24 C
Nha Trang
Chủ Nhật, 3 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 136

[Exclusive] Vì sao cách mạng ở Trung Quốc đã bắt đầu?

Đối với một tổ chức chính trị được lập ra để duy trì những cuộc cách mạng, Đảng Cộng sản Trung Quốc, trớ trêu thay, lại trở nên sợ hãi trước những cuộc cách mạng. Nhưng các cuộc cách mạng đã và vẫn đang được triển khai tại Trung Quốc, các bước tiếp theo của các cuộc cách mạng đang dần dà được tiến hành.

Một trong các mâu thuẫn chủ yếu của chế độ hiện nay chính là mối quan hệ giữa hệ tư tưởng khi mới thành lập Đảng với những thực trạng trái ngược ở hiện tại. Học sinh Trung Quốc bắt buộc phải tham gia các lớp học chính trị về chủ nghĩa Marx (hoặc ít nhất là phiên bản chủ nghĩa Marx của Đảng Cộng sản Trung Quốc), Tư tưởng Mao Trạch Đông, Lý luận Đặng Tiểu Bình, và rất nhiều những tư tưởng, lý luận của những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản khác.

Sự thật là, những kẻ giàu có và quyền lực ở Trung Quốc được hưởng rất nhiều quyền lợi trong việc duy trì “tấm bình phong” Marx và Mao – 1 loại “bảo hiểm” mang tính chất chính trị đối với Đảng Cộng sản, cũng như củng cố tính hợp pháp cho chế độ Cộng sản.

Nhưng đối với những người nghèo – tầng lớp chiếm gần 60% trên tổng số 1,4 tỉ dân Trung Quốc – lại chỉ nhận được những sự giúp đỡ rất ít ỏi từ những lý thuyết của Đảng Cộng sản. Và sự phân hóa giàu nghèo sẽ ngày càng trở nên sâu sắc khi những tên tỉ phú tiếp tục bóc lột, bòn rút một cách không kìm chế khối tài sản nhà nước, cũng như tài sản công dân,trong khi những người nghèo khổ bị ngăn cản trong việc mở rộng quy mô những “nấc thang xã hội”-một cấu trúc không hề thay đổi trong gần 20 năm.

Dựa vào lý thuyết của chủ nghĩa Marx chính thống, có thể thấy Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thoái hóa trở thành giai cấp tư sản chuyên bóc lột, trở thành đối tượng chính của cuộc cách mạng vô sản. Nhân dân, những người bị dìm xuống tận cùng của xã hội, hoàn toàn hợp pháp trong việc định đoạt số phận của Đảng Cộng sản-một chế độ độc tài, chuyên chế tồi tệ nhất trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc.

Cho dù các học thuyết hệ tư tưởng của chế độ được cho là một con dao hai lưỡi, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chắc chắn sẽ không từ bỏ nó. Cựu lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình đã thực hiện mở cửa kinh tế và một số cải cách khi còn đương chức, tuy nhiên, họ Đặng vẫn không hề bác bỏ Chủ Nghĩa Marx cũng như Tư tưởng Mao.

Những cuộc cách mạng cần người lãnh đạo

Nhân dân Trung Quốc mong muốn có một cuộc cách mạng – nhưng không phải một cuộc cách mạng theo kiểu Chủ nghĩa Marx. Họ đã từ bỏ thứ vũ khí lý thuyết của Marx, thay vào đó là những giá trị dân chủ phổ thông hơn.

Một số người tìm kiếm một cuộc cách mạng dân chủ đầy đủ; có tự do ngôn luận, tự do thành lập hội đoàn, và sự thành lập hội đoàn phải được thể chế hóa ngay lập tức. Số còn lại hi vọng có thể lật đổ được ách thống trị của Đảng Cộng sản, lập lại sự bình đẳng về giàu nghèo, và giữ lại Hiến pháp của Đảng Cộng sản trên danh nghĩa của việc “duy trì ổn định xã hội.” Những người thuộc nhóm thứ hai có thể đưa ra những đòi hỏi của họ dưới ngọn cờ “cách mạng dân chủ,” tuy nhiên họ lại là nhóm có nhiều khả năng sẽ liên kết trở lại với chính chế độ Cộng sản.

Mặc dù có sự gia tăng về số lượng các học thuyết và các cuộc các mạng tiềm năng trong quần chúng – chỉ cần vào những trang mạng xã hội ở Trung Quốc như Weibo hay Twitter và xem qua những cảm nghĩ về cuộc cách mạng tâm lý – ta có thể nhận thấy vẫn chưa có một tổ chức hay cá nhân nào có thể trở thành lãnh đạo cho cuộc cách mạng. Đó là bởi vì Đảng Cộng sản, có liên quan đến lịch sử thành lập Đảng, gần như mang căn bệnh nhạy cảm với các tổ chức khác.

“Theo dõi, đóng cửa, bắt bớ”- chiến lược của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với bất kì tổ chức nào tại Trung Quốc. Do đó, thông tin có thể được tìm thấy ở trong các câu lạc bộ sách, những tổ chức phi lợi nhuận, hoặc trong các trường đại học; các tổ chức dân sự và các tổ chức phi chính phủ có vốn nước ngoài như Open Constitution Initiative và China Rural Library đã bị đóng cửa; và những nhà hoạt động dân chủ ít nổi tiếng – Xu Zhiyong, Wu Gan, và 1 số khác – đã bị bắt giữ, và khi được thả, sự tự do của họ đã phần lớn đã bị hạn chế rất nhiều.

Khi vị thần thoát khỏi cây đèn thần

Cho dù đã thực hiện việc kiểm duyệt một cách nghiêm ngặt, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn không thể ngăn chặn một người lãnh đạo trong việc bắt đầu khai thác sức mạnh của quần chúng cách mạng tại Trung Quốc.

Bạc Hy Lai (Bo Xilai), một cựu quan chức của Đảng Cộng sản, là một nhân vật nổi tiếng trong xã hội Trung Quốc từ khi ông nắm Trùng Khánh từ năm 2007 tới 2012. Họ Bạc đã ban hành những ý tưởng cánh tả lấy cảm hứng từ Mao và triển khai một chiến dịch mang phong cách Văn hóa Cách mạng “hát nhạc đỏ và đập tan các băng nhóm xã hội đen,” đã tạm thời phục hồi tinh thần Cộng sản lạc hậu trong nhân dân tỉnh Trùng Khánh. Nhiều đảng viên cũng như nhân dân Trùng Khánh đặt niềm tin vào lời nói của họ Bạc và tin rằng ông sẽ trở thành một nhà lãnh đạo, người sẽ bảo vệ lợi ích của họ.

Vì Đảng Cộng sản Trung Quốc không chịu được sự cạnh tranh, lãnh đạo Đảng, Đặng Tiểu Bình, đã thanh trừng Bạc Hy Lai với tội danh “có hành vi vô tổ chức” và tham nhũng, ngay khi sự nổi tiếng của họ Bạc vẫn chỉ là mầm mống.

Nhưng Đặng Tiểu Bình chỉ có thể đóng lại nắp cây đèn thần một cách tạm thời. Quần chúng cách mạng đã nhận thức được sự tiếp nối của một nhà lãnh đạo nổi tiếng, có sức lôi cuốn, và làn sóng ngầm đó đã sẵn sàng nổi lên bất cứ lúc nào.

Những năm cuối triều Mãn Thanh

Kể từ khi giải Nobel Hòa bình được trao cho Lưu Hiểu Ba, một nhà bất đồng chính kiến, vào năm 2010. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ngưng hoàn toàn các cuộc cải cách, và Bắc Kinh đã trở nên đặc biệt nhạy cảm với bất cứ dấu hiệu nào của sự hình thành những cuộc cách mạng.

Trong năm nay, vào ngày 14 tháng 6, tờ Nhân dân Nhật báo đã có 5 bài viết nhấn mạnh những tác hại sâu sắc của “cuộc cách mạng màu sắc” – những cuộc biểu tình lật đổ ách thống trị của chính phủ áp bức – và rằng hệ thống dân chủ không thể được lồng ghép vào đất nước Trung Quốc. Các bài báo đã nêu lên rằng Trung Quốc phải cảnh giác cao độ trước sự xâm nhập và lây lan của “cuộc cách mạng màu sắc”; rằng các thế lực “thù địch” phương Tây chưa bao giờ từ bỏ ý định chống phá và lật đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc; và rằng Trung Quốc phải nhổ tận gốc những niềm tin được cho là “mê tín” của nhân dân đối với các tổ chức phương Tây và sự Tây hóa.

Chính quyền Trung Quốc đang duy trì chiến thuật chi rất nhiều tiền để mua lấy cũng như thúc đẩy sự “ổn định xã hội,” tuy nhiên chiến thuật đó bắt đầu không hoạt động từ khi nền kinh tế Trung Quốc bị chững lại và tỉ lệ thất nghiệp trở thành một vấn đề đáng lo của toàn xã hội. Thật vậy, từ “cách mạng” bắt đầu xuất hiện trên các trang mạng ở Trung Quốc với tần số tăng dần.

Bước đầu tiên của cuộc cách mạng đã được thực hiện. Những bước còn lại của cuộc cách mạng chỉ còn bị trì hoãn do sự cảnh giác của Đảng Cộng sản thông qua các hành vi giám sát và đàn áp dữ dội những người bất đồng chính kiến.

Đảng Cộng sản Trung Quộc cần phải lùi một bước để tự bảo vệ sự an toàn cho chính nó, cũng như nếu Đảng thật sự quan tâm đến những lợi tích tương lai của đất nước. Ngược lại, nó sẽ phải đối mặt với hai cuộc cách mạng tiềm tang: Cách mạng màu sắc dẫn đầu bởi tầng lớp trung lưu và trí thức, hoặc là bạo động, khởi nghĩa vũ trang lãnh đạo bởi giới hạ lưu.

Trước khi sự bất khả kháng diễn ra

Các chế độ thường bị sụp đổ khi xảy ra một cuộc đảo chính, một cuộc khủng hoảng tài chính, mâu thuẫn sâu sắc giữa quan chức với nhân dân, bạo loạn diễn ra thường xuyên, quân phiến loạn nguy hiểm, hoặc là một cuộc xăm lăng của ngoại bang. Đôi khi các yếu tố này diễn ra cùng một lúc.

Những yếu tố cách mạng mà Đảng Cộng sản Trung Quốc rất có thể sẽ phải đối mặt chính là một cuộc khủng hoàng tài chính. Chính quyền Trung Quốc đã ban hành một số chính sách góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán, nhưng không ai chắc chắn rằng những chính sách đó có thực sự hoạt động hay không. Tình trạng nền kinh tế thế giới cực kì khó để có thể dự đoán,và có thể gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Trung Quốc.

Trong khi đó, các bước của cuộc cách mạng đang được tiến hành một cách chậm rãi, nhưng chắc chắn. Xã hội Trung Quốc đang đang liên tục tuột dốc khi nhà nước lãng phí những nguồn lực xã hội, ấp ủ những mối hận thù trong xã hội, cũng như làm suy đồi đạo đức. Theo thời gian, quần chúng cách mạng đã phát triển tăng lên về số lượng, chờ thời cơ thích hợp để xuất hiện.

Ai phải chịu trách nhiệm cho tình trạng này? Dĩ nhiên là Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trật tự xã hội thông thường đã bị đảo lộn khi Đảng Cộng sản Trung Quốc lần đầu thủ tiêu tầng lớp tư sản, và biến tư hữu thành công hữu. Sử dụng tài nguyên quốc gia để thúc đẩy công hữu hóa, các gia đình và các quan chức “đỏ” nhanh chóng trở thành những triệu phú và tỷ phú trong khi Trung Quốc có số lượng người thuộc tầng lớp sống trên bờ vực của sự nghèo khổ lớn nhất thế giới.

Đảng Cộng sản Trung Quốc có lịch sử trong việc bóc lột và lừa dối quần chúng nhân dân, cũng như đàn áp và loại trừ những tiếng nói của những người bất đồng chính kiến. Đảng Cộng sản không muốn bất kỳ ai có thể sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ chính nó cho dù hệ tư tưởng của nó là một mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng mầm mống bạo lực cách mạng. Mặc dù vậy, cuộc cách mạng ở Trung Quốc đã được tiến hành.

Tác giả: He Qinglian – The Epoch Times
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

He Qinglian là một tác giả cũng như một nhà kinh tế nổi tiếng ngườiTrung Quốc. Hiện nay đang sinh sống tại Hoa Kì, bà là tác giả của quyển Những cạm bẫy của Trung Quốc,_ quyển sách nêu lên quan ngại về tình hình tham nhũng trong cải cách kinh tế ở Trung Quốc từ những năm 1990; và_ Màn sương của sự kiểm duyệt: sự kiểm soát các phương tiện truyền thông ở Trung Quốc, nêu lên những biểu hiện của việc thao túng và sự hạn chế báo chí. Bà cũng thường xuyên viết về những vấn đề của kinh tế và xã hội tại Trung Quốc thời hiện đại.

Photo: Peter Parks/AFP/Getty Images: Du khác mặc quân phục Hồng quân Trung Quốc tham quan căn cứ du kích cũ của Mao Trạch Đông tại Tỉnh Cương Sơn, Trung Quốc vào 21 tháng 9 năm 2012

Bức thư gửi chính mình

0

Ngày… Tháng… Năm…

Gửi mày – đứa là chính tao đây! Mà tao cũng không chắc chắn lắm mày có phải LÀ tao không nữa!

Thôi kệ mẹ nó đi! Ít ra là tao cũng có mày để trò chuyện cùng và ít ra mày cũng hoàn toàn biết yên lặng khi lắng nghe mọi điều tao nói – riêng khả năng này thì mày giỏi như Thượng Đế vậy! Nhưng giờ tao không muốn nói chuyện với ổng nữa, tao cảm thấy không riêng tư chút nào vì cùng lúc trò chuyện với tao, ổng cũng đang “hàn thuyên” với không biết bao nhiêu kẻ khác nữa, mà tao muốn Thượng Đế dành vài phút để nói chuyện nghiêm túc với riêng một mình tao thôi mặc dù tao vẫn biết rằng ổng sẽ chẳng hề bị phân tâm khi có đang kết nối với hàng triệu người cùng một lúc, nhưng tao vẫn không thích. Đúng rồi, tao không thích thế! Và tao sẽ nói chuyện với mày, được chứ? Hẳn là được vì tao đã đồng ý rồi mà!

Tao thấy cô đơn mày ạ, chó thật, càng ngày càng thấy cô đơn! Ngày xưa, cái đứa khốn khổ này đã từng nghĩ rằng nó cần một kẻ yêu thương nó hoàn toàn, tức là yêu mọi thứ thuộc về con người này dù nó có là ai đi chăng nữa. Dù có thể hiện ra là một đứa nhỏ mọn, ích kỉ, tính tình quái đản, sở thích khác người hay thậm chí không yêu lại người kia dù chỉ là một tí xíu, thì người đó vẫn yêu nó bằng tận cốt tủy của họ và sẵn sàng ôm nó vào lòng mỗi khi nó khóc vì cái tôi ích kỉ đó đã làm nó tổn thương, hay khi cả thế giới quay lưng lại với nó và thậm chí người ấy vẫn giữ được vòng tay ấm áp dù nó – tức là tao – gây nên biết bao những sự lạnh lùng, thờ ơ với họ.

Nhưng rồi khi học được cách yêu thương và chăm lo cho chính mình rồi, kẻ khốn khổ đó chẳng cần một người yêu mình nữa. Vì tao, chính tao đã học được cách yêu thương cái tôi hèn mọn của chính mình, tao đã biết chấp nhận hoàn toàn con người mình và có đủ khả năng ôm ấp bản thân mỗi khi tao khóc, dù là khóc trong lòng hay ngoài mặt.

Tao không cần ai yêu tao nữa, nhưng như thế cũng không thể ngăn được việc người khác vẫn chĩa dao vào tao mày ạ. Người đời cay độc lắm chắc mày cũng biết. Vì họ khổ đấy thôi! Một kẻ không hạnh phúc thì lúc nào cũng có xu hướng làm đau người khác và nghĩ rằng người khác muốn làm tổn thương mình mặc cho tất cả những gì người kia đang thể hiện là một tình yêu thanh khiết nhất. Tao chẳng sợ khi người khác muốn làm tao đau đớn hoặc muốn làm tao chết, vì việc có cảm thấy đau hay không là lựa chọn của tao và việc chấp nhận mình chết hay không đó cũng là quyết định nằm trong tay tao cả.

Nhưng tao vẫn thấy nỗi cô đơn của mình càng lớn khi số người mà tao tiếp xúc càng tăng. Không có ai hiểu tao cả mày biết không? Không hề có một ai hiểu được tư tưởng, ý định, ý đồ hay kế hoạch của tao. Họ chỉ chăm chăm nhìn vào cái áo tao mặc, cái xe tao đi để đánh giá toàn bộ gu thẩm mĩ của tao và dự đoán cách tao có thể đánh võng trên đường. Rồi nếu cảm thấy sự khác biệt, họ bắt đầu nảy ra khao khát muốn thay đổi tao sao cho khớp với họ, khớp với những gì mà họ cho là phải, là nên, là đẹp, là bất kì cái chết tiệt gì của họ đi chăng nữa. Họ muốn tao phải giống như vậy dù chỉ là một chút xíu. Họ muốn được công nhận, họ muốn có đồng bọn và họ sẽ đánh đập tao khi tao nhất định đứng ở nơi mà mình thuộc về và để họ trơ trọi với cái tôi hèn mọn đang bắt đầu trở nên điên cuồng, ngoác mồm gào thét như một đứa trẻ ranh. Mày thấy không, dù tao có yêu họ bằng cả linh hồn đi chăng nữa thì họ vẫn cho rằng tao là một đứa tàn độc khi tao mang đến cho họ những thứ mà họ cần chứ không phải những điều họ muốn. Ai mà chẳng muốn được vuốt ve dịu dàng, được quan tâm chiều chuộng, được tung hô ái mộ. Nhưng họ chẳng hiểu rằng, đôi lúc tất cả những gì họ cần lại là một cái tát.

Tao đã lang thang, lang thang tìm một kẻ hiểu mình, và tao đã vô vọng khi ngay đến cả Thượng Đế cũng không hiểu tao, hoặc ít ra là Người đã không cho tao cảm giác được thấu hiểu dù toàn bộ linh hồn tao luôn nằm trong linh hồn của Người và ngược lại. Mày biết không, đã có một sự sụp đổ hoàn toàn ở trong tâm hồn khi tao thấy mình hoàn toàn trơ trọi, lẻ loi, cô độc, đã có một nỗi đau đớn khi tao nhận ra rằng tất cả những cuộc tìm kiếm của mình là vô nghĩa, và đã có một đêm đen mịt mùng trước mắt khi tao chẳng còn biết mình sẽ sống tiếp vì điều gì nữa! Khi giờ đây tao không cần một người yêu mình và cũng không cần một kẻ hiểu mình nữa!

Thượng Đế luôn để lại cho tao những dấu hiệu và tao đã lựa chọn đi theo chúng. Tao không hề phủ nhận rằng tao đã khôn lớn lên rất nhiều từ ngày quyết định đi theo sự dẫn dắt của Người. Nhưng bây giờ, tao có cảm giác rằng mình chỉ là một con rối bé nhỏ ngu xuẩn phục vụ cho những kế hoạch của một kẻ nào đó. Bất kể Thượng Đế có vĩ đại cỡ nào thì tao vẫn muốn cắt những sợi dây và đi lang thang ở một nơi hoàn toàn không hề có sự tồn tại của ổng. Tao không hề thấy được riêng tư một chút nào khi ở nơi này nhìn đâu tao cũng thấy sự có mặt của Chúa, ngay đến cả ý chí muốn biến đi đến một nơi khác cũng là do ổng ban cho tao, thậm chí đến bản thân tao cũng một tay ổng làm nên. Tao không biết có còn điều gì là của riêng một mình tao không nữa, đến cả những xúc cảm và những suy nghĩ, tao có cảm giác nó cũng chẳng phải của tao. Dường như mỗi sự tiến hóa của tao chỉ là đi vào những chiều kích mới rộng mở hơn và tóm được nhiều hơn những loại tình cảm và tư tưởng trong kho của vũ trụ để thể hiện ra ngoài mà thôi. Tao chẳng sáng tạo ra một cái gì hết, và điều này khiến tao bất mãn ghê gớm!

Đột nhiên tao thấy ghét Chúa, nếu tao là Chúa thì tao cũng ghét chính bản thân mình luôn. Nhưng thật may tao không phải như vậy hoặc chí ít tao không muốn như vậy. Tao đã nghĩ đến cái chết, lần thứ hai trong đời tao muốn chết! Lần đầu tiên là vì tất cả mọi loại cảm xúc và tư tưởng tiêu cực nổi lên cùng một thời điểm khiến tao không thể chịu đựng được, và bây giờ là khi tao thấy mọi thứ dù là tiêu cực hay tích cực trong mình cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tao thấy hời hợt, tao thấy mình giống như một bà bán thịt lợn ế buổi chiều ngồi phe phẩy cái gậy đuổi ruồi trong một sự chán chường lặp lại miên man vậy. Nhưng tao sẽ không chết đâu, vì chết cũng chẳng kết thúc được việc làm một con rối. Có thể sau khi trút hơi thở cuối cùng tại Trái Đất này, tao sẽ đến được một hành tinh khác thuộc một vũ trụ khác, nhưng tao biết rằng bản thân mình vẫn chỉ làm một con rối phiên bản 2 dưới tay một ông Chúa khác đang ngự trị ở đấy mà thôi. Mày thấy không, đó là một cảm giác rất khốn nạn khi mà tao vừa rất muốn chết mà vừa rất không muốn chết!

Mày à, tao nhìn chính mình bây giờ và có cảm giác thật nực cười. Tao giống như một con chuột thí nghiệm đang cố vùng vẫy rời bàn mổ. Tao muốn dùng ý chí để cắt đứt ý chí của chính mình. Và tao thấy một sự mỉa mai ghê gớm, tao thấy một trò lừa đảo, tao thấy một con chó đang cố gắng cắn cái đuôi ngắn tủn của chính mình. Tao không muốn là một kẻ an phận, tao cũng không muốn làm kẻ nổi loạn. Tao chỉ muốn làm một cá thể độc lập duy nhất. Nhưng dường như tao sẽ không bao giờ trở nên độc lập khi mà mọi thứ tao chẳng quyết định được vì vẫn nằm trong mớ luật của vũ trụ, và tao cũng chẳng thể là duy nhất được khi mà tao vẫn chỉ là một con rối trong hàng tỉ con rối khác. Làm một con rối duy nhất ư? Tao thà xé nát linh hồn của mình ra còn hơn.

Mày biết không, nếu bây giờ tồn tại một điều gì đó có khả năng giữ tao sống tiếp và khiến tao nảy ra được một vài lí tưởng nào đó để theo đuổi cho vui cho đến hết kiếp này, thì đó chính là mày. Tao sẽ sống vì mày, hiểu không hả? Tao sẽ nghe theo mày mà không nghe Chúa hay bất kì kẻ nào khác nữa dù kẻ đó có quyền lực cỡ nào. Có thể mày cũng do Chúa mà nên hình dạng, nhưng tao sẽ coi như mày tự xuất hiện giữa vũ trụ vậy, mày không thuộc bất kì điều gì trong hình dung của Chúa để ổng có thể tạo ra, hoặc là mày sẽ phát triển nằm ngoài mọi hình dung của ổng.

Tao không tin ông ta là đấng toàn năng chỉ vì mọi người ai cũng nói vậy. Tao và mày sẽ cùng sáng tạo ra vũ trụ riêng của chúng ta. Và hiển nhiên rằng sự sáng tạo ấy sẽ không rơi vào tay Chúa khi mà ông ta chỉ làm một việc duy nhất đó là sáng tạo ra thế giới cho tao và mày trải nghiệm và rồi vắt chân ngồi thu kinh nghiệm. Đó là một trò tàn bạo nhất mà tao từng được nghe. Nếu ông ta thực sự yêu tao và mày thì ông ta chỉ nên dừng lại ở việc để cho chúng mình trải nghiệm mà thôi, mày hiểu ý tao chứ? Còn nếu việc Chúa xuất hiện ở mọi nơi để giữ sự sống (trong đó có tao và mày) thì chẳng lẽ tao phải biết ơn ông ta và tuân theo mọi kế hoạch của ông ta hay sao? Một cánh tay có bao giờ cần phải biết ơn người có nó là đã không chặt nó đi không? Cánh tay ấy đã chẳng có sự tự do, chẳng có sự lựa chọn nào ngay từ những giây phút ban đầu rồi.

Tao không biết việc viết lá thư này cho mày có nằm trong trò đùa của Chúa không, tao chẳng buồn quan tâm nữa. Nếu cái số là không có sự lựa chọn nào nữa giống như một cánh tay rồi thì có lẽ tao và mày nên buông xuôi tất thảy. Và tất cả những gì tao suy nghĩ và viết ra cho mày cũng là một trò hề giống như chuyện cái tay trái nói với cái tay phải, bảo là chúng ta nên đổi bên đi.

Tao không biết sự bất mãn này có giết chết được tao không, hay là nó sẽ mang tao đến một nơi nào đó mà tao sẽ được an ủi dù chỉ là trong chốc lát.

Tao đi ngủ đây, bây giờ tao muốn được yên tĩnh. Hôm nay tao sẽ một mình, tuyệt đối một mình. Cảm ơn mày đã lắng nghe tao nãy giờ. Tao luôn yêu mày. Tạm biệt.

……Một ngày trôi qua……

Tao quyết định rồi mày ạ, tao sẽ đi tìm một nơi không có Chúa!

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: Reinhardi

[CCTTHĐP] Thức thần với LSD… lần đầu trải nghiệm!

Sau khi đọc được bài Sự thật về chất thức thần mang tên LSD của anh Nguyễn Hoàng Huy thì sự tò mò của mình như được kích động đến, dạo vài vòng trên mạng và tìm kiếm để hiểu thêm về psychedelics thì thực sự lúc này ở mình không chỉ còn đơn giản là một thứ tò mò nữa, mà đó thật sự là một khát khao… một khát khao được “phá tung cái địa miền tư sản táo bón tồi tàn như một thiên sứ của kỷ nguyên thức thần mới.” Sau một đêm thức trắng, tìm kiếm và hỏi vài ba người thì cuối cùng mình cũng đã tìm được chỗ mua. Dạo vòng quanh mạng bạn có thể dễ dàng tìm thấy nhiều bài viết ghi lại cuộc trải nghiệm sau 1 trip với psy, bạn có thắc mắc không… không phải tự nhiên mà như vậy đâu, tại vì mỗi người sẽ có 1 trải nghiệm riêng về trip của mình, và đây là trải nghiệm của mình.

Chiều hôm ấy, mình xách xe lên và đi lấy cái chất sẽ làm bừng tỉnh đầu óc mình, vì địa điểm giao dịch khá xa nên mình lấy bình, riết thật mạnh 3 bi cần sa vào người để chạy xe cho đỡ nhàm chán. Đeo tai nghe vào, lặng lẽ mình đề xe lên và chạy, sau khoảng 40’ thì mình tới nơi, người bán cho mình là một anh chàng trạc tuổi mình, không biết thứ gì mà khiến anh chàng đó để lại ấn tượng rất mạnh trong mình. Về tới nhà sau 1 quãng đường dài, mình mệt mỏi ăn hết tô cơm rồi lên phòng ngồi ngắm nghía tấm tem mà mình mới lấy được, vì kinh nghiệm của người đi trước bảo rằng nên để bụng đói, thế là mình đành đợi 1 xíu vậy.

Bật nhạc thiền lên nghe, trước giờ mình chưa bao giờ nghe nhạc thiền nhưng để có được 1 “good trip” nên mình muốn nghe nhạc nhẹ một xíu. 9h25 tối, lúc này cái bụng có vẻ đã đỡ no hơn rồi, lấy cái nhip, gắp con tem lên rồi để vào lưỡi và ngậm. Chỉ khoảng 5 phút sau mình thấy người thanh thản hơn, và thêm 5 phút nữa miếng tem trên miệng đã tan hết… vẫn chưa thấy gì ngoài cảm giác thanh thản. 9h45, mắt mình bắt đầu mờ đi, và cái mặt lúc này ngu đi rõ rệt. Dạo vòng fb khoảng vài phút, mình nhìn qua cái quạt, lúc này mình mới giật mình khi thấy cánh quạt nó đang quay 1 cách rất ảo… thuốc đã ngấm.

Sau đó mình bắt đầu không cảm nhận được bàn chân của mình nữa, đầu óc thì cứ lâng lâng lạ lùng, lúc này mình biết mình nên lên giường nằm nghỉ. 10h, ảo giác lúc này đã xuất hiện rõ ràng, cái giường của mình như sóng biển cứ lênh đênh, lênh đênh theo từng nhịp, tay của mình méo mó và mình thấy rõ được từng cọng lông tay đang phất phơ theo gió trên tay mình. Thời gian như đang dần chậm lại, và mình cảm nhận rõ cái độ chậm đó, bật đồng hộ lên thì rõ ràng là nó đang chạy chậm hơn, ngay cả cái người mình lúc này cũng đang rất là chậm. Nhìn đồng hồ chạy một hồi tự nhiên mình mất luôn nhận thức về thời gian, lúc này là 10h10 và mình không thể biết được 10h là sao, 10h là gì nữa.

Nhức đầu buông xuôi, nhắm mắt thì dòng suy nghĩ bắt đầu chảy và mình không thể ngăn được dòng suy nghĩ đó và cũng như không thể lội ngược lại được nữa, giống như kiểu nó tới, nó đi mà mình không thể biết được. Mình nhớ về quá khứ, nhớ từng chi tiết về những gì mình đã trải qua, những người mình đã gặp và lúc này cảm giác cô đơn như chiếm lấy mình, mình rất muốn có một ai đó bên cạnh. Dòng suy nghĩ bắt đầu đưa mình về hiện tại, những người bạn lúc này của mình, mình nhớ họ, mình muốn bên cạnh họ. Rồi mình bỗng suy nghĩ về mình, mình cảm nhận được mình chưa từng bỏ nhiều thời gian cho mình, và dòng suy nghĩ bắt đầu đưa mình vào chính cái tâm của mình.

Mình nhận ra mình đã quá giả dối, mình sống mà luôn sợ những lời nói của dư luận rồi dòng suy nghĩ đó giúp mình hiểu ra, dư luận chỉ là những lời nói của những người trong cái xã hội thối nát này thôi, mình ở một xã hội khác. Rồi mình bắt đầu hiểu ra hơn được cách sống của xã hội này, nó thật ảo và giả tạo làm sao. Sau đó, mình bắt đầu đặt chân được xuống dưới nền, cố gắng đi vào nhà vệ sinh, lúc này vẫn còn ảo lắm, nền nhà cứ lồi lên, lõm xuống, cái chân của mình thì ngắn ngủn và mọi hoa văn mình nhìn thấy nó như đang sống dậy, múa máy thật huyền ảo. Vào nhà vệ sinh, mình skype ngồi nói chuyện với thằng bạn và hút thêm vài bi cần sa nữa. Sau một khoảng thời gian nói chuyện thì lúc này đã đỡ hơn và bây giờ đã là 5h30, mình cảm thấy nhớ những thằng bạn nên đã rủ nó đi uống cafe, chạy xe ra những con đường vào buổi sáng, với chiếc tai nghe và những bản nhạc mình thích, có lẽ đây là một cảm giác sướng nhất mình từng có, mình cảm nhận được từng điệu nhạc trong bài hát, từng âm bass, từng tiếng guitar và mọi tiếng khác.

Đi song song với đường rày, nhìn chiếc tàu lửa đang chạy trông thật là hùng vĩ, giống như nó là một con quái vật đang tìm 1 chỗ yên nghỉ cho mình, cứ cố chạy, chạy và chạy cho tới khi được an nghỉ thì thôi. Lúc này ngồi uống cafe, vẫn còn 1 tí ảo trong người nên không nói được gì nhiều, nhưng lúc đó mình rất hạnh phúc vì sau một đêm cô đơn giằn vặt, sau một đêm đấu tranh nội tâm dài dằn vặt, mình lại được ngồi đây với đám bạn. Cuộc sống chỉ cần thế thôi.

Trong đêm đó, mình còn nhiều trải nghiệm cũng như là ảo giác khác, nhưng mình chỉ kể những suy nghĩ mà LSD đã giúp mình nghiệm ra thôi. Và thật sự là mình cũng chả nhớ nhiều mấy, chỉ nhớ rằng đêm đó… là một đêm tuyệt vời.

Tác giả: Kip1412

Minions là một hình ảnh châm biếm đại diện cho phần đông con người sống trong xã hội này

Tôi vừa mới xem phim hoạt hình này xong. Khi đang xem thì tôi cứ bâng khuâng là không biết có nên viết cmt cho bài này không vì điều tôi hiểu từ bộ phim hoàn toàn khác xa nhưng gì bạn hiểu. Với tôi thì đây là một bộ phim châm biếm chứ không phải cái ý như tiêu đề của bạn. Nhưng tôi nghĩ cứ viết vì qua bài viết của bạn tôi thấy rằng suy nghĩ của chúng ta bị chi phối bởi những điều mà chúng ta quan tâm. Có thể câu chuyện của tôi là đúng, cũng có khi bạn đúng.

Minion là một hình ảnh châm biếm, nó đại diện cho phần đông con người sống trong xã hội này, họ không biết mục đích sống của mình là gì, chính vì thế họ luôn cần một chủ nhân để dẫn dắt, để ra lệnh cho họ. Ngày nay chúng ta thấy hằng hà sa số những con người như thế, họ chạy theo những thần tượng, làm những gì được dạy bảo mà không bao giờ tìm hiểu việc làm đó là đúng hay sai. như đám Minion, khi không có chủ nhân thì chúng không biết nên làm gì.

Một đám Minion chạy theo chủ nhân như một đám đông chạy theo thần tượng, bởi mọi sự đã có chủ nhân làm đầu nên chúng không cần phải suy nghĩ, bởi không cần suy nghĩ nên những điều chúng làm luôn ngờ nghệch và ấu trĩ. Những kẻ mạnh nhờ chúng mà trở nên mạnh hơn, nhưng cũng chính vì sự ngờ nghệch hay thậm chí ngu ngốc cũng là nguyên do khiến vị chủ nhân thăng thiên sớm. Xét về lịch sử loài người thì đám đông chính là một con dao 2 lưỡi, hôm nay họ tôn vinh một kẻ mạnh lên làm chủ nhân, ngày mai họ đã có thể đưa ông ta lên đoạn đầu đài.

Sự bất tử của Minion cũng có lý do, nó chỉ ra rằng thế giới này không bao giờ thay đổi. luôn có một đám đông cần những ông chủ dẫn dắt mình, họ tôn vinh một người rồi cũng chính họ giết người đó và tìm một kẻ khác thay thế. Nhưng theo thời gian, lũ Minion không thay đổi trong khi kẻ ác thì trở nên xảo quyệt hơn, biết cách lợi dụng hơn và càng khó giết hơn.

Cuộc sống luôn luôn xuất hiện những điều may mắn ngẫu nhiên khiến ai đó đạt được một món quà rất lớn giống như Bob trong phim. Nhưng dù sự may mắn đó có lớn lao đến cỡ nào thì một con người có bản tính như Minion sẽ không bao giờ giữ được nó, tất cả những gì mà kẻ đó có sẽ lọt vào tay kẻ gian ác, sự ngây thơ gặp sự xảo quyệt thì ta luôn biết trước kết quả là như thế nào. và khi kẻ ác nắm quyền thì ta biết hậu quả sẽ như thế nào, câu nói của Nữ Hoàng trong quán bar đã thể hiện điều đó.

Những Minion cần một ông chủ để đi theo vì họ không biết mình muốn gì và cần gì, chúng có sự chân thành và lòng tận tụy. Nhưng chúng lại không biết rằng kẻ ác không bao giờ cảm thấy thỏa mãn với những gì mình có, và cũng không có niềm tin hay sự thương xót đối với những công cụ giúp họ đạt được quyền lực. Kẻ ác sẽ tàn sát bất kỳ ai cản đường, sẽ sẵn sàng phản bội để nắm chắc quyền lực trong tay. Bằng những lời mật ngọt, kẻ ác dụ dỗ đám Minion tiến thẳng tới địa ngục mà cứ tưởng đang đi đến thiên đường, và chúng đã tiến vào đó.

Có lẽ đám Minion rất ngu ngốc nhưng khi một nguy hiểm khủng khiếp đến thì chúng sẽ nhận ra những gì quý giá với mình và bộc phát ra sức mạnh mà chúng có. Hình ảnh Minion biến thành khổng lồ cho thấy sức mạnh đó. Nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể làm lật thuyền. Đó là sức mạnh của đám đông khi để tức nước vỡ bờ. Và như trong phim ta thấy, kẻ ác đã thất bại. Thế là các Minion được những phần thưởng cho sự dũng cảm chống lại cái ác. Đến đây chúng ta tưởng như là kết thúc nhưng không phải.

Một kẻ ác mới xuất hiện và đám Minion chạy ngay đến đó để phục vụ dù bài học còn ngay trước mắt. Vâng! Đám đông vẫn thế, vẫn giống đám Minion bất tử cùng với tất cả bản tính mà chúng có. Đó là một thực tế mà lịch sử đã chứng minh qua muôn vàn sự kiện trong nó.

Mắt Đời

[THĐP Translation] [Zen Pencils] Bạn chẳng mất mát gì khi động viên một người

 

tumblr_inline_ns85uix7y41s09z1b_1280

3456

THĐP: Ý nghĩa của comic này không phải chỉ có thể áp dụng được với nghệ sĩ hay họa sĩ, mà nó còn có thể áp dụng được với tất cả mọi người. Hành động thể hiện khích lệ quả thật chẳng có gì khó, và đúng là cũng chẳng mất mát gì: một câu cảm ơn, một cái like, một cái share, một lời hỏi thăm… dù rất nhỏ nhặt nhưng nó có ảnh hưởng tích cực lên đối tượng gấp 10 lần một sự lặng lẽ thờ ơ bỏ đi hay một câu nói chưa được lựa lời.

Cảm nhận của Zen Pencils

Ken Smith là một nhà làm phim, nhà văn, phát thanh viên Mogul và là một babbler chuyên nghiệp. Tôi là một fan hâm mộ hầu như suốt cả sự nghiệp của ông. Tôi đã bỏ lỡ cơ hội quí báu lúc Clerk ra mắt, nhưng đã phát rồ vì Mallrats, và Chasing Amy, bộ phim mà diễn viên chính là Ben Affleck và Jason Lee đóng vai một nghệ sĩ viết truyện tranh và inker. Điều đó giống như “lạy chúa, một bộ truyện tranh của một tên mọt sách được làm thành phim Hollywood. Một người trong số chúng ta đã thành công vĩ đại rồi!”

Tôi cũng đã cực kì phấn khởi sưu tập truyện tranh khi Smith nhảy vào lĩnh vực truyện tranh, viết nên series truyện Marvel Knights Daredevil. Vào thời đó, không một nhà làm phim danh tiếng nào của Hollywood lại muốn hạ mình làm truyện tranh cả. Đối với một nam hâm mộ như tôi, việc Smith quyết định viết truyện tranh giống như là việc Michael Jordan quyết định chơi một trận bóng ở địa phương vậy. (Sau đó Smith đã thừa nhận rằng ông hoàn toàn không biết là mình đang làm cái quái gì nữa và đã phải nhờ họa sĩ Joe Quesada từ từ huấn luyện cho ông cách vẽ truyện tranh. Giả vờ làm được điều gì đó cho tới khi bạn thật sự làm được.)

Smith 24 tuổi khi Clerks được ra mắt, bộ phim mà ông đã tự đóng góp $27000 vào đó, mướn bạn của mình làm diễn viên và quay phim tại một tiệm tạp hóa nơi ông làm việc. Bộ phim đã được trình chiếu tại Liên hoan phim Sundance, thắng chiếc cúp Nhà làm phim xuất sắc và được Miramax mua lại. Nó đã mở đầu cho sự nghiệp làm phim của Smith và đã tác động đến sự bùng nổ của phim indie vào những năm 90. Mặc dù ngày nay Smith tập trung nhiều vào chương trình truyền thanh, ông ấy vẫn ở trên vũ đài làm phim. Bộ phim mới nhất của ông, Tusk, kể về một phát thanh viên bị bắt cóc bởi một anh ông già điên rồ muốn biến nạn nhân của mình thành một con hải mã.

Điều tôi thích chủ yếu ở những chương trình phát thanh và đàm thoại của Smith chính là sự động viên của ông đối với các họa sĩ có nhiều khát vọng và tính sáng tạo. Ông ấy khẳng định rằng nếu một tên mọt sách béo và lười như ông vẫn có thể thành công thì bất cứ ai cũng có thể thành công được. Smith đưa ra những chia sẻ thẳng thắn của mình đối với những kẻ công kích và các nhà phê bình, nhưng thái độ của ông là “Này, nếu bạn không ưa những gì tôi làm, thì hãy tìm mọi cách để tự mình làm ra những thứ tốt hơn đi.” Bộ phim Tusk của ông gần đây không đem lại những thành tích đáng kể, mong rằng mọi người không lấy đó làm cái cớ để không thử làm những thứ kì cục:

“Đừng ngại làm những việc kì cục, miễn là bạn làm nó với giá rẻ. Hãy liều lĩnh và ngu ngốc nếu cần, miễn là bạn không làm tổn thương bất kì ai thì việc những mơ ước của bạn có ngốc nghếch như thế nào thì có vấn đề gì chứ? Nếu tôi không sản xuất bộ phim Tusk thì sao? Nếu tôi cứ để nó chết như một chương trình phát thanh thì sao? Thì tôi sẽ không có tới ba bộ phim mà tôi đang sản xuất trong vòng một năm tới. Một vài người sẽ cố gắng làm nhục bạn bởi vì bạn đã thử làm những việc nằm ngoài quy chuẩn, nhưng điều đáng xấu hổ thật sự chính là việc không dám thực hiện ước mơ của mình.”

Trích dẫn được sử dụng trong mẩu truyện tranh được lấy từ cuốn tự truyện Tough shit: Life Advice from a Fat, Lazy Slob Who Did Good. Nó đến từ chương Smith viết về bộ phim “Red stage” vào năm 2011 của ông, một bộ phim một trăm phần trăm độc lập mà ông tự phát hành và phân phối. Mệt mỏi vì phải đối phó với các trường quay nơi mà ngân sách marketing còn tốn nhiều hơn làm cả bộ phim, Smith đã tự mình sản xuất và quay phim, khi du lịch khắp nước Mỹ cùng với bộ phim và trình chiếu nó tại các rạp chiếu phim trên khắp cả nước. Vào đoạn cuối của chương, Smith đã gửi lời cảm ơn đến một nhóm người đã giúp đỡ để làm nên bộ phim, ông gọi họ là những người hỏi “tạo sao không?”

“Trên thế giới này có rất rất nhiều người luôn hỏi “Tại sao?” Bất kì khi nào bạn đưa ra ý tưởng mới của mình với họ thì họ lại bắt đầu những câu hỏi nhảm nhí.“

“Tại sao lại quan tâm?”

“Tại sao phải cố gắng làm thế?”

“Sao bạn nghĩ là bạn tốt hơn mọi người?”

“Tại sao?”

Để chống lại việc này, đơn giản cứ vây quanh bạn bởi những con người chỉ hỏi “Tại sao không?” Như là

“Muốn làm phim không?”

“Muốn chứ. Tại sao không?”

Hãy nhớ rằng, bạn chẳng mất mát khi động viên một nghệ sĩ. Và những lợi ích tiềm tàng có thể khiến bạn kinh ngạc. Một cái vỗ vai nhẹ, có thể một ngày sẽ mang đến thành quả là bộ phim bạn yêu thích, hay là một bộ phim hoạt hình mà bạn thích xem đến say mê, hay là một bài hát cứu rỗi cuộc đời bạn. Làm một người nghệ sĩ nản lòng thì chắc chắn bạn sẽ không nhận lại được bất kì điều gì. Tôi đã bỏ ra phần tốt hơn trong sự nghiệp của mình để mang đến những bộ phim và động viện các họa sĩ tiềm tàng trong số khán giả nhằm nhắm đến chính bản thân mình như là một bằng chứng rằng bất kì ai cũng có thể biến ước mơ của mình thành sự thật. Tôi không làm điều này bởi vì lòng vị tha. Tôi chỉ muốn đảm bảo rằng mình có thứ gì đó hay ho để xem bằng việc động viên bất cứ ai đi theo những đam mê về phim ảnh hay truyện.“


Dịch: Băng Tâm

Review: Nguyễn Hoàng Huy

Comic Edit: Sadie Pices

Vạch trần 5 lời đồn đại về việc sạc pin smartphone

“Đừng nên sử dụng điện thoại khi đang sạc pin.” “Đừng cắm sạc qua đêm.” “Luôn luôn để điện thoại hết hẳn pin rồi sạc.” Đây chỉ là một số ít những lời đồn đại ta thường nghe về pin smartphone.

Khi nói đến tuổi thọ của pin, có rất nhiều những quy tắc nhỏ – những điều bạn nên và không nên làm với smartphone. Mặc dù có nhiều quy tắc thật sự chính xác, vẫn có những lời đồn đại mà bạn nên bỏ qua. Pin và bộ sạc điện thoại đã được cải tiến rất nhiều trong những năm qua, chúng trở nên “thông minh” hơn và ta có thể quản lý chúng một cách dễ dàng hơn. Hầu hết pin lithium-ion, được dùng bởi các hãng lớn như Samsung và Apple, thường có tuổi thọ từ 3 tới 5 năm, nếu bạn bảo quản chúng một cách kĩ lưỡng.

Sau đây là sự thật về 5 lời đồn đại phổ biến về việc sạc pin điện thoại.

1. Sử dụng bộ sạc khác thương hiệu điện thoại sẽ làm hỏng pin

Sự thật: Cứ dùng bộ sạc khác thương hiệu, chả sao cả. Cái bạn cần cẩn tránh là những bộ sạc giả.

Đừng mua những bộ sạc hàng nhái, hàng chất lượng thấp trong khi bạn có thể tìm mua những bộ sạc khác thương hiệu giá rẻ khác (từ những thương hiệu hợp pháp như Belkin hay KMS). Nhân viên ở LifeHacker đã làm một cuộc thí nghiệm chi tiết khi họ so sánh giữa bộ sạc chính hãng đối với hàng nhái và hàng khác thương hiệu.

Kết quả cho thấy rằng tốc độ của bộ sạc khác thương hiệu, tất nhiên là không thể sạc nhanh bằng bộ sạc chính hãng, nhưng chúng vẫn có hiệu năng khá tốt. Trong khi đó, những bộ sạc hàng nhái còn chưa chắc đã sạc đầy được pin cho điện thoại.

2. Bạn không nên sử dụng điện thoại khi đang sạc pin

Sự thật: Cứ việc dùng thỏa thích, miễn là khi đó bạn không sử dụng một bộ sạc không chính hãng sơ sài.

Có những lí do nghe khá đáng sợ đằng sau những lời đồn. Mọi người cho rằng sử dụng điện thoại khi đang sạc sẽ làm cho điện thoại nổ tung, hoặc làm cho người sử dụng bị điện giật. Điều đó đã thực sự xảy ra đối với một tiếp viên hàng không người Trung Quốc tên Ma Ailun vào tháng 7 năm 2013, khi cô ấy dùng Iphone 4 khi đang sạc pin.

Tuy nhiên, các cuộc điều tra sau đó cho biết rằng điều đó xảy ra do Ailun đang sử dụng một bộ sạc nhái, không phải là một bộ sạc Apple chính hãng.

Nếu bạn đang sử dụng 1 bộ sạc và pin được nhà sản xuất chấp thuận, thì bạn có thể yên tâm.

3. Sạc pin điện thoại qua đêm sẽ làm hỏng pin của bạn

Sự thật: Điện thoại của bạn thông minh hơn bạn nghĩ. Khi đã được sạc đầy pin, nó tự biết ngưng sạc. Điều đó có nghĩa là pin thậm chí còn tạm ngưng hoạt động.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bạn nên để pin sạc suốt đêm, hết ngày này đến ngày khác. Bạn không bao giờ đổ thêm nước vào một cốc nước đã đầy, phải không? Tuổi thọ của pin bạn sẽ được kéo dài hơn nếu bạn sạc pin ở khoảng từ 40% tới 80%.

4. Bạn không cần phải tắt nguồn điện thoại của bạn – không bao giờ cần

Sự thật: Cho dù điện thoại của bạn là một cỗ máy, nhưng nó vẫn cần một chút thời gian để nghỉ ngơi. Một thiên tài của Apple đã nói rằng để gia tăng tuổi thọ của pin, thỉnh thoảng bạn nên tắt điện thoại của mình, nhất là khi bạn đi ngủ.

Các chuyên gia Apple khuyên bạn nên tắt điện thoại của mình ít nhất một lần mỗi tuần để duy trì tuổi thọ của pin.

Việc tắt nguồn điện thoại của bạn là một việc cũng rất quan trọng đối với điện thoại chạy Android. Khởi động lại máy là một cách đơn giản có thể giúp kéo dài tuổi thọ pin.

5. Khi nào điện thoại hoàn toàn hết pin mới sạc

Sự thật: Tốt hơn hết là bạn nên sạc pin điện thoại hằng ngày hơn là đợi lâu rồi sạc một lần dài.

Pin lithium-ion loại pin được sử dụng cho những sản phẩm của Samsung và Apple họat động tốt hơn khi được sạc đầy. Nếu bạn cứ liên tục để pin xuống còn 0%, chúng sẽ trở nên không còn bền như trước. Pin của bạn có số chu kì sạc có hạn, và mỗi lần bạn để chúng hoàn toàn hết sạch pin, thì 1 chu kì nữa sẽ bị mất đi.

Bonus: Sự thật – nhiệt độ cao sẽ làm cho pin hỏng

Đây là một điều hoàn toàn chính xác, nhiệt độ và công nghệ thường không đi cùng với nhau, và điều đó cũng áp dụng đối với pin điện thoại.

Pin lithium-ion tự tạo nhiệt, trở nên ngày càng nóng khi đang sạc. Thời tiết lạnh cũng gây những tác động xấu lên tuổi thọ của pin, và pin sẽ hết nhanh hơn bình thường khi ở trong môi trường có nhiệt độ thấp.

Điện thoại của bạn sẽ không gặp vấn đề gì nếu bạn để chúng trong môi trường yêu cầu; Apple yêu cầu 32 ◦F là nhiệt độ thấp nhất cho Iphone. Còn đối với Samsung, họ đảm bảo điện thoại có thể hoạt động trong khoảng từ -4 tới 122 độ F.

Tác giả: Yohana Desta – Mashable
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

Featured image: TechCrunch

[Review] Quẳng gánh lo đi mà vui sống – Đọc ngấu nghiến từ trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng

2

Thông tin khái quát về tác giả – tác phẩm

Cuốn sách Quẳng gánh lo đi & vui sống được viết bởi Dale Carnegie (1888 – 1955), tác giả nổi tiếng với nhiều cuốn sách self-help bestsellers, trong đó có cuốn Đắc nhân tâm (How to win friends and influence people, 1936) mà đa số chúng ta đều đã từng nghe nói.

Dale Carnegie là một nhà văn, giảng viên người Mỹ, đồng thời ông cũng là người phát triển các khóa học nổi tiếng thế giới về phát triển bản thân, đào dạo doanh nghiệp hay các kỹ năng phát biểu trước công chúng. Sinh ra trong một trang trại nghèo tại tiểu bang Misouri, Mỹ, ở tuổi thiếu niên, Carnegie thường phải thức dậy vào lúc 4 giờ sáng hàng ngày để phụ giúp cha mẹ ông vắt sữa bò, đồng thời duy trì việc học tại một trường Đại học sư phạm công lập ở Warrenburg, Missouri. Sau khi tốt nghiệp đại học, công việc đầu tiên của ông là việc bán các khóa học từ xa cho các chủ trang trại.

Sau đó, ông trải qua một số các công việc sales khác và thậm chí còn thử sức với vai trò diễn viên nhưng thu được không mấy thành công cho đến khi ông nảy ra ý tưởng quay trở lại với công việc giảng dạy, bắt đầu là môn nói trước công chúng tại Hiệp hội thanh niên Cơ đốc (Young Men’s Christian Association – YMCA). Công việc này mang lại cho ông thành công to lớn, đánh dấu bằng việc vào năm 1912 ông đã xây dựng hẳn một hệ thống huấn luyện mang tên mình, vẫn duy trì hoạt động trên toàn thế giới (tại hơn 90 quốc gia) cho đến nay ngay cả khi ông đã qua đời (có mặt tại Việt Nam từ năm 2007). Một trong như tư tưởng then chốt trong lý luận của ông là thay đổi cách cư xử của chính mình có thể dẫn đến sự thay đổi trong thái độ của mọi người đối với ta.

Cuốn Quẳng gánh lo đi & vui sống được xuất bản lần đầu tiên tại Anh quốc vào năm 1948. Gần đây nhất, cuốn sách được tái bản có chỉnh lý bởi nhà xuất bản Pocket vào tháng 9 năm 1990. Dale Carnegie bắt đầu cuốn sách bằng việc giải thích lý do tại sao ông bắt tay vào viết cuốn này, bởi vào năm 1909 ông là “một trong những thanh niên bất hạnh nhất ở New York”. Bản thân ông tự làm bản thân mình sinh bệnh vì những nỗi lo lắng, phần nhiều được tạo nên bởi sự chán nản của ông với công việc của mình vào thời gian đó. Chính vì thế, ông đã nghĩ cần phải thay đổi tình hình của bản thân bằng việc đầu tiên là xóa bỏ được những lo lắng tiêu cực của mình.

Mục đích của cuốn sách, như chính tên của tác phẩm, là nhằm giúp người đọc có thể giống như ông, loại bỏ được những lo lắng không cần thiết và nhờ thế, có thể có một cuộc đời đáng sống và hạnh phúc hơn. Để làm được điều đó, cuốn sách trình bày nội dung thông qua 6 phần chính:

Phần 1: Các nguyên tắc cơ bản để loại bỏ sự lo lắng

Trong phần này, tác giả đưa ra 3 nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc 1 khuyên chúng ta nên tập trung suy nghĩ về hiện tại thay vì bận tâm về quá khứ và tương lai. Nguyên tắc thứ 2 đưa ra một phương pháp để đối mặt với sự lo lắng đó là hãy chấp nhận điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Bằng cách đó, chúng ta sẽ thản nhiên đối mặt với mọi điều mà không cần lo sợ nữa. Nguyên tắc thứ 3 nhắc nhở chúng ta về cái giá phải trả bằng sức khỏe khi chúng ta quá lo lắng.

Phần 2: Phương pháp phân tích và giải quyết sự lo lắng

Phương pháp này được thể hiện qua 4 nguyên tắc. 3 nguyên tắc đầu gợi ý việc kiên định với quyết định đã được đưa ra dựa trên việc thu thập và phân tích đầy đủ các dữ liệu có liên quan. Nguyên tắc cuối cùng là những câu hỏi giúp chúng ta giải quyết vấn đề theo hướng tư duy giải pháp tốt nhất.

Phần 3: Phá bỏ thói quen lo lắng trước khi sự lo lắng tàn phá chúng ta

Lo lắng cũng chỉ là một thói quen, có thể được loại bỏ nếu thực hiện đúng phương pháp và có sự kiên trì. Carnegie chỉ ra rằng những phương pháp đúng đắn là: giữ cho bản thân bận rộn, không quan tâm quá nhiều đến những điều vặt vãnh, sử dụng luật bình quân, chấp nhận những điều không thể tránh khỏi, đặt lệnh “dừng” đối với nỗi lo lắng và hãy sống với hiện tại.

Phần 4: 7 cách luyện tinh thần để sống thanh thản và hạnh phúc

Trong phần này, tác giả trình bày 7 cách dù nhỏ nhưng rất thực tế và giải quyết gần như tất cả những lý do phổ biến thường khiến cho con người lo lắng, tức giận và buồn khổ:

  1. Suy nghĩ và hành động một cách vui tươi
  2. Đừng cố trả đũa kẻ thù của mình.
  3. Luôn chuẩn bị tinh thần để đối diện với sự vô ơn
  4. Hãy nghĩ đến những điều mình may mắn có được, chứ không phải điều ngược lại
  5. Đừng bắt chước người khác
  6. Chấp nhận và biến khó khăn thành cơ hội
  7. Hãy quên đi bản thân và mang niềm vui, hạnh phúc đến cho người khác.

Phần 5: Gạt bỏ nỗi lo bị chỉ trích

Những lời chỉ trích thực ra chỉ là một lời khen ngợi bị xuyên tạc bởi sự ghen tỵ, và vì thế không nên khiến bạn buồn khổ. Khi đã làm những điều tốt nhất có thể thì sau đó chỉ cần bảo vệ bản thân khỏi ướt bởi những cơn mưa nhận xét mà thôi. Cuối cùng, việc ghi nhận và phân tích những điểm yếu của bản thân sẽ giúp bạn dễ dàng chấp nhận những lời chỉ trích cũng như có thể dần dần hoàn thiện bản thân.

Phần 6: 6 cách tránh mệt mỏi và lo lắng, đồng thời nâng cao tinh thần và sức lực

Trong phần này, tác giả dường như đi lệch ra khỏi mục đích của mình khi viết cuốn sách này là để đương đầu với dự lo lắng. Tuy nhiên, ông khẳng định rằng sự mệt mỏi hoặc chỉ đơn thuần là niềm tin của con người về sự mệt mỏi của họ là nguyên nhân hàng đầu gây nên sự lo lắng. Chính vì vậy, loại bỏ được tình trạng mệt mỏi là hết sức cần thiết để xua đi những lo lắng không cần thiết.

Đánh giá, phê bình cá nhân về tác phẩm

Tôi tình cờ thấy cuốn sách này trên giá sách trong phòng chờ của một showroom bán xe máy. Cái tên của cuốn sách đã làm cho tôi phải phóng lên Đinh Lễ mua luôn một cuốn về đọc. Tôi năm nay 25 tuổi, chẳng dám nhận là một kẻ bất hạnh nhất một thành phố như Carnegie nhưng cũng như ông, tôi tự cảm thấy bản thân cũng quá mệt mỏi với những lo lắng hoặc vụn vặt hoặc mơ hồ hoặc không có căn cứ. Tôi chỉ mất vài ngày để đọc xong quyển sách khoảng 300 trang này. Các bạn có thể hình dung tôi đã đọc ngấu nghiến như thế nào từ trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng.

Bản thân tôi cho rằng cuốn sách này rất đáng đọc bởi nó không chỉ trình bày các vấn đề rất đúng, rất thực tế với mỗi người mà còn đưa ra các giải pháp rất dễ hiểu và dễ áp dụng. Thực ra, những vấn đề mà tác giả trình bày không mới bởi ai trong chúng ta khi đến một tuổi trưởng thành nhất định nào đó đều đã nghe nói hoặc chính bản thân mình trải qua. Ở khía cạnh này, cuốn sách chỉ có tác dụng như một tờ mục lục tóm tắt tất cả những khó khăn và khổ sở của con người nói chung, những điều mà nhiều khi ta muốn quên hoặc quá nhiều để có thể nhắc ra ngay được. Khi đọc cuốn sách, bạn sẽ thấy mình nhiều hoặc ít được nói đến trong đó. Hãy để tôi đưa ra một vài dẫn chứng để bạn tin vào những gì tôi vừa nói nhé. Hãy nói có hoặc không để xem nội dung của cuốn sách này có liên quan đến bạn không nhé:

  • Tôi lúc nào cũng lo lắng không biết tương lai của mình sẽ như thế nào. Liệu tôi có thành công? Hay tôi sẽ là một kẻ thất bại và sống trong bất hạnh?
  • Tôi luôn có một đống các công việc chưa được giải quyết chỉ bởi vì tôi lo lắng tôi không thể hoàn thành dược công việc đó hoặc là sẽ làm nó với kết quả tệ hại.
  • Tôi cảm thấy rất khó chịu khi những điều tốt mà mình làm cho mọi người rốt cuộc lại chẳng được sự biết ơn của họ.
  • Tôi cảm thấy cuộc đời rất hào phóng ném cho tôi rất rất nhiều… chanh.
  • Tôi lo sợ bị mọi người soi mói và phê bình.
  • Những lời chỉ trích làm cho tôi thấy bị tổn thương.
  • Tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi và mỗi ngày thức dậy đi làm là một cực hình với tôi.

Nếu trên 50% câu trả lời của bạn là có thì đọc cuốn sách này có thể khiến cho bạn mỉm cười đấy. Hãy tin tôi đi. Nếu những giải pháp được đưa ra không phù hợp với bạn thì ít nhất bạn cũng có quyền tin rằng, bạn chẳng phải là kẻ duy nhất có những nỗi lo như trên. Rất nhiều người cũng như bạn nên… thôi, đừng lo nữa.

Bên cạnh đó, để làm tăng tính thuyết phục cho các nguyên tắc, tác giả trích dẫn rất nhiều các ví dụ đến từ những người hoặc rất nổi tiếng hoặc rất thành công trong sự nghiệp và thường thì là những người có được cả 2 điều trên cho đến những người vô danh đang sống một cuộc sống rất bình thường giống như bạn và tôi. Những cái tên như Winston Churchill (Nguyên thủ tướng Anh), Eleanor Roosevelt (Nguyên Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ), Henry Ford (người sáng lập hãng xe Ford nổi tiếng), tỷ phú John D.

Rockefeller chắc chắn sẽ làm cho bạn cảm thấy hứng khởi và hào hứng. Trong trường hợp, bạn cho rằng những người này quá xa vời so với cuộc sống hiện tại của bạn và bạn lại càng chẳng có ý định trở nên nổi tiếng hay có ảnh hưởng lên người này hay người khác thì tôi có thể nói để cho bạn yên tâm rằng: bạn sẽ được nghe những câu chuyện của những con người rất bình thường như cô nhân viên tốc ký của một công ty kinh doanh dầu hỏa (người mà sau đó được tác giả tiết lộ rất hài hước rằng câu chuyện về cô không thể sai được bởi đó là… vợ ông), một người doanh nhân Texas bừng bừng phẫn nộ, hay một bà già khốn khổ chẳng còn thiết tha sống khi mất đứa cháu duy nhất mà bà vô cùng yêu quý trong Thế chiến thứ 2.

Những con người này, dù trong hoàn cảnh nào thì những câu chuyện của họ đểu là những bài học vô giá từ chính những đau khổ, khốn cùng, lo lắng hay mệt mỏi đến cùng cực của mình. Tôi tin rằng khi đọc những câu chuyện về những con người từ mọi giai tầng của xã hội như vậy, bạn sẽ dễ có được sự đồng cảm với họ và bằng một cách nào đó, tìm ra cách giải quyết cho những vấn đề gây ra lo lắng của chính mình. Thậm chí, những nỗi lo lắng của tôi còn tan biến vì tôi nhận ra chúng là quá nhỏ bé so với những con người kia.

Ngoài ra, cách viết khoa học của tác giả giúp cho độc giả không thể thôi gật gù và dễ dàng nhớ được các nguyên tắc được gợi ý. Sau mỗi một phần chính của cuốn sách là phần tóm tắt vừa đầy đủ vừa ngắn gọn của tác giả giúp người đọc có thể dễ dàng và thuận tiện nhớ lại những điều vừa đọc xong. Không những thế, bên cạnh nội dung chính của cuốn sách, tác giả còn đưa ra những gợi ý để giúp chúng ta có thể phát huy cao nhât tác dụng của cuốn sách ở ngay đầu của tác phẩm.

Recommendation

Thực ra, trước đây khi tôi còn trẻ hơn 25, tôi không phải là một fan hâm hộ của những cuốn sách self-help. Tôi cảm giác chúng chẳng có giá trị nghệ thuật gì cả mà chỉ đơn giản là những lời khuyên thực dụng đến nhàm chán được tác giả viết ra chẳng ra chỉ là để móc tiền từ túi những kẻ cả tin. Tôi thích đọc tiểu thuyết hơn. Tuy nhiên, gần đây tôi nhận ra nhận thức này là một sự sai lầm lớn và nó chẳng khác gì từ chối tấm bản đồ khi bạn là một maze runner trong mê cung cuộc đời này.

Những cuốn self-help là một kiểu “nghệ thuật vị nhân sinh”, nó chắt lọc những kinh nghiệm và những bài học từ tác giả hoặc những người mà họ đã có cơ hội gặp gỡ. Tôi rất thích thú với suy nghĩ rằng mỗi con người, dù tốt hay xấu cũng đều có câu chuyện của riêng mình, những câu chuyện mà không phải ai cũng có đủ nhân duyên để được nghe. Những cuốn self-help giúp tôi được biết thêm nhiều những câu chuyện như thế.

Khi chúng ta còn trẻ, trong độ tuổi 20s, lo lắng và hoang mang dường như là điều không thể tránh khỏi. Và tôi có quyền tin rằng những lo lắng này có thể làm cho chúng ta khổ sở vật vã như thế nào bởi chính tôi và những người bạn của mình đều đã trải qua chúng, ngay cả lúc này đây: liệu có ai trân trọng bài viết review này của tôi. Sự thật thì cuốn sách đã dạy cho tôi biết rằng, đó không phải là điều tôi nên đặt quá nhiều quan tâm. Điều quan trọng là tôi được viết, được làm điều mình thích với một mục đích tốt: sẻ chia. Dù không ai cảm ơn thì tôi cũng tự cảm thấy hài lòng với chính mình. Vậy là đủ.

Tôi chỉ muốn nói với bạn rằng, cuốn sách này sẽ không lấy mất thời gian của bạn một cách vô nghĩa đâu. Bây giờ, quyết định nằm trong tay bạn.

Cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc hết bài review này.

 

Bảo Bình

Ngôn Pháp

Các em nhỏ gọi viết thư pháp là viết chữ xấu. Quan điểm này không khó chấp nhận. Vì chữ viết phải ngay ngắn thẳng hàng và đồng đều mới được gọi là điều kiện cần trong tiêu chuẩn đánh giá chữ đẹp để bổ sung cho điều kiện đủ là “đẹp”.

Thế nhưng có người vừa nhìn vào một bức thư pháp đã cho là “đẹp” ngay, mặc dầu chữ viết xiên xẹo, lệch lạc, nguệch ngoạc, thiếu cân xứng. Cách thưởng thức này cũng được đa số người lớn chấp nhận dễ dàng vì nó đáp ứng được quan điểm mỹ học.

Riêng “giới thư pháp” thì lại chưa hài lòng với những cách nhìn nhận trên

Nếu chỉ để đáp ứng cái khiếu thẩm mỹ thì thư pháp chỉ còn lại là một nghệ thuật viết chữ đẹp; hoặc như có người nói: đó chỉ là thư họa. Họan là vẽ, nghĩa là vẽ chữ: vẽ chữ đẹp!

Người Trung hoa, Á rập nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp không lấy gì làm lạ. Với chữ tượng hình thì họ chỉ cần viết chữ đẹp – bay bướm, cách điệu và phối các nét thanh và các nét đậm vào trong một bố cục – thì họ cũng đã đạt đến nghệ thuật thư pháp rồi. Chữ của họ là chữ tượng hình nên tự nó có thể biểu đạt được ý nghĩa rồi nên ít cần đến nghệ thuật diễn ý. Ý đã hàm trong từ. Như một nhà thư pháp Trung hoa đã nói: “Khi ý ở đầu ngọn bút, khỏi cần phải đi đến tận cùng ý.” [Hassan Massoudy – Người đưa tin UNESCO 12.1990-tr.38].

Và từ “thư pháp” của Trung hoa có nghĩa là “cách viết chữ” [callégraphy] tức “the Art of Written Forms” theo định nghĩa của Phương tây!

Với định nghĩa như thế, nhà thư pháp Việt nam chưa hài long ! Chưa hài lòng vì Tiếng Việt thuộc loại từ ký âm chứ không thuộc loại từ biểu ý; nên cho dầu viết có đẹp mà chưa đạt ý thì họ chưa vừa lòng. Mà thư pháp thì không chịu dừng lại cho đối tượng thẩm mỹ.

Mỗi bức thư pháp là một thông điệp! Một tâm tình! Một bản thể!

Để đạt mong muốn đó, nhà thư pháp Việt nam hầu như phải tự đi tìm một con đường riêng – một trường phái – Có thể tên gọi thì còn chờ đợi… nhưng cách bức phá thì họ đã khai phá!

Trình bày cái hệ ngôn ngữ ký âm như tiếng Việt qua nghệ thuật thư pháp đòi hỏi người viết chữ phải vượt lên trên thư pháp (cách viết chữ) để đạt đến ngôn pháp (cách trình bày[viết] lời nói); vì điều họ viết ra gọi là ngôn (lời nói).

Họ viết, không phải chỉ cốt trình cái chữ mà là trình cái bụng họ ra tức “ngôn vi tâm thanh” = lời nói là tiếng của tâm (tiếng lòng). Vì vậy, cái diễn bày tư tưởng ở ngôn pháp Việt Nam là chủ đạo chứ không phải cốt để trình bày chữ viết (thư pháp).

Chỗ khác nhau giữa ngôn pháp và thư pháp là ở biểu ý chứ không phải biểu mỹ. Vì chữ của ta là “phát âm sao viết vậy”; nghĩa là “viết sao là nói vậy” – và họ viết tức là nói!

Họ mượn nghệ thuật viết để nói. Họ nói bằng nghệ thuật viết!

Có thể gọi đó là thuật nói chuyện của người viết chữ.

Viết là tìm cách biểu đạt ngôn ý [ý trong lời nói], là thể hiện cách nói. Nói thế nào cho người khác hiểu lòng mình, ấy gọi là ngôn chí [bày tỏ cái ý chí của mình] và trình bày ra chữ viết thông qua nghệ thuật gọi là NGÔN PHÁP: nghệ thuật viết ra lời nói. Nói qua cách viết! Vì chữ của ta là biểu âm: nói sao viết vậy!

Khi nói, chính cái giọng điệu mới diễn đạt hết cái ý của người nói. Khi giận dữ, lúc yêu thương, khi cầu khẩn, lúc sai khiến, gợi ý hay chìu lòng… đều với một âm sắc riêng để bày tỏ cái tâm tình ấy.

Khi hai cô gái Huế nói với nhau: “Mái tóc con Thùy da…ài…ì…ì…!”

Một nhà diễn thuyết trình bày: “Lên NON, non TĨNH! Xuống ĐOÀI, đoài YÊN!”

Chuyển thể từ cách viết này trong văn pháp qua ngôn pháp, nhà ngôn pháp sẽ diễn đạt từng con chữ mạnh, nhẹ, dứt khoát hay ngập ngừng hoặc lã lướt, uyển chuyển tùy vào từng âm tiết của lời nói hơn là trìng bày câu văn.

Cái âm tiết Tiếng Việt là thanh, cho nên chính cái âm sắc/âm lượng khi nói mới là sức diễn đạt, và cũng chính âm sắc mới xác định ngữ nghĩa biểu đạt của từ hơn là chính nghĩa của từ. Và cũng chính vì thế mà Việt nam có một thể loại diễn ý một cách độc đáo và đặc sắc mà hầu như ít có dân tộc nào có được: đó là NGÂM THƠ!

Cái “âm điệu trong ngâm thơ” tặng cho ngòi bút nhà ngôn pháp cái âm lượng để thành một trường phái ngôn pháp Việt nam độc đáo và độc lập.

Tùy vào tâm trạng, tùy vào khí thế mà mỗi câu chữ có thể thể hiện qua cách ngâm Tao đàn, Sa mạc (bồng mạc), Lãy Kiều, Lục Vân Tiên (Bạc Liêu), Vè hay Ngâm Huế hoặc Hò…(Bắc, trung, Nam).

Để diễn tả niềm vui hay phong kín, ta có thể dùng lối Nam xuân (Bắc) hoặc diễn bày nổi buồn, ai oán thì dùng lối Nam ai/Nam oán.

Con chữ sẽ mạnh, nhẹ… dứt khoát hay kéo dài… theo với làn điệu ngân nga của thể thơ mà nhà ngôn pháp mượn làn hơi của người ngâm mà thể hiện qua ngọn bút!

Vì thế, không chừng, nếu nhà ngôn pháp Việt Nam nhấn mạnh hoặc ẻo lã không đúng chỗ sẽ dẫn đến sự hiểu lầm trái ý mình. Trong trường hợp này, người thưởng lãm không hiểu sai ý người viết mà chính người viết trình bày sai ý mình.

Và một bức tranh ngôn pháp cũng đáp ứng ba yếu tố cơ bản này: Chủ điểm – Bố cục và Nghệ thuật.

Chủ điểm: “Từ” chủ đạo được đặc biệt cường điệu, gây ấn tượng mạnh mẽ, thu hút ngay sự chú ý nơi người xem. Nhờ cách gợi ý đó mà điều họ muốn nói đã được quan tâm. Điều họ muốn nói đã nói ra lời (ngôn). Khi ấy bức ngôn pháp thành ra để “nghe” hơn là để ngắm. Ngôn pháp Việt nam đích thực là một thiền pháp, mà nhà ngôn pháp như một thiền sư bạo động với thiền sinh ngay ở chiêu đầu để đánh bật dậy cái tiềm thức cảm thụ uyên nguyên ngủ vùi trong mỗi con người cho sực tĩnh, như Tôn Ngộ Không đánh thức ngựa dậy khi ngựa ngủ – và ở bố cục sẽ làm nhiệm vụ lùa ngựa về chuồng khi ngựa đi rong –

Bố cục: “Từ” được phối trí trong tiết tấu kỹ hà nên tạo được nét hài hòa và vị trí được thu xếp đúng chỗ đã đưa được cái hốn độn vào trật tự, làm cho người thưởng lãm không mất định hướng trước điệu vũ của các con chữ. Trong bố cục, nhà ngôn pháp không quên sức mạnh của “hư không” – cái không gian trống vắng trong bức tranh -. Chính cái khoảng trống – như khoảng lặng trong âm nhạc – đưa cái hư vô đối diện với con người, làm cho con người bổng dưng rơi vào im vắng tịnh mịch. Im lặng, một nghệ thuật chiêu dụ trong thuật nói chuyện, kích thích sự chú tâm, chuẩn bị cho người nghe một sự đón nhận nôn nóng; mà nhà ngôn pháp mượn lại trong cách ngưng tĩnh đó để “nói” với người xem. Như thế, viết một bức tranh ngôn pháp hay chiêm ngắm đã trở thành một hành động tham gia, một hình thức suy tưởng để lời nói và ý nhẹ nhàng bộc lộ.

Nghệ thuật: thủ pháp của nhà ngôn pháp là mượn lại cái tính phóng túng của thiên nhiên trong phong thái bộc lộ để gợi mở cái mỹ cảm sơ nguyên cũng cơ hồ huyền ảo trong mỗi con người. Như thế, qua ngọn bút, họ phục hoạt lại cái nghệ thuật đột phá của thiên nhiên qua cái khí phách Baroque mạnh bạo, cái lã lướt, cái hờ hững trong ngôn pháp làm cho sức dẫn dụ càng thêm lôi cuốn để dễ tái tạo trong tâm người xem cái mà họ đánh mất trong lúc đi tìm – cái ngạc nhiên ban sơ ấy – Không gì kích thích bằng cái nữa kín nữa hở, thật thật hư hư, làm cho đối phương bị dục phải hạ quyết tâm khai mở: đó là biện pháp hư cấu trong ngôn pháp! Khơi dậy được cái tình cảm ngạc nhiên là đánh thức cái động năng khám phá nơi con người, thì từ đó (ở đây là người xem tranh) họ mới liễu được cái ẩn dụ mà người viết chôn chặc tự đáy lòng.

Lấy nét bút hòa cùng cái vô thường của thiên nhiên để đạt ý là cả một công phu nghệ thuật. Nhà ngôn pháp chỉ mong làm được điều ấy để xẻ chia cùng nổi niềm với người thưởng lãm.

Với họ thì…

Miếng ngon chẳng hưởng riêng mình,
Chia nhau thưởng thức, cùng nhau đượm tình.

 

Vũ Ngọc Anh

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 5)

 

Chính sách kinh tế tự do – Chương 2

Tổ chức kinh tế

Có thể phân biệt năm hệ thống tổ chức hợp tác giữa người với người trong xã hội đặt căn bản trên sự phân công lao động: hệ thống sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, mà đến một giai đoạn phát triển nào đó ta gọi là chủ nghĩa tư bản; hệ thống sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất nhưng tài sản thỉnh thoảng lại bị tịch thu để đem phân phối lại; hệ thống công đoàn (syndicalism); hệ thống sở hữu tập thể tư liệu sản xuất, được gọi là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản và cuối cùng là hệ thống can thiệp.

Lịch sử của quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất trùng hợp với lịch sử của sự phát triển của nhân loại từ tình trạng bán khai, ăn lông ở lỗ đến những tầm cao nhất của nền văn minh hiện đại. Những người phản đối sở hữu tư nhân đã phải mất rất nhiều tâm trí để chứng minh rằng trong thời nguyên thuỷ định chế sở hữu tư nhân chưa đạt tới hình thức hoàn thiện vì một phần đất canh tác vẫn thường xuyên được mang ra chia lại. Từ luận điểm cho rằng sở hữu tư nhân chỉ là “phạm trù mang tính lịch sử”, họ cố gắng rút ra kết luận rằng một lúc nào đó có thể không cần đến nó nữa.

Sai lầm về mặt logic trong lập luận này rõ ràng đến nỗi chẳng cần phải thảo luận thêm làm gì. Sự hợp tác mang tính xã hội trong thời thượng cổ có thể tồn tại được ngay cả khi chưa có hệ thống sở hữu tư nhân hoàn bị chẳng cho ta một tí chứng cớ nào chứng tỏ rằng ở những giai đoạn phát triển cao nhất xã hội cũng không cẩn sở hữu tư nhân. Nếu lịch sử có thể chứng minh được một điều gì đó liên quan tới vấn đề này thì đấy chính là chưa ở đâu và chưa bao giờ có một dân tộc có thể thoát khỏi cảnh cơ cực và thiếu thốn chẳng khác gì súc vật mà lại không cần đến sở hữu tư nhân.

Những người phản đối hệ thống quyền sở hữu tư nhân phương tiện thời kỳ đầu không tấn công định chế sở hữu tư nhân mà chỉ tấn công sự bất bình đẳng trong việc phân phối thu nhập mà thôi. Họ đề nghị loại bỏ sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản bằng cách định kỳ phân phối lại toàn bộ hàng hoá hoặc ít nhất là phân chia lại ruộng đất, tức là phân chia lại tác nhân sản xuất duy nhất vào lúc đó. Trong những nước lạc hậu về mặt công nghệ, nơi mà sản xuất nông nghiệp thô sơ vẫn còn giữ thế thượng phong, ý tưởng về việc phân chia một cách bình đẳng tài sản như thế vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày hôm nay.

Người ta thường gọi đấy là chủ nghĩa xã hội nông nghiệp, mặc dù gọi như thế là hoàn toàn không đúng vì nó chẳng có gì chung với chủ nghĩa xã hội hết. Cách mạng Bolshevik ở Nga, bắt đầu là cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng đã không xây dựng được chủ nghĩa xã hội trong sản xuất nông nghiệp – tức là sở hữu tập thể đối với ruộng đất – mà là xây dựng chủ nghĩa xã hội nông nghiệp. Trên những khu vực rộng lớn trong phần còn lại của Đông Âu việc chia những điền trang rộng lớn cho những chủ trại nhỏ, gọi là cải cách ruộng đất, là lý tưởng được nhiều đảng chính trị có nhiều người ủng hội.

Chẳng cần phải mất thì giờ thảo luận thêm về hệ thống này làm gì. Chắc chắn năng suất lao động sẽ giảm, điều này thì khó mà cãi được. Chỉ có những nơi vẫn còn canh tác bằng những phương pháp cổ sơ nhất thì người ta mới không nhận ra sự sụt giảm năng suất lao động sau khi chia ruộng mà thôi. Ai cũng biết rằng việc chia nhỏ trang trại sản xuất sữa được trang bị máy móc hiện đại là việc làm cực kỳ vô lý. Đưa nguyên tắc chia nhau vào công nghiệp và các công ty thương mại là chuyện hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.

Đường sắt, máy cán thép, nhà máy sản xuất máy công cụ là những thứ không thể nào đem chia được. Người ta chỉ có thể định kỳ phân chia lại tài sản nếu trước đó người ta đã đập tan nền kinh tế đặt căn bản trên sự phân công lao động và thị trường tự do và trở về với nền kinh tế trang trại tự cấp tự túc, đấy là các trang trại dù sống gần nhau cũng không buôn bán với nhau.

Tư tưởng của chủ nghĩa công đoàn (syndicalism) chính là nỗ lực nhằm đưa lý tưởng phân chia đồng đều tài sản vào thời công nghiệp lớn hiện đại. Chủ nghĩa công đoàn không tìm cách giao tài sản vào tay tư nhân hay xã hội mà giao cho các công nhân đang làm trong từng lĩnh vực hoặc từng ngành công nghiệp.

Vì tỷ lệ kết hợp giữa tác nhân vật chất và tác nhân con người trong mỗi lĩnh vực sản xuất là khác nhau cho nên không thể chia đều tài sản theo cách đó. Nếu đem chia thì ngay từ đầu người công nhân trong một số ngành nghề sẽ nhận được nhiều hơn công nhân ở những ngành khác. Người ta buộc phải nghĩ tới những khó khăn chắc chắn sẽ xuất hiện vì phải thường xuyên chuyển vốn và lao động từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác. Liệu có thể rút vốn từ ngành công nghiệp này để trang bị cho ngành khác hay không?

Liệu có thể đưa người công nhân từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác, sang nơi cần ít vốn đầu tư cho một chỗ làm hay không? Việc luân chuyển như thế là bất khả thi, cho nên cộng đồng thịnh vượng chung của chủ nghĩa công đoàn là sự lố bịch hoàn toàn và hình thức tổ chức xã hội như thế là bất khả thi. Nhưng nếu chúng ta cho rằng bên cạnh các cá nhân và bên trên họ còn có chính quyền trung ương có nhiệm vụ thực hiện những sự luân chuyển như thế thì đấy không còn là chủ nghĩa công đoàn nữa mà đã là chủ nghĩa xã hội rồi. Trên thực tế, chủ nghĩa công đoàn là một lý tưởng xã hội ngớ ngẩn đến mức chỉ có những kẻ đần độn chẳng hề suy nghĩ gì mới có thể đứng ra biện hộ cho nó.

Chủ nghĩa xã hội hay là chủ nghĩa cộng sản là tổ chức xã hội, trong đó tài sản – tức là quyền sử dụng tất cả các tư liệu sản xuất đều được trao vào tay xã hội – cũng có nghĩa là trao vào tay nhà nước, trao vào tay bộ máy cưỡng bức và đàn áp. Một xã hội được coi là xã hội chủ nghĩa không phải vì lợi tức xã hội được chia đều cho mọi người hay chia theo bất cứ nguyên tắc nào khác. Cũng không phải vì chủ nghĩa xã hội xuất hiện bằng cách chuyển quyền sở hữu tất cả các tư liệu sản xuất vào tay nhà nước, tức là vào tay bộ máy cưỡng bức và đàn áp hay các chủ sở hữu tiếp tục giữ các tài sản đó và việc xã hội hoá được thực hiện bằng cách tất cả những “người chủ” phải sử dụng những phương tiện nằm trong tay họ theo những quy định của nhà nước.

Nếu nhà nước quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bán cho ai, với giá bao nhiêu thì sở hữu tư nhân chỉ còn là tên gọi; trên thực tế, toàn bộ tài sản đã bị xã hội hoá vì động cơ chính của hoạt động kinh tế của các doanh nhân và các nhà tư sản đã không còn là tìm kiếm lợi nhuận nữa, mà là phải thực hiện những nhiệm vụ mà người ta giao cho và tuân theo những mệnh lệnh mà người ta ban hành.

Cuối cùng, cần phải nói về chủ nghĩa can thiệp. Theo ý kiến của nhiều người thì đây là biện pháp trung dung giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, là phương pháp tổ chức xã hội thứ ba: hệ thống sở hữu tư nhân được điều tiết, được kiểm soát và định hướng bằng những sắc lệnh của chính quyền (những hành động can thiệp).

Hệ thống phân chia lại tài sản theo định kỳ và hệ thống của chủ nghĩa công đoàn sẽ không được thảo luận ở đây. Hai hệ thống này thường không tạo ra tranh luận. Không có ai, đấy là nói những người được coi là nghiêm túc, đứng ra bảo vệ những hệ thống này. Chúng ta chỉ cần quan tâm đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa can thiệp và chủ nghĩa tư bản.

Sở hữu tư nhân và những người phê phán nó

Cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng hạnh phúc. Trái đất không phải là thiên đường. Mặc dù đấy không phải là lỗi của các định chế xã hội nhưng người ta lại có thói quen đổ trách nhiệm cho nó. Cơ sở của tất cả các nền văn minh, kể cả nền văn minh của chúng ta, là sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Vì vậy mà bất cứ người nào muốn chỉ trích nền văn minh hiện đại cũng đều bắt đầu bằng việc chỉ trích sở hữu tư nhân. Người phê phán có thể lên án tất cả những gì làm anh ta không vừa ý, đặc biệt là những cái xấu xa có nguồn gốc từ sự kiện là sở hữu tư nhân đã cản trở và trong một số lĩnh vực ngăn chặn, làm cho tiềm năng của xã hội không thể phát huy một cách trọn vẹn được.

Phương pháp mà những người phê phán hay dùng là nói rằng mọi thứ sẽ tuyệt vời đến mức nào nếu anh ta được làm theo cách của mình. Trong những giấc mơ của mình anh ta thường giết chết hết những ý tưởng đối lập với ý tưởng của anh ta, bằng cách đưa anh ta hay là một người nào đó có ý tưởng giống hệt như anh ta lên địa vị chủ nhân ông tuyệt đối của thế giới. Bất cứ người nào thuyết pháp về quyền lực của kẻ mạnh cũng tự coi mình là kẻ mạnh cả. Còn người nào ủng hộ chế độ nô lệ thì không bao giờ thử mường tượng mình cũng có thể rơi vào tình trạng nô lệ.

Người đòi hỏi hạn chế quyền tự do lương tâm thực ra chỉ hạn chế người khác chứ không hạn chế chính mình. Người ủng hộ chế độ chính trị đầu sỏ bao giờ cũng nghĩ rằng mình thuộc nhóm đầu sỏ, còn kẻ cảm thấy đê mê khi nghĩ đến chế độ chuyên chế hay độc tài thông thái thì trong những giấc mơ giữa ban ngày như thế, hắn sẽ chẳng cần khiêm tốn để không giao cho mình vai trò của kẻ chuyên chế hay nhà độc tài thông thái, hoặc chí ít thì cũng là kẻ chuyên chế đứng trên một kẻ chuyên chế khác, độc tài đứng trên một nhà độc tài khác.

Chính vì không có ai muốn thấy mình ở địa vị của kẻ yếu hơn, của kẻ bị áp bức, của kẻ bị khuất phục, của kẻ bị trị, bị tước hết quyền lợi; cho nên trong chủ nghĩa xã hội ai cũng chỉ muốn làm tồng giám đốc hoặc là thày dùi cho tổng giám đốc. Đấy là cuộc đời duy nhất đáng sống trong những giấc mơ và trong trí tưởng tượng về chủ nghĩa xã hội của họ.

Sách báo bài tư bản đã tạo ra khuôn mẫu cho trí tưởng tượng của những kẻ mộng mơ bằng cách lợi dụng quan niệm thường thấy về mâu thuẫn giữa lợi ích và năng suất. Trong suy nghĩ của họ, những chuyện xảy ra trong chủ nghĩa tư bản trái ngược với – đấy là theo ước muốn của những người phê phán – những điều sẽ được thực hiện trong chế độ xã hội chủ nghĩa lý tưởng. Tất cả những gì lệch khỏi hình ảnh lý tưởng này đều được coi là vô ích. Lợi ích lớn nhất của những cá nhân riêng biệt và năng suất lao động cao nhất của xã hội không phải lúc nào cũng trùng hợp với nhau. Và đấy được coi là khuyết tật nghiêm trọng nhất của hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Chỉ trong mấy năm gần đây người ta mới nhận thức được rằng trong phần lớn các trường hợp, xã hội xã hội chủ nghĩa cũng phải hành động chẳng khác gì các cá nhân riêng lẻ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng ngay cả trong những trường hợp mà mâu thuẫn như thế quả thật là có thì ta cũng không thể giả định rằng xã hội xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ làm đúng và xã hội tư bản bao giờ cũng đáng phê phán nếu nó làm một cái gì đó khác đi. Khái niệm năng suất là một khái niệm có tính chủ quan và không thể là xuất phát điểm cho việc phê phán mang tính khách quan được.

Như vậy là, chẳng nên mất thì giờ với suy tưởng của những kẻ mộng mơ-độc tài của chúng ta mà làm gì. Trong ảo mộng của hắn ta, mọi người đều nóng lòng, đều sẵn sàng thực hiện ngay lập tức và chính xác mệnh lệnh của hắn. Nhưng trong chủ nghĩa xã hội sự vật sẽ hiện ra như thế nào, đấy là nói trên thực tế chứ không phải trong tưởng tượng, lại là vấn đề hoàn toàn khác. Các tính toán thống kê đơn giản chứng minh rằng giả định cho rằng việc phân phối một cách đồng đều tổng sản phẩm hàng năm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cho tất cả các thành viên trong xã hội sẽ đảm bảo đủ sống cho mỗi người là giả định hoàn toàn sai.

Như vậy là, xã hội xã hội chủ nghĩa khó mà có thể gia tăng được mức sống của quảng đại quần chúng. Hi vọng có một cuộc sống thịnh vượng, thậm chí giàu có cho tất cả mọi người chỉ có thể trở thành hiện thực nếu năng suất lao động trong chế độ xã hội chủ nghĩa cao hơn năng suất lao động trong chủ nghĩa tư bản và hệ thống xã hội chủ nghĩa có thể tránh được những việc chi tiêu lãng phí, cũng có nghĩa là tránh được những chi phí vô ích.

Về điểm thứ hai, có người nghĩ đến việc bãi bỏ những chi phí liên quan đến việc tiêu thụ, cạnh tranh và quảng cáo sản phẩm. Rõ ràng là trong chủ nghĩa xã hội sẽ không còn những chi tiêu như thế nữa. Nhưng không được quên rằng bộ máy phân phối xã hội chủ nghĩa cũng sẽ có chi phí không phải là nhỏ, thậm chí còn lớn hơn là bộ máy trong chủ nghĩa tư bản nữa. Nhưng đấy không phải là vấn đề quyết định trong việc thảo luận của chúng ta về tầm quan trọng của những chi phí như thế. Những người xã hội chủ nghĩa giả định, thậm chi coi là đương nhiên rằng năng suất lao động trong chủ nghĩa xã hội ít nhất cũng bằng chủ nghĩa tư bản, và cố gắng chứng minh rằng năng suất lao động sẽ cao hơn.

Nhưng giả định đầu tiên không thể là chuyện dĩ nhiên như những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội vẫn nghĩ. Số lượng sản phẩm được sản xuất trong xã hội tư bản không phải là không phụ thuộc vào cách thức tổ chức quá trình sản xuất. Điều quan trọng là tại mỗi giai đoạn trong từng lĩnh vực sản xuất mỗi người tham gia đều đặc biệt quan tâm tới năng suất lao động của phần lao động cụ thể mà mình đóng góp. Mỗi người công nhân đều cố gắng hết sức vì tiền lương phụ thuộc vào kết quả lao động của anh ta, và mỗi doanh nhân đều cố gắng sản xuất với giá thành rẻ hơn, nghĩa là với chi phí về lao động và tư bản thấp hơn người cạnh tranh với anh ta.

Chỉ nhờ những động cơ như thế mà chủ nghĩa tư bản mới có thể sản xuất được số lượng tải sản mà nó đang nắm trong tay. Phê phán những chi phí quá cao của bộ máy tiêu thụ tư bản chủ nghĩa là quan điểm thiển cận. Những người phê phán chủ nghĩa tư bản là phung phí nguồn lực vì họ thấy trên những đường phố sầm uất có quá nhiều người bán đồ lót cạnh tranh với nhau và thậm chí người bán thuốc lá còn nhiều hơn nữa, là những người không nhận thức được rằng việc tổ chức buôn bán như thế chỉ là kết quả của cơ chế sản xuất bảo đảm cho năng suất lao động cao nhất mà thôi.

Sản xuất đã đạt được tất cả những tiến bộ như thế là vì bản chất của cơ chế này là liên tục tạo ra tiến bộ. Chỉ nhờ sự kiện là tất cả các doanh nhân đều phải liên tục cạnh tranh và liên tục bị đẩy ra khỏi thương trường một cách không thương tiếc nếu họ không sản xuất một cách có lợi nhất mà các phương pháp sản xuất mới thường xuyên được cải tiến và hoàn thiện. Nếu động cơ đó không còn thì tiến bộ trong sản xuất cũng không còn và người ta cũng không còn tiết kiệm chi phí nữa. Cho nên câu hỏi sẽ tiết kiệm được bao nhiêu nếu không còn quảng cáo là một câu hỏi hoàn toàn phi lý. Người ta nên hỏi sẽ sản xuất được bao nhiêu nếu không còn cạnh tranh nữa. Câu trả lời chắc chắn là đã rõ.

Tay làm hàm nhai, nghĩa là người ta chỉ có thể tiêu dùng những thứ mà mình làm ra. Đặc điểm căn bản của hệ thống tư bản chủ nghĩa là nó tạo cho mỗi người động lực thực hiện công việc của mình một cách hiệu quả nhất và như vậy cũng có nghĩa là có năng suất cao nhất. Trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mối liên hệ trực tiếp giữa lao động của cá nhân với những món hàng và dịch vụ mà anh ta có thể được hưởng rõ ràng là không tồn tại. Động cơ lao động sẽ không phải là khả năng hưởng thụ thành quả lao động của mình mà là mệnh lệnh của chính quyền và tinh thần trách nhiệm của chính mình. Lý  lẽ chứng tỏ rằng cách tổ chức lao động như thế là việc làm bất khả thi sẽ được trình bày trong chương sau.

Sự kiện thường xuyên bị người ta đem ra phê phán là trong hệ thống tư bản chủ nghĩa những người chủ sở hữu tư liệu sản xuất bao giờ cũng là những kẻ có đặc quyền đặc lợi. Họ có thể sống mà chẳng cần làm. Nếu xem xét chế độ xã hội từ quan điểm cá nhân chủ nghĩa thì ta phải công nhận rằng đây đúng là khuyết tật nghiêm trọng của chủ nghĩa tư bản.

Tại sao người này lại có địa vị thuận lợi hơn người kia? Nhưng nếu ta không xem xét các sự vật từ quan điểm của một cá nhân riêng biệt mà từ quan điểm của toàn bộ trật tự xã hội thì ta sẽ thấy rằng người nắm giữ tài sản sẽ chỉ giữ được địa vị của mình với điều kiện là anh ta phải cung cấp những dịch vụ cục kỳ cần thiết đối với xã hội. Nhà tư bản chỉ có thể giữ được địa vị của mình với điều kiện là anh ta phải đưa những tư liệu sản xuất đó vào trong những lĩnh vực quan trọng nhất đối với xã hội.

Nếu anh ta không làm được như thế – nếu anh ta đầu tư sai lầm – anh ta sẽ bị lỗ và nếu anh ta không kịp thời sửa chữa sai lầm thì chẳng bao lâu sau anh ta sẽ bị đẩy ra khỏi vị trí thuận lợi của mình. Anh ta sẽ không còn là nhà tư sản nữa, những người khác, tức là những người phù hợp hơn sẽ chiếm được vị trí của anh ta. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất bao giờ cũng nằm trong tay những người phù hợp nhất, và dù muốn dù không họ cũng phải thường xuyên lo lắng nhằm sử dụng các phương tiện đó sao cho chúng có thể mang lại hiệu quả cao nhất.

Tư hữu và chính phủ

Tất cả các nhà cầm quyền, tất cả các chính phủ, vua chúa và các chính quyền cộng hoà, đều có thái độ nghi ngờ sở hữu tư nhân. Tất cả các chính quyền đều có xu hướng không chịu công nhận bất kỳ giới hạn nào đối với hoạt động của mình và đều muốn khuyếch trương lĩnh vực cai trị của mình ra càng rộng càng tốt. Quản lý tất, không để cho bất cứ thứ gì có thể tự ý xảy ra mà không có sự can thiệp của chính quyền – đấy là mục tiêu mà tất cả những người có quyền đều bí mật hướng tới.

Nếu như không có sở hữu tư nhân ngáng đường! Sở hữu tư nhân tạo ra cho người ta lĩnh vực mà ở đó người ta có thể sống độc lập với nhà nước. Nó tạo ra giới hạn cho việc thực thi ý chí của chính quyền. Nó tạo điều kiện cho những lực lượng khác xuất hiện bên cạnh và hoạt động đối lập với chính quyền. Như vậy là, sở hữu tư nhân trở thành nền tảng của tất cả những hoạt động độc lập với sự can thiệp mang tính bạo lực từ phía nhà nước. Đấy là mảnh đất ươm mầm hạt giống của tự do và là nơi cung cấp dưỡng chất cho sự độc lập của các cá nhân cũng như sự phát triển, cả về vật chất lẫn tinh thần, của xã hội nói chung.

Người ta thậm chí còn gọi sở hữu tư nhân là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của cá nhân là theo nghĩa như thế. Nhưng câu nói đó chỉ có thể được chấp nhận với những sự dè dặt nhất định vì sự đối lập giữa cá nhân và tập thể, giữa các tư tưởng và mục đích mang tính cá nhân và mang tính tập thể, đã trở thành những quan điểm lỗi thời rổng tuếch.

Như vậy nghĩa là chẳng bao giờ có lực lượng chính trị nào chịu tự nguyện từ bỏ thói quen cản trở sự phát triển và hoạt động của định chế sở hữu tư nhân đối với các tư liệu sản xuất. Các chính phủ chịu đựng sở hữu tư nhân khi họ buộc phải làm như thế, nhưng họ không tự nguyện công nhận tính tất yếu của nó. Ngay cả các chính khách theo đường lối tự do sau khi giành được quyền lực, dù ít dù nhiều, cũng thường tìm cách đẩy những nguyên tắc tự do xuống hàng thứ yếu.

Xu hướng áp đặt những hạn chế mang tính áp bức đối với sở hữu tư nhân, lạm dụng quyền lực chính trị, không chịu tôn trọng hay công nhận bất kỳ lĩnh vực tự do nào – bên ngoài sự chi phối của nhà nước – đã bén rễ rất sâu vào trong tâm trí của những người nắm quyền kiểm soát bộ máy cưỡng bức và đàn áp, không bao giờ họ có thể tự nguyện chống lại được cám dỗ như thế. Chính phủ tự do là chính phủ contradictio in adjecto [mang trong mình nó mâu thuẫn nội tại – tiếng Latinh, ND]. Do áp lực của dư luận của toàn dân mà các chính phủ phải chấp nhận chủ nghĩa tự do, chính phủ tự nguyện trở thành chính phủ tư do là hi vọng viển vông.

Điều gì buộc những người cai trị phải công nhận quyền sở hữu của các thần dân của họ? Không khó hiểu nếu đấy là một xã hội gồm toàn những điền chủ giàu có như nhau. Trong chế độ xã hội như thế, bất kỳ nỗ lực nào nhằm hạn chế quyền sở hữu đều sẽ gặp phải sự phản đối tức thời của tất cả các thần dân và chính phủ sẽ bị đổ. Nhưng tình hình sẽ khác hẳn nếu đấy không phải là xã hội thuần nông mà có cả sản xuất công nghiệp nữa, đặc biệt là nếu có các doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp bỏ nhiều vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp, khai khoáng và thương mại.

Trong xã hội như thế, những người nắm quyền trong chính phủ có thể dễ dàng thực hiện những hành động nhằm chống lại sở hữu tư nhân. Trên thực tế, tấn công vào sở hữu tư nhân bao giờ cũng mang lại cho chính phủ nhiều thuận lợi hơn cả – rất dễ dàng kích động quần chúng đứng lên chống lại những người có nhiều đất đai và tư bản. Vì vậy mà liên kết với “nhân dân” nhằm chống lại giai cấp có của đã và vẫn là tư tưởng của tất cả các vua chúa, của tất cả những nhà độc tài và bạo chúa từ xưa đến nay.

Đế chế thứ hai của Louis Napoleon không chỉ là chế độ được xây dựng trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Caesar. Nhà nước độc tài của dòng họ Hohenzollerns ở Phổ cũng nắm lấy tư tưởng về việc giành sự ủng hộ của giai cấp công nhân trong cuộc chiến chống lại giai cấp tư sản tự do bằng chính sách của chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa can thiệp do Lassalle đưa vào nền chính trị Đức trong cuộc đấu tranh hiến pháp ở Phổ. Đấy chính là nguyên tắc căn bản của “chế độ quân chủ xã hội”, một chế độ được Schmoller và trường phái của ông ta hết sức tán dương.

Tuy nhiên, bất chấp tất cả những sự ngược đãi như thế, định chế sở hữu tư nhân vẫn tiếp tục tồn tại. Cả sự tức giận của chính phủ, cả những chiến dịch đầy thù hận của những nhà văn và những nhà đạo đức học, của nhà thờ và các tôn giáo lẫn sự oán hờn của quần chúng – có nguồn gốc từ sự ghen tức mang tính bản năng – đều không thể tiêu diệt được nó. Mọi cố gắng nhằm thay nó bằng phương pháp tổ chức sản xuất và phân phối khác đều nhanh chóng chứng tỏ rằng đấy là việc làm phi lý và bất khả thi. Người ta buộc phải công nhận rằng định chế sở hữu tư nhân là định chế tối cần thiết và dù muốn dù không, người ta phải quay về với nó.

Tuy nhiên, cho đến nay người ta vẫn không chịu hiểu rằng lý do của việc quay trở lại với định chế sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất là: về nguyên tắc đấy là nền tảng của hệ thống kinh tế nhằm phục vụ các nhu cầu và mục đích của con người. Người ta vẫn không thể giải thoát khỏi hệ tư tưởng đã bám vào đầu óc họ, mà cụ thể là tin rằng sở hữu tư nhân là cái ác mà ta phải chấp nhận cho đến khi nhân loại đủ trưởng thành về mặt đạo đức. Mặc dù chính phủ – trái ngược với những dự định và xu hướng của mọi trung tâm quyền lực – chấp nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân, nhưng họ vẫn tiếp tục bám chặt vào (không chỉ bằng biểu hiện bên ngoài mà cả trong suy nghĩ) hệ tư tưởng thù địch với quyền tư hữu. Thực ra, họ cho rằng về nguyên tắc phản đối sở hữu tư nhân là đúng và chỉ vì yếu đuồi hoặc phải tính đến quyền lợi của những nhóm có nhiều ảnh hưởng mà họ phải đi chệch khỏi nguyên tắc này mà thôi.

Chủ nghĩa xã hội là bất khả thi

Người ta thường nghĩ rằng chủ nghĩa xã hội là bất khả thi vì dân chúng chưa có những phẩm chất mà chủ nghĩa xã hội yêu cầu. Người ta sợ rằng trong chủ nghĩa xã hội phần đông sẽ không nhiệt tình thực hiện trách nhiệm và công việc như họ đã từng thể hiện trong những công việc hàng ngày trong chế độ dựa trên quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong xã hội tư bản mỗi người đều biết rằng làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, thu nhập tỷ lệ thuận với thành quả lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người đều nghĩ rằng hiệu suất lao động của anh ta chẳng có giá trị bao nhiêu vì đằng nào thì anh ta cũng được chia một phần nhất định rồi, còn sự lười nhác của bất kỳ người nào cũng chẳng làm cho tổng tài sản giảm đáng kể được. Đáng sợ là đấy sẽ là nhận thức chung của tất cả mọi người và năng suất lao động của chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ giảm đi trông thấy.

Sự phản đối chống lại chủ nghĩa xã hội như vậy là hoàn toàn có lý, nhưng nó không đi vào thực chất của vấn đề. Nếu trong chế độ xã hội chủ nghĩa ta có thể xác định được thành quả lao động của mỗi người với độ chính xác như việc hạch toán kinh tế trong hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm thì tính khả thi của chủ nghĩa xã hội sẽ không phụ thuộc vào lòng tốt của bất cứ người nào. Ít nhất xã hội cũng có thể, trên cơ sở đóng góp của mỗi người, xác định được phần sẽ chia cho người đó. Chủ nghĩa xã hội bất khả thi chính vì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được hạch toán kinh tế như thế.

Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, tính toán lợi nhuận sẽ cho người ta biết rằng xí nghiệp mà người đó đang vận hành có nên hoạt động nữa hay không, và nó có hoạt động hữu hiệu nhất hay không, nghĩa là có hoạt động với chi phí sản xuất thấp nhất hay không. Nếu không có lãi thì nghĩa là nguyên vật liệu, bán thành phẩm và lao động cần dùng ở đó có thể được các xí nghiệp khác sử dụng cho những mục đích cấp bách hơn và cần thiết hơn, đấy là nói theo quan điểm của người tiêu dùng, hoặc sử dụng cho những mục đích đó nhưng tiết kiệm hơn (nghĩa là với chi phí thấp hơn về lao động và tư bản). Thí dụ như việc dệt vải thủ công đã không có lãi nữa. Điều đó chứng tỏ rằng vốn và lao động được sử dụng trong ngành công nghiệp dệt tạo ra nhiều sản phẩm hơn và cũng có nghĩa là sẽ không kinh tế nếu cứ bám lấy ngành sản xuất với cùng đồng vốn và lao động nhưng lại tạo ra ít sản phẩm hơn.

Người ta có thể tính toán trước xem một nhà máy sắp được xây dựng có mang lại lợi nhuận hay không và mang lại bằng cách nào. Thí dụ nếu người ta có ý định xây dựng một tuyến đường sắt thì người ta có thể đánh giá số lượng hàng hoá và hành khách cần vận chuyển, giá vé, để tính toán xem có nên đầu tư vốn và lao động vào tuyến đường đó hay không. Nếu kết quả tính toán cho thấy tuyến đường được dự kiến không mang lại lợi nhuận có nghĩa là vốn và lao động nên được đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết hơn cho xã hội. Thế giới chưa giàu có tới mức có thể cho phép người ta chi tiêu những khoản như thế. Nhưng tính toán giá thành và lợi nhuận có giá trị quyết định không chỉ khi giải quyết vấn đề khởi sự một công việc mới mà nó còn kiểm soát mỗi bước đi của doanh nhân trong quá trình điều hành công việc làm ăn của mình.

Hạch toán kinh tế tư bản chủ nghĩa – chỉ có nó mới có thể làm cho việc sản xuất trở thành hữu lý – là tính toán bằng tiền. Chỉ vì rằng giá của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ trên thị trường đều có thể quy thành tiền cho nên các loại hàng hoá và dịch vụ này – dù chúng có khác biệt nhau đến đâu – cũng có thể đưa vào những tính toán đòi hỏi những đơn vị đo lường đồng nhất. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nơi tất cả các tư liệu sản xuất đều là sở hữu toàn dân, nơi, vì vậy mà không có thị trường, không có sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra, cho nên không thể quy được giá trị hàng hoá và dịch vụ cao cấp thành tiền. Như vậy nghĩa là xã hội đó không có phương tiện quản lý hữu lý các xí nghiệp tức là không thể hạch toán kinh tế. Hạch toán kinh tế sẽ không thể thực hiện được nếu tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ không thể quy về một mẫu số chung.

Xin xem xét một trường hợp đơn giản nhất. Đường sắt nối A với B có thể được xây dựng theo những tuyến khác nhau. Giả sử giữa A và B có một ngọn núi. Có thể xây dựng tuyến đường trèo lên núi, đi vòng quanh núi hoặc theo đường hầm xuyên qua lòng núi. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa tính xem đoạn đường nào có lợi nhất là việc cực kỳ đơn giản. Người ta sẽ xác định giá thành xây dựng của mỗi đoạn đường và sự chênh lệch về chi phí trong quá trình khai thác trên mỗi cung đường. Từ những tính toán như thế sẽ dễ dàng xác định cung đường nào có lợi nhất. Nhưng chủ nghĩa xã hội lại không thể tính toán được. Vì nó không đưa tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau mà ta cần phải hạch toán vào một đơn vị đo lường thống nhất.

Chủ nghĩa xã hội sẽ trở thành bất lực trước những vấn đề quản lý kinh tế diễn ra thường xuyên, hàng ngày, vì nó không thể hạch toán được. Hiện nay chúng ta có được sự thịnh vượng đủ sức nuôi được nhiều người hơn thời tiền tư bản chính là vì phương pháp tư bản chủ nghĩa bao gồm một loạt quá trình sản xuất gắn bó với nhau và để có thể hoạt động được thì lại cần phải hạch toán bằng tiền. Chủ nghĩa xã hội không thể làm được như thế. Những người cầm bút theo đường lối xã hội chủ nghĩa chỉ mất công toi khi tìm cách chứng minh rằng có thể quản lý được sản xuất mà không cần hạch toán về chi phí và giá thành. Tất cả những cố gắng của họ trong lĩnh vực này đều sẽ thất bại..

Như vậy là những người cầm quyền trong chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ phải đối mặt với một vấn đề mà họ sẽ không thể nào giải quyết được. Không thể nào xác định được trong vô vàn phương án hành động phương án nào sẽ hữu lý nhất. Sự hỗn loạn trong lĩnh vực kinh tế chắc chắn sẽ dẫn đến hiện tượng nghèo khổ một cách toàn diện và không thể đảo ngược được và sẽ thoái hoá trở lại tình trạng bán khai mà tổ tiên ta từng sống.

Lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nếu được thưc thi đến cùng, sẽ dẫn đến một trật tự xã hội trong đó tất cả các tư liệu sản xuất sẽ nằm trong tay toàn thể nhân dân. Quá trình sản xuất sẽ nằm hoàn toàn trong tay chính phủ, trong tay trung tâm quyền lực của xã hội. Chính phủ sẽ một mình quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối hàng hoá như thế nào. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tương lai như thế được dựng lên bằng con đường dân chủ hay bằng những con đường khác cũng chẳng tạo ra sự khác biệt nào. Ngay cả nhà nước xã hội dân chủ cũng phải thiết lập một bộ máy quan liêu được tổ chức một cách chặt chẽ, trong đó mỗi người, trừ những quan chức cao cấp nhất, đều là một nhân viên của bộ máy, có trách nhiệm thực thi vô điều kiện các chỉ thị của chính quyền trung ương, dù rằng anh ta, với vai trò của một cử tri, có thể tham gia vào việc soạn thảo ra các chỉ thị như thế.

Xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa kiểu như thế khác hẳn với những xí nghiệp quốc doanh mà chúng ta thấy ở châu Âu, đặc biệt là ở Đức và Nga, trong mấy chục năm gần đây [Ý nói nước Nga trong giai đoạn kinh tế mới (NEP) – chú thích của bản tiếng Nga – ND]. Tất cả các xí nghiệp này đều phát triển bên cạnh những xí nghiệp với sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Các xí nghiệp này giao dịch với những xí nghiệp do các nhà tư sản nắm và quản lý và họ nhận được từ những xí nghiệp như thế những động lực khác nhau nhằm củng cố cho hoạt động của mình. Thí dụ như đường sắt quốc doanh được những nhà sản xuất đầu máy, sản xuất toa xe, sản xuất thiết bị truyền tín hiệu và những máy móc, cung cấp những thiết bị từng được sử dụng trên những tuyến đường nằm trong tay tư nhân. Như vậy là, xí nghiệp quốc doanh được khuyến khích cải tiến để theo kịp về mặt công nghệ và phương pháp quản lý kinh doanh đang diễn ra xung quanh.

Mọi người đều biết rằng các xí nghiệp quốc doanh và xí nghiệp địa phương nói chung đều thất bại: chúng vừa đắt vừa thiếu hiệu năng, phải lấy thuế ra để trợ cấp thì chúng mới tiếp tục hoạt động được. Dĩ nhiên là trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước nắm vị thế độc quyền – thí dụ như phương tiện giao thông công cộng, chiếu sáng, nhà máy điện – thì sự thiếu hiệu quả không phải bao giờ cũng được thể hiện dưới dạng thiệt hại về tài chính có thể nhìn thấy được. Trong một số hoàn cảnh người ta còn có thể che dấu bằng cách để cho doanh nghiệp độc quyền nâng giá sản phẩm và dịch vụ của nó lên cao đến mức có thể làm cho doanh nghiệp có lời mặc dù việc quản lý nó có phi kinh tế đến mức nào. Phương pháp sản xuất xã hội chủ nghĩa có năng suất lao động thấp, nhưng được biểu hiện theo một cách khác và khó nhận ra hơn. Nhưng bản chất vấn đề thì vẫn thế.

Không có một thí nghiệm về quản lý xí nghiệp theo lối xã hội chủ nghĩa nào có thể cung cấp cho chúng ta bất cứ cơ sở nào để nói rằng điều gì sẽ xảy ra nếu lý tưởng xã hội chủ nghĩa về sở hữu tập thể tất cả các tư liệu sản xuất trở thành biện thực. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai, nơi không còn chỗ cho các doanh nghiệp tư nhân tự do hoạt động bên cạnh các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và do nhà nước quản lí, cơ quan lập kế hoạch ở trung ương sẽ không còn tiêu chuẩn đánh giá toàn bộ nền kinh tế do thị trường và giá cả thị trường cung cấp nữa.

Trên thị trường, nơi tất cả hàng hoá và dịch vụ được mang ra trao đổi, có thể xác định được tỷ lệ đổi chác (được tính bằng tiền) cho tất cả những thứ được đem ra bán và mua. Như vậy là, trong chế độ xã hội đặt nền tảng trên sở hữu tư nhân người ta có thể sử dụng hạch toán bằng tiền để kiểm tra kết quả của tất cả các hoạt động kinh tế. Có thể dùng các phương pháp kế toán và tính giá thành để xác định năng suất lao động của tất cả các giao dịch kinh tế. Cần phải chỉ ra rằng doanh nghiệp nhà nước không thể sử dụng phương pháp tính toán giá thành như các doanh nghiệp tư nhân vẫn làm.

Tuy nhiên, tính toán bằng tiền vẫn có thể cung cấp cho xí nghiệp của nhà nước hay xí nghiệp tập thể một số cơ sở để kết luận rằng doanh nghiệp đã thành công hay thất bại. Nhưng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa toàn triệt, điều đó sẽ không thể xảy ra được vì không còn sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất thì sẽ không còn trao đổi hàng hoá tư bản trên thị trường, và như vậy là không còn giá trị tính bằng tiền và không còn tính toán bằng tiền nữa. Vì vậy mà ban lãnh đạo chế độ xã hội chủ nghĩa toàn triệt sẽ không còn phương tiện để quy tất cả những món hàng khác nhau mà họ có ý định sản xuất về một mẫu số chung được nữa.

Tính toán chi phí bằng hiện vật và so sánh với tiết kiệm bằng hiện vật cũng không giúp ích được gì. Không thể tính toán được nếu không đưa được số giờ lao động có chất lượng khác nhau, không đưa được sắt, than đá, vật liệu xây dựng, máy móc và tất cả những thứ cần thiết khác cho hoạt động và quản lý doanh nghiệp về cùng một đơn vị đo lường. Chỉ có thể tính toán được khi ta có thể đưa được tất cả các hàng hoá đang xem xét về cùng đơn vị tiền tệ mà thôi. Dĩ nhiên là tính toán bằng tiền cũng có những khuyết tật và hạn chế, nhưng ta không có gì thay thế cho nó cả. Khi hệ thống tiền tệ còn vững chắc thì tính toán bằng tiền là đủ đáp ứng được những mục đích thực tiễn của cuộc sống rồi. Nếu chúng ta bỏ cách đánh giá bằng tiền thì ta sẽ không thể thực hiện được bất kỳ tính toán kinh tế nào.

Đấy là lý lẽ quyết định mà khoa kinh tế học đưa ra nhằm phản bác lại chủ nghĩa xã hội. Xã hội này sẽ phải từ bỏ việc phân hữu trí thức của lao động, được thể hiện trong sự hợp tác của tất cả các doanh nhân, địa chủ, và người lao động – tức là người sản xuất và người tiêu thụ – trong việc hình thành giá cả thị trường. Nhưng không có nó thì tính hữu lý, tức là việc tính toán kinh tế sẽ trở thành bất khả thi.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

Vấn đề lớn nhất của Hy Lạp là văn hóa bài xích chủ nghĩa tư bản

Hiện nay chỉ trích văn hóa bị coi là không thích hợp về mặt chính trị, nhưng cho dù sử dụng đồng Euro hay đồng drachmas (đồng tiền của Hy Lạp – ND), ở trong hay ngoài của Liên minh châu Âu, Hy Lạp thực sự cần sắp xếp lại sự rối loạn chức năng về mặt văn hóa của họ. Tôi không nói về phong tục, truyền thống, kiến ​​trúc, âm nhạc, và chắc chắn là tôi không nói về thức ăn của nước này. Tôi đang nói về não trạng bài tư bản chủ nghĩa. Những cuộc đàm phán, giao dịch, phản giao dịch, trưng cầu dân ý, biểu tình và tất cả mọi thứ, hầu như, đều có rất ít ý nghĩa nếu người Hy Lạp không bỏ tư tưởng dựa vào nhà nước và tái phát hiện chủ nghĩa tư bản đặc thù của Hy Lạp.

Ví dụ tốt nhất là Argentina. Cuộc khủng hoảng nợ nần và chủ quyền được cho là có thể đưa quốc gia trở lại định hướng thị trường, đấy là khi chủ nghĩa xã hội ô dù của nhà nước, nghiện ngập nợ nần đã mất hết uy tín. Đó là một lý thuyết rất hay. Nhưng Argentina, mười ba năm sau khi vỡ nợ vào năm 2002, và sau nhiều năm lạm phát tăng cao, thiếu ngoại tệ, và tình trạng bất ổn kinh tế, vẫn bám chặt vào những người theo chủ nghĩa xã hội thích chi tiêu, thích can thiệp và cực kỳ ngu dốt, tiếp tục đưa nền kinh tế dâm đầu xuống đất. Lý do là văn hóa nền tảng chưa thay đổi. Khi nền văn hóa sai lầm, thì trên trở thành dưới, đen trở thành trắng, thất bại của chủ nghĩa xã hội lại thành thất bại của chủ nghĩa tư bản.

Trong tác phẩm Não trạng bài tư bản chủ nghĩa (The Anti-Capitalistic Mentality), Ludwig von Mises mô tả nền văn hóa bài tư bản chủ nghĩa như sau:

Ví dụ John Doe (nhà triết học và tâm lý học người Mỹ, 1859-1952, ND) cho rằng tất cả những ngành công nghiệp mới, tức là những ngành cung cấp cho ông ta những tiện nghi mà tổ tiên ông ta không hề biết là do một cái được gọi là tiến bộ tạo ra. Tích lũy tư bản, máu làm ăn và công nghệ không có đóng góp gì cho sự hình thành một cách tự phát của sự thịnh vượng đó. Chính người công nhân làm việc trên dây chuyền sản xuất là người làm gia tăng năng suất lao động…

Các tác giả của những lời giải thích phương pháp sản xuất tư bản chủ nghĩa như thế được các trường đại học coi là những nhà triết học vĩ đại nhất và những ân nhân của nhân loại và giáo lý của họ được hàng triệu người tôn kính, mà trong nhà của những người đó, bên cạnh các tiện nghi hiện đại khác còn có cả radio và TV nữa.

Nguy cơ lớn nhất đối với Hy Lạp không phải là chính sách thắt lưng buộc bụng hay vỡ nợ hoặc đồng euro hay đồng drachma. Và chắc chắn là không phải bị doạ đưa ra khỏi thị trường tín dụng – mà đó là nền văn hóa của Hy Lạp, một nền văn hoá chống lại thị trường tự do, thị trường không bị trói buộc và một nền văn hoá chỉ muốn dựa nhà nước.

Lấy ví dụ một nước Mỹ Latin khác: Venezuela. Sau khi bị lạm phát làm cho tê liệt suốt những năm 1980 và những năm 1990, năm 1998 cử tri đã bỏ phiếu Hugo Chavez, một người theo đường lối kế hoạch hoá tập trung, sẵn sàng chấp nhận lạm phát. Trong các cuộc bầu cử năm 2000, 2006 và 2012 họ lại bỏ phiếu cho ông ta, và năm 2013 thì bỏ cho người kế nhiệm ông ta là Nicolás Maduro, thậm chí ngay cả khi đất nước đang ở trong một vòng xoáy siêu lạm phát chết người và đang dẫn nền kinh tế đến sụp đổ hoàn toàn. Vấn đề của Venezuela cuối cùng không phải là quản lý tài chính kém cỏi mà là nền văn hóa bài tư bản chủ nghĩa.

Hy Lạp thì cũng thế. Sau khi đã được giảm nợ và tái cơ cấu các khoản nợ trong vòng năm mươi năm tiếp theo với lãi suất ưu đãi – và sau khi thực sự đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2014 bằng cách cắt giảm thuế và cắt quy mô chính phủ sơ cứng và cồng kềnh – nền văn hoá độc hại của Hy Lạp lại giành được thế thượng phong và bầu lên một nhóm người theo đường lối xã hội chủ nghĩa cứng đầu, để lôi đất nước xuống bùn một lần nữa. Ở phía bên kia của bàn đàm phán cũng là những người theo đường lối kế hoạch hoá tập trung của EU, IMF và ECB cũng không thể nào giúp đỡ được nước này. Nhưng, Hy Lạp ngồi kẹt giữa hai bên tham gia đàm phán đều theo kế hoạch tập trung vì người dân của họ chỉ thích đòi hưởng thụ chứ không đòi tự do.

Hầu hết các nước gặp rắc rồi – Nhưng một số thoát ra nhanh hơn một số khác

Bất kỳ quốc gia có chủ quyền nào cũng có thể chi tiêu quá mức và gặp rắc rối về tài chính, và hầu hết đều đã gặp. Cách đây không lâu, vào năm 1976, nước Anh đã buộc phải cầu xin IMF và hy sinh chủ quyền tài chính của mình cho tổ chức đó. Nửa sau của thập niên 1970, tình hình tài chính của Anh cực kỳ lộn xộn. Năm 1971 Mỹ cũng không trả được nợ và lâm vào khủng hoảng kinh tế trong suốt những năm 1970. Nhưng cả hai nước đã thoát  ra được. Cũng như Chile, Uruguay, và Philippines sau những cuộc khủng hoảng ngân sách và tài chính trong những năm 1970 và 1980.

Nhưng một số không thoát ra được và tôi tin rằng điều đó sẽ xảy ra khi nền văn hóa dân tộc là hoặc đã trở thành chủ yếu là bài tư bản chủ nghĩa và người ta phụ thuộc vào nhà nước từ khi lọt lòng đến lúc chết. Ngoài Argentina và Venezuela, chúng ta còn thấy tình trạng bất ổn kinh tế và tài chính kéo dài sau những cuộc khủng hoảng đầy đau đớn của Zimbabwe, Ghana, Bolivia, Nigeria, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và bây giờ là các nước Nam Âu. Những quốc gia này dường như không học được gì từ những sai lầm của họ, vì dường như họ không muốn hoặc không thể xác định vị trí của bài học vì sự tù mù về trí tuệ trong môi trường văn hóa của họ.

Nhưng trên thực tế bài học khá rõ ràng. Cuộc khủng hoảng kinh tế có thể làm cho một dân tộc về cơ bản là ủng hộ chủ nghĩa tư bản (hay chủ yếu là ủng hộ chủ nghĩa tư bản) bị lạc đường hành động một cách kiên quyết và khéo léo. Nhưng sẽ không thể phục hồi nếu nền văn hóa lâm vào tình trạng bài tư bản chủ nghĩa theo kiểu trẻ con, dựa vào nhà nước và bài xích tinh thần kinh doanh năng động và tự chủ. Vì cuộc khủng hoảng có thể không làm cho quốc gia phục hồi mà còn làm cho dân tộc chìm sâu vào suy thoái hơn nữa. Chỉ có sự thay đổi về mặt văn hóa, mà đấy là kết quả của quá trình truyền bá những ý tưởng đúng đắn mới có thể làm cho Hy Lạp (và các nước khác) trở thành mảnh đất màu mỡ đủ sức chấp nhận những giải pháp thực tế. Nhu cầu truyền bá những tin tức tốt của chủ nghĩa tự do và thị trường rõ ràng là cấp bách hơn bao giờ hết.


 

Russell Lamberti là đồng sáng lập Viện Mises ở Nam Phi và là Chiến lược gia chính ở công ty tư vấn về phân tích đầu tư ETM. Ông là đồng tác giả cuốn Khi đồng tiền phá huỷ các quốc gia  (When Money Destroys Nations.)

 

Tác giả: Russell Lamberti
Dịch giả: Phạm Nguyên Trường