27 C
Nha Trang
Chủ Nhật, 3 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 134

Giải thích tường tận và dễ hiểu về Bitcoin và tiền tệ

 

Trước khi nói về Bitcoin, mình xin được kể một vài câu chuyện sau đây, những câu chuyện này là dựa trên cơ sở có thật, điểm khác biệt chỉ là các con số mà thôi, mình sẽ dùng nó để giải thích dễ hiểu nhất có thể quá trình nền kinh tế tiền tệ hình thành và vận hành. Mình sẽ chỉ đề cập tới các vấn đề liên quan tới bitcoin, những vấn đề khác có thể sẽ bị bỏ qua vì cơ bản kinh tế là vấn đề quá rộng.

Câu chuyện về những cái vỏ sò

_ Loài người lúc sơ khai có đúng 100 người, lúc đó cả 100 người đều trồng lúa, mỗi người cả năm trồng được 1000kg lúa, và loài người đều ăn lúa vui vẻ qua ngày.
_ Mỗi tội ăn toàn lúa không đói thịt sống không nổi, thế là có 25 người có khiếu chăn nuôi quay ra nuôi heo kiếm thịt, mỗi năm nuôi được 100kg thịt heo, mỗi tội nuôi heo thì không có thời gian trồng lúa, thế nên 25 người kia quyết định đổi thịt heo với lúa với tỉ lệ 100/1000 = 1/10, nói cách khác, 1kg thịt heo có thể đổi được 10kg gạo.
_ Năm tiếp theo, lại có thêm 25 ông nữa quay qua trồng rau, mỗi năm mỗi ông trồng được 250kg rau.
_ Và khi có thêm 25 thằng nữa quay ra làm muối năng suất 500kg/năm, thì ông tộc trưởng đáng kính, do suốt ngày phải ngồi: “Thằng này có 6kg thịt, thế là nó đổi được 15kg rau, nhé”, “Thằng kia có 10kg muối, thế là nó đổi được 20kg lúa nhé”,… Tới ngày thứ 69, ông tộc trưởng điên đầu quá mới quyết định treo 1 cái bảng thế này trước cổng nhà:

  • Từ nay lấy vỏ sò làm chuẩn:
  • Thằng nào nhờ tao đổi gạo ra muối nữa ta đập cho què giò. Chỉ được dùng vỏ sò do ta phát, tất cả vỏ sò khác không được chấp nhận.
    _ Và đây chính là cách mà tiền tệ ra đời, đơn vị của đồng tiền đầu tiên có tên là “sò” (đùa thôi).
    _ Như vậy bạn có thể thấy, bản chất ban đầu của việc ra đời tiền tệ, chính là dựa trên nhu cầu tránh sai sót và phức tạp, và đơn giản hóa quá trình mua bán.
  • 1kg gạo = 10 cái vỏ sò.
  • 1kg thịt = 100 cái vỏ sò.
  • 1kg rau = 40 cái vỏ sò.
  • 1kg muối = 20 cái vỏ sò.

=> Giả sử trong ví dụ này, 1 anh chỉ biết tỉ số giữa gạo và rau, 1 anh chỉ biết tỉ giá giữa thịt và muối , khi 2 người này muốn trao đổi với nhau thì họ buộc phải tìm 1 người thứ 3 biết tỉ giá giữa ít nhất là gạo-muối, rau-thịt gì đấy thì mới tiến hành trao đổi được. Và thử tưởng tượng 100 người sản xuất ra 100 mặt hàng thì ngồi nhớ cái đống tỉ giá đó tới mửa mật .

=> Tuy nhiên khi “sò” ra đời, thì anh có gạo chỉ phải nhớ mình có 1kg gạo thì quy ra được bao nhiêu “sò”, và khi có ai muốn đổi, anh ấy chỉ việc yêu cầu đưa ra số “sò” tương ứng với số gạo mà thôi.

=> Khi đồng tiền do 1 tổ chức đưa ra (ở đây ông tù trưởng là đại diện) thì bạn có thể thấy giá trị đồng tiền khởi nguyên được đưa ra bởi chính người phát hành ra nó. Nói cách khác, giá trị của 1 đồng tiền khi mới ra đời (chưa bị điều chỉnh bởi thị trường tự do, mình sẽ nói tiếp sau) chính là do tổ chức tạo ra nó quyết định. Ví dụ như ở trên nếu không phải là 10 “sò” mà chỉ cần 1 “sò” đã bằng 1kg gạo thì cũng đâu có gì khác biệt, đúng không?

=> Rồi, tạm thời như ví dụ trên, các bạn có thể thấy, “sò” chính là tên 1 loại tiền tệ được lưu thông, và giá trị của nó, chính là số giá trị mà hàng hóa – dịch vụ mà nó đại diện. Cũng như “sò”, thì khi đó “lá”, “đá cuội”, “vàng”, “VNĐ”, “Dollar”, “Yen”,… tất cả đều chỉ là những vật thể được quy ước chung toàn xã hội chấp nhận là một lượng nào đó các thứ đấy sẽ thay mặt cho 1 lượng giá trị vật chất – dịch vụ tương ứng (một số gạo, một lượng cá, một bài thuốc của bác sĩ,…). Đây chính là cái mà chúng ta gọi là “tiền”, bản thân chúng KHÔNG CÓ một chút giá trị nào cả, giá trị chúng nhận được là do xã hội thống nhất gán vào. Vàng có giá, vì chúng ta cho là nó có giá, chứ nếu đưa cho con chó, nó nuốt xong rồi ị ra lại, vì đơn giản với nó đó là thứ vô giá trị.

Vậy tại sao vàng lại có giá với chúng ta? Vì nhu cầu trao đổi. Thực tế, các nhà lịch sử nhận thấy ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều dùng vàng làm những đồng tiền khởi nguyên (các đồng xu vàng xuất hiện ở rất nhiều nền văn hóa). Lí do mà họ chọn vàng làm công cụ trao đổi theo các nhà khoa học là do các thuộc tính sau (đây cũng là tiêu chí để một thứ gì đó trở thành công cụ trao đổi):
_ Dễ phân biệt và kiểm định.
_ Bền vững về mặt vật chất so với nhiều thứ khác, nói cách khác không thể dễ dàng biến mất số lượng lớn.
_ Lượng sản xuất ra là không nhiều trong một đơn vị thời gian dài, nói cách khác là không thể có sự thay đổi 1 cách đột biến về lượng vàng trong toàn xã hội.
_ Giá trị nội tại ít biến động, vì cơ bản, là người ta đếch dùng vàng làm cái cóc khô gì hết. Lượng vàng tham gia vào công nghiệp trang sức và công nghiệp hàng điện tử chỉ là tép riu so với lượng vàng thỏi và vàng nén người ta cất trong hầm, nên về cơ bản, quy luật cung cầu không tác động mạnh tới vàng. Nó chỉ đơn giản là để lưu trữ mà thôi.
_ Có thể chia ra rất nhiều phần nhỏ, tương ứng với nhiều mức giá trị vật chất.
Sau khi trải qua giai đoạn đầu, các tổ chức quản lí xã hội (mà nhà nước là ví dụ điển hình) bắt đầu in tiền (dưới nhiều dạng, như tiền kẽm, tiền đồng, và phổ biến hơn cả là tiền giấy) và thay thế dần sự ngự trị của tiền vàng trên thế giới. Lí do mà các tổ chức này đưa ra khi in tiền có rất nhiều, ví dụ như dễ vận chuyển, dễ thay thế khi hao mòn, giảm chi phí đúc tiền, v.v… nhưng nhiều chuyên gia nhận định, lí do thực ra hết sức đơn giản: nắm nền kinh tế. Như Mayer Amschel Rothschild từng phát biểu 1 câu bất hủ:

“Permit me to issue and control the money of a nation, and I care not who makes its laws!”

Câu đó đại loại dịch như thế này: nếu cho ta quyền điều khiển đồng tiền của một quốc gia, thì ta kệ mẹ luật pháp của quốc gia ấy . Phần này mình không đề cập sâu, vì nó quá sức rộng, mà nếu nói không cặn kẽ sẽ rất dễ sinh ra nhiều hiểu lầm và ảo tưởng, ngược lại nếu mình nói về chuyện này nhiều quá thì sẽ làm loãng chủ đề chính, nên mình chỉ đề cập như thế. Các bạn cứ tin, một khi đã nắm được quyền điều khiển đồng tiền của một nền kinh tế, thì nền kinh tế đó và mọi thứ đi theo nó đều nằm dưới chân của bạn rồi.

Tới đây các bạn có thể thấy rõ một điều: tiền được phát hành bởi các tổ chức trên toàn thế giới, thực tế là không đáng tin cậy với tư cách một trung gian trao đổi, đơn giản là vì nó vi phạm nguyên tắc số 2 và 3: quá dễ dàng để tiêu hủy và quá đơn giản khi muốn in thêm . Chưa kể việc đảm bảo nguyên tắc số 1 của nó đối với tiền mặt là rất khó khăn với dân thường, vì việc làm giả tiền giấy ở mức độ mắt thường không phân biệt nổi là cực kỳ đơn giản. Tuy nhiên nó vẫn được in ra và sử dụng, vì nó nằm trong tầm tay kiểm soát của nước.

Quay trở lại với câu chuyện vỏ sò. Với bảng niêm yết giá là thế và theo lí trong xã hội chỉ được tồn tại 1 triệu sò. Tuy nhiên do lòng tham nổi lên (hoặc đánh bạc thiếu nợ gì đấy chẳng hạn) nên ông tộc trưởng quyết định đem ra thêm 2000 “sò” ông tự móc dưới sông ra để mua hàng hóa. Thấy không ai để ý, ông ta cứ thêm, thêm, thêm nữa, cho tới khi 100 000 “sò” thêm vào nền kinh tế, thì người dân lờ mờ nhận ra, hình như đang có quá nhiều “sò” so với số lương hàng hóa, nên trong quá trình buôn bán, họ sẽ coi rẻ giá trị của “sò” hơn, và dần nâng giá vật phẩm lên, hay nói cách khác, là giảm giá trị của “sò” xuống. Đây chính là khái niệm lạm phát. Đó là khi giá trị của đồng tiền không còn xứng đáng với giá trị vật chất mà tổ chức phát hành tiền niêm yết nữa, thì thị trường tự động sẽ điều chỉnh dần cho nó xuống sát với giá trị gốc hơn .

Lạm phát cũng có thể xảy ra khi lượng tiền giữ nguyên nhưng kinh tế thì lại giảm sản lượng, ví dụ thay vì 100 tấn gạo thì chỉ còn 50 tấn gạo, gạo trở nên khan hiếm hơn nhiều thì khi đó người ta sẽ tự động nâng giá gạo lên, nói một cách khác là giảm giá trị đồng tiền xuống.

Các cuộc tấn công kinh tế cũng có thể đánh vào việc lạm phát, khi đó các lực lượng phá hoại sẽ tung vật phẩm ra bán để thu lại lượng lớn tiền mặt trên thị trường, sau đó ếm kỹ, làm cho các giao dịch tài chính trên thị trường thiếu lượng tiền mặt để trao đổi, buộc tổ chức quản lí tiền tệ sẽ phải in thêm tiền để đáp ứng nhu cầu trao đổi. Sau đó chúng lại ồ ạt tung số tiền tích trữ đó ra ngoài thị trường bằng cách mua các mặt hàng trên thị trường với giá cao hơn nhiều so với bình thường, như vậy lượng hàng hóa không gia tăng nhưng lượng tiền tăng đột biến, gây ra lạm phát bất ngờ. Đây cũng là một điểm yếu của đồng tiền hiện tại: không thể kiểm soát chính xác được dòng tiền tệ đang ở đâu và chảy về đâu trong nền kinh tế.

Và điều cuối cùng mình muốn đề cập ở ví dụ trên: đó là hãy thử suy nghĩ, nếu không phải ông trường làng, mà chỉ là một thằng ất ơ đầu đường xó chợ nào đấy treo cái bảng giá trên và tuyên bố: “Chúng mày muốn đổi vật phẩm ra “sò” thì tới chỗ tao, cấm thằng nào dùng “sò” lượm ngoài sông trao đổi.” Bạn nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra?

Đảm bảo thằng đó sẽ có 1 vé đi cấp cứu khoa chấn thương chỉnh hình ngay và luôn.

Như vậy rõ ràng, lời nói của thằng kia thì không đáng giá gì cả, nhưng lời nói của ông trường làng thì lại được cả cộng đồng công nhận, và chấp nhận mức “sò” của ông ta ra mà đổi. Rõ ràng, khi đó việc trao đổi hàng hóa, tiền bạc có thể thực hiện được là nhờ lòng tin vào bên thứ ba (ở đây chính là ông trường làng). Rộng hơn, ở nền kinh tế hiện đại, đó chính là các tổ chức tiền tệ quốc tế, các ngân hàng, v.v…

Và bạn rất dễ nhận ra vấn đề ở bước này: làm sao tôi biết bên thứ ba đó có đáng tin cậy hay không, làm sao tôi biết nó không tuồn thêm tiền vào dòng tiền để thu lợi bất chính, đầu cơ phá hoại,… hay không? Câu trả lời, đương nhiên là không thể. Bạn không thể nắm được hoạt động của bên thứ ba, vì hầu hết các hoạt động đó là không công khai, với lí do thường thấy nhất: “bí mật quan trọng”.

Tổng kết, tới đây chúng ta đã hiểu cơ bản cách nền kinh tế tiền tệ vận hành, và đây là 3 vấn đề lớn mà các đồng tiền hiện nay đang mắc phải:
1> Đồng tiền hiện nay không đảm bảo ít nhất 2/5 nguyên tắc của một công cụ trao đổi.
2> Dòng tiền hiện nay không đáng tin cậy, vì không 1 cách nào biết được bên thứ ba điều khiển dòng tiền đó sẽ làm gì với nó.
3> Dòng tiền hiện nay rất dễ để đầu cơ tích trữ tiền mặt, do đó rất khó để quản lí chính xác dòng tiền, và rủi ro rất cao cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, các “bên thứ ba” đó nói chung vẫn duy trì việc kiểm soát tiền tệ do chính họ tạo ra vì chỉ có như thế mới có thể đạt được quyền lực cao nhất đối với nền kinh tế, hãy xem xét 2 ví dụ sau để thấy, khi bạn có khả năng kiểm soát đồng tiền của nền kinh tế thì quyền lực và sức mạnh của bạn sẽ khủng khiếp như thế nào.

Câu chuyện đầu tiên, là câu chuyện khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn 2007-2012, bắt đầu từ Mỹ:

Khi đó, ở Mỹ, do đầu tư “ngu”, nên hệ thống ngân hàng, bảo hiểm,v.v… nói chung là bên “trung gian thứ ba” của Mỹ, với nhiệm vụ là đảm bảo uy tín cho các hợp đồng vay mượn tiền tệ, bị vỡ trận và tê liệt hoàn toàn, với rất nhiều ngân hàng tuyên bố phá sản và hệ thống tài chính nằm chổng mông lên trời. Lúc này thị trường tài chính của Mỹ bước vào khủng hoảng. Nói cho đơn giản, nhà đầu tư (đứa dư tiền) không có cách nào đưa tiền cho các đối tượng làm ăn kinh doanh (những đứa cần tiền). Như thế, bên thiếu cứ thiếu, và bên thừa cứ thừa, nền kinh tế bị tắc lại. Khi đó để giải quyết vấn đề thì Mỹ bơm thêm tiền trực tiếp vào những đối tượng đang cần tiền qua các gói cứu trợ, kích cầu. Như vậy các đối tượng thiếu tiền kia vượt qua cơn khát tiền.

Tuy nhiên, hãy nhìn lại vấn đề, như vậy là tổng lượng USD trên toàn cầu đã tăng, nói cách khác, giá trị của nó bị giảm (do lạm phát). Như thế, rõ ràng đám “thừa tiền” đã mất đi một phần tiền của mình. Nhưng đó chưa phải là điều quan trọng nhất. Vì USD không chỉ là một đồng tiền của 1 quốc gia, nó là 1 đồng tiền quốc tế.

Nói cách khác, tất cả các quốc gia và tổ chức kinh tế nào đang trữ USD làm nguồn dự trữ ngoại tệ đều mất đi một lượng giá trị tiền bạc do đồng USD lạm phát. Hãy lấy ví dụ vui, giả sử đồng Dollar lúc đó lạm phát nên giảm giá trị xuống chỉ còn 50%, nghĩa là sáng hôm trước 1 USD còn mua được 2 hộp xôi sáng cho cả bố cả con, thì sáng hôm sau chỉ còn mua được cho mỗi thằng con. Thằng bố vừa móc tiền ra vừa chửi “Tổ cha thằng nào cướp hộp xôi của tao”.

Nói rộng ra, tất cả những ai trữ USD đều bị mất tiền, trữ càng nhiều thì mất càng khủng. Cùng điểm lại: cả thế giới mất tiền, đám có tiền ở Mỹ cũng mất, chỉ có đám thiếu tiền ở Mỹ là được thêm. Nói cách khác, số lượng tiền cả thế giới mất, tất cả đều đổ về Mỹ. Rõ ràng khi trở thành đồng tiền quốc tế, Mỹ chỉ việc in ra tiền từ… không khí, thì chúng cũng biến thành tiền thật. Cả thế giới chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt.

Câu chuyện thứ hai, câu chuyện trừng phạt kinh tế với Nga, giai đoạn đầu 2014 tới nay:

Khi đó, trước giai đoạn ép giá dầu Nga giảm xuống, kéo theo đồng Ruble giảm tỉ giá chỉ còn một nửa, các ông trùm tư bản của Mỹ đều được thông tin từ trước, nên khi giá trị đồng Ruble Nga còn cao, (tỉ lệ đổi là 1/3), các ông trùm vay 30 tỷ tiền Ruble Nga để mua về 10 tỷ USD. Tới khi đồng Ruble Nga sụp giá tới 50%, các ông trùm chỉ việc bán ra 5 tỷ USD (lúc này có tỉ giá là 1USD = 6 Ruble ) là đã có ngay 30 tỷ Ruble để trả nợ. Còn lại 5 tỷ USD, Mỹ hốt trắng. Nga đương nhiên chỉ biết ngậm đắng nuốt cay nhìn đồng tiền của mình một đi không trở lại, số tiền này một phần được dùng để bù lỗ cho các nước xuất khẩu dầu mỏ-khí đốt đã móc tay với Mỹ để ép giá dầu xuống. Nói cách khác, Mỹ đã “lấy mỡ nó rán nó”, dùng chính tiền của Nga để “xử đẹp” Nga.

Các con số trên đương nhiên chỉ là cho các bạn mường tượng quá trình cho dễ, thật ra con số thực tế lớn hơn nhiều, tuy nhiên, chuyện đồng Ruble sụp 50% giá trị là có thật, hiện nay chỉ còn 33% so với hồi đầu năm 2013.

Các bạn có thể thấy, chỉ cần sự móc ngoặc giữa Mỹ, các nước xuất khẩu dầu mỏ – khí đốt và châu Âu là đã đủ để cho Nga một đòn thật nặng, cần gì phải chiến tranh bom đạn cho mệt. Điều tương tự cũng xảy ra nếu ta và khựa có hiềm khích lớn. Im lặng đi, đánh đấm cái đếch gì, ngáp 1 tiếng là sáng hôm sau ra đường ăn xin cả lũ đấy .

Rồi, giờ chúng ta sẽ nói về Bitcoin

Trước hết, hãy nói về việc Bitcoin là gì. Câu trả lời hết sức đơn giản, Bitcoin là tiền, thế thôi.

Giống như sò, USD, SGD, Yen, Euro, Bath (Thái Lan), VNĐ, ZWD (Zimbabwe),… thì Bitcoin cũng chỉ là tên của 1 đơn vị tiền tệ mà người ta đồng ý đem ra sử dụng thôi. Đừng dùng chữ “tiền ảo” để nói về Bitcoin, vì xét cho cùng thì tất cả các đồng tiền đều là “ảo”, vì như mình đã nói ở trên, giá trị của chúng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người phát hành, chỉ sau đó mới được điều chỉnh bởi thị trường. Đọc xong bài này, bạn sẽ nhận ra độ “thực” của Bitcoin còn lớn gấp hàng trăm lần những đồng tiền mình vừa nêu trên.

Nếu bạn nói rằng những đồng tiền kể trên thực hơn Bitcoin ở điểm là chúng được in ra và tiêu dùng trong đời sống hàng ngày thì xin mời bước vào các siêu thị ở các thành phố du lịch lớn ở VN xem người ta thanh toán ở siêu thị bằng cách nào nhiều hơn? Quẹt thẻ hay là tiền mặt? Và thử lên google xem hiện nay lượng tiền được in ra so với lượng tiền ước tính toàn thế giới là bao nhiêu? Xin thưa chỉ là 1/10. Nói cách khác, chỉ 10% số tiền hiện nay trên thế giới là có dạng được in ra, còn lại 90% chỉ là những con số trên máy tính mà thôi. Sao? Liệu bạn còn dám nói cái nào thật hơn cái nào nữa không?

Bitcoin là một dạng tiền tệ được lưu thành những con số trong một mạng lưới máy tính khổng lồ. Mỗi một máy trong hệ thống mạng lưới đó được cài chung một chương trình, đều lưu trữ tất cả mọi thông tin về lượng bitcoin đang tồn tại trên thị trường, mọi sự trao đổi tiền tệ từ người này sang người khác là công khai, mọi sự thêm vào Bitcoin trong hệ thống, tất cả đều được lưu lại một bản sao đầy đủ trong từng máy tính của hệ thống. Mọi gian lận trong giao dịch, ví dụ như thêm Bitcoin giả vào, là không thể được, vì mỗi máy trong hệ thống đều có tính độc lập với nhau trong việc lưu giữ thông tin về dòng Bitcoin, và các thông tin này là công khai, nên dựa trên sự so sánh, đối chiếu kiểm tra các mối thông tin liên hệ đặc biệt trong hệ thống, việc hack toàn bộ lượng thông tin trên trong hệ thống là cực kỳ khó nếu không muốn nói là vô vọng, và các máy tính trong hệ thống sẽ loại bỏ các giao dịch giả do chúng không khớp với dữ liệu của cả hệ thống.

Thế làm thế nào để tạo ra thêm Bitcoin?

Để tạo ra thêm Bitcoin, các máy tính trong hệ thống sẽ phải chơi trò đoán mò. Hãy hiểu đơn giản, chương trình trên sẽ bảo cả hệ thống là “tao đang nghĩ 1 con số trong đầu, hãy đoán xem đó là số nào, thằng nào đoán đúng sẽ được thưởng”, hãy tưởng tượng việc này giống như trò đào kho báu ấy, bạn có 1 cái bản đồ chỉ tới 1 khu đất mà bạn biết chắc ở đó có kho báu, nếu chọn đúng địa điểm đào lên thì nó thuộc về bạn. Càng ngày khi hệ thống máy tính tham gia đào Bitcoin (càng nhiều người tham gia trò chơi đào kho báu) thì bài toán và đáp số bài toán sẽ càng khó tìm hơn (khu đất đào kho báu ngày càng rộng hơn ấy). Độ khó của bài toán được thiết kế tự đông gia tăng để trung bình khoảng 10 phút sẽ có 1 máy trong hệ thống đào được bất chấp số người gia nhập thêm vào hệ thống. Do tốc độ máy tính tăng dần theo dạng lũy thừa nên độ khó của bài toán sẽ tăng theo dạng lũy thừa, và theo dự đoán, khoảng năm 2150 (có thể sớm hơn, phụ thuộc công nghệ phần cứng máy tính) bài toán trên sẽ trở thành bài toán không bao giờ giải được. Nói cách khác, năm 2150 sẽ là năm chốt sổ cho hệ thống Bitcoin toàn thế giới, cả thế giới sẽ có tầm 21 triệu Bitcoin.

Như vậy ưu điểm của Bitcoin là gì?

_ Đầy đủ tính chất của 1 công cụ trao đổi:

  • Rất dễ thẩm định (nhờ vào sự thẩm định của máy móc hệ thống và tính chất không thể làm giả).
  • Không thể biến mất (trừ khi toàn bộ hệ thống bị phá hủy toàn bộ, còn không thì cứ mơ đi).
  • Không thể tạo mới một cách ồ ạt (như đã trình bày).
  • Không bị tác động giá mạnh theo quy luật cung cầu, vì cơ bản nó cũng như vàng, chả để làm cái cóc khô gì cả.
  • Có thể chia nhỏ, rất nhỏ, đơn vị nhỏ nhất của nó là Satoshi, 1 Bitcoin = 100 000 000 Satoshi (một trăm triệu), cho bạn nào chưa biết luôn, hiện nay 1 Satoshi = 0.054 VNĐ, siêu nhỏ luôn.

_ Công khai: như mình đã nói, mọi giao dịch trên hệ thống, từ việc chuyển tiền cho đến việc đưa thêm Bitcoin vào hệ thống với trò chơi đào kho báu đều là công khai minh bạch và không thể gian lận. Nói cách khác, bạn không thể nào chơi trò đầu cơ tích trữ tiền để sau đó tung ra phá giá đồng tiền như bạn làm với tiền thật được, vì như đã nói, hệ thống biết chính xác chúng đang có tổng cộng bao nhiêu Bitcoin.

_ Tin cậy: như trên đã nói, mọi hoạt động hack vào hệ thống gần như là bất khả thi. Do đó bạn sẽ không bao giờ lo việc tiền trong tài khoản của mình bị hack mất, bị xóa,… như với các ngân hàng thông thường. Chừng nào bạn còn giữ mật khẩu của mình an toàn thì chừng đó số Bitcoin bạn có vẫn còn là của bạn.

_ Bảo mật cực cao: không chỉ là đảm bảo việc Bitcoin của bạn là không thể bị hack mất, hệ thống Bitcoin còn đảm bảo cho bạn không bị lộ diện khi giao dịch. Đơn giản là vì bạn không cần phải khai báo họ tên của mình với hệ thống, việc bạn cần chỉ là tạo đống địa chỉ với mật mã chỉ mình bạn có. Nói cách khác, mạng lưới này đảm bảo tính minh bạch công khai với cộng đồng nhưng vẫn đảm bảo được tính an toàn thông tin cá nhân cho mỗi người sử dụng nó.

_ Tính độc lập: như đã nói, các giao dịch trong hệ thống là không thể thay đổi, cũng như không thể gian lận theo ý muốn chủ quan của con người, nói cách khác, việc Mỹ muốn dùng Bitcoin để chi phối thế giới như đã làm với USD là không thể, hay rõ ràng hơn, là quyền lực tiền tệ không còn nằm trong tay của các tổ chức phát hành tiền nữa .

_ Sự tiện lợi trong giao dịch: như bạn đã biết, các khoản thanh toán hiện nay trên các ngân hàng đòi hỏi rất nhiều thủ tục và chi phí để vận chuyển tiền mặt, kiểm tra giao dịch,… nên sẽ phát sinh lượng chi phí trên các giao dịch rất lớn. Giá trị càng lớn thì phí càng cao. Ngược lại, các giao dịch trên hệ thống Bitcoin chỉ là di chuyển quyền sở hữu các con số trên máy tính rất nhanh gọn, và nó cực kỳ an toàn, bạn không phải lo về việc tiền có thể bị cướp hoặc trộm đi khi vận chuyển, việc xác thực giao dịch cũng cực kỳ nhanh chóng và tốn chi phí rất thấp, đồng thời hệ thống hoạt động 24/24 nên bạn có thể gửi tiền cho bất kỳ ai, bất cứ lúc nào, với chi phí cực kỳ thấp, có khi chỉ vài ngàn Satoshi .

_ Khả năng lạm phát rất ít: như đã nói, lượng Bitcoin đào ra là có giới hạn và không phải muốn có là có, nên khả năng lạm phát của Bitcoin là cực kỳ thấp. Nói cách khác, Bitcoin chỉ bị lạm phát khi nào mà lượng sản xuất hàng hóa của nền kinh tế thế giới bị đình trệ lại xuống dưới mức mà người ta gán cho Bitcoin (do chiến tranh thế giới chẳng hạn ). Bằng không, Bitcoin chỉ có thể giảm phát, hay nói cách khác, là càng ngày nó càng tăng giá.

_ Khả năng tự quản và chống gian lận: Bitcoin là tiền, nhưng nó hơn tiền ở điểm, nó tồn tại dưới dạng điện tử, nói cách khác, nếu bạn là chủ của nó, bạn hoàn toàn có thể lập trình để nó làm theo mệnh lệnh của bạn, ví dụ như “mày là tiền để chi cho ông thợ sửa ống nước”, như thế số bitcoin đó chỉ có thể dùng để chi trả cho ông thợ sửa ống nước nhà bạn mà không thể trả cho ông đầu bếp, tương tự với hoạt động của các công ty lớn, các hoạt động nhà nước, họ không thể chi sai mục đích so với bản kê khai được. Điều này sẽ loại bỏ các nguy cơ quan liêu trong hệ thống tài chính của các tổ chức sử dụng hệ thống Bitcoin. Đây là ứng dụng lớn nhất của Bitcoin, tự động quản lí tài chính, chính xác hóa mục đích chi trả, tối ưu hóa dòng tiền không tham gia vào hoạt động (ví dụ như bạn gửi 10 triệu cho con bạn đi học xa nhưng nó chỉ dùng có 8 triệu, như vậy tới cuối tháng thì 2 triệu sẽ tự động chảy lại về túi của bạn )…

Giá trị của Bitcoin từ đâu mà ra

Như mình đã nói, nó là tiền, và giá trị của nó do chính bạn, những người sỡ hữu và sử dụng Bitcoin trên toàn thế giới thống nhất với nhau, nói cách khác, là do thị trường quyết định, chứ nếu bạn không coi trọng nó, thì nó chỉ là 1 đống rác máy tính đối với bạn mà thôi. Giống như ZWD ấy, 20 triệu tỷ ZWD mới mua được ổ bánh mỳ ở Việt Nam. Và nó gần như là vô giá trị. Và cũng giống như việc bạn đưa tờ 100USD cho 1 đứa trẻ sơ sinh nghịch ấy, nó có thể xé, vò viên, nuốt tờ tiền đó, vì đối với nó, tờ tiền này không có giá trị bằng cái kẹo mút nữa kìa.

Hãy tưởng tượng một ngày nọ toàn thế giới bị một chứng bệnh mà không một loài sinh vật nào có thể ăn gạo được nữa, chỉ có thể ăn khoai tây mà thôi. Khi đó bạn nghĩ bao gạo 10kg bạn mua đáng giá bao nhiêu? 1000 VNĐ chắc? Không, nó chỉ là rác mà thôi. Bạn thậm chí còn phải trả thêm tiền để tống khứ nó đi kìa. Đấy thấy chưa? Giá trị của 1 thứ đối với con người là hết sức chủ quan, họ coi trọng thì nó giá cao, không thì nó giá thấp, vậy thôi.

Một chút thông tin vui, trong giao dịch đầu tiên trong lịch sử Bitcoin, một người đã dùng 10 000 Bitcoin để mua chỉ 1 cái bánh Pizza. Với số tiền đó, ở thời điểm hiện tại, đáng lẽ ra anh ta có thể mua được gần nửa triệu cái Pizza chứ đùa à?
Và điều quý nhất ở Bitcoin, đó là nó khống chế được 3 vấn đề mà đồng tiền truyền thống mắc phải. Có thể gọi đây là hình mẫu tiền tệ trong tương lai.

Tuy nhiên, như quy luật muôn đời, mọi thứ đều có cái giá của nó, và các ưu điểm của Bitcoin cũng đưa ra những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, cũng giống như NM mà mình đã trình bày trong bài trước.

_ Sự sụp đổ hàng loạt giá trị: khi có một siêu thiên tài nào đó xuất hiện và có khả năng thực hiện việc hack lên toàn bộ hệ thống của Bitcoin thì khi đó, việc có vô số Bitcoin được tung vào hệ thống là điều không thể tránh khỏi, và khi đó, giá trị của đồng Bitcoin sẽ nhanh chóng tụt về con số 0, và sẽ không ai dùng tới nó nữa. Hãy tưởng tượng như người ta phát minh ra loại máy biến mọi thứ thành vàng ấy, khi đó bạn sẽ thấy vàng khắp mọi nơi, và đương nhiên, giá trị của nó sẽ chẳng còn hơn cây kẹo mút là bao. Nguy cơ là thấp, nhưng không phải là không thể.

_ Đầu cơ giảm phát: như mình đã nói, việc giữ lại tiền mà không tiêu sẽ giúp người nào đó tăng giá trị số Bitcoin mình sở hữu theo thời gian. Tuy nhiên việc này không nghiêm trọng, vì các đồng tiền điện tử khác sẽ nhanh chóng thay thế và cạnh tranh chỗ đứng với Bitcoin, nên nguy cơ này là không đáng kể.

_ Tính bảo mật lại trở thành con dao 2 lưỡi: bạn không thể lần ra ai là người sỡ hữu địa chỉ Bitcoin đó trừ khi chính họ nói cho bạn biết. Nói cách khác, chuyện bạn chuyển tiền là công khai, nhưng cho mục đích gì thì có trời mới biết. Điều này là một công cụ vô cùng mạnh để các tổ chức khủng bố, các tay trùm buôn ma túy, các tập đoàn mafia xuyên quốc gia thực hiện hành vi buôn bán hàng cấm, buôn người, rửa tiền tràn lan mà không một ai kiểm soát được (không số seri, không đánh dấu hóa học, không không và không, hoàn toàn không có cách nào để kiểm soát được dòng Bitcoin, chỉ có theo dõi, không có kiểm soát). Việc trốn thuế cũng không thể nào dễ hơn, khi mà bạn cứ việc chối leo lẻo cái địa chỉ Bitcoin đó không phải của bạn mà nhân viên thu thuế vẫn chẳng thể làm gì hơn. Và đáng lo ngại thay, theo một báo cáo không chính thức, thì 60% Bitcoin hiện đang được dùng cho các mục đích phạm tội. Nói cách, khi quyền lực đồng tiền quay về tay người dân, thì nó cũng chui cả vào tay những “người dân” không mấy tốt bụng.

_ Không thể đảo ngược giao dịch cũng là một hiểm họa: ví dụ như một vụ lừa đảo tài sản thông thường, bạn có thể tịch thu và rao bán tài sản của kẻ lừa đảo để đền bù lại, hoặc khóa tài khoản ngân hàng của hắn và chuyển lại tiền cho người kia, nhưng với Bitcoin thì khác. Một khi đã có tiền trong tài khoản, thì tên lừa đảo chỉ việc đóng 1 câu: “Quên mật khẩu rồi!”. Thế là xong, không một cách nào lấy lại số Bitcoin đó được nữa.

_ Đương nhiên, các sự cố phần mềm xử lí các giao dịch Bitcoin như đã xảy ra tại Mt.Gox khiến cho giá trị Bitcoin giao động thất thường tột độ cũng là 1 vấn đề cần quan tâm.

Trong số các vấn đề nêu trên, thì số 3 và 4 là hai vấn đề nghiêm trọng và thách thức nhất đối với Bitcoin, chừng nào Bitcoin còn chưa có cơ chế giải quyết 2 vấn đề này mà vẫn đảm bảo tính chất của Bitcoin thì chừng đó, Bitcoin có lẽ vẫn khó được phần đông thế giới chấp nhận.

Featured image: BTC Keychain

[THĐP Translation] 10 lý do tại sao bạn chưa giàu

Là một nhà cố vấn tài chính, tôi đã có nhiều năm kinh nghiệm giúp đỡ người khác vượt qua những trở ngại tài chính để họ có thể trở nên giàu có. Trớ trêu thay, người mà tôi gặp nhiều rắc rối nhất trong việc giúp đỡ chính là bản thân tôi.

Định nghĩa “giàu có” có thể khác nhau với những người khác nhau, nhưng tôi tin rằng nó có nghĩa là có được sự tự do trong tài chính đủ để đạt được những mục tiêu của mình và sống một cuộc sống mình muốn. Tôi rất tốt trong việc tư vấn; nhưng tôi không phải luôn luôn tốt trong việc nhận lấy những lời khuyên của chính mình (biết ai như vậy không?) Vì vậy, khi giải thích cho các khác hàng của tôi về việc vì sao họ vẫn chưa giàu có, phần dễ dàng nhất chính là giải thích về những nguyên nhân xấu, bởi vì tôi đã quá quen thuộc hầu hết trong số chúng.

Bất kể sự nuôi dạy, giáo dục, nghề nghiệp hay lối sống, hầu hết chúng ta đều không thỏa mãn về vấn đề tài chính của chính mình và những lí do của chúng ta có lẽ giống nhau nhiều hơn là có những lí do khác nhau. Tin tốt là không bao giờ là quá muộn để trở nên giàu có nếu bạn, cũng như tôi, đã sẵn sàng để đối mặt với những nguyên nhân đã cản trở bạn và có hành động.

1. Bạn tiêu tiền như thể bạn rất giàu rồi

Chắc chắn một điều là bạn cảm thấy rất vui khi mua những món đồ đắt tiền, cho dù là một chiếc xe hơi hạng sang, một bộ quần áo được thiết kế riêng, một căn nhà to ở trung tâm thành phố, hay một chuyến du lịch đến miền nhiệt đới. Ngay cả khi bạn không nhất thiết phải mua những món đắt tiền, nếu bạn thường xuyên mua những thứ bạn không thật sự cần thiết, nó vẫn sẽ tăng lên rất nhanh (một chuyến đi Target tốn 300 đô chỉ để mua kem đánh răng? AHEM). Cảm giác sướng khi mua sắm chỉ kéo dài cho đến khi bạn cảm thấy tội lỗi và hối hận hoặc hóa đơn thanh toán của thẻ tín dụng đến tay bạn. Hầu hết chúng ta đều cảm thấy tội lỗi khi tiêu xài quá mức và dùng thẻ tín dụng nhiều hơn cần thiết. Vấn đề ở đây là khi chúng ta cứ tiếp tục tiêu xài nhiều hơn những thứ mà chúng ta có, chúng ta không thể bắt đầu tạo ra sự giàu có. Thói quen tiêu xài quá độ và lãi suất cao, xoay vòng của thẻ tín dụng là kẻ thù lớn nhất của bạn trên con đường đến thành công về mặt tài chính. Hãy tiêu xài như một người nghèo và bạn sẽ có cơ hội cao để trở nên giàu có.

2. Bạn không có một kế hoạch

Nếu không có mmục tiêu ngắn, trung bình hay dài hạn được hoạch định một cách rõ ràng, trở nên giàu có giống như là một ảo ảnh không thể nào đạt tới. Và nó sẽ là một biện minh yêu thích cho việc vì sao bạn không để tâm đến việc tiết kiệm hoặc việc ngưng chi xài quá độ. Như người ta nói trong thế giới tài chính: những người thất bại trong việc lập kế hoạch, là những người lên kế hoạch để thất bại.

Lập một kế hoạch tài chính nghe có vẻ to tát hoặc đáng sợ, nhưng nó không nhất thiết phải như vậy. Cho dù bạn tự làm hay quyết định làm việc với một chuyên gia tài chính, quá trình này đơn giản là bắt đầu với việc ưu tiên những mục tiêu của bạn và viết chúng ra. Để danh sách mục tiêu đó ở những nơi bạn thường xuyên nhìn thấy. Việc nhắc nhở bằng hình ảnh rất có ích trong việc giúp chúng ta bám vào mục tiêu chính.

3. Bạn không có quỹ khẩn cấp

Tôi biết, bạn đã nghe về điều này hàng trăm lần: bạn cần phải có ít nhất sáu tháng thu nhập được để dành trong một quỹ khẩn cấp. Và vâng, nói dễ hơn nhiều so với làm. Tuy nhiên, tôi đã nhìn thấy quá nhiều người (trong đó có tôi) có bị bất ngờ với một đợt chi tiêu lớn ngoài kế hoạch, cho dù đó là mua một chiếc xe hơi hoặc sửa sang lại nhà cửa hoặc hóa đơn bệnh viện, hoặc mất việc làm một cách bất ngờ, tai nạn hay bệnh tật sẽ dẫn đến một sự sụt giảm nhanh trong thu nhập của bạn. Khi những sự việc này xảy ra–và nó có diễn ra, thường xuyên hơn bạn nghĩ–không có một khoảng đệm tài chính an toàn có thể sẽ làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn rất, rất nhiều. Nếu bạn đang bị buộc phải dùng thẻ tín dụng, kết cục là bạn sẽ ngập chìm sâu hơn trong nợ nần thay vì có một khoản tiết kiệm để trở nên giàu có.

4. Bạn khởi đầu muộn

Mỗi năm hoặc mỗi tháng trôi qua mà không có sự tiết kiệm, cơ hội trở nên giàu có của bạn lại giảm đi. Thời gian và lãi kép là hai người bạn tốt nhất của bạn khi nói đến việc phát triển về tiền bạc, vậy sẽ rất đau khi lãng phí hai thứ đó. Cũng giống như tập thể dục, phần khó khăn nhất trong việc tiết kiệm chính là phần khởi đầu. Ngay cả khi bạn vẫn đang mắc nợ, thu nhập thấp hoặc chi tiêu lớn, bạn vẫn luôn có thể tiết kiệm – ngay cả khi đó chỉ là một ít. Bạn càng sớm tập được thói quen tiết kiệm – bất kể bao nhiêu – bạn sẽ càng dễ dàng tiếp tục tiết kiệm và cuối cùng bạn sẽ tăng được những khoản tiết kiệm lên. Tôi thích tưởng tượng việc tiết kiệm như cơ bắp mà bạn phải làm việc và xây dựng với thực hành. Ngay cả khi bạn bắt đầu tiết kiệm muộn, bạn vẫn có thể trở nên giàu có nếu bạn đang thực hiện đầy đủ. Nhưng bạn cần phải bắt đầu. Ngay bây giờ.

5. Bạn thích phàn nàn hơn thực hiện

“Cuộc sống đắt đỏ quá.” “Tôi sẽ không bao giờ thoát khỏi nợ nần.” “Tôi không kiếm được đủ tiền.” “Đầu tư thì mạo hiểm quá.” Có lẽ tôi đã nghe qua tất cả mọi lý do biện minh cho việc tại sao một người nào đó không tiết kiệm, đầu tư hay nói chung là lên kế hoạch; tôi cũng thú nhận luôn là thỉnh thoảng tôi cũng đã từng dùng qua một vài lý do này. Lười biếng và để cho những thói quen xấu lấn lướt dễ hơn sự quyết tâm kiên trì thay đổi chúng. Không ngạc nhiên gì khi béo phì và nợ nần là những căn bệnh dịch ở đất nước này. Khi nào mà việc phàn nàn, biện minh và chỉ chỏ đổ lỗi vẫn còn tồn tại thì khi đó giàu có vẫn còn là một điều xa vời. Thay vào đó, hãy chịu trách nhiệm cho những thói quen xấu của bạn và tập trung vào những gì bạn có thể làm để thay đổi chúng. Rồi thực hiện nó.

6. Bạn sống cho ngày hôm nay chứ không phải là ngày mai

Tôi hiểu chứ. Thực sự rất khó để suy nghĩ về việc nghỉ hưu và lo xa khi chúng ta vẫn còn những nhu cầu và rất nhiều mong muốn ở hiện tại. Hóa đơn cần phải được thanh toán, gia đình cần phải phải được nuôi dưỡng, mẹ cần một chuyến du lịch – và một tủ quần áo mới đi kèm. Vấn đề ở đây là hành vi hấp tấp và nuông chiều bản thân thường dẫn đến nợ thẻ tín dụng, sử dụng số tiền lẽ ra phải được tiết kiệm, vâng, không trở nên giàu có. Hãy làm một điều: Thay đổi suy nghĩ “mua trước, lo sau” và thay vào đó, áp dụng suy nghĩ “tiết kiệm trước, làm giàu sau.”

7. Bạn thuộc dạng đầu tư tất-cả

Bạn có thể đủ may mắn để trở nên giàu có bằng cách đánh cược tất cả tài sản của bạn vào một loại hình đầu tư. Cũng giống như bạn có thể đủ may mắn để trúng số. Nhưng đó không phải là một chiến lược để trở nên giàu có (ít nhất, không phải một chiến lược mà tôi khuyến khích.)

Một trong những sai lầm tài chính tồi tệ nhất mà bạn có thể mắc phải là đặt tất cả những quả trứng vào duy nhất một cái giỏ. Làm vậy sẽ khiến bạn gặp rất nhiều rủi ro, dù cho bạn quá bảo thủ hoặc quá liều lĩnh. Chắc chắn, thị trường chứng khoán đang lên và bất động sản đã lại khởi sắc, nhưng bạn đã chuẩn bị cho khi sóng gió đến chưa? Bởi nó sẽ đến. Và nếu bạn đang đầu tư vào những lĩnh vực chứng khoán thu nhập cố định như CDs, trái phiếu và annuities và nghĩ rằng bạn đã an toàn, lạm phát có thể làm cho bạn phải suy nghĩ lại. Danh mục đầu tư của bạn cần phải bao gồm một sự kết hợp tốt của các khoản đầu tư với các mức độ khác nhau của rủi ro và tiềm năng thu vốn và tính thanh khoản (để bạn có thể lấy được tiền ngay khi bạn cần.)

8. Bạn không tự động hóa

Sau đây là bí quyết để tiết kiệm: Tự động hóa. Tiết kiệm sẽ trở nên liền mạch khi nó được tự động hóa. Thật không may, chúng ta không có tính tiết kiệm bẩm sinh. Chúng ta có bản tính hấp tấp và tham lam. Trở nên có trách nhiệm yêu cầu chúng ta phải kỷ luật hơn. Tuy nhiên, tự động hóa sẽ khiến chúng ta phải có trách nhiệm mà không cần phải nỗ lực quá nhiều. Và tất cả những thứ nó đòi hỏi là ta cần phải thiết lập hệ thống chuyển tiền theo lịch từ một ngân phiếu tiền lương hoặc tài khoản ngân hàng đến một tài khoản tiết kiệm hoặc đầu tư. Nếu không, chúng ta rất dễ tiêu số tiền mà chúng ta có thể tiết kiệm.

Ngay cả khi nó chỉ là một lượng tiền nhỏ mà khi bạn tự động hóa, các khoản đầu tư đều đặn có thể làm nên một sự khác biệt lớn theo thời gian. Tự động hóa bất cứ thứ và bất cứ khi nào bạn có thể; bạn chỉ cần cẩn thận tránh chi nhiều hơn số tiền có trong tài khoản của bạn và hãy cố gắng tăng số tiền tiết kiệm của bạn một cách định kỳ.

9. Bạn không có tính khẩn trương

Bạn có thể nghĩ rằng bạn không cần phải lo lắng về việc trả hết nợ hoặc việc tiết kiệm vì một ai đó, hoặc việc gì đó sẽ đến cứu bạn. Có lẽ đó là một đợt tăng lương, một công việc mới, tài sản thừa kế, một người vợ/chồng giàu có, hoặc cuộc sổ xố mà bạn hi vọng vào. Bất kể “nó” là gì, bạn chỉ đang sử dụng nó như là một cái cớ để trì hoãn thực hiện những bước tiến đến việc trở nên giàu có. Vấn đề ở đây là có rất ít những điều trong cuộc sống là có thể chắc chắn. Ai mà biết được những gì sẽ xảy ra, hoặc không, vậy tại sao không tập trung vào những thứ bạn có thể kiểm soát ngay lúc này? Tiết kiệm ngay bây giờ và cứu lấy bản thân – trong trường hợp một thứ gì đó, hoặc một người nào khác không cứu bạn.

10. Bạn dễ bị ảnh hưởng

Có lẽ bạn có bản tính chi tiêu vô độ hoặc chỉ là một ngày bình thường dẫn bạn gái của bạn đi mua sắm. Hoặc có lẽ là bản tính “Nội trợ thực sự” của bạn mà đôi khi bạn không thể kiểm soát. Chúng ta đều chịu những ảnh hưởng tiêu cực trong cuộc sống, cái đe dọa cơ hội trở nên giàu có của chúng ta. Trọng vẻ bề ngoài, thiên về vật chất, sự nổi tiếng có lẽ là những ảnh hưởng xấu nhất của thứ văn hóa chúng ta đang sống trong. Những vòng xoáy ngột ngạt của phương tiện truyền thông đi kèm làm cho mọi thứ tệ hơn gấp mười lần. Bí quyết ở đây là hãy tránh để bị cám dỗ. Làm thế nào? Một trong những cách để tránh bị cám dỗ là tránh đưa mình vào những nơi có nhiều cám dỗ. Nhưng điều quan trọng nhất là bạn cần có ý chí để bám lấy mục tiêu trở nên giàu có ở đằng đầu, đặc biệt là khi bạn đang bị cám dỗ để tự hủy hoại chính mình.


Nguồn: Jocelyn Black Hodes / Daily Worth – Time.com
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

Chúng ta là những người “có ăn có học”?

3

 

“Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn.”

Đương nhiên, ai cũng biết sự “man mác buồn” ấy trong bài hát Nỗi buồn hoa phượng rất nổi tiếng của nhạc sĩ Thanh Sơn là cảm xúc chia ly khi phải xa cách bạn bè mỗi khi hè đến của các bạn học sinh tuổi mới lớn.  Đặc biệt với ai đã “lỡ dại” vương vào một mối tình học trò, nghĩ đến cảnh phải xa người mình yêu, lòng sẽ không khỏi buồn man mác. Nỗi buồn ấy ở thời đại này có lẽ không còn nhiều ảnh hưởng đến bầu tâm tư của tuổi học trò nữa. Giờ đây dù không gặp gỡ ở trường, các cô các cậu vẫn có thể nói chuyện với nhau mọi lúc, mọi nơi vì ai cũng có smartphone online 24/24. Hoặc đơn giản, không gặp nhau ở trường thì ta gặp nhau ở… lớp học thêm.

Song mùa hè vẫn không hết buồn vì giờ đây các bạn học sinh… không được nghỉ. Những em nhỏ phải đến lớp học hè học trước chương trình để năm sau đuổi kịp bạn bè, rồi  phải ôn thi chuyển cấp như thể thi tuyển sinh đại học, tuyển sinh lớp Mười, tuyển sinh… lớp Một.

Hóa ra, sự học đến nay cũng đã “phát triển” đến mức xâm chiếm gần hết toàn bộ quỹ thời gian của tuổi hoa niên. Đáng lẽ, thời gian đó nên được ưu ái sử dụng để chăm sóc bản thân. Các em không chỉ được nghỉ ngơi thư giãn về thể chất, thể trí mà còn có cơ hội vun vén lại khu vườn tâm hồn của mình. Quá nhiều loại tri thức xa vời vợi đã ào ạt lấp đầy tâm trí của các em, không còn chỗ cho cảm xúc tươi mới, thứ người ta chỉ cần bước ra ngoài vài giờ với một tâm thế thoải mái đã có thể nhặt đầy “túi” mang về.

Những năm gần đây, giáo dục trở thành chủ đề bàn luận nóng hổi trên các diễn đàn, mạng xã hội và chưa có dấu hiệu suy giảm sự lôi cuốn đối với dư luận. Người ta không đồng tình với những thử nghiệm cải cách của các quan chức giáo dục. Liệu dùng từ “thử nghiệm” ở đây có thích đáng hay không khi đối tượng chịu ảnh hưởng của sự thử nghiệm ấy chính là con em của chúng ta. Bất kỳ trải nghiệm nào đều có thể tác động lên nhân cách của các em sau này.

Mùa hè với các em lớp dưới là như vậy, với các em học sinh cuối bậc phổ thông cũng không ít khó khăn vì sắp vào mùa tuyển sinh. Các em đang đứng trước bước ngoặc quan trọng của cuộc đời (ít nhất theo lối nghĩ của đa số người Việt từ lâu nay, rằng chỉ có cánh cửa đại học mới dẫn tới thành công). Mùa hè giờ đây không chỉ có cái buồn man mác mà còn xen lẫn lo âu, phập phồng pha với những mặn đắng, cay xè của mồ hôi, nước mắt, sự mỏi mệt khi nhìn vào cánh cửa tương lai.

Nhà giáo Giản Tư Trung đã viết ở ngay trang đầu dẫn vào cuốn Đúng việc, một cuốn sách của ông đang gây chú ý mạnh mẽ trong thời gian gần đây, rằng:

“…những thực trạng mà chúng ta nhìn thấy ngày nay của con người, của gia đình, của tổ chức và của xã hội là bắt nguồn sâu xa từ việc có quá nhiều thứ chưa được trả lại chân giá trị của nó và có quá nhiều người chưa hiểu đúng và làm tốt những “công việc” của mình…”

Phải chăng, mùa hè của các bạn học sinh đã không còn thơ mộng như thuở ban đầu là dấu hiệu báo rằng chân giá trị của nó đã bị tước đi với nguyên nhân sâu xa là người ta đã làm mất đi một chân giá trị khác của việc học.

Học, hiểu đơn giản là tiếp thu kiến thức, kỹ năng,… từ người khác hoặc từ các phương tiện thông tin hay tự học nhờ kinh nghiệm bản thân. Tất cả đều phải học nên ngay từ khi được sinh ra, người ta đã bắt đầu học từ những thứ đơn giản nhất, “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Càng lớn lên con người càng có nhiều thứ cần học hỏi giữa biển tri thức bao la vô tận. Với những người đam mê tri thức, việc học không bao giờ ngừng lại và không bị giới hạn trong bất kỳ không gian nào hay nguồn tri thức nào. Chúng ta học từ người thầy giáo cho đến người lao công, từ người già đến trẻ nhỏ, học ở nhà, ở trường và cả ở lề đường,…

Song, từ lâu ở Việt Nam, các bậc cha mẹ đã có một tư duy hằn sâu trong tâm trí mình rằng chỉ có việc học ở trường mới đáng được coi trọng. Bằng mọi cách, họ buộc con mình đến trường vì họ chỉ tiếp cận rằng con đường đó với những tấm bằng đó mới có thể giúp con cái mình dễ dàng tiến thân sau này.

Ai cũng học và bắt con cái học nhưng không ai chịu ngồi lại suy tư về giá trị và mục tiêu đích thực mà việc học hướng đến. “Học để không phải khổ như bố mẹ”, “học để sau này có việc làm”, “không học thì đi chăn bò”,… những câu nói đu đưa hồn nhiên trên cửa miệng của các bậc phụ huynh càng làm con em mình mù mờ hơn về giá trị đích thực của việc học, khiến những đứa trẻ cảm thấy việc mang lấy tri thức là một gánh nặng.

Người ta vẫn thường truyền nhau những số liệu khiêm tốn về việc lười đọc sách của người Việt. Thật không có gì mâu thuẫn hơn một dân tộc thờ ơ với tri thức như vậy lại bắt con em mình gồng lên mà học. Học ở đây đơn giản chỉ là đến trường và học những gì nhà trường dạy, làm những gì thầy cô bắt phải làm. Ấy thế mà những việc ấy lại không hề rẻ tiền chút nào.

Nghĩ về sự học ở Việt Nam, người ta không thấy nhiều sự say mê, chỉ thấy những gánh nặng trên những đôi vai bé nhỏ. Biển tri thức của nhân loại không chỉ chảy về các trường học nhưng vì guồng quay xã hội mà người ta chỉ có thể đến trường mà thôi. Rồi theo đó, việc học ở trường dần trở thành tiêu chuẩn đánh giá con người, trong khi việc học làm người lại trở thành một môn phụ. Rồi khi bạn làm điều gì chưa phải, người ta lại chỉ vào mặt bạn mà bảo rằng có ăn có học mà thế này thế nọ. Những thứ tréo ngoe ấy có làm trong lòng chúng ta day dứt những câu hỏi rằng rốt cục ở xứ sở này người ta ăn học để làm gì? Tại sao học lại phải gắn với ăn? Hay việc học cuối cùng cũng chỉ là để dễ kiếm ăn mà thôi?

Hãy nhìn những thực trạng ấy và liên tục đặt dấu chấm hỏi nếu bạn thật sự là một người ham hiểu biết, muốn tìm đến tận nguồn chân lý. Nếu bạn trả lời được những câu hỏi ấy, nó sẽ làm thay đổi nhận thức của bạn cho đến một lúc bạn đủ can đảm để kéo con em mình ra khỏi các trường học nhà nước và tự lo liệu lấy tri thức cho chúng cũng như dạy chúng cách sống như một con người chứ không phải một cỗ máy hay một con thú.

Việc học ở Việt Nam có trở lại đúng giá trị chân phương của nó không, tất cả tùy vào lòng can đảm, dám sống vì sự thật của mỗi người. Điều ấy có thể rất lâu sau chúng ta mới đạt được song nếu chỉ ngồi một chỗ mà không hành động thì sẽ chẳng có gì thành tựu cả.

Nguyễn Tài

*Featured Image: Comfreak

[THĐP Review] Mật ngọt chết mèo (Tập 1), Đặng Ngọc Minh Trang – Vừa đủ để giải trí

0

thđp review

Mật ngọt chết mèo là một cuốn truyện tranh thể hiện một góc nhìn khá ngọt ngào và cũng không kém phần tinh nghịch của cô nàng Đặng Ngọc Minh Trang về tình yêu đôi lứa với nội dung được vẽ nên trong cuốn sách là những câu chuyện có thật đã xảy ra trong thời gian Tai Mèo (tác giả) và Mặt Ngầu (bạn trai) quen nhau.

Tôi chợt nhớ ai đó đã từng phát ngôn rằng: “Hãy yêu một cô nàng ưa viết lách vì khả năng cao cô ấy sẽ tặng bạn một tập thiên tình sử đầy lãng mạn mà nàng ta là tác giả, còn bạn là nhân vật chính đầy lung linh.” Ở đây, chàng Mặt Ngầu quen nàng Mèo họa sĩ, thế là tình yêu đã truyền cảm hứng cho những nét vẽ của nàng để bây giờ không chỉ Mặt Ngầu mà rất nhiều kẻ đã, đang và sẽ yêu khác đều có một “Comic yêu” để mà lật giở, thậm chí để mà mơ tưởng ít nhiều.

Trước khi đào sâu vào nội dung chính của tác phẩm thì tôi xin được đánh giá sơ bộ về hình thức của Mật ngọt chết mèo.

Nhìn chung, các nhận vật được tạo hình dễ thương và có sắc thái biểu cảm sinh động, trực quan, phù hợp với phong cách sôi nổi của những người trẻ tuổi. Tuy nhiên, chính việc tạo hình dễ thương ấy đã ngăn cản sự biểu lộ tối đa những nét trầm tư, sâu sắc và bí ẩn của nhân vật. Điều này tạo cảm giác thiếu thốn và đơn điệu giống như là tác phẩm chỉ có Mặt Trời mà thiếu đi mất Mặt Trăng vậy! Hoặc giả như các nhân vật đó thật sự chỉ thể hiện một cá tính như thế thì cuốn truyện lại là đất diễn rất phù hợp cho họ.

Kết cấu truyện theo trình tự thời gian, đan xen với những suy tưởng của tác giả nên dễ thu hút bạn đọc. Tuy nhiên việc đan xen ấy chưa đủ khéo nên vẫn có cảm giác gượng ép rời rạc và khiến nội dung phần “Nhật ký hẹn hò” bị đứt mạch khi phải nhường chỗ cho sự đúc kết tư tưởng của nàng Mèo.

Lời thoại, văn phong đơn giản, ngắn gọn, hài hước, có tính giải trí. Tuy nhiên nội dung đối thoại giữa nhân vật chính (Tai Mèo và Mặt Ngầu) còn chưa phong phú vì nó chỉ phát sinh ra trong những hoàn cảnh ăn uống, ngủ nghỉ, chơi bời – đơn thuần ở thế giới vật lý mà hầu như không thấy bắt gặp sự chia sẻ về thế giới tinh thần giữa hai người – những tư tưởng, hoài bão, xúc cảm của nhau trong cuộc sống. Vậy nên tôi không “quote” được phát ngôn nào hay ho từ trong những cuộc đối thoại giữa họ để nghiền ngẫm, học hỏi, và cũng không tìm thấy được câu nói nào có đủ ấn tượng để làm giàu vốn giao tiếp của bản thân.

Ngoài ra, một điểm khiến tôi chưa thật sự hài lòng khi quan sát lại kết cấu toàn bộ tác phẩm này đó là: Mặt Ngầu có rất ít đất diễn trong truyện. Dù rằng chàng ta là một nhân vật được kể lại dưới góc nhìn của cô nàng Tai Mèo, nhưng Mặt Ngầu cũng là một nhân vật chính có vai trò tương đương như người yêu của ảnh, vậy mà hầu hết những tình huống truyện đều thể hiện rằng cô nàng là người khởi xướng mọi chuyện, là kẻ nổi bật hơn cả, là trung tâm của sự chú ý.

Mặt Ngầu luôn thể hiện một sự bị động, chỉ chờ nàng Mèo có bắt đầu gì đó rồi đáp trả lại, hoặc khi tham gia phỏng vấn, chàng ta luôn là người trả lời sau (trong khi không nhất thiết phải như vậy.) Cảm thấy Mặt Ngầu bị thiếu mất tính “ngầu”, giống như một diễn viên quần chúng nhợt nhạt vậy. Nếu như tác giả chỉ đơn thuần là liệt kê lại những sự kiện mà không hề có chủ đích tính toán hay sắp đặt để cân đối với tinh thần chung của cuốn truyện thì sự mất cân bằng trong việc chia đất diễn này cho tôi cảm giác về một sự lấn át đối phương.

Xét về nội dung, chủ đề của cuốn truyện đề cập tới tình yêu đôi lứa với những câu chuyện chân thật, đời thường xoay quanh Tai Mèo và Mặt Ngầu với cách thể hiện nội dung rất dễ thương của tác giả thông qua sắc thái biểu cảm sinh động và lời thoại cá tính của nhân vật. Khi đọc bất kỳ tác phẩm nào, việc đầu tiên tôi hướng tới là tìm ra tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó. Và quan điểm nổi bật nhất trong tình yêu của tác giả thể hiện ở cuốn truyện đó là: Trân trọng những điều đang có và cùng nhau sẻ chia, vun đắp mối quan hệ.

Cá nhân tôi đánh giá cao triết lý này của Đặng Ngọc Minh Trang vì nó phần nào hướng con người ta tới giây phút hiện tại – điều rất cần thiết trong mọi mối quan hệ, thậm chí trong mọi mặt của cuộc sống. Chính việc trân trọng những gì đang có, dù là những khoảnh khắc lãng mạn, say mê, hay là những cuộc cãi vã tóe lửa rồi sau đó đóng băng hết cả, sẽ giúp hai người trưởng thành hơn rất nhiều khi yêu.

Chỉ khi nào một kẻ đã biết đứng sang một bên và quan sát được mọi động thái diễn ra trong bản thân mình, trong sự tương tác với người yêu và nhận thức rằng đó là những trải nghiệm thì kẻ đó mới có cơ hội nhìn được bức tranh chung một cách khách quan nhất. Điều này cũng không khác gì việc theo dõi bộ phim một cách hoàn thiện rồi nhận ra những tinh túy bên trong, chứ không phải chỉ vì chẳng may ghé mắt qua một cảnh khó ưa mà tắt phụt TV rồi đem lòng ghét bỏ cả tác phẩm kinh điển.

Nhìn thoáng qua thì Mật ngọt chết mèo có thể lấy lòng bạn đọc ngay lập tức về nội dung khi nó khiến không ít kẻ có ngay cảm giác rằng đây là một chuyện tình đẹp như mơ và dễ thương như chú gấu Pooh. Tuy nhiên, khi đi kỹ càng hơn thì thấy nội dung tác phẩm vẫn còn chưa đủ độ sắc bén để tôi thỏa mãn. Điều đó lần lượt được thể hiện như sau:

Ngoài triết lý trân trọng những điều đang có (được đề cập ở trên), thì một số tư tưởng về tình yêu và hạnh phúc của Tai Mèo cũng được thể hiện như là: Bên nhau trong mọi mặt của cuộc sống, nâng đỡ nhau trong những giờ phút khó khăn và luôn tôn trọng đối phương. Tôi nghĩ đây là biểu hiện của tình yêu nói chung chứ không chỉ có trong tình yêu đôi lứa. Vậy nên quan trọng là nắm giữ được điều cốt lõi mà không cần bận tâm nhiều đến vẻ bề ngoài, vì chúng sớm muộn cũng được nảy nở xinh đẹp như một bông hoa khi hạt mầm tình yêu đã đủ đầy sức sống bên trong mỗi người.

Tuy nhiên, nếu tác giả nói thêm (có thể rất nhiều) nữa về “Tình yêu là gì” hay “Thế nào là hạnh phúc” với một cách thức tương tự thì chúng vẫn chỉ là phần ngọn rất đỗi mơ hồ. Cá nhân tôi chưa thấy được việc đề cập đến trạng thái yêu gốc rễ khi đọc cuốn truyện tranh này. Sự diễn giải của tác giả về tình yêu đó là sự nhung nhớ hay lo lắng cho nhau, cảm giác bình yên khi ở bên người kia,v.v…. Cá nhân tôi lại cho rằng dấu hiệu nhận biết tình yêu nằm ở trạng thái hạnh phúc của người trong cuộc khi đặt mình vào mối liên kết đó ở ngay giây phút hiện tại, mà không cần quan tâm là chuyện gì đã diễn ra và sẽ xảy tới. Như John Lennon đã từng nói:

“It matters not who you love, where you love, when you love or how you love, it matters only that you love.”

Tóm lại, một cái cây mà không có rễ thì dù có mọc ra bao nhiêu ngọn thì cũng là ảo tưởng mà thôi!

Đọc những triết lý đúc kết được của Đoàn Ngọc Minh Trang, tôi chờ đợi một góc nhìn rất quan trọng và mang tính quyết định, đó là Sự tự do trong tình yêu. Tôi đã khấp khởi vui mừng bắt gặp nó phảng phất trong câu nói: “Chung thủy là sự tự nguyện!” Tuy nhiên việc diễn giải quan điểm này còn chưa rõ ràng, thậm chí ảnh minh họa lại thể hiện một sự mâu thuẫn rằng “Trai gái nào loạng quạng đến bồ mình thì cạp chết không tha!” Tôi dám cá rằng nếu tác giả chỉ cần tập trung đào sâu một nội dung “Chung thủy là sự tự nguyện” ấy thôi xuyên suốt cuốn truyện thì cũng đủ sức thống trị mọi kệ sách và mọi vị trí gối đầu giường của bạn đọc. Trong nhiều năm.

Dù có đan xen triết lý nhưng cách thể hiện thì không làm bật lên được sự sâu sắc của tác phẩm. Vì rằng không phải cứ nói triết lý thì truyện sẽ đậm đà, mà chính là cách để tư tưởng ấy bộc lộ mới quyết định sự sắc bén của cuốn truyện. Theo tôi, nếu tác giả giấu được những giá trị đó vào trong lời thoại, hành động, góc nhìn của các nhân vật (thậm chí là trong những nét vẽ) và để bạn đọc tự khám phá ra thì sẽ thú vị hơn rất nhiều. Việc tương tác với nhau giữa các nhân vật tự thân nó sẽ sinh ra những triết lý và tự thân nó cũng thể hiện được thế giới quan của mỗi người. Vậy nên tôi cho rằng việc thể hiện triết lý ở hai phần “Tình yêu là gì” và “Thế nào là hạnh phúc” trong tác phẩm là thừa thãi, nếu không muốn nói là quá sức đối với tác giả. Việc giấu những tư tưởng vào trong hình ảnh và câu chữ đòi hỏi một sự đầu tư tâm sức và độ sáng tạo rất lớn. Mật ngọt chết mèo chỉ thể hiện được sự phá cách thông thường mà chưa đạt tới mức độ bùng nổ, sâu sắc và ấn tượng.

Nội dung giản dị nhưng thiếu kịch tính, cao trào. Những mâu thuẫn giữa hai người và cách họ giải quyết chúng rất ít được thể hiện trong tác phẩm, mà tôi lại cho rằng đó là điều rất quan trọng nếu như không nói yếu tố quyết định sự thành bại của một mối quan hệ yêu đương. Tình yêu được thể hiện và được mài dũa tốt nhất là trong việc hai người đối mặt với những điểm bất đồng của đối phương. Nói đến chuyện yêu mà không đào sâu vào những mâu thuẫn, những điểm trái ngược nhau thì đó hẳn là một thiếu sót quá lớn.

Dường như như tác giả chỉ đang muốn thu hút bạn đọc bằng những tình huống dễ chịu nên nói rất nhiều về các nội dung yêu đương lãng mạn, chăm sóc, tình tứ mà quên mất rằng cái đắt giá lại nằm ở những điều khó khăn trong mối quan hệ đó. Nhưng nếu quả thực chuyện tình ấy vốn dĩ dễ dàng như vậy thì ngoài việc hình dung ra rằng tình yêu giữa Mèo và Ngầu chỉ xuất phát từ việc thỏa mãn nhau bởi cảm giác ưa thích, dễ chịu, tôi không bình luận thêm gì nữa.

Vì là một cuốn truyện tranh nên phần chữ ít được thể hiện nhiều như phần hình, nên có thể việc diễn giải tư tưởng sẽ gặp ít nhiều trắc trở, nhưng chính những điều đó mới kích thích sức sáng tạo của một người nghệ sĩ, và việc giải quyết được những điều khó khăn mới là thước đo đánh giá sự thành công của tác phẩm. Tôi thấy một sự đắng và chát như khi ăn một thứ quả bị ép chín khi đọc cuốn truyện này – một sự vội vàng, thiếu chín chắn – trong khi tác giả có thể đầu tư mài dũa hơn nữa.

Nếu với tất cả những đánh giá ở trên thì tôi thấy Mật ngọt chết mèo chỉ vừa đủ để giải trí chứ chưa chạm tới được một điều gì đó thật sự sâu sắc, mới lạ và ấn tượng về tư tưởng cũng như cách thể hiện. 7/10 là điểm mà tôi dành cho cuốn truyện tranh này!

Tác giả: Thanh Hòa

[Exclusive] 10 biện pháp giúp Hy Lạp vươn lên từ tàn tro Việt Nam có thể học hỏi được

Các dấu hiệu của sự lúng túng của quyền dân chủ đang hiện diện ở khắp mọi nơi – từ điển hình là Hy Lạp cho đến sự phá sản của Puerto Rico.

Thâm hụt chỉ tiêu, chính sách tiền tệ hại, biên chế công chức cồng kềnh, các chương trình an sinh xã hội triệt tiêu động lực, trưng thu thuế, quyền lợi không được tài trợ, sổ sách kế toán của chính phủ thiếu trung thực, chủ nghĩa ô dù tập đoàn, và các quy định giết chết nghề nghiệp đã làm nền dân chủ phương Tây sa vào một vũng lầy lớn mà cử tri đã nản chí trong việc tìm cách giải quyết.

Và cho đến giờ, 10 biện pháp giải quyết không những đã được tìm thấy mà còn đã được đưa vào thực hiện và có những tác dụng tuyệt vời, cung cấp những bài học thiết thực cho những nhà cải cách quan tâm đến việc này. New Zealand hôm nay đang đứng như một ngọn hải đăng của sự tự do và thịnh vượng, xếp hạng ba trong Legatum Properity Index.

image

Nó không phải luôn luôn là như vậy. Sự thật, rất ít người biết đến câu chuyện về việc đất nước này đã chuyển mình từ một đất nước xã hội chủ nghĩa trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới.

Câu chuyện đó được cập nhật và kể lại, cùng với lời khuyên thiết thực cho các nhà hoạt động, trong chuyên khảo mới của tôi được xuất bản bởi Diễn Đàn Antigua, Cải cách Sâu rộng ở NewZealand: Nghiên cứu về cách để cứu một nền dân chủ khỏi chính nó.

Hai người tạo nên động lực nổi bật, bộ trưởng tài chính của hai đảng đối lập đã thực hiện một mục đích chung để giải cứu đất nước họ yêu mến: Sir Roger Douglas và Ruth Richardson. Đó là một đặc ân khi phỏng vấn chi tiết các chính khách cao tuổi, thu âm những hồi tưởng của họ, ghi lại lời khuyên của họ, và đặt tất cả vào trong bối cảnh của rất nhiều luật lệ họ đã cùng nhau soạn ra.

Câu chuyện về cách họ đã thách thức các nhà lãnh đạo của đảng mình và thuyết phục cử tri ủng hộ triệt để một cuộc cải tổ cơ chế chính trị của New Zealand có lẽ là minh chứng cho một cuộc chuyển đổi quốc gia vĩ đại nhất trong lịch sử mà không liên quan đến việc một đất nước bị ném bom trở thành đống đổ nát. Giống như một cuộc phẩu thuật để cứu mạng người, cái nó đòi hỏi không ít hơn việc cắt bỏ những phần của chế độ dân chủ đã bị ung thư để cứu toàn bộ.

Những thứ Douglas, Richardson và các đồng minh của họ truyền lại cho chúng tôi là một công thức hướng dẫn cách làm thế nào để cứu sống một một chính phủ đã, như Magaret Thatcher khéo léo dùng từ, “dùng hết tiền của người khác.” Họ có quá nhiều thành tích để có thể liệt kê chi tiết, nhưng đây là một tóm tắt ngắn gọn. Trong khi phải mất nhiều năm làm việc cật lực, tóm lại thì, họ đã

  • Tư nhân hóa hầu hết các doanh nghiệp thuộc nhà nước, cho phép cạnh tranh để ngừng lại chuyện thâm thủng tài chính và nâng cao chất lượng dịch vụ.
  • Kết thúc những thông lệ kế toán giả tạo được thiết kế để che giấu sự thật khỏi các cử tri bằng cách chuyển báo cáo tài chính của chính phủ theo thành tiêu chuẩn GAAP được dùng trong ngành công nghiệp tư nhân.
  • Công khai các sổ sách chính phủ, xuất bản báo cáo thu nhập và bảng cân đối hàng tháng để các phòng ban có thể xem.
  • Bãi bỏ thuế bảo hộ và loại bỏ trợ cấp nông nghiệp, mở ra thời đại của thương mại tự do và bùng nổ trong sản xuất và xuất khẩu nông sản.
  • Chuyển các dịch vụ dân sự quan liêu thành các loại hợp đồng trả tiền dựa trên năng suất hiệu quả, song song với việc cho quản trị doanh nghiệp tự quyết trong việc tuyển dụng, sa thải, bồi thường, và thuê ngoài.
  • Thuế thu nhập cận biên giảm một nửa từ 66 xuống còn 33 phần trăm, cùng lúc loại bỏ thuế lợi nhuận đầu tư và nhà đất, chuyển đổi sang một chế độ thuế tiêu thụ thân thiện với tăng trưởng.
  • Loại bỏ kiểm soát ngoại hối, tạo điều kiện cho đô la New Zealand – còn gọi là “kiwi” – trôi nổi.
  • Đặt các ngân hàng trung ương dưới hợp đồng với các bộ trưởng tài chính để đưa ra một mức lạm phát công khai và theo chỉ tiêu.
  • Cho người lao động và nhà tuyển dụng được lập hợp đồng một cách tự do bằng cách loại bỏ luật công đoàn lao động bắt buộc và các hợp đồng đa lao động trong toàn ngành công nghiệp.
  • Phá bỏ sự độc quyền của giáo dục công bằng cách chuyển sang hệ thống giáo dục tư nhân hoàn toàn, tạo cơ hội cho tất cả trẻ em có thể được đi học ở bất cứ trường nào, dựa trên quyết định của cha mẹ chúng.

Những thay đổi này mất cả một thập kỉ để ban hành xuyên suốt những năm 1980 đến đầu những năm 1990, một thập kỉ của sự biến động chính trị mà dù sao kết quả đã cho thấy rằng nó đã vượt qua thử thách của thời gian.

Đáng chú ý nhất, những dự đoán rằng cử tri sẽ nổi loạn khi các đặc quyền, trợ cấp và những quyền lợi riêng bị tước đi đều bị chứng minh sai khi người New Zealand đã được những nhà lãnh đạo có thẩm quyền trình bày các kế hoạch chặt chẽ một cách mạnh dạn. Nghiên cứu cho thấy rằng những chiến thuật chính trị có độ chính xác đã được sử dụng để vượt qua sự phản đối quyết liệt của những lợi ích bảo thủ.

Kết quả quá rõ ràng ai cũng có thể thấy: GDP tăng gấp 4 lần, trong khi đó tỷ lệ nợ GDP của chính phủ giảm xuống còn 30% (mặc dù vẫn còn một khoản nợ ngắn hạn là hậu quả của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2007-08.)

Ngày hôm nay, New Zealand hoạt động theo một hệ thống được mô tả như được thiết kế bởi Hayekians*, điều hành bởi những người theo chủ nghĩa thực dụng, và dân cư là những người theo chủ nghĩa xã hội. Nhưng bởi vì các quy tắc của trò chơi đã thay đổi vĩnh viễn, có rất ít những ý trái với tình trạng bất ổn trong bầu cử, một hoạt động được mô tả bởi H. L Mecken như “một loại đấu giá cao cấp cho những món hàng bị đánh cắp.”

*F. A Hayek: Tác giả cuốn Đường về nô lệ

Trên thực thế, nhờ vào tính minh bạch tài chính đem lại bởi tiêu chuẩn GAAP và kế toán mở, hầu hết các cuộc bầu cửa vào giữa những năm 1990 đều gặp phải những sự bất thường–nhưng đáng khen–về màn trình diễn của cả hai đảng đang cố gắng vượt qua nhau về việc bên nào có trách nhiệm tài chính hơn.

Không hề có lý do khiến cho các biện pháp tương tự không thể áp dụng được trên toàn khu vực bị phá sản ở miền nam của Liên minh châu Âu, hoặc thậm chí ở cả Hoa Kỳ. Tất cả những gì cần thiết chỉ là ý chí thực hiện nó, sự can đảm để đứng lên trước các chính trị gia và con ông cháu cha đang muốn bảo vệ cái hiện trạng, và một ít hiểu biết về Kiwi.

Tác giả: Bill Frezza – FEE
Dịch: Hà Huy Dương
Review: LX


Về tác giả: Bill Frezza là một thành viên của Competitive Enterprise Institute và là phát thanh viên của RealClear Radio Hour.

[THĐP Translation] 7 quy luật của hạnh phúc từ trí tuệ của người Ấn Độ

Bảy năm đã trôi qua kể từ ngày tôi chuyển đến Ấn Độ. Đó là một cuộc hành trình đầy thú vị đã kết nối tôi lại với nguồn cội của mình. Lớn lên ở Ấn Độ, tôi không được tận hưởng sự xa xỉ của việc du lịch, nhưng nhờ sợ giúp đỡ của gia đình, tôi đã có cơ hội để lấy lại những khoảng thời gian đã mất. Tôi đã có một khoảng thời gian tuyệt vời khi khám phá Ấn Độ trong quá trình kết nối với chính bản thân mình. Tôi đã bắt một chuyến mô tô qua dãy Himalaya và Khardung La – con đường mô tô cao nhất thế giới. Khám phá những di sản văn hóa phong phú Rajasthan qua các cung điện và pháo đài trong một cuộc hành trình dài một tuần trên cái cung điện bằng tàu hoả có bánh xe. Nhiệm vụ mang tính tâm linh của tôi về việc thông hiểu Thượng Đế và chính bản thân mình đã dẫn tôi đến núi Kailash/Mansarovar ở Tây Tạng, Maha Kumbh Mela ở Allahabad và Sabarimala ở Kerala.

Không cần nói thêm, đất nước Ấn Độ đem đến những trải nghiệm tuyệt vời, một trong số đó không những đánh thức các giác quan của tôi, mà còn nuôi dưỡng tâm hồn tôi. Thời gian trên đường đã cung cấp cho tôi thời gian để quan sát và hình thành nên “7 quy luật của hạnh phúc” của riêng tôi, lấy cảm hứng từ truyền thống phong phú từ trí tuệ của người Ấn.

1. Quy luật của sự gan dạ

“Sợ hãi là kẻ thù lớn nhất của con người, và nó biểu hiện qua nhiều hình thức như xấu hổ, ghen tuông, giận dữ, xấc xược, kiêu ngạo … Nguyên nhân gây ra sự sợ hãi? Thiếu đi sự tự tin vào chính bản thân.” – Swami Prajnanpad

*Swami: (Danh từ chung) Thầy tâm linh đạo Hindu

Trong suốt quãng thời gian qua tôi đã đi đến kết luận rằng sự sợ hãi chính là nguyên nhân gốc rễ của tất cả những nỗi bất hạnh và bất ổn đang bao vây mỗi cá nhân trong xã hội mà chúng ta đang sống. Nếu chúng ta có thể chinh phục được nỗi sợ của chính bản thân, chúng ta không những có thể thay đổi chính bản thân mà còn có thể đem đến hòa bình trong cộng đồng của chúng ta. Chúng ta được sinh ra “không biết sợ,” xã hội và giáo điều đã làm chúng ta trở nên sợ hãi. Triết gia Krishnamurti đã nói, “Tôn giáo duy nhất nên được truyền bá là tôn giáo của sự không sợ hãi.”

2. Quy luật của sự chấp nhận

“Trước hết, hãy chấp nhận chính mình. Khi bạn không chấp nhận chính mình và tưởng tượng mình là một ai đó khác, sẽ có một cuộc xung đột nảy sinh giữa những gì bạn tin bạn đang có và những gì bạn thực sự có.” – Swami Prajnanpad

Chúng ta hoang phí cả cuộc đời, không biết chính mình là ai hoặc đi so sánh chính mình với một người không phải mình. Cả hai việc này đều không dẫn chúng ta đến đâu, và bước đầu tiên của bài học chính là cảm kích sự đơn giản của việc tự chấp nhận chính mình. Chấp nhận sự đơn giản mình là ai mà không hề phán xét. Hãy phát triển trong việc tự chấp nhận bản thân mình và sống một cách giản dị trong thâm tâm.

3. Quy luật của sự phản chiếu.

“Xuyên qua bạn ánh nắng mặt trời tỏa nắng và những vì sao chiếu lấp lánh, và trái đất trở nên xinh đẹp. Xuyên qua ơn chúc lành mà tất cả các bạn yêu nhau và thu hút lẫn nhau. Bạn ở trong tất cả, tất cả ở trong bạn.” – Swami Vivekananda

Bạn nhìn thế giới theo cách bạn nhìn chính mình. Một khi bạn chấp nhận chính mình mà không phán xét, vũ trụ sẽ tự tiết lộ chính nó. Nhận thức bên trong của chúng ta tiết lộ những bí mật mà chúng ta đã bỏ lỡ bởi những thành kiến và những phán xét.

“Nếu bạn nhìn thấy linh hồn trong mọi chúng sanh, đó là cái nhìn chân thật. Nếu bạn nhìn thấy sự bất tử trong trái tim của mỗi chúng sinh hữu tử, đó là cái nhìn chân thật.” – Bhagavad Gita (Chí Tôn Ca, tác phẩm tâm linh kinh điển của Ấn Độ)

4.Quy luật của sự cân bằng

“Vũ trụ như một đại dương ở trạng thái cân bằng hoàn hảo. Một ngọn sóng không thể gợn lên ở một nơi nếu không tạo ra lỗ hổng ở nơi khác. Tổng năng lượng của vũ trụ vẫn luôn hệt nhau từ đầu này đến đầu kia. Nếu bạn lấy đi từ một nơi, bạn phải trả lại ở một nơi khác.” – Swami Vivekananda

Là một chuyên gia công nghệ, điều này không khó hiểu đối với tôi. Định luật III Newton về chuyển động nói rằng đối với mỗi hành động luôn có một hành động khác bằng mức độ và có hướng ngược lại. Tương tự như vậy, không nghi ngờ gì, sẽ một hệ quả xảy ra cho tất cả các hành động của chúng ta, mặc dù không phải luôn luôn rõ ràng và xảy ra ngay lập tức. Tôi tin rằng vũ trụ có cách để giải quyết vấn đề. Vì vậy, trong cuộc sống, chúng ta cần phải học hỏi để có sự cân bằng trong mọi việc chúng ta làm.

5. Quy luật của vật chất

“Giá trị tinh thần và tâm linh sẽ không thể nào đạt được, cho đến khi giá trị vật chất bị dập tắt.” – Swami Vivekananda

Có bao giờ chúng ta thỏa mãn được cơn khát của chúng ta trong việc mua ấy các giá trị (vật chất/tinh thần)? Làm sao chúng ta có thể tiến xa hơn, đi từ sự thu gom của cải vật chất cho tới sự “sống” đích thực? Tôi đã nhận ra rằng nếu chúng ta vẫn còn đang ở trong vòng luẩn quẩn của việc thu gom và sự thỏa mãn, chúng ta không thể có được hạnh phúc. Vì vậy khởi đầu của hạnh phúc chính là làm mất đi mong muốn thu gom, làm mất đi sự thèm khát của chúng ta về quyền lợi.

6. Quy luật của sự hài lòng

“Chúng ta luôn so sánh chúng ta là ai với con người mà chúng ta nên là. Sự liên tục so sánh chính bản thân chúng ta với một thứ gì đó hoặc ai đó là một trong những nguyên nhân chính gây ra sự xung đột. Tại sao lại có sự so sánh đó? Nếu bạn không so sánh mình với người khác, bạn sẽ là chính bạn.” –. Krishnamurti

Sự hài lòng đi kèm với việc tồn tại trong sự hỗn loạn mà không phán xét hay so sánh mình với người khác. Sự hài lòng có thể được chấp nhận là tất cả chúng ta đều có chỗ đứng riêng trong thế giới này và có con đường riêng của mình để bước đi. Không người nào có dấu vân tay giống người khác, vậy tại sao phải bận tâm cố gắng để so đo với người khác? Nhân loại chia sẻ ánh sáng mặt trời với nhau; ánh sáng mặt trời không phải của bạn cũng không phải là của tôi. Nếu tất cả chúng ta gặt hái được những lợi ích từ năng lượng của sự sống, vậy tại sao chúng ta có thể không thể hài lòng với cuộc sống của chính chúng ta cũng như những người xung quanh chúng ta?

7. Quy luật của sức mạnh ý chí

“Sức mạnh không đến từ năng lực thể chất. Nó bắt đầu từ một ý chí bất khuất.” – Mahatma Gandhi

Chúng ta không thể thay đổi cái chắc chắn sẽ xảy ra. Nhưng chúng ta có được ý chí để thay đổi cách chúng ta hành động khi đối mặt với nó. William Shakespeare đã nói, “Chúng ta là ai là tùy thuộc vào chúng ta. Cơ thể chúng ta là những khu vườn mà ý chí chính là những người làm vườn.”

Áp dụng các quy luật trên đã dạy cho tôi cách để có được được hạnh phúc với cuộc hành trình cuộc đời của mình thông qua cuộc sống và cách nắm lấy tình yêu. Cuộc hành trình của tôi trong thế giới này bắt đầu với tình yêu và một ngày nào đó nó cũng sẽ kết thúc với tình yêu. Theo lời của Rabindranath Tagore,

“Sự kết nối của tình yêu là tổng thể. Trong tình yêu, sự khác biệt biến mất và linh hồn con người thực hiện được mục đích của nó trong sự hoàn hảo, vượt qua ranh giới của chính mình và vượt qua ngưỡng cửa của vô cùng.”


Nguồn: Poonacha Machaiah, Co-Founder & CEO – Jiyo | Huffington Post
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

Tại sao bán hàng đa cấp ưu việt thế mà không đánh bại được phương thức bán hàng thông thường?

Chào mọi người, thể theo nhận xét trong topic Đừng như kẻ mù đi đọc sách. Đây cũng là điều mà mình cảm nhận từ bấy lâu nay, nên quyết định sẽ viết một seri về các kiến thức và quan niệm mà bấy lâu nay, do nhiều lí do mà đa phần người Việt, dù là dân tri thức hay không, không nắm hoặc hiểu một cách sai lệch hoàn toàn.

Trong seri này mình sẽ nói về rất nhiều chủ đề liên quan, ví dụ như kinh tế, triết học, đạo đức, v.v… theo phương pháp bình dân và có các ví dụ dễ hiểu nhất có thể, nhằm giúp các bạn bình dân có thể hiểu được.

Trước hết có lẽ mình sẽ tập trung chút về kinh tế để tạo sự hấp dẫn, sau đó sẽ chuyển sang các chủ đề khác khó hiểu, hoặc gây tranh cãi hơn.

Trên đây là phần giới thiệu sơ của mình, sau đây là bài đầu tiên trong seri, mời mọi người thưởng thức và nhận xét để mình có thể sửa chữa tốt hơn. Thân.


Bán hàng đa cấp ở Việt Nam, nó là cái gì đó được gắn liền với sự ghê tởm và kinh sợ ngay khi người ta nói về nó, mặc dù thực ra nó chính là cái gần gũi nhất với đời sống người dân lao động bình thường.

Như mọi người đều biết, giá sữa của Việt Nam thuộc vào hàng cao ngất ngưỡng, như bao nhiêu thứ khác, mà trong đó có 30-40% là chi phí quảng cáo. Nói cách khác, bạn mua một hộp sữa giá 100k, thì giá trị dinh dưỡng và gia công trên hộp sữa đó thực ra chỉ có khoảng 50k, 10k tiền lời cho nhà sản xuất, còn lại 40k là các chi phí như quảng cáo, hoa hồng, nghiên cứu sản phẩm mới,… trong đó quảng cáo nó hốt ít nhất 30k. Nói cách khác, mỗi 100k mua sữa bạn bỏ ra, thì bạn tốn 30k chả để được cái cóc khô gì cả . Và đó là vấn đề của bán hàng thông thường.

Quay trở lại với bán hàng đa cấp, thực ra chả có ông to bà lớn nào phát minh ra cái này cả, mà nó là thứ tự nhiên diễn ra suốt hàng ngàn năm qua cạnh chúng ta mà không ai gọi tên thôi . Chúng ta đều biết, rượu gừng và cháo hành tía tô là 2 trong số vô vàn thứ giải cảm cực nhanh, và đương nhiên, trên TV chả có ai đi quảng cáo rượu gừng với cháo hành cả. Thế tại sao chúng ta đều biết chuyện đó, và đều đi chợ hàng ngày mua nào rượu, nào gừng, nào hành, nào gạo,…? Đơn giản, vì đó là điều được người quen và người thân của các bạn mách cho, và các bạn cứ vô tư nghe theo mà đếch cần suy nghĩ 1 giây nào cho nó nặng óc. Quá bình thường, đúng không? Đấy chính là cái gọi là “bán hàng đa cấp” đấy .

Cái điều bình thường mình nói ở trên, là 1 dạng sơ khai của bán hàng đa cấp. Hình thức thứ 2, và cũng chính là hình thức hiện nay của nó, được ra đời khi các tập đoàn sản xuất tầm cỡ quốc gia hay xuyên quốc gia ra đời. Lấy ví dụ thế này:

_ Khi ra 1 sản phẩm sữa X mới cáu, các nhà sản xuất và chuỗi phân phối của nhà sản xuất đó sẽ quảng cáo nó dăm ba bữa gì đấy. Khi đó, khoảng 10% người tiêu dùng thường xuyên sẽ để ý và biết tới sản phẩm mới của họ .

_ Sau đó, những người này mua sản phẩm về dùng. Sau đâu đó 1 tuần lễ, vì sữa chất lượng tốt (hay hóa chất trong đó quá tốt) mà da dẻ của các mợ căng bóng hồng hào cứ như hoa hậu quý bà, đẹp lên trông thấy . Thông thường, khi các mợ ra chợ hoặc vào sở gặp nhau, tự nhiên ai nhìn vào cũng thấy một mợ nào đó mới 1 tuần mà đẹp lên trông thấy là xúm xít vào hỏi. Đang sướng, thế là sau 1 hồi õng eo “giấu nghề”, cuối cùng thì chuyện nó cũng lòi ra: mua sữa X mới ra mà về uống, khắc đẹp . Thế là ôi thôi, cuối cái giờ làm hôm ấy các mợ cứ gọi là kéo đoàn kéo đội kéo hội kéo bè đông như quân Nguyên ba lần cộng lại đi xâm thực cái cửa hàng bán sữa tội nghiệp nơi góc phố lá vàng rơi. Nội trong vòng 1 giờ đồng hồ bao nhiêu sữa nó chuyển từ dạng bột thành dạng lỏng rồi thành dạng hơi tuốt. Công ty cấp nước cũng nhờ thế mà vượt chỉ tiêu tháng đó .

_ Hiệu ứng dây chuyền, các mợ kia sau 1 tuần uống sữa cũng đẹp lên trông thấy . Thế là các mợ tích cực đi lễ chùa, cúng giỗ hiếu hỉ, shopping, cầu lông quần vợt, karaoke hát hò các kiểu, cốt là gặp được càng nhiều người càng tốt, để mà khoe cái làn da baby mới chăm được . Khoe được càng nhiều thì càng phê. Đã phê thì chưa cần ai đánh cũng khoe hết tổ tông họ hàng cái nhãn sữa kia tên là Ít-xì. Chiều hôm đó, “đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng tiến bước, tiếng chân rền vang trên đường gập ghềnh xa…”.

_ Cứ thế tiếp diễn, dần dần, hầu như bất cứ ai có nhu cầu cũng sẽ tìm mua cái sản phẩm kia mà nhà sản xuất lẫn bên phân phối không cần phải ra rả suốt ngày lúc 6h30 trên VTV3: “Chăm phần chăm, sữa tươi nguyên chất chăm phần chăm…”.

_ Đương nhiên những hoạt động trên kia là hoàn toàn tự nhiên, và chả có cơ quan đoàn thể nào nó mất tiền bỏ ra để đốc thúc nó cả. Nói cách khác, giá một hộp sữa giờ chỉ còn khoản 70-75k, do không còn phải cõng phí quảng cáo nữa (còn nếu không giảm giá thì cứ xác định là đối thủ cạnh tranh nó đánh cho vỡ mồm nhá ).

_ Không những thế, các nhà sản xuất và phân phối còn nghĩ ra một hình thức kích thích hoạt động kia: họ lập ra 1 hợp đồng, và trong 1 ngày đẹp trời, một mợ nào đấy vào mua sữa, họ đưa hợp đồng cho mợ ấy với nội dung: mỗi khi có một ai đó nghe theo lời giới thiệu của chị mà tới mua 1 hộp sữa X của chúng tôi, thì chúng tôi sẽ chuyển 1k vào tài khoản ngân hàng của chị. Chỉ phải đi khoe sướng thân, đã thế lại còn có tiền xài mà chả mất gì, họa có điên mới không ký, cần bút ký cái xoẹt ngay và luôn.

_ Nhà sản xuất họ sẽ có 1 hệ thống kiểm soát thông tin toàn quốc (hoặc toàn cầu), chỉ cần khách hàng đó mua hàng ở bất cứ đại lý nào, hệ thống sẽ ghi nhận và chuyển tiền vào tài khoản của “người giới thiệu”.

_ Làm sao nhà sản xuất họ biết ai là “người giới thiệu” khách hàng mới tới với họ? Đơn giản lắm, hỏi thẳng. Thế thôi. Câu hỏi đặt ra: “Tui không thích tiền của tôi chảy vào túi con kia, tui nói láo thì sao”. Tốt thôi, cứ nói láo là biết thông qua TV hay gì đấy, không ai rảnh và ngu tới mức đi điều tra khách hàng của mình cả. Có điều, ở những nước mà con người có nền giáo dục đàng hoàng và coi trọng nhân cách, hiện tượng này rất ít xảy ra. Đa phần người ta sẽ vui vẻ nói thật và coi như một lời cám ơn “người giới thiệu” kia vì đã giúp họ tìm được một sản phẩm tốt. Chỉ ở những quốc gia khốn nạn mà con người bị đẩy vào cảnh phải bán nhân cách mà chạy ăn từng bữa và lừa đảo nhau là một trò quen đến trơ mặt lợn ra thì may ra con người ta mới có cái suy nghĩ “ăn không được thì đạp đổ” tới từng đồng một như vậy.

_ Tổng kết lại: người tiêu dùng mua được sữa với giá rẻ hơn 29k , người giới thiệu (tức một số lượng người tiêu dùng đầu tiên nào đó) được 1k, nhà sản xuất được lợi 10k như cũ nhưng lại tăng được năng suất bán hàng (vì giá sản phẩm rẻ hơn nhiều). Tất cả đều được lợi, chỉ có VTV và các trang báo là bị thiệt, vì không còn người thuê quảng cáo nữa.

Thế đọc tới đây, bao nhiêu người sẽ đặt câu hỏi: tại sao bán hàng đa cấp nó ưu việt thế mà lại không đánh bại được phương thức bán hàng thông thường?

Lí do có khá nhiều, nhưng nói chung lại tập trung vào các lí do sau đây:

_ Thứ nhất, là thói quen tiêu dùng của người dân. Ví dụ, một sinh viên luật không tìm tới sách thông qua TV, họ tìm sách thông qua lời khuyên của các tiền bối khóa trên và thông qua các lời khuyên trên internet. Một nhà xuất khẩu chỉ có thể tìm được đối tác thông qua các chợ quốc tế. Tuy nhiên không ai lại đi mua gói bột giặt cho gia đình tại hội chợ hàng chất lượng cao cả. Họ chỉ việc ra chợ và bốc cái gói bột giặt nào mà họ thấy trên TV gần đây nhất. Chính văn hóa mua hàng dựa trên quảng cáo trên TV mà không quan tâm đúng mức chất lượng sản phẩm của đa số người tiêu dùng đã đẩy tới cái cảnh các đại lí và cửa hàng tạp hóa chỉ nhập hàng được quảng cáo rầm rộ trên báo chí, TV (và hiện nay còn thêm internet). Chính đây là lí do đầu tiên bóp chết nền kinh tế phân phối hàng hóa theo phương thức đa cấp chết từ trong trứng nước .

_ Cũng từ diều trên lại tiếp tục đẻ ra “nghịch lí” thứ hai: chỉ có ở các quốc gia trình độ dân trí cao, và cơ quan quản lí chất lượng hoạt động tích cực thì mới có điều kiện cho bán hàng đa cấp phát triển. Nói cách khác, nước nó càng giàu thì dân nó càng khôn, hàng dân nó xài lại càng tốt càng rẻ, nước nào càng nghèo thì hàng càng kém mà lại còn đắt cắt cổ .

_ Do dân trí thấp là một phần, sự yếu kém của chính phủ với loại hình phân phối hàng hóa này, để xảy ra tình trạng lừa đảo tràn lan không thể kiểm soát, sự hoang mang và trạng thái “auto block mind” của dân chúng với hình thái kinh doanh mới này cứ mặc nhiên mà phát triển, khiến bao nỗ lực phổ biến nó thành hư không .

_ Lí do cuối cùng: đạo đức và lòng tin. Cái này thì khỏi bàn. Cứ lên google coi các vụ “miễn phí” với lại “hôi của” là các bạn tự biết “đạo đức” nước này nó ở đâu rồi đấy

Thế ở VN tại sao cứ nghe tới đa cấp thì người ta cứ giãy lên như đĩa phải vôi thế?

_ “Đa cấp chỉ rặt lừa đảo.”

=> Điều này là sai hoàn toàn, như mình đã giải thích ở trên, đa cấp là phương pháp bán hàng hoàn toàn tự nhiên, nói cách khác có thể khẳng định đây chính là một trong những phương pháp bán hàng hiệu quả nhất tồn tại trên đời. Chuyện lừa đảo có thể diễn ra ở bất cứ đâu, bất cứ lĩnh vực nào, bạn buôn bán bình thường vẫn có thể bị lừa, cho người khác mượn tiền cũng có thể bị lừa, nhận lời làm giúp ai cái gì cũng có thể bị lừa…

_ “Nhiều người quen của tui từng làm cho tụi nó rồi, chỉ toàn là lừa lọc nhau.”

=> Mình xin khẳng định luôn, trừ khi ở VN sửa chữa được 4 việc mình đã nêu trên, trong đó quan trọng nhất là phía cơ quan quản lí thị trường – chính phủ, bằng không ở VN sẽ không có bất cứ công ty nào hoạt động theo mô hình đa cấp mà thành công cả. Những nơi bạn hoặc người thân bạn đã làm chỉ toàn là nơi lừa đảo mà thôi.

_ “Bán hàng đa cấp nghe là thấy lừa đảo rồi, làm gì có việc ngồi chơi mà có ăn.”

=> Bán hàng đa cấp, chưa và không bao giờ là một cái “nghề” cả. Nó giống như việc bạn trồng một hạt cỏ và đợi cho nó mọc lên trong vườn nhà bạn mà thôi. Cỏ thì nó tự mọc, vì nó mọc là vì lợi ích của nó. Trong quá trình đó nó cho bạn những thứ bạn cần một cách tự nhiên. Vậy thôi. Đương nhiên là nếu bạn dài tay, rải hạt thật nhiều, thì đồng cỏ rộng bao la bát ngát, khi đó cứ cắt cỏ bán là giàu, vậy thôi .

_ “Sao mình thấy vào đa cấp tụi nó bắt phải làm thế này thế nọ, đóng tiền, v.v…”

=> Như ví dụ mình nêu trên, mô hình đa cấp thực thụ chả ai tới dí sản phẩm vào mặt bạn đâu, họ làm theo chu trình hết sức bình thường: quảng cáo -> truyền miệng -> bán hàng. Có điều thay vì chi tiền vào bước phi tự nhiên là quảng cáo, họ thúc tiền vào bước tự nhiên hơn, do đó đạt kết quả mĩ mãn hơn. Bất kỳ điều gì khác lạ so với điều kiện bán hàng thông thường, thì đó chỉ là lừa đảo mà thôi.

Như vậy, các bạn hãy tưởng tượng, một đất nước với nền kinh tế chỉ có phân phối hàng hóa thông qua quá trình bán hàng đa cấp, thì nền kinh tế sẽ được hưởng lợi khủng khiếp như thế nào so với phương pháp truyền thống?

_ Thứ nhất, như mình đã nói, chi phí của nhà sản xuất sẽ được giảm đi rất nhiều, năng suất bán hàng tăng mạnh, người tiêu dùng được mua hàng giá rẻ, họ sẽ có nhiều tiền đầu tư cho bản thân và công việc, họ lại càng làm ra nhiều tiền, khi đó họ lại càng mua sắm nhiều, nhà sảng xuất lại càng thu được lắm tiền, họ tái đầu tư và gia tăng chất lượng sản phẩm, vòng lặp cứ thế quay, quay, quay,…

_ Thứ nhì, không chỉ bản thân người bán – mua được lợi, mà các đối tượng ngoài quan hệ mua bán khác cũng được lợi, điển hình là người giới thiệu và ngân khố quốc gia. Và như mình nói, khi nhu cầu quảng cáo giảm đi từ các “ông lớn”, thì bảng giá quảng cáo sẽ giảm xuống, khi đó các doanh nghiệp nhỏ có thêm nhiều cơ hội thuê quảng cáo, nói cách khác là tăng cao khả năng phát triển của các doanh nghiệp nhỏ.

_ Thứ ba, khả năng ổn định hóa doanh số bán hàng của doanh nghiệp ổn định hơn rất nhiều so với khi quảng cáo truyền thống, vì cơ bản, cách bán hàng này phụ thuộc rất nhiều vào uy tín giữa doanh nghiệp – người tiêu dùng. Chừng nào bạn còn chưa mất lòng tin, thì khả năng bạn bị hất cẳng một cách bất ngờ không kịp trở tay là chuyện không thể. Nói cách khác, chừng nào doanh nghiệp còn liên tục tự cải thiện mình thì chừng đó tỉ lệ phá sản của doanh nghiệp còn rất thấp.

_ Thứ tư, việc gia tăng dòng tiền và sự sản xuất sản phẩm, phát triển doanh nghiệp mới cũng chính là phương án giải quyết số 1 cho vấn đề thất nghiệp. Đồng thời đảm bảo rất tốt nguồn ngân sách cho các chính sách an ninh xã hội khác do không phải tốn bất kỳ khoảng chi nào cho vấn đề việc làm.

Đương nhiên, bất kỳ cái gì cũng có điểm mạnh và điểm yếu, mình liệt kê ra vài điểm yếu chí mạng của mô hình này:

_ Lợi dụng lòng tin: nằm ở vấn đề lương tâm con người và đạo đức doanh nghiệp, khi có một trường hợp lừa đảo diễn ra, thì vấn đề không chỉ của mỗi doanh nghiệp, ngành nghề đó, mà sẽ ảnh hưởng tới toàn nền kinh tế do nó ảnh hưởng tới xương sống của toàn bộ nền kinh tế – lòng tin. Nếu như các phương pháp marketing thông thường, khi một hãng xe để xảy ra lỗi lớn, thì cùng lắm chỉ có doanh nghiệp đó phá sản và doanh thu toàn ngành giảm mà thôi. Còn với mô hình đa cấp, sẽ là quy mô toàn bộ nền kinh tế.

_ Lười hóa người lao động: đây là luận điểm mà các bên chống đa cấp thường xuyên đưa ra để phủ nhận đa cấp. Nếu như không cần làm vẫn có tiền, thế khi số tiền nhận được từ khoảng hoa hồng này đạt mức tối thiểu người ta cần để duy trì cuộc sống, thì người ta nghỉ việc nằm nhà hết thì sao, hay nói cách khác, cả xã hội này chúng nó chỉ đi bán hàng đa cấp thì lấy đếch tiền đâu ra?

Đây là câu trả lời:

  • Điều này không phải là không thể xảy ra, khi đó nền kinh tế sẽ dần lụn bại dần, do những người sản xuất ít dần, khả năng sản xuất giảm dần, quá trình tái đầu tư bản thân của doanh nghiệp và người tiêu dùng ngày càng giảm, cuối cùng dẫn tới việc lượng hoa hồng giảm, và buộc họ phải làm việc lại mới có tiền mà xài tiếp. Đây là một chuyện không phải là không thể diễn ra, và cách phòng tránh nó chỉ có một: giáo dục về điều này cho người dân, để họ không làm thế, vậy thôi.
  • Không bao giờ cả xã hội điều trở thành dân bán hàng đa cấp cả. Ví dụ một cộng đồng 100 người, thì 10 người đầu tiên thành “người giới thiệu” bán gạo cho 90 người còn lại, thì đương nhiên việc 90 người kia trở thành “người giới thiệu” là không thể. Đương nhiên trong số 90 người đó vẫn có thể có người trở thành “người giới thiệu” bán dầu chẳng hạn, nhưng việc một người thành “người giới thiệu” của quá nhiều mặt hàng tới mức nghỉ việc cho khỏe thì quả thật hơi bị… ảo tưởng.

OK, trên đây là bài viết đầu tiên của mình, bất kỳ ý kiến phản biện, câu hỏi thắc mắc, mở rộng nào, mời mọi người post phía dưới, và nếu được thì tag mình vào để mình để ý trả lời, vì mình không thường xuyên lên THĐP lắm nên sợ không theo dõi kịp, cám ơn các bạn đã đọc .

P/S: kỳ tiếp theo có lẽ sẽ nói về bitcoin hoặc quyền sỡ hữu đất đai, đương nhiên là cũng sẽ cố kiếm ví dụ và giải thích dễ hiểu nhất có thể, sẽ tương đối lâu, vì muốn nói được cho ai cũng hiểu rất khó, nên không viết nhanh được.

[THĐP Translation] 10 sản phẩm của Google có thể thay đổi tương lai của chúng ta

1. Dự án Loon

image

Google muốn đem Internet đến các vùng đất trên khắp thế giới, nơi hiện nay vẫn chưa có Internet. Để thực hiện được điều này, họ lên kế hoạch sẽ thả những khinh khí cầu dự báo thời tiết lơ lửng trên tầng bình lưu và gửi các tín hiệu không dây cho các thiết bị ở phía dưới.

2. Một đội quân rô bốt

image

Google mới chỉ bắt đầu và mua một ít công ty chuyên nghiên cứu mọi thứ về rô bốt từ rô bốt có cảm xúc đến các đội quân rô bốt sẵn sàng chiến đấu!

3.Calico

image

Công ty này đang nghiên cứu một dự án mà có lẽ chính là chiếc chìa khóa cho sự bất tử của nhân loại. Cùng làm việc với tiến sĩ Arthur Levinson, Google đang nghiên cứu các phương pháp làm chậm quá trình lão hóa của con người.

4. Kính áp tròng Google

image

Đây không phải là kẻ kế vị của Google Glass như bạn mong đợi. Thực ra đây là vật được sử dụng để giám lượng đường trong máu cho người mắc bệnh tiểu đường mà không cần phải tiêm lấy máu.

5. Thìa Liftware

image

Một dụng cụ tự cân bằng có thể giúp đỡ rất nhiều cho các bệnh nhân mắc chứng liệt rung Parkison.

image

6. Lunar Xprize

image

Google cũng đang nghiên cứu chuyện thăm dò vũ trụ sau khi mua lại một sân bay của NASA gần đây để bắt đầu việc phát triển, thử nghiệm và huấn luyện.

7. Makini

image

“Malani” là một dự án mà về cơ bản là một tua bin gió bay trên trời và Googke hi vọng rằng nó có thể sản sinh ra điện. Điều đó có nghĩa là những tua bin đó sẽ không chiếm nhiều diện tích trên mặt đất.

8. Dự án Ara

image

Google đang lên những kế hoạch để chế tạo ra điện thoại mô-đun – một thiết bị sẽ hoàn toàn được tùy biến theo yêu cầu của khách hàng với những mô đun có thể thay thế được.

9. Dự án Tango

image

Là bước tiến tiếp theo sau Google maps; công ty này đã và đang nỗ lực làm việc với bản đồ 3D để vị trí của người dùng có thể được xác định ở mức độ chính xác nhất.

10. Xe hơi tự động lái

image

Google đã cho ra mắt những chiếc xe hơi này và có nhiều thành công cho đến giờ. Nhưng có lẽ những chiếc xe hơi tự lái này sẽ phải mất nhiều thời gian mới có thể bắt đầu thay thế cho nhiều loại phương tiện giao thông vẫn chạy trên đường hiện nay.


Nguồn: DxnM – Imgur
Dịch: Băng Tâm
Review: Nguyễn Hoàng Huy

[THĐP Review] Cuộc cách mạng một-cọng-rơm, Masanobu Fukuoka – Cuộc cách mạng toàn diện trong tâm thức con người

3

thđp review

“Trong tự nhiên, có sự sống và cái chết, và tự nhiên đầy ắp niềm vui.
Trong xã hội loài người, có sự sống và cái chết, nhưng con người thì sống trong khổ đau.”

Nếu tiên sinh Fukuoka đã nói rằng: “Chỉ từ một cọng rơm này thôi một cuộc cách mạng có thể được khơi mào.” Vậy hẳn nhiên chúng ta chỉ cần bắt đầu từ hai câu trích dẫn nho nhỏ thì vẫn có khả năng mở ra toàn bộ nội dung căn bản của cuốn sách Cuộc cách mạng một-cọng-rơm ấy!

Như đã được chia sẻ từ những trang đầu, tiên sinh Fukuoka đã thức tỉnh một cách hoàn toàn bất ngờ từ một cơn mê mụ, sau khi nghe tiếng kêu chói tai của một con diệc trên một ngọn đồi nhìn ra bến cảng. Kể từ lúc ánh chớp đó lóe lên, con đường cách mạng trong nông nghiệp của ông cuối cùng cũng nên hình dạng và đi đến thành công rực rỡ trong sự kinh ngạc của tất cả mọi người, từ nông dân cho tới những nhà khoa học.

Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều về cách làm nông “vô vi” từ cuốn sách mà trong đó tác giả đã trình bày những kiến thức rất chi tiết. Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng chúng ta chỉ cần nắm được cái cốt lõi “vô vi” ấy thôi thì dù là nông nghiệp hay giáo dục, hôn nhân hay tôn giáo, tất cả mọi thứ sẽ đều được chuyển mình một cách triệt để nhất. Giống như ta là người nắm giữ hạt mầm chứ không phải chỉ đơn thuần bắt được ngọn cây vậy!

Quay trở lại với hai câu trích dẫn ban đầu, tôi sẽ xuất phát từ điều mà cá nhân tôi nhìn thấy trước tiên, đó là sự phân cực và nỗi đau khổ dường như bất tận của con người khi dính mắc vào nó. Tiên sinh Fukuoka minh chứng về biểu hiện này trong nông nghiệp thông qua việc người nông dân bắt đầu so sánh nhanh-chậm, hơn-thua, lỗ-lãi lúc ngó sang mảnh ruộng nhà hàng xóm và thấy gã hàng xóm thay vì sử dụng trâu kéo đã chuyển sang máy cày.

Người nông dân buồn chán ra mặt và quay vào nhà xem TV thì thấy bọn Mỹ đã sử dụng đến cả máy bay trực thăng để phun thuốc trừ sâu rồi (đoạn này là tôi tự nghĩ ra!) Tuy nhiên, sự đắm chìm trong nhị nguyên không chỉ thể hiện ở trong nông nghiệp, nó đã lan rộng ra như một đại dịch trong mọi mặt cuộc sống của con người, từ việc ăn phở cho đến việc yêu Chúa. Mọi thứ đều được con người phân ra rạch ròi, nào là tốt-xấu, hay-dở, thánh-phàm, quá khứ-tương lai, tôi-anh và thậm chí tôi-cái tôi của tôi. Chính sự chia rẽ như vậy là nguyên nhân dẫn tới mọi điều mâu thuẫn và tranh đấu trong cuộc đời, nếu như không nói rằng nó là gốc rễ của mọi sự bạo lực.

Có bao giờ các bạn tự hỏi từ đâu mà mọi thứ trở nên quá phức tạp rối rắm như vậy không? Và sự phức tạp đó đã gây nên những đau đớn như thế nào cho con người không? Khi một người vẫn thao thao bất tuyệt nói về “khoảng không nằm ngoài cái hộp” và nỗ lực vượt qua nó để đi đến cái toàn thể, thì hiển nhiên trong hắn vẫn còn sự dính mắc về giới hạn và không giới hạn, về thực tại và hư vô, về thế giới rối ren của loài người và cõi Niết Bàn. Và một khi đã xây dựng nên bất kỳ một tượng đài nào thì đến một ngày nó vô tình (hay cố tình) bị ai đó đập vỡ, thì kẻ đáng thương ấy sẽ nếm đủ những đau đớn của sự sụp đổ và phẫn nộ, khi đã bám víu vào tượng đài suốt bao nhiêu năm tháng cuộc đời.

Nói đến đây tôi chợt nhớ tới bác Đường Tăng phiên bản “quái đản” đã xuất hiện trên thế giới vào đúng ngày này hai năm về trước. Và tôi bắt đầu ngờ rằng trước khi sang Tây Ban Nha, chắc hẳn bác ta có ghé qua Nhật Bổn để đàm đạo cùng tiên sinh Fukuoka, khi mà cả hai người họ đều đã đề cập tới việc những tư tưởng phân cực kéo theo đau khổ cho con người. Và thật trùng hợp khi bác Đường Tam Tạng cũng đã rất thành công trong một cuộc giao đấu “vô vi” với bò tót nơi bản địa. Tại chuyến đi ấy, bác ta đã từng ngân lên bài thơ rằng:

“Này người bạn ơi hãy cứ khóc
Đừng kìm nén cho đến ngày mai
Đời người ta chỉ như con lắc
Giữa tốt-xấu, vui-buồn, đúng-sai.”

Đau đớn được thể hiện ở sự muộn phiền, tuyệt vọng, bất mãn, giận dữ, và khả năng cao kẻ đó sẽ có xu hướng muốn thoát khỏi sự khó chịu ấy bằng cách lảng tránh thông qua việc đưa ra bằng được mọi lý lẽ giả dối với chính mình hoặc sử dụng những cảm giác mạnh khác để lấn át đi (có thể thông qua chích hút, rượu chè hay tình dục); nếu không thì sẽ gào thét, khóc lóc vật vã, hoặc thu mình lại đến mức trầm cảm; rồi thì đấu tranh (thậm chí gây chiến tranh) để bảo vệ đến cùng tượng đài ấy. Và khi mọi nỗ lực thoát ra khỏi những cảm xúc tiêu cực không thành, kẻ đó sẽ tự kết liễu đời mình bằng một đường cứa vào động mạch chủ!

“Cũng giống như trường hợp người nông dân hám lợi mở đường mương dẫn nước tưới quá rộng và để cho nước chảy ào ào vào ruộng lúa của mình. Bờ mương sẽ bị nứt và đổ sụp. Tới lúc đó thì lại phải bỏ công ra gia cố. Bờ mương được đắp cho kiên cố lại, mương dẫn nước sẽ được mở rộng ra thêm. Lượng nước tăng lên chỉ làm gia tăng mối nguy hiểm tiềm tàng và lần suy yếu sau đó của bờ mương sẽ đòi hỏi công sức lớn hơn để xây dựng lại.”

Các bạn biết không, mọi việc sẽ chẳng đến mức tồi tệ nếu như vấn đề được chấp nhận và truy về tận cùng nguyên nhân gốc rễ của chúng thay vì cố gắng tìm cách sửa chữa, thay đổi, hay “nâng cấp”. Như những điều tôi hiểu được từ sự diễn giải của tiên sinh Fukuoka về nông nghiệp, thì chuyện cày tung đất lên chỉ làm gia tăng sự phát triển của cỏ dại, sau đó người nông dân sẽ nai lưng ra cả năm trời để nhổ cỏ, và sẽ vui mừng khôn xiết khi có nhà khoa học thiên tài nào đó phát minh ra được thuốc diệt cỏ. Nhưng rồi chính việc sử dụng thuốc diệt cỏ sẽ làm thoái hóa đất đai, ảnh hưởng đến cân bằng hệ sinh thái đồng ruộng và đặc biệt tích lũy các chất độc hóa học trong nông sản mà chúng sẽ theo chuỗi thức ăn đi vào cơ thể con người rồi “trú ngụ” ở đó.

Vậy là chỉ từ việc không nhận ra nguyên nhân khiến cỏ dại tung hoành trên mảnh ruộng của mình mà người nông dân bây giờ phải điêu đứng với việc chạy chữa trong bệnh viện vì những bệnh tật liên quan đến thần kinh hay tế bào do hóa chất bảo vệ thực vật gây nên!

Khi xuất hiện một nỗi đau, một sự phiền muộn hay thương tổn, có mấy ai trong chúng ta là dám đi đến tận cùng nguyên nhân dẫn đến những sự khó chịu đó? Hầu hết con người không đủ sức, không đủ trí tuệ và cũng không đủ sự bao dung để mà ngồi lại với những vấn đề của chính mình. Việc lấp liếm dễ dàng hơn rất nhiều, việc gào thét vào mặt người khác cũng rất là đơn giản và thậm chí việc nổ súng, đánh bom gây thương tích, chết chóc cho nhau cũng chẳng nằm ngoài tầm tay. Chỉ có những kẻ yếu đuối mới lờ đi chính bản thân mình và rất thường xuyên đi làm tổn thương người khác.

Giả sử như khi nhìn thấy người yêu của bạn đang hôn hít, sờ soạng một cô nàng nóng bỏng nào đó, bạn bắt đầu cảm thấy phát điên phát rồ lên hết cả. Lúc đó bạn muốn bắn bỏ ngay con ranh kia và tùng xẻo thằng khốn nạn đã từng là người yêu mình một giây trước, hay là bạn sẽ bình tâm lại, đứng sang một bên và đi tìm nguyên nhân dẫn tới sự phẫn nộ ấy? Nếu bạn không nhận ra rằng tất cả chỉ là những cái cớ để mọi thứ trong tâm trỗi dậy thì có lẽ bạn cần bị phản bội đến cả chục lần thì may ra mới học được cách đi tìm nguyên nhân của vấn đề, thay vì cứ nhảy choi choi lên như chín lần chán ngán trước.

Có khổ thì ắt có nguyên nhân dẫn đến sự khổ, và chúng đều bắt nguồn từ sự sợ hãi. Trong cuốn sách, tác giả đã thể hiện rất rõ rằng: Người nông dân sợ phải nai lưng ra làm nếu không phun thuốc diệt cỏ nên đã gây ra sự mất cân bằng sinh thái, sợ mùa màng thất bát nếu hành động khác đi so với khuyến nghị của chính phủ nên đã đánh mất đi sự gắn bó với những thực phẩm truyền thống giàu giá trị, và sợ không thu được lợi nhuận nếu không sử dụng chất bảo quản, chất kích thích, chất tạo màu để “làm đẹp” cho nông sản nên đã gieo rắc bệnh tật cho toàn xã hội.

Nhưng đấy là trong nông nghiệp, còn trong cuộc sống bình thường của mỗi người, liệu có mấy ai nhìn ra được những nỗi sợ hãi ẩn chứa sâu thẳm đã dẫn dắt mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình? Nỗi sợ dư luận, sợ đói khổ, sợ chết, sợ cô đơn, sợ thua kém người khác, sợ không được công nhận, sợ thay đổi,… tất cả chúng đều là những hạt nhân găm vào tâm trí con người và thao túng, dẫn dắt mọi động thái của hầu hết loài người để hình thành nên một xã hội như ngày nay. Hãy nhìn cho thật kỹ xem một ngày thức giấc và bắt đầu sống thì bạn đã để sự sợ hãi dắt mũi mình bao nhiêu lần trong đó? Tôi cá rằng câu trả lời sẽ khiến bạn bất ngờ đấy!

Hãy quan sát lại một lượt những gì tôi vừa nói, vậy câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi “Tại sao trong tự nhiên và trong thế giới loài người đều có sự sống và cái chết, mà tự nhiên lại đầy ắp niềm vui, trong khi loài người thì chịu nhiều đau khổ?” là gì? Nó là sự dính mắc trong nhị nguyên hay là sự đắm chìm trong những nỗi sợ hãi? Nó không phải cả hai điều đó các bạn ạ. Mà câu trả lời chính là: Con người vẫn nằm trong ma trận của tâm trí (hay nói cách khác là họ nhìn toàn bộ thế giới qua lăng kính của trí năng.)

Tâm trí gây dựng nên những khái niệm, những tên gọi về đặc tính của hiện tượng khiến con người ngày càng xa rời chính hiện tượng đó. Và rồi chính sự mông lung về thế giới sẽ kéo theo những nỗi sợ hãi đầy vẻ tăm tối cùng những sự so sánh đậm chất mê muội. Chúng trở thành một vòng xoáy không lối thoát khi một người lỡ sa chân vào địa hạt của trí năng.

Ví dụ như một kẻ đánh mất người yêu, tâm trí anh ta bắt đầu cho rằng không có người yêu thì cuộc đời sẽ thật cô đơn, không được ai yêu thương thì mình sẽ thật bất hạnh. Anh ta mang theo nỗi niềm tuyệt vọng trong những hành trình tiếp theo của mình và đến một ngày không thể chịu đựng nổi, anh ta bắt đầu xây dựng nên một hình tượng Đấng cứu thế với tên gọi là God và ngày ngày cầu nguyện để hòng mong đợi Ngài tiếp thêm niềm tin và sức mạnh để anh ta có thể trở lại với cuộc đời. Nếu như những lời cầu nguyện được đáp ứng thì anh ta sẽ tin rằng có Chúa và tiếp tục khấn lạy, nếu không thì anh ta sẽ tự hành hạ mình cho đến chết vì cảm thấy vô phương cứu chữa.

Hãy nhìn lại xem chàng trai này đã ảo tưởng đến mức nào khi tự vẽ ra mọi chuyện, từ đau khổ, rồi chữa chạy, tin tưởng, hân hoan rồi tự kết liễu đời mình. Anh ta nháo nhác trong một màn kịch (mà tự thân làm đạo diễn) chẳng khác gì chính sự náo động của tâm trí như một con khỉ liên tục chuyền cành!

Chuyện về tên ngốc ở trên và chuyện về cuộc cách mạng nông nghiệp của tiên sinh Fukuoka khiến tôi nhớ đến câu nói đầy khắc khoải trong bài phát biểu của người sáng lập ra trung tâm Pun Pun – một nông trại hữu cơ ở ngoại ô Chiang Mai (Thái Lan):

“Bởi vì chúng ta đã được dạy để làm cho cuộc sống phức tạp và khó khăn, làm sao khiến nó trở nên dễ dàng đây? Thực ra nó dễ dàng nhưng chúng ta không biết làm sao cho nó dễ dàng nữa.”

Trong cuốn sách Cuộc cách mạng một-cọng-rơm, tiên sinh Fukuoka đã chỉ ra đích xác nguyên nhân dẫn đến sự thối nát trong nền nông nghiệp Nhật Bản là vì người nông dân, chính phủ, những nhà khoa học hào hứng “phát minh” ra đủ các phương pháp “cải tiến hiện đại hơn”. Trong khi, ông lại cách mạng nông nghiệp dựa vào phương pháp phi phương pháp – tức là không-làm-gì-cả dựa trên bốn nguyên tắc: Không cày xới đất, không dùng phân hóa học hoặc phân ủ, không làm cỏ bằng việc cày xới hay sử dụng thuốc diệt cỏ và không phụ thuộc vào hóa chất. Nếu đem những nguyên tắc này ra để ướm vào cuộc cách mạng tâm thức con người thì chúng sẽ tương ứng với: Không vọng tưởng, không thêm bớt, không tranh đấu và không dính mắc!

Nói đến đây không thể không nhắc tới bản Bát Nhã Tâm Kinh thứ đã khiến tôi nhận ra rằng tất thảy đều là những ảo ảnh khái niệm được gây dựng nên từ tâm trí của loài người. Khi không còn dính mắc vào tâm trí nữa thì không còn chướng ngại, mà tâm không chướng ngại sẽ không sợ hãi, kẻ đó sẽ không còn xao động vọng tưởng và đặt chân tới cõi Niết Bàn – giây phút hiện tại trong sáng. Cõi Niết bàn luôn ở đó cho một kẻ đã buông đi mọi hình dung về cõi Niết Bàn! Thật ra thì hắn cần phải buông luôn cả chữ “BUÔNG” ấy nữa(!)

Tất cả đều là những công cụ để con người quay trở lại với sự tự nhiên và thống nhất mà thôi. Kẻ nào một khi vẫn còn dính mắc vào những công cụ ấy như người qua sông vẫn vác theo con thuyền, thì kẻ đó hãy vẫn còn nằm trong sự rối ren khổ sở.

Bùn dơ tràn ra thời nảy nở.
Vàng ngọc hé lộ sẽ lụi tàn
Người khôn ngoan chọn đường im lặng.
Nháo nhác đương tìm kẻ dại khờ.

Tác giả Fukuoka đã minh họa về sự buông bỏ trong các kiểu chế độ ăn của con người đi từ việc ăn theo khoái khẩu, ăn đủ chất dinh dưỡng, ăn cân bằng cho đến cuối cùng chỉ là ăn mà thôi. Ngày nay ba chế độ ăn đầu tiên rất nhiều người vẫn đang dính mắc vào, nếu không sinh bệnh tật thì cũng sinh ra sự so sánh hơn thua với các chế độ ăn khác dẫn tới việc phán xét, áp đặt nhau trong ăn uống, và cảm giác bất an khi không theo được đúng “gu” của bản thân. Những kẻ đó đang ăn với một tâm đầy rẫy những quy tắc, phân tích, cân đo trong khi tất cả những gì họ cần khi ăn là một tâm không-gì-cả, hay nói chính xác hơn là không có một tâm gì cả – ăn trong thinh lặng. Khi đó chuyện ăn uống mới đích thực là ăn uống, hương vị mới rõ ra hương vị và sự tận hưởng mới là toàn diện!

Bây giờ tôi có thể khẳng định rằng: “Trong xã hội loài người, có sự sống và cái chết, nhưng con người vẫn có thể đầy ắp niềm vui được khi họ trở về với bản chất tự nhiên của chính mình!”

Còn cân trong dạ hỡi ôi
Còn tham trong bụng nuốt trời sao đang!
Dẹp đi địa ngục thiên đàng
Dọn đi quỷ dữ cùng hàng thánh tăng
Dưới đêm thư thả ta nằm
Bừng ra quầng sáng rọi vào vầng trăng.

Vậy đấy các bạn ạ, cuốn sách này đã chỉ ra rất rõ con đường cách mạng không chỉ trong nông nghiệp mà còn chính trong tâm thức của con người, bằng việc buông bỏ và đi về sự hòa hợp với tự nhiên, liên kết với vạn vật và tận hưởng giây phút hiện tại hạnh phúc. Khi một kẻ đã thức tỉnh thì điều ấy giống như tiếng chuông ngân vang giữa không gian vậy, âm thanh thức tỉnh sẽ lan ra mọi chiều hướng khác. Sự khai sáng của hắn sẽ phát triển theo cấp số mũ! Nó là một cuộc chuyển mình vĩ đại, một sự mở tung hoàng loạt những cánh cửa và là một cuộc cách mạng chói sáng!

Cuộc cách mạng một-cọng-rơm không chỉ đơn thuần nói về nông nghiệp và sự giác ngộ tâm linh, nó còn truyền tải rất nhiều những vấn đề quan trọng khác trong xã hội ngày nay, gợi cho bạn đọc không ít những suy tưởng và khao khát tìm hiểu, khám phá, như là: Ô nhiễm môi trường, sự quay vòng sản phẩm trong sản xuất, phát triển kinh tế bền vững, sự kiểm soát của chính phủ, tâm lý đám đông, nông nghiệp hữu cơ, cộng đồng tự cung tự cấp, văn hóa ẩm thực, v.v…

Phải nói rằng cuốn sách này quá đỗi phong phú và sâu sắc về nội dung khiến người đọc muốn hiểu cặn kẽ được một trang thôi thì cũng phải bỏ công ra tìm hiểu rất nhiều lĩnh vực khác nhau và có một sự liên kết chắc chắn giữa chúng. Việc này cũng giống như một người muốn tận hưởng được trọn vẹn một miếng cơm gạo lứt thì hắn phải kiên nhẫn nhai đi nhai lại tầm từ 70 đến 100 lần vậy!

Tuy nhiên, chính sự quá đỗi phong phú và đầy đủ của tác phẩm lại khiến tôi cảm thấy bất mãn vô cùng nếu như không nói là phát điên lên vì không còn chút đất diễn nào. Tiên sinh Fukuoka đã nói hết tất cả những gì tôi đã liên tưởng được trước đó mất rồi. Ví dụ như khi đọc đến trang 56 tôi đánh một mũi tên ra cuốn sổ tay, ghi chú về Bát Nhã Tâm Kinh thì “Bát Nhã Tâm Kinh” xuất hiện ở trang 216, đến trang 131 với sự suy tưởng về phương pháp Thực dưỡng thì “Thực dưỡng” ngóc đầu lên ở trang 168, và rồi tôi viết ra 4 chế độ ăn thường gặp của con người khi đọc đến trang 171 thì chính xác 4 chế độ ăn đó ngồi chễm chệ ở trang 190. Quả thực, lúc ấy tôi cảm thấy cực kỳ khó chịu, vứt cuốn sách lại không đọc tiếp nữa khi chỉ còn hơn hai chục trang và hục hặc lẩm bẩm trong đầu rằng: “Lão khọm già này nói hết cả phần của mình rồi còn đâu!”

Nhưng thật là hay các bạn ạ, nếu đây là cuốn sách chỉ đơn thuần về nông nghiệp thì hẳn nhiên tôi sẽ không bao giờ đọc nốt những trang còn lại vì sự bức bối sẽ chẳng làm sao mà giải tỏa cho thỏa đáng (tôi vốn rất dị ứng với những tác giả chiếm hết cả đất của bạn đọc). Tuy nhiên, cuốn sách này bản chất lại truyền tải nội dung về cuộc cách mạng trong tâm thức, nó là một lời nhắc rất khéo cho tôi về những tượng đài quan niệm và tư tưởng bên trong sẽ gây nên cảm xúc tiêu cực, bực bội khi chúng bị động chạm vào, và là một cái huých tay nhẹ nhàng để giúp tôi nhớ về tâm không-gì-cả. Vậy là chỉ mất khoảng 15 phút cho cả những phẫn nộ và cuộc “cách mạng” nội tâm của mình, tôi đã vui vẻ quay trở lại hoàn thành việc đọc. Hiển nhiên ngay trước đó tôi đã có được một tràng cười “Hế hế hế” đầy sung sướng!

Cuộc cách mạng một-cọng-rơm mang một chất giọng rất đặc biệt, là sự pha trộn giữa phong thái của một ông nông dân, một nhà khoa học, một triết gia và một thầy tu! Bạn đọc có thể chia nhỏ cuốn sách ra nhiều phần và cảm nhận từng giọng điệu ở đó để có thể thấy rõ được sự phong phú, tinh anh và trong sáng về tâm hồn của tác giả, rồi cuối cùng đặt một cái nhìn bao quát lên toàn bộ tác phẩm sẽ thấy một sự hài hòa đầy duyên dáng.

Nội dung được kết cấu theo tiến trình phát triển của cuộc cách mạng một-cọng-rơm, đi từ sự tự giác ngộ tâm linh cho đến những khó khăn vấp phải vào những ngày đầu quay trở lại với tự nhiên và cuối cùng là sự thành công trong nông nghiệp “vô vi” cùng với sự đúc kết những tư tưởng thức tỉnh của tác giả. Vậy nên khi đọc cuốn sách này, cảm xúc của tôi đi theo dạng đồ thị hàm bậc hai với hệ số a dương. Bởi vì đoạn khó nuốt nhất là đoạn chính giữa – quá trình diễn ra cuộc cách mạng. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì nó giống như một cuộc lội ngược dòng khi mà tất cả đám đông đều chạy theo những phương pháp được cho là đổi mới, tân tiến, hiện đại trong khi tiên sinh Fukuoka tuyệt nhiên đi theo con đường về với sự đơn giản nhất.

Cuộc cách mạng tâm thức của con người cũng vậy, phần khó khăn nhất là đối diện với chính mình và đi ngược với những thói quen, lần lại mọi xiềng xích trong tư tưởng, và việc này cần phải sử dụng đến một sức mạnh và sự kiên nhẫn nhất định mới có thể làm được. Vì thế mà khi đọc tới đoạn khó nuốt nhất ấy thì cảm giác rằng tôi cũng phải nỗ lực như chính tác giả vậy! Để rồi đến những chương cuối của cuốn sách, tôi mới có được cảm giác nhẹ nhõm, thư thái, giống như một kẻ đã trải qua những cuộc biến đổi để rồi khi mọi thứ thành tựu, hắn ta bình an ngồi bên bếp lửa và nhìn lại toàn bộ cuộc đời mình với một con mắt tinh tường!

Cuộc cách mạng một-cọng-rơm có đan xen những hình ảnh rất trực quan và hữu ích cho sự theo dõi của mọi người. Tuy nhiên, những kiến thức nông nghiệp trong này nếu cứ đọc dàn trải mà không cô đọng hay tóm tắt lại thì sẽ rất khó nắm bắt, thậm chí là có cảm giác bội thực. Cá nhân tôi đã thấy không tài nào nuốt trôi được cuốn sách cho tới khi buộc phải vẽ ra một sơ đồ với những từ khóa cơ bản để nhìn rõ được mối tương quan giữa các nội dung về kiến thức nông nghiệp ấy.

Một lần nữa, tôi phải khẳng định rằng, Cuộc cách mạng một-cọng-rơm không phải là thứ dành cho những người không kiên nhẫn! Sự không dễ dàng này thể hiện chức năng như một bộ lọc người đọc, có lẽ những điều giá trị là để dành cho kẻ dám bỏ công sức ra để nắm lấy, còn những ai quen thói mì ăn liền thì sẽ chỉ có thể hạnh phúc bên tô mì mà thôi. Nói đến đây, tôi cứ hình dung ra cảnh tiên sinh Fukuoka khoát tay và bảo rằng: “Hãy về với những sợi mì Omachi của bạn đi, vì đây là một bát cơm gạo lứt!”

Tuy nhiên, một điều khiến tôi cảm thấy e ngại đó là: Cuốn sách có thể đến được tay bạn đọc, nhưng khả năng nó sẽ không ở lại được lâu dài với số đông. Vì với những người thiếu kiến thức (về nông nghiệp hay tâm linh, hay cả hai) thì họ không thể nuốt trôi, rồi thành ra vứt xó cuốn sách khi còn đọc dang dở; với người cổ hủ, cố chấp thì dễ sinh mâu thuẫn và chán ghét; với người tự nhận mình là biết tuốt thì thấy cuốn sách cũng chẳng khác gì những thể loại triết lý vẫn còn đang xếp đầy trên giá. Tóm lại, một sản phẩm đậm chất buông bỏ như thế này sẽ không dành cho những người còn đầy dính mắc trong tâm trí – mà số này lại chiếm phần lớn! Thật mỉa mai khi nhận ra chính họ lại là người cần nó hơn cả!

Bây giờ là đoạn khó nhất – chấm điểm! Đặt địa vị là một kẻ đi tìm con đường khai sáng thì có lẽ tôi đã có được thứ mình cần trong cuốn sách này, đặt địa vị là một kẻ chỉ có những khái niệm cơ bản về nông nghiệp (như là nhổ cỏ, gieo hạt, bón phân, tưới nước,…) đang tìm kiếm một góc nhìn đột phá thì tôi cũng thấy phần nào đáp án và đặt địa vị là một người viết review sách tôi cũng được thỏa mãn bởi mức độ thử thách đầy hấp dẫn và những bài học đính kèm mà tác phẩm mang lại. Tôi sẽ chấm điểm 8.8/10 cho cuốn sách! Tuy nhiên nếu để giỡn chơi một chút với tiên sinh Fukuoka nếu ổng có đọc được bài viết này thì tôi sẽ cho Cuộc cách mạng một-cọng-rơm điểm 0/0!

Cuối cùng, tôi nhận thấy rằng cuốn sách không chỉ đơn thuần là cách mạng một-cọng-rơm, nó còn là cuộc cách mạng không-gì-cả. Vì từ một-cọng-rơm, tiên sinh Fukuoka đã nhìn ra toàn bộ nền nông nghiệp và từ không-gì-cả, ông đã chạm tới Tất Cả!

Không tìm, không trốn, không ngẩn ngơ.
Không khôn cũng chẳng phải dại khờ
Không vùng eo hẹp, không bát ngát.
Không rơm, không Fukukhôngka!

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

[THĐP Translation] Phải chăng nó không đáng để khám phá? – James Rhodes [Zen Pencils]















Cảm nhận của Zen Pencils 

James Rhodes là một nghệ sĩ biểu diễn dương cầm nguời Anh. Phần lớn anh tự học, Rhodes đã cho ra đời năm album được liệt vào hạng best-selling và được biết đến bởi những màn trình diễn mới mẻ bỏ qua các thủ tục thông thường và truyền thống trong nhạc cổ điển. Rhodes chưa bao giờ trình diễn trong một bộ suit, tổ chức những buổi hoà nhạc tại những địa điểm không truyền thống và mua vui cho đám đông với những câu truyện về những nhà soạn nhạc nổi tiếng và cách họ ảnh huởng đến cuộc sống của chính anh giữa những tác phẩm. Bạn có thể xem những tài năng điên rồ của anh ấy được thể hiện trong một số video trên youtube channel của anh ấy.

Đoạn văn sử dụng trong truyện này được lấy từ một bài viết Rhodes cho tờ The Guardian vào năm 2013. Nó là một trong những bài viết tuyệt vời nhất về sự thay đổi tôi đã từng được đọc và tôi khuyến khích bạn nên đọc toàn bộ nó.

Nhạc cổ điển đã thực sự cứu mạng Rhodes theo nghĩa đen. Khi còn là một đứa trẻ, anh ấy đã bị làm dụng tình dục trong nhiều năm, điều đó dễn tới Rhodes bị tổn thương cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Những vấn đề tâm lí của đã khiến Rhodes không thể lấy được học bổng tại Guildhall School of Music và anh ấy đã dừng hẳn việc chơi piano trong 10 năm. Trải qua tất cả những nỗi đau của Rhodes, âm nhạc đã là lời nguyện cầu cứu rỗi đời anh. Viết về một trong những tác phẩm của Bach anh yêu thích: “Tác phẩm đó đã trở thành nơi an toàn của tôi. Bất cứ khi nào tôi cảm thấy lo sợ (bất cứ khi nào tôi tỉnh táo) nó lại quanh quẩn trong đầu tôi. Những giai điệu của nó đã được gỡ ra, những âm thanh của nó đã được chơi đi chơi lại, thay đổi, khám phá và thử nghiệm. Tôi lao vào bên trong nó như thể nó là một loại mê cung âm nhạc và đi lang thang xung quanh tận hưởng lạc lối trong hạnh phúc. Nó đã giúp tôi mãi mãi, không có nó tôi có lẽ đã chết nhiều năm về truớc, tôi không có một chút nghi ngờ nào cả.”

Trong suốt những năm xa cây đàn dương cầm, Rhodes đã làm một công việc doanh nghiệp mà anh ấy đã thấy rất khổ sở. Về quyết định cuối cùng rằng anh sẽ bắt đầu chơi đàn trở lại: “Chỉ khi nỗi đau của việc không thực hiện nó trở nên lớn hơn cả nỗi đau tưởng tượng của việc thực hiện nó, thì lúc đó tôi mới bằng cách nào đó tìm ra được lòng can đảm để theo đuổi cái tôi thực sự muốn và đã bị ám ảnh kể từ khi lên bảy – trở thành một nghệ sĩ biểu diễn duơng cầm.”

Dịch: @Tieu_Long 

Review: @lx_production 

Photoshop: @sadiepices