16.6 C
Da Lat
Thứ Hai, 25 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 116

Nếu ngày mai tôi chết

0

Nằm dài trên giường, đến việc trở mình thức dậy uống một ly nước cũng cảm thấy quá khó khăn. Hôm nay là ngày gì mà cả bầu sống thu gọn qua ô cửa sổ đã đóng kín, ngăn ánh nhìn ra bên ngoài. Mình còn biết làm gì hơn đây ngoài việc nhìn trân trân vào bức tường. Ôi sao có lúc mình buồn chán thế này.

Nếu ngày mai mình chết, di chúc cuối cùng để lại cho những người mình yêu thương là gì? Để lại gì cho gia đình và cho đời? Mình không cần phải khuếch đại tất cả chúng lên bởi lẽ mình nào có gì hiện hữu gía trị mà gửi tặng lại họ chứ? Mình chỉ là một kẻ vô sản, đã được nhận quá nhiều đặc ân từ cuộc sống mà vẫn chưa có cơ hội đáp trả.

Nếu ngày mai mình chết, còn đây là lần cuối cùng mình còn được nói, mình sẽ nói gì bây giờ đây? Mình có muốn gửi lời xin lỗi đến những kẻ tội nghiệp đã trót ngây dại tin yêu mình để giờ đây mình lạnh lùng ra đi như một sự phản bội. Mình có muốn nói lời cám ơn đến gã lữ hành đã ghé chân dừng lại ngang qua nhà  để kể cho mình nghe thật nhiều phép màu chỉ có trong cổ tích. Ôi cuộc sống này mình vẫn còn quá nhiều nợ nần mà sao mình đành giũ áo ra đi.

Nếu ngày mai mình chết, công ơn sinh thành còn đó chưa kịp đáp trả, giấc mơ còn đó mình còn chưa trọn câu ước nguyện, quyển sách dang dở vẫn còn bỏ ngỏ chưa ai một lần đọc qua. Ôi nếu ngày mai mình chết, sao trả hết được tất cả mà nhẹ nhàng buông xuôi.

Mình còn lại gì giữa đời sống nhân gian này? Mình chỉ có sự chân thành?

Mình đã chẳng cần gì hơn nữa ở cuộc sống này ngoài sự chân thành phải cho nhau. Mình không muốn lấp đậy chúng bằng son phấn. Cuộc đời mình đã mải miết ngồi viết những điều ấy, như một dòng suối chảy âm thầm. Mình không biết là đã viết ra cho ai đọc, hay là viết cho chính mình. Một cuộc đời ngồi viết không tiền nên nghèo xơ xác.

Những ngày tuyệt vọng đã qua vì thứ mình viết ra không ai thấu hiểu. Mình chỉ mong một ngày nào đó có người sẽ hiểu hơn về mình, về cuộc đời của một người viết sách yêu tự do và sự chân thành. Mình còn mừng một điều, trong những cơn buồn dai dẳng thường trực, mình còn có được tự do, tự do ngồi viết những điều ý nghĩa và làm tròn đầy cho nó bằng các câu văn của mình.

Những áng mây của cuộc đời người con gái đã trôi qua, cuộc sống thực tế đã lấy đi tất cả, nhưng mình  ngang nhiên kiêu hãnh vì mình vẫn còn đủ dũng cảm để viết lên một đời sống thực tế, đó là tất cả những gì đẹp đẽ nhất còn lại trong cuộc đời mình.

Mình không còn muốn sống nhưng cũng chẳng muốn tự tử. Chết đi thì được gì nào? Vậy nên mình sẽ làm một con ma đói ở giữa nhân gian. Mình cần một chút Đà Lạt để được sống, xin cho tôi một chút Đà lạt. Mình cần một chút Đà Lạt se lạnh, trùm mềm quá đầu mỗi đêm rét, đốt lên một điếu thuốc và vay mượn một chút bình an.

Mình cứ nghĩ mãi về con đường đất đỏ dẫn lối vào quả đồi nơi mình sống, nghĩ mãi về ông già vẫn đẩy xe rùa mỗi chiều chở cỏ về cho bò ăn luôn tươi cười hỏi thăm mỗi khi trông thấy mình lang thang một mình trên đồi. Mình nhớ tiếng mưa rơi lộp độp trên mái tôn mà mình vẫn chăm chú lắng nghe mỗi khi cơn mưa đổ. Những lá thư viết vội trong quán vắng cà phê chỉ để gửi vào nỗi nhớ hư vô. Mình đã gặm nhấm nỗi cô đơn đó trong từng ngày tháng đơn độc đã qua và bây giờ vẫn tiếp tục nỗi nhớ da diết đó về một Đà Lạt mà mình đang phải cách xa.

Huế đã đổ mưa rất lớn sau bao ngày nắng nóng kéo dài triền miên, và để ăn mừng cho chuyện đó, mình đã mặc áo mưa chạy lòng vòng khắp các con đường với khao khát uống trọn cả cơn mưa. Có lẽ Huế vẫn buồn muôn thuở, giống như  mình. Ở đây mình chẳng còn nhìn thấy gì ngoài đôi mắt người tình xưa vàng vọt bơ vơ. Mình cần một đôi mắt với một màu khác của chàng trai đêm nào ngồi gãy đàn cho mình hát. Mình thèm một hơi ấm bên ánh lửa anh đã đốt lên.

Mình làm gì để sống bây giờ? Mình không đòi hỏi gì hết mà vẫn cứ thấy mình tham lam. Mình chỉ cần một cây bút, một tờ giấy tinh khôi để có thể viết kín lên đó. Mình cũng cần một điếu thuốc, ôi mấy hôm nay không có lấy một điếu cho vào phổi và thậm chí mình đã vô tâm đến mức lãng quên người bạn thân thiết. Thật là có lỗi, mình đúng là bậy bạ. bậy bạ hết sức. Làm sao mình có thể quên đi người tình bao đêm chăn nồng đầu gối tay ấp.

Mấy hôm nay là ngày gì mà thấy chẳng khác gì hỏa ngục? Mình không bao giờ sống bình thường được. Sung sướng thế này, ăn ngon, mặc đẹp. Xung quanh mọi người khiến mình cười tươi kiểu này thì làm sao mình sống được?

Hạnh phúc thế này mình chẳng viết được gì ra hồn. Viết văn đối với mình chẳng khác gì việc sống mỗi ngày, muốn làm gì thì cũng phải tự nhốt mình vào mấy câu chữ. Nhưng giờ chỉ là sự lặp lại của việc ăn ngủ vui cười. Cuộc rượt đuổi giữa mình và những câu chữ, ôi đau đớn thay là cái xác chết vẫn cứ nằm chình ình ra đấy chẳng chịu biến khuất mắt. Giờ bắt mình bịt cái khăn trắng trên đầu ngồi canh xác chết, trông chừng mấy gã loạng choạng đang bước đi lảo đảo xung quanh cỗ quan tài. Mình cũng muốn biến mình thành cái xác nằm trong cỗ quan tài.

Mình đang muốn viết gì thế này? Mình không biết nữa? Thực sự hôm nay mình không còn muốn viết nữa. Không còn muốn sống nữa. Không còn muốn tự tử nữa. Mình không sợ chết. Nhưng giờ cũng sợ chết.

Đời có người khôn kẻ dại, nhưng xin đời đừng biến mình thành kẻ ngu muội u mê, đừng để nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy linh hồn. Ôi cuộc đời tôi van xin người. Ngày mai tôi vẫn còn muốn thức giấc.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: darkmoon1968

Tôi đã chán ngán việc tranh luận

0

Thật khó dung thứ cho những kẻ tri thức rởm. Bạn muốn bảo vệ lý lẽ bạn đã luôn tin tưởng, vì thế bạn bắt đầu bước vào cuộc tranh luận. Bạn cần một cuộc tranh luận thích đáng để thánh hóa tất cả mọi sự. Kinh nghiệm tranh luận đã giúp tôi rút ra được một số nguyên tắc căn bản để tôi bắt đầu bước vào cuộc tranh luận.

Đó là chuyện dẹp bỏ sĩ diện và không còn quan trọng hơn thua. Đừng bao giờ tạo ra những kiểu bất công bình như tôi hậu bối nên phải nghe lời bậc tiền bối. Anh là người có tiếng nói trước đám đông nên lời anh nói phải là chân lý… Đừng làm tôi phải điên tiết khi phải cắn họng ngậm lời bởi những lý lẽ vô nghĩa. Đừng mang những lời lẽ vớ vẩn không liên quan của anh vào để phức tạp hóa vấn đề và khiến cho cuộc tranh luận trở nên rối ren. Đừng bao giờ tranh luận với lý sự cùn và kiến thức vay mượn từ lời đồn đại chốn giang hồ. Tôi không muốn cãi nhau với những con cua cùng lý lẽ hời hợt. Nếu chưa hiểu rõ vấn đề thì đừng sớm vội lên tiếng. Đừng mang gia đình cha mẹ họ hàng tổ tiên của tôi đặt lên bàn thờ và khạc nhổ vào họ những lời lẽ thô tục. Anh có thể vô văn hóa nhưng xin đừng làm dơ bẩn.

Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra tôi không cần cố gắng để thuyết phục người khác tin vào những điều mà họ không muốn tin. Vì liệu đó có phải là một điều tốt để làm?

Tôi đã nghĩ gì khi tranh luận? Thể hiện sự vượt trội về trí tuệ của mình với người khác? Dùng lý lẽ để bắt ai đó từ bỏ tình cảm hay thay đổi trải nghiệm của họ? Tôi biết rằng thích hay ghét một vấn đề luôn chỉ nằm ở tính chủ quan nhưng tôi lại không thể chấp nhận việc người khác tin yêu vào điều trái ngược, tôi có đi vào cuộc tranh luận với mục đích áp đặt?

Chúng ta luôn nói về chân lý, nhưng kẻ đi tìm chân lý  phải là kẻ có cái nhìn khách quan. Và nếu tôi bảo rằng tôi rất khách quan trong tất cả các cuộc phán xét, thật ra tôi cũng chỉ đang bảo vệ cái chủ quan riêng tôi.

Khi chúng ta bắt đầu bước vào tranh luận, mối hận thù và lòng khao khát đã bắt đầu nung nấu tâm can. Tôi không đủ vĩ đại để không mong muốn một chiến thắng về cho chân lý của mình. Vậy thì phải đủ cao đại để thừa nhận chúng.

Thừa nhận mình đã luôn ngụy biện tranh luận là một cơ hội để học hỏi, và thôi dùng chiêu kế hèn bẩn để đối phương phải điên tiết lên? Không thiếu người tỏ ra cao thượng bỏ cuộc giữa chừng vì cho rằng đối phương không đủ trình độ đẳng cấp để tranh luận. Hoặc dùng lời xúc phạm và mỉa mai. Tôi biết rằng làm hạ nhục người khác cũng chẳng khiến tôi cao nhã hơn. Sỉ nhục người khác không chứng tỏ tôi đang đúng.

Tôi biết tôi muốn chiến thắng kẻ thù, cương quyết phải đánh trận chiến này, cho những lý tưởng của tôi. Nhưng nếu tư tưởng của tôi thất trận thì mọi sự sẽ ra sao? Lòng liêm khiết có hát bài ca khải hoàn trong cuộc thất bại?

Chúng ta là những chiến sĩ tri thức. Chúng ta khoác lên mình một thứ đồng phục gọi là tri thức. Dùng chúng để bảo vệ cho chúng ta. Nhưng thật tiếc thay những gì che giấu dưới bộ đồng phục đó, nó chưa bao giờ đồng hình được với nhau. Anh nói nam tôi nói bắc, anh nghĩ nên rẽ phải thì tôi lại muốn rẽ trái. Chúng ta có phải là đồng minh?

Chỉ khi nào tôi phải là một kẻ có đôi mắt luôn tìm kiếm chân lý, chứ không phải là lòng hận thù, cái tôi ti tiện bé nhỏ. Thoạt nhìn sẽ rất khó phân biệt được ranh giới, đó là một khoảng cách mong manh và tôi phải thật thông thái thì mới có thể nhìn ra.

Đã vậy, dù có dành phần thắng trong cuộc tranh luận thì đó cũng chỉ là cảm giác làm cho đối phương đuối lý để tận hưởng chiến thắng? Dù gì thì đó cũng là điều vô ích. Tôi không bao giờ đủ cao thượng để xem những kẻ tranh luận cùng mình là đồng minh. Không thể có những đồng minh cùng chiến đấu bảo vệ cho hai lý tưởng.

Đó là quan điểm của tôi, còn nếu bạn yêu quý những cuộc tranh luận. Vậy thì phải chăng các bạn phải yêu hòa bình như một phương tiện. Tôi không khuyên các bạn ngừng tranh luận. Nhưng tranh luận thế nào mới gọi là văn minh, để cuộc tranh luận đó không phải chỉ ba hoa ồn ào và cãi cọ lăng nhăng. Tranh luận thế nào để vốn kiến thức phong phú của mình không biến thành sự hổ thẹn.

Càng ngày, tôi càng muốn chấp nhận mình là người thua cuộc. Hèn yếu trong sự im lặng. Bởi lẽ sự khắt khe cũng chỉ là những điều dối trá. Tôi muốn cố gắng tôn trọng sự khác biệt nhưng không có nghĩa là tôi đang thờ ơ với chân lý.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: pixabay

[THĐP Translation] 10 điều bullshit nhiều người theo đuổi “tâm linh” dễ mắc phải (Phần 2/2)

5

tumblr_inline_nx4fu1budQ1s09z1b_1280

>> [THĐP Translation] (Phần 1) 5/10 điều bullshit nhiều người theo đuổi “tâm linh” dễ mắc phải

6. Cường điệu hóa “sự tích cực” để né tránh những vấn đề trong cuộc sống của họ và thế giới

Phong trào “tích cực” đã bùng nổ tại các nước phương Tây những năm gần đây. Mạng Internet tràn ngập những bài viết, memes, lặp đi lặp lại thông điệp sáo rỗng: “Suy nghĩ tích cực!” “Just be positive!” “Đừng tập trung vào mấy chuyện tiêu cực!”

spiritualbypassing4
20 triệu người chết mỗi năm vì đói nghèo trên hành tinh cô ta – “Just stay positive, Fam!! Namaste <3”

Tư duy này quên mất một điều quan trọng: Những góc tối của thế giới sẽ không tự nhiên biến mất chỉ vì chúng bị ngó lơ. Thực tế là nhiều vấn đề từ vi mô đến vĩ mô sẽ càng tệ hơn, phức tạp hơn khi chúng bị trì hoãn.

Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta nên gánh vác trách nhiệm cứu thế giới trên vai mình và luôn cảm thấy bất lực, nặng nề, chán nản. Thật ra thì theo nhiều chỉ số quan trọng, thế giới đang khá hơn mỗi ngày, nhận ra điều này để có cảm giác lạc quan là một thái độ lành mạnh. Tuy nhiên, chúng ta cần phải cân bằng giữa sự lạc quan đó và thái độ sẵn sàng đối mặt với những khó khăn thật sự trong cuộc sống của mình, của cộng đồng, và thế giới.

7. Kiềm nén những cảm xúc không phù hợp với những đạo lý “tâm linh” của họ

“Không đời nào, tôi không thể nào bị trầm cảm hay cô đơn hay sợ hãi hay lo lắng. Tôi rất yêu cuộc sống, và tôi quá [thông tuệ/anh minh/giác ngộ] để cho phép những thứ này xảy ra.”

Tôi vấp phải vấn đề này khi tôi di chuyển đến Hàn Quốc để làm một giáo viên Anh ngữ trong một năm. Tôi đã nghĩ rằng mình đã đạt đến được đẳng cấp chill bất khả lung lay theo phong cách vô vi của Lão Tử, cứ “thuận theo tự nhiên”, như một cái phao bập bềnh giữa những con sóng của định mệnh.

spiritualbypassing9
Thật sự cảm thấy sợ hãi và tức giận – Giả vờ như không sợ hãi và tức giận bởi vì nó không tâm linh

Rồi tôi gặp phải những cú sốc văn hóa, nỗi cô đơn khủng khiếp, và cảm giác nhớ nhà sâu sắc, và tôi đã phải thú nhận với chính mình rằng tôi chẳng phải là một bậc thầy về Zen (Thiền tông) hay gì cả. Nói đúng hơn là tôi biết khả năng “thuận theo tự nhiên” và chấp nhận mọi thứ xảy đến với mình là một đạo lý luôn có giá trị, nhưng đôi khi điều đó sẽ có nghĩa là chấp nhận thành thật với cảm xúc của mình. Chỉ khi tôi biết thành thật với bản thân tôi mới có thể nhìn rõ được sự thật trong những trải nghiệm, hoàn cảnh và có trách nhiệm giải quyết chúng.

8. Cảm thấy căm ghét bản thân khi những góc tối trong người bộc lộ

Tôi nhận ra được việc này trong chính mình không lâu sau khi biết về khái niệm né tránh tâm linh. Việc tự cho mình là người trí tuệ đã giác ngộ được những chân lý “cao hơn” đã gây ra một sự méo mó khủng khiếp trong nhận thức của tôi. Tôi trách móc phê phán bản thân, cảm thấy tủi nhục hổ thẹn mỗi khi có một hành động thiếu đức hạnh.

Khi bạn bắt đầu có xu hướng tâm linh, rất dễ thần tượng những người như Đức Phật hoặc Đạt Lai Lạt Ma, và nghĩ rằng những người này hoàn hảo, luôn hành động trong ý thức tuyệt đối và từ bi. Thực tế thì việc này hầu như không phải. Thậm chí rằng nếu như thật sự có những người đã đạt đến một trình độ siêu việt, luôn hành động đúng trong mọi hoàn cảnh, chúng ta cần nhìn nhận rằng con số đó cực hiếm.

Thực tế mà nói, chúng ta là những con người dễ sa ngã, và chúng ta sẽ phạm nhiều sai lầm. Nhiệm vụ gần như là bất khả khi để sống một vài tuần mà không vi phạm một sai lầm nào, có thể chỉ là những sai phạm nhỏ nhặt. Nhìn rộng ra nhiều năm, sẽ có những sai lầm lớn. Nó xảy ra với mọi người, không sao. Tha thứ bản thân. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là rút kinh nghiệm từ những sai lầm và không bao giờ ngưng cố gắng.

spiritualbypassing10

9. Rơi vào những tình huống xấu vì tin người quá mức và không có trực giác nhìn người

Đây là tôi, 100%. Trong một thời gian dài, tôi luôn giữ quan niệm rằng mỗi người đều xứng đáng được đối xử bằng tình thân ái và tử tế. Cho đến giờ tôi vẫn không phản đối ý tưởng đó, nhưng tôi đã nhận ra rằng có nhiều trường hợp tôi tạm thời cần phải cân nhắc đến những yếu tố khác chứ không phải chỉ biết mặc định dùng lòng từ bi đối xử với mọi người.

Khi sống ở những nước khác, tôi đã rơi vào nhiều tình huống nguy hiểm đến tính mạng bởi vì tôi đã quá cả tin những người tôi không biết, hoặc đối xử tốt với những kẻ khả nghi. May thay tôi vẫn chưa phải vào nhà thương lần nào, nhưng tôi đã bị cướp và lừa gạt vài lần. Lúc đó tôi đã tin rằng bản chất họ là những người “tốt” và cũng sẽ đối xử tốt với tôi nếu tôi đối xử tốt với họ. Tư duy này cực kì ngây thơ, và tôi đã hiểu được rằng trong một số hoàn cảnh thân thiện không phải là câu trả lời.

spiritualbypassing11
Tin rằng tình yêu là tất cả – Bị cướp ở Thái Lan vì tin người lạ

Một sự thật đáng buồn là đại đa số mọi người trên thế giới này vẫn còn phải vật lộn mưu sinh kiếm sống. Rất nhiều người đã lớn lên từ nghèo khổ, môi trường đầy tội phạm, và họ chỉ học được rằng cách duy nhất để sống sót là săn những con mồi yếu hơn. Tôi cho rằng ít nhất 51% dân số trái đất không có tư duy kiểu này, nhưng nếu bạn đi đến một thành phố hay đất nước còn kém phát triển, nghèo khổ còn tràn lan, bạn nên biết được những phương án phòng thủ cơ bản như:

  1. Không đi một mình khi trời đã tối.
  2. Hạn chế đến những nơi vắng vẻ.
  3. Đừng dừng lại và tiếp xúc với những người muốn bán cái gì đó.
  4. Quan sát hành vi của những người mình tiếp xúc xem họ có như đang bị drug ảnh hưởng không, có tỉnh táo, nhây lì, nguy hiểm không…

10. Hoàn toàn bác bỏ khoa học

Nhiều người trong cộng đồng tâm linh có khuynh hướng phản bác khoa học, anti-science; tôi nghĩ đây là một chuyện đáng xấu hổ. Họ bác bỏ khoa học vì những niềm tin và phương pháp tu tập được người khác cho phản khoa học, unproven. Unproven hay pseudoscience chỉ có nghĩa là nó chưa được xác thực thông qua các thí nghiệm có thể lặp lại trong phòng lab. Không có nghĩa rằng nó không đúng hay không có giá trị.

spiritualbypassing12
Nổi giận khi có người nói rằng luật hấp dẫn chỉ là ngụy khoa học – Cho rằng mọi thứ khoa học đều bullshit và có thể ném vào thùng rác

Phương pháp khoa học (Scientific method) là một trong những công cụ tốt nhất chúng ta có để hiểu về cách vận hành máy móc của vũ trụ khả quan; nó cho phép chúng ta khám phá ra được những bí ẩn trong sinh học, quan sát được nhiều thứ cách xa trái đất tỉ năm ánh sáng, kéo dài mạng sống của loài người, và vô vàn lợi ích khác… Hoàn toàn bác bỏ khoa học là chúng ta đã mất đi một trong những lăng kính quyền năng nhất cho việc thấu hiểu thực tại.

spiritual-bypassing3
Probably our most badass tool for understanding existence. [Wiki]
Như Carl Sagan1 đã nói rất hay (tạm dịch):

“Khoa học không những tương thích với tâm linh, nó còn là một nguồn mạch sâu thẳm của tâm linh. Khi chúng ta nhận ra vị trí của mình trong sự vĩ đại được tính bằng năm ánh sáng và trong sự chuyển dời của thời đại, khi chúng ta nắm bắt sự tinh vi, cái đẹp và tinh tế của sự sống/cuộc đời, thì cảm giác vút tận trời cao, cảm giác phấn khởi kết hợp với sự khiêm hạ, nó chắc chắn mang yếu tố tâm linh. Cũng như cảm giác của chúng ta trước nghệ thuật đỉnh cao hay âm nhạc hay văn chương, hay những hành động can đảm vô ngã vì tha nhân của những người như Mohandas Gandhi hay Martin Luther King Jr. Ý niệm cho rằng khoa học và tâm linh loại trừ, xung khắc với nhau chỉ gây tổn hại cho cả hai.”

1 Carl Edward Sagan (9 tháng 11 năm 1934 – 20 tháng 12 năm 1996) là nhà thiên văn học, vật lý thiên văn, vũ trụ học, sinh học vũ trụ, tác giả sách, nhà phổ biến khoa học và là nhà phát ngôn khoa học người Mỹ. Đóng góp quan trọng nhất của ông là cho việc khám phá nhiệt độ bề mặt rất cao trên Kim Tinh. Tuy nhiên ông lại được biết đến nhiều nhất trong những nghiên cứu khoa học về sự sống ngoài Trái Đất, bao gồm cả việc chứng thực thí nghiệm tạo amino acid từ các chất hóa học cơ bản nhờ phóng xạ. Sagan đã thu thập những tin nhắn đầu tiên để gửi vào không gian: tấm thông điệp Pioneer và đĩa ghi âm vàng Voyage, các lời nhắn được gắn trên các con tàu vũ trụ để phòng trường hợp người ngoài Trái Đất có thể tìm thấy và xem chúng. (Wiki)

Tác giả: Jordan Bates

Phóng dịch: In Ra
Edit: Triết Học Đường Phố

Featured image: Activedia

Tại sao tất cả chúng ta đều được giáo dục như nhau?

Chào các bạn, đầu tiên mình xin chúc mừng các bạn đã thi xong một kỳ thi khá là quan trọng (mặc dù nhiều bạn ngày mai mới xong), ít nhất là cho đến tại thời điểm bây giờ của các bạn, và, cũng chào mừng các bạn đến với một thế giới… tự do hơn.

Chắc hẳn trong các bạn đã từng một lần suy nghĩ về lý do của việc học những môn toán, lý, hóa, sinh. Và rồi trong số các bạn hầu như cũng sẽ quên sạch sẽ những định luật, định lý của các môn học này. Vì vậy, hôm nay mình hy vọng chia sẻ được đôi điều suy nghĩ của bản thân với các bạn.

Mình hay tưởng tượng rằng khoa học như là một gã mập khổng lồ lười biếng, được cho ăn liên tục nhưng mỗi lần ăn rất ít, và sự lớn mạnh của chàng mập này chắc chắn không phải ngày một ngày hai mà thấy được. Cũng giống như việc các bạn đút cho đứa trẻ một muỗng cháo, xong lại hét lên không hiểu đút cho nó ăn chén cháo này để làm gì, vì đút xong có thấy nó lớn lên miếng nào đâu, vậy thôi khỏi cho nó ăn nữa?! Các bạn thấy cái phát biểu kiểu như vậy rất là vớ vẩn, đúng không? Bởi vì khoa học là một sự tiếp nối vô cùng nhỏ nhặt, và vì trí tuệ của mỗi người là có hạn, vậy nên người này mới nối tiếp người kia, cùng nhau bón cho gã khổng lồ háu ăn kia một chút, để hy vọng một ngày gã ta lớn lên, thì loài người sẽ sử dụng được sức mạnh phi thường của gã. Vậy nên không dễ gì mà các bạn có thể liên hệ ngay được những điều mình học với những ứng dụng mà nó tác động và ảnh hưởng lên đời sống.

Trong lịch sự phát triển của khoa học, nếu không có nhà vật lý thiên tài Isaac Newton thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ có bộ óc siêu phàm của Albert Einstein, không có người phát minh ra pin điện Alessandro Volta thì cũng có thể sẽ chẳng có các nhà khoa học vĩ đại như Humphry Davy hay Michael Faraday, cũng như nếu không có nhà vật lý Henri Becquerel thì ắt hẳn sẽ không có người phụ nữ đoạt cả hai giải Nobel Marie Curie. Tất cả những nhà khoa học trên thế giới này đều bắt đầu những nghiên cứu của bản thân từ những công trình của người đi trước, để phát hiện ra những hạn chế còn tồn tại, rồi đi tiếp, mở mang, khai phá với hy vọng sẽ ứng dụng những công trình khoa học vào trong cuộc sống, mà đôi khi ngay tại thời điểm đó, chính bản thân các nhà khoa học này cũng chưa biết ứng dụng những nghiên cứu của họ vào việc gì, và đôi khi họ nghiên cứu chỉ vì tính tò mò cố hữu của loài người. Ví như nhà nữ khoa học Marie Curie nghiên cứu về phóng xạ vậy, bà có biết là sau này nó sẽ được sử dụng trong lĩnh vực y học và hàng không vũ trụ đâu, nhưng bà vẫn nghiên cứu đấy thôi, vì bà tin rằng trong tương lai sẽ có người tiếp tục nghiên cứu của bà, và ứng dụng được những giá trị nghiên cứu này trong cuộc sống. Bà thậm chí còn từng đem lọ đựng rađi ra ngắm cái ánh sáng mê hoặc chết người của nó vào mỗi đêm mà không màng hay chính xác là không hề hay biết về tác hại của phóng xạ. Vậy nhưng bà vẫn làm, vẫn nghiên cứu, vẫn say mê.

Vậy chúng ta học để làm gì?

Nếu đem toàn bộ lịch sử Trái Đất gói gọn lại trong vòng 24h của một ngày, thì chúng ta, con người hiện đại – sinh vật đang tự cho mình là chủ nhân của Trái Đất, chỉ mới xuất hiện vào lúc 23 giờ 59 phút 56 giây, chỉ 4 giây cuối cùng trước khi qua ngày mới. Đúng vậy, chỉ 4 giây, nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cả hành tinh. Vậy, bạn có biết trong 4 giây đó, con người đi xa được như vậy là nhờ cái gì không? Đó là nhờ sự chia sẻ, điều này đã, đang và sẽ tiết kiệm thời gian rất nhiều cho loài người.

Một cách gần gũi nhất, nếu với bộ óc của Giáo sư Ngô Bảo Châu mà để cho ông tự đi tìm tòi những điều cơ bản của toán học, để mặc cho ông tự tìm ra những phép vi phân, tích phân rồi ứng dụng nó vào công trình nổi tiếng đạt giải thưởng Field của mình, thì liệu thời gian để hoàn thành tất cả là bao lâu? Câu trả lời sẽ là hàng trăm năm! Bật mí cho các bạn một chút, nhà vật lý học nổi tiếng Isaac Newton chính là người đã hoàn thiện phép tính vi phân, tích phân, từ những thập niên cuối cùng những năm 1600. Vậy rõ ràng, những năm tháng khi học THPT, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã tiết kiệm được hàng trăm năm trời để tích lũy được một kiến thức vô cùng quý báu đó.

Một ví dụ khác trong hóa học, các bạn có biết là đã có một thời kỳ người ta cho rằng oxy có trong mọi thành phần của axit? Chữ “oxy” có nghĩa là “tạo ra axit” là vì vậy. Và cái tên gọi này xuất phát từ nhà hóa học nổi tiếng người Pháp Antoine Lavoisier, người được mệnh danh là một trong bốn vị cha đẻ của nền hóa học hiện đại, những bậc vĩ nhân đã tách bỏ chiếc bóng tối u ám và nguyên thủy của thời kỳ giả kim thuật ra khỏi ngành khoa học còn rất non trẻ này. Trong khi các bạn học sinh phổ thông bây giờ thì dư sức biết được rằng axit là phải có hiđro, chứ không phải là oxy (ví dụ như HCl là một loại axit, chứa hiđro mà không chứa oxy). Và thật trớ trêu khi cái tên “hiđro” cũng chính do ông tổ hóa học Antoine Lavoisier đặt tên thì lại có nghĩa là “tạo ra nước” chứ không phải là “tạo ra axit”. Vậy đó, để đọc được một kiến thức, hiểu được một lý thuyết, biết được một sự thật nhỏ xíu trong phút chốc, chúng ta phải biết ơn cả trăm năm tìm tòi và nghiên cứu của các bậc tiền nhân. Vậy, mục đích đầu tiên của việc học, là để tiết kiệm thời gian.

Vậy tại sao chúng ta không gom những học sinh giỏi lại rồi dạy cho họ học? Tại sao lại bắt tất cả học sinh đều học những thứ vốn không phải là thế mạnh của mình?

Bạn có biết trong một lần phóng tinh, con đực phóng bao nhiêu tinh trùng vào con cái không? Ở loài người là hơn 20 triệu tinh trùng! Vậy bao nhiêu tinh trùng gặp được trứng? Hầu như chỉ có một. Cho nên nếu bây giờ bạn hỏi lại câu hỏi với hàm ý như ở trên, thì câu hỏi đó sẽ là “sao chúng ta không lựa chọn những tinh trùng ưu việt, khỏe mạnh rồi cấy nó vào con cái?”.

Tất cả chúng ta đều được giáo dục như nhau là vì chúng ta đang mong muốn tạo ra cơ hội để ai ai cũng có được một nền tảng trí tuệ như nhau, để sau này khi đã có một nền tảng, sẽ tiếp tục tìm tòi và nghiên cứu, đóng góp cho nhân loại, đút được một muỗng cháo nho nhỏ nào đó cho gã khổng lồ mang tên là khoa học. Giáo dục đang tạo ra sự bình đẳng cho tất cả mọi người, để ai cũng có thể được quyền bón cho gã khổng lồ đó. Tuy nhiên, chắc chắn là phải có nền tảng cơ bản rồi thì con người ta mới dám bón cho gã khổng lồ ăn, chứ giả như đưa cho một người tay ngang, thay vì đút cháo vào miệng thì lại đổ vào lỗ mũi, hay như thay vì đút cháo, lại đi đút shit chẳng hạn, há chăng chẳng phải tai hại hơn sao? Đó là lý do mà tại sao các bạn đều được đi học, vì đó là quyền bình đẳng mà các bạn đều có, đó cũng chính là mục đích thứ hai của việc học. Vì vậy, đừng bao giờ từ bỏ quyền lợi này của mình, hãy nhìn xuống một xíu để thấy rằng vẫn còn nhiều bạn bè khác không được may mắn như các bạn, luôn khao khát được hưởng đặc quyền này như các bạn!

Có một thí nghiệm về năm con khỉ được nhốt vô một cái chuồng, trong chuồng có một quả chuối. Tạm gọi năm chú khỉ này là A, B, C, D, E. Người ta sẽ xịt nước vào cả năm chú khỉ nếu có bất kỳ một chú khỉ nào trong năm chú khỉ này chạm vào quả chuối. Sau vài lần cả bọn bị xịt nước, chúng dường như lờ mờ hiểu ra rằng đừng nên tơ tưởng gì vào quả chuối ấy. Lúc này, chú khỉ A sẽ được thay ra, một chú khỉ F nào đó mới toanh sẽ được đưa vô chuồng. Và người ta nhận thấy khi chú khỉ F tội nghiệp kia chẳng hiểu chuyện gì, cứ vô tư tiến lại cầm quả chuối thì ngay lập tức bị cả đàn còn lại vây đánh. Cứ thế, người ta thay dần chú khỉ B, rồi C, rồi D và E bằng những chú khỉ mới toanh khác. Bây giờ trong chuồng chả còn chú khỉ nào từng bị xịt nước cả, nhưng cả bọn đều không ai dám chạm vào quả chuối, và cả bọn đều vây đánh bất cứ cá thể nào dám đụng vào quả chuối, mặc cho chả hiểu tại sao.

Có đôi khi, chúng ta đã cư xử như những chú khỉ này vậy.

Vì mỗi chúng ta đều được sinh ra và lớn lên với sự tương tác thế giới bên ngoài khác nhau, mỗi người lại có cấu tạo cơ thể và quá trình phát triển khác nhau, cũng như có những môi trường sống khác nhau, cho nên mỗi người trong chúng ta đều có những ưu nhược điểm khác nhau, chỉ khi đặt vào trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, thì những ưu điểm đó mới được bộc lộ và phát huy. Đâu có nghĩa những tinh trùng khỏe mạnh nhất mới đến trứng đầu tiên, cũng đâu có nghĩa đến trứng đầu tiên thì sẽ chui được vào trứng. Cũng như vậy, đâu phải các bạn học giỏi thì sẽ đậu Đại học, không giỏi thì sẽ rớt, cũng như đâu phải học giỏi ở phổ thông thì học cũng giỏi ở Đại học, rồi cũng không chắc là học giỏi ở Đại học lại ra trường đúng hạn, rồi thì ra trường đúng hạn cũng chưa hẳn kiếm được việc làm tốt, kiếm được việc làm tốt lại chưa hẳn lại hạnh phúc, vân vân và mây mây. Nói tóm lại, không phải vì các bạn không giỏi là các bạn dở. Các bạn dở là do người ta đánh giá các bạn dở, theo cái cách mà người ta đánh giá. Vậy lấy gì để khẳng định cái cách mà người ta đánh giá các bạn là đúng? Chả có gì cả, ngoài trừ số đông.

Người ta thấy rằng số đông ai cũng làm như vậy, và làm được như vậy, nên nghĩ rằng nếu bạn không làm được như vậy thì bạn là dở. Người ta nhầm rồi. Bạn hoàn toàn khác. Bạn là một thực thể duy nhất, bạn không có bản sao trên Trái Đất này, và có lẽ là cả vũ trụ này. Vậy nên đừng để người khác đánh giá bạn qua cái cách mà họ muốn. Đừng là những con khỉ! Tuy nhiên, vì hầu như các bạn đang còn là học sinh thì đành phải chịu thôi, chắc chắn rồi theo thời gian, giáo dục sẽ phát triển theo cách hiện đại hơn thì hy vọng cách đánh giá cũng sẽ thay đổi theo. Còn bây giờ, khi buộc phải chấp nhận làm một con cá để người ta đánh giá qua khả năng leo cây, thì, chúng ta phải làm gì? Mình nghĩ là các bạn cần thích nghi, số đông các bạn nên cần sự thích nghi.

Giống như các bạn từng thấy, có những người chơi đánh bài rất giỏi (đừng nghĩ là bài bạc đỏ đen, nó là cả một ngành khoa học về xác suất đấy, trừ khi bạn dở toán thì mới đen thui thôi), là vì họ nắm rất tốt các luật lệ chơi bài, biết nhìn nhận, ghi nhớ những quân bài đã ra của từng đối phương, tính toán xác suất bài còn lại trên tay mỗi người, từ đó có chiến thuật chơi hợp lý. Giống như các bạn thấy một ông chủ doanh nghiệp nghiên cứu thị trường, biết thị trường cần gì, khi nào mua, khi nào bán để thu được lợi nhuận tối đa. Vậy học toán, lý, hóa, sinh cũng giống vậy. Hãy nhìn các môn khoa học này theo góc độ như là các game. Bạn “chơi” chưa giỏi, có phải vì bạn chưa hiểu luật đúng không, bạn chưa thuộc luật đúng không? Có bao giờ cứ mỗi lần chơi game bạn lại giở luật cũng như các ngoại lệ ra để coi không? Vậy tại sao mỗi lần học hay làm bài tập các môn này các bạn lại mở sách và tập vở ra, tra lại các định luật, định lý, công thức để xem. Tại sao không học thuộc lòng nó, rồi vận dụng xoay sở để làm bài tập?

Gợi ý một xíu cho các bạn, nếu như các bạn đang thấy việc học khó khăn và chán nản thì hãy đi kiếm cái gì đó thú vị về môn học này, một trong những cách mình hay làm là đọc lịch sử về các nhân vật cũng như hoàn cảnh lịch sử khi ấy. Kiểu như bạn học thì biết kali, natri điều chế bằng phương pháp điện phân nóng chảy, nhưng có biết ai là người đầu tiên điều chế được nó không, bạn có biết là vẫn có thể vẽ được một tam giác với ba góc vuông không, bạn có biết là Marie Curie có một vụ scandal tình ái không, bạn có biết những lời trăn trối cuối cùng của Einstein không, bạn có biết là cây táo mà bạn luôn ao ước là cây sầu riêng của Newton vẫn còn sống và xanh tốt không, bạn có biết Nguyễn Tuân của Người lái đò sông Đà là diễn viên điện ảnh đầu tiên của Việt Nam không, bạn có biết MC Minh Vũ là con của Xuân Quỳnh, tác giả bài thơ tình Sóng nổi tiếng nhưng lại không phải là con ruột của bà không,… Vậy đó, khi chán nản về những bài toán nhức đầu, những bài thơ dài dòng lê thê, hãy tìm tòi một xíu về nhân vật đó, về hoàn cảnh lịch sử giai đoạn đó, để thấy chút thú vị và cảm hứng để học tập trở lại.

Quay lại chủ đề của chúng ta, hãy nhớ là, để vừa thực hiện được quá trình xây dựng nền tảng (như ở trên mình đề cập) cho tất cả mọi người, vừa đánh giá được mức độ tư duy của bạn về khả năng suy luận ở một chừng mực nào đó, thì người ta đã thiết kế ra bốn game mang tên toán, lý, hóa, sinh để các bạn chơi. Rõ ràng, để chơi giỏi một game nào đó, bạn phải hiểu luật, nhớ luật, rút kinh nghiệm mỗi lần thua đau (làm sai bài tập chẳng hạn), và quan trọng là phải cày!

Còn đối với các môn khoa học xã hội, việc học các tác phẩm văn học, nghiên cứu sử, địa sẽ giúp các bạn sau này định hình được gu thẩm mỹ của bản thân, để gu đó là độc đáo, sáng tạo, đẹp đẽ nhưng không lệch lạc khỏi giá trị văn hóa chung của xã hội (nhưng đôi khi cái gu đó của bạn đi quá nhanh so với thời đại thì đành chấp nhận thôi). Học các môn khoa học xã hội còn giúp các bạn học cách lập luận, phản biện, biết cách sử dụng ngôn từ hợp lý, biết viết thư, trình bày ý kiến, tư tưởng thông qua chữ viết, biết viết hoa khi nào, chấm phẩy ra sao, biết viết thư xin việc, thư tình khác nhau như thế nào. Học sử còn giúp chúng ta biết được rằng tại sao quá khứ lại xảy ra như vậy, và kết quả ra sao, để từ đó mà có thái độ và hành động hợp lý cho những vấn đề thời sự bây giờ. Trong khi học địa thì lại giúp chúng ta vẽ được các biểu đồ, biết nhận xét, phân tích các thông tin qua biểu đồ, những thứ mà các bạn sau này chắc chắn ít nhiều rồi cũng sẽ tiếp xúc và làm việc.

Những lời cuối cùng mình xin chia sẻ, khi các bạn đã thi xong một kỳ thi đã được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, thì hãy nhớ rằng sau này khi bước chân ra ngoài xã hội khắc nghiệt, cuộc sống sẽ cho các bạn những bài kiểm tra trước rồi sau đó mới dạy cho các bạn những trải nghiệm, đôi khi là tốt đẹp, nhưng đa phần sẽ là niềm đau.

Sau kỳ thi này, đừng buồn bã, đừng hân hoan, điều đó rồi cũng sẽ qua thôi.

Hãy bắt đầu tận hưởng sự tự do, hãy làm những điều mình thích, học những điều mình thích, sống một cuộc sống mình thích. Nhưng trước mắt, hãy học ngoại ngữ, bớt mơ mộng và nhấc mông lên để thực hiện ước mơ của mình.

Đừng nghe những lời phán xét, hãy nhớ rằng các bạn là duy nhất, và các bạn không hề dở!

Hãy dám mơ ước, dám thực hiện, dám phiêu lưu và dám nhận trách nhiệm!

Và, hãy tận hưởng, thật sự đó, một thế giới tự do hơn rất nhiều!

2606XVIII
Tác giả: Nguyễn Bình Nguyên

Featured image: Pexels

[Bài dịch] Thế giới này cần thêm điều gì?

Thế giới này cần thêm nhiều người không thể bị mua chuộc; người mà không hy sinh lòng trung để trục lợi; người mà biết rõ những gì cần ưu tiên; người mà cái bắt tay nghĩa là đã cam kết; người mà không màng rủi ro để làm điều đúng đắn; người bảo vệ sự thật chứ không chỉ là niềm tin của người khác; và là người luôn trung thực trong mọi vấn đề, dù nhỏ hay lớn.

Thế giới này cần thêm nhiều người có hoài bão đủ lớn cho tất cả; người biết cách thắng không kiêu và thất bại nhưng vẫn giữ lòng tự trọng; người mà không tin rằng gian xảo và tàn nhẫn là điều cần để thành công; người mà vẫn còn có bạn bè dù đã quen hai, ba chục năm trước; người đặt nguyên tắc và kiên định lên trước chuyện thăng quan tiến chức; và là người không ngại đi ngược lại quan điểm chung.

Thế giới này cần thêm nhiều người đủ khiêm tốn để nhận ra rằng lập kế hoạch cuộc đời là một thử thách lâu dài và vì vậy họ không dại mà nghĩ đến việc lập kế hoạch cho cuộc sống hay kinh tế của hàng triệu người khác. Họ không xem một chính quyền trung tâm là quyền lực tối cao. Thế giới này cần thêm nhiều người đủ trưởng thành để không ngại nhận lãnh trách nhiệm, đủ dũng khí để nói lên sự thật trước cường quyền, và đủ khôn khéo để bày tỏ lòng thành với người khác khi họ xứng đáng.

Thế giới này cần thêm nhiều người có thể chấp nhận sự khác biệt của mọi người, thứ tạo nên sự độc đáo của mỗi cá nhân; người không cảm thấy bị đe dọa bởi ý kiến, lối sống hay niềm tin của ai đó mà khi bình thường họ vẫn hòa nhã và lễ phép; người đủ kiên nhẫn để thuyết phục kẻ khác chứ không phải ép buộc; người không yêu cầu chính trị gia nào đó phải thay đổi số phận của họ bằng cách hạ thấp người khác; người hiểu rằng việc gia tăng giá trị bằng việc sản xuất, sáng tạo và dịch vụ là một việc cao cấp hơn hẳn so với việc tái phân phối tài sản của người khác bằng họng súng.

Thế giới này cần thêm nhiều người không bỏ điều đúng đắn để đổi lại sự đồng thuận cho đẹp mặt; người hiểu tầm quan trọng của việc lãnh đạo là phải làm gương, chứ không phải chỉ tay năm ngón; người sẽ không yêu cầu bạn làm điều gì mà họ không muốn làm; người sẽ làm việc để biến hoàn cảnh bất lợi thành cơ hội học hỏi và phát triển; người luôn biết làm việc một cách chính trực chứ không chỉ hô hào suông, và người luôn biết yêu thương dù là đối với ai đó đã từng cư xử không công bằng với họ. Thế giới này, nói cách khác, cần thêm nhiều người sở hữu những tính cách đó qua thời gian, kinh nghiệm và lý trí mà ta gọi chung là nhân cách.

Tác giả: Lawrence W. Reed
Dịch: Nah aka Nguyễn Vũ Sơn FB Page
Edit: Triết Học Đường Phố

*Featured Image: Pexels 

Làm gì khi có người ghét mình?

0

Nếu bạn có một kẻ thù, đừng bao giờ nghĩ rằng lấy thiện của bạn để cảm hóa cái ác. Bạn chưa đủ cao thượng để đi ban phát cái thiện cho người khác. Bạn không cần nghĩ mình phải có trách nhiệm sống đạo đức với kẻ gây ra thù hận trong bạn.

Bạn nghĩ rằng mình cần ban phát đức hạnh cho những kẻ cần đến nó. Nhưng thực ra thứ đức hạnh mà bạn muốn ban phát cũng chỉ là sự ích kỷ riêng bạn. Một sự ích kỷ nghèo nàn, chỉ chờ cơ hội để chầu chực. Các bạn chỉ đang giả trang dưới bộ mặt của đức hạnh.

Chẳng thà nhận mình là người sai lầm còn cao nhã hơn là nhất mực khăng khăng mình có lý. Nhưng thực ra bạn cần phải thật giàu sang về tâm hồn thì mới có thể ban phát cho kẻ khác sự rộng lượng đó của mình.

Nếu có người phạm một bất công với bạn, bạn không cần phải tặng người đó thêm vài bất công khác từ bạn. Sẽ rất khủng khiếp nếu những bất công cứ chồng chất lên nhau. Và bạn thấy đấy, cả bạn cũng chẳng được yên ổn khi mang vác chúng nặng nề trên vai. Cứ một sự giận dữ được chia sẻ hầu như sẽ biến thành một cơ hội lan tỏa rộng rãi, và chẳng có người nào tự nhận lãnh nó toàn bộ mà không phải là chính bạn.

Bạn không cần biến mình thành một con nhện độc. Vì chất nọc độc đó sẽ khiến bạn quay cuồng trong điên đảo. Những kẻ luôn tỏ ra mình là người công chính là những kẻ luôn có đầy lòng hận thù lén lút. Những người kiểu đó, dù chúng ta có cố gắng cười vào mũi họ thì hành động đó cũng chẳng xứng đáng.

Bạn cần xé rách cái màng nhện giận dữ để chui ra khỏi đó. Đó chỉ là một cái hang chứa đầy sự dối trá và lòng cừu oán phục thù. Chỉ có khi bạn được giải thoát khỏi nó thì chỉ khi đó bạn mới đặt chân lên được chiếc cầu dẫn bạn đến với niềm khát khao hy vọng, chỉ khi đó bạn mới nhìn thấy được chiếc cầu vồng lóng lánh màu sắc sau cơn giông bão giận dữ.

Bạn không bao giờ đủ khả năng để cảm hóa họ. Nếu bạn là kẻ chân chính, bạn không cần phải đi tranh đua với kẻ tiện nhân. Còn nếu bạn là kẻ tiện nhân, bạn lấy tư cách gì để đi tranh cãi với kẻ chân chính.

Nhưng hầu hết mọi người đều không muốn hạ thấp mình thành kẻ tiện nhân, họ chỉ muốn là người chân chính. Vậy nên nếu bạn là người chân chính, hà cớ gì phí phạm thời gian để cảm hóa bọn tiểu nhân.

Hãy biết rằng đối với kẻ thù của bạn, chỉ cần sự có mặt của bạn trên mặt đất này cũng đủ để người đó phải điên tiết học máu. Nhưng đó là chuyện của họ. Còn bạn, không cần là quân tử, không phải là tiểu nhân, cứ im lặng rồi bước qua.

Tôi ghét anh, anh ghét tôi, chúng ta ghét nhau, nhưng cuối cùng đó vẫn chỉ là thứ trang sức rẻ tiền gắn lên cái tôi chật hẹp.

Mặt trăng vẫn xoay quanh trái đất và tôi vẫn mãi chạy loanh quanh ngắm nhìn mặt trăng mỗi đêm. Chúng ta bao giờ cũng chỉ là kẻ tiện nhân. Nhân danh tất cả những gì tốt nhất cho chúng ta, phải chăng chúng ta không cần phải ghét nhau?

Bài viết chỉ là quan điểm riêng tôi. Nếu bạn có thời gian để ghét một ai đó, tùy bạn!

Hãy biết rằng đối với kẻ thù của bạn, chỉ cần sự có mặt của bạn trên mặt đất này cũng đủ để người đó phải điên tiết học máu.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: chafleks 

Con người và thế giới

2

I. Giới Hạn

Chúng ta không để đưa ra bất kỳ nhận định gì mang tính khách quan nếu không hiểu rõ về giới hạn của chính mình, nhận rõ giới hạn để nhận thức luôn mở một cửa ngõ cho những khả năng có thể có ở bên ngoài cái giới hạn đó.

1. Giới hạn của thân xác

Chúng ta đều biết rằng con người nhìn thấy và cảm nhận thế giới xung quanh thông qua các giác quan của cơ thể, mà các giác quan đó có giới hạn của chính nó. Ví như ánh sáng có nhiều bước sóng khác nhau, nhưng mắt ta chỉ có thể nhìn thấy một đoạn ngắn trong tập hợp các bước sóng đó, nghĩa là con người và loài thú có thể thấy/nghe những hình ảnh/âm thanh khác nhau tùy giới hạn mỗi loài. Khi thông tin về nhìn truyền đến não, chúng được tổng hợp theo cách thức của não chúng ta và hình thành một thế giới như ta nhìn thấy, loài vật cũng vậy theo cách của chúng. Vậy thế giới mà ta hay loài vật nhận biết được sẽ khác/giống nhau tùy thuộc vào sự khác/giống trong giới hạn có được.

2. Giới hạn của kinh nghiệm và tri thức

Giới hạn này phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, nếu bạn sinh ra trong một bộ lạc thuộc rừng Amazon thì bạn chỉ biết được những gì mà một thổ dân có thể biết, tương tự, sự hiểu biết sẽ khác nhau nếu bạn sống ở nông thôn/thành thị, gia đình kém/có học thức, nước kém/phát triển, nước độc tài/tự do. Trong từng hoàn cảnh, bạn sẽ có cơ hội tiếp nhận nguồn tri thức khác nhau.

3. Giới hạn của nhận thức

Tiếp nhận kinh nghiệm và tri thức là một chuyện, hiểu chúng như thế nào lại là chuyện khác. Mỗi hoàn cảnh sống luôn mang trong nó những định kiến khác nhau, định kiến từ nền văn hóa nơi đó, từ tôn giáo ta theo, từ những gì được giáo dục. Định kiến như một màn lọc tri thức, nó phán định thông tin nào được giữ lại/loại bỏ hoặc chống đối.

4. Giới hạn của nhu cầu và bản năng

Bản năng là những phản ứng được hình thành trong quá trình sinh tồn của giống loài, chúng ẩn sâu trong tiềm thức, vô thức và duy truyền, chúng tác động lên nhận thức của ta một cách âm thầm lặng lẽ. Còn nhu cầu thì gắn liền với lợi ích tự thân, khi nhu cầu được thỏa mãn thì con người cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc, điều gì khiến ta đau khổ sẽ bị loại trừ, do đó chúng cũng tạo ra một giới hạn trong sự nhận thức về thế giới.

5. Giới hạn về khả năng và thời gian

Bản thân mỗi người có một khả năng tiếp nhận lượng thông tin khác nhau, nếu tiếp nhận quá nhiều sẽ tạo ra sự quá tải gây mệt mỏi. Khả năng cũng phụ thuộc vào trí thông minh của từng người, song song đó, là lượng thời gian mà ta có thể dùng cũng chỉ giới hạn trong con số trung bình là 60 năm.

Tóm lại, bản thân con người có giới hạn, nên mọi thứ ta “thấy” cũng có giới hạn. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng những giới hạn đó có thể bị phá vỡ, vì giới hạn mà ta nhận biết được cũng phụ thuộc vào chính giới hạn nhận thức của ta, ta không biết hoàn toàn chính xác khả năng con người có thể to lớn đến đâu.

II. Quá trình nhận thức thế giới

Cách đây hàng ngàn năm hay hơn thế nữa, khi con người còn chưa hiểu nhiều lắm về thế giới xung quanh bằng con đường khoa học, thì họ phó thác niềm tin của mình hoàn toàn cho tôn giáo – nơi có một hoặc nhiều vị thần linh ngự trị. Ở đây ta chưa bàn đến chuyện vị ấy có thật sự tồn tại hay không, mà cho đến ngày nay thì đó cũng vẫn là điều vượt ngoài khả năng của con người.

Con người khác con thú ở khả năng tự nhận thức được sự tồn tại của chính mình, do đó, khi đứng trước những điều mà hắn không giải thích được, hắn sẽ đối chiếu với bản thân, với những vật mà hắn tạo ra rồi tự hỏi “tất cả những điều này là do Ai tạo ra? Sẽ có Ai đó tạo ra chứ?”, thế là vị thần linh nào đấy cũng có bản tính con người giống hắn được tạo ra.

Đừng hiểu nhầm rằng khi nói thế thì tôi đang phủ định sự tồn tại một đấng tạo hóa, mà sự suy diễn ở trên vốn luôn diễn ra ở bất kỳ người nào. Tuy nhiên, có một số cực kỳ hiếm hoi trong loài người, bằng khả năng nào đó hoặc được mặc khải (sự tỏ mình ra của Thượng Đế dành cho họ) mà thấy được những điều kỳ diệu vượt ra ngoài giới hạn của con người, nhờ thế, họ có được một trí tuệ cao vời và trở thành vĩ đại, họ được gọi là tôn sư hoặc nhà tiên tri, họ dẫn dắt con người đến với ánh sáng và sự sống đích thực.

Bởi tồn tại sự giới hạn của con người, để vị tiên tri/tôn sư ấy có thể diễn tả những gì ông hiểu hay nhìn thấy cho người khác cũng hiểu thì vô cùng khó khăn, nó giống như một sinh viên phải giảng về toán tích phân cho học sinh lớp 1, việc đó là bất khả. Vậy vị tiên tri ấy chỉ có thể tả về điều mình thấy trong cái giới hạn của ngôn ngữ và tầm hiểu biết của loài người lúc ấy, để rồi chính loài người trong giới hạn của họ, cố diễn giải những điều nghe được theo cách của họ, việc diễn giải đó gần với sự thật mà vị tiên tri “thấy” được phụ thuộc vào khả năng của mỗi người.

Bởi lời từ các tiên tri/tôn sư mang đến sự sống – ánh sáng – hạnh phúc nên biết bao người sẽ nghe và làm theo, thế là các tôn giáo/đạo giáo được hình thành, vì những “lời” ấy vượt quá xa tầm hiểu biết của loài người nên các tôn giáo này đã trở nên vĩ đại và tồn tại cho đến ngày nay. Trong khi đó, những tôn giáo được hình thành do sự tưởng tượng của con người thì tàn lụi dần và trở thành thần thoại vì thiếu chiều sâu cũng như độ cao về tư tưởng. Để đánh giá tầm cao của một tôn giáo, ta dựa vào tư tưởng được truyền tải trong đấy, tư tưởng càng cao thì thời gian tồn tại càng lâu dài và có thể là mãi mãi.

Lịch sử nhân loại từng có thời kỳ mọi lẽ sống của con người đều phụ thuộc hoàn toàn vào tôn giáo, tiếng nói từ giáo hội là quyền uy tối thượng nhất, và ta có thể nhận ra rằng nếu tôn giáo mang trong mình quyền lực thế tục thì chắc chắn sẽ bị biến chất và thế tục hóa, trở nên tầm thường, độc tài, mục nát. Trong thời kỳ này, ở những nơi mà sự xuất hiện của các tôn sư là hiếm hoi, thì đang dần bước trên con đường quân chủ tập quyền, theo chiều hướng ngược lại, tôn giáo trở thành công cụ phục vụ cho nền quân chủ chuyên chế.

Vì con người có khả năng tư duy, nên ngoài tôn giáo, có một thứ khác vẫn luôn song hành, đó là triết học. Khi mà tư tưởng có được từ tôn giáo không đủ để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người thì triết học trở thành một sự lựa chọn cần thiết và hợp lý. Triết học là những suy luận của lý tính, sự phát triển của triết học sinh ra một đứa con khác được mang tên khoa học. Bằng khoa học, con người khám phá ra rất nhiều bí mật của thế giới mà một thời thì sự lý giải đó thuộc về tôn giáo.

Thế là lịch sử nhân loại lại bước qua một trang mới, con người tôn vinh khoa học như một chân lý quyết định mọi sự đúng sai trong cái nhìn với vạn vật. Người ta chỉ tin vào những gì được khoa học chứng minh, cho rằng tôn giáo là sự tưởng tượng của loài người, khoa học biến một nửa loài người thành vô thần, chủ nghĩa duy vật phát triển mạnh mẽ khắp nơi cho đến ngày nay.

III. Phân tích

Với nền văn minh của hiện tại, dù hiểu biết ở mức độ nào, thì chúng ta đều có thể khẳng định một điều, mọi thứ xung quanh đang vận thành theo những quy luật và chân lý nào đó. Chúng có thể là các quy luật vật lý, hoặc quy luật về xã hội, trong quá trình quan sát, người ta khám phá ra quy luật rồi biên soạn thành một học thuyết, học thuyết ấy qua thực nghiệm sẽ được chứng minh là đúng hoặc sai. Vậy cái hệ thống tập hợp những quy luật đó là có tồn tại.

Trở lại với vấn đề, khi khoa học chưa phát triển, bằng phương thức nào đó, người xưa đã nhận ra cái hệ thống các quy luật đó, ở Trung Quốc thì được Lão Tử gọi là Đạo, với Phật giáo thì là các quy luật, với Do Thái hay Ấn Độ thì chúng được tạo ra do một hoặc nhiều vị thần. Và có thể nói rằng những điều mà những vị ấy “nhìn thấy” là hoàn toàn vượt xa những khám phá của khoa học ngày nay. Tóm lại, dù diễn giải theo cách nào đi nữa, thì những gì mà các vị ấy “thấy” đều cùng chỉ về một nơi, hướng về một toàn thể duy nhất, do phương thức “thấy” khác nhau nên với Lão và Phật thì dừng lại ở điều họ thấy, còn với các tiên tri của người Do Thái hay các vị tu hành ở Ấn thì là Thiên Chúa/Đấng Tạo Hóa dựng nên.

Khoa học được hình thành dựa trên nền tảng lý tính và phụ thuộc vào khả năng quan sát của con người, chính vì thế nó cũng chịu cùng chung một giới hạn. Lấy cái giới hạn của khoa học làm thước đo cho cái vượt ngoài giới hạn của tôn giáo thì quả là mê muội. Khoa học càng phát triển thì người ta càng tìm đến nhiều sự tương đồng so với những lý giải trong tôn giáo, đặt biệt là với những kiến giải của Phật giáo, như về các thế giới mà ngày nay khoa học có nhiều thuyết về các thế giới song song được tạo ra do các chiều không gian ở cấp cao hơn; hay sự tương đồng về Sáng Thế với vụ nổ Big Bang; hay về việc tồn tại một linh hồn bên trong thân xác, còn thân xác được ví như phần cứng của chiếc máy vi tính; hay đời này chỉ là tạm bợ, giống nội dung bộ phim Ma Trận, tất cả những gì chúng ta cảm nhận được chỉ là chương trình trong một chiếc máy vi tính, chỉ có tâm thức ta là thật; hay con người có thể làm phép lạ, chữa bệnh, nhìn thấy tương lai; hay sự sống của con người có được nhờ vào năng lượng vũ trụ và năng lượng đó vận hành trong cơ thể theo một phương thức hoàn toàn khác biệt, mà chứng minh hùng hồn nhất chính là bộ môn châm cứu xuất phát từ Trung Quốc; hay lời chứng của những người vượt qua trạng thái chết lâm sàn, kể chính xác những gì diễn ra xung quanh và cách xa họ khi đó. Như vậy, khoa học không phải là thứ duy nhất có thể giúp con người nhận ra thế giới và tôn giáo không phải sinh ra do trí tưởng tượng của con người.

Nhưng dù cho có khám phá thế giới bằng cách nào đi nữa thì vẫn có một điều khó đạt đến sự thống nhất, đó là thế giới này tự nó mà có hay được tạo ra bởi Đấng Tạo Hóa. Người ta cứ tranh cãi nhau suốt về chuyện này, còn tôi thì tự hỏi, nếu có Đấng Tạo Hóa (tôi tin có) thì liệu Ngài có xem trọng việc đó hay không?

IV. Các tôn giáo và con đường tâm linh

Với một số người thì việc tìm hiểu về các tôn giáo (hoặc tôn giáo khác mình) là không tốt hoặc không cần thiết. Nhưng theo tôi lại là chuyện cực kỳ cần thiết, vì việc này quyết định bạn hiểu rõ thế giới quanh mình bao nhiêu, và dù bạn có trốn tránh thì bạn vẫn bị tác động như thường, nếu vì không biết mà bạn phản ứng hay định kiếm lầm lạc thì thật đáng tiếc.

Tại sao tồn tại quá nhiều tôn giáo trong thế giới của chúng ta? Nếu đọc đến đây, bạn cũng có câu trả lời, đó là do phương thức nhìn/mặc khải của các tôn sư/tiên tri mà điều họ nói sẽ khác nhau, sau đó, con người nghe và đọc các lời ấy lại diễn giải khác nhau theo từng nhóm. Thời gian càng dài thì sự tách ra càng nhiều thêm, mỗi nhánh đều cho rằng cách mình diễn giải là đúng nhất, thế là để bảo vệ đức tin nên họ sinh ra thù ghét nhau, thậm chí giết nhau. Nếu một trong những người thân hoặc bà con quyến thuộc của tôi mà đọc bài này thì chắc sẽ nghĩ là tôi lạc đạo mất rồi, nhưng đó cũng là lẽ thường trong cuộc sống.

Hầu hết các tôn giáo đều nêu cao quan điểm rằng đời này chỉ là tạm bợ và kêu gọi con người làm lành lánh dữ để đạt được hạnh phúc sau cái chết. Một số tông phái xuất phát từ Ấn Độ có những mật pháp mà nếu luyện tập sẽ có được những khả năng kỳ lạ – siêu nhiên, không lạ khi ta thấy nhiều nét tương đồng giữa các tông phái này với Phật giáo; hoặc các môn khí công, châm cứu được truyền từ văn minh Trung Quốc cổ đại; ngoài ra còn phải nhắc đến văn minh Ai Cập cổ đại cũng có những nét tu tập tương tự; đạo Do Thái tôn thờ Thiên Chúa không đi theo hướng này nhưng có thể nói đây là dân tộc xuất hiện nhiều vị tiên tri (nhìn thấy tương lai) nhất trong thế giới loài người; ngoài ra còn nhiều nền văn minh cổ đại đã bị chôn vùi đã đạt được sự hiểu biết khiến cho khoa học ngày nay phải bối rối.

Đạo Do Thái: Bắt đầu từ tổ phụ của họ là Abraham được gặp gỡ Thiên Chúa (sự mặc khải) thông qua hình ảnh ngọn lửa ở bụi gai, sau sự mặc khải này, ông đã tôn thờ Thiên Chúa như vị thần linh duy nhất. Kinh thánh của họ là những cuốn sách ghi chép lời của các tiên tri/ngôn sứ và lịch sử dân tộc họ, có thể xem các quyển kinh thánh của họ như một bộ biên niên sử xuyên suốt, được bắt đầu cách nay 4000-6000 năm.

Công Giáo: Là sự tiếp nối của đạo Do Thái, Chúa Jesus được sinh ra ở Belem, Ngài đến để mang lại một giao ước mới của Thiên Chúa với toàn thể loài người (giao ước cũ là của Thiên Chúa với dân Do Thái), Ngài đi rao giảng về tình yêu thương, sau đó chết trên thập giá và ngày thứ 3 thì sống lại. Vì sự tiếp nối, Kitô giáo soạn ra những bộ kinh phù hợp từ những cuốn kinh của đạo Do Thái và gọi là kinh Cựu Ước, còn những lời giảng của Chúa Jesus và thư của các thánh tông đồ thì hình thành nên kinh Tân Ước.

Các nhánh tách ra từ Công Giáo: bao gồm Chính Thống Giáo và các giáo hội Tin Lành, sự tách ra này do sự lý giải kinh thánh hoặc do các tác nhân từ thế tục.

Các tôn giáo khác: Phật giáo, Hồi giáo, Lão giáo,….; để hiểu rõ hơn, các bạn có thể tìm trên Google, tôi nghĩ đây là việc rất cần thiết.

Quan trọng – các trường phái tâm linh thời hiện đại: Tôi chỉ đưa ra cái nhìn chung chứ không đi vào chi tiết, những người đi trên con đường tâm linh ngày nay tin rằng sự sống mà con người có được là nhờ sự tiếp nhận năng lượng vũ trụ, thông qua những phương pháp tu hành như thiền, hoặc liên quan 7 luân xa trên cơ thể sẽ giúp con người đạt được những khả năng kỳ diệu, song song là sự rèn luyện về tâm tính như tự do, yêu thương, chân – thiện – mỹ, vv… Con đường này là sự tổng hợp từ niềm tin cũng như phương pháp tu luyện của các tôn giáo lớn hoặc các tông phái có từ xa xưa. Tất cả đều hướng về cái toàn thể duy nhất, nhưng tin vào Đấng Sáng Tạo hay không thì tùy từng nơi vậy.

Bạn nên tìm hiểu về 7 luân xa nhưng nhớ đừng luyện tập theo nhé. Vì ngày nay có quá nhiều trường phái mọc lên, thật giả lẫn lộn, đặt biệt là sự hỗn loạn ở Việt Nam thì khó mà kể cho hết. Luyện bậy dễ bị tẩu hỏa nhập ma đấy, cái từ “tẩu hỏa nhập ma” chúng ta thường thấy trong các truyện kiếm hiệp nhưng nó cũng có thật sự chứ chẳng chơi, càng tìm hiểu nhiều về thế giới tâm linh bạn sẽ càng sững sờ khi các truyền thuyết có thể từng có thật.

V. Tôi tin có Thiên Chúa (quan điểm cá nhân)

Tại sao tôi phải viết phần này trong khi nếu bỏ thì bài viết sẽ trở nên khách quan hơn? Vì phần này cực kỳ quan trọng với tôi hoặc cần thiết với những người tin vào Thiên Chúa – Đấng sáng Tạo. Nếu sau khi đọc bài của tôi mà ai đó lạc mất đức tin vào Thiên Chúa thì quả là vô cùng tội lỗi.

Nếu bạn đọc bài này và bắt đầu tìm hiểu mọi thứ, bạn sẽ nhận ra các trường phái tu tập xuất phát từ Ấn Độ, con đường tâm linh hiện đại, và Phật giáo lại rất gần gũi với những khám phá của khoa học, đồng thời cũng mang lại lợi ích thiết thực với con người (ví như sức khỏe). Điều này khiến bạn dễ lạc mất đức tin vào tôn giáo của mình và vào Thiên Chúa.

Như đã nói, tôi tin rằng mọi tôn giáo, đạo giáo trên thế giới đều hướng về cùng một nơi, một toàn thể duy nhất. Với các tôn giáo tin vào Thượng Đế, mỗi tôn giáo đều cho rằng Thượng Đế của họ mới là Thượng Đế thật, nhưng hãy thử nghĩ mà coi, Thiên Chúa – Thượng Đế, Đấng tạo ra con người và vạn vật sẽ thiên vị hay sao? Dân tộc Do Thái là dân riêng của Chúa? Là Chúa chọn dân tộc này hay bởi sự khôn ngoan mà dân tộc này đã nhận ra Ngài trước tiên? Và bởi vì sự khôn ngoan, họ như được công nhận là dân tộc thông minh nhất thế giới, bạn có thể tìm các thống kê trên Google để chứng minh điều đó. Bản thân tôi nghĩ Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng, Ngài tỏ mình ra cho tất cả loài người chúng ta được biết về sự tồn tại của Ngài, nhưng tùy vào sự khôn ngoan mà những dân tộc sẽ nhận ra sớm hoặc muộn, sẽ nhìn thấy Ngài là Thiên Chúa hay chỉ thấy Ngài như một hệ thống các quy luật.

Đối với tôi, đức tin có từ sự suy tư và tìm hiểu mới là đức tin thật và mạnh mẽ, còn đức tin chỉ do niềm tin tạo thành là đức tin yếu ớt. Tại sao? Ví như bạn sinh ra là người Công giáo, bạn được dạy là tin vào Chúa và bạn tin, vậy nếu bạn sinh ra không phải người Công giáo thì sao? Thế ra cái đức tin mà bạn luôn tự hào đó không hề do bạn mà chỉ do việc bạn sinh ra ở đâu quyết định, đức tin ấy có giá trị và ý nghĩa không? Nhưng nếu đức tin đạt được bằng sự chiêm nghiệm, thì dù bạn thuộc về bất cứ tôn giáo nào đi nữa, thì sự chiêm nghiệm đó cũng sẽ dẫn bạn đến với Thiên Chúa, bạn sẽ không bao giờ lạc lối.

Bạn có thể dùng câu “phúc cho ai không thấy mà tin”, nhưng bằng việc hiện ra, Ngài cũng nhắc nhở ta là không nên tin tưởng bằng sự mù quáng, thật ra thì Ngài luôn dùng hành động để chứng mình Ngài là ai trong suốt hành trình giảng đạo, nhưng dù vậy các tông đồ – đại diện cho con người vẫn còn thiếu niềm tin. “Chiên ta thì nghe tiếng ta” như thế nào mới là “chiên ta”? Đó có phải là con chiên hiểu được hành động của chủ chiên? Mà muốn hiểu được thì phải nghiềng ngẫm và chiêm nghiệm, không phải cứ “a thần phù” là tin sái cổ. Thế giới này còn tồn tại quá nhiều sự phân biệt, đến nỗi họ tin rằng Thiên Chúa cũng phân biệt, thương đứa này hơn đứa kia, đứa này con ruột còn đứa kia con nuôi.

Tại sao tôi tin có Thiên Chúa? Vì Thiên Chúa tồn tại thì mọi thứ cao quý mới trở nên có ý nghĩa. Một hệ thống vô cảm dù hoàn mỹ đến mấy thì cũng không thể hiểu và phân định được sự cao quý đó. Ví dụ tình yêu, một hệ thống có hiểu tình yêu là gì? Cùng là tình yêu, nhưng yêu bởi lòng ích kỷ, bởi lợi ích cá nhân thì hoàn toàn khác với yêu vô vị lợi; hay việc làm từ thiện, có sự khác biệt giữa 2 xu của bà góa nghèo và đồng tiền vàng của kẻ giàu có?; hay một người làm từ thiện bởi lòng yêu thương chứ không phải vì mong một nước thiên đàng sau cái chết. Liệu một hệ thống có thể phân định được những điều đó? Không! không một hệ thống nào có thể cân đo đong đếm những điều đó, mà phải là một Thiên Chúa tạo ra con người, hiểu con người và siêu việt con người mới phân định được theo lẽ công bình tuyệt đối.

Nếu không có một Thiên Chúa, thì tôi sẽ không chấp nhận bất kỳ hệ thống nào hay quy luật nào ở trên tôi và chi phối tôi, vì tôi thấy mình cao quý hơn hệ thống vô cảm ấy. Mà nếu như vậy, nếu không có Thiên Chúa, thì thế giới này hay kể cả thế giới nào, cõi nào đó sau cái chết cũng sẽ trở nên vô vọng và vô nghĩa, đó là tự tuyệt vọng toàn tập. Chính vì vậy, Thiên Chúa luôn tồn tại, vì những điều cao quý luôn tồn tại trong chúng ta.

Tác giả: Nguyễn Minh Chí

*Featured Image: Free-Photos

Sống chậm và sống chất

1

Thời gian như vùn vụt, cuộc sống vốn vội vã, đã khiến con người luôn vội vàng, thế nên dễ vấp váp vì những quyết định lắm lúc vu vơ. Khi ấy lời mời gọi sống chậm và sống chất như liều thuốc giúp con người an thần và định thần hầu tìm ra một giải pháp thích đáng và thích hợp giúp tái lập thế quân bình trong nhịp sống hôm nay.

Sống chậm và sống chất không phải dừng lại như một khẩu hiệu đọc cho hay và nói cho vui mà chúng cần được sống thực hành như một thứ nguyên tắc giúp con người trưởng thành hơn trong mọi quyết định và thần thái hơn trong phong cách sống.

Có người nói rằng nếu được ước một điều gì đó, tôi sẽ ước cho một ngày dài hơn 24 giờ để có thể làm được nhiều việc hơn. Nhưng họ quên rằng bản thân đã chưa thực sự tận dụng hết một ngày sống cho trọn vẹn. Không phải làm những việc phi thường mà bạn được tôn trọng, song là làm những việc tầm thường một cách phi thường. Nghĩa là bạn làm với tất cả tình thân và tình thương nhằm xây dựng tình người. Điều này đòi buộc bạn phải sống chậmsống chất.

Quan sát tại những nơi buôn bán như hội chợ, chúng ta thấy họ mở những loại nhạc kích động khiến thúc ép bạn nhanh chóng quyết định mua sản phẩm của họ. Họ còn nhồi nhét vào tâm trí bạn những tư tưởng “cấp tiến” rằng những gì cũ kĩ thì lỗi thời, những gì của hôm qua thì không còn thích hợp và tiện lợi cho hôm nay… Thế rồi, họ bày bán và đánh vào thị hiếu của bạn khiến bạn mua hàng mà không cần suy tính thiệt hơn. Đến một ngày, nó trở thành một lối sống được mọi người chấp nhận: Sống hời hợt không cần suy tính.

Trong việc kinh doanh mặt hàng thực phẩm cũng vậy, họ ép cây sinh quả trái mùa để bán được giá cao. Thay vì như lời dạy của người xưa về việc giữ gìn sức khỏe: Mùa nào thức nấy, thì ngày nay, cơ thể trở nên “rối loạn” do cây sinh quả trái mùa. Hơn nữa, họ còn dùng thuốc kích thích đủ loại nhằm rút ngắn thời gian thu hoạch khiến ảnh hưởng trực tiếp đến những người tiêu dùng. Đó là chưa nói đến việc người dân sử dụng thuốc sâu, mặc dù chưa đủ thời gian cho việc cây trồng nhả thuốc, chỉ vì mối lợi kinh tế mà thu hoạch bất chấp sức khỏe cộng đồng. Không biết những thuốc diệt sâu đó khi ngấm vào cây trồng có thể diệt được những thứ vi khuẩn và vi rút trong cơ thể người tiêu dùng không hay gia tăng nguy cơ dẫn đến các bệnh ung thư.

Thật vậy, bệnh ung thư cũng gia tăng cấp số nhân theo nhịp độ của vụ mùa. Có lần chính tôi mục kích tại một sân vườn, quan sát chung cho thấy, có một luống rau tương đối xấu ở góc vườn còn lại cả vườn chừng mấy sào thì rau xanh đẹp mướt mắt. Tôi hỏi ra mới hay, luống rau kia để ăn, còn những thứ trông đẹp mắt thì để bán. Thế mới rõ, đâu là rau sạch và xanh và đâu là rau có lợi cho sức khỏe người tiêu dùng?

Điều này cũng có thể giải thích phần nào trong việc cung cấp các loại gia cầm, súc vật dùng làm thực phẩm cho con người. Chẳng hạn, trang mạng điện tử trực tuyến Zing.vn đã đưa tin ngày 01tháng 08 năm 2017: Sở Y tế Đà Nẵng xác định nhà hàng N&M bán thức ăn không đảm bảo vệ sinh khiến 46 du khách Lào bị ngộ độc. Đó là một nhà hàng có tiếng chuyên phục vụ cho khách du lịch, còn những nơi không biết nguồn cung cấp thực phẩm thì sao?

Ở đây, sống chậm và sống chất được hiểu là việc hòa điệu với nhịp sống của thiên nhiên. Nhờ vậy, môi trường được bão hòa và con người cũng được bảo toàn.

Trong việc giáo dục cũng không được miễn trừ, do việc chạy đua với thời gian và thành tích mà đã cho “ra lò” những “mặt hàng” không chuyên, từ đó, dẫn đến việc thiếu người thực sự chuyên môn để xử lý công việc. Những người được đào tạo mà đốt cháy giai đoạn cũng dễ đốt cháy và huỷ hoại tương lại đất nước. Đó là chưa bàn đến việc: Tiên học lễ, hậu học văn. Con người ngày nay sẵn sàng bỏ lễ để cứu văn. Có được văn bằng rồi, họ phải kiếm thêm một số tiền lớn để tìm được một chân trong công việc biên chế nhà nước hay một công việc béo bở nào khác. Sau đó, họ dùng chiến thuật “mập mờ” để chớp nhoáng thu hồi cả vốn lẫn lời. Như thế, việc sống chậm và sống chất ở đây, cần được áp dụng bằng cách tôn trọng tiến trình phát triển bình thường của não bộ con người, và việc đào tạo chuyên sâu. Hơn nữa, chúng phải biến thành một một nguyên tắc hướng dẫn cụ thể đời sống con người trong việc thăng tiến toàn diện nhân bản và tâm linh.

Nguyên tắc sống này cũng nhằm chi phối những người đang hoạt động chính trị. Họ cần ý thức vai trò cầm cân nẩy mực của mình mà chín chắn và chỉn chu trong những quyết định mang tính sống còn của vận mạng đất nước. Họ không thể dừng lại nơi nồi cơm bát cháo của mình mà dửng dưng với nỗi đói khổ của người dân. Trong gia đình có chị có em, vậy trong xã hội cũng có “chính chị”, “chính em”; một người chị có trách nhiệm không thể đang tâm chấp nhận để cho người lạ xâm phạm em mình cách bất chính. Trái lại, họ cần biết sống chậm hầu suy xét kỹ lưỡng những lợi hại có thể xảy ra mà chủ động chọn phương án tốt nhất cho đàn em của mình. Đàn em không phải là quân cờ để mình đánh đâu tùy ý nhưng là một nhân vị đáng được tôn trọng như chính mình. Như thế, sống chậmsống chất là một hình thức diễn tả đạo đức trong chính trị.

Tưởng cũng cần nhắc đến thế giới của showbiz, thế giới của các ngôi sao, ngôi sao mà “mất chất” thì không còn lấp lánh nữa! Gần đây, chúng ta nghe nhiều đến vấn đề hài nhảm (mất chất) của một số danh hài vì quá chạy theo thị trường và có mặt thường xuyên trên các liveshow. Phải chăng các nhà đầu tư, tài trợ đã vét cạn chất xám và sự sáng tạo của các ngôi sao? Câu trả lời tùy thuộc mỗi người trong cuộc. Chúng ta có thể công tâm nhìn nhận rằng họ không cần giải trí vì chính khi sống với đam mê của mình thì đã là giải trí rồi! Nhưng điều đó không thể biện minh cho thứ hài nhảm như hiện nay. Một khi nghệ thuật đánh mất đi cái chất làm nên danh phận của mình thì đó là gián tiếp làm giảm giá bản thân.

Như chúng ta đã biết gần đây danh hài TT vừa bị đài truyền hình Vĩnh Long cấm xuất hiện trong các chương trình do đài thực hiện sau quá trình rà soát nội dung. Có thể nói, đây là một hành động can đảm từ phía những người chuyên môn thực hiện các chương trình, họ cần đưa ra mức độ đánh giá đâu là những hình ảnh đẹp đẽ và những thông điệp bổ ích nhằm xây dựng đời sống nhân bản và tinh thần mọi người. Đã đến lúc, các ngôi sao cần sống chậm để có thể nuôi dưỡng tinh thần và nạp năng lượng ngõ hầu khả dĩ công hiến những tác phẩm chất lượng để đời.

Còn xét trên bình diện tính luân lý trong đời sống xã hội, chúng ta cần kể đến việc sống thử và phá thai của những bạn trẻ thiếu trang bị kỹ năng sống. Họ bước vào đời với một tâm thế thụ động nên dễ bị trôi dạt theo nhiều chiều hướng đạo lý. Họ nghĩ rằng cứ thử tất cả mọi sự để trải nghiệm cuộc sống. Họ quên rằng với tự do, tôi có thể làm bất cứ điều gì, nhưng không phải sự gì cũng giúp tôi lớn lên, trưởng thành và là chính mình hơn.

Trong những năm thời sinh viên, chuyện học cũng tiến triển bình thường, song chuyện yêu đương cũng được các bạn trẻ quan tâm đặc biệt. Họ cùng nhau hứa hẹn nhiều điều cho tương lai, rồi quyết định kiếm một chỗ trọ nhằm tránh xa tầm kiểm soát của người thân để góp gạo nấu cơm chung. Dần dà, lửa gần rơm không sớm thì muộn cũng thiêu đốt tình yêu mới chớm. Nhưng tình dục là đứa chạy nhanh hơn tình yêu, nó chợp lấy cơ hội và “ghi bàn”. Thế rồi, chuyện đã lỡ cộng thêm, thời điểm kết hôn không thuận lợi cho việc học, cả hai quyết định phá thai…Họ đi từ sa sẩy này đến sai lầm khác.

Ở đây, lời mời gọi sống chậm và sống chất như một quy tắc hướng dẫn họ bước vào đời sống hôn nhân với một ý thức xây dựng lâu dài chứ không phải chỉ đáp ứng nhu cầu tình dục thoáng qua. Họ cần ý thức rằng tình dục ra ngoài phạm vị hôn nhân chỉ là một cách hạ giá nhân phẩm. Mà người phụ  nữ là đối tượng đầu tiên bị tổn thương. Hãy sống chậm và sống chất để có thời gian tìm hiểu sâu xa trước khi quyết định một bước ngoặt quan trọng như thế. Trong hôn nhân, chất lượng của cuộc tình phải tuỳ thuộc vào cả hai bên. Đối với những cuộc hôn nhân được chuẩn bị tìm hiểu và tư vấn kỹ càng còn không tránh khỏi những đổ vỡ và ly tán, huống chi là những cuộc tình ba bảy hai mươi mốt ngày. Như thế, sống chậm và sống chất phải là ưu tiên hàng đầu cho những ai muốn bước vào đời sống hôn nhân.

Ở góc độ đời sống gia đình, chỉ xin ghi nhận vai trò quan trọng của bữa cơm chung mà do xu hướng của thời đại, dần dà đánh mất đi một không gian dành cho nhau. Do nhu cầu của giờ làm việc khá sít sao mà bữa cơm trưa của gia đình không thể thực hiện, thay vào đó bằng những buổi ăn nhanh khiến không đủ chất lượng hầu đáp ứng nhu cầu sức khoẻ để phục vụ lâu dài trong một công việc nào đó. Quan trọng hơn, chính khi họ không thể cùng nhau chia sẻ bữa cơm này mà tình thân nơi các thành viên trở nên nhợt nhạt. Hy vọng còn lại bữa cơm tối để cả nhà được quây quần bên nhau, nhưng phần lớn cũng bị chi phối và đe doạ bởi tuần này tăng ca, hôm khác lại dịp họp mặt bạn bè. Từ đó, sự hiện diện bên nhau thưa thớt dần, tình cảm âu yếm cũng từ đó phai nhạt và mất hẳn, chỉ còn lại công việc và việc chu toàn bổn phận nuôi sống gia đình. Đời sống gia đình như thế đang rơi vào tình trạng báo động. Hãy sống chậm và sống chất để có giờ bên nhau và sống yêu thương!

Nếu đời sống xã hội và gia đình đã cần thiết phải sống chậm và sống chất như thế thì đời sống cá nhân đòi hỏi một sự kỷ luật gắt gao hơn, mới mong có được một cuộc sống có ý nghĩa.

Khởi đi từ tư tưởng, nếu nhận thức của tôi quá vội vàng thiếu cơ sở, phán đoán của tôi từ đó cũng lệch lạc thiếu lành mạnh, tư tưởng sẽ mang tính võ đoán và tiêu cực, thiếu tính xây dựng. Để tư tưởng được chín chắn cần có thời gian cưu mang thích đáng, nhờ đó, những quyết định tránh bớt những sai lầm đáng tiếc. Để tư tưởng có chất, chúng ta cần ra khỏi mình để quen dần với suy tư vì lợi ích chung. Có thế, vai trò bổ túc và hỗ trợ của tha nhân được tôn trọng, tư tưởng và ý kiến phản hồi của tha nhân sẽ như cú phanh hợp lý giúp bản thân lượng giá: đâu là điều tối cần nhằm phục vụ thiện ích chung. Chính khi những tư tưởng lớn gặp nhau mới loé sáng những chân lý đích thực giúp nuôi dưỡng đời sống tinh thần của tôi và bạn.

Trong lời nói cũng vậy, chúng ta thường tôn trọng những người ý thức lời nói của mình khi họ biết nói chậm rãi và chất lượng, từ đó mang lại cho không gian của tình huynh đệ một bầu khí tích cực và xây dựng. Có những lời nói nhằm hạ nhục và gây tổn thương người khác như hình thức của bạo ngôn; chẳng hạn, việc những anh hùng bàn phím dùng thế giới ảo để công kích và bôi nhọ cá nhân này hay tập thể khác. Thật ra, đây chỉ là cách giải tỏa xung đột cá nhân với cá nhân hay cá nhân với tập thể nhưng vì tránh ra mặt, họ đã dùng những phương tiện ảo như cách “ném đá” an toàn nhất không tác hại đến bản thân, hơn nữa, còn nhằm thỏa mãn bản năng gây hấn nơi chính mình và biểu hiện sự bất an của kẻ tiểu nhân. Trái lại, cũng có những lời nói tạo ấn tượng nhằm siết chặt tình thân. Thấy được viễn tượng tốt đẹp ấy, chúng ta cần chọn sống chậm và sống chất để xây dựng và làm ích cho chính mình và tha nhân.

Làm sao phong cách sống này giúp đi vào những xác tín bản thân để điều hướng hành động tích cực? Đó là thao thức của mọi người thời đại, nhưng không phải ai cũng muốn tìm câu trả lời vì lối sống hưởng thụ đã “bào mòn” ý chí tiến thủ cá nhân. Thiết tưởng, chúng ta cần tái lập không gian hoà hoãn cho những hành động xây dựng và hoà giải thế chỗ cho những bạo hành và bất công. Ở đây, chúng ta cũng ghi nhận một sự thật đau lòng rằng có những khán giả bỏ ra vài trăm ngàn để có thể tham gia một chương trình rồi cho mình được quyền ném đá, chọi gạch những ai diễn trên sân khấu mà mình không thích. Suy cho cùng, đây cũng chỉ là những hành động cá biệt làm ô nhiễm bầu khí văn hóa và văn minh. Dường như con người dần dà trở nên bạo hành do bị tác động từ những thứ không đâu? Thật ra, đây chỉ là biểu hiện bên ngoài của những tâm hồn vốn bất mãn và bất an. Từ đó, chúng ta có thể rút ra một kết luận: Chỉ có những người mạnh mẽ mới thực sự hành động một cách chậm và chất hầu mở ra một bầu khí đối thoại văn minh giúp xây dựng con người toàn diện: Thể lý cường tráng, tâm lý vững vàng và tâm linh toả sáng.

Tóm lại, qua bài viết ngắn này, chúng ta không thể bàn hết mọi chiều kích của cuộc sống để từ đó đề cao giá trị của sống chậm sống chất, song những gợi ý ở đây như một cố gắng tìm lại thế quân bình cho đời sống vốn còn nhiều những thái quá bất cập. Có lẽ bạn đã nhận ra phần nào khuynh hướng của con người thời đại và cần cổ võ tinh thần sống chậm sống chất. Chính thái độ sống tích cực và cởi mở này sẽ giúp bạn khẳng định bản thân trong thế giới của ý nghĩa và giá trị qua việc Sống chậm sống chất. Đồng thời, chúng ta nhận ra tác động quá lớn của yếu tố ngoại tại đã khiến đời sống con người trở nên vội vã và hời hợt. Đã đến lúc chúng ta cần đề cao tính trách nhiệm của cá nhân để gia đình và xã hội có những con người mang phong cách điềm tĩnh và thần thái đĩnh đạc. Phải chăng đây là cách biểu hiện của những người sống chậm sống chất?

Tác giả: EYMARD An Mai Đỗ O.Cist

*Featured Image: mbll 

 

Tuổi trẻ của John Lennon

2

Hãy nhập vào ô tìm kiếm với từ khóa “Tuổi trẻ của John Lennon” Xem trọn bộ phim để hiểu hơn về tuổi trẻ của người tôi đang muốn nhắc đến. Liệu bạn sẽ nghĩ gì về tuổi trẻ của mình khi xem hết bộ phim. Tôi không chắc là bạn sẽ đồng điệu được với tôi trong bài viết này. Vì mọi sự bao giờ cũng dừng lại ở quan điểm chủ quan của riêng tôi.

John Lennon, thành viên và cũng là người sáng lập nên ban nhạc nổi tiếng đến từ nước Anh mang tên The Beatles. Một cái tên không còn xa lạ với người yêu âm nhạc trên toàn thế giới. Bên cạnh âm nhạc, John Lennon còn là một nhà hoạt động hòa bình tích cực với những phong trào phản đối chiến tranh và yêu chuộng tự do.

John Lennon từng gây tranh cãi với câu nói “The Beatles nổi tiếng hơn cả Chúa Jesus” vào năm 1966, và chính vì quá nổi tiếng nên đã bị ám sát. Chapman, người thực hiện vụ ám sát đã khai rằng hắn muốn giết John để được nổi tiếng. John Lennon là một thần tượng, một người thành công, một người được cả thế giới trọng vọng và ngưỡng mộ, còn hắn ta không có gì nổi bật. Chapman nói “Vì John Lennon vĩ đại hơn Chúa Jesus nên hắn giết John Lennon để khiến John là của riêng hắn.”

Một cậu bé phải sống xa cha mẹ từ năm 4 tuổi. Mặc dù được chị gái của mẹ cậu nuôi dưỡng và người chồng của bà  hết mực yêu thương chăm sóc, nhưng cậu vẫn không thể thoát khỏi cảnh lớn lên với vấn mắc tại sao cha mẹ lại bỏ rơi mình. Một tuổi thơ thiếu thốn tình yêu thương cha mẹ đã biến cậu thành một cậu bé mà sau này John Lennon đã phải thừa nhận:

Một phần trong tôi muốn được chấp nhận bởi mọi thành phần của xã hội chứ không phải trở thành một nhà thơ hay nhạc sĩ mất trí to mồm. Tôi không thể trở thành một gã không đúng với con người tôi. Tôi là một đứa nhóc mà mọi cha mẹ nào khác, kể cả bố của Paul ( là người cùng John Lennon sáng lập ra ban nhạc) sẽ phải nói “Tránh xa nó ra.” Họ đều biết rằng tôi chỉ là một đứa gây phiền phức, một đứa không lành tính và có thể gây ảnh hưởng xấu tới lũ trẻ như tôi vốn vậy. Tôi vốn làm mọi thứ để đập phá nhà của lũ bạn…một phần vì ghen tị mà tôi không có cái gọi là nhà… nhưng tôi đã từng có…Vậy nên tôi muốn tiêm nhiễm vài điều vào đầu óc mấy cậu nhóc khác. Tôi nói với chúng “Cha mẹ không phải là các vị thánh bởi vì tôi vốn đâu được sống với họ.”

Đối với John Lennon, tuổi trẻ có lẽ phải là việc quậy phá và sử xự như mấy thằng choai choai. Là những lần trèo lên nóc xe buýt, lén lún làm tình, là việc cậu từng bị đình chỉ học khi cho một bà già trên xe buýt xem hình khiêu dâm…

Có lẽ người lớn lúc nào cũng cho rằng tuổi trẻ như vậy là một thế hệ thoái hóa, sống không biết ngày mai, hút thuốc phê pha, rượu chè bê tha…Tôi tin rằng tuổi trẻ sẽ chấp nhận hết tất cả những từ ngữ miệt thị với một nụ cười không biện hộ. Người lớn không bao giờ hiểu rằng tuổi trẻ thật ra chỉ là những đêm đánh chén chém gió cùng bạn bè, những lần bỏ nhà đi hoang lang thang, tuổi trẻ phải úp mặt ngồi khóc thở than, muốn nhảy tõm xuống dòng sông để nó cuốn trôi mình đi… Tuổi trẻ không phải là tương lai ngày mai, không phải là tri thức lý lẽ trong những phiên tòa, tuổi trẻ không phải là những ngày cắm mặt kiệt quệ trên đống sách vở.

Thưở nhỏ, John Lennon cũng thường vẽ truyện tranh và thỉnh thoảng được đăng trên tờ báo của trường, nhưng kể cả khi Lennon đã thể hiện rõ thiên hướng nghệ thuật, nhà trường vẫn tỏ thái độ không hài lòng. “Học trò này chắc chắn theo con đường sa ngã, vô vọng, chỉ giỏi làm gã hề trong lớp, làm mất thời gian của các trò khác.”

Trước khi trở thành một ban nhạc lớn nổi tiếng mang tên The Beatles thì ban nhạc do John Lennon thành lập cũng chỉ là tập hợp những tay chơi nhạc què quặt, chỉ là những gã đã cùng cậu quậy phá trong trường. Thậm chí còn không biết đến cả nhạc cụ mình phải chơi. ”Nó là cái gì? Một cái thùng trà, có một cái cần và một sợi dây. Không sao! Cậu không cần đánh nhiều đâu.” Đó là cuộc trò chuyện trong nhà vệ sinh mà John đang muốn khởi sinh về ý tưởng thành lập ban nhạc, các bạn có thể nghe thấy khi xem phim.

Khi xem đến đoạn này, tôi nghĩ phải chăng tuổi trẻ thì không thể lén lút đuổi theo sau cuộc đời. Tuổi trẻ phải là con người tiên phong. Những bước chân tuổi trẻ mới là kẻ dẫn lối đưa ta đến con đường bất khả. Chẳng có ánh sáng nào soi lối cho tuổi trẻ, vậy nên tuổi trẻ cần phải tự phát ra thứ ánh sáng có thể chiếu sáng chính mình để kẻ thù phải khiếp sợ. Đó là tia sáng chiếu soi thấu tâm can tiếng lòng của tuổi trẻ. Tuổi trẻ phải nhớ rằng tia sáng êm dịu nhất phải là tia sáng cay đắng nhất.

Chính mẹ là người đã mang âm nhạc đến với cuộc sống của John Lennon. Bà là người đã dạy đàn cho John và tặng cậu cây đàn guitar đầu tiên. Chính mẹ đã cho John nghe thứ âm nhạc đầu tiên của Elvis khiến cậu phải thốt ra “Sao Chúa không biến con thành Elvis chứ?” Nhưng bà đã nói với cậu “Vì Chúa sẽ biến con thành John Lennon.”

Một tuổi trẻ có quá nhiều đớn đau khi phải sống xa cha mẹ. Và ngay cả khi vừa tìm lại được mẹ thì John lại phải một lần nữa gánh chịu nỗi đau rời xa bà mãi mãi vì một tai nạn ô tô. Bạn sẽ thấy rằng có khi tuổi trẻ đứng trước một cuộc đời đã bị tách xa khỏi những con người thân thuộc, tách xa khỏi xã hội trong những khoảng thời gian lâu vời vợi.

Nhưng tuổi trẻ cần biết rằng con đường nhiêu khê hiểm trở nhất, đó là con đường mà tuổi trẻ nào cũng cần bước qua. Than ôi tuổi trẻ, phải bắt đầu cuộc lữ hành cô độc của mình.

Từng bị dập tắt niềm đam mê âm nhạc vì dì của cậu không bao giờ tin rằng John có thể nổi tiếng bằng con đường âm nhạc, bà muốn cậu bé Lennon sẽ phát chán với nó khi nói rằng “Cây guitar thì rất tốt, nhưng mà John, cháu không bao giờ có thể kiếm tiền được với nó.”

Hình ảnh người dì của John chẳng còn xa lạ với tất cả tuổi trẻ. Bạn sẽ luôn bắt gặp những bậc phu huynh, những người trưởng thành dùng lý lẽ và kinh nghiệm để dạy bảo tuổi trẻ. Họ tự cho rằng mình khôn ngoan và già đời. Nhưng phải chăng tuổi trẻ chúng ta không cần đến những thứ ấy và sẽ chẳng bao giờ thèm đụng chạm đến. Vì thế tôi muốn cầu xin họ hãy mang tất cả sự hồn nhiên của tuổi trẻ trả lại hết cho chúng ta. Đừng dọa dẫm và áp đặt. Đừng làm điếc tai chúng ta bằng những kinh nghiệm người lớn đã đi qua vì chúng ta cũng tự biết cách đi qua chúng bằng chính đôi chân chứ không phải đi bằng hai lỗ tai. Kinh nghiệm là gì mà không phải là những thói quen người lớn đã bám víu vào đó như những tên hèn nhát. Có lẽ thật vô lễ nếu nói ra những lời này nhưng sự thật kinh nghiệm và sự khôn ngoan của người lớn nhiều khi chỉ là sự rách việc đối với tuổi trẻ.

Tôi muốn bạn gặp gỡ John của những năm tháng tuổi trẻ, trước khi trở thành thành viên của ban nhạc danh tiếng The Beatles. Vì tôi muốn các bạn tin rằng bất kể là một con người tầm thường hay vĩ đại, ai cũng đã từng phải trải qua một tuổi trẻ như thế.

Lặn ngụp thật sâu vào đau khổ và chạm đáy giới hạn của hố thẳm. Tuổi trẻ sẽ học được cách ngoi ngóp lên khỏi những vũng bùn lầy. Đó chính là số mệnh của bất kỳ tuổi trẻ nào. Nơi thấp nhất mới chính là chốn cao vời vợi nhất mà tuổi trẻ đã may mắn đi qua. Ẩn tích đó được ghi hằn trên những vết thương đã liền sẹo chi chít bên trên hình dáng tuổi trẻ.

Đối với tôi, bất kể kẻ nào thuộc dòng giống tuổi trẻ đều không thể tránh khỏi giây phút đó. Chỉ khi bạn bắt đầu bước đi trên con đường tuổi trẻ. Là khi đó đỉnh cao và hố thăm bắt đầu cuộn xoáy vào nhau. Đó mới chính là con đường cao nhã tạo nên giá trị cuộc đời tuổi trẻ. Đó chính là hạnh phúc và khổ đau, niềm vui nỗi buồn, đó là thiên đàng và địa ngục. Tuổi trẻ phải đi sâu vào hỏa ngục thì tuổi trẻ mới có thể mỉm cười nhìn lại tất cả cuộc đời đã đi qua. Nơi nguy hiểm tối hậu nhất mới chính là nơi ẩn náu tối thượng.

Tôi luôn tin rằng sẽ đến lúc tôi vẫy tay tạm biệt dĩ vãng của một thời tuổi trẻ nông nổi sẽ đi qua, nhưng đó là chuyện của tương lai. Còn bây giờ, hãy sống phó mặc chúng, bạn phải hiểu rằng chẳng có gì xảy ra trong cuộc đời bạn mà không thuộc về bạn. Tuổi trẻ chỉ việc bước đi, không có lầm đường lạc lối vì sau cùng tuổi trẻ sẽ tự biết cách đưa ta trở về. Rồi sẽ có ngày bản ngã riêng tư của chúng ta cùng những trưởng thành đã đi hoang trong suốt tuổi trẻ, phân tán giữa những sự việc tình cờ và ngẫu nhiên tự biết cách tìm ra cho mình một con đường.

Tôi rất yêu quý âm nhạc của The Beatles, yêu quý con người  tự do của John Lennon. Nhưng có lẽ vẫn còn quá nhiều bạn trẻ Việt Nam xa lạ khi ai đó gọi tên John Lennon. Tất nhiên nếu chỉ bằng vài ba chữ hạn chế và vốn kiến thức hạn hẹp, tôi khó có thể để các bạn hiểu hết về con người này. Và thực tình tôi cũng không có ý ngồi liệt kê một bảng sơ yếu lý lịch của một con người vĩ đại mà nếu bạn muốn hiểu rõ, bạn chỉ cần ngồi trước màn hình máy tính rồi gõ cái tên đó vào google thì cả cuộc đời anh ta đã hiện ra trước mắt bạn. Bài viết chỉ là tình cảm riêng tôi,  là sự đồng điệu trước tuổi trẻ của một con người tự do. John Lennon là một con người vĩ đại nhưng sự vĩ đại đó cũng chỉ được xây từ những viên gạch tầm thường.

Tôi đã học được rằng người lớn có thể chê cười tuổi trẻ của chúng ta. Bởi tuổi trẻ của họ đã chết, nhưng tuổi trẻ chúng ta chỉ vừa mới khởi sinh. Tuổi trẻ cần phải sống cùng nỗi cô đơn vô hạn, nhưng là đứng thẳng và nhìn thẳng, không phải là sự cúi đầu và vênh tai ngóng lên những kinh nghiệm từ người lớn. Tuổi trẻ kiêu hãnh vô biên, chúng ta không cần sự giúp đỡ từ những người đã chết đi xây dựng lại cuộc đời của chúng ta. Chỉ có tuổi trẻ đơn độc tạo dựng lên ngôi nhà chính mình và thổi linh hồn vào đó. Bất kể tương lai là gì thì cũng không thể dừng bước chân hôm nay, chân trời mới vẫn đang chờ đợi. Dù thế giới có lên tiếng ngăn cản thì tuổi trẻ này ta cũng chỉ cần sống một cuộc đời mà mình đã cưu mang sẵn trong tự thân.

Tôi thực sự rất cảm động khi xem xong bộ phim và hiểu hơn về cuộc đời tuổi trẻ  của John Lennon. Tôi mong bài viết này sẽ là một ngọn hoa tiêu dẫn lối bạn tìm về  tuổi trẻ trong bạn. Chúng ta, cả bạn, tôi hay những con người vĩ đại. Cũng chỉ đang đứng cùng một vạch xuất phát, nhưng chúng ta có thể chạy bao xa. Tất cả là tùy thuộc vào chính bản thân chúng ta. Nếu bạn vẫn đang loay hoay chưa tìm được lối ra, đừng lo sợ. Vẫn còn những tuổi trẻ khác chẳng có gì tốt đẹp hơn bạn?

Bài viết có sử dụng một số tư liệu trong Wikipedia và những chi tiết tôi đã xem được trong phim Tuổi trẻ của John Lennon.

Tác giả: Ni Chi
Edit: Triết Học Đường Phố

Featured image: stuarthampton

Triết học có nên được sinh ra từ đường phố?

11

Triết học, philosophy, theo định nghĩa là tình yêu dành cho sự thông thái. Đường phố ở đây không đơn thuần là những con đường được xây dựng trên con phố nhất định, nó là con đường được tạo ra từ những bước chân. Nơi nào có bước chân ta qua, nơi đó đích thực là con đường. Và khi tôi nghĩ  đến triết học đường phố, nghĩa là tôi đang muốn nói đến quá trình tìm kiếm sự thông thái trải dài qua mỗi bước chân của chính chúng ta chứ không phải là sự dẫm đạp in dấu có sẵn trong sách vở.

Theo quan điểm riêng tôi, triết học đường phố là gã ăn mày rách rưới bị nhà nhà thù ghét, luôn bị trói buộc tinh thần tự do bằng xiềng xích. Vì không sinh ra để phụng sự cho sự mê tín của đám đông nên những gì triết học đường phố nói phải chăng chỉ là sự điên rồ. Có thể tôi sai, nhưng tôi nhìn thấy thứ triết học đối với đám đông, đó luôn chỉ là một con đường quanh co dẫn lối vào nhà họ.

Hầu hết đám đông cho rằng triết học chỉ nên dành cho nhà tri thức, đó mới chính là thứ xã hội cần tôn sùng, đáng để cư ngụ trên cao. Triết học phải có nguồn gốc khởi sinh trong sách vở? Tôi thì không nghĩ thế. Tôi nghĩ rằng những ông triết gia đi ra từ sách vở thực ra chỉ là những tên mọt sách ngồi gặm nhấm đống lý thuyết này qua lý thuyết khác trong khi chưa bao giờ bước ra khỏi nhà. Còn các bậc tiền bối khai minh ra thứ triết học được sử sách ghi chép, liệu đó có là tinh thần của mỗi chúng ta? Và phải chăng nếu các bậc tiền bối  đang dạo chơi trên con đường đi đến giác ngộ mà mỗi chúng ta tôn kính, họ có hiểu hết tâm can chúng sanh thì các con chiên của họ chắc gì tránh khỏi cảnh nhai đi nhai lại lý thuyết cơ bản mà không đủ năng lực để hiểu hết chúng. Tôi đã nhìn thấy thứ triết học kéo theo đám đông như một bầy lừa. Tăng trưởng lớn mạnh cùng đám đông cùng với tinh thần được gọi là đức hạnh. Nhưng đối với tôi triết học của đám đông chỉ là thứ triết học với đôi mắt khờ dại.

Tôi cũng nhìn thấy những nhà hiền triết luôn tìm cách nói đến ý chí ước muốn chân lý. Nhưng họ lại luôn cố đặt định lý do vững chãi cho những triết lý đám đông. Bởi chân lý dường như chỉ luôn là những điều đám đông nói. Và những nhà hiền triết nổi danh phải luôn là những người được đám đông kính ngưỡng. Nhà hiền triết nào kiên quyết bảo vệ đám đông thì chân lý người đó đưa ra mới chính là triết học. Chính vì thế mà cần đến những mối quan hệ giao hảo với đám đông. Tôi lại nghĩ khác, muốn đi đến tính chất đích thực của chân lý thì điều đáng phải làm đầu tiên là đập vỡ đi ý chí kính mộ của đám đông. Bởi lẽ chân lý thì chẳng bao giờ đến từ đám đông lố nhố.

Tại sao con người luôn đặt câu hỏi lớn cho sự thông thái, những hiểu biết xung quanh chúng ta? Bởi vì con người luôn phải sống trong sợ hãi, họ không có khả năng tự chủ. Con người chỉ luôn sợ những thứ họ không biết. Và nơi nào trong cuộc sống họ là nơi ẩn chứa nhiều nỗi sợ hãi nhất? Đó phải là đường phố. Chỉ có khi chúng ta bước xuống đường thì vỏ bọc bảo vệ an toàn bởi những bức tường mới rời xa ta, đó là khi bạn không còn tự khả năng kiểm soát những gì sẽ diễn ra.

Theo tôi, nhà triết học đích thực là kẻ chấp nhận bước đi giữa cát vàng nóng bỏng, chịu sự thiêu đốt của ánh mặt trời, chẳng bao giờ thèm khát những dòng suối mát mẻ, không chịu yên nghỉ dưới bóng cây. Một nhà hiền triết đích thực phải là kẻ luôn thèm khát sự đói khát và cô đơn. Triết học thực sự phải là nỗi đau khổ riêng tư của mình, phải là tinh thần đã bị quăng vứt vào trong cái hố đầy tuyết lạnh. Không chỉ biết đến sự lạnh lẽo băng giá mà đó còn phải là cảm giác ngây ngất của sung sướng.

Đường phố sẽ là nơi giải thoát triết học khỏi hang động nô lệ, giải phóng khỏi những lâu đài cao sang, khỏi những sùng bái tín ngưỡng. Chỉ có triết học trên đường phố mới đủ sức mạnh vượt qua rào chắn mà không sợ hãi kinh hoàng. Bởi lẽ hầu như kẻ chân chính chỉ luôn xuất hiện ở những nơi bần cùng nhơ nhớp nhất. Có lẽ chỉ có đường phố mới là nơi sinh sống của những con người chân thật, tinh thần tự do. Đó mới chính là nơi tận cùng của đáy sâu cuộc sống. Còn những tòa nhà chính phủ, biệt thự lớn, lâu đài cao sang, đó chỉ là nơi cư trú của những nhà hiền triết nổi danh. Nhưng thứ triết phát ra từ miệng của những kẻ đó, đối với tôi chỉ là thứ dùng để nuôi ăn kỹ lưỡng cho cái bụng căng tròn của họ.

Triết học không thể chỉ là một sự quen thuộc, không thể là trí huệ hiền minh luôn phải nương thân vào một chốn yên thân. Đó phải là sự hạnh phúc trong những chốn khủng khiếp kinh hoàng nhất. Đó chắc chắn không thể là tri thức mà chúng ta vẫn trông thấy. Nó phải nằm tít sâu những hố thẳm và những người muốn chạm đáy suối nguồn thì không thể nào rút ra mà tránh khỏi cảnh bàn tay bỏng lửa.

Một nhà hiền triết đích thực thì không bao giờ phải run rẩy, không bao giờ bị xô đẩy ý chí và sức mạnh khi căng buồm vượt biển. Chính vì thế mà triết học đích thực phải là triết học của sự hoang dã, của tinh thần băng vượt qua biển cả. Và phải chăng, đường phố luôn là sự lựa chọn cho triết học?

Tác giả: Ni Chi
Edit: Triết Học Đường Phố

Featured image: geralt