ngày đầu tiên khám phá thủ đô của Mã Lai. Chúng tôi mua một tour du lịch riêng của khách sạn để chở chúng tôi đến những địa điểm du lịch quan trọng ở thành phố. Thành phố Kuala Lumpur thật hiện đại.

Điều làm tôi chú ý nhất là Mã Lai là một nước đa sắc tộc. Nói đúng hơn là có 3 sắc tộc chính, người Mã Lai (đạo Hồi Giáo), người Ấn (Ấn Độ Giáo) và người Hoa. Như người ta nói thì không sai. Ở đây người Mã Lai làm chính trị, người Hoa làm kinh tế còn người Ấn thì làm công. Bạn có thể thấy sự khác biệt này ở khắp nơi trên thành phố. Khách sạn chúng tôi ở nằm gần tòa nhà đôi Petronas nên 2 đứa chúng tôi đã thấy được vẽ đẹp của nó trong ban ngày và đêm.

Ngày thứ 3, ngày bị thất lạc

Sau 2 ngày khám phá thì theo kế hoạch chúng tôi sẽ đi taxi ra phi trường để về Việt Nam. Nhưng chúng tôi lại đổi ý và muốn đi xe lửa điện để khám phá vì thời gian chờ chuyến bay hơi lâu trong khi chúng tôi phải trả phòng trước 12 giờ trưa. Và chuyện bi hài bắt đầu từ đây.

Sau khi ăn trưa, chúng tôi tới trạm xe điện KLCC, trạm gần nhất từ khách sạn. Sau một hồi tự mò cách mua vé chúng tôi đi thang máy xuống để đi. Khi chúng tôi đi xuống bạn trai tôi liền bước lên xe lửa. Bất chợt cửa xe lửa tự động đóng và tôi đã bước lên không kịp. Bạn trai tôi liền ra tín hiệu, tôi không hiểu rõ anh ấy muốn nói gì nên đã bước lên chuyến xe kế tiếp. Chuyện thất lạc hơn 6 tiếng đồng hồ bắt đầu từ đây.

Thất lạc

Tôi bước lên chuyến xe lửa kế tiếp với suy nghĩ rằng sẽ gặp anh ta. Nhưng không, tôi chẳng thấy anh ta ở đâu. Tôi cứ nghĩ anh ta sẽ dừng ở trạm cuối cùng, thế là tôi xuống ở trạm cuối cùng và chờ. 1 chuyến, 2 chuyến, rồi 3 chuyến, nhưng vẫn không thấy anh ta. Rồi 1 tiếng, 2 tiếng, rồi lại 3 tiếng những vẫn không thấy. Lúc này thì tôi bắt đầu lo sợ. Tôi liền bắt xe đi về trạm KLCC nơi chúng tôi bắt đầu. Tôi đứng đó chờ nhưng vẫn không thấy anh ta. Một lần nữa tôi đi đến trạm cuối cùng và chờ.

Điện thoại tôi không có kết nối mạng quốc tế. Wifi thì bắt không được, vì tôi không biết cách. Tiếng Anh thì nói 10 chữ người ta hiểu được 1. Tôi ngồi đó lo sợ và khóc. Dù đã hơn 20 tuổi đời, tôi chưa bao giờ cảm thấy lo sợ như bây giờ. Tôi tiếp tục mở wifi để nhắn tin cho bạn trai nhưng tin nhắn chuyển đi không được.

Tôi bắt đầu khóc, khóc sướt mướt cả tiếng đồng hồ. Mọi người trên trạm xe lửa quay quanh tôi và hỏi thăm. Có một ông bác muốn cho tôi 100 RM, tôi liên tục từ chối. Tôi cố gắng giải thích tình hình cho họ hiểu, rằng tôi bị lạc và phải đến sân bay. Nhưng không một ai giúp đỡ. Tôi tự hứa với mình là sẽ chờ cho tới 4 giờ chiều, nếu vẫn không gặp bạn trai thì tôi sẽ tự đi ra sân bay, vì chắc chắn anh ta sẽ có mặt ở đó.

Khi tôi muốn đi ra ngoài để đón taxi ra sân bay thì cửa tự động không chịu vé của tôi vì tôi đã ra sai trạm. Mấy nhân viên hỏi tôi có 50 cent không, tôi nói tôi chỉ có tiền đô. Quýnh quá tôi chợt nhớ trong bóp mình còn vài RM. Lúc đó tôi mới ra khỏi cửa trạm xe điện. Nhưng vẫn chưa xong, tôi không có tiền RM để đi taxi. Tôi hỏi xung quanh thì không một ai giúp. Một hồi sau mới có 1 bác chở tôi đến chỗ đổi tiền. Đổi tiền xong tôi kêu anh ta chở tôi ra sân bay. Tôi cứ nghĩ tới đây thì mọi chuyện sẽ ổn, nhưng không.

Tôi đi máy bay của Air Asia, phải đi tới Sân Bay Quốc Tế Số 2 (KLIA2), chứ không phải là số 1. Tôi không biết điều này. Khi tôi tới sân bay KLIA1 thì tôi không thấy chuyến bay của mình đâu. Đi tìm bạn trai cũng không thấy. Kết nối wifi vẫn không được. Tôi đến quầy của Vietnam Airlines để tìm người giúp. Anh nhân viên người Mã Lai tìm tên tôi, gọi tới tổng đài của Vietnam Airlines nhưng vẫn không thấy tên tôi.

Tới lúc này thì tôi quá lo sợ. Tôi xin anh ta hãy cho tôi kết nối wifi. Không hiểu lý do vì sao tôi chỉ kết nối được và nhận được tất cả tin nhắn của bạn trai tôi gửi cho tôi, sau đó thì wifi tắt. Tôi lại xin mật mã riêng của quầy để cho tôi truy cập Gmail. Tôi không hiểu vì sao Gmail của tôi lại không truy cập được.

Khi tôi đọc được những tin nhắn của bạn trai thì tôi mới biết bạn trai tôi trách tôi rất nhiều:

  • Hỏi tôi sao khờ và ngu vậy.
  • ”Sao không chờ ở trạm đầu tiên mà đi lòng vòng?”
  • ”Anh đi tìm em mấy tiếng đồng hồ, đi khắp trạm trên tuyến mà không thấy?”
  • ”Sao em khờ quá vậy? Em không biết mượn điện thoại ai đó để nhá máy anh hả? Hay ít nhất cũng mượn điện thoại ai đó vô facebook để nhắn tin anh.”

Khi tôi đưa vé điện tử cho anh nhân viên coi, anh ta mới nói tôi rằng chuyến bay của Air Asia làm thủ tục ở KLIA2 chứ không phải ở đây. Tôi phải đi xe lửa tới sân bay đó, nó nằm kế bên. Đây là một điều quá dễ dàng, nhưng đối với một cô gái chưa bao giờ va chạm với thế giới bên ngoài, chưa bao giờ phải mua vé xe lửa, chưa bao giờ bước ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thì đây là một cực hình. Thấy tôi lo lắng và khóc thì anh nhân viên mới nhờ một bác dẫn tôi đi tới KLIA2, lên tầng 3, tầng khởi hành để gặp bạn trai.

Sau khi bị thất lạc 6 tiếng đồng hồ thì mọi sự lo sợ của tôi đều tan biến, vì tôi đã thấy bạn trai của tôi ngồi chờ ở cổng khởi hành. Tôi ôm anh ta và khóc. Anh ta trách móc tôi liên tục, tôi vẫn chưa hết lo sợ và hoang mang. Chưa hết, cái ông dẫn tôi qua bên KLIA2 đòi thêm 100 RM, bạn trai tôi cứ nghĩ đó là phí xe lửa nên đưa. Sau này thì tôi nói là ông đó không có mua vé gì hết, tới giờ tôi vẫn nghĩ ông ta tham lam, có thể là tôi sai.

Vẫn chưa kết thúc

Khi gặp được bạn trai thì anh ta trách và la tôi rất nhiều. Anh ta đâu có hiểu được cảm giác của tôi. Anh ta nói rằng chuyến bay về Sài Gòn của tôi đã cất cánh, vé của tôi đã bị hủy. Anh ta phải bay tới Sydney đi làm trong 4 tiếng nữa. Anh ta lấy điện thoại và coi vé nhưng tất cả các chuyến bay trong ngày và ngày mai đã hết, những vé còn lại đều quá cao đối với tôi. Chỉ còn một cách là đặt vé vào thứ 2 cho tôi về Sài Gòn và tôi phải ngủ lại Kuala Lumpur. Mọi chuyện tưởng chừng như đã xong, nhưng chưa.

Dê xồm

Khi tôi đi taxi từ phi trường về khách sạn cũ, tôi không may khi phải gặp một ông taxi dê xòm. Đã già mà còn dê. Đi một hồi ông ta cứ tiếp tục nhìn vào kính hậu và nói những câu như:

  • ”Em đẹp quá (you are so beautiful).”
  • ”Em từ đâu? (where are you from?).
  • ”Em có bạn trai chưa? (You have a boyfriend?).”
  • ”Tối nay ngủ ở đâu? (Where do you sleep tonight?).”
  • ”Cho anh làm bạn nhé? (Let me be your friend).”

Ông ta lấy cái thẻ địa chỉ khách sạn, giả vờ như không biết địa chỉ ở đâu. Ông ta hỏi tôi, tôi chỉ vào địa chỉ đó. Ông ta liền nắm tay tôi. Hoảng hồn tôi giật tay ra và chỉ thẳng vô mặt ông ta. Khi tới khách sạn tôi liền đi vào mà quên chụp biển số xe lại. Tôi cứ tưởng mọi thứ đã xong, nhưng vẫn chưa.

Lễ tân vô lễ

Nhân viên lễ tân nói anh ta không thấy tên của tôi trong hệ thống. Tôi đưa cho anh ta cái biên lai điện tử trong email mà bạn trai tôi đã đặt phòng qua Agoda cách đây 3 tiếng. Agoda đã xác nhận và gửi biên lai xác nhận số và tên tôi. Nhưng nhân viên đó không chịu. Nếu như vậy thôi thì đâu có gì. Sau 1-2 lần kêu anh ta coi lại, vì quá vô lý, tôi có biên lai xác nhận tôi đã đặt phòng thì tại sao khách sạn lại không có?

Anh ta nạt nộ tôi, không chịu kiểm tra hoặc gọi điện cho Agoda để hỏi về tình hình, hoặc ít ra cũng gọi cho quản lý khách sạn để giải quyết. Đó là những điều căn bản của một lễ tân, huống gì đây là một lễ tân của một khách sạn 3 sao. Giá phòng là hơn $120 (2 triệu VND) một đêm. Tôi quá thất vọng với tác phong và thái độ phục vụ. Anh ta liên tục lớn tiếng:

  • “No booking under your name” (Không có tên bạn trong danh sách đặt phòng).

Tôi muốn phát điên, tôi nói qua nói lại là tôi có biên lai xác nhận, sao anh ta có thể nói như vậy. Quá bực tức tôi liền đi ra ngoài tìm wifi để nhắn tin cho bạn trai. Nhưng vô dụng. Sau vài tiếng lang thang ngoài đường tôi vô lại khách sạn đó để kêu lễ tân coi lại trong hệ thống.

Vừa thấy tôi anh ta lại lớn tiếng: “No booking under your name” (Không có tên bạn trong danh sách đặt phòng). Tới lúc này tôi đã chịu hết nổi. Tôi phải đi thuê phòng ở một khách sạn gần đó. Cũng hên là tôi còn đủ tiền mặt. Một ngày khủng khiếp nhất cuộc đời tôi.

Bình yên

Tôi lo sợ ngủ không được. Tôi ngủ gật và chờ tới sáng, khi chuyến bay của bạn trai tôi đã đáp xuống Sydney. Lúc đó anh ta mới đọc được tin nhắn của tôi. Anh ta liền đặt một phòng cùng khách sạn tôi đang ở 1 ngày nữa, coi như gia hạn và trả bằng thẻ vì tôi không đủ tiền mặt. Tôi lấy biên lai trong email đưa cho lễ tân. Lễ tân chấp nhận không một vấn đề gì. Chỉ cho tới lúc này tôi mới hết lo sợ. Lúc này tôi mới ăn sáng được. Một ngày khủng khiếp đối với tôi, tôi sẽ không bao giờ quên được.

Đôi lời nhận xét

Có nhiều người khi đọc trải nghiệm này của tôi sẽ cười và nói tôi ngu ngốc. Ừ thì tôi ngu ngốc, tôi như một đứa nhà quê mới lên thành phố. Tôi chưa bao giờ đi ra khỏi biên giới Việt Nam và va chạm với một nền văn hóa khác. Chưa bao giờ gặp phải những tình huống tôi đã kể. Qua kinh nghiệm này tôi cảm thấy mình tệ thật. Kỹ năng của mình quá tệ. Một người già đầu như tôi vẫn yếu đuối như một đứa trẻ. Đây là bài học đáng nhớ trong đời của tôi, có thể là bài học đáng nhớ nhất.

Tôi không ngờ chuyến xuất ngoại đầu tiên của tôi đã để lại dấu vết này. Khi nghĩ tới tôi vẫn sợ, nhưng cảm ơn trời đã cho tôi gặp được vài người tốt. Nếu không thì tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với tôi. Đây sẽ không phải là lần cuối cùng tôi bước chân ra khỏi biên giới Việt Nam đâu. Tôi khờ nhưng vì trải nghiệm này, tôi sẽ mạnh mẽ hơn. Sẽ không có chuyện này xảy ra nữa.

Lời kết

Cuộc sống có nhiều thứ chúng ta cần phải trải nghiệm, dù nó không đẹp cho lắm. Nhưng chúng ta phải trải qua để trưởng thành. Riêng tôi thì tôi đã trưởng thành từ trải nghiệm nhỏ nhưng khủng khiếp này. Tôi khuyên các bạn hãy làm điều tương tự. Hãy đi ra khỏi biên giới, hãy trải nghiệm, hãy khám phá. Vì những trải nghiệm đó, dù không đẹp hoặc tốt, là những điều cần thiết để giúp chúng ta mạnh mẽ hơn.

 

Ku Búa,

dựa theo câu chuyện thật của một người bạn.

Du học vs. Du lịch

Featured Image: Dave Morrow

 

Một lần, tôi đọc được bài phỏng vấn một người Việt trẻ, anh bảo: đất nước còn nghèo mà chỉ lo hưởng thụ với đi du lịch, các bạn trẻ không lo học hành, chỉ lo đi chơi thì làm sao đất nước khá lên. Cuối bài phỏng vấn, anh kết luận: “Không phải là hãy xách ba lô lên và đi mà là hãy xách ba lô lên và đi du học.”

Là một người hay đi, tôi nhận thấy rằng du lịch có nhiều kiểu, và không phải kiểu du lịch nào cũng là chơi bời và hưởng thụ. Ngược lại, không phải người nào đi du học cũng nhằm mục đích học tập phát triển bản thân. Ngày nay, nhiều người trẻ muốn đi du học, nhưng liệu đó có phải là con đường duy nhất để học hỏi trau dồi kiến thức?

Du học

Thẳng thắn mà nói thì tôi không hề phản đối chuyện đi du học (bản thân tôi cũng đã từng có dự định đó trước đây). Nếu gia đình bạn khá giả, hoặc nếu bạn có điểm số đủ cao để lấy học bổng, bạn thực sự yêu thích ngành học bạn sắp nộp đơn, và bạn có định hướng rõ ràng sau khi tốt nghiệp, thì OK, bạn nên đi du học. Còn nếu như bạn chỉ có số điểm vừa khá, bạn không chắc mình nên học ngành gì, mà gia đình bạn phải tiêu tốn khoản tiết kiệm nhiều năm trời để bạn thực hiện ước mơ du học, thì theo tôi đó không phải là một lựa chọn khôn ngoan.

Việc du học ngày nay gần như là một kiểu mốt, không ít bạn trẻ du học theo trào lưu, chỉ vì muốn trải nghiệm cuộc sống ở nước ngoài, muốn có được tấm bằng quốc tế, hơn là mong muốn đào sâu nâng cao kiến thức. Khi quyết định đi du học, thiết nghĩ ta nên cân nhắc thật kỹ về định hướng nghề nghiệp và chất lượng kiến thức của bằng cấp mà ta đang theo đuổi, cũng như bài toán về lợi nhuận dự kiến và những chi phí cơ hội mà mình sẽ bỏ qua trong quá trình du học. Đừng đi du học theo trào lưu, để rồi trở về hầu như tay trắng.

Tôi biết không ít em du học sinh, sau khi du học về bỗng trở nên lạc lõng. Tiếng Anh và các kỹ năng mềm không phát triển hơn bao nhiêu, môi trường làm việc và tình hình trong nước các em không nắm rõ, cầm tấm bằng nước ngoài chẳng biết để làm gì, vì đa số các công ty Việt Nam không cần nhân viên với bằng cấp quốc tế, ít kinh nghiệm mà lại yêu cầu mức lương ngất ngưởng. Cuối cùng, các em ấy đành chấp nhận mức lương thử việc sáu bảy triệu một tháng, không biết bao giờ mới lấy lại được số vốn ban đầu.

Ngày nay, giáo dục đã không còn mang tính phi thương mại như trước. Ngược lại, nó đã trở thành một ngành kinh doanh hái ra tiền. Nếu không cân nhắc kỹ, có khi ta phải trả một cái giá rất cao cho tấm bằng với chất lượng không tương xứng. Thực tế là chi phí học đại học và sau đại học đã trở nên đắt đỏ đến nỗi nhiều thanh niên Âu Mỹ lựa chọn những phương án tiết kiệm hơn để bổ sung kiến thức, mà du lịch là một trong những cách đó.

Du lịch

Nếu mong muốn của bạn là để nhìn ngắm thế giới, biết thêm về những nền văn hóa khác nhau, kết bạn với nhiều người, thì du lịch bụi là dành cho bạn.

Trở lại với luận điểm của một số người rằng: đất nước mình còn nghèo, chỉ mơ xách ba lô lên và đi thì làm sao khá hơn được. Tôi xin khẳng định: điều đó không đúng.

Theo chiều dài lịch sử loài người, văn minh thuộc về những kẻ chinh phục

Bạn có biết vì sao các nước châu Âu lại hùng mạnh như bây giờ? Vì văn hóa di chuyển đánh đông dẹp bắc từ ngàn năm nay đã ăn sâu vào máu họ. Lịch sử châu Âu cho thấy từ xưa sự giao lưu thông thương của các quốc gia trong vùng đã khá mạnh mẽ, ngành đóng tàu và đường sắt phát triển, người châu Âu đi lại khắp nơi, khám phá các nước lân cận, gặp gỡ bạn bè từ các quốc gia khác.

Đọc sách về châu Âu từ mấy trăm năm trước thấy rất phổ biến hình ảnh trong một quán rượu ở bến cảng nào đó, những con người từ khắp nơi tụ lại, người Anh, người Pháp, người Đức, Thụy Sĩ, Na Uy… Tất cả tụ họp kể về những câu chuyện kỳ lạ ở những miền viễn xứ, cùng bàn đến những chuyến đi, rồi lên tàu thăm viếng những vùng đất xa xôi. Cách suy nghĩ thực tiễn, khoa học và quyết tâm chinh phục khiến họ không ngừng khám phá, tìm tòi và cải tạo thế giới.

Bạn có biết vì sao nước Mỹ trở thành cường quốc chỉ sau vài trăm năm lập nước? Bởi vùng đất đó tập hợp những con người lên thuyền vượt biển, bỏ lại châu Âu cằn cỗi, mong ước một cuộc sống tốt đẹp hơn. Không thiếu những tướng cướp, những kẻ phóng đãng ngông cuồng, những người ra đi vì tự do tín ngưỡng. Nhưng tất cả bọn họ đều có sức sống mạnh mẽ, ước muốn chinh phục, thay đổi hiện tại. Họ đều là những người yêu tự do, hùng cường, vững chãi và không sợ hãi.

Tất cả những điều ấy tạo nên văn hóa Mỹ ngày nay, nơi chủ nghĩa tự do và nhân quyền được tôn trọng mạnh mẽ. Cái nồi thập cẩm của mọi thứ trên thế giới, của cải cách, của đa văn hóa, của sự hội nhập giữa các dân tộc. Họ vẫn đang tiến lên, vì bản chất của họ là những con người can đảm, vững vàng, dám đi dám nói, cường tráng hiên ngang như tổ tiên thời dựng bờ mở cõi.

Nếu Colombo không thoát khỏi cái nhung lụa vương giả của gia đình hoàng tộc châu Âu và ra đi tìm đường vượt biển, ông đã không thể đặt chân lên châu Mỹ. Nếu Marco Polo không nung nấu trong tim một niềm tin khám phá thế giới, ông đã không thể đến được Ấn Độ.

Nếu người Mỹ không mang trong mình vận mệnh hiển nhiên là chinh phục những vùng đất mới và mở rộng bờ cõi về phía tây, họ đã không có được biên cương mênh mông như bây giờ. Nếu thái tử Siddhartha Guatama không có những cuộc dạo chơi thăm thú cuộc sống thường dân nghèo khổ, chắc gì Người đã thấm được sinh lão bệnh tử và ngộ được cái vô thường của kiếp người, chắc gì thế giới đã có đạo Phật hôm nay.

Còn Việt Nam, văn hóa lúa nước ổn định và địa thế hiểm trở khiến con người ta sống yên ổn trong môi trường của mình. Người Việt cần cù chăm chỉ, nhưng cũng ít những sáng tạo đột phá, tư duy cục bộ, nên không thể có những phát minh thế kỷ. Mà ngay cả cha ông ta, những người thích an cư, không ham phiêu lãng viễn xứ như những đồng loại phương Tây, cũng đã đúc kết: “Đi cho biết đó biết đây. Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.”

Ngày nay, người ta ít có cơ hội tham gia vào các cuộc viễn chinh, chinh phạt, hay những chuyến đi khai phá, di cư tìm miền đất mới. Vậy nên đi du lịch bụi để mở rộng tầm mắt là một cách để ta phát triển bản thân, từ đó đóng góp cho đời.

Bạn sẽ hỏi: đi du lịch bụi để làm gì?

Đi du lịch, trước tiên là để có thêm kiến thức. Đi là một cách học. Khi đi, ta nhìn những vùng đất mới với ánh mắt rộng mở, đầy háo hức quan sát của kẻ phiêu lưu, nên ta luôn học được nhiều. Thực ra, trong môi trường quen thuộc, mắt ta như bị che bởi một tấm màn vô hình, không thấy được những điều mới lạ ở ngay quanh mình. Nếu chắc rằng có thể giữ được cái nhìn của người lữ khách ở giữa quê nhà, thì không cần đi xa cũng học được điều mới. Nhưng rất tiếc, không phải lúc nào người ta cũng làm được điều ấy.

Du lịch bụi là để rèn giũa những kỹ năng của mình. Ta rèn được cách tìm kiếm thông tin, cách tổ chức và lên kế hoạch, cách giao tiếp với người khác, cách sống tự lập và bảo vệ bản thân. Những bài học trên đường lữ hành là vô giá, những người ta gặp, những chuyện ta nghe, những điều mà cuộc sống dạy ta còn sinh động hơn bất kỳ sách vở nào.

Đi là một cách để vượt qua sức ỳ của bản thân. Vì rằng thân thể và bộ óc của chúng ta đều là những cơ bắp, chúng sẽ không phát triển nếu ta không sử dụng. Nên mỗi chuyến đi là cơ hội để tận dụng mọi khả năng của mình, phát hiện thêm sự kỳ diệu của năng lực con người. Khi đi, ta hiểu rõ thêm về chính mình và tiến xa hơn trên hành trình tinh thần.

Bạn sẽ hỏi: “Du lịch bụi dạy cho tôi điều gì?”

Sau nhiều năm đi du lịch bụi, tôi rút ra rằng điều quan trọng nhất mà du lịch bụi đã dạy cho tôi là những nguyên tắc và giá trị cốt lõi của cuộc sống, mà tôi có thể chưa biết, hoặc đã lãng quên.

Có đi mới thấy thiên nhiên nhiệm màu thế nào, mới biết mình bé nhỏ hạn hẹp ra sao. Trên đường đi, tôi ngộ ra rằng kiếp người chỉ như một hạt bụi trong sa mạc, và mình chẳng là gì trong thế giới hằng hà sa số này. Những lo lắng muộn phiền của mình chẳng là gì trong cái xoay vòng hàng triệu năm của vũ trụ. Hơn thua rồi cũng chẳng để làm gì, tự ái và căm giận chẳng để làm gì. Đã làm người trên đời, máu ai cũng màu đỏ, tim ai cũng biết đau. Nên người hay đi thường có cái tâm rộng mở và nhân ái, biết đau cái đau của người khác, và nhẹ nhàng hơn với con người.

Có đi mới thấy được cái say mê của người lữ hành, thấy cuộc sống huyền diệu tràn đầy trải dài trước mắt. Chứng kiến cái diệu kỳ của tạo hóa, chứng kiến vẻ đẹp của vũ trụ, người ta mới biết nên trân quý những khoảnh khắc an hòa biết bao nhiêu. Và tôi chợt nhận ra, rằng mỗi người có nuôi dưỡng bình an trong tim, thì Trái Đất mới thật sự yên bình. Vậy nên, thay vì kiểm soát người khác, cái mà mỗi con người nên quan tâm kiểm soát vào mỗi phút giây, là hơi thở của mình, là ý nghĩ của mình, là hành động của mình.

Đi để biết thấm thía và trân quý hai tiếng “đồng loại”. Người ta thường chỉ trích, thù ghét người khác vì nghĩ họ khác mình. Trên đường đi, tôi cảm được cái tình của người lữ hành, thấy mình là một mắt xích, một thành viên trong dòng chảy xuyên suốt của những người đi trước và sau tôi, tất cả hòa làm một như sợi dây kết nối con người với nhau, quyện chặt và bền bỉ.

Đi để học cách sống đơn giản, nhẹ nhàng, ít quan tâm góp nhặt vật chất, chú trọng vào phát triển tinh thần. Nếu ai cũng sống như những người lữ hành, biết yêu quý và hòa hợp với thiên nhiên, biết sống xanh và sạch, tiêu thụ ít hơn và đóng góp nhiều hơn, thì Trái Đất này sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao nhiêu.

Người đi du lịch bụi là người không thích cuộc sống trầm lặng bình ổn, luôn xê dịch để tìm những điều mới mẻ, độc đáo, muốn trải nghiệm những phong cảnh tuyệt mỹ núi cao rừng thiêng, làm bạn với những tính cách phi thường, những tình cảm mãnh liệt. Khi cái chủ nghĩa xê dịch thấm vào máu, ta không thể dừng đi, không thể sống cuộc sống bình thường được nữa.

Bởi vậy, hãy đi du lịch đi. Hãy nuôi dưỡng khát vọng lên đường, bởi khi bạn mong muốn được đi, đó là một tín hiệu đáng mừng của nền văn minh.

Du học và du lịch

Thế thì không nên đi du học à, bạn sẽ hỏi. Không, nếu có điều kiện thì vẫn nên du học. Còn nếu bạn thích du lịch, thì cứ đi khi có thể, đừng để những định kiến của xã hội vùi lấp đi niềm say mê của bạn. Du học và du lịch, nếu biết đi đúng cách, thì ta sẽ có được nhiều trải nghiệm quý báu cho đường đời. Đôi khi điều quan trọng không phải là làm gì, mà quan trọng là làm như thế nào.

Thực ra, du học và du lịch không nên đối chọi, mà nên bổ sung cho nhau. Có rất nhiều bạn du học sinh tranh thủ thời gian rảnh đi du lịch, thăm thú xung quanh, nên càng nâng cao được vốn sống.

Điển hình cho trường hợp này là anh Nguyễn Chí Hiếu, hay Hiếu “chí mén”, cựu học sinh Lê Quý Đôn – Bình Định, cựu sinh viên học viện LSE – Anh quốc, sinh viên giỏi nhất nước Anh năm 2004, tiến sĩ đại học Stanford, Mỹ, hiện đã về nước làm việc tại Yola Việt Nam. Trong thời gian du học, anh đã kịp lái xe dọc nước Mỹ, đi bụi ở Hy Lạp, ghé thăm Nhật Bản, đi khắp Đông Nam Á, ngủ ở châu Phi. Có cơ hội tiếp xúc mới biết anh là một người cởi mở và khiêm tốn, một con người tràn đầy năng lượng, một cuộc sống phong phú với những thói quen thú vị về du lịch, piano, múa đương đại, chụp ảnh…

Thế giới không ngừng thay đổi, và người Việt trẻ cũng không ngừng đi lên. Với làn sóng của những người trẻ Việt đam mê du học và du lịch, ngày càng vươn mình ra xa, hòa vào dòng chảy địa cầu và tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa, tôi tin vào một tương lai tươi sáng, khi họ trở về, xây dựng Việt Nam giàu đẹp, xứng đáng với vị trí chiến lược của đất nước hình chữ S.

 

Rosie Nguyễn

Người Việt Nam ta thiếu gì?

Featured Image: All Free Photo

 

Thời gian gần đây, có rất nhiều bài báo nói về Việt Nam và Singapore, về những quan điểm của ông Lý Quang Diệu và những so sánh, nhìn chung đều đặt ra một câu hỏi: Tại sao Việt Nam lại phải đi sau Singapore, trong khi chỉ vài mươi năm trước, ông Lý Quang Diệu từng mong muốn đất nước đuổi kịp Việt Nam?

Nói về Singapore, đó là một đất nước hầu như không có gì nổi trội về mặt tài nguyên khoáng sản. Cũng không có những bãi biển xanh mượt với bờ cát trắng xoá hay những hang động hoang sơ hùng vĩ. Nếu so với Việt Nam, thì Singapore là một đất nước bất hạnh khi thiên nhiên không ưu đãi cho họ thứ gì cả.

Đến cả nước sạch cũng phải tích trữ từ nước mưa và nhập từ nước khác qua, đi toilet cũng toàn phải dùng giấy, nước máy thì chảy róc ra róc rách.

Hệ thống xe buý và tàu điện ngầm (MRT) tại Singapore

Nhưng giao thông cực kỳ trật tự và an toàn. Hệ thống giao thông công cộng như xe buýt và tàu điện ngầm (MRT) hoạt động liên tục và rất hiệu quả, và cực kỳ an toàn, cứ cách 5, 10 phút lại có 1 chuyến xe buýt hoặc MRT, chạy đất nước. Giá cả so với Taxi thì cực kỳ rẻ, đối với học sinh, sinh viên đôi lúc còn được miễn phí. Đây là 2 thứ phương tiện đi lại chính của người dân, ngoài việc đi bộ. Hầu như 99% dân số Singapore đi bộ mỗi ngày nên các cô gái người Sing thân hình cứ nhìn là thích mê, mỗi tội không có nhiều cô xinh lắm.

Nhà cao tầng lúc nhúc, mọc ra khắp nơi, quả nào cũng to và đẹp. Đường phố thì sạch sẽ, thoáng mát, cây cối phủ xanh kín luôn cả vỉa hè của người đi bộ, đến mấy cái vách tường trên cầu vượt cũng không tha.

Trên mặt đất là thế, chưa kể hệ thống công trình ngầm dưới lòng đất chằn chịt kết nối với nhau tạo thành cả một khu vực rộng lớn. Người ta đưa vào đó nào là trung tâm mua sắm, quán cà phê, nhà hàng, có thể ở đó cả ngày mà không biết chán.

r
Sự đa dạng văn hoá thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, ở khắp mọi nơi tại Singapore

Về dân cư thì mặc dù đủ mọi thành phần, hạng người, giàu sang, nghèo hèn, văn hoá đa dạng, trình độ dân trí nếu đem so với nhau thì cũng khá là đa dạng, nhưng người dân đi ra đường thì nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp, tôn trọng lẫn nhau, chả thấy ai dám làm gì phiền lòng đến người khác, cơ bản là cũng chả ai thèm quan tâm đến thằng điên nào đó nó đang lắc lắc cái mông giữa đường làm gì vậy.

Xếp hàng chờ mua… kem

Văn hoá xếp hàng thì khỏi nói, trong một hàng dài người đứng ở siêu thị chờ tính tiền, ông nào mà chen ngang thì chỉ có cái cô em xinh đẹp đứng ở quầy tính tiền là lên tiếng nhắc nhở một cách nghiêm khắc, còn người xung quanh, lớn thì nhìn mình với ánh mắt khó chịu, trẻ con thì chỉ chỏ rồi hỏi bố mẹ nó: “Mamy, tại sao cái ông kia lại chen ngang người khác như vậy? Lạ ghê luôn.”
Hẳn người Việt ra nước ngoài sẽ rất ngạc nhiên khi thấy hàng dài người đứng xếp hàng chờ tới lượt vào ăn trong một quán ăn hết sức bình thường. Một hình ảnh khó mà thấy được ở Việt Nam.

Về chuyện đối nhân xử thế. Nếu được người ta giúp mình thì người Sing tươi cười rồi cảm ơn ngay lập tức, mình giúp người ta thì khi nhận được lời cảm ơn chỉ nhún vai một phát để tỏ thái độ lịch sự rồi bỏ đi đâu mất, không giúp được ai thì xin lỗi rối rít.

Nếu đem so sánh với đất nước rừng vàng biển bạc, thiên nhiên ưu đãi, danh lam thắng cảnh, công trình “nhất thế giới”, “nhất khu vực” nườm nượp mọc ra khắp nơi thì sẽ thấy một trời một vực. Cũng không có hay ho gì mấy nên không cần phải liệt kê ra đây làm gì nữa.

F
Đất nước Việt Nam đẹp mê hồn, nhưng con người Việt Nam thì xấu xí kinh hồn.

Tất cả những khác biệt này, đách phải do chế độ, chính quyền chính trị chính em hay cơ chế xã hội gì cả. Cũng chẳng phải do ông lãnh đạo nào hết. Cũng không phải vì chiến tranh tàn phá gì luôn.

Biết bao nhiêu nước bị chiến tranh cày nát, thiên tai quét sạch thành bình địa luôn nhưng vẫn phục hồi và phát triểm ầm ầm.

FF
Những hình ảnh xấu xí của người Việt vẫn xuất hiện hằng ngày.

Không nhà nước hay ông lãnh đạo nào điều khiển được người dân ra đường khạc nhổ, vứt rác hay phóng nhanh vượt ẩu, coi đèn vàng là tăng tốc, đèn đỏ là chạy thật nhanh vì “éo có công an đâu” hết.

Cũng có ông lãnh đạo nào dạy cho người dân phải chen lấn, hôi của, xô đẩy nhau khi xếp hàng đâu. Không chế độ nào khuyến khích thanh niên lao vào chém nhau chỉ vì một cái nhìn hơi bố láo một tí. Không nền giáo dục nào dạy cho người Việt Nam là đi ra nước ngoài phải vào siêu thị trộm về vài cái kính mát, phi công phải giấu vàng vào ống quần để qua mặt hàng rào an ninh.

Hãy thử hỏi chính bản thân, bạn bè, con em của chúng ta, những người đã và đang sinh sống, làm việc, du lịch ở nước ngoài, người Việt Nam đã phải chịu biết bao nhiêu sự nhục nhã, phân biệt? Đã bao nhiêu lần chúng ta muối mặt và xấu hổ vì những thông tin người Việt phạm pháp ở nước này nước kia?

fff
Một trong rất nhiều bảng thông báo chỉ-dành-riêng-cho-người-Việt-Nam tại nước ngoài

Hãy thôi tự hào vì quá khứ, lịch sử hào hùng đấu tranh bảo vệ tổ quốc, đã từng đánh thắng cả Mỹ, Pháp, các cường quốc số một thế giới. Hãy quay về với thực tại, bước chân ra bên ngoài và đừng hỏi, hãy lặng lẽ quan sát, hãy giấu đi việc mình là người Việt Nam và nhìn xem những người bạn quốc tế, họ nói gì về Việt Nam?

Lý Quang Diệu từng cho rằng, sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố: điều kiện tự nhiên (vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên), con người và thời cơ.

Thời cơ và điều kiện tự nhiên là những thứ mà Việt Nam không hề thiếu. Vậy thì lý do là vì đâu? Chắc ai cũng đã rõ…

Các bạn (anh/em/chú/bác) suốt ngày đòi thay đổi hiến pháp, đòi lật đổ chế độ này chế độ nọ, các bạn đã suy nghĩ đến sẽ làm gì tiếp theo nếu chuyện đó thành công hay chưa?

Ai sẽ là người đứng lên lãnh đạo, ai sẽ là người đứng ra giải quyết các vấn đề cấp bách trong xã hội, ai sẽ là người khắc phục hậu quả của cuộc thay máu do các bạn gây ra?

Các bạn có đủ bản lĩnh và kiến thức để đứng ra chèo chống nền kinh tế của cả một quốc gia hay không?

Các bạn có đủ thông minh, sắc sảo và nhạy bén để đối thoại và đối phó với những vị quan chức ngoại giao từ các quốc gia “cá mập” vẫn đang chờ một cơ hội nhảy bổ vào nuốt chửng chúng ta không?

Các bạn có đủ năng lực và khả năng để đảm bảo một cuộc sống mới an toàn và hoà bình cho cả dân tộc không?

Giả sử các bạn là những người đủ ưu tú và tài giỏi để đảm đương được những vấn đề ở trên. Các bạn có đủ tự tin để khẳng định những con người trong bộ máy mới sẽ không bị tha hoá, sách nhiễu, tham ô, quan liêu như những gì đã từng xảy ra hay không?

Theo tôi, dù các bạn có tạo dựng được một đất nước mới, một chế độ mới nhưng với những con người và lề thói cũ, với một xã hội đầy rẫy những chuyện cười ra nước mắt về tư duy, ý thức, văn hoá ứng xử như những gì vẫn đang xảy ra. Thì cuối cùng vẫn chỉ là bình mới rượu cũ mà thôi.

Thứ mà con người và đất nước chúng ta cần thay đổi ngay đó là ý thức. Chứ không phải là chế độ hay hiến pháp, hay vị lãnh đạo nào cả.

333
Người Nhật luôn làm cả thế giới phải khâm phục về ý thức của họ

Những công dân có ý thức, có văn hoá, đi ra đường sẽ không khạc nhổ, không xả rác bừa bãi, không gây sự đánh nhau chỉ vì những chuyện chẳng đâu vào đâu, không phóng nhanh vượt ẩu, không gây nguy hại cho người khác, sống trong một xã hội với những người công dân ý thức cao đó, bạn có thấy dễ chịu hơng không? Rộng hơn, một xã hội với những người công dân này sẽ là hình mẫu đại diện cho cả một đất nước trong mắt bạn bè quốc tế.

Những nhân viên công chức có ý thức, đầy tinh thần trách nhiệm, sẽ tận tình hướng dẫn và phục vụ người dân, sẽ không còn cảnh chen chúc, chầu chực hay đút lót, phong bì hối lộ tại các cơ quan công quyền, thay vào đó, bạn sẽ được họ đón chào một cách vui vẻ, họ sẵn sàng trả lời bất kỳ câu hỏi nào của bạn, tận tình hướng dẫn và giúp bạn hoàn thành một tờ khai hay một mẫu đăng ký nào đó, không một lời quát tháo. Bạn đến trước, bạn được vào nộp đơn, xử lý giấy tờ trước. Anh đến sau, anh vào làm việc sau.

Untitled

Những đồng chí cảnh sát đầy tâm huyết và trách nhiệm, sẽ không bao giờ nhận hối lộ, bắt bớ người tham gia giao thông, cũng chẳng cần phải lắp camera vào mũ để đối phó với người vi phạm nữa, vì cũng chẳng ai vi phạm điều gì nữa. Thay vào đó, hình ảnh anh cảnh sát giao thông đang dắt một em bé hay một cụ già qua đường, hoặc đang nhiệt tình hướng dẫn một anh khách du lịch nước ngoài nào đấy sẽ trở thành những điều quen thuộc trên đường phố.

222
Một hình ảnh đẹp của các rock fan tại Cần Thơ sau đêm diễn RockStorm

Sẽ không còn những hình ảnh nhức nhối mà chúng ta phải cảm thấy nhục nhã trước cộng đồng quốc tế, sẽ không còn cảnh đoàn người chen chúc để nhận các món quà khuyến mãi, không còn những con người vô ý thức chen nhau trèo rào vào công viên nước, không còn nữa những con người vô tâm thi nhau hôi của mà thay vào đó họ sẽ xúm lại tìm cách cứu giúp người bị nạn.

Sẽ không còn những vị khách du lịch nước ngoài đưa ống kính máy ảnh chụp cảnh giao thông hỗn loạn tại các ngã tư vào giờ cao điểm.

354
Một vận động viên Malaysia vái lại khán giả Việt Nam vì tràn vào đường đua gây cản trở giải đấu.

Sẽ không còn những lời nhận xét gay gắt, những lời chê bai về chất lượng dịch vụ, về nạn ăn xin, hàng rong chèo kéo, về khách sạn phục vụ kém cỏi, thiếu tiện nghi, trên các trang mạng về du lịch thế giới nữa.

Các bạn có tin không? Đây không phải là một viễn cảnh xa vời, đây là những gì vẫn đang diễn ra hằng ngày tại các nước xung quanh chúng ta.

cxv
Việc chúng ta cần làm là xây dựng một xã hội có ý thức hơn.

Và đây cũng là tương lai của con người, đất nước Việt Nam. Hoàn toàn có thể nằm trong tầm tay chúng ta. Nếu mỗi người trong chúng ta cùng góp sức chống lại sự kém cỏi, vô ý thức, cùng chung tay giúp đỡ nhau và nâng cao ý thức của mỗi người xung quanh chúng ta.

Chừng nào người Việt còn bị gán với sự vô ý thức, thiếu văn hoá, không tôn trọng pháp luật thì nước Việt vẫn chưa thể đứng lên được.

Thay vì mỗi ngày chúng ta biến thành trò cười trong mắt cộng đồng quốc tế, hãy thay đổi để không một quốc gia nào có thể khinh thường chúng ta, hãy để cho họ nghiêng mình thán phục người Việt Nam một lần nữa, không phải là vì những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, mà là cuộc chiến bảo vệ danh dự Tổ quốc.

 

Mít Tờ Tê

Tại sao bạn nên đi du lịch nước ngoài?

Featured Image: Pixabay

 

Tại sao nên đi du lịch nước ngoài?

Một số người khi nghe các câu chuyện đi du lịch nước ngoài thường nói: Nghe có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng mình sẽ đi trong nước trước, khám phá hết trong nước rồi mới đi nước ngoài sau. Tương tự như vậy nhưng có người phản ứng mạnh mẽ hơn: Đúng là sính ngoại, Việt Nam đẹp như vậy, rộng như vậy, đi còn không hết mà tại sao cứ đi du lịch nước ngoài.

Đối với tôi, hoàn toàn không có vấn đề gì nếu bạn quyết định khám phá trong nước trước hay chỉ đi du lịch trong nước. Nhưng tôi cho rằng du lịch nước ngoài có nhiều ưu điểm:

Thứ nhất, du lịch nước ngoài không phải lúc nào cũng đắt hơn du lịch trong nước. Giá vé máy bay từ Sài Gòn đến Bangkok còn rẻ hơn giá vé Sài Gòn – Hà Nội.

Thứ hai, du lịch nước ngoài là cơ hội để ta biết thêm về các nền văn hóa mới, phong tục tập quán mới, những con người với các quan niệm văn hóa, tinh thần hoàn toàn khác ta. Nhờ đó, ta có nhiều cơ hội để nâng cao kiến thức xã hội. Với cùng một số tiền, đi đến một nơi lạ hơn, học được nhiều hơn, thấy được nhiều hơn, bạn chọn cái nào?

Thứ ba, khi đi du lịch nước ngoài ta có cơ hội rèn luyện khả năng giao tiếp và vốn ngoại ngữ với những người không cùng ngôn ngữ mẹ đẻ. Nó giúp những kỹ năng của ta được trau dồi, hoàn thiện.

Thứ tư, đi nhiều quốc gia khác nhau, ta có dịp so sánh và đối chiếu với tình hình trong nước. Những khó khăn thử thách chung của loài người, điểm hạn chế của mỗi dân tộc, vị thế thực sự của đất nước mình trên trường thế giới. Có đi các nước khác ta mới có cơ hội để tìm hiểu thế giới, để học hỏi từ năm châu, trưởng thành và phát triển lên, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước. Ngoài ra, ta còn có được cái nhìn rộng mở, khoan dung hơn, chứ không chỉ bó hẹp với tư duy cục bộ địa phương.

Thứ năm, thế giới to và rộng thế, tại sao lại giới hạn bước chân mình chỉ ở Việt Nam. Bản thân Việt Nam đi cũng chẳng biết bao giờ hết. Nhưng Việt Nam thì dễ đi, ngôn ngữ lại đồng nhất, miền này và miền nọ dù có khác nhau cũng không thể bằng sự khác nhau giữa các quốc gia. Và nước Việt ta là một đất nước nhỏ bé và đang phát triển, thế giới thì lại rộng lớn vô cùng, có bao nhiêu đất nước phát triển hơn ta. Vậy còn trẻ, còn máu khám phá, còn sức khỏe, còn nhiều thời gian, sao không đi xa nhất mà mình có thể?

Tại sao nên bắt đầu với Đông Nam Á?

Một, sinh hoạt phí ở các quốc gia Đông Nam Á khá rẻ, nhiều nước có mức sống và giá cả từ thấp hơn đến tương đương Việt Nam như Lào, Campuchia, Phillipines, Indonesia, và Thái Lan. Chỉ có Malaysia và Singapore là có mức giá cao hơn Việt Nam.

Hai, Đông Nam Á có địa hình rất thuận lợi cho du lịch bụi. Thực tế là khu vực này luôn là điểm đến không thể bỏ qua cho dân lữ hành khắp nơi trên thế giới. Anh bạn người Chile của tôi nói rằng, Trung Quốc quá rộng lớn và khó đi, châu Âu khá đồng nhất và tẻ nhạt, nhưng Đông Nam Á thì lại đầy màu sắc và mùi vị.

Trong một khu vực nhỏ bé mà có bao nhiêu là quốc gia, bao nhiêu là dân tộc khác nhau, chỉ cần di chuyển không xa là có thể tiếp cận một nền văn hóa mới, một dân tộc mới. Sự đa dạng về chủng tộc và văn hóa nơi đây chính là điều hấp dẫn dân du lịch. Bởi vậy dân du lịch phương Tây lũ lượt đổ đến Đông Nam Á. Đường Sài Gòn vào mùa hè có biết bao các anh chàng, cô nàng ba lô lang thang khắp nơi.

Thứ ba, khi có trong tay hộ chiếu Việt Nam, bạn đang sở hữu một lợi thế lớn khi đi du lịch quanh Đông Nam Á, đó là không phải xin thị thực khi bạn đến các quốc gia trong khu vực. Kể từ khi Myanmar miễn thị thực cho công dân Việt Nam vào tháng Mười năm 2013, giờ đây, bạn có thể đi du lịch mười nước Đông Nam Á và được miễn thị thực từ mười bốn đến ba mươi ngày tùy nước.

Thứ tư, có dấu xuất nhập cảnh của nhiều quốc gia là cách để tăng mức tín dụng cho hộ chiếu của bạn, tạo cơ hội để bạn đi được xa hơn, đến những quốc gia phát triển hơn. Nếu bạn có một hộ chiếu với toàn những trang giấy trắng, ngay cả khi khả năng tài chính của bạn dư dả hay được người bảo lãnh, chưa chắc bạn đã được cấp thị thực du lịch vào Mỹ, châu Âu hay Úc.

Sếp của bạn tôi, là giám đốc một công ty nước giải khát hàng đầu thế giới tại Việt Nam. Nhưng khi xin thị thực đi du lịch Mỹ, anh lại bị lãnh sự quán Mỹ từ chối. Họ xem hộ chiếu của anh, thấy anh chỉ mới có dấu nhập cảnh vào Singapore và Thái Lan, thì trả lại hộ chiếu và bảo: “Anh nên về đi du lịch thêm đi” rồi từ chối cấp thị thực.

Do vậy, nếu muốn du lịch bụi, và muốn đặt chân đến những vùng đất hào nhoáng như châu Âu hay Mỹ, thì cần phải xây dựng một lịch sử xuất nhập cảnh dày dạn, trước khi nghĩ tới việc nộp đơn xin thị thực ở những xứ sở đó. Bạn cần chứng minh là mình đã đi nhiều nơi, mình đều quay về đúng hạn, và mình không thiết tha gì việc trốn ở lại đất nước nào cả. Và còn nơi nào lý tưởng hơn để sưu tập con dấu cho hộ chiếu của bạn bằng các đất nước láng giềng.

 

Rosie Nguyen

Hãy thôi tiếc thương và hèn nhát

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Có ai để ý rằng Đảng Cộng Sản nói chủ trương của họ là hòa giải dân tộc nhưng mỗi năm đến ngày 30-4 họ lại tổ chức ăn mừng, kỷ niệm rầm rộ ngay từ đầu tháng 4 không? Đó là lý do tôi muốn viết bài này…

Sự thật

Bốn mươi năm, ngày hai miền thôi chia cắt, ngày không còn tiếng súng trên quê hương. Bên thắng cuộc tuyên bố hòa giải dân tộc, nhưng trong thực tế thì sao?

Những người chiến binh cả hai bên khi xưa giờ thế nào? Kẻ thua cuộc thì nhận tù đày cải tạo rục xương, gia đình con cháu họ dù có học hành giỏi mà trong lý lịch ghi “cha là lính VNCH trước 1975” thì cũng coi như bỏ. Gần một triệu quân cán chính miền Nam trước năm 1975 bị tù đày, sát hại. Những chiến binh nón tai bèo, nón cối, những người từng sống dở chết dở trên dãy Trường Sơn, trên đường mòn Hồ Chí Minh giúp Đảng Cộng Sản miền Bắc đánh thắng miền Nam hỡi ôi! Họ được gì? Được cấp giấy khen, mấy huy chương bằng đồng để treo cho nó oai. Họ từ từ bị bỏ rơi, uất ức quá nhiều người xin phục viên, không được hưởng chế độ đãi ngộ.

Còn dân miền Nam tự do. Sau khi giải phóng, tại sao hơn 800.000 người lại bỏ xứ ra đi, dù biết có thể sẽ bỏ mạng nơi biển khơi? Tại sao họ gọi ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” là ngày Quốc Hận? Tại sao họ lại thương nhớ, tiếc nuối một chế độ được quy chụp là thối nát Ngụy quân, ngụy quyền? Câu trả lời xin được gói gọn trong câu nói của bà Dương Thu Hương – một nữ văn sĩ miền Bắc theo đoàn quân của Bắc Việt vào Sài Gòn thời điểm tháng 4 năm 1975:

“Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…”

Hãy thôi tiếc thương và hèn nhát

Tôi nhớ câu nói của Karl Marx:

“Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại.”

Ngày nay, cả thế giới đều lên án Marx, những nước một thời từng lấy chủ nghĩa Marx soi đường bây giờ cũng đã từ bỏ, chỉ còn một vài nơi lấy Marx làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên của Marx, với tôi vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Marx đã luôn luôn làm ngược lại với lời nói này của Marx.

Bạn có đồng ý với tôi rằng những triều đại đã mục nát, vua quan ăn chơi sa đọa, để dân thống khổ có nên bị lật đổ không hay chúng ta là người dân cứ chịu đựng mãi như hiện nay? Nếu không thì chắc lịch sử đã không có những nhân vật như Lê Lợi, Quang Trung.

Người Việt hải ngoại nhân lực và khả năng tài chính khá mạnh nhưng chỉ đấu tranh bằng miệng, bằng văn nghệ. Cứ ôm lấy cái dĩ vãng đau buồn mà không chịu tranh đấu trực diện thì vô phương lật đổ được cái chế độ mục nát này.

Còn người yêu nước trong nước thì không liên kết được với nhau, không có khả năng tài chính, chỉ biết tranh đấu trên internet. Để rồi khi ngư dân của chúng ta bị Trung Quốc đem tàu hải giám xâm phạm lãnh hải, bắt cóc đòi tiền chuộc và giết hại, đa số chỉ biết lặng câm khi đọc trên báo hoặc nghe những người phát ngôn của chính phủ gọi là “tàu lạ”. Hãy cùng nhau đứng lên phản đối như vụ chặt cây xanh ở Hà Nội vừa rồi. Sức mạnh quan trọng của chúng ta là ở chỗ có chung lòng đoàn kết vì chính nghĩa hay không.

Tôi chắc chắn một điều: Chỉ có cái chính nghĩa tồn tại mãi với thời gian. Người Việt hải ngoại hãy chôn chặt cái quá khứ đau thương và sai lầm đó lại, hỗ trợ cho người Việt trong nước. Người Việt trong nước đã đến lúc thôi hèn nhát đứng lên tranh đấu với cái xấu, cái bất công, cái sai của chế độ này. Đừng như những con cừu thỏa hiệp với quỷ nữa, chính chúng ta và con cháu chúng ta sau này sẽ là nạn nhân tiếp theo của nó đó!

Lời kết

Năm năm sau 1975, Chế Linh viết Tôi Đã Hát, Sẽ Hát, Ta Phải Hát.

Hai mươi năm sau 1975, Phan Văn Hưng viết Hai Mươi Năm.

Hai mươi lăm năm sau 1975, Heart2Exist viết Tôi Là Ai và Chỉ Là Người Hát Nhạc Rap.

Ba mươi bảy năm sau 1975, Việt Khang viết Việt Nam Tôi Đâu và Anh Là Ai.

Bốn mươi năm sau 1975, Nah – Nguyễn Văn Sơn viết DMCS.

Năm mươi năm sau hoặc có thể lâu hơn nữa, tất cả người Việt chúng ta trên thế giới sẽ hát chung tự hào một bài Quốc Ca Việt Nam. Tôi tin chắc chắn là sẽ có một ngày như vậy.

 

Hồ Nhất Duy

Thị trường và đạo đức (kỳ cuối)

 

 

Mario Vargas Llosa – Nền văn hóa của tự do

Những cuộc công kích hiệu quả nhất nhằm chống lại quá trình toàn cầu hóa thường lại không phải là những cuộc công kích liên quan tới kinh tế học. Mà là những cuộc công kích về mặt xã hội, đạo đức, và trên hết là lĩnh vực văn hóa. Những luận cứ này từng nổi lên trong những vụ lộn xộn ở Seattle vào năm 1999 và lại vang lên ở Davos, ở Bangkok, và Prague trong thời gian gần đây. Họ nói như sau:

Sự biến mất của các đường biên giới quốc gia và giới quyền uy trên thế giới gắn bó với thương trường sẽ giáng những đòn chí tử vào nền văn hóa khu vực và quốc gia, vào truyền thống, thói quen, truyền thuyết và tập tục, tức là những thứ quyết định bản sắc văn hóa của đất nước và khu vực. Vì đa số các nước và các khu vực trên thế giới không đủ sức chống lại sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa từ các nước đã phát triển – mà cụ thể là từ siêu cường Mĩ – nước chắc chắn sẽ mở đường cho các công ty đa quốc gia cực kỳ lớn, nền văn hóa Bắc Mĩ cuối cùng sẽ buộc người ta phải chấp nhận nó, nó sẽ định ra tiêu chuẩn cho thế giới và xóa sổ sự đa dạng của những nền văn hóa khác nhau.

Theo cách này, tất cả các dân tộc, chứ không chỉ các dân tộc nhỏ và yếu, sẽ đánh mất bản sắc, sẽ đánh mất tâm hồn mình và chỉ còn các thuộc địa trong thế kỷ XXI – những thây ma hay những hình nộm được làm theo những tiêu chuẩn văn hóa của chủ nghĩa thực dân mới, đấy là chủ nghĩa thực dân mà ngòai việc cai trị thế giới bằng đồng vốn, sức mạnh quân sự và kiến thức khoa học của nó, còn áp đặt cho người ta ngôn ngữ, cách tư duy, niềm tin, thú vui và ước mơ của nó nữa.

Cơn ác mộng hay là điều hoang tưởng theo nghĩa tiêu cực về một thế giới mà do toàn cầu hóa đang đánh mất dần sự đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ, đang bị Mĩ xâm lược về mặt văn hóa không chỉ là địa hạt của các chính trị gia tả khuynh, luyến tiếc Marx, Mao hay Che Guevara. Cơn mê sảng về việc bị ngược đãi – do lòng thù hận người khổng lồ Bắc Mĩ mà ra – còn được thể hiện rõ ở cả những nước đã phát triển và những dân tộc có nền văn hóa cao, được cả các nhóm tả, trung dung và hữu khuynh chia sẻ nữa.

Khét tiếng nhất là nước Pháp, ở đây chúng ta thường thấy chính phủ tung ra những chiến dịch nhằm bảo vệ “bản sắc văn hóa Pháp”, một nền văn hóa được cho là đang bị quá trình toàn cầu hóa đe dọa. Một lọat các nhà tri thức và chính trị gia Pháp lo lắng về khả năng là cái vùng đất từng sinh ra Montaigne, Descartes, Racine, và Baudelaire – và đất nước đã có một thời gian dài từng là người đưa ra tiếng nói cuối cùng về thời trang, tư duy, nghệ thuật, ẩm thực và về tất cả những lĩnh vực tinh thần khác – có thể bị những McDonald’s, Pizza Hut, Kentucky Fried Chicken, rock, rap, và phim ảnh của Hollywood, quần bò, bánh sneakers, áo T-shirts xâm lấn.

Nỗi sợ này đã dẫn tới, thí dụ, những khỏan tài trợ rất lớn của Pháp cho ngành công nghiệp điện ảnh và đòi hỏi các rạp chiếu bóng phải chiếu một số lượng phim trong nước và hạn chế nhập phim Mĩ. Nỗi sợ này còn là lý do vì sao các chính quyền địa phương ban hành những quy định xử phạt nặng những băng rôn quảng cáo làm ô uế ngôn ngữ của Molière bằng những từ ngữ tiếng Anh. (Mặc dù, nếu nhìn vào vỉa hè các đường phố ở Paris thì thấy rằng những quy định như thế cũng không được người ta tôn trọng cho lắm). Đấy là lý do vì sao José Bové, một điền chủ có thái độ bài xích các món ăn tạp nham (ngụ ý thức ăn nhanh của Mĩ – ND) đã trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Pháp. Và việc ông ta bị bắt giam ba tháng trong thời gian gần đây có vẻ như chỉ làm cho ông ta nổi tiếng thêm mà thôi.

Nhưng tôi tin rằng luận cứ chống toàn cầu hóa như thế là không thể chấp nhận được, chúng ta phải công nhận rằng nó ẩn chứa một sự thật không thể bác bỏ được. Trong thế kỷ này, cái thế giới chúng ta sống sẽ kém sinh động và không có nhiều màu sắc như là cái thế giới mà chúng ta đã bỏ lại phía sau. Những buổi lệ hội, đồ trang sức, phong tục, nghi lễ, nghi thức và tín ngưỡng, tức là những thứ đã tạo cho nhân lọai sự khác biệt mang màu sắc dân tộc và văn hóa dân gian, đang dần dần biến mất hoặc sẽ thu mình vào trong những nhóm thiểu số, trong khi phần lớn xã hội từ bỏ chúng và chấp nhận những thứ khác, phù hợp hơn với thời đại của chúng ta.

Tất cả các nước trên thế giới đang trải qua quá trình này, nhanh chậm khác nhau, nhưng đấy không phải là do toàn cầu hóa. Mà đấy là do quá trình hiện đại hóa, toàn cầu hóa là kết quả chứ không phải là nguyên nhân. Có thể khóc than, dĩ nhiên là như thế, rằng quá trình này đang diễn ra và có thể nuối tiếc về cuộc sống của một thời đã qua, mà với những tiện nghi của ngày hôm nay dường như đấy là cuộc sống vui vẻ, độc đáo và đầy màu sắc. Nhưng đây là quá trình không thể nào tránh được.

Những chế độ toàn trị như Cuba hay Bắc Hàn sợ rằng mở cửa sẽ là tự sát, họ tìm cách bế quan tỏa cảng, ban hành đủ thứ quy định kiểu cấm đóan và chỉ trích hiện đại hóa. Nhưng ngay cả những nước đó cũng không ngăn cản được sự thẩm thấu một cách từ từ của quá trình hiện đại hóa và nó sẽ gặm nhấm dần cái gọi là bản sắc văn hóa của họ.

Về lý thuyết, một đất nước có thể giữ được bản sắc của mình, nhưng với điều kiện là họ phải sống trong tình trạng cô lập hoàn toàn, chấm dứt mọi trao đổi với các dân tộc khác và thực hiện một nền kinh tế tự cấp tự túc – giống như một vài bộ lạc ở châu Phi hay những bộ lạc sống trong rừng già Amazon vậy. Bản sắc văn hóa dưới hình thức như thế sẽ đưa xã hội trở lại với cách sống của thời tiền sử.

Đúng là hiện đại hóa làm cho nhiều lối sống truyền thống không thể tồn tại được. Nhưng đồng thời nó lại mở ra cơ hội và làm cho cả xã hội tiến những bước quan trọng về phía trước. Đấy là lý do vì sao khi có cơ hội tự do lựa chọn quần chúng lại ủng hộ hiện đại hóa mà không hề có chút lưỡng lự nào, đôi khi họ còn phản đối điều mà các nhà lãnh đạo hay những người nệ cổ ủng hộ.

Những luận điệu nhằm chống lại toàn cầu hóa và ủng hộ bản sắc văn hóa tiết lộ cho ta thấy quan niệm tĩnh về văn hóa, một quan niệm không có cơ sở lịch sử. Nền văn hóa nào đã từng giữ mãi bản sắc và không thay đổi theo thời gian? Muốn tìm được những nền văn hóa như thế, chúng ta phải thâm nhập vào những cộng đồng tôn giáo ma thuật nguyên thủy và nhỏ bé, tức là những cộng đồng sống trong hang hốc, thờ thần sấm và thú dữ; và vì tính chất nguyên thủy như thế mà họ càng ngày càng dễ bị bóc lột và hủy diệt.

Tất cả những nền văn hóa khác, nhất là những nền văn hóa có quyền được gọi là hiện đại và sống động đều tiến hóa đến mức mà chúng chỉ còn là cái bóng mờ của nền văn hóa từng hiện diện cách đây vài ba thế hệ mà thôi. Sự tiến hóa này thể hiện rõ nhất ở các nước như Pháp, Tây Ban Nha và Anh, nơi đã diễn ra những thay đổi cực kỳ ngoạn mục và sâu sắc đến mức Marcel Proust, Federico García Lorca, hay Virginia Woolf khó mà có thể coi đây là những xã hội nơi họ đã ra đời – những xã hội mà tác phẩm của họ đã có đóng góp rất lớn trong việc làm cho chúng thay da đổi thịt.

Khái niệm “bản sắc văn hóa” là khái niệm nguy hiểm. Từ quan điểm xã hội thì đấy có thể chỉ là quan niệm nhân tạo và đáng ngờ, nhưng từ viễn cảnh chính trị thì nó đe dọa ngay thành tựu quí giá nhất của nhân loại: quyền tự do. Tôi không phủ nhận rằng những người nói cùng một ngôn ngữ, sinh ra và sống trên cùng một vùng lãnh thổ, phải giải quyết những vấn đề giống nhau, theo những phong tục và tôn giáo như nhau, có những đặc điểm như nhau. Nhưng tính chất chung đó không bao giờ có thể xác định được đầy đủ đặc tính của từng người, nó chỉ xóa bỏ hoặc đẩy tất cả những tính chất và đặc điểm đơn nhất, tức là những đặc điểm làm người nọ khác biệt với người kia, xuống hàng thứ yếu mà thôi.

Quan niệm bản sắc, khi không được áp dụng cho từng cá nhân riêng biệt, là một quan niệm đã được đơn giản hóa và phi nhân tính, nó là sự trừu tượng hóa mang tính ý thức hệ và tinh thần tập thể của tất cả những gì là độc đáo và sáng tạo trong mỗi con người, của tất cả những gì không được áp đặt bởi di sản, nơi sinh hay áp lực xã hội. Mà sự thật là, bản sắc xuất phát từ khả năng của con người trong việc chống lại những ảnh hưởng đó và phản công lại với chúng bằng những hành động tự do theo sáng kiến của riêng mình.

Khái niệm “bản sắc tập thể” là khái niệm hưu cấu mang tính ý thức hệ và là nền tảng của chủ nghĩa dân tộc. Nhiều nhà nhân chủng học và nhân loại học cho rằng ngay cả các cộng đồng cổ xưa nhất cũng không có bản sắc tập thể. Những thói quen và phong tục được nhiều người chia sẻ có thể là những điều tối cần thiết đối với việc bảo vệ cả nhóm người, nhưng sự cách biệt về khả năng sáng tạo và sáng kiến giữa các cá nhân – điều kiện để họ tách biệt khỏi nhóm – bao giờ cũng khá lớn, và khi các cá nhân được thử thách theo những khả năng của riêng họ thì những khác biệt của từng người sẽ lấn át những đặc tính chung, chứ không chỉ là những thành tố ngoại vi của tập thể nữa.

Toàn cầu hóa mở rộng một cách căn bản khả năng của tất cả các công dân trên hành tinh này, nó tạo điều kiện cho họ thông qua những hành động tự nguyện mà tạo dựng bản sắc văn hóa của riêng mình, phù hợp với sở thích và động cơ thầm kín của họ. Bây giờ người công dân không phải lúc nào cũng phải – như trong quá khứ và ở nhiều nơi hiện nay – tôn trọng bản sắc nhưng trên thực tế là làm cho họ mắc kẹt vào trại tập trung không thể nào thoát ra được – đấy là bản sắc được áp đặt lên mỗi người thông qua ngôn ngữ, dân tộc, nhà thờ, thói quen của vùng đất nơi họ ra đời. Theo nghĩa này thì ta phải hoan nghênh toàn cầu hóa vì nó mở rộng một cách đáng kể chân trời cho tự do cá nhân.

Hai lịch sử của cùng một lục địa

Châu Mĩ Latin có thể là thí dụ tốt nhất của những thủ đoạn và sự phi lý của việc cố tình thiết lập bản sắc tập thể. Cái gì có thể là bản sắc văn hóa của châu Mĩ Latin? Phải đưa những gì vào cái tập hợp những tín điều, phong tục, truyền thống, thói quen và những câu chuyện cổ tích để thể hiện rằng khu vực này có một tính cách duy nhất, không ai có và không chuyển nhượng được? Lịch sử của chúng ta được trui rèn trong những cuộc tranh luận trí tuệ – đôi khi quyết liệt – nhằm tìm cho ra đáp án cho câu hỏi đó. Đáp án nổi bất nhất là đáp án của những người lấy Tây Ban Nha làm trung tâm[i] đưa ra trong cuộc đấu trí với những người ủng hộ văn hóa bản địa và có ảnh hưởng trên khắp lục địa ngay từ những năm đầu thế kỷ XX.

Đối với những người lấy Tây Ban Nha làm trung tâm như José de la Riva Agüero, Victor Andrés Belaúnde, và Francisco García Calderón thì Mĩ Latin hình thành khi – nhờ quá trình phát hiện và chinh phục – nó gặp ngôn ngữ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, chấp nhận Thiên chúa giáo và trở thành một phần của nền văn minh phương Tây. Những người lấy Tây Ban Nha làm trung tâm không coi thường những nền văn hóa tiền-Tây Ban Nha, nhưng họ coi đấy chỉ là một lớp chứ không phải là cốt lõi của hiện thực xã hội và lịch sử, phải nhờ ảnh hưởng của phương Tây mà nó mới hoàn thiện được bản chất và tính cách của mình.

Mặt khác, những người ủng hộ văn hóa bản địa lại cực lực bác bỏ những lợi ích mà có người cho rằng người châu Âu đã mang tới Mĩ Latin. Theo họ, bản sắc của chúng ta có nguồn gốc và linh hồn trong nền những nền văn hóa và văn minh tiền-Tây Ban Nha, quá trình phát triển và hiện đại hóa của nó đã bị kìm hãm bằng bạo lực và là đối tượng của kiểm duyệt, đàn áp và đẩy ra ngoài lề không chỉ trong suốt ba thế kỷ thuộc địa mà còn cả sau này, tức là sau khi có chế độ cộng hòa nữa.

Theo những tư tưởng gia ủng hộ văn hóa bản địa thì “Biểu hiện Mĩ” (tên một tác phẩm của José Lezama Lima) nằm ở tất cả những biểu hiện mang tính văn hóa – từ ngôn ngữ bản xứ tới đức tin, nghi lễ, nghệ thuật và tập tục của nhân dân – nhằm chống lại sự áp chế về mặt văn hóa của phương Tây và còn tồn tại cho đến ngày nay. Ông Luis E. Valcárcel, một nhà sử học nổi tiếng của Peru, thậm chí còn khẳng định rằng cần phải đốt bỏ tất cả các nhà thờ, các nhà tu và tượng đài theo phong cách kiến trúc thuộc địa vì chúng thể hiện tinh thần “bài-Peru”.

Chúng là những kẻ giả hình, là sự phủ nhận bản sắc nguyên thủy của châu Mĩ, một bản sắc có nguồn gốc hoàn toàn bản địa. Và ông José María Arguedas, một trong những tiểu thuyết gia độc đáo nhất của Mĩ Latin đã xây dựng được – trong những câu chuyện cực kỳ duyên dáng và đầy tinh thần phản kháng – bản anh hùng ca về tàn tích của nền văn hóa Cuechua trong dãy núi Andes, mặc dù đã bị phương Tây chẹn họng và làm cho méo mó đi.

Những người thân Tây Ban Nha cũng như những người ủng hộ văn hóa bản địa đã viết được những tác phẩm lịch sử tuyệt vời và những cuốn tiểu thuyết đầy tinh thần sáng tạo, nhưng nếu xét theo bối cảnh của chúng ta ngày hôm nay thì cả hai học thuyết này đều là những học thuyết mang tính bè phái, giản lược và sai lầm. Không bên nào đủ sức nhồi nhét sự đa dạng đang gia tăng của châu Mĩ Latin vào những khuôn khổ ý thức hệ của họ, và cả hai bên đều sặc mùi phân biệt chủng tộc.

Hiện nay ai còn dám tuyên bố rằng chỉ có những cái mang “phong cách Tây Ban Nha” hoặc “da đỏ” mới có quyền đại diện hợp pháp cho Mĩ Latin? Thế mà hiện nay những cố gắng nhằm trui rèn và phân lập “bản sắc văn hóa” đặc thù của chúng ta vẫn được tiếp tục thực hiện với lòng nhiệt tình chính trị và tri thức đáng lẽ nên dành cho những công việc xứng đáng hơn. Tìm cách áp đặt bản sắc văn hóa cho quần chúng nhân dân cũng chẳng khác gì nhốt họ vào tù và không cho họ được hưởng một trong những quyền tự do quý giá nhất – đấy là quyền lựa chọn: họ muốn thành người như thế nào, và bằng cách nào? Châu Mĩ Latin không có một mà có nhiều bản sắc văn hóa, không có bản sắc nào có thể tuyên bố là hợp pháp hơn hay trong sạch hơn những bản sắc khác.

Dĩ nhiên là Mĩ Latin bao hàm trong nó cả thế giới tiền-Tây Ban Nha lẫn các nền văn hóa của nó, những nền văn hóa đó còn giữ được sức mạnh xã hội đáng kể ở các nước như Mexico, Guatemala, và các nước vùng Andes. Nhưng Mĩ Latin c̣n là rất đông người nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, với truyền thống của năm thế kỷ ở sau lưng, sự hiện diện và hành động của họ có ý nghĩa quyết định trong việc định hình những đặc điểm hiện nay của châu lục. Và chả lẽ Mĩ Latin không phải là một phần của châu Phi, châu lục đã đến bến bờ của chúng ta cùng với châu Âu hay sao?

Không phải sự hiện diện của châu Phi đã tạo ra làn da, âm nhạc, khí chất và xã hội của chúng ta hay sao? Những thành tố mang tính xã hội, sắc tộc và văn hóa làm nên Mĩ Latin đã liên kết chúng ta với hầu như tất cả các khu vực và các nền văn hóa trên thế giới. Chúng ta có nhiều bản sắc văn hóa đến nỗi tưởng như chẳng hề có một bản sắc nào hết. Thực tế đó – trái ngược với niềm tin của những người dân tộc chủ nghĩa – là tài sản quí báu nhất của chúng ta. Đấy cũng là phẩm chất tuyệt vời, làm cho chúng ta cảm thấy mình là những công dân đầy đủ tư cách trong thế giới toàn cầu hóa này.

Giọng điệu địa phương, lan tỏa toàn cầu

Sợ Mĩ hóa toàn bộ hành tinh là hoang tưởng mang tính ý thức hệ chứ không phải là thực tế. Dĩ nhiên là không nghi ngờ gì rằng cùng với quá trình toàn cầu hóa, tiếng Anh sẽ trở thành ngôn ngữ phổ biến trong thời đại của chúng ta, cũng như tiếng Latin trong thời Trung Cổ vậy. Nó sẽ còn tiếp tục vươn lên vì đấy là phương tiện không thể thiếu được trong giao dịch và thông tin quốc tế. Nhưng điều đó có nghĩa là tiếng Anh nhất thiết sẽ phát triển, sẽ gây thiệt hại cho các ngôn ngữ lớn khác hay không?

Hoàn toàn không. Trên thực tế, ngược lại mới đúng. Sự xóa nhòa các đường biên giới và thế giới ngày càng tương thuộc lẫn nhau hơn đã và đang khuyến khích các thế hệ trẻ học và đồng hóa với những nền văn hóa khác, đấy không chỉ là sở thích mà còn là điều cần thiết, vì nói được vài thứ tiếng và thích ứng một cách dễ dàng trong những nền văn hóa khác nhau đã trở thành yếu tố quyết định cho sự thăng tiến trong nghề nghiệp.

Hãy xem xét trường hợp tiếng Tây Ban Nha. Nửa thế kỷ trước những người nói tiếng Tây Ban Nha là cộng đồng hướng nội, chúng ta cho rằng mình chẳng có mấy cơ hội ở bên ngoài biên giới ngôn ngữ truyền thống. Hiện nay tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ năng động và có nhiều người dùng, nó đã chiếm được những thành tựu ban đầu hay thậm chí những vùng đất rộng lớn trên cả năm châu lục. Sự kiện là có từ hai mươi lăm đến ba mươi triệu người nói tiếng Tây Ban Nha ở Mĩ là nguyên nhân vì sao hai ứng viên tổng thống Mĩ gần đây – thống đốc Texas là George W. Bush và phó tổng thống Al Gore – tiến hành vận động tranh cử không chỉ bằng tiếng Anh mà còn dùng cả tiếng Tây Ban Nha nữa.

Có bao nhiêu triệu thanh niên nam nữ trên khắp hoàn cầu đã và đang phản ứng lại những thách thức của tòan cầu hóa bằng cách học tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Quan thọai, tiếng Quảng Đông, tiếng Nga hay tiếng Pháp? May thay, xu hướng này sẽ gia tăng trong những năm sắp tới. Đấy là lý do vì sao cách bảo vệ tốt nhất nền văn hóa và ngôn ngữ của chúng ta là nỗ lực quảng bá chúng trên khắp thế giới chứ không phải cứ vờ vịt tìm cách làm cho nó miễn nhiễm với sự đe dọa của tiếng Anh. Những người đưa ra những biện pháp như thế là những người nói rất nhiều về văn hóa, nhưng đấy là những kẻ dốt nát, họ đang che dấu ý định thật sự của mình: chủ nghĩa dân tộc.

Đấy không phải là họ đang tranh luận về những xu hướng phổ quát của văn hóa, đấy là những cách nhìn thiển cận, lầm lẫn, biệt lập, mà những người có quan điểm dân tộc chủ nghĩa tìm các áp đặt lên đời sống văn hóa. Bài học tuyệt vời nhất mà văn hóa dạy cho chúng ta là nó không cần những quan chức hay các chính trị viên bảo vệ, cũng không cần che chắn sau song sắt hay dùng lực lượng hải quan để cách ly nhằm giữ cho nó sống và đơm hoa kết trái; ngược lại, những cố gắng như thế chỉ làm cho nó khô kiệt hoặc trở thành tầm thường mà thôi.

Văn hóa phải sống một cách tự do, phải thường xuyên va chạm với những nền văn hóa khác. Điều đó sẽ làm cho nó luôn luôn đổi mới, luôn luôn tái tạo, làm cho nó tiến hóa và thích ứng với dòng chảy liên tục của cuộc đời. Ngày xưa tiếng Latin đã không giết chết tiếng Hy Lạp; ngươc lại, sự độc đáo và chiều sâu trí tuệ của nền văn hóa Hy Lạp đã thẩm thấu vào nền văn minh La Mã và nhờ nó mà những bản trường ca của Homer và triết lý của Plato và Aristotle mới vươn ra khắp thế giới.

Tòan cầu hóa không xóa bỏ các nền văn hóa khu vực, trong không gian bao la của cả hòan vũ, tất cả những gì có giá trị và đáng sống trong những nền văn hóa khu vực sẽ tìm thấy những mảnh đất màu mỡ để có thể đơm hoa kết trái.

Điều đó đã diễn ra trên khắp châu Âu. Đặc biệt đáng ghi nhận là ở Tây Ban Nha, ở đây những nền văn hóa địa phương đang tái xuất hiện với một sức mạnh đặc biệt. Dưới chế độ độc tài của tướng Francisco Franco, những nền văn hóa địa phương bị đàn áp và buộc phải sống trong vòng bí mật. Nhưng cùng với sự trở về của chế độ cộng hòa, sự đa dạng của nền văn hóa đã được cởi trói và được tự do phát triển. Ở những khu vực tự trị, văn hóa địa phương càng phát triển mạnh, đặc biệt là ở Catalonia, Galicia, và xứ Basque; các khu vực khác ở Tây Ban Nha cũng đều như thế cả. Nhưng dĩ nhiên là chúng ta không được đánh đồng sự hồi sinh của văn hóa khu vực – một hiện tượng tích cực và làm cho đời sống ngày càng phong phú thêm – với chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc sẽ tạo ra những mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền văn hóa của tự do.

Trong tác phẩm nổi tiếng: Góp phần định nghĩa văn hóa (Notes Towards the Definition of Culture) xuất bản năm 1948, T.S. Eliot đã dự đóan rằng trong tương lai, nhân lọai sẽ được chứng kiến sự phục hưng của những nền văn hóa địa phương và khu vực. Lúc đó, đấy là một lời tiên đóan quá táo bạo. Nhưng tòan cầu hóa có vẻ như sẽ làm cho nó trở thành hiện thực trong thế kỷ XXI và chúng ta nên vui mừng vì chuyện đó. Sự phục sinh của những nền văn hóa nhỏ bé, mang tính khu vực sẽ trả lại cho nhân lọai sự đa dạng trong cách thể hiện và hành vi mà cuối thế kỷ XVII và đặc biệt là trong thế kỷ XIX các quốc gia-dân tộc đã từng hủy bỏ nhằm tạo ra cái gọi là bản sắc văn hóa. (Sự kiện này đã dễ dàng bị lãng quên hay chúng ta tìm cách lãng quên vì những ẩn ý mang tính đạo đức sâu sắc của nó).

Các nền văn hóa dân tộc thường được trui rèn trong máu lửa, nó cấm đóan giảng dạy và xuất bản các tác phẩm viết bằng thổ ngữ hay cấm đóan thực hành các tôn giáo và tục lệ khác biệt với những tôn giáo và tục lệ được quốc gia-dân tộc coi là lý tưởng. Bằng cách đó, các quốc gia-dân tộc tại nhiều nước trên thế giới đã áp đặt nền văn hóa ưu trội lên các nền văn hóa địa phương, văn hóa địa phương bị đàn áp và bị lọai bỏ khỏi đời sống chính thức. Nhưng, trái ngược với những cảnh báo của những người sợ tòan cầu hóa, không dễ gì xóa bỏ một nền văn hóa – dù nó có nhỏ đến đâu – nếu đằng sau nó là một truyền thống phong phú và có những người thực hành nó, dù là thực hành một cách bí mật. Và hôm nay, nhờ có sự suy yếu của quốc gia-dân tộc, chúng ta mới được nhìn thấy sự tái xuất hiện của những nền văn hóa đã từng bị lãng quên, bị đẩy ra bên lề và vị bóp nghẹt và thể hiện một đời sống năng động trong sự hài hòa vĩ đại của hành tinh tòan cầu hóa này.

Mario Vargas Llosa là tiểu thuyết gia và trí thức nổi tiếng thế giới. Năm 2010 ông được trao giải Nobel văn chương vì “những thành tựu trong việc mô tả cơ cấu của quyền lực và những hình tượng sắc bén về sự kháng cự, nổi dậy và thất bại của cá nhân con người”. Ông là tác giả của những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng như: Bữa tiệc của con dê (The Feast of the Goat), Cuộc chiến của ngày tận thế (The War of the End of the World), Cô Julia và người viết kịch bản (Aunt Julia and the Scriptwriter), Cô gái không ra gì (The Bad Girl), Cuộc đời thực của Alejandro Mayta (The Real Life of Alejandro Mayta), và nhiều cuốn khác.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://studentsforliberty.org/college/the-morality-of-capitalism/


 

[i] Dịch thoát ý từ Hispanists, thực ra là nói về cả Tây Ban Nha lẫn Bồ Đào Nha.

 

 

Chuyện áo dài và tuổi trẻ

 Featured Image: Khánh Khánh

 

Sáp vuốt tóc Gatsby làm những ngón tay tôi dính dính khi chúng lướt qua đường rẽ ngôi trên đầu. Ngón tay tôi miết một dải quanh đường dọc ngôi trái, rồi chải hết phần tóc phía trên sang bên phải. Hai bên đầu từ tai trở lên cạo đinh dựng đều, sờ vào ráp ráp. Được rồi, bảnh bao đó, ít nhất là trong gương. Nhìn kỹ hơn một tí, một hàng ria mép cong cớn vắt chềnh ềnh qua môi tôi. Tôi đã mất hơn nửa tiếng xoay lấy xoay để trước gương nhưng một cái gì đó luộm thuộm cứ chực xổ ra. Nào thì cạo râu.

Ngày Áo dài duy nhất trong đời tôi bắt đầu như thế. Hàng năm vào một ngày đầu tháng tư, học sinh khối 12 sẽ có vài giờ mà tất cả nữ sinh tha thướt trong áo dài còn nam sinh sẽ được lịch lãm trong Âu phục. Chúng tôi rậm rịch chuẩn bị cho ngày này cẩn thận. Hôm nay sẽ để lại những bức ảnh đẹp đẽ nhất của chúng tôi, những người vừa chạm 18 tuổi.

Tuần trước, vài đứa con trai đã sắm xong âu phục, mua cà vạt, có đứa còn chuẩn bị cả giày độn đế. Tôi có hai bộ suit đen bố mua cho hồi lớp 10, đến giờ đã ngắn choằn. May đo chẳng kịp, tôi bèn mượn tạm bộ đồ của bố, loay hoay là lượt rồi treo vào trong bao. Cà vạt tôi nhờ bố thắt sẵn treo trong tủ. Đôi giày da màu đen cỡ 42 được tôi bôi xi đánh sáng loáng, nhìn bóng, cứng như bộ giáp bọ hung.

Sáng nay lũ con gái lớp tôi mang áo dài đến lớp trải ra bàn cho phẳng, mang cả bàn là, đồ trang điểm. Chúng xúng xính cuốn lô mái, kẻ mắt, đánh phấn cho nhau. Mấy đứa bình thường nhìn luộm thuộm, bú rù hôm nay cũng học đòi uốn mi, chuốt mascara. Lớp nhìn ngộ nghĩnh quá! Không khí cứ cuống cuồng, bay mùi mỹ phẩm như cảnh hậu trường của một vở kịch. Chúng nó xoay vần như chong chóng hết từ bàn này đến bàn khác, hò hét nhau lấy cái kẹp, mượn cái son, y như mấy cái hoa xoay mòng mòng trong xoáy nước. Tôi biết ước muốn hình ảnh cuối trong trường tươm tất và đẹp của chúng nó còn mãnh liệt hơn tôi.

Tiết học cuối cùng kết thúc là lúc 5 thằng con trai chúng tôi bị đuổi ra khỏi lớp để đám con gái thay đồ. Những đưa con trai khối ngoại ngữ xếp hàng dài ở nhà vệ sinh thay đồ nhanh như chớp. Nhà vệ sinh trở thành một nhà máy mà đầu vào là những đứa con trai mặc áo đồng phục đi giày sneaker nhếch nhác, đầu ra là những quí ông tươm tất gọn gàng trong bộ vest và giày Tây.

Đứng cùng mấy đứa con trai khác, tôi bị màu trắng làm lóa mắt. Những bóng trắng trôi nhẹ nhàng khắp các góc sân trường. Tôi bắt gặp những tà áo bay lên theo chiều gió cuốn đọng lại những vệt trong không khí. Những nét chuyển động mơn man ấy khắc vào trong không gian xám xanh se lạnh của tiết tháng 3 hợp thành một bức tranh siêu thực. Tôi chợt bắt gặp trong mình một cảm xúc mông lung, bâng quơ như thể những tà áo dài đã giăng trong lòng tôi một lớp lụa mơ màng, đưa những suy nghĩ của tôi đi phiêu bạt. Cảnh tượng trước mắt tôi đẹp sững sờ nhưng không hề hoa lệ. Nó giản dị, thanh trong đầy thánh thiện. Nếu như tạo hình được khoảnh khắc và cảm xúc này, tôi sẽ kết nó lại thành những chùm ngọc lan trắng dịu dàng, thanh khiết, dù e ấp nhưng không giấu nổi hương thơm quyến rũ.

Bước lại gần hòa mình trong sắc trắng ấy, tôi nhận ra người mình đang nóng bừng. Một đứa con gái cùng lớp nhìn thấy tôi, kéo theo cả bầy lụa là tha thướt cuốn quanh tôi và lũ con trai để chụp ảnh. Mấy giờ trước thôi, chúng vẫn là những đứa con gái nói nhiều trong lớp, năng ăn quà, hay hò hét, chanh chua quát lác, mà giờ đã biến hóa thành giống loài mới toát ra ma lực làm hồn tôi lạc lối.

 

Áo dài làm chúng trở nên quyến rũ và khiến tâm tính chúng dịu dàng. Hai tà lướt thướt cần sự nâng niu cẩn thận và guốc cao gót làm chúng từ tốn lại. Những đường cong thiếu nữ vốn bị che lấp bởi áo quần đồng phục thùng thình nay được tôn lên rõ rệt. Đôi mắt chúng lóng lánh cái ngây thơ nhưng đuôi mắt hay cười lại giấu một tia nhìn sắc sảo. Khuôn miệng đầy đặn chỉ chực nở xòe, làm cho bao cái duyên được thể xổ lồng, thôi miên kẻ ngắm nhìn. Sao tôi chợt thấy cái áo vest chật chội, còn áo sơ mi của tôi nhàu nhĩ quá thể. Cà vạt tôi hình như đeo lệch còn cổ tay áo chưa cài cúc. Có ai nhận ra không?

Một đứa con gái lớp tôi đến gần khoác tay tôi, người bé nhỏ ghê gớm, đứng nép vào tôi chụp ảnh. Lưng tôi như dài quá thể, 1m80 này sao cồng kềnh quá nhỉ! Tay chân tôi thừa thãi, chẳng biết nhét vào đâu. Lúng túng, tôi đặt tay lên vai nó, chỗ cái áo cổ thuyền để chừa đôi xương quai xanh mảnh mai và một phần vai tròn trịa. Tay tôi vỡ vụn trước nỗi sợ làm tan biến đi dáng hình mỏng manh quá dịu dàng này. Những ngón tay run rẩy của tôi khi chạm vào người nó như đang khuấy động một mặt nước trong trẻo, tinh khiết. Nụ cười rúm ró cứng gượng của tôi có che dấu được nhịp đập thình thịch của cả cơ thể tôi không?

Cái đẹp đang e lệ nép vào mình tôi lúc này thật dễ vỡ. Vẻ đẹp ấy chỉ sống có giây phút này. Tôi chỉ có đúng khoảnh khắc này. Chỉ giờ sau chúng sẽ thay đổi, trên đường biến hóa thành loài khác. Tôi lún chìm trong khao khát có được cái hộp nhốt hết những cảm xúc và cái đẹp này để gặm nhấm về sau. Trong giây phút hiện tại, tôi không đủ to lớn để ôm hết được cái mênh mang của vẻ đẹp thanh tao đang khỏa lấp không gian. Sự tinh khiết quá đáng làm lòng tôi thấy mình thật nhỏ nhoi.

Trước sự diễm lệ ấy, tôi trở thành một đứa con trai lóng ngóng, vụng về. Có lẽ vai trò của con trai chúng tôi chính là làm chút điểm xuyết gượng gạo vào không gian trong ngần, tinh khôi này. Kết tinh của tuổi trẻ là đây. Chúng tôi sống cho những khoảnh khắc.

 

Khánh Khánh

Tôi bị nhiễm HIV, phần 2

Featured Image: Radoan_tanvir

 

Sống với HIV: Nỗi tức giận

Khi cơ thể bạn chất đầy nỗi đau đớn, bạn rất dễ trở nên giận dữ và khó kiềm chế. Và cuối cùng, nó sẽ trở thành những cơn thịnh nộ. Lúc đó, tôi thường đối phó với những vấn đề của mình bằng cách nổi điên. Bất cứ người nào thốt ra những câu nói mà tôi cho là khó chịu sẽ khiến tôi dường như muốn nổ tung, tự đấm tay vào tường, đập vỡ mọi thứ xung quanh hoặc làm những việc tương tự như vậy.

Nhưng tôi nhận ra rằng cơn giận có khả năng làm mờ tâm trí, khiến bạn hành động mù quáng. Tồi tệ hơn, cơn giận có thể làm tổn thương những người bạn yêu quý. Một cách tốt hơn để đối phó với các cơn đau là được khóc, bởi vì nước mắt không làm đau lòng ai và rồi sau đó, bạn sẽ thấy tâm trạng nhẹ nhõm và thoải mái hơn rất nhiều.

Nhưng vào một dịp khác, tôi đã trở nên quá ốm yếu và sụt cân khá nhanh. Tôi đã la hét, khóc váng và… nặng lời với Chúa. Tôi giang tay đấm mạnh vào bức tường trong phòng. Đúng lúc ấy, cha tôi đi tới. Ông đóng cửa phòng rồi điềm tĩnh nói với tôi: Con trai ạ, cha không thể giúp gì được con. Bác sĩ không thể giúp gì được con. Mẹ con không thể giúp gì được cho con. Bản thân con cũng chẳng thể làm gì. Nhưng chỉ có Chúa mới là người có thể giúp con vượt qua nỗi đau này. Ông nói xong rồi bước ra khỏi căn phòng mà chúng tôi đang đứng.

Sống với HIV: Tìm kiếm niềm tin

Sau đó, tôi đã ngừng “thở than” về Chúa, thậm chí là cầu xin sự giúp đỡ của Ngài bởi tôi biết mình không còn lựa chọn nào khác. May mắn thay, tôi đã lên cân và tế bào T đã quay lại ở ngưỡng 365. Điều đó là quá tốt. Tôi cảm thấy tuyệt vời và chỉ có thế là đủ.

Năm học mới đã đến. Tôi đang tìm kiếm phòng ký túc xá thì gặp một cậu bé cao gầy, tóc vàng đứng ở gần đó. Cậu kia bảo tôi: Trông cậu cũng khá đấy, có muốn ở chung phòng với tôi không? Lúc đó tôi trộm nghĩ: Cũng được, nhưng mà…..

Nhưng rồi sau đó, chúng tôi đã ở chung phòng với nhau và trở thành bạn tốt. Sau này, tôi phát hiện ra là người bạn cùng phòng của tôi là dân Kito Giáo. Thời đó, tôi nghĩ những gì liên quan đến Kito thực ra rất cố hữu, đạo đức giả và hay lên án người khác. Nhưng với bạn của tôi, anh ta có những suy nghĩ khác hơn. Giữa hai chúng tôi thực ra có quá nhiều điểm khác biệt.

Tôi phát hiện ra rằng anh bạn cùng phòng của tôi gặp phải hội chứng khó đọc. Lúc học bài, cậu ấy dường như gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc phát âm hoặc luôn phải “vật lộn” với các con chữ. Nhưng anh bạn này không giống như tôi là cứ đấm bùm bụp tay vào tường nhà hoặc phá vỡ các đồ vật. Khi ấy, cậu ta đang cố điềm tĩnh trở lại. Nhắm mắt, hít thở thật sâu và cầu nguyện, sau đó mới quay trở lại công việc của mình. Tôi đã từng ngạc nhiên vì tại sao cậu ta lại có thể điềm tĩnh đến vậy trong khi có thể phá bĩnh giống như tôi?

Người bạn cùng phòng mời tôi đến dự một kỳ nghỉ xuân với anh ta tại bờ biển Daytona. Ở đó, bạn tôi bắt đầu trò chuyện với những anh chàng khác ở gần chúng tôi bên bờ biển. Lúc đầu, đó chỉ là những câu chuyện phiếm. Nhưng sau đó, bạn tôi đã quyết định nói chuyện về những vấn đề nghiêm túc hơn, sâu sắc hơn.

Thật khó để chia sẻ “vấn đề” của mình với những người lạ mới quen trên bờ biển, nhất là khi biết rằng bản thân mình có thể chết ở tuổi thanh xuân như trường hợp của tôi. Bởi thế, tôi trở nên khá mờ nhạt trong cuộc hội thoại giữa những anh chàng này vì không muốn tham gia. Nhưng họ vẫn tiếp tục trò chuyện, anh bạn của tôi bắt đầu nói về niềm tin với Chúa. Tôi cũng luôn có một bức ảnh của Ngài nhưng không biết có nên đặt niềm tin vào đó hay không. Và tôi lắng nghe những gì họ nói….

Sống với HIV: Đối diện với nỗi sợ hãi

Những anh bạn trên bờ biển hôm đó đã nói rất nhiều về đức tin của mình với Chúa. Từ hôm đó, cuộc đời của tôi đã đổi sang một trang mới. Tôi không còn cảm giác khiếp sợ mỗi tối trước khi lên giường khi phải nghĩ rằng cái chết đang sắp sửa ập đến với mình vào một ngày nào đó không xa. Cái chết chưa hẳn đã là một điều gì đó xấu xa, gây sợ hãi. Cái chết chưa hẳn đã kết thúc bằng bóng tối hoặc bị bao phủ bởi bóng tối. Tôi đã có sự quyết định cho riêng mình. Khi tôi chết đi, tôi sẽ dành phần đời ấy của mình với tình yêu bao la của vũ trụ…..

Tôi chỉ còn sáu tháng để sống. Hãy thử tưởng tượng mà xem, điều đó quả thực đã gây khó khăn cho cha mẹ tôi biết nhường nào bởi họ đang bất lực khi nhìn thấy cái chết của con mình đang diễn ra từng ngày trước mặt họ. Họ không thể làm gì cả. Chúng tôi không thể làm gì cả. Và cuối cùng, chỉ bằng cách tất cả chúng tôi đều đặt niềm tin ở Chúa.

Khi ở trong những nỗi tuyệt vọng, bạn cần phải dũng cảm đối mặt với sự thật và biết tìm kiếm niềm tin ở khắp mọi nơi, kể cả trong những lời cầu nguyện. Bạn thành tâm tức là bạn đã bắt đầu mối quan hệ của mình với các Đấng tối cao hoặc một đức tin nào đó mà bạn đi theo…..

Steve Sawyer đã qua đời vào ngày 13/3/1999. Đây là câu chuyện có thật của một thanh niên đã phải đối diện với căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Chấp nhận sự thật và kiếm tìm niềm tin là cách tốt nhất giúp bạn vượt qua những khó khăn, đau khổ trong cuộc sống. Đó là cách mà Steve đã nhận ra và kể lại cho bạn.

 

Tâm Giao