15.7 C
Da Lat
Thứ Năm, 21 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 136

Thử chơi trò Cò Chẹp dưới cái nhìn Kinh Dịch

0

[Bài viết thân tặng bạn Vũ Thư]

Văn hiến nước Việt – trong quá trình dài chịu sự tàn sát của giặc Tàu, cùng với sự đào thải khắc nghiệt của xã hội đang Tây hoá từng ngày – đã tự mình mã hoá để tồn tại ở dạng tiềm sinh. Ngày nay, chúng ta phải lần giở lại từng dấu vết mong manh, dò dẫm từng bước một để làm nghĩa vụ truy tầm và giải mã những bí ẩn mà người xưa đã cài lại chờ hậu sinh khám phá. Bài viết này dành cho những người có ít nhiều lưu tâm tới Tinh thần Dân tộc và Chủ nghĩa Quốc gia trong nền minh triết Việt.

[Vài lưu ý trước khi vào bài cho những người chưa quen với các yếu tố triết Đông Á, quý vị thức giả xin bỏ qua phần này!]

Kinh Dịch: một quyển sách cổ đại, nói về mối tương quan của con người với trời đất với xã hội và với nhau. Quyển sách đặt trên nền tảng của Âm và Dương, biểu diễn bằng vạch đứt _ _ và vạch liền __ , mỗi vạch đó gọi là “hào”, hễ ba hào chồng lên nhau thì gọi là một quẻ, tượng trưng cho một thành tố cấu tạo của vũ trụ – theo vũ trụ quan của người Á Đông xưa. Ví dụ: ba hào Dương, là ba vạch liền, chồng lên nhau thì gọi là quẻ Càn, tượng trưng cho Trời. Có tám quẻ-ba-hào như vậy, tượng trưng cho: Trời, Đất, Nước, Lửa, Sấm, Đầm, Núi, Gió; tương ứng với tám quẻ lần lượt là: Càn, Khôn, Khảm, Ly, Chấn, Đoài, Cấn, Tốn (tám quẻ này quen gọi là Bát Quái, tuỳ theo cách sắp xếp thứ tự của chúng mà ta có bát quái Tiên thiên hoặc bát quái Hậu thiên). Ta gọi tám quẻ này là những quẻ đơn.

Cùng là các hào Âm và Dương nói trên, nhưng chồng lên thành sáu hào, thì ta được quẻ kép, nghĩa là hai trong tám quẻ sẵn có ở trên ghép lại với nhau. Ví dụ: hai quẻ Càn chồng lên, thì gọi là quẻ Thuần Càn; hoặc quẻ Cấn chồng lên quẻ Càn thì gọi là quẻ Sơn Thiên Đại Súc. Những quẻ kép này chính là nội dung kinh Dịch. Có tất cả sáu mươi bốn quẻ kinh Dịch cả thảy.

image

*64 quẻ Dịch

“Quẻ” là một thuật ngữ, là cách gọi triết học của một thành tố vũ trụ, không đánh đồng với “quẻ bói” theo cách nói thông tục, mặc dù chữ “quẻ” trong “quẻ bói” chính là xuất phát từ kinh Dịch, nhưng với người Việt đại trà hiện nay chữ “quẻ” đã mang một sắc thái ý nghĩa khác hoàn toàn và có phần hơi mỉa mai, khác với nghĩa gốc của nó. Nếu ai đó chưa quen và còn kỳ thị chữ “quẻ” thì khó mà thông suốt được tinh thần của Kinh Dịch.

Về bản thân cuốn Kinh Dịch, cả ba nước Korea, China và Việt Nam đều có các học giả lên tiếng khẳng định rằng chính dân tộc của mình là tác giả, với những bằng chứng hết sức hùng hồn và không thể chối cãi. Lập trường của tôi: Cả ba dân tộc đều có đóng góp cho cuốn Kinh Dịch, và Kinh Dịch đã từng là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt, là một môn học chính khoá của Nho sinh tận đầu thế kỷ XX.

1) Trò chơi Cò Chẹp

[Đây là cách chơi của con nít ở vùng thôn quê các địa phương: Đồng Tháp, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang… và hầu hết các tỉnh Tây Nam bộ. Những vùng khác như ở Bắc bộ có thể lạ lẫm với cách chơi này!]

Trước hết, vẽ một hình cột có sáu hàng ngang bằng nhau dưới đất. Hàng ngang thứ tư và thứ sáu lại vẽ thêm một đường dọc ngay chính giữa, chia hai hàng này ra làm hai phần bằng nhau. Những ô trống gọi là ô Cò, tới ô này thì phải nhảy một chân; những ô có gạch giữa gọi là ô Chẹp, tới ô này thì được đứng xuống bằng hai chân ở hai bên. Tiếp nối của ô thứ sáu, lại vẽ một hình bán nguyệt có chiều ngang bằng chiều ngang các hàng, chỗ này gọi là Cung Trăng. Số lượng người chơi trò này từ hai đến sáu là vừa.

Khi chơi, cầm một miếng ngói nhỏ cỡ bốn năm phân, hình dạng tuỳ ý, gọi là “đồng tiền”, thảy lên ô Cung Trăng, gọi là “thi”. Nếu ai thi gần mức trên cùng của ô thứ sáu nhất thì được “đi” trước nhất, ai lỡ tay thảy xa nhất thì phải đợi đi sau cùng.

Người đi đầu tiên, thảy đồng tiền vô ô thứ nhất, phải thảy cho đồng tiền rời khỏi tay chứ không được đặt xuống, nếu đồng tiền nảy lên và cán lên các đường vạch thì gọi là “bị” và mất lượt chơi, tới phiên người khác chơi, mình ngồi chầu rìa cho tới khi tất cả các người chơi đều “bị” và trở lại phiên mình. Hoặc giả, người chơi lỡ đà giẫm lên các đường vạch cũng gọi là “bị”, và đương nhiên là mất lượt. Một cái “bị” nữa, là lỡ quên đứng hai chân ở ô Cò hoặc đứng một chân ở ô Chẹp.

Khi đứng bên ngoài thảy đồng tiền lọt vào ô Cò số một đạt yêu cầu, thì người chơi phải nhảy lên ô Cò số hai, nếu quên nhảy vào ô mà đang có đồng tiền của mình thì cũng coi là “bị”. Tiếp tục nhảy lò cò một chân lên ô Cò số ba, rồi đứng hai chân ở ô Chẹp số bốn, một chân ở ô Cò số năm, hai chân ở ô Chẹp số 6. Sau khi tới ô số sáu, phải nhảy lên kết hợp xoay người 180 độ để quay trở lại. Rồi tiếp tục cò-chẹp trở về đến tới ô số hai, thì vẫn đứng một chân, nhưng phải khom người xuống lượm đồng tiền, rồi nhảy ra. Lưu ý lượm đồng tiền mà để “trái chanh” (bắp cơ nhỏ dưới gốc ngón tay cái đến cổ tay) bị dính đất cát thì coi như “bị”.

Hoàn thành quá trình trên thì được lên mức hai, cũng phải đứng ngoài mà thảy, càng lên mức cao thì việc thảy đồng tiền càng khó. Khi thảy vào mức hai rồi thì tiếp tục nhảy cò chẹp ở các hàng như mức một, nhưng khi về tới mức ba thì lượm đồng xu rồi nhảy xuống mức một, nếu quên nhảy vào mức hai thì “bị”. Nếu bị mất lượt khi đang chơi mức nào thì đồng tiền vẫn nằm ngay mức đó chứ không bị chơi lại từ đầu.

Chơi lần lượt như vậy cho tới mức số bốn, thì phải thảy đồng tiền ở cả hai ô Chẹp trái phải. Nghĩa là, mức bốn và mức sáu, mỗi mức phải chơi hai lần. Đến khi chơi lên hết mức sáu trở về, thì về thảy đồng tiền lên Cung Trăng, rồi tiếp tục nhảy cò chẹp lên tới mức sáu, nhảy xoay người lại rồi ngồi xuống, lòn tay qua háng để lượm đồng tiền của mình, không được quay đầu lại nhìn. Nếu lỡ thảy xa quá không lượm được hoặc cố sức lượm mà “trái chanh” dính đất cát thì cũng “bị”, phải chịu mất lượt và chờ để thảy lại. Sau khi lượm được đồng tiền và nhảy trở về ra khỏi các mức. Thì người chơi có quyền “bói” để “cất nhà”. “Bói” là đứng xoay lưng lại rồi thảy bổng hoặc thảy lòn qua háng đồng tiền của mình vào trong các mức, đồng tiền rớt vào mức nào thì nguyên cái ô đó là “nhà” của người vừa bói, và người này có quyền chẹp ở ô đó. Ví dụ bói đồng tiền rớt vào ô Cò số ba, thì khi chơi tới đó, người chủ nhà sẽ chẹp vào ô đó, nếu rớt vào ô Chẹp số bốn, thì khi tới ô số bốn phải chẹp hai cái cả bên phải lẫn bên trái, chứ không được chẹp chàng hãng hai bên. Nếu đã có nhà và lỡ “bói” vào nhà của mình rồi thì coi như “cháy nhà”, ô đó không còn là nhà mình nữa và mình bị mất lượt. Nếu bói vào nhà người khác khì gọi là “ăn vụng”, không có nhà và mất lượt, đợi đến lượt mình sẽ được bói lại.

Sau khi có “nhà” thì tiếp tục thảy để chơi lại từ đầu để kiếm thêm “nhà” khác, tất cả người chơi được quyền bỏ qua không phải thảy vào những mức đã bị chiếm thành “nhà”, cũng không được phép nhảy vô “nhà” của người khác. Nếu lỡ nhảy vào “nhà” của người khác, hoặc không chẹp vào “nhà” mình, hoặc giẫm lên đồng tiền thì cũng là “bị” và mất lượt.

Trò chơi kết thúc khi tất cả các mức đều là nhà riêng của người chơi. Ai có nhiều nhà nhất là thắng. Trò này tuy kể phức tạp và nhiều quy định, nhưng khi chơi thì cực dễ và cực vui. Nhất là khi những ô ở gần liên tiếp bị chiếm hết, thì người nhà xa phải có những bước nhảy đến mức “tét háng” để không bị phạm qui là nhảy vô nhà người khác, hoặc có những trận cười bò lăn khi kẻ lòn háng lượm tiền lỡ thảy xa quá tầm tay, phải dạng chân hết mức, cắm mặt xuống đất, cố giãn tay ra hết cỡ để lượm đồng tiền của mình. Trò chơi còn bắt con nít phải vận động hết sức, chân cẳng linh hoạt, trí phán đoán tốt và đôi tay khéo léo.

Ngoài ra, trò này kích thích tinh thần phấn đấu để đạt được tư hữu, và còn dạy con nít sự ý thức không xâm phạm tài sản kẻ khác. Sự nghiêm ngặt của luật lệ trò chơi, hễ phạm qui thì mất lượt, làm liên tưởng tới một xã hội pháp trị, dù bạn to xác hay nhỏ bé thì bạn đều bình đẳng trước pháp luật, những thành quả bạn đạt được chính là do kỹ năng của bạn cộng với quá trình phấn đấu không biết mệt mỏi và một chút yếu tố may mắn.

Trên thực tế, luật chơi Cò Chẹp giúp mọi người chơi có cùng một xuất phát điểm, không thể kéo bè cánh hoặc lạm dụng thành quả của ai khác, cũng không thể lợi dụng cơ bắp hay thế mạnh khác về dáng vóc. Tất cả yếu tố quyết định là ở cá nhân người chơi. Nếu một người không thượng tôn pháp luật, muốn ăn gian hoặc phạm luật chơi, thì sẽ không có bất cứ sự xí xoá nào, cả đám sẽ “nghỉ chơi” đứa đó, gạt nó ra khỏi cộng đồng. Nếu nó dùng sức mạnh vũ lực, cả đám sẽ mạnh ai nấy về, bỏ nó một mình. Mạnh yếu lớn nhỏ đều bình đẳng trước luật chơi, không bao giờ có đứa nào ưu tiên hơn.

Trò Cò Chẹp và trò chơi dân gian Việt nói chung, đều có những giá trị huấn giáo và giá trị nhân bản nhất định như vừa kể. Trẻ con ở mức độ nào đó, trong các trò chơi này được rèn giũa nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nhưng ngoài những điều này, liệu có còn điều gì khác ẩn giấu đằng sau trò chơi dân gian, mà ở đây là trò Cò Chẹp?

2) Tính minh triết Đông Á hàm chứa trong trò chơi Cò Chẹp

Thử phân tích về Cò và Chẹp. Ta thấy “Cò” là trạng thái động, số lẻ (đứng một chân); “Cò” còn là một từ tượng hình chỉ một hình ảnh của cái gì đó chìa ra, mà ngày nay từ nguyên của nó còn thấy trong chữ: cò súng, cò kè, lò cò… Còn về “Chẹp”, là trạng thái tĩnh, số chẵn; “Chẹp” cũng là một từ tượng hình mô tả một cái gì đó không dày và mềm hoặc hai vật mỏng kết hợp và sóng đôi, mà dấu vết của nó còn thấy trong các từ gần âm như: bẹp, kẹp, xẹp, lép, tép, dẹp, dép, ghép, chem chép (một loài hai vỏ như con trai nước ngọt), chèm chẹp (tiếng chép của môi)…

Ta thấy rõ tính Dương của Cò và tính Âm của Chẹp.

Lại nữa, đồ hình để chơi Cò Chẹp chia ra hai phần, một bên là các mức đi nằm trong một hình chữ nhật, một bên là Cung Trăng. Cung Trăng chính là Thái Âm. Còn phần các mức đi, có bốn ô Cò, bốn ô Chẹp, một ô hình chữ nhật lớn bao bên ngoài, cộng tất cả lại ta có chín ô, kết quả bằng chín này là một huyền số, tượng trưng cho Thái Dương. Như vậy, đủ cơ sở để xác định, cái mà con nít miền Tây vẫn vẽ để chơi Cò Chẹp chính là một đồ hình thái cực với đủ lưỡng nghi: Thái Âm và Thái Dương. Ta biết rằng, số chín trong minh triết còn tượng trưng cho Trời – Tạo Hoá, Trời sinh nên vạn vật (Thiên giả vạn vật chi tổ!), nên phần Thái Dương trong trò Cò Chẹp chắc chắn hàm chứa nhiều ý nghĩa vi diệu khác.

Để khai thác nghi Thái Dương, ta trở về phân tích sáu mức Cò Chẹp trong trò chơi. Tại sao là sáu mà không phải là năm hay bảy? Thật khó để trả lời câu hỏi cắc cớ này, nhưng nếu ta nhìn nhận tính minh triết của trò Cò Chẹp, thì ta phải thấy ngay câu trả lời: sáu mức Cò Chẹp này chính là sáu hào Âm Dương chồng lên nhau để tạo thành một quẻ kép trong Kinh Dịch! Ba mức Cò đầu tiên, chính là ba vạch liền nét, hay ba hào Dương, tạo thành quẻ Càn ở dưới, tượng trương cho Trời (Thiên). Ba mức kế, một Cò giữa hai Chẹp, một vạch liền giữa hai vạch đứt, là một Dương bị kẹp giữa hai Âm, tương ứng với quẻ Khảm ở trên, tượng trưng cho Nước (Thuỷ). Càn dưới Khảm trên, chính là quẻ Thuỷ Thiên Nhu, quẻ thứ năm trong Kinh Dịch!

Tổ tiên chúng ta muốn nhắn nhủ gì cho hậu thế, hay ký thác tâm tình gì không thể nói ra, mà lại cài một quẻ Kinh Dịch vào trò chơi Cò Chẹp quê mùa dân dã này? Muốn biết, không thể không đi vào phân tích ý nghĩa của quẻ Nhu.

3) Quẻ Thuỷ Thiên Nhu

image

Người xưa, khi nan giải trước một vấn đề xử thế, thường lựa một quẻ trong Kinh Dịch có ý nghĩa tương tự để xem lời dạy của cổ nhân về tình huống đó. Cũng có thể chọn quẻ một cách ngẫu nhiên bằng cách thảy ba đồng tiền hoặc rút cỏ Thi. Đôi khi có sự trùng hợp lạ kỳ giữa việc trong lòng đang băn khoăn và ý nghĩa của quẻ ngẫu nhiên đó, nên rất nhiều người tin rằng quẻ Dịch có tính tâm linh và hiệu nghiệm để tiên tri việc gì đó. Ở đây chúng ta không lạm bàn về khía cạnh này. Nhưng hãy xem Kinh Dịch là “Đạo của người quân tử” như cách nghĩ của quốc phụ Phan Bội Châu ngày trước.

Quẻ Nhu là hình tượng mây đen (chứa nước) đã giăng kín trên trời, chắc chắn sẽ mưa, cho nên ý của quẻ nói về việc kiên tâm mà chờ đợi.
Lời quẻ cũng nói: Chỉ cần có lòng thành thực tin cậy, giữ lòng ngay thẳng, mọi việc rồi sẽ sáng sủa hanh thông cả.
Từng hào trong quẻ, có ý nghĩa mô tả một sự chờ đợi tịnh tiến và tích cực, có lời khuyên tương ứng cho từng hoàn cảnh.

Ở hào đầu, như chờ đợi một việc vẫn còn xa vời, lời khuyên là ta trong lúc chờ đợi phải tính toán đường đi nào cho chắc, đừng hấp tấp mà mắc lỗi; trong trò Cò Chẹp khi vừa thảy đồng tiền vô ô đầu tiên thì không thể nhanh nhẩu đoảng nhảy cò vào đó, sẽ bị phạm qui và mất lượt.

Đến hào số hai, như người chờ đợi trên bãi cát, nghĩa nói là đã gần với đích đến hơn một chút, bắt đầu có va chạm thị phi, ta cần phải giữ sự ung dung bình tĩnh, không nên tranh cãi hơn thua mất thời gian. Tương tự như khi chơi Chò Chẹp thảy đồng tiền lên được mức hai, thường người chơi rất dễ quen chân mà nhảy vào ô này và phạm qui, cần phải chú ý tỉnh táo, không làm theo bản năng mà mắc lỗi.

Đến hào số ba, lời hào nói: Đang đứng đợi trong chỗ lầy lội, mà giặc thì sát một bên, không thể vì tức khí mà nóng nảy làm càn cự nự với giặc, chỉ có thiệt thân mình, bởi ta đang ở chỗ thua sút thất thế.

Hào số bốn, đã qua quẻ Càn mà vào quẻ Khảm, bắt đầu vào sự nguy hiểm, có thể đổ máu, nhưng nhờ mềm mỏng nhu thuận, chắc chắn thoát ra được. Cũng như chơi Cò Chẹp tới mức bốn, mức chia ra làm đôi, vùng để thảy đồng tiền chỉ còn một nửa, rất dễ “bị” nếu đồng tiền lăn ra ngoài, cho nên cần khéo léo nhẹ nhàng, nếu không là mất lượt.

Hào năm nói: Chờ đợi ở chỗ ăn uống vui vẻ, giữ được sự công chính thì tốt. Qua được hào bốn, tức là qua được giai đoạn khốn khó hiểm nguy. Bĩ cực thái lai, hết hiểm nguy thì sẽ được yên vui, lời quẻ căn dặn phải biết giữ tiết tháo trong lúc yên ổn. Trong trò Cò Chẹp, mức năm là mức Cò, bị kẹp giữa hai mức Chẹp phía trên và phía dưới, nhắc cho ta nhớ giữa sự thoải mái cũng phải giữ được tỉnh táo tinh thần. Nếu vì quen thuộc sự yên hàn sung sướng, thì chí lớn sẽ thui chột, không còn biết mục đích chính của sự chờ đợi nữa.

Hào cuối cùng: Chờ đợi tới lúc cực điểm rồi, thì sẽ có nhiều người đủng đỉnh tới giúp. Chờ đợi có kết quả, chính là ở mình biết giữ bổn phận và khí tiết từ lúc khởi đầu, không phải tự nhiên mà được. Cũng như việc thảy đồng tiền lên Cung Trăng trong trò Cò Chẹp, khi lòn tay qua dưới trôn mà lấy lại đồng tiền, mặc dù có nhiều người đứng ngoài hướng dẫn, nhưng tự thân mình cũng phải tính toán việc thảy từ đầu để đồng tiền không ra ngoài tầm với, và trong quá trình chơi, phải giữ bàn chân ở giữa các ô để khỏi phạm qui mà mất lượt, chính là giữ đức trung dung giữa dòng đời vạn biến vậy.

Vừa vững tâm kiên nhẫn, mà vừa phải tỉnh táo phán đoán, vừa phải giữ được sự trung chính, ý thức tự lực tự cường, thì việc trông đợi chắc chắn sẽ có kết quả tốt đẹp. Cả quẻ Nhu và trò Cò Chẹp đều có chung ý nghĩa này. Ta không biết được hoàn cảnh ra đời của trò Cò Chẹp là khi nào, nên không thể xâu chuỗi nội dung quẻ với hoàn cảnh khi đó. Nhưng ta có thể phỏng đoán tình hình xã hội lúc bấy giờ không êm đềm hạnh phúc, mà ngược lại là một thực tại bi đát, người dân chờ đợi một cuộc cách mạng để thay đổi mọi thứ, nhưng không ai dám nói ra, vì nói ra có thể chuốc lấy tai hoạ, nhẹ thì tù rạc, nặng thì diệt vong. Vì thế cho nên, người ta dùng quẻ Nhu, cài vào trò chơi, để khi người lớn nhìn vào đó, thì có một sự động viên nhau cùng chờ đợi, kiểu ‘sau cơn mưa trời lại sáng’, và mọi chuyện đã sắp diễn ra rồi.

Nếu có bị nhà cầm quyền bắt bẻ, người ta có thể chối bay, vì ngoài ý nghĩa chờ đợi, thì quẻ Nhu còn có ý nghĩa là “cho trẻ con ăn uống vui vẻ”, bởi trước quẻ Nhu là quẻ Mông, đại diện cho sự thơ ấu. Một hình quẻ nói về sự vui chơi ăn uống của trẻ nít trong một trò chơi dân gian cũng của trẻ nít, tưởng không có gì hợp lý hơn?!

Người Do Thái khi bị mất nước và cả dân tộc bị lưu đày sang Babylon, cũng dùng văn thơ chứa những hình ảnh bóng bảy và trừu tượng, để động viên nhau cùng tin tưởng, tín thành, vững tâm sống công chính và chờ đợi ơn cứu độ của Đức YHWH, ta quen gọi đó là lối văn Khải Huyền.

Thì đây, trò chơi Cò Chẹp chính là một lối Khải Huyền của người Việt. Và trò chơi này, đang cần được phổ biến trở lại và quan tâm hơn lúc nào hết. Con nít cần phải biết chơi cho đúng luật, người lớn cần phải hiểu giá trị nhân bản và minh triết của trò chơi này và nói với nhau về ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong đó!

Tác giả: HaiLe

*Featured Image: Cò Chẹp

 

Lá thư tuổi 25 gửi cho tuổi 35

L thân mến.
Chào L là tôi đây, tôi chính là bản thân của anh đây. Tôi là người thân nhất của anh và là người đã đồng hành cùng với anh trong 25 năm qua. Trong 25 năm một khoảng thời gian dài, tôi đã cùng với anh từ lúc anh còn nhỏ đến lúc anh trưởng thành, bao nhiêu vui buồn, chúng ta đều trải qua.

Trước hết, tôi biết anh là một người tích cực luôn cố gắng và hy vọng những điều tốt đẹp nhất sẽ xảy đến với mình. Ngay từ nhỏ, anh luôn mang trong mình mong muốn thành công, mong muốn tự lập, mong muốn làm một điều gì đó thật to lớn và anh từng mơ ước sau này mình lớn lên mình sẽ trở thành một người thật tài giỏi và vĩ đại. Nhưng từ lúc nhỏ đến tận giờ, anh vẫn chưa đạt được thành tựu nào cả.

Trong 25 năm qua tôi nhận ra rằng nhiều lúc anh cố gắng đặt ra những mục tiêu cho mình nhưng anh lại mắc một vài vấn đề. Đó là anh rất cố gắng làm việc trong những ngày đầu nhưng sau đó anh lại trì hoãn vào những ngày tiếp theo và lại tiếp tục cố gắng rồi lại trì hoãn liên tục như vậy hết lần này đến lần khác. Khi gặp khó khăn, mệt mỏi anh luôn chán nản và từ bỏ. Chưa kể, anh hay chần chừ khi bắt đầu làm việc và luôn bị cuốn vào những thú tiêu khiển vô bổ rồi trì hoãn những kế hoạch quan trọng của mình từ năm này sang năm kia. Đôi khi anh ý thức được điều đó và cố gắng sửa chữa. Nhưng chứng nào tật nấy, anh vẫn sa vào những thói quen kia và vẫn bị những cảm xúc của mình điều khiển. Dù đã trải qua nhiều lần cố gắng nhưng đến tận giờ anh vẫn chưa thay đổi gì nhiều.

Tôi biết anh là người không chấp nhận thất bại, anh đã 3 lần giảm cân thất bại, 2 lần cố gắng thay đổi bản thân, không thành công và 4 lần học Tiếng Anh thất bại, 3 lần chọn ngành nghề không phù hợp, học qua 4 trường học mà bản thân anh chẳng biết phải như thế nào… nhưng anh vẫn không từ bỏ và vẫn cố gắng. Tuy nhiên điều đó cũng vô ích thôi. Vì sâu thẳm trong lòng anh. Anh cần hiểu thật rõ về bản thân mình và một lòng quyết tâm cao độ và ý chí sắt đá để thay đổi chính bản thân mình chứ không phải là một cảm xúc nhất thời.

Từ lúc nhỏ, anh đã được mẹ bao bọc và khuyên nhủ khi anh gặp thất bại vì sự lười biếng của mình. Nhưng anh có bao giờ nghĩ rằng 10 năm nữa khi anh 35 tuổi, mẹ anh đã già rồi và sau này, nếu mẹ anh không còn thì ai sẽ bên anh để che chở anh đây. Lúc đó, các anh em xung quanh đều sẽ trưởng thành và có một cuộc sống riêng. Anh không thể cứ sống trong sự bao bọc mãi đó được. Anh hãy tự lập và trưởng thành đi L ơi! Càng sớm càng tốt vì cái ngày đó có thể đến bất cứ lúc nào. Hãy tranh thủ hành động từng ngày và sớm thành công để không phải hối tiếc khi nhìn về quá khứ của mình.

L này, đôi lúc anh rất sợ hãi khi phải làm một điều gì đó có nhiều rủi ro, chẳng hạn khi anh sắp bắt đầu bán một món hàng cho một người khách, hay muốn chủ động làm quen một ai đó… Đôi lúc, anh sợ hãi vì nhiều lý do. Có thể, anh sợ bị mất mặt hay bị người khác khinh thường. Nhưng anh hãy nhớ lấy điều này: “Chính những lúc đó, anh đang trưởng thành hơn.” Dù anh có đọc thật nhiều sách vở hay học hỏi từ những người thành công nhưng anh không dám vượt qua nỗi sợ hãi hay sự thất bại thì anh mãi mãi không thay đổi. Đó là lý do tại sao trên đời có những người có nhiều kiến thức nhưng không thành công, trong khi có những người không giỏi giang chuyện trường lớp nhưng vẫn tạo nên cơ đồ. Sự khác biệt của họ là ở 2 từ “hành động”. Người thành công là con người của hành động.

Anh có nhớ câu nói của T.HarvEker không? Người đã truyền cho anh cảm hứng, câu nói để thay đổi:

“Người giàu hành động bất chấp nỗi sợ hãi, người nghèo để nỗi sợ hãi ngăn cản mình hành động.”

Có thể những lần đầu, anh sẽ bị từ chối hay bị người ta chửi vào mặt. Nhưng L ơi, nỗi đau đó sẽ qua nhanh thôi và anh sẽ quen với điều đó. Nó là một phần của sự trưởng thành. Vì thà rằng anh bị thất bại do làm sai còn hơn thất bại do chẳng làm gì cả. Có một sự thật rằng tất cả mọi người trên đời, đều sẽ chết. Thời gian trôi qua và anh đang chết dần chết mòn đấy. Anh càng để thời gian trôi qua do sự sợ hãi và trì hoãn của mình thì anh càng lãng phí cuộc đời. Hãy hành động đi vì nếu biết rằng mình sẽ chết thì anh sợ gì mà không dám làm.

Cuộc đời vô cùng ngắn ngủi và chúng ta không có nhiều thời gian để sợ hãi và nghĩ ngợi nhiều. Rồi sẽ có một ngày khi chúng ta mãi mãi ra đi thì điều chúng ta muốn mọi người biết đến nhất thì chính là ngay lúc này anh đang sống và hành động. Hành động là hạnh phúc và những việc ta sợ nhất là những việc ta cần phải làm nhất.

“Lãnh đạo là người buộc mình phải hành động khi mọi người đang sợ hãi.”

“Hành động” là tố chất thứ 3 sau sự quyết tâm và ý chí sắt đá. Ngay bây giờ anh hãy tự hứa với mình rằng: ”Tôi hành động vì tôi là người giàu.”

Khi một ngày mới đến, mặt trời lên và những tia nắng bình minh chiếu sáng vạn vật mang lại sức sống cho muôn loài sau một màn đêm lạnh lẽo. Nó báo hiệu một ngày mới và nó cũng là một món quà. Do đó, anh hãy dậy thật sớm và tranh thủ làm những gì cần làm tốt nhất cho bản thân của anh. Vì một ngày qua rất nhanh, đừng để những cám dỗ làm anh trì hoãn việc thực hiện ước mơ của mình. Vì cuộc đời ngắn lắm, nhiều người nói rằng tuổi trẻ còn dài. Không đâu L ơi! Vì chính suy nghĩ đó nên cuộc đời này thất bại rất nhiều mà thành công thì chẳng bao nhiêu.

Anh không thể nào để bản thân của mình tùy tiện như vậy được, nhưng anh cũng không nên quá vội vã, hấp tấp mà làm hỏng việc. Anh hãy làm những gì cần làm và làm nó bằng cả con tim mình, như thể anh chỉ sống được ngày hôm nay thôi. Vì nếu có qua một ngày, anh sẽ cảm thấy mình sống thật ý nghĩa.

Đừng bị ảnh hưởng bởi những cái bóng của người thành công hay tự so sánh mình với người khác. Điều quan trọng nhất của anh là chấp nhận và yêu quý chính mình. Anh hãy chấp nhận những yếu kém và những thế mạnh của bản thân. Đừng để lời nói của người khác làm anh chùn bước trên con đường tìm kiếm sự thành công. Anh đạt được mọi thứ, đó là sự khẳng định mạnh mẽ nhất. Điều đó sẽ khiến tất cả những ai đã từng chỉ trích anh im lặng.

Có một câu hỏi rằng: “Ngày nào quan trọng nhất trong cuộc đời của bạn?” Thì câu trả lời đó là: ”Ngày hôm nay.” Vì ngày hôm nay đã từng là tương lai và nó sẽ là quá khứ. Ngày hôm nay sẽ làm nên lịch sử. Hãy trân trọng hiện tại. Anh trì hoãn công việc để ngày mai làm là anh đang khinh thường thời gian và bản thân mình đó. Anh có thể trì hoãn thời gian nhưng thời gian thì không trì hoãn anh. Khái niệm ngày mai tốt hơn ngày hôm nay là điều không có thật vì chính cách suy nghĩ và hành động lúc này quyết định cuộc đời anh.

“Truyền hình không phải là cuộc sống thật. Trong cuộc sống người ta phải biết rời khỏi quán cà phê giải trí để làm việc.” – Bill Gates.

Bấy lâu nay, anh thường sa đà vào truyện tranh hay những bộ phim trên tivi. Nhưng tất cả chỉ là ảo vì cuộc đời mới chính là thật. Có thể nói, cuộc đời là một bộ phim hay hoặc dở đều tùy thuộc vào bản thân chúng ta đang sống như thế nào. Vậy nên đừng bị ảo tưởng vào những thứ phim ảnh đó. Thực tế khác hoàn toàn với phim và thực tế mới khiến chúng ta thành công chứ không phải những thứ trên truyện tranh và truyền hình.

Còn một lý do nữa khiến anh không nên xem truyền hình và đọc truyện tranh đó là nó sẽ làm tư tưởng của anh bị dao động và thay đổi. Tư tưởng bị thay đổi sẽ anh hưởng rất nhiều đến hành động sẽ làm anh chần chừ và suy nghĩ.

Do đó, anh không nên coi phim hay đọc truyện nữa. Đừng xem cuộc đời của người khác nữa. Hãy lo cho cuộc đời của chính anh. Đừng tin vào những bộ phim vì nó không có thật, tất cả chỉ là ảo. Nó sẽ làm anh đắn đo suy nghĩ mà ảnh hưởng đến con đường đi tìm chính bản thân mình. Do đó, ngay lúc này anh hãy chấm dứt ngay thói quen đó nếu như anh muốn tốt cho anh và muốn thông suốt trong tư tưởng của anh.

Anh còn nhớ U.T không. Cô gái anh đã yêu, anh đã yêu cô ấy rất nhiều từ nụ cười của cô ấy đến đôi má lúm duyên dáng đấy. Anh nhớ không, anh đã từng muốn tự tử vì cô ấy, đã từng khóc vì cô ấy, từng cười vì cô ấy. Mặc dù cuối cùng anh và cô ấy không bao giờ được bên nhau nữa. Thậm chí, anh đã từng hy vọng một ngày nào đó cô ấy sẽ là vợ của anh. Anh đã từng khát khao được chăm sóc cho cô ấy và mỗi buổi sáng khi anh thức dậy được bên cô ấy. Anh từng phát điên vì cô ấy, đã từng sống trong ảo mộng và tưởng tượng của mình. Nhưng cuối cùng tất cả chỉ là ảo cả, mọi việc đã trải qua 5 năm rồi nhưng sâu trong lòng anh vẫn còn yêu cô ấy. Cuối cùng, cô ấy đã đính hôn với người đàn ông khác lớn tuổi hơn và có sự nghiệp ổn định, người mà có thể chăm sóc cho cô ấy.

Mặc dù mối tình này đã làm anh đau khổ trong 2 năm, và làm anh có những lúc không còn tin tưởng vào tình yêu nữa. Nhưng L ơi! Anh hãy tin tưởng vào bản thân mình đi, anh hãy cố gắng, hãy thành công đi, rồi anh sẽ có được cô gái mà anh yêu. Có thể, cô ta hiện vẫn chưa xuất hiện đâu. Anh hãy tin rằng cô ta sẽ gặp anh khi anh đã thành công và sẵn sàng cho một gia đình. Lúc đó anh sẽ thật hạnh phúc bên cô ấy, anh hãy tin điều đó. Hãy biến nỗi đau thành sức mạnh. Vì tôi biết anh là người rất mạnh mẽ sau những nỗi đau, anh càng bị nỗi đau càng lớn anh lại càng mạnh mẽ.

Anh có nhớ Bill Gates đã từng nói:

“Không ai quan tâm đến lòng tự trọng của bạn đâu. Mọi người chỉ trông đợi bạn đạt được điều gì đó trước khi bạn cảm thấy hài lòng về bản thân.”

Do đó anh phải thành công L ơi. Anh phải thành công bằng mọi giá vì chính điều đó mới làm anh cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa. Trong xã hội này, mọi người điều rất quan trọng vật chất. Mặc dù luôn có quan niệm rằng “tiền không mua được hạnh phúc” nhưng nếu không có tiền cũng không có nghĩa sẽ hạnh phúc.

Bản thân L đã từng chứng kiến nhiều cô gái trong xã hội này luôn đi tìm một người đàn ông giàu có để lập gia đình và bên cạnh đó có nhiều câu chuyện gia đình tan vỡ xảy ra nhưng phần lớn đều xuất phát từ đồng tiền. Xã hội này không chấp nhận những người đàn ông không có tiền vì người đàn ông không có tiền đồng nghĩa với người đàn ông bất tài, vô dụng và lời nói của người đàn ông nghèo cho dù lời hay ý đẹp đi chăng nữa nhưng mãi mãi không có trọng lượng. Một người đàn ông giàu có và thành đạt thì mọi lời nói của họ đều có sức nặng và luôn được đem ra làm chân lý.

Một xã hội muốn phát triển, một gia đình muốn hạnh phúc thì cần có tiền. Cho dù mọi người có đề cao những giá trị khác ngoài đồng tiền. Nhưng sâu trong lòng họ, họ vẫn hiểu rằng tiền và bạc là nó cũng là nền tảng cở bản để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Đó lý do tại sao những cô gái đẹp luôn đi chung với những đại gia. Những kẻ vô dụng chỉ biết ghen tức và bình luận. Còn những kẻ đứng bên ngoài cho rằng họ luôn đúng với cách sống hiện thời nhưng đầy rẫy sự tiêu cực, bế tắc, túng quẫn và sĩ diện.

Nhưng sự thật, nếu bất kỳ ai trên đời bị dồn vào cuộc sống bần hàn đến cực độ, người thân bệnh nặng đến mức không có tiền để chữa trị hay phải chịu cái đói nghèo đến cùng cực bị dồn đến đáy của xã hội, liệu rằng những suy nghĩ của họ có như lúc đầu không. Do vậy tiền rất quan trọng và anh hãy chỉ tin vào điều đó vì nó cho anh sự thông suốt trong suy nghĩ và hành động. Mặc dù, có những gia đình giàu có nhưng không hạnh phúc. Nhưng không thể đổ lỗi do đồng tiền được, vì nghèo mà không hạnh phúc thì còn tệ hơn giàu mà không hạnh phúc. Trước tiên hãy có tiền đã.

Anh hãy nghĩ xem nếu khi 35 tuổi, anh vẫn nghèo khổ và vẫn đi chiếc xe mượn thì liệu có cô gái nào dám đến với anh đây, anh làm sao mà nuôi dạy con cái và xây dựng gia đình hạnh phúc đây, làm sao sống một cuộc sống mà mình mong ước đây. Anh nên nhớ đến câu nói này:

“Khi bạn nghèo, bạn có kêu gào chẳng ai thèm quan tâm đến bạn, nhưng khi bạn giàu có, dù bạn đã im lặng thì mọi người luôn soi mói đến bạn.”

Khác biệt chính là tiền đấy! Anh cũng đừng nghe lời những kẻ biện hộ hay cố gắng giải thích cho anh về thứ hạnh phúc không liên quan đến tiền. Vì phần lớn đó là những kẻ vô dụng đang cố gắng biện hộ cho sự yếu kém của bản thân. Anh tuyệt đối không chấp nhận nó. Cho dù có ai nói anh là kẻ tàn nhẫn, máu lạnh nhưng anh biết dùng tiền để giúp đỡ mọi người còn hơn những kẻ suốt ngày chỉ biết bình luận mà không biết làm gì.

Tôi cấm anh không được trở thành kẻ ngồi không bàn chuyện thiên hạ, tôi tuyệt đối cấm anh đấy. Hãy trở thành người giàu, người làm nên, người đóng góp, người cống hiến, người sống vì mọi người chứ không phải là một thằng vô dụng giỏi bình luận. Do đó, anh hãy ngậm mồm lại, lắng nghe nhiều hơn, học hỏi nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, cho đi nhiều hơn, biết ơn nhiều hơn và đừng đem chuyện thiên hạ ra nói nếu bản thân mình vẫn chẳng ra gì.

L nè! Có phải anh rất thích đọc sách và nghe Audiobook phải không, anh có thể nói về kinh doanh rất hay phải không. Nhưng L ơi “học luôn đi đôi với hành”, nếu anh chỉ học mà không hành thì làm sao anh có thể có thành quả được, và anh luôn có một suy nghĩ là học hết để không bị thiếu sót cái nào mới bắt tay vào hành động, như chính lúc đó anh đã bị nỗi sợ hãi cản trở rồi, vì để thành công thì cần hành động, nếu anh học một thì anh phải thực hành ít nhất mười lần. Vì kiến thức dễ có, thành quả thì khó.

Nhưng đôi lúc anh lại quá nghi ngờ vào bản thân của mình, anh hay luôn nôn nóng, đốt cháy giai đoạn và thành công sớm. Anh không thể nào làm vậy được. Vì anh cần sự trưởng thành và cần thời gian để trải nghiệm nó, không thể nào suốt ngày thay đổi cách suy nghĩ như vậy. Có những người có khả năng thành công rất nhanh vì trước đó học đã có nền tảng, hiểu được bản thân mình và có sự trải nghiệm nhiều.

Anh không thể nôn nóng được. Anh muốn thành công sớm thì đừng nhìn vào người khác mà hãy bắt đầu thay đổi bản thân mình. Hãy tự nhìn nhận vào bản thân để phát huy thế mạnh của mình, đừng bị ảnh hưởng bởi thành công của kẻ khác. Hãy tự trải nghiệm, thay đổi và học tập. Đừng quá nôn nóng, vì một sự nghiệp cần thời gian và trả giá. Không thể nào mong thành công sớm được nhưng cũng đừng lề mề và trì hoãn.

Nỗi đau và sự thất bại là một phần của sự trưởng thành. Kiến thức và kỹ năng cũng quan trọng, nhưng ý chí quan trọng nhất. Vì ý chí khiến một người bình thường trở nên vĩ đại. Ý chí khiến một người bán hàng rong bại liệt trở nên vĩ đại, khiến cho một người không tay chân trở nên không giới hạn, khiến một ông già 65 tuổi làm nên thương hiệu gà rán KFC… Ý chí khiến cho những điều không thể trở thành điều có thể.

Có rất nhiều từ định nghĩa bản lĩnh của một người, nhưng trước hết để có bản lĩnh tạo nên những điều lớn lao thì cần có ý chí. Ý chí càng lớn thì bản lĩnh càng lớn. Nhờ có ý chí chúng ta mới có thể vượt qua những giới hạn của bản thân, những khó khăn trở ngại trước mắt để hướng đến thành công.

Có những lúc chúng ta quyết tâm và cố gắng hết sức nhưng liên tục thất bại từ năm này sang năm khác. Tuy vậy, chúng ta đâu thể biết trước điều gì đang đợi chúng ta nếu chúng ta không từ bỏ. Một sự nghiệp vĩ đại luôn tỷ lệ thuận với thất bại. Sự nghiệp càng vĩ đại thì sự từ chối và thất bại càng lớn.

Có những lúc chúng ta làm một điều vô vọng và nó không thực tế. Nhưng đó chính là lý do khác biệt giữa người thành công và kẻ thất bại. Để có ý chí cần phải rèn luyện thông qua nghịch cảnh vì nghịch cảnh làm nên con người.

“Lửa thử vàng, gian nan thử sức.”

Bất kỳ người vĩ đại nào trên thế giới này trước khi thành công đều phải trải qua nghịch cảnh, thất bại. Họ phải chịu sự chê cười, khinh thường của người đời. Nhưng chính vì họ biết chiến thắng chính mình và vươn lên trong nghịch cảnh, họ trở nên vĩ đại.

Một ngày nào đó khi anh đã già, lúc đó con cháu sẽ quay quần bên anh để nghe anh kể câu chuyện của cuộc đời mình, vậy lúc đó anh sẽ kể điều gì? Hay chỉ biết nói điều “hối tiếc” hay “giá như”. Tại sao mọi người đều có thời gian như nhau mà anh lại để lãng phí nó đến cuối đời không thể đạt được ước mơ của mình? Anh còn nhớ Wanbi Tuấn Anh, Toàn Shinoda không? Họ là những người trẻ đã ra đi mãi mãi. Dù hơn anh 1, 2 tuổi nhưng họ đã sống mãi trong trái tim mọi người. Còn có những người đã sống cả trăm năm nhưng không ai biết đến họ cả.

Tôi muốn nhắc nhở anh rằng cuộc sống không quan trọng dài hay ngắn mà quan trọng là sống hết mình với niềm đam mê, sự cống hiến và hiểu được giá trị của mình khi sống. Bất kỳ ai trên đời đều có cơ hội để sống. Vậy anh hãy để cuộc sống thật ý nghĩa bằng việc theo đuổi những ước mơ, những mục tiêu. Để trước khi ra đi mãi mãi, anh sẽ không phải hối tiếc. Khi về già, anh sẽ kể lại câu chuyện của mình cho cho con cháu, và mãn nguyện với những gì mình đã sống.  Cuộc đời tuy đơn giản nhưng không dễ dàng, nó cần một nội tâm mạnh mẽ để nhận thức và thoát ra khỏi vòng xoáy của sự hỗn loạn.

Tóm lại, nếu mỗi lần rơi vào bế tắc, chán chường hay thất bại, anh hãy đọc lá thư này. Nó là tiếng nói trong sâu thẳm của nội tâm từ trái tim của anh. Mỗi ngày anh hãy làm theo nhưng điều này bằng lòng quyết tâm và một ý chí kiên cường của bản thân mình. Chắc chắn ước mơ của anh sẽ thành hiện thực:

  • Hạn chế những thú vui vô bổ gây lãng phí thời gian.
  • Hãy hành động ngay bây giờ như thể ngày mai mình sẽ chết.
  • Chấp nhận thất bại và nỗi đau là một phần của sự trưởng thành.
  • Hãy sống và làm việc từng ngày bằng cả con tim.
  • Hãy trân trọng bản thân vượt mọi giới hạn và tự khám phá chính mình.
  • Không ngừng học tập và rèn luyện mình.
  • Hãy cống hiến hết mình và biết ơn cuộc đời này khi anh được sống.

Đây chính là những điều tôi muốn gửi đến cho anh. Ta chỉ sống một lần nên hãy để cuộc đời thật ý nghĩa. Tôi hy vọng rằng 10 năm sau khi 35 tuổi, anh đã đạt được ít nhiều thành công mình đã đặt mục tiêu lúc ở tuổi 25.

Tác giả: Tăng Kim Long

*Featured Image: kangbch

[Exclusive] Shaman (Pháp sư) giải thích về cách chất thức thần ayahuasca tạo điều kiện cho sự thức tỉnh tâm linh

chỉ có tại thđp

Có nhiều điều cần biết về hoạt chất thức thần mạnh mẽ đang trở nên phổ biến ở Bắc Mỹ. Ayahuasca đã được dùng trong các nghi lễ tôn giáo suốt nhiều thế kỉ. Được gọi là “cây leo của linh hồn,” ayahuasca là một hợp chất tiêu biểu được làm từ cây leo Banisteriopsis caapi và lá của cây Psychotria viridis sinh trưởng chủ yếu ở Brazil, Peru và một số vùng lãnh thổ ở Nam Mỹ. Loại trà thành phẩm này chứa DMT, chất bị Cục Phòng chống Ma túy (Mỹ) phân loại là chất tạo ảo giác bất hợp pháp, bất chấp lịch sử sử dụng lâu dài của nó trong các nghi lễ tôn giáo.

Ayahuasca thường xuyên được xem là “dược phẩm” và đã được dùng bởi các shaman ở Nam Mỹ suốt nhiều thế kỉ, cho dù nó chỉ mới thu hút được sự chú ý ở Bắc Mỹ trong những thập niên gần đây. Vào ngày 25 tháng Chín, hàng tá bác sĩ, nhà nghiên cứu, giáo viên về tôn giáo và nghệ sĩ sẽ tập trung tại Los Angeles để tham dự một cuộc hội thảo dài ba ngày để thảo luận về công dụng của ayahuasca và những cây thức thần khác với mục đích chữa trị tâm linh và phát triển bản thân.

image

Hội Tụ Tầm Nhìn, như cái tên của sự kiện, nhắm đến việc đem lại nhận thức đúng đắn cho mọi người về các loại “cây hướng linh” đang ngày càng được nhiều người quan tâm, được định nghĩa theo từ điển Oxford như “một hóa chất, thường có nguồn gốc từ cây, được hấp thụ qua đường ăn uống để tạo ra một trạng thái khác thường của lên nhận thức cho những mục đích tôn giáo hoặc tâm linh.”

Mối quan tâm này đang bắt đầu có những hiệu ứng về pháp lý, văn hóa và học thuật tại nước Mỹ. Vào năm 2006 Tòa án Tối cao đã ra phán quyết rằng Uniao do Vegetal hoặc nhà thờ UDV được quyền tồn tại – và được dùng ayahuasca trong các nghi lễ. Ayahuasca cũng đang là một chủ đề thảo luận tại Viện Tôn giáo Thế giới, một buổi hội thảo quốc tế về tín ngưỡng quan trọng diễn ra tại thành phố Salt Lake tháng mười này.

Cuộc hội thảo tại Los Angeles sẽ nói về những điều này và những tác động khác của mối quan tâm về ayahuasca đang tăng cao ở vùng Bắc Mỹ. Sitarama, còn được biết là Sita, là người tổ chức buổi hội thảo Hội tụ Tầm nhìn đã chia sẻ với The Huffington Post về trải nghiệm của bà với hợp chất thức thần mạnh mẽ này. Là một shaman ở Los Angeles được huấn luyện dưới truyền thống Peruvian Shipibo, Sita cũng là giám đốc của Dự án Capital Case, tổ chức bào chữa cho những người bị án tử hình.

Ghi chú: Ayahuasca có thể gây ra những kết quả nguy hiểm và thậm chí gây tử vong nếu không được điều chế một cách chính xác hoặc được sử dụng mà không được theo dõi đúng cách. Sita nhấn mạnh nó là một chất thức thần mạnh mẽ mà những người sử dụng chỉ nên dùng trong một nghi lễ được sắp xếp dưới sự hướng dẫn kĩ lưỡng của shaman.

HP: Bà đã tiếp cận ayahuasca lần đầu tiên ra sao và những hiệu ứng của nó xảy ra với bà là gì?

Sita: Tôi đã cai ma túy và rượu từ năm tôi 25 tuổi và bắt đầu tập yoga lúc đó. Tôi đã được giới thiệu về ayahuasca bởi thầy dạy yoga vào năm 1996, và tôi đã rất kiên quyết cai nghiện ma túy. Nhưng tôi có cảm giác đồng cảm với thầy dạy yoga của tôi,  và khi tôi chứng kiến thầy yoga của tôi tôi đã nghĩ rằng, “Wow, ông thầy này làm được những gì ổng nói.” Đã có sự mất kết nối giữa những gì tôi nghĩ về ma túy với những điều tôi được chứng kiến và những điều tôi được học về nó.

Tôi phải dành thời gian suy nghĩ trong vòng một năm. Tôi tập luyện và dành thời gian suy nghĩ về nó và sau đó tôi nghĩ rằng, “Tôi cảm thấy hoàn toàn bị nó hấp dẫn.”  Sau đó là thêm một năm nữa trước khi tôi có cơ hội, và tôi đã sử dụng nó. Nghi lễ đầu tiên của tôi là vào năm 1998. Cuộc đời tôi đã thay đổi sau đó. Ayahuasca không thay đổi cuộc đời tôi nhưng cuộc đời tôi thay đổi như một hệ quả của trải nghiệm ban đầu đó.

Những mô tả về hiệu ứng của ayahuasca trải rộng từ “một đại dương cảm giác của sự kết nối” đến “cảm giác như đang chết đi.” Bà sẽ miêu tả về loài cây này như thế nào và trải nghiệm của việc uống nó?

Từ ngữ đã thất bại ở đây. Nó giống như việc cố để hiểu những bài giảng bí truyền, nhưng nó chỉ là một sự ước chừng vì nó không phải là một thứ có thể biết rõ được. Ayahuasca là một trả nghiệm sâu sắc mang tính cá nhân, riêng tư và, rất thường xuyên, mang tính tâm linh. Rất nhiều những cách ta trải nghiệm việc uống ayahuasca bị ảnh hưởng bởi môi trường trong lúc ta uống, ta là ai và ta như thế nào về mặt vật lý, cảm xúc, tâm hồn, tâm linh và trí tuệ khi ta uống. Tôi có thể nói cho những người quan sát và những trải nghiệm của việc uống ayahuasca trong dòng dõi của Peruvian Shipibo rằng ayahuasca gợi lên ở bên trong chúng ta những điều chúng ta cần hoặc mong muốn được làm sạch, gột rửa, chữa lành, sắp xếp, chuyển hóa hoặc mở rộng ra.

Trải nghiệm này là một trong các sự thay đổi trong quan điểm và nhận thức. Nó có thể là hồi tưởng, nội tâm. Nó có thể là trải nghiệm thách thức nhất mà bạn trải qua hoặc là một niềm hạnh phúc thiêng liêng. Nó được miêu tả như nằm mơ giữa lúc đang thức và tôi đồng ý với quan điểm đó.

Cá nhân bà có xem nghi lễ ayahuasca như là một trải nghiệm tâm linh?

Đối với tôi đó là một quá trình tâm linh sâu sắc. Việc cố gắng nắm bắt được sự bất khả tư nghị thật lố bịch nhưng đối với nhiều người trong chúng ta điều đó là không thể cưỡng lại. Động lực của tôi trong sự cố gắng này chính là sự tìm kiếm ý nghĩa và cũng là sự đầu hàng trước những điều chúng ta không thể biết. Phần mang tính chất tâm linh của trải nghiệm này chính là nó mở ra một số các nguồn gốc của sự sáng tạo và sau đó ta biết được có những thứ hiện hữu cái chúng ta không thể biết.

Bà có thể chia sẻ một số ví dụ về những nghi lễ ông đã tham dự không?

Có lần tôi đã trải nghiệm một nghi lễ ayahuasca có những tấm màn ánh sáng được hé mở liên tục. Nó giống như là trong mỗi sợi chỉ của từng tấm màn điều là ánh sáng, nhưng sau đó chúng lại gập lại. Tôi đã đến được nơi của sự thông hiểu – chúng ta có thể đi tiếp nhưng không có gì đằng sau bức màn đó. Bạn có thể kéo tấm màn xuống nhưng đằng sau nó sẽ lại là một tấm khác. Nó không bao giờ kết thúc. Chúng ta là như vậy, được sinh ra dưới hình dạng con người. Tôi tin đó là linh hồn của chúng ta dưới dạng thể chất để biết được sự thiêng liêng bên trong.

Một trải nghiệm khác tôi có được nhhiều năm về trước ở Brazil đã diễn ra sau khi tôi thực hiện dieta trong 28 ngày (một quá trình phát triển và nuôi dưỡng mối quan hệ với một loại cây riêng biệt trong khi hạn chế ăn uống và những chất khác.) Trong giữa quãng đường đó tôi có gặp ảo giác về một cung điện bằng thủy tinh trên đỉnh núi với nhiều tầng dẫn lên đó. Các tầng đó thể hiện cho những nỗi thống khổ của vũ trụ: lửa, ngập lụt, các cơ quan cơ thể bị cắt lìa. Tôi đã khóc và khóc và khóc với sự kết nối sâu sắc này tôi đã cảm nhận được tất cả những nỗi đau. Cung điện đại diên cho những điều thiêng liêng. Chúng ta đều sẽ đến được cung điện đó nhưng một số chúng ta sẽ đến đó với một chi bị cụt rời khỏi người. Điều đó thật sự rất cảm động. Tôi đã cảm thấy thương xót và kết nối một cách sâu sắc, và đối với tôi nó mang đậm tính chất tâm linh.

Bà nhắm đến điều gì ở sự kiện Hội Tụ Tầm Nhìn?

Từ một sự tiếp cận có tính phân bố rộng rãi nó sẽ giúp trau dồi nhận thức về trải nghiệm hướng linh (enthogenic). “Entheo” có nghĩa là “của Thượng Đế”, nên “entheogenic” có nghĩa là những thứ cho phép chúng ta hiểu về Thượng Đế thông qua bản thân mình. Rất nhiều người tin, cũng như tôi, rằng nững loài thực vật nhất định có khả năng làm điều đó. Hi vọng của chúng tôi là trau dồi nhận thức và thực sự nghĩ về cách chúng ta định nghĩa về y dượng trong thế kỉ 21 và thực vật thức thần sẽ là một phần trong đó. Chúng tôi đang đem đến cho mọi người từ những ngành nghề khác nhau để có thể mở ra cuộc đối thoại này. Điều tôi hi vọng là chúng tôi sẽ gợi ra được nhiều câu hỏi hơn là những câu trả lời.

(Bài phỏng vấn này đã được chỉnh sửa cho phù hợp với độ dài và đối tượng độc giả)

Tác giả: Antonia Bumberg – The Huffington Post
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

*Featured Image: Orangefox

[THĐP Review] Ngày xưa có một con bò, Camilo Cruz – Diệt bò chưa diệt tận gốc

0

tumblr_inline_nuze9zT0k21s09z1b_1280

Tôi đã khấp khởi vui mừng khi đọc tựa đề Ngày xưa có một con bò vì cảm giác rằng cuốn sách này sẽ trình diễn hàng đống những truyện ngụ ngôn cười ra nước mắt. Nếu xét về độ “thâm nho” của nội dung sau đó, độc giả sẽ phải ngậm ngay mồm lại để tập trung suy ngẫm. Nhưng tôi đã nhầm to! Vì cuốn sách ngập tràn những câu chuyện hoàn toàn không ẩn dụ kèm theo những màn diễn thuyết về vấn đề phát triển cá nhân – thứ tôi đã không còn hứng thú tìm đọc từ 3 năm trước. Vậy đấy! Ở đây có một anh vồ (ếch)!

Nội dung cơ bản của cuốn sách đào sâu vào việc phát triển thái độ sống tích cực của con người khi sống trong hoàn cảnh có rất nhiều bê bò vây hãm – đó là những lý lẽ biện bạch, thói quen xấu, “đức tính” bào chữa và niềm tin sai lầm trong cuộc sống. Và với những lý luận tích cực đáp trả lại thì dường như mớ trâu bò cồm cộm kia đã được xua đi đáng kể.

Tất cả đều được hé mở thông qua một câu chuyện ngụ ngôn. Nó kể về một gia đình nghèo xơ xác mãi chịu cảnh xác xơ ấy vì họ có một con bò đủ sức nuôi sống tám miệng ăn dặt dẹo qua ngày. Cho tới một ngày, hai thầy trò nọ qua đường nghỉ chân và đã giết béng con bò quý báu ấy. Để rồi sau một năm quay lại, anh học trò đã không còn thấy cảnh dẹo dặt nữa mà là một cuộc đời đầy sung túc và sức sống ngập tràn của gia đình kia.

Nếu bạn là một người đang mới tập ý thức về bản thân và bắt đầu có một bộ óc phân định về tốt – xấu, phải – trái muốn tìm thấy một giải pháp cụ thể cho những mắc kẹt hiện tại hay hơn thế là hướng tới một tương lai sáng lạn với khả năng khống chế mọi suy nghĩ tiêu cực thì cuốn sách này có thể phù hợp với bạn. Nó nêu lên dấu hiệu nhận biết những con bò ngáng đường trong tư tưởng, những hậu quả chúng để lại nếu bạn không sớm dẹp cả lũ đi mà lại chăn nuôi chúng theo kiểu mô hình trang trại, và cuối cùng là cách tiêu diệt đàn bò không mong muốn ấy. Hãy tìm đến và đọc cuốn sách này, vì nó sẽ chỉ cho bạn từng đường đi nước bước để đạt tới sự thành công nào đó mà bạn đang khao khát.

Mới ban đầu, nghe có vẻ những thể loại sách rao giảng về giá trị sống, tư duy tích cực thật là hữu ích và thực tế. Nhưng khi đào sâu hơn và quan sát cơ chế hình thành của chúng thì ta có thể nhận ra rằng tất cả chỉ là một nhánh nào đó của con sông Cửu Long, hay chỉ là phần phơn phớt ngọn của một cây đại thụ. Nếu cứ tiếp tục như thế này, tác giả có thể viết nốt tám cuốn sách nữa với các tựa đề kiểu như: Đừng để con gà băng qua đường, Ngóc đầu ra khỏi đống cát đi lũ đà điểu, hay Đàn cừu có nên diện áo lông sói.

Vì sao lại thế ư? Vì tác phẩm này chưa chỉ ra được đích xác cha sinh mẹ đẻ của những con bò to lù lù đó là ai. Nó mới chỉ nêu ra rằng “Bò đấy. Xấu lắm. Diệt thôi!” Tất cả phạm vi hoạt động của nội dung cuốn sách đều nằm trong mạng nhện tâm trí bao gồm sự chia rẽ với đối tượng quan sát, sự phán xét dựa trên hệ quy chiếu cá nhân và nỗ lực dẹp bỏ một thứ gì đó hệ quy chiếu ấy nhận định rằng là gây ngứa mắt cho chủ nhân, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung của nhân loại.

Cá nhân tôi không phủ nhận rằng những tư tưởng gốc tiêu cực là thứ thao túng và dẫn dắt con người ta đến những trải nghiệm tương đương. Nhưng tôi hoàn toàn không đồng tình với cách tác giả ứng xử với chúng, đặc biệt là về thái độ. Dường như ngài Cruz đó không nhận ra rằng chính việc phán xét và cố gắng chỉnh sửa những gì cho là xấu xa, tầm thường trong bản thân mình sẽ dẫn đến việc phán xét và chỉnh sửa người khác. Truyền cảm hứng ư? Không đâu. Đó là xâm phạm tự do ý chỉ mới phải. Và sự xâm phạm ấy đã ngồi ngay ngay trong câu chuyện ngụ ngôn mở đầu cho toàn bộ tác phẩm, khi ông giáo nọ đã giết con bò của nhà chủ với ý định rằng sẽ giúp được gia đình đó khá khẩm lên khi loại bỏ được thứ họ đang ỷ lại.

Cuốn sách khiến người ta càng sa đà vào cái bẫy của tâm trí – chính là “thế hệ xuất phát” của những đàn bò, đàn cừu hay bất kể đàn gì đi chăng nữa, khi thái độ phán xét, phân tích, chống cự, đâm chém diễn ra khắp lượt. Ngài Cruz không chỉ ra được cha mẹ của những con bò – thứ đứng đằng sau tất cả đang giật dây cho điều mà ông ta gọi là khốn khổ, bao biện, sai lầm, thậm chí cả những gì là sung sướng, quyết đoán và đúng đắn nữa. Tôi không thấy khả năng soi sáng khi đọc cuốn sách này, tôi chỉ thấy một mớ bầy nhầy rối ren khi không được chỉ ra đâu là đầu sợi dây thừng.

Ngày xưa có một con bò không đi được vào bản chất của vấn đề mà chỉ chộp chỗ này một ít chỗ kia một xíu và tạo nên một bức tường đầy những lỗ hổng. Nó chưa đào tới tận đáy nên cảm giác chưng hửng và thiếu thốn một điều gì đó trong cách giải quyết vấn đề gợn lên rất rõ. Cũng không trách được tác giả vì có lẽ chủ đích của ông ta là lang thang ở vùng trên mặt nước. Chính vì việc chưa đi đến nơi đến chốn nên Ngày xưa có một con bò nêu ra những giải pháp không triệt để. Dù có lý luận cỡ nào chăng nữa thì nó vẫn là những luận điểm lung lay. Ví dụ: Thay thế các hệ thống niềm tin tiêu cực bằng tích cực trong khi vẫn không nhận ra rằng chúng cũng chỉ là một biểu lộ khác của việc bị tâm trí điều khiển, nhận diện và tiêu diệt bò khi chúng xuất hiện cũng giống như phạt cỏ phần ngọn vì không giải quyết được kẻ đã sinh ra bò.

Tuy nhiên, cuốn sách này có đề cập tới một số điểm quan trọng trong việc ý thức về bản thân của mỗi người. Đó chính là đối diện và nhận diện những tư tưởng tiêu cực khi nó xuất hiện. Nói đến đây tôi không thể không chia sẻ một phương pháp tôi đã từng thử nghiệm để hỗ trợ thông suốt tâm trí và tình cảm, đó là viết lách.

Với những người chưa đủ sức để bắt kịp những tư tưởng khi nó xuất hiện trước khi nó gây nên đau đớn cho bản thân tại một địa hạt nào đó, thì việc ngồi xuống và viết ra mọi thứ đang xuất hiện trong đầu là cách “chậm hóa” tâm trí rất hiệu quả. Cuốn sách đã đề cập đến giải pháp viết lách, nhưng ở đó đề ra nội dung cụ thể cần hướng tới, có thể coi là một sự viết có chọn lọc. Còn tôi đơn giản là “Hãy xả hết chúng ra”.

Xả bằng cách viết ra mọi thứ xuất hiện trong đầu đã mang lại hiệu quả không tưởng. Vì những suy nghĩ ẩn đằng sau suy nghĩ cũng được phát hiện và lôi ra ánh sáng. Chỉ cần nhận diện chính xác chúng thì dù là trâu, bò hay voi, kiến cũng đều tự tan đi hết thảy. Tôi không cần phải dùng những bước như là “Xác định niềm tin sai lầm” hay “Nhớ rằng mình đang trả giá đắt cho mỗi con bò bạn bao che” hay “Thiết lập khuôn mẫu hành vi mới” như trong cuốn sách gợi ý ngay sau đó. Tôi chỉ làm một việc duy nhất là viết ra hết mọi thứ, nhìn tất cả tự động sắp xếp đâu vào đấy và feel like a boss!

Thứ làm nên sự tắc nghẽn trong cuộc đời của một người đó chính là tâm trí của kẻ đó, nó sinh ra đủ các loại lý lẽ chất chứa nỗi sợ hãi khiến hắn không thể hành động được. Nếu như suy nghĩ là đầu vào thì hành động chính là đầu ra. Một khi không hành động thì mọi thứ không được luân chuyển và thông suốt. Kẻ đó sẽ dần trở nên giống như một cái ao tù và sớm muộn sẽ chết trong sự cô độc, bần tiện, bẩn thỉu và vô dụng. Nên làm bất kì việc gì từ quét nhà, rửa bát, trồng cây, nói chuyện, nhảy múa, viết lách, nó sẽ khiến bạn trở nên mạnh mẽ và ý thức về bản thân mình hơn rất nhiều. Vì mọi thứ sẽ được lưu thông khi những tháng ngày đắm chìm trong tâm trí đã khiến cuộc sống trở nên quá đỗi ỳ trệ, khủng hoảng và đổ vỡ.

Tôi cho rằng sách về giá trị sống sẽ dần dần bị lép vế khi nhận thức của con người càng lúc càng nâng cao. Người ta khao khát trải nghiệm và đào sâu vào tận gốc rễ của sự việc hơn là những giải pháp bề mặt. Họ không cần giải pháp. Họ cần căn nguyên. Và nhược điểm của các thể loại sách này đó là đóng vai “những con bò nhai hộ” cho người đọc khi mọi dẫn chứng và lý lẽ được phơi bày ra tất cả. Có lẽ, chúng chỉ phù hợp cho những người còn non yếu về tinh thần hay lười biếng trải nghiệm, chỉ mong một chút gì đó vớt vát, một ai đó cứu rỗi cuộc đời mình. Ngày xưa có một con bò là một tô mì ăn liền, không còn thời gian để ngẫm nghĩ nữa đâu, khỏi cần pha nước sôi nữa, cứ thế mà nhai thôi.

Khỏi bàn thêm về nội dung nữa vì cuốn sách này cũng không khác gì tất cả những loại sách rao giảng về giá trị sống hay các phiên bản răn đời chưa chạm tới được phần gốc rễ khác. Còn về hình thức, nó cũng nhang nhác như chủng loại của mình, duy chỉ khác là ở đây có những con bò xuất hiện với tần suất cao từ đầu chí cuối. Xin lỗi nhưng tôi phải nói rằng mình đang được chứng kiến một đại hội bò, một cơn bội thực bò và là một màn tự kỷ ám thị bò. Có Chúa mới biết được màn tự kỷ ám thị đó là gì nhưng nói chung là kiểu gì nó cũng có bò. Từ “bò” ấy làm tôi thấy nhàm chán và hoang mang phần nào. Khi xét trên quan điểm nghệ thuật, một phép ẩn dụ được nhắc đi nhắc lại quá nhiều trong một tác phẩm là một thảm họa. Cũng chẳng thể trách được tác giả khi ông ấy đã lỡ đặt tên tựa đề cuốn sách là Ngày xưa có một con bò mất rồi và tuyệt nhiên gán mọi dạng bao biện của tâm trí đi cùng con bò đó, như: Con bò của sự cầu toàn, con bò “đâu phải tại tôi”, con bò “tôi có sao đâu”, con bò của sự tầm thường, v.v… Chúng mang đến cho tôi cảm giác về sự đơn điệu, gượng ép và tẻ nhạt. Nếu như tựa đề là Ngày xưa có một sở thú thì có lẽ mọi chuyện sẽ khác đi hẳn.

Phong cách viết của cuốn sách cũng không để lại ấn tượng đặc biệt vì nó không có gì đột phá và hơn cả là thiếu hẳn đi khiếu hài hước. Tôi đã luôn luôn tìm kiếm sự hài hước ở tất cả những gì mà tôi đọc dù nó có là một giáo trình dạy tiếng anh đi chăng nữa, hay thậm chí là cuốn sách có tựa Một lít nước mắt. Tuy nhiên ở đây, việc thiếu hụt đi một bầu không khí vui tươi trong quá trình truyền đạt tư tưởng đến người đọc là một nhược điểm lớn. Cầm lên một cuốn sách chỉ thuần là phân tích và đưa ra kết luận như một bài thuyết trình chỉ có tác dụng như một liều thuốc ngủ.

6,5/10 là điểm tôi dành cho cho tác phẩm này. Vĩnh biệt đàn bò mồ côi tội nghiệp!

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: NeiFo

Cuộc đời là một thương vụ mua hàng trả góp

Chú ý: Trước hết cám ơn các bạn đã dành thời gian để đọc bài viết này. Mặc dù bài viết chỉ là quan điểm cá nhân của tôi khi nhìn cuộc đời dưới góc độ mua hàng trả góp, và dĩ nhiên góc nhìn này không phải hoàn toàn chính xác. Nếu các bạn thấy nội dung có những điểm phù hợp với hoàn cảnh và tư tưởng của bạn, hãy ứng dụng nó vào cuộc sống của bạn. Còn nếu nó không phù hợp với hoàn cảnh và tư tưởng của các bạn, không cần phải ứng dụng nó mà chỉ đọc kham thảo thôi. Trân trọng và cám ơn.

Có khi nào bạn đã từng có ý định mua một món đồ nhưng không đủ tiền và muốn trả góp chưa? Khi chúng ta quyết định mua những món hàng như: Điện thoại, xe máy, laptop… hay những thứ lớn hơn như nhà cửa, đất đai, bất động sản… thường có vấn đề trả góp. Mỗi tháng có thể trả bao nhiêu tiền hay phần trăm tùy thuộc vào giá trị của món đồ và quy định của người bán. Bạn có thể nhanh hay có thể chậm nhưng tất cả đều chung một mục đích cuối cùng là thanh toán đủ số tiền cho món hàng mà chúng ta đã mua. Thông thường, khi chúng ta trả góp, tổng số tiền trả góp thường lớn hơn so với số tiền trong một lần trả. Trả càng lâu, tổng số tiền trả góp càng lớn. Tổng số tiền trả góp có thể là số tiền trả cho sự rủi ro của món hàng trong trường hợp khách không thể thanh toán, sự lạm phát đồng tiền, món hàng bị mất giá, bảo hành cho món hàng…

Cuộc đời cũng giống như vậy. Có những lúc trên đường đời chúng ta mong muốn thành công và đạt được một thành tựu, nhưng chúng ta không chịu trả một lần mà chúng ta thích trả góp, vì khi trả góp chúng ta sẽ cảm thấy trả ít hơn và có thể thanh toán nó dễ hơn… Nhưng ít người để ý đến một thứ mà chúng ta cũng trả với giá không kém đó là thời gian, thời gian trả nợ cho món hàng đó kèm với tổng số tiền trả góp lớn hơn giá trị của món hàng trong một lần trả.

Món hàng trả góp bây giờ trở thành một thứ khá xa xỉ. Thành công trên cuộc đời cũng giống vậy, khi chúng ta muốn đạt được một thành tựu bắt buộc chúng ta phải trả giá, nhưng đôi lúc trong những lúc ta yếu lòng hay những cám dỗ trên đường đời khiến ta phải mềm yếu và từ bỏ việc trả một lần mà chấp nhận trả góp cho thành công của mình.

Dù muốn làm giàu nhưng chúng ta không cản lại sự cám dỗ của những món hàng đẹp như điện thoại, quần áo mới, đồ trang sức,… Dù biết phải dậy sớm và làm việc thật chăm chỉ  nhưng chúng ta không thể ra khỏi chiếc nệm ấm áp trong khi ngoài trời đang mưa gió và lạnh buốt. Thế là, con đường làm giàu của chúng ta lại kéo dài ra như vụ mua hàng trả góp.

Có thể, chúng ta cũng sẽ biện hộ rằng tiền bạc làm ra để dùng, để hưởng thụ chứ không phải để tiết kiệm, tôi phải dành thời gian cho bạn bè, gia đình, vợ con tôi… Rồi khi thời gian trôi qua, mọi thứ đi vào bế tắc và chán chường, chúng ta hối hận và than trách bản thân hay đỗ lỗi cho gia đình, bạn bè, môi trường sống và biện hộ với mọi người về sự yếu kém của mình. Trong khi sâu thẳm trong tim, chúng ta đã che dấu và phớt lờ sự thật về chính bản thân mình.

Khi chúng ta quyết tâm tập thể dục giảm cân, nếu cố gắng trong một lần duy nhất, chúng ta sẽ đạt được điều mình muốn. Nhưng đôi khi chúng ta không chịu nỗi cám dỗ của những món ăn và chúng ta ăn, ăn thật nhiều, ăn cho một lý do là bù đắp năng lượng đã mất do tập thể dục… Để rồi, con đường giảm cân thành công của chúng ta kéo dài hơn. Thay vì chúng ta chỉ mất từ 3 đến 6 tháng, mà chúng ta phải mất từ 3 đến 4 năm, hay thậm chí không bao giờ đạt được cân nặng mong muốn.

Sau đó, chúng ta lại hối tiếc và biện hộ rằng: “Tại sao tôi cố gắng tập thể dục mà vẫn không giảm được cân?” “Tạng người của tôi không giảm cân được.” “Việc này quá khó với tôi và tôi đã cố gắng nhưng thất bại.” “Gia đình không cho tôi giảm cân.” hay “Việc thừa cân là do di truyền không thể giảm được đâu.” Kết cục, cái giá của việc mua trả góp sẽ là: Thừa cân, không mặc vừa những bộ quần áo trước đây vì chúng đã trở nên chật chội, cơ thể thường mệt mỏi và khó chịu,…

Trong thời đại ngày nay, chúng ta đều biết rằng muốn thành thạo bất cứ ngôn ngữ nào chỉ cần mất từ 6 tháng đến 1 năm. Chúng ta khởi đầu học ngoại ngữ với lòng nhiệt huyết và quyết tâm, nhưng chỉ vài ngày, hay vài tuần, chúng ta mất tập trung do quá tải công việc ở cơ quan, do mệt mỏi, do một lý do cỏn con nào đó như chuyện buồn, đi nhậu nhẹt với bạn bè… Chúng ta trì hoãn và bỏ bê nó một thời gian và thay vì trả luôn cái giá từ 6 tháng đến 1 năm. Để giỏi ngoại ngữ, chúng ta có thể mất từ 3 đến 6 năm hay thậm chí 10 năm cũng chưa chắc thành thạo ngôn ngữ đó. Chúng ta phải gánh chịu nhiều hậu quả như: Không thể vượt qua bài kiểm tra tiếng Anh, không vượt qua buổi phỏng vấn tiếng Anh, mất đi cơ hội làm việc lương cao hơn dù có kinh nghiệm,…

Trả góp cho món hàng bằng vật chất có thể hoàn thành bằng số tiền trả góp và thời gian trả. Nhưng trả góp cho thành công thì không rẻ như thế. Có khi cả đời chúng ta chưa trả hết và không biết khi nào đạt được kết quả mong muốn dù đã trả góp nhiều lần rồi… Trả góp cho cuộc đời rất khác. Nó không phải là vật chất hay tiền bạc mà nó liên quan đến nhiều yếu tố như: Động lực, thời gian, công sức, cơ hội,…

Chúng ta không biết rằng, không phải thời gian nào cũng có thể trả góp được và cũng không biết rằng cuộc đời có những thời điểm bắt buộc khi đó chúng ta phải kiềm chế bản thân và phải tập trung hoàn thành công việc. Nhưng do yếu lòng và không thể trì hoãn sự hưởng thụ hay vì một lý do bận rộn nào đó, chúng ta từ bỏ… Rồi khi thời gian trôi qua, mọi thứ thay đổi và chỉ có bản thân không thay đổi.

Năm mới lại đến chúng ta lại tiếp tục nhai lại mục tiêu cũ, rồi lại bỏ cuộc rồi lại nhai chính mục tiêu cũ ấy… Động lực lúc đầu chúng ta cũng chẳng còn nữa. Dù có đạt được nhưng cái giá trả quá đắt. Có thể, chúng ta sẽ phải hy sinh nhiều thứ khác nhưng với kết quả không đã bằng một lần trả.

Trong cuộc sống, có những trường hợp chúng ta thấy thời gian cố gắng của người này ngắn hơn người kia mà kết quả đạt được lại nhiều hơn so với người cùng lãnh vực có số thời gian nhiều hơn. Tại sao vậy? Câu trả lời là người đó không chịu trả góp, mà quyết định trả ngay trong một lần duy nhất để đạt được thành công của mình. Dĩ nhiên trả trong một lần đầu sẽ gặp nhiều thất bại và phải liên tục học hỏi, liên tục thay đổi, phát triển bản thân, sửa những lỗi sai, từ bỏ những khoảng thời gian bên gia đình hay bạn bè, những thú vui của bản thân… Số lượng thất bại cũng bằng với người người trả góp cho thành công. Người trả góp cho thành công có số lượng thất bại bằng với người trả một lần cho thành công nhưng thời gian kéo dài hơn. Vì trong khoảng thời gian của người trả góp cho thành công nó còn xen kẽ nhiều các hoạt động khác như vui chơi, nhậu nhẹt hay những công việc khác…

Bản thân tôi có rất nhiều mục tiêu mà đã nhai đi nhai lại trong nhiều năm. Khi đọc báo hay xem tin tức trên mạng, đăng những thông tin về những người đạt được thành tựu mà mình đang hướng đến, và thời gian hoàn thành của họ ngắn hơn mình dù xuất phát điểm của họ thấp hơn mình, tôi thấy hổ thẹn và hối hận cho sự yếu đuối của bản thân. Thay vì có thể hoàn thành mục tiêu đó trong 6 tháng, tôi lại mất hơn 4 năm mà vẫn chưa hoàn thành. Đó là cái giá của sự trả góp cho thành công.

Khi bạn trì hoãn, do dự, hay không thể kiểm soát được việc chạy theo những cám dỗ ở thời điểm quan trọng bạn phải cố gắng, bạn đang trả góp cho thành công. Khi bạn trì hoãn với thành công, thành công cũng trì hoãn bạn.

Cuộc đời là như thế, rất công bằng khi bạn chịu trả giá trước thì nó thường rẻ hơn rất nhiều so với trả lâu dài. Tôi chắc chắn rằng xung quanh bạn có những ví dụ như: Có những người làm khoảng 2 – 3 năm đã thăng chức hay trở thành tài năng xuất sắc trong một lãnh vực, trong khi có những người đã làm công việc đó từ 10 -15 năm nhưng chẳng có gì tiến triển cả. Bên cạnh đó, bản thân họ cũng vậy, không hề thay đổi so với ban đầu dù xung quanh mọi thứ đã thay đổi.

Chúng ta có thể có nhiều lời giải thích cho sự thành công nhanh chóng của một người như: Họ là con ông cháu cha, có nhiều mối quan hệ, xuất phát điểm cao hơn người bình thường, hay thông minh bẩm sinh hay làm ăn bất chính… Nhưng đó chỉ là những lý do biện hộ nhằm đổ trách nhiệm cho những thứ nằm ngoài tầm kiểm soát bản thân trong khi chúng ta quên đi những thứ mình có thể nắm bắt và thay đổi. Chúng ta có thể đổ trách nhiệm cho bất kỳ ai, bất kỳ điều gì, hay sử dụng những lời biện hộ và các lý do hoàn hảo cho sự thất bại của bản thân. Nhưng cuối cùng, hậu quả và cái giá chúng ta đều phải trả.

Chỉ khi chúng ta chịu trách nhiệm 100% cho những kết quả và quyết định trả nó trong một lần duy nhất thì chúng ta mới đạt được thành công mà mình mong muốn. Cuộc đời này vốn dĩ không hề công bằng về xuất phát điểm hay những yếu tố khác… Nhưng chúng ta cũng không thể đổ trách nhiệm cho nó. Bản thân nên nhớ một quy luật rằng: “Chúng ta có thể đổ lỗi nhưng người chịu hậu quả vẫn là chính mình.”

Do vậy quyết định trả góp cho thành công hay trả duy nhất một lần cho thành công là lựa chọn của bạn.

Tác giả: Tăng Kim Long

*Featured Image: Maryam62

[THĐP Translation] Vạch trần lời đồn đại sai sự thật rằng bạn cần uống 8 ly nước mỗi ngày

tumblr_inline_nv60jevO831s09z1b_1280

Có một lời đồn đại không bao giờ là cũ, đó là: Bạn nên uống 8 ly nước mỗi ngày. Điều này không hề đúng. Không hề có cơ sở khoa học nào chứng minh nó. Và trong mỗi mùa hè, chúng ta lại bị tràn ngập trong các tin tức báo cáo trên các phương tiện truyền thông cảnh báo rằng sự mất nước rất nguy hiểm và phổ biến. Ta hãy đặt lời tuyên bố này dưới sự suy xét kĩ lưỡng.

Tôi từng là một đồng tác giả của một bài báo xuất bản năm 2007 của tờ BMJ về những lời đồn đại thuộc về lĩnh vực y khoa. Lời đồn đại đầu tiên nói về mỗi người nên uống 8 ly (mỗi ly 235ml) nước mỗi ngày. Bài viết này nhận được nhiều sự quan tâm từ giới truyền thông (ngay cả tờ The Timeshơn bất cứ nghiên cứu nào tôi đã làm.

Nó không tạo nên sự khác biệt nào cả. Vào thời điểm hai năm sau đó, chúng tôi xuất bản một cuốn sách về những lời đồn đại thuộc về lĩnh vực y khoa để một lần nữa vạch trần những ý tưởng rằng chúng ta cần uống 8 ly nước mỗi ngày, tôi nghĩ rằng điều này sẽ thuyết phục mọi người dừng lo lắng lại. Tôi đã lại sai lầm.

Nhiều người cho rằng nguồn gốc của lời đồn đại này là vào năm 1945 Ban Thực phẩm và Dinh dưỡng khuyến khích mỗi người cần khoảng 2,5 lít nước mỗi ngày. Nhưng mọi người đã bỏ qua dòng chữ theo sát phía sau lời khuyến nghị đó. Nội dung của nó là, “Hầu hết lượng nước này được chứa trong thực phẩm chín.”

image

Photo: Konaklimedical.com

Nước hiện diện trong trái cây và rau. Nó nằm trong nước ép hoa quả, trong bia, và cả trong trà và cà phê. Trước khi có ai đó viết cho tôi nói rằng cà phê sẽ làm tôi mất nước, nghiên cứu cho thấy rằng điều này không hề đúng.

Mặc dù tôi khuyến khích nước là một thứ nước giải khát tốt nhất để hấp thụ, nó chắc chắn không phải là nguồn duy nhất có thể cung cấp nước cho cơ thể bạn. Bạn không cần phải hấp thụ tất cả lượng nước bạn cần chỉ thông qua đường uống. Bạn cũng không phải quá lo lắng về việc bạn không cảm thấy khát nước. Cơ thể con người được tinh chỉnh để báo hiệu bạn đi uống nước rất lâu trước khi cơ thể bạn thực sự bị mất nước.

Trái với nhiều câu chuyện mà bạn có thể đã nghe, không hề có bằng chứng khoa học chứng minh rằng uống thêm nước là có lợi cho sức khỏe. Ví dụ, những đánh giá đã thất bại trong việc tìm ra bất kì bằng chứng chứng minh uống nhiều nước giúp làn da trông khỏe hơn và không có nếp nhăn. Đúng là có những nghiên cứu của các đoàn thể trong quá khứ đã chứng minh uống nhiều nước hơn sẽ cho kết quả tốt hơn, nhưng đây là những chủ đề có liên quan tới chuyện dịch tễ học thông thường, ví dụ như không chứng minh được nguyên nhân. Hơn nữa, họ định nghĩa mức tiêu thụ nước “cao” ít hơn nhiều so với 8 ly nước.

Những nghiên cứu tiềm năng thất bại trong việc tìm ra lợi ích cho hoạt động của thận hoặc ảnh hưởng lên tuổi thọ khi một người khỏe mạnh tăng lượng nước uống họ hấp thụ. Những thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát cũng thất bại trong việc tìm kiếm mặt lợi, ngoại trừ trong một số trường hợp cụ thể – ví dụ, ngăn chặn sự tái phát của một số loại sỏi thận.

Rất nhiều các quảng cáo và tin tức báo cáo truyền thông đang cố gắng thuyết phục bạn ngược lại. Số người mang nước theo mình tăng lên theo mỗi năm. Thị trường bán nước uống đóng chai tiếp tục phát triển.

Câu chuyện về bệnh phát ban vào mùa hè này được lấy cảm hứng từ một nghiên cứu gần đây trên Tạp chí Y tế Công cộng nước Mỹ. Các nhà nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ những cuộc Khảo sát kiểm tra Sức khỏe và Dinh dưỡng quốc gia giai đoạn 2009-2012 khảo sát trên 4134 trẻ em tuổi từ 6 đến 19. Cụ thể hơn, họ đã tính toán độ thẩm thấu nước tiểu trung bình của những người được khảo sát, tương tự thước đo nồng độ nước tiểu. Các chỉ số này càng cao, nước tiểu càng đặc.

Họ phát hiện ra rằng hơn một nửa số trẻ em có độ thẩm thấu nước tiểu ở mức 800 mOsm/kg hoặc cao hơn. Họ cũng phát hiện ra rằng những đứa trẻ uống 8 ounces (0.236588 lít) nước một ngày hoặc hơn, tính trung bình, có chỉ số thẩm thấu nước tiểu thấp hơn những đứa không uống khoảng 8 mOsm/kg.

Vậy nên nếu bạn định nghĩa người “mất nước” là người có độ thẩm thấu nước tiểu bằng 800 mOsm hoặc cao hơn chỉ số đó, thì kết quả của nghiên cứu trên thật sự đáng lo ngại. Bài viết này đã làm như vậy. Vấn đề là hầu hết các bác sĩ đều không tính như thế.

Tôi là một bác sĩ khoa nhi, và tôi có thể nói với bạn rằng hiếm khi, nếu có bao giờ, tôi sử dụng độ thẩm thấu nước tiểu làm phương tiện để quyết định liệu đứa trẻ đó có bị mất nước hay không. Khi tôi hỏi các đồng nghiệp của tôi, không ai nghĩ mức 800 mOsm là giá trị mà ta phải lo lắng. Trong một lần tìm kiếm trên web,hầu hết các nguồn mà tôi tìm thấynghĩ rằng ở mức 1200 mOsm/kg vẫn nằm ở ngưỡng sinh lý bình thường và rằng giá trị ở trẻ em thay đổi nhiều hơn ở người lớn. Không có một ai tuyên bố rằng ngưỡng 800 mOsm/kg là ngưỡng mất nước ở trẻ em.

Nói cách khác, có rất ít lí do để tin rằng đứa trẻ có mức thẩm thấu nước tiểu ở 800 mOsm/kg cần phải lo lắng. Trong tực tế, quay lại vào năm 2002, một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nhi khoa, nghiên cứu này có bản chất thăm dò hơn so với việc đi tìm kiếm sự mất nước, và nghiên cứu đã tìm thấy rằng những bé trai người Đức có độ thẩm thấu nước tiểu trung bình ở mức 884 mOsm. Đoạn văn thứ ba từ dưới lên trong bài nghiên cứu đã thuật lại một số lượng rất lớn những nghiên cứu trên khắp thế giới về việc tìm kiếm một nồng độ mOsm/kg trung bình ở trẻ nhỏ dao động từ 392 mOsm/kg tại Kenya tới 964 tại Thụy Điển.

Điều đó không hề ngăn cản những bài báo gần đây trong việc tiếp tục sử dụng tiêu chuẩn 800 mOsm/kg để thông báo về việc có một số lượng lớn trẻ em bị mắc chứng mất nước. Một nghiên cứu năm 2012 trong cuốn Lịch sử về Dinh Dưỡng và Trao đổi chất dùng con số đó để tuyên bố rằng có tới gần 2 phần 3 số trẻ em ở Pháp mắc chứng mất nước. Một tạp chí khác, tờ tạp chí Sức khỏe Dinh dưỡng Công cộng dùng điều này để tuyên bố rằng có gần 2 phần 3 trẻ em ở Los Angeles và New York City không được cung cấp đủ nước. Nghiên cứu đầu tiên được tài trợ bởi Nestlé Waters; nghiên cứu thứ hai bởi Nestec, một chi nhánh của Nestlé.

Có khả năng rằng một số đứa trẻ cần uống nhiều nước hơn. Đôi khi, chúng ta đang liều lĩnh xem một điều kiện sức khỏe bình thường là bị bệnh. Trong khi 2 phần 3 số trẻ em khỏe mạnh, năm này qua năm khác, được tìm thấy trong phòng thí nghiệm mà bạn đã gán cho cái nhãn “bất thường,” có thể đó là do cái định nghĩa, chứ không phải sức khỏe của các em, có vấn đề.

Không điều gì trong số đó có thể làm chậm lại cơn thủy triều thúc đẩy việc uống nhiều nước hơn. Nó còn là một phần của chiến dịch “Uống Hết” của Michelle Obama. Vào năm 2013, Sam Kass, về sau là Cố vấn về Chính sách Dinh dưỡng của Nhà Trắng, tuyên bố “40 phần trăm dân Mỹ uống ít hơn một nửa lượng nước yêu cầu được hấp thụ mỗi ngày.”

Không hề có đề nghị chính thức nào cho lượng nước mọi người cần phải hấp thụ trong một ngày. Lượng mọi người cần rõ ràng là khác nhau phụ thuộc vào họ ăn gì, sống ở đâu, họ to lớn bao nhiêu và họ đang làm gì. Nhưng khi người dân của đất nước này sống lâu hơn trước, và có quyền tiếp cận một cách tự do hơn với nước giải khát nhiều hơn hầu hết những thời điểm trong lịch sử loài người; thật sai lầm khi nói rằng tất cả chúng ta đều bị mất nước.

Nguồn: Aaron E. Carroll – The New York Times
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

Aaron E. Carroll là một bác sĩ nhi khoa tại Đại Học Indiana University School of Medicine. Ông blog về các nghiên cứu sức khỏe và chính sách cho tờ The Incidental Economist.

*Featured Image: congerdesign

Những đứa trẻ tự kỷ hoàn toàn không tồn tại cái tôi, bản ngã

Tôi từng đọc bài viết trên THDP về tự kỷ, tôi sẽ không gọi đó là bệnh, vì tự kỷ không phải là bệnh.

Vì một lý do gì đó, những đứa trẻ tự kỷ không thể bám lấy được một thực tại, trong trường hợp này, thật không may cho chúng, lại là thực tại của chúng ta. Và đây là nơi tất cả rắc rối bắt đầu.

Để dễ tưởng tượng, tôi cho phép các bạn được giữ lại cái tôi, cái bản ngã, vì nếu tôi bắt các bạn từ bỏ luôn hẳn cái tôi thì khó hình dung cho các bạn quá. Nhưng hãy nhớ những đứa trẻ tự kỷ hoàn toàn không tồn tại cái tôi, cái ngã.

Bạn ở đó, giữa vũ trụ lơ lửng, nhưng đừng hình dung có những vì sao hay mặt trời, vì những thứ đó cũng thuộc về thực tại vật chất của bạn hiện tại, cái vũ trụ sơ khai không có gì cả.

Rồi để dễ hình dung, tôi cho bạn đeo một cái kính VR, kính thực tại ảo, đây là loại kính trùm vào mắt, khi nó chiếu ra cảnh gì, thì cảnh đó là thật đối với bạn. Nên nhớ, nó rất thật, thật đến độ bạn có thể chạm vào, ngắt một bông lúa và ăn được nếu tôi chiếu cho bạn cánh đồng lúa.

Bây giờ bạn tưởng tượng cái kính đó không chiếu liên tục một cảnh, mà bị hư. Nó trống rỗng và đen thui. Người ta bật cho bạn một thực tại, bạn trải nghiệm nó được 1 giây rồi nó bị vỡ ra, trở về lại trống rỗng. Bạn gãi lưng, cảm giác ở da đưa bạn đến một thực tại khác, nhưng cũng tương tự, nó chỉ tồn tại được 1 giây rồi lại bị băm ra.

Tương tự như thế với thính giác, vị giác, thị giác, khứu giác, xúc giác, và cả ý thức. Ý thức vẫn có thể kéo ta về thực tại, nhưng nó cũng chả đủ mạnh như 5 giác quan kia. Bạn sẽ thấy tất cả chỉ là những điều kiện để đưa bạn tiếp xúc một thực tại, mà thực tại này hoàn toàn do bạn tạo ra. Đây là điểm kinh khủng của nó.

Vì bạn tạo ra được, cho nên mỗi khi bạn bị băm nát thực tại, bạn cố gắng tạo ra cái khác để duy trì vào nó. Giả sử như bạn hoàn toàn không có kiến thức, không có ý niệm gì về một thực tại nào đó, thì có thể sẽ khác, nhưng rồi bạn vẫn sẽ học được gì đó từ 1 giây ngắn ngủi, bạn sẽ tiếp tục cố gắng tạo ra thực tại kế tiếp dựa trên nhận thức và kinh nghiệm của thực tại vừa bị vỡ, để tạo tiếp thực tại kế tiếp và cứ thế tiếp diễn. Điều này giải thích vì sao trẻ tự kỷ thường có những hành động lặp đi lặp lại, CHÚNG CỐ GẮNG TẠO RA VÀ BẤU VÍU VÀO MỘT THỰC TẠI MÀ CHÚNG QUEN THUỘC.

Hãy tưởng tượng việc tạo dựng thực tại và việc bị băm nát nó diễn ra vô cùng tận. Không có điểm dừng, không có điểm đầu, không có điểm cuối. Thời gian, lúc này không tồn tại. Nó chỉ tồn tại khi một thực tại được dựng lên, nhưng vì thực tại đó cũng bị băm nát, nên thời gian cũng bị băm nát theo. Thời gian là cách mà thực tại được định hình lại một cách trơn tru.

Theo ý kiến cá nhân tôi, đây là cách mà luân hồi hoạt động, và vì một lý do gì đó, chúng không chấm dứt nơi những đứa trẻ. Chúng mang nhận thức mới mẻ này vào một thực tại mà chúng được sinh ra. Đây là sự nguyền rủa? Một món quà? Một lỗi hay bug gì đó trong chương trình vũ trụ? Tôi không biết. Tôi chỉ biết trong cái lặng thinh đó, tình yêu là thứ duy nhất tồn tại được. Chúa cũng vỡ nát, Phật cũng vỡ nát. Thầy Nhất Hạnh cũng không là gì cả và tất cả mọi thứ đều dễ dàng vỡ vụn.

Cho nên, nếu bây giờ tôi gặp một đứa trẻ tự kỷ, tôi sẽ trân trọng mọi cảm giác, cảm xúc, vì mỗi cái chạm tay, mỗi cái nhìn, mỗi hơi thở, mỗi âm thanh mà tôi tiếp xúc với em, chắc chắn sẽ là đầu tiên và duy nhất, vì nó sẽ bị vỡ, và em sẽ phải làm lại từ đầu để tìm lại nó.

Về phần bạn, bạn hãy tiếp tục tưởng tượng, sẽ ra sao nếu một lúc nào đó, chiếc kính VR dần dần không ngắt kết nối, mà cho bạn xem một thực tại kéo dài hơn 1 giây, đến 2 giây, rồi 3 giây, rồi n giây… Bạn sẽ biết rằng, rồi cái thực tại này cũng sẽ vỡ vụn ở giây thứ n+1 nào đó, và bạn, chỉ duy nhất bạn ở đó, với cái tôi trống rỗng, tạo dựng lại một thực tại trong muôn vàn thực tại, cố gắng bám vào một cái để có cảm giác mình là thực.

Bởi vì chẳng có cái thực tại nào là thực cả.

Tác giả: Sang Dang

*Featured Image: Free-Photos

[THĐP Review] Buồn làm sao buông, Anh Khang – Màu blue phủ đầy 200 trang giấy

1

tumblr_inline_nuze9zT0k21s09z1b_1280

Tôi đã rất vật vã mới đọc hết được tập tản văn đầy chữ nghĩa thơ vần này (vì không hợp gu), nhưng cuối cùng sự vật vã ấy lại là động lực giúp tôi nhìn ra được nguyên nhân vì sao con người cứ mãi mắc kẹt trong thứ tình cảm gọi là tình yêu đó khi họ đã lỡ sa chân vào địa hạt của nó. Tất nhiên, Buồn làm sao buông không chỉ ra được đích xác gốc rễ của vấn đề buồn khổ, buồn thương, buồn nhớ, buồn vu vơ, nhưng nó đã thể hiện rất rõ ràng bức tranh điển hình của một kẻ đang lạc lối trong tâm trí của chính mình, và khi kết hợp thêm với những suy tư mang dáng dấp ngôn ngữ đa chiều thì sự lạc ấy dường như càng thêm trầm trọng.

Ấn tượng đầu tiên khi tôi đọc Buồn làm sao buông đó là cảm giác ngộp thở như bị rơi vào một vùng toàn nước là nước. Nếu đặt giọng văn của cuốn sách này vào giữa một cái hồ thì khả năng nó sẽ tạo nên được những gợn sóng dập dềnh bởi những âm vần được gieo một cách khéo léo và đều đặn dù đang ở đoạn văn xuôi đi chăng nữa.

“Cuối cùng thì cũng đến ngày này. Cuối cùng thì cũng đã rời tay. Cuối cùng thì yêu nhiều hay thương nhạt, hai đứa mình đều phải chấp nhận rằng tình cảm ấy đã đổi thay. Nhưng đến bao giờ, nỗi nhớ về nhau mới đi đến cuối cùng, để thôi không còn nhọc lòng về cái gọi là yêu-thương-đã-từng?”

Nhưng cảm giác về nước ấy phần lớn là do hiệu ứng tạo nên từ những câu chữ mà tôi cho rằng hơi lan man và rườm rà, đôi lúc lại nhuốm màu phức tạp khiến tôi phải đọc 3-4 lần mới thật sự nắm được ý tứ của câu nói đó, trong khi không nhất thiết phải như vậy. Chưa kể, việc sử dụng quá nhiều tính từ trong một đoạn văn lại càng tạo nên cảm giác mất tập trung và dường như mang đến “cơn bội thực miêu tả” cho người đọc. Giống như một bữa ăn phải thưởng thức quá nhiều món cùng một lúc thì người ta sẽ bị mệt mỏi vậy.

Vì rằng những diễn biến của chuyện tình cảm trong tác phẩm chỉ thỉnh thoảng mới lóe lên như một tia manh mối để người đọc lắp ghép, nên phần còn lại trở nên ướt sũng những cảm xúc, suy tư và liên tưởng. Nếu gọi đây là một bản nhạc buồn thì tôi cho rằng nó đang tự làm quá lên sự buồn của chính mình hòng đạt đến một trạng thái tột đỉnh của sự sầu lụy, giúp khổ chủ có thể đi qua xuyên nó nhanh hơn. Đây có thể gọi là một hành động tạo gia tốc dương cho sự dàn trải nỗi buồn, hay một sự cộng hưởng sóng để kẻ lang thang ở vùng đất ngập nước đó sẽ khám phá được mọi ngóc ngách có thể theo ý nguyện của hắn. Tôi cho rằng đây là một ý tưởng hay, nhưng nó chất chứa phần nào màu sắc cực đoan, dù rằng cũng chỉ là màu blue.

Tuy nhiên, âm hưởng chung của tác phẩm vẫn là một chữ buồn thì cảm giác sau khi ngộp thở dưới nước của tôi tiếp tục chuyển sang một trạng thái ngờ vực (mà tôi cho là rất cần thiết) đó là: “Buồn đó đã buông được chưa?” Chính sự nghi ngại ấy đã trở thành động lực khiến tôi đào sâu hơn vào tập tản văn này ở những lý lẽ được thể hiện một cách đầy thi vị về nỗi buồn muôn thuở này – chia tay người yêu.

Sự mơ hồ trong tư tưởng của tác giả đã khiến cho cảm xúc tiêu cực ấy không được đào sâu vào tận gốc rễ mà lại trở thành một thứ cỏ dại “lãng mạn đậm chất thơ” tiếp tục đâm rễ sâu hơn vào tâm hồn người đọc. Khi chưa đi đến tận cùng bản chất của nỗi buồn hay bất kỳ nỗi gì khác thì việc gán cho chúng những giá trị, vẻ đẹp trên đoạn đường “buông bỏ” là một sự nguy hiểm. Thậm chí đôi lúc đọc cuốn sách này tôi có cảm giác mình đang thưởng thức một thứ gì đó giống như: “Ôi chao, vết dao nàng cứa vào tim tôi đang tạo ra những dòng nhựa tươi hồng mà con sông lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ ắt sẽ phải ghen tỵ khi trông thấy sắc màu sự sống ấy.” Đại loại thế!

Đẹp ư? Có người đã nói thế khi nhắc đến nỗi buồn trong tác phẩm này. Nhưng tôi cho rằng nếu chỉ sử dụng một chút hương buồn làm vốn liếng, cộng với một ít năng khiếu điều khiển ngôn từ giàu tính thơ và đôi lúc phức tạp hóa chúng, thì nỗi buồn ấy sẽ được diễn ra theo một cách mơ màng như một nàng công chúa vậy. Tuy nhiên, nó vẫn chưa thể đạt đến ngưỡng của một bà hoàng – sâu sắc, quyến rũ và ẩn chứa nguy hiểm.

Như đã nói lúc ban đầu đó là cuốn sách chỉ mới gợn lên được những dấu hiệu nhận biết một kẻ đang lạc lối trong tâm trí đó là sự bám víu vào quá khứ, kỷ niệm, thói quen và đánh rơi mất giây phút sống hiện tại. Nhưng Buồn làm sao buông không đi tới được những câu hỏi gốc rễ, như là “Tại sao bám víu?” “Cái gì bám víu?” “Cái gì đó thật sự là cái gì?” Nếu đã đặt ra câu hỏi “Buồn làm sao buông” thì hãy mang đến đây một câu trả lời. Ngoài việc rắc vào bầu không khí thêm những nỗi buồn thì tôi không thấy một lời giải đáp nào xứng đáng trong tất cả những gì được nêu ra trong cuốn sách. Tác giả mới chỉ chạm tới bề nổi của vấn đề mà thôi, còn tảng băng chìm vẫn đang ở đâu đó đợi đến một ngày nó sẽ được viết thành tập tản văn dày như cuốn tiểu thuyết.

Ha, nhưng không đâu, nếu đã đụng chạm đến lãnh địa của khối băng chìm đó thì văn phong rườm rà và thái độ nhu mì sẽ không thể có cửa làm ăn. Vì rằng một hồ nước gợn sóng sẽ không thể phá được khối đá đông lạnh khổng lồ đó, cái chúng ta cần là một tàu phá băng, nơi mà mọi thứ được rèn dũa, được tôi luyện và được tập trung sức mạnh.

Nếu được trả lời cho câu hỏi “Buồn làm sao buông” ấy thì có lẽ tôi sẽ nói rằng “Hãy ôm ấp lấy chính mình trước đã, còn việc buông cứ để nỗi buồn tự lo”

Ta buồn khổ cũng không khác gì một đứa trẻ đang khóc lóc vì đau ốm. Chúng không cần mẹ nó quát nạt rằng hãy im lặng ngay trước khi bà ấy rút roi ra, chúng cần hơn cả tình yêu thương và sự quan tâm. Vì yếu đuối là thức ăn nuôi dưỡng cho những cảm xúc tiêu cực nên khi một kẻ không có đủ tình yêu – nguồn sức mạnh lớn nhất – thì kẻ đó sẽ chẳng thể buông bỏ được bất kỳ điều gì hết, chưa kể sẽ gánh thêm một vài trạng thái tiêu cực khác nữa. Và sau một thời gian pha trộn, chế biến, hắn sẽ được nhấm nháp món sinh tố có màu đen đục và vị nặng nề.

Người ta đã sai lầm ngay từ khi đặt ra câu hỏi “Buồn làm sao buông” và tập trung hết sức lực vào việc phũ phàng, lạnh nhạt, hoặc thì tìm mọi lý lẽ lấp liếm, hoặc đánh lạc hướng bản thân bằng một cảm giác xiên xẹo khác, với mục đích cắt đứt bằng được mối liên hệ với trạng thái tiêu cực đó. Rồi họ ngạc nhiên khi kết quả nhận được sau cùng là một trái tim băng giá, thân thể kiệt quệ và tinh thần rối bời. Chính thái độ phán xét với nỗi buồn là thứ khiến mọi chuyện càng trở nên tồi tệ, nếu như không nói rằng nó là vấn đề nghiêm trọng hơn cả nỗi buồn lúc ban đầu.

Mọi chuyện sẽ khác đi rất nhiều nếu người ta biết hỏi rằng “Tôi có đang yêu thương chính mình hay không?” Vì cuối cùng, chúng ta sẽ nhận ra rằng nỗi buồn hay tất cả những nỗi gì đi chăng nữa chỉ là những cái cớ để kéo mỗi người quay về với chính mình mà thôi. Khi nào một kẻ đứng trụ được vào bản thân, không còn nháo nhác ra bên ngoài nữa, thì khi ấy hắn sẽ được chứng kiến một hiện tượng tuyệt vời (ngoài cảm giác dòng sự sống ào ạt đổ về), đó là những điều tiêu cực đeo bám theo hắn bao lâu nay tự gỡ mình ra mà bay đi, nhẹ như những nhánh bồ công anh.

Có một nội dung rất lớn trong cuốn sách này khiến tôi không thể không dành chút thời gian mà làm sáng tỏ – tình yêu vô điều kiện. Anh Khang đã thể hiện quan điểm rằng tình yêu thật sự là không còn quan tâm đến được – mất, hơn – thua, mà một lòng vẫn kiên trì với tình cảm dành cho đối phương, dù họ cũng đã trở thành “người dưng” và ở một phương trời xa lắc. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra ở đây đó là tại sao một người mang trong mình tình yêu thuần khiết và trong sáng ấy lại vẫn có thể buồn được? Có điều gì mâu thuẫn ở đây chăng? Đừng nói rằng đây chỉ là một nỗi buồn đậm chất thơ, chỉ như cơn gió thoảng qua nhé! Dù chỉ bằng một con kiến mới nở thôi thì cũng là một sự vô lý to đùng rồi.

Nếu một người đã coi người khác là một đối tượng tách biệt thì ắt hẳn khi đó sẽ có một dòng chảy năng lượng giữa hai người khi họ tương tác với nhau, chúng ta có thể gọi đó là một mối quan hệ. Vì khi đã sinh là cực âm thì sẽ có một cực dương tương ứng để cân bằng lại. Vậy nên chuyện một người dành hết tình yêu thương cho người còn lại mà lượng được đáp trả của người này nhỏ hơn lượng họ trao đi, thậm chí bằng 0, thì mối quan hệ đó sẽ không thể tồn tại. Hoặc nếu nó đang tồn tại thì sẽ sớm đi đến hồi tan vỡ.

Nếu tình yêu xuất hiện trong trạng thái hợp nhất – rằng chỉ có một điểm trụ chính là bản thân mình, nó sẽ tự tràn ra từ trong tâm hồn của kẻ đó và lan tỏa ra xung quanh, tới mọi nơi hắn tới, mọi người hắn tiếp xúc, tương đương với mọi mối quan hệ hắn có. Vậy là, kẻ đó chỉ dưỡng nuôi một tình yêu, một sức sống bên trong trái tim mình mà hắn có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh (dù không cố ý sử dụng), và đây mới gọi là tình yêu vô điều kiện vì tự thân nó khi lan tỏa đã không cần bất kỳ một lý do nào khác ngoài chính việc lan tỏa đó cả. Tình yêu vô điều kiện không có đối tượng cần chạm tới, nhưng lại chạm tới mọi đối tượng.

Vậy nên chuyện Anh Khang vẫn cứ cố gắng nói đến tình yêu vô điều kiện quan trọng như thế nào trong chuyện yêu đương 1-1 và thể hiện quan điểm rằng tình cảm như thế là một điều gì đó đẹp đẽ, lãng mạn thì tôi coi đây là một sự hết sức phi lý. Tác giả đã đặt biểu lộ của một trạng thái hợp nhất làm chuẩn mực cho mối quan hệ mà hai cá thể coi người kia là một sự tách biệt. Vậy nên mọi thứ cứ rối tinh rối mù lên hết thảy.

Chưa kể, Anh Khang cũng đã đề cập tới tình yêu với bản thân mình, sự cân bằng trong tình yêu nhưng cả hai đề tài này đều không được đi tới nơi tới chốn và đôi lúc khiến tôi bị xao nhãng bởi ma trận của ngôn từ diễn đạt.

Xét về tính xúc cảm và nghệ thuật văn chương, tôi đánh giá cao Buồn làm sao buông, nhưng về mặt minh triết thì tôi cho rằng tác phẩm này chưa đủ tầm để soi sáng cho nhiều con người. Nó đến được với đông đảo người đọc phần lớn vì đã mô tả đúng trạng thái của đám đông khi họ rơi vào những nỗi phiền muộn của chuyện yêu đương. Thêm một lý do nữa đó là văn phong ở đây giống như nước – mềm mại, êm dịu, có tính nuôi dưỡng – nên rất phù hợp với thị trường người đọc có tính chất tương tự, hoặc hoàn toàn trái ngược – khô khan, cứng nhắc, xét đoán.

Buồn làm sao buông đánh trúng vào những gì mà đám đông muốn – muốn biết chính mình khi thất tình, muốn được đồng cảm, muốn được yên lành ngồi một góc quán caffe và nhâm nhi từng dòng văn ngọt ngào để thấy đời có chút lãng mạn, muốn được tìm về những xúc cảm quá khứ để thấy cuộc đời hiện tại bớt nhàm chán. Tuy nhiên, nó lại không đi vào những gì người ta cần, đó là sáng tỏ về bản chất của vấn đề – những cảm xúc và suy tiêu cực. Có thể, vì những thứ người ta cần ấy quá khó nuốt. Tốt hơn hết họ cứ để chúng ở trạng thái mông lung, thơ mộng là sẽ thỏa mãn cả đôi đường.

Nếu tác giả nói rằng để đi qua một nỗi buồn thì hãy đi sâu vào nó và đi xuyên qua nó, nhưng tôi thấy tất cả những gì biểu hiện ở đây chỉ là một sự giậm chân tại chỗ ở tầng trên cùng của nỗi buồn đó. Và nếu đây thật sự là tất cả những gì tác giả có thì tốt hơn tôi nên tự đi viết nốt phần mong mỏi còn lại của chính mình vậy!

Review tác phẩm này khá khó vì bản chất của nó đã không có một điểm trụ hay một khung xương để nương tựa. Tuy nhiên tôi phải thừa nhận rằng tản văn là một thể loại rất tốt để một người có thể bộc lộ hết những tư tưởng và xúc cảm của bản thân. Tuy nhiên, với một nỗi buồn nhè nhẹ thì ta có thể dung túng vung tay thêm thắt vài dấu ấn nghệ thuật, còn với một trạng thái muốn tự tử thì có lẽ chỉ văn tả thực mới đủ sức gánh gồng cho khổ chủ.

Nhưng chợt đến phút cuối cùng, tôi tự hỏi Buồn làm sao buông là một câu hỏi hay nó là một câu cảm thán thốt lên đầy bất lực rằng “Buồn làm sao mà buông được!”, và toàn bộ cuốn sách là một sự đào sâu tìm kiếm câu trả lời hay chỉ là một cuộc chơi với những ngôn từ mĩ miều thuộc đề tài tình yêu? Thật sự, cuốn sách này đã làm tôi rất bối rối.

7/10 là điểm dành cho tác phẩm này.

(Tôi vẫn rất bối rối khi cho điểm!)

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured image: Ngo MyLinh

[Trải nghiệm] Nấm thần và mantra

Tôi chỉ có thể ghi ra đại ý thôi, vì lúc đó thông tin đến ào ạt như thác lũ, không cách gì ngôn từ hữu hạn của chúng ta có thể diễn tả hết được, chỉ hy vọng các bạn, bằng nhiều phương tiện, có thể tiếp cận được tình yêu của thiên nhiên.

Chúng ta bắt đầu bằng việc đơn giản nhất, tắm rửa sạch sẽ, lên bàn ngồi và khe khẽ cầu nguyện rằng mình tin tưởng, mong nấm giúp mình gặt hái được nhiều thứ đáng để học, và hứa với nấm rằng mình không lạm dụng nó ngoài mục đích học tập. Mình nói rằng mình muốn tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống này, vũ trụ này. Sau khi dùng nấm với nước cam ép, mình ngồi thiền một lúc rồi lên giường đọc sách của thầy Nhất Hạnh, lúc đó khoảng 21:00 tối.

Cảm giác hạnh phúc đầu tiên

Tầm 20 phút thì bắt đầu có cảm giác đầu tiên. Tôi cố gắng nhịn cười vì sợ vợ tôi thức giấc, cảm giác hạnh phúc khá giống lúc nhập định, chỉ khác là nhìn thấy một số ảo giác nhỏ như cánh cửa đang dần đóng lại, nhưng thực ra nó đứng im, chỉ là cảm giác của mình thôi. Tầm 5 phút sau thì hết ảo giác. Tôi không biết những người khác gặp ảo giác gì, nhưng riêng tôi thì hoàn toàn tỉnh táo và ý thức được thực tại, dù đôi lúc nó bị đông cứng lại, còn ảo giác méo mó hay biến dạng thực tại thì hoàn toàn không có.

Lúc này tay và mắt bắt đầu mỏi, tôi ngừng đọc sách, và tự dưng lại nhớ đến mantra Om mani padme hum tôi thường hay nghe trên Youtube. Tôi mở nó lên và nằm nghe.

Om mani padme hum

Xin nói thêm về mantra này. Om mani padme hum, có thể tưởng tượng nó như một dòng thác lũ đầy ngọc ngà, kim cương và châu báu, lợi lạc của nó là vô cùng. Ngày xưa lúc tôi luyện võ, bình thường trung bình tấn tôi chỉ luyện được 4-5 phút là mệt, nhưng nếu nghe mantra trong lúc đứng tấn, tôi từng kéo dài đến tận 45 phút, một kỷ lục mà tôi cho là không tưởng. Tôi đã phải dừng vì mẹ tôi kêu công việc giúp mẹ, chứ không phải vì mỏi. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ cho cái lợi lạc của nghe mantra này.

Việc nghe mantra này trong lúc dùng nấm là hoàn toàn ngẫu nhiên, không có chủ đích trước. Tôi chỉ cảm thấy rất may mắn vì mantra này dẫn tôi đi sang các mantra khác, mà nhờ đó việc học của tôi có nhiều tiến bộ.

Đi về các miền xa của tiềm thức

Đây là phần hay nhất, tuyệt vời nhất mà tôi học được. Nhờ có mantra, tôi hoàn toàn tập trung được vào chuyến đi do nấm dẫn dắt. Nấm chỉ cho tôi cảm nhận hết, tất cả những sợ hãi, đau đớn, cô đơn của những con người đầu tiên sử dụng nấm. Tôi không nhìn thấy rõ, nhưng tôi cảm nhận rất rõ sự cô đơn giữa rừng sâu, của những người lỡ ăn phải nấm, và bị mọi người xa lánh. Nấm cũng cho tôi cảm nhận tất cả sự cô đơn của những người tù, những người đang bị giam cầm, bức hại vì những điều họ làm nhân danh tình yêu, công lý. Có lẽ nấm muốn tôi ý thức rằng, tôi nên cảm ơn những người đi trước, đã dày công khai phá con đường này.

Kế đến tôi bị dắt ngược về thời tiền sử, lúc chưa có loài người. Lúc đó chỉ có một chủng người mập lùn, tròn vo, trông rất dễ thương. Họ thông minh nhưng hiền lành. Rồi chiến tranh, họ bị giết hại từng người một cho đến khi bị tuyệt chủng hoàn toàn.

Trải nghiệm cái chết, không phải chỉ một lần

Lúc tuổi teen tôi có lần thất tình, định tự tử. Cảm giác sợ chết rất đặc biệt. Nấm cho tôi trải nghiệm cảm giác bị giết hại không phải chỉ một lần, mà là hàng ngàn lần, cảm giác của cả một chủng tộc bị xóa sổ nó kinh khủng hơn cái chết của một cá thể, nhiều lắm.

Rồi nấm đưa tôi đi hết chiều dài lịch sử, chiến tranh khắp nơi, người giết con vật, người giết người, con vật giết người, nấm lý giải tại sao có bạo lực, tại sao chúng sinh giết nhau, tại sao tất cả điều này diễn ra. Nhưng xin mọi người đừng lầm lẫn, không hề có cảm giác sợ hãi hay kinh tởm ở đây. Tất cả được trình bày hiển nhiên như điều đó bắt buộc phải xảy ra.

Có lẽ nấm muốn mình hiểu ra rằng, tự nhiên là như thế. Tôi cảm nhận được cái chung của sự giết hại đều bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết. Rất nhiều cái chết bị gây ra bởi nỗi sợ hãi. Vì sợ hãi, u minh, không hiểu được vạn vật cho nên họ mới phải giết chóc. Nấm muốn dạy rằng, nếu mình vượt qua được sự ngu dốt, chế ngự được nó, mình sẽ không còn giết chóc nữa.

Có được cảm giác này, bạn sẽ thấy những gì mà nhà tù đang làm rất nực cười. Ý chí tự do và tình yêu không thể bị giam cầm. Bạn có thể giam thân xác họ, nhưng không thể giam cầm ý chí. Giống như bạn lấy rổ úp ánh trăng dưới sông vậy, giống như bạn lấy hộp sắt cầm tù cái vảy trên thân cây xà cừ vậy. Ý chí tự do nó chảy bên trong mạch sống của thân cây xà cừ, giống như ánh trăng chiếu rọi trên đầu.

Kết nối với nhiều ba mẹ

Sau đó, không hiểu vì lý do gì, tôi đổi mantra. Những mantra sau này cũng khá lý thú. Nếu các bạn hình dung ra cảm giác của bạn và ba mẹ hiện tại, rồi copy nó ra, rằng bạn biết là bạn có nhiều hơn một ba một mẹ. Ít nhất trong lần này, tôi may mắn kết nối được với 3-4 đời ba mẹ. Cảm giác yên ấm vô cùng, như đứa trẻ nằm trong nôi, nghe mẹ ru. Tôi không hiểu lúc đó mẹ ru gì, nhưng tôi cảm nhận được tình yêu của ba mẹ dành cho tôi, y hệt như ba mẹ hiện tại vậy, hạnh phúc vô cùng.

Bản thể thực sự của vũ trụ

Sau đó tôi đổi mantra cuối cùng, lần này không còn những cảm nhận nào khác ngoài việc tôi tự quay về và nói chuyện với chính mình. Thực ra cũng chả có gì để nói. Chỉ nhìn và cảm nhận thôi. Nhắc lại là không hề có ảo giác, tức là nếu tôi mở mắt, tôi vẫn hoàn toàn nhận thức được thực tại. Tôi đi đắp mền cho hai đứa con, mở cửa sổ vì thấy vợ bị đổ mồ hôi do nóng nực, uống nước khi thấy bị khát v…v… Tất cả nằm ở phần cảm thấy.

Mantra cuối này tôi nghe cho tới khi chấm dứt chuyến đi với nấm. Với mantra này tôi nhìn thấy được mẹ vũ trụ, bà ôm tất cả mọi người, mọi vật, bà có mặt ngay lúc này, trước mũi chúng ta, bằng tình yêu và nhựa sống của mình. Tất cả chúng ta đều đang kết nối với bà. Bà chưa bao giờ rời bỏ chúng ta, chỉ có chúng ta rời bỏ bà.Tất cả chiến tranh là bullshit, tất cả văn hóa, phong trào bảo vệ trái đất là bullshit. Mẹ tự nhiên lớn hơn trái đất nhiều, nhiều lắm. Con người cũng chỉ là một trong 4-5 thế hệ được mẹ nuôi dưỡng, rồi lớp người này cũng chết đi, để xuất hiện chủng tộc khác. Cho nên có cứu cũng bằng thừa. Trái đất rồi cũng chết đi, có cứu cũng bằng thừa. Mẹ mới trường tồn.

Lời kết

Khi bạn biết ra và thấy được cách mà tự nhiên đang đi, bạn sẽ không cổ súy cho chiến tranh, bạn sẽ không tham gia chiến tranh, bạn yêu hòa bình, yêu thiên nhiên. Đây là lý do các chất thức thần bị cấm. Ai sẽ đi lính, ai sẽ làm cảnh sát, ai sẽ giết người và làm những công việc nhớp nhúa? Không ai cả! Đây mới chính là lý do mà nó bị cấm. Một lần nữa, tôi khuyên các bạn nên tránh lạm dụng nấm. Trong suốt buổi, có những lúc tôi mải mê tận hưởng cảm giác yên bình, hạnh phúc, tôi chợt nhớ tới lời hứa với nấm, là phải cố gắng học. Tôi không được bỏ bê, mọi giây phút mà nấm đưa ra, là cơ hội cực kỳ hiếm hoi để học hỏi những gì mà trí óc bình thường chúng ta không thể đạt được. Nhờ vậy, ý thức tôi quay về và chăm chú học những gì nấm đang muốn dạy. Tôi kết thúc lúc 01:00 sáng, cảm giác hoàn toàn tỉnh táo, không giống như thức giấc sau khi say xỉn bia rượu. Nếu muốn ví dụ, bạn có thể tưởng tượng bia rượu làm bạn ngu đi và mụ mị một khoảng thời gian dài gấp 3-4 lần thời gian say xỉn thực sự, còn nấm thì hoàn toàn thay đổi trong tích tắc, giống như bạn xuống xe bus vậy. Không nhức đầu, không đau bụng, không tác dụng phụ gì. Tôi đi ăn một chút cơm rồi lên giường đi ngủ. Một giấc ngủ hoàn toàn khỏe mạnh, sâu, và thức dậy với một tâm ý muốn chia sẻ điều này thật mãnh liệt. Cảm ơn nấm, cảm ơn Tibet, cảm ơn mantra. Chúc các bạn sớm cảm nhận được tình yêu của Mẹ thiên nhiên.

Đặng Sang

Featured image: Wiki Commons

[Exclusive] Đấng được xức dầu: Bằng chứng cho thấy Chúa Giê-su đã làm phép lạ bằng dầu cần sa

tumblr_inline_nv60jevO831s09z1b_1280.png

tumblr_inline_nv60jq1gsi1s09z1b_1280.jpg

Ảnh: Chúa Giê-su chữa bệnh cho những người mù, thế kỉ thứ 12 Basilica di Santa Maria Catedrale Nouva di Monreale ở Sicily.

Vào tháng trước, trang Salt Lake City Tribune đã đăng một câu chuyện mang tên Nhiều gia đình đang di cư đến Colorado vì Phép màu Cần sa Y tế. Câu chuyện đó đã thống kê vài trăm trẻ em và phụ huynh hiện đang di chuyển khỏi nơi ở và đổ xô đến Rocky Mountain State để tìm kiếm một liều thuốc cần sa phi-kích thần (non-psychoactive,) cái đã cho thấy nhiều hứa hẹn trong việc điều trị các bệnh lý nghiêm trọng ở trẻ em, thậm chí khi tất cả những phương pháp điều trị khác đều không mang lại hiệu quả.

“Bạn đang thiết lập lại toàn bộ cuộc sống của bạn,” người cha của một bệnh nhân động kinh giải thích về quyết định gần đây của gia đình ông khi chuyển nhà từ Tennessee. “Chúng tôi không hề có một hệ thống hỗ trợ. Chúng tôi không có bạn bè. Chúng tôi phải tìm một nhà thờ mới.”

“Chúng tôi không thể rời khỏi bang này với cần sa vì chúng tôi sẽ trở thành những tên tội phạm liên bang.” Vợ ông nói thêm. “Nhưng chúng tôi chỉ cảm thấy nếu chúng tôi biết rằng có thể có thứ gì ở ngoài đó có thể có ích mà chúng tôi không thử thì chúng tôi sẽ phải nói câu “giá như” suốt cuộc đời.”

Những câu chuyện về sự chữa lành “kì diệu” thông qua việc sử dụng dầu cần sa đậm đặc được tuyền tải trong cộng đồng cần sa toàn cầu trong gần mười năm nay, nhưng điều đó chỉ vừa nhiều người chú ý tới hồi tháng Tám này, khi Tiến sĩ Sanjay Gupta, Phóng viên trưởng mảng Y tế của CNN, đã gửi đến hàng triệu khán giả lời xin lỗi vì trước đó đã bác bỏ những bằng chứng có liên quan đến việc ủng hộ cần sa y tế, ông mô tả mình đã“lầm lẫn một cách có hệ thống” về vấn đề này.

Sau đó Tiến sĩ Gupta đã giới thiệu với thế giới một đứa trẻ sáu tuổi có tên Charlotte Figi đến từ Colorado Springs, Colorado, đã từng chịu 300 cơn động kinh co giật mỗi tuần, thậm chí sau khi trải qua tất cả các chu kì thuốc chống co giật trong từ điển dược học và trải qua một loạt các quy trình đầy đau đớn khiến cô bé không thể đi lại, nói chuyện hay ăn uống. Những cơn co giật bắt đầu xuất hiện từ lúc Charlotte mới ba tháng tuổi, và ngay cả trong suốt khoảng thời gian đó, không một chuyên gia y tế nào đề cập đến cần sa. Phụ huynh của cô bé chỉ biết được về loại thảo dược cần sa có thể giúp chữa hội chứng Dravet – một loại động kinh hiếm gặp, khó chữa đang hành hạ đứa con của họ – sau khi xem một đoạn video trên Youtube, và mặc dù vậy họ chỉ quyết định thử dùng đến cách này sau khi mọi cách khác đã thất bại.

Lần đầu tiên họ cho con gái của họ sử dụng một liều dầu cần sa phi-kích thần có nồng độ CBD cao với nguồn gốc hoàn toàn từ thực vật, những cơn co giật của cô bé đã ngừng lại trong bảy ngày liên tục – một phản ứng hoàn toàn đáng kinh ngạc. Những cơn co giật của cô bé giờ đây đã giảm xuống từ 1200 cơn co giật nặng mỗi tháng xuống còn 2, 3 cơn co giật nhẹ. Ở phần cuối của phân khúc CNN, lúc Charlotte đạp xe đạp một cách hạnh phúc, cha cô bé đặt câu hỏi “Vì sao chúng tôi phải là những người phải đi ra ngoài kia để tìm kiếm những phương pháp chữa bệnh mang tính tự nhiên này? Làm thế nào mà những vị bác sĩ lại không biết đến điều này?”

Phân tán hạt giống

Bây giờ hãy thử tưởng tượng Charlotte Figi không được sống ở Colorado hiện đại, mà là ở vùng Trung Đông, gần 2000 năm trước. Cho dù là một đối tượng của sự thương hại, kinh miệt, sợ hãi, hay sự thích thú, đứa trẻ tội nghiệp ấy có thể đã bị người ta nghĩ là bị quỷ ám – cộng đồng tôn giáo sùng tín của em sẽ không thể có những khái niệm về chứng động kinh như chúng ta hôm nay. Ít nhất là cho đến khi một người lạ đến thành phố, tự xưng là Chúa Giê-su thành Nazareth, nhưng được các môn đệ gọi Ki-tô – tiếng Hy Lạp có nghĩa làngười được xức dầu.

Lần theo công thức của dầu thánh được tìm thấy trong Cựu Ước (Xuất hành 30:22-23), vị thầy thuốc nổi tiếng ở địa phương này sẽ pha 9 cân Anh một loài cây được biết đến với tên ở tiếng Aram là kaneh-bosm (mía thơm) vào khoảng 6 lít dầu ô liu, cùng với chiết xuất quan trọng của chất nhựa thơm, cây quế, và trái bã đậu. Sau đó ông ta sẽ dùng liều thuốc cao này ở các chỗ tàn phế, cho phép tại vị trí đó thuốc được hấp thụ qua da.

Theo những quy ước Kinh thánh học thuật, “250 shekel kaneh-bosm” được liệt kê trong các phiên bản tiếng Hebrew cổ của Cựu Ước được cho là có liên quan tới cây mây, nhưng Chris Bennett, tác giả của cuốn sách năm 2001 Tình dục, ma túy, và bạo lực trong Kinh Thánh cho rằng đây là một quan niệm sai lầm, và cũng như một sự đánh lạc hướng, bắt nguồn có lẽ là từ một sai lầm có chủ đích khi lần đầu Cựu Ước được dịch sang tiếng Hy Lạp.

Kaneh-bosm, ông viết, chính là cần sa.

Bằng chứng vững chắc đầu tiên về việc người Bebrew sử dụng cần sa được xây dựng vào năm 1936 bởi Sula Benet, một nhà ngữ nguyên học Ba Lan ít nổi tiếng đến từ Viện Khoa học Nhân chủng học Warsaw. Từ cần sa thường được cho là có nguồn gốc từ Scythia, nhưng Benet đã cho thấy nó có nguồn gốc sớm hơn nhiều trong những ngôn ngữ Semetic như Hebrew, và nó xuất hiện nhiều lần trong Cựu Ước. Benet đã giải thích “trong văn bản gốc tiếng Hebrew của Cựu Ước có những tài liệu tham khảo về cây gai dầu, cả hai được xem như nhang, là một phần không thể thiếu của các lễ mang tính tôn giáo, và như một chất gây say.”

Benet đã chứng minh từ cần sa ở đây là kaneh-bosm, cũng được giải thích trong truyền thống Hebrew là kaneh hoặc kannabus. Gốc kan trong từ này có nghĩa “cây lau” hoặc “cây gai dầu,” còn bosm nghĩa là “mùi hương.” Từ này xuất hiện năm lần trong Cựu Ước; trong sách Xuất Hành, Diễm Ca, Isaiah, Jeremiah và Ezekiel …. và đã bị dịch sai thành cây mây, một loại cây phổ biến ở vùng đầm lầy không có những phẩm chất và giá trị được cho là của kaneh-bosm. Có nhiều lỗi sai trong bản dịch tiếng Hi Lạp cổ nhất của Kinh thánh Hebrew, bản Septuagint thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, và bị lặp đi lặp lại trong những bản dịch sau.

Mặc dù những tranh luận mang tính từ vựng không đóng góp như một bằng chứng về nguyên liệu, “thuyết cây lau có mùi hương” có thể phục vụ như một cơ sở cho tập hợp các giả định. Giả sử loại dầu được mô tả trong sách Xuất Hành trong thực tế chứa hàm lượng cần sa cao, một liều có hiệu quả của hợp chất dược liệu của cây chắc chắn sẽ đủ vững chắc để giải thích cho sự chữa lành bệnh một cách kì diệu của Chúa Giê-su, cần sa đã được chứng minh là một phương pháp điều trị có hiệu quả cho tất cả các bệnh từ bệnh ngoài da, tăng nhãn áp, chứng thoái hóa thần kinh và chứng đa xơ cứng.

Ngoài ra, trong khi rất khó có khả năng vào thời điểm đó có bất kì ai sở hữu loại thảo dược có khả năng cạnh tranh với loại 20-25% THC siêu mãn tính đã giành Cúp Cần sa vào thời điểm hiện tại, cũng không có lí do nào để tin rằng những nhà nghệ thuật thực vật của thế giới cổ đại không thể lai tạo và gây giống những loại cây có hàm lượng THC ở mức 10% – có thể với mức CBD cao hơn cả những giống hiện đại của chúng ta – một giống cannabinoid mà nhiều người ủng hộ khẳng định là đủ vững chắc để gây ra một phản ứng thực sự sâu sắc khi được hấp thụ với một lượng lớn.

Mô-sê – Vị Shaman say thuốc

Kaneh-busm xuất hiện lần đầu tiên một cách lành mạnh trong Kinh thánh với câu chuyện Moses và bụi cây bốc cháy, trong khi những nhà tiên tri Do Thái đáng kính nhận được công thức dầu xức trực tiếp từ Chúa, cùng với những hướng dẫn rõ ràng rằng chỉ được xức dầu cho giới linh mục – sau đó những hạn chế cũng được nới lỏng cho giới vua chúa.

Xuất hành 30:31

Ngươi hãy nói với dân Israel, “Ðây sẽ là dầu thánh của Ta, dùng cho phép xức dầu trải qua các đời. Dầu ấy không được phép dùng để xức trên cơ thể người thường. Các ngươi không được dùng công thức đó để pha chế một thứ dầu khác tương tự như dầu ấy. Dầu ấy là dầu thánh, nó sẽ là dầu thánh đối với các ngươi. Kẻ nào chế biến một thứ dầu nào khác tương tự như dầu ấy, hoặc đem dầu ấy xức trên kẻ không xứng đáng sẽ bị khai trừ khỏi dân.”

Không may cho những linh mục và sự độc quyền về cần sa lỗi thời của họ, tuy nhiên, nhiều tôn giáo mang tính cạnh tranh khác và những con đường tâm linh hoạt động vào thời điểm đó – bao gồm cả những người ngoại đạo và những người thờ Nữ thần Ashera – đã sở hữu rất nhiều nguồn cung cấp kaneh-bosm. Cần sa, dù sao đi nữa, đã được gieo trồng như một loại cây lương thực ít nhất là từ 6000 năm trước Công nguyên và đã trở nên nổi tiếng và được phổ biến rộng rãi trong khoảng thời gian của Moses.

“Có thể có một chút nghi ngờ về vai trò của cần sa trong tôn giáo của những người Do Thái cổ,” theo Carl P. Ruck, một giáo sư thần thoại cổ tại Đại học Boston, người nghiên cứu về những cách chất thức thần đã ảnh hưởng đến sự phát triển về tâm linh của nhân loại. “Không lý nào mà một loại cây có vị trí quan trọng trong việc cung cấp nguồn sợi cho ngành dệt và dầu dinh dưỡng và lại rất dễ để trồng lại bị lờ đi… đơn thuần chỉ cần thu hoạch nó thôi là đã gây ra một phản ứng kích thích.”

Có nghĩa không chỉ riêng gì cây cây sa mà những linh mục tôn giáo Do Thái cổ muốn giữ riêng cho họ, cũng như dầu xức có tiềm năng chữa bệnh công hiệu cao được truyền lại bởi Moses. Một sự cấm đoán được họ duy trì bằng cách nhắm đến việc thủ tiêu những người dám vi phạm giới răn của Chúa bằng cách truyền bá nước thuốc cho dân chúng, trong trường hợp kaneh-bosm là cần sa.

Giê-su – Kẻ nổi loạn

Ngoài việc chịu bị đóng đinh, sự rửa tội của Chúa Giêsu được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là một sự thật lịch sử duy nhất về cuộc đời của Chúa. Những câu chuyện sống động trong Tân Ước về nghi lễ làm rõ ràng hơn chuyện các tông đồ cho rằng cuộc gặp gỡ giữa vị cứu tinh của họ với Gio-an tẩy giả là một sự kiện mấu chốt và mang tính chuyển hóa, một việc đánh dấu sự khởi đầu việc công khai thánh chức.

Mark-cô 1: 9-13

Trong những ngày ấy Ðức Chúa Jesus từ Nazareth thuộc miền Galilee đến và được Gio-an làm phép rửa dưới Sông Jordan. Vừa khi ra khỏi nước, Ngài thấy các tầng trời mở ra, và Ðức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài như một chim bồ câu. Bấy giờ có tiếng từ trời phán rằng, “Con là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.” Ðức Thánh Linh liền đưa Ngài vào đồng hoang. Ngài ở trong đồng hoang bốn mươi ngày, bị Sa-tan cám dỗ. Ngài ở chung với các thú rừng, và các thiên sứ hầu hạ Ngài.

Nhưng nếu nước là một chất xúc tác cho sự thăng thiên về tâm linh của Chúa Giêsu, tại sao Ngài không bao giờ thực hiện một phép rửa tội? Tại sao lấy danh xưng Ki-tô? Và tại sao xức dầu cho con chiên trước khi gửi họ đi xức dầu cho những người khác, như đã được mô tả trong Mark-Cô 6: 13: Họ xua đuổi nhiều quỷ dữ, xức dầu cho nhiều người bệnh tật và chữa lành cho họ.

Với những người tin rằng Chúa Giêsu đã sử dụng dầu cần sa, câu trả lời nằm trong những văn bản Kitô giáo phi chính thống. Các bản văn kinh điển của Tân Ước, đó là những cuốn sách của Matthew, Mark, Luke, v.v, đã không được chọn cho đến tận khoảng 235 năm sau cái chết của Chúa Giêsu, khi Giáo hội Công giáo La Mã tiêu hủy một số lượng lớn những thứ cạnh tranh với hy vọng thống nhất tất cả các tín đồ Cơ đốc giáo dưới một ngọn cờ–của chính họ. Giáo hội sau đó đã tìm kiếm và tiêu hủy tất cả mọi chương mục khác với phiên bản sự kiện chính thức của họ hiện nay. Cho phép đế chế Giêsu, đã từng một lần bị chống đối dữ dội, đoạt quyền kiểm soát toàn bộ Kitô giáo trong giai đoạn một nghìn năm còn được biết đến với cái tên Thời Đại Đen Tối (Thời Trung Cổ).

Trong khi đó, bất kì tín đồ Kitô giáo nào tiếp tục phát huy quan điểm khác với Giê-su và giáo lý của Ngài đều bị gắn mác là dị giáo và bị đàn áp một cách dã man. Phần lớn thánh thư và những mệnh lệnh của họ bị thất lạc mãi mãi như một hệ quả, cho tới năm 1945, khi một người nông dân Ai Cập đào phân bón trong một hang động khai quật được một tá những quyển sách bìa da trong một chiếc bình kín, một kho báu bị chôn cất có chủ đích bởi những người chép kinh ở một tu viện gần đó vào khoảng năm 367 sau công nguyên, khi lần đầu tiên Giáo hội lên án việc sử dụng những bản kinh không chính thức.

Trong những tập này – nhiều trong số đó có trước trong những quyển sách của Tân Ước – những chuyên gia về Kinh thánh phái hiện ra được một câu chuyện song song nhưng khác biệt hoàn toàn về cuộc đời Chúa Giê-su, câu chuyện này đặt lễ xức dầu của Chúa làm trọng tâm cho Kitô giáo. Đến nỗi những giáo phái này đã được trùm lên một tấm mền bằng tên gọi Gnostic (“kiến thức” trong tiếng Hy Lạp) để làm nổi bật lên trọng tâm trải nghiệm trực dầu thánh trực tiếp, cái định nghĩa một Ki-tô hữu, chứ không phải đức tin gián tiếp vào Kinh thánh hay vào các linh mục.

Thánh thư Gnostic Tin mừng Thánh Phillip, lấy ví dụ, tuyên bố rằng bất kì ai “được xức dầu… không còn là một Ki-tô hữu mà trở thành Ki-tô.” Một sự chuyển đổi sau đó được so sánh với hành động giả được dùng trong lễ rửa tội được thông qua bởi Giáo hội Công giáo La Mã, trong đó các tân tòng sẽ bắt đầu đi “xuống nước và lên trở lại mà không nhận được gì… [Bởi vì] có nước ở trong nước, có lửa ở trong dầu thánh [để xức].”

Về cơ bản, các Gnostics tin rằng phép rửa tội của Chúa đã diễn ra, nhưng chỉ như một hình thức thanh tẩy, để chuẩn bị cho việc tiếp nhận xức dầu thánh – một tiệc thánh thực sự. Như Chris Bennett đã viết: “Những mô tả còn sót lại của Gnostic về tác động của nghi thức xức dầu cho thấy rõ rằng dầu thánh có tính chất thức thần mãnh liệt đã chuẩn bị cho người nhận một lối vào “hạnh phúc vĩnh hằng.”

Những người hoài nghi

Lytton John Musselman, một giáo sư thực vật tại Đại học Old Dominion và tác giả của cuốn Từ điển thực vật Kinh Thánh (Cambridge 2011), cho biết ông có nghe qualý thuyết kaneh-bosm ám chỉ cần sa, nhưng vẫn hoàn toàn hoài nghi, nói rằng các bằng chứng khẳng định cần sa là một phần của dầu xức thánh là “yếu đến nỗi tôi sẽ không theo đuổi nó.” Ông cũng bảo vệ quan điểm cây mây có khả năng sản xuất những loại thuốc có tác dụng ngang với những loại được mô tả trong Kinh thánh.

“Cây mây là một thành phần rất quan trọng của y học Ayurvedic và đã được chứng minh là có hiệu quả,” theo Musselman. “Lấy ví dụ, ở Sri Lanka nó có sẵn trong bất cứ cửa hàng thảo dược nào và cũng được trồng phổ biến trong vườn nhà. Những giống Bắc Mỹ đã và đang rất quan trọng đối với người Mỹ bản địa ở vùng Đông Bắc mà những vùng đất có những quần thể trong tự nhiên được săn lùng.“

Giống như hầu hết các học giả Kinh Thánh, Musselman ít quan tâm tới ý tưởng Chúa Giê-su đã sử dụng cần sa để thực hiện những phép lạ trong chữa bệnh chúng ta thấy ngày hôm nay ở trên CNN và đọc trên trang Salt Lake City Tribune.

Rất dễ hiểu, với những đứa trẻ như Charlotte và gia đình của chúng, tôn giáo, lịch sử, chính trị, y học và pháp luật đều phải lùi một bước trước những hiệu quả tích cực họ đang trải nghiệm khi điều trị bệnh với cần sa. Như Chúa Giê-su nói với các môn đệ sau khi rao giảng tại hồ Galilee:

Mark-Cô 4: 21-23

Ngài nói với họ, “Có ai đem đèn ra rồi để dưới thùng hoặc dưới gầm giường chăng? Chẳng phải người ấy để nó trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà không có lúc bị phơi bày, không có gì bí mật mà không có ngày bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, để họ nghe.”

Hãy nhớ rằng, vào thời đó người ta dùng dầu để đốt đèn.


Tác giả: David Bienenstock – VICE
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy