16.8 C
Da Lat
Thứ Hai, 25 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 114

[Bài dịch] 11 điều kì lạ về “nấm thần” (Magic mushroom)

Thoạt nhìn qua, “Psilocybe cubensis” (tên 1 giống nấm thần) chẳng có gì ma thuật cả. Thật ra, tên khoa học của loại nấm nâu nâu trắng trắng này có nghĩa là “đầu hói”, nghe hợp có vẻ với loại nấm này hơn. Nhưng những ai đã từng thử đều nói rằng thứ nấm này làm thay đổi cả thế giới của họ.

Nấm thần là một chủng nấm bao gồm khoảng 100 loài nấm có chứa psilocybin và psilocin, nguyên nhân chính gây ra sự ảo giác và các trạng thái thức thần khác. “Nấm thần” đã được sử dụng từ lâu trong các nghi thức tôn giáo ở Trung Mỹ, còn bây giờ nó nằm trong danh sách hàng trên chợ đen của Mỹ và nhiều quốc gia khác, nơi mà nó được coi là một chất bị kiểm soát.

Làm sao mà mấy cây nấm nhỏ xíu đó có thể mở mang đầu óc bạn ra được? Hãy cùng tìm hiểu những bí mật lạ lùng của nấm thần nhé.

1. Nấm thần tạo ra siêu kết nối trong não bộ

Các chất có trong nấm làm cho người dùng có cảm giác “nhũn não”, nhưng thực tế, nấm lại có tác dụng hoàn toàn ngược lại. Psilocybin tăng cường khả năng liên kết của não, theo một nghiên cứu của King’s College London. Trong nghiên cứu này, 15 tình nguyện viên được scan não của mình bằng máy cộng hưởng từ fMRI. Sau khi đã sử dụng 1 liều nấm thần, họ sẽ được scan não, và scan lại một lần nữa sau khi sử dụng thuốc giả dược. Kết quả của bản đồ liên kết não cho thấy khi sử dụng psilocybin, các dây thần kinh của não không còn liên kết một cách tự nhiên nữa. Hành vi này của não giải thích vấn đề tại sao người dùng nấm thần kể rằng họ cảm thấy như đang mơ sau khi sử dụng nó.

2. Làm chậm

Nấm thần còn có tác dụng khác lên não. Psilocybin hoạt động bằng cách bám vào các tế bào chuyển vận thần kinh serotonin. Mặc dù vẫn chưa rõ cơ chế hoạt động này tác động lên não một cách chính xác, nhưng các nghiên cứu cho rằng nấm thần còn có các hiệu ứng liên quan tới giao tiếp giữa các vùng não do đó tăng cường khả năng đồng bộ của não bộ.

Thalamus Brain Anatomy
Photo: Shutterstock

Trong một nghiên cứu, những hình chụp của não bộ của những tình nguyện viên sử dụng nấm thức thần cho thấy nó làm giảm khả năng truyền thông tin ở phần đồi não, nằm sâu ở giữa não. Làm chậm khả năng hoạt động của đồi não từ đó làm cho thông tin di chuyển khá tự do trong não, vì đồi não như cánh cổng để giới hạn những liên kết, theo nghiên cứu của Imperial College London.

3. Quá khứ của nấm thần

Người Trung Mỹ đã sử dụng nấm thần rất lâu trước khi người châu Âu đặt chân đến vùng đất mới này. Loại nấm này phát triển tốt ở khí hậu nơi đây. Nhưng con người đã sử dụng loại nấm này từ bao lâu rồi?

aHR0cDovL3d3dy5saXZlc2NpZW5jZS5jb20vaW1hZ2VzL2kvMDAwLzA4OS82ODgvb3JpZ2luYWwvTWFnaWMtbXVzaHJvb21zLWdvLXdheS1iYWNrLmpwZw==
Credit: Pichugin Dmitry/Shutterstock

Đây là câu hỏi khá hóc búa, một bài báo cáo năm 1992 trong 1 bản tin “Tổng hợp: chuyến đi của thảo dược thức thần và văn hóa”, cho rằng những tác phẩm từ đá ở Sahara từ 9000 năm trước đã mô tả NẤM THẦN. Hình dáng của một người đang cầm một vật trông giống nấm trên tay đã được tạc lên đá. Những bức hình khác cho thấy nấm thần còn xuất hiện sau những hình dáng của con người (vật giống nấm trên bức điêu khắc đá đó đã được cho rằng là hoa, mũi tên hay các loại cây khác). Tuy nhiên, đây vẫn là một câu hỏi bí ẩn: Người cổ đại ở Sahara đã trip nấm thần hay chưa?

4. Nấm thần giải thích về ông già Noel?

Theo truyền thuyết, một câu chuyện mua vui trong lễ giáng sinh. Theo nhà nhân chủng học John Rush từ đại học Sierra, nấm thần giải thích cho nguyên nhân trẻ con hay ngồi chờ các nàng tiên mang quà tới vào đêm Noel.

aHR0cDovL3d3dy5saXZlc2NpZW5jZS5jb20vaW1hZ2VzL2kvMDAwLzA4OS82ODkvb3JpZ2luYWwvTWFnaWMtbXVzaHJvb21zLWV4cGxhaW4tU2FudGEuanBn
Credit: Elena Masiutkina/Shutterstock

Rush cho rằng pháp sư Siberian đã từng mang quà là nấm thần cho từng nhà vào mỗi mùa đông. Tuần lộc là linh vật của những thầy pháp này, và sử dụng nấm thần làm cho những thành viên của bộ tộc đó tin rằng tuần lộc có thể bay. Thêm nữa, bộ đồ đỏ trắng của Santa trông như màu của loại nấm thần Amanita muscaria, giống này mọc ở đâu, đoán thử đi, dưới cây thông! Tuy nhiên, giống này có độc, đừng có thử ăn.

Cảm tưởng như đang bad trip? Đừng lo lắng, Không phải tất cả các nhà nhân chủng học đều bị thuyết phục về sự liên quan giữa nấm thần và giáng sinh. Nhưng Carl Ruck, nhà nghiên cứu Hy Lạp và La Tinh Cổ Đại đến từ Đại Học Boston, đã chia sẻ với Live Science vào năm 2012: “Thoạt tiên thì người ta nghĩ điều đó kỳ quặc, nhưng không.”

5. Nấm thần thay đổi con người rất lâu dài

Các nhà tâm lý học cho rằng chỉ có vài điều thật sự ảnh hưởng đến tính cách của một người đã trưởng thành, và nấm thần là một trong số những điều đó.

Một nghiên cứu năm 2011 cho thấy sau một liều Psilocybin, con người muốn trải lòng, muốn trải nghiệm nhiều hơn trong khoảng thời gian ít nhất 14 tháng, một sự thay đổi hoàn toàn. Người có tính cách hòa đồng nay lại càng sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật tốt hơn. Họ còn có cảm xúc hơn và văn chương hơn.

Lý do của những thay đổi này có lẽ do Psilocybin đã tác dụng lên cảm xúc. Người dùng tả rằng trip nấm thần là một kinh nghiệm đáng quý, họ cảm thấy rất vui vẻ, họ liên kết với mọi người và thể giới xung quanh họ. Những trải nghiệm này vẫn nán lại với người dùng một thời gian dài. (Trong thực tế, các nhà nghiên cứu đã rấ khổ sở để đảm bảo rằng tình nguyện viên sử dụng nấm không bị bad trip, bởi vì đã có người dùng nói rằng nấm thần gây lo âu, sợ hãi và ói mửa. Tình nguyên viên được trip trong một căn phòng với nhạc nhẹ và không gian dịu.)

6. Nấm thần loại bỏ nỗi sợ hãi của bạn

Một tác dụng lạ kì khác của nấm thần: dẹp bỏ nỗi sợ của bạn. Nghiên cứu năm 2013 cho thấy những con chuột sau khi được tiêm một liều psilocybin, chúng không còn “sợ chết cóng” khi nghe âm thanh lạ nữa, chúng còn biết cách đối phó với giật mình. Còn những con chuột không được sử dụng thuốc, nó cũng không sợ tiếng động lạ, nhưng sau một thời gian dài hơn.

Những con chuột đó chỉ được tiêm một liều psilocybin nhẹ, và các nhà nghiên cứu mong rằng nghiên cứu trên động vật này sẽ tạo cảm hứng cho việc nấm thần sẽ được dùng để chữa trị các vấn đề tâm lý. Ví dụ, một liều nấm thức thần nhỏ có thể chữa khỏi chứng hậu chấn thương tâm lý.

7. Nấm thần tạo ra gió

Nấm thần không chỉ tồn tại để cho con người có cảm giác phê, tất nhiên, nó còn có cuộc sống riêng của mình. Một phần của sự sống đó là sinh sản. Như các loại nấm khác, nấm thần sinh sản nhờ phôi bay khắp trong không khí để tìm nơi phát triển.

Nhưng nấm thường sống ở những nơi sát mặt đất trong rừng, chỗ mà gió không thổi tới. Để phân tán phôi, một số loại nấm thần ( bao gồm cả loại gây ảo giác Amanita muscaria) tự tạo ra cơn gió riêng của nó. Để làm được vậy, cây nấm tăng lượng nước thoát hơi trên bề mặt của nó. Lượng nước bốc hơi này, cùng với không khí được tạo ra bởi sự bốc hơi này, sẽ mang phôi nấm đi. Việc này sẽ giúp phôi nấm bay cao cỡ 4inches (10cm) trên nấm, theo một thuyết trình năm 2013 tại cuộc họp của Cộng Đồng Vật Lý Hóa Kỳ, Phân Khoa Cơ Học Chất Lỏng.

8. Có rất nhiều loại nấm

Có ít nhất 144 loại nấm có chứa hoạt chất thức thần, theo một nghiên cứu năm 2005 trong bài báo về nấm thần trong y học (International Journal of Medicinal Mushrooms). Mỹ Latin và Caribean có hơn 50 loại. Còn riêng Mexico đã là 53. Ngoài ra, 22 loại nấm thần có ở Bắc Mỹ, 16 ở châu Âu, 19 ở Úc và khu vực địa trung hải, 15 loại ở Châu Á, và chỉ có 4 loại ở châu Phi.

9. Trải nghiệm với nấm thần

Gần đây các nhà nghiên cứu đã tiến hành các thí nghiệm với chất thức thần như một phương thức điều trị lo lắng, trầm cảm, và các vấn đề thần kinh khác. Lĩnh vực nghiên cứu này đã bị đóng băng cả thập kỉ và rất khó để tiếp tục, vì các chất thức thần bị liệt vào bảng 1, có nghĩa là theo DEA nấm thần không có giá trị y học và có khả năng bị lạm dụng cao.

Trong quá khứ, Psilocybin cũng như các chất thức thần đã từng là trung tâm của các công trình nghiên cứu quy mô. Có thể kể đến, những năm 60, nhà tâm lý học của Havard, Timonthy Leary và các sinh viên của ông đã làm 1 chuỗi các thí nghiệm với nấm thần, có tên gọi “Psilocybin Havard”. Trong số đó, nổi tiếng nhất là thí nghiệm Marsh Chapel, trong thí nghiệm này, tình nguyện viên được cho sử dụng psilocybin hoặc thuốc giả dược trước một buổi lễ trong nhà thờ. Những người dùng nấm thần nói rằng họ có một trải nghiệm tâm linh rất thú vị. 25 năm sau, vào năm 1991, những người đã từng dùng chất thức thần trong thí nghiệm đó vẫn nhớ mọi thứ còn sắc nét và thiêng liêng. Một số người mô tả đây như bước ngoặc của đời họ.

“Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng có một môi trường ngoài kia, lớn hơn nhiều những thứ tôi từng biết. Tôi có giải thích của mình về nó, nhưng nó từ một mệnh đề trở thành thực tiễn. Cuộc đời của tôi đã thay đổi hoàn toàn một cách nào đó sau khi biết được vẫn có cái gì đó ngoài kia,” một nhà nghiên cứu vào năm 1991 cho biết.

10. Vai trò trong truyền bá văn hóa phản kháng

Trải nghiệm chất thức thần là một phần của văn hóa hippie, và người đã mang nấm thần đến với nền văn hóa drugs của Mỹ là một nhà văn và thực vật học có tên Terence McKenna. Ông ấy đã dùng thử chất thức thần từ hồi niên thiếu, nhưng tận tới năm 1971, sau một cuộc hành trình đến Amazon để khám phá nấm thần, cả một rừng nấm, theo tạp chí Wired.

Năm 1976, McKenna và anh trai của ông đã xuất bản Psilocybin: Cách trồng nấm thần (Psilocybin: Magic Mushroom Grower’s Guide), cuốn sổ tay cho những người trồng nấm thần tại nhà. “Những thứ được mô tả trong đây chỉ hơi phức tạp hơn việc làm thạch hay mở đồ hộp thôi.” Mckenna viết những dòng này ở lời mở đầu của quyển sách.

11. Động vật cũng cảm nhận được hiệu ứng

Nấm thần mọc trong tự nhiên, vậy nên động vật hoang dã chắc hẳn cũng đã ăn nấm. Năm 2010, một tờ báo nhỏ của Anh đã báo cáo về việc 3 con dê nhỏ tại một khu bảo tồn, chạy ngang qua nữ diễn viên Alexandra Bastedo, đã phê nấm. Những con dê này có triệu chứng lờ đờ, ói mửa và bước đi lảo đảo. Cần tới 2 ngày để những con dê này hoàn toàn phục hồi.

Tuần lộc Siberian cũng thích ăn nấm thần, theo tài liệu của BBC năm 2009. Vẫn chưa rõ ràng việc tuần lộc có trip giống chúng ta hay không, nhưng vẫn có những người Siberian dám thử uống nước tiểu của tuần lộc đã ăn phải nấm thần để có được trải nghiệm tâm linh theo phong tục của nghi lễ.

Nguồn: Live Science
Dịch: Việt Growers Psychedelics Plants
Edit: Triết Học Đường Phố

*Featured Image: Meditations

📌 Ủng hộ Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[THĐP Translation™] Ra ngoài một mình – Tại sao lại ngại người lạ đánh giá?

E-T-3

Nếu bạn luôn phải chờ đợi người khác để làm một việc gì đó, bạn sẽ không bao giờ làm được việc gì. Một trong những điều thú vị đặc trưng của việc sống ở New York là việc được tự do ngồi uống một mình trong một quán bar, hay ăn một mình trong một nhà hàng mà không phải lo rằng người khác sẽ vội vã đánh giá bạn, bởi vì ai cũng ăn uống một mình. (Tôi nhận ra rằng cánh phụ nữ sẽ khó ngồi một mình mà không bị làm phiền hơn là cánh đàn ông – nhưng những cô bạn của tôi đồng ý rằng ở New York, họ vẫn ít bị làm phiền hơn tất cả các nơi khác.) Tuy nhiên, việc một mình ở những nơi công cộng của tôi cũng có giới hạn: Tôi sẽ không bao giờ mang theo một cuốn sách vào pub vào tối thứ bảy, hay ăn một mình ở nhà hàng được gắn sao Michellin một mình kể cả khi tôi có đủ điều kiện. Tôi đã thường xuyên đi xem phim một mình, nhưng “tự hẹn hò với bản thân” ở một buổi hòa nhạc là điều không tưởng; vì vài lí do, việc đó khiến tôi cảm thấy như một kẻ thua cuộc.

Tôi không nghĩ rằng có nhiều logic đằng sau những khác biệt tinh tế này – nhưng, nhờ vào một nghiên cứu sắp được công bố trong Tạp chí Nghiên cứu Người tiêu dùng (Journal of Consumer Research), ít nhất tôi cũng biết được tôi không đơn độc trong tư duy về chuyện đi chơi một mình.

Rebecca Ratner và Rebecca Hamilton từ trường đại học Maryland và Georgetown là người đã đưa ra nghiên cứu trên – tôi tìm thấy trên trang Science of Us  – nghiên cứu cho rằng ta thoải mái hơn rất nhiều khi bị nhìn thấy đang làm những việc “tiện lợi” (những hoạt động có chủ đích) một mình, hơn là bị nhìn thấy khi đang làm những việc mang tính “tiêu khiển” (những hoạt động giải trí). Có lẽ là, ví dụ trường hợp bạn thích mua sắm giày, và mua giày có lí do của nó – để sở hữu đôi giày – bạn sẽ không phải sợ người ngoài đánh giá việc đi mua giày một mình. Tuy nhiên trong trường hợp những thú vui tiêu khiển, nghiên cứu chỉ ra rằng, ta thường “đoán rằng sẽ có những suy nghĩ tiêu cực từ người khác về khả năng quan hệ xã hội của bản thân”: Ta thường nghĩ rằng người khác sẽ đoán ta không thể tìm được người bạn đồng hành.

Cho nên mới có lời khuyên phổ biến là mang theo một cuốn sách khi vào nhà hàng một mình, vì nó tiện lợi. “Nhìn đây!” bạn đang báo hiệu cho những thực khách khác, “tôi phải đọc hết quyển sách này, vừa ăn vừa đọc thật là tiện.” (Sẽ tốt hơn khi bạn đọc báo hoặc tài liệu học tập hơn là một cuốn tiểu thuyết kinh dị.) Nó cũng có nghĩa là: “Tiện thể nói luôn, chắc chắn tôi không nghe lén các ông nói chuyện đâu.”

Nghiên cứu của Ratner và Hamilton cũng chỉ ra rằng chúng ta rất kém trong việc biết rằng ta sẽ vui thế nào khi tham gia những hoạt động tiêu khiển một mình. Trong một thí nghiệm, họ sắp xếp để mời một số sinh viên tham dự một buổi triển lãm hội họa khi những sinh viên này đang đi trong trường một mình hoặc cùng bạn bè. (Để khích lệ, những người tham dự có khả may trúng được 250 đô la.) Những sinh viên đi một mình thường không chấp nhận lời đề nghị, và họ thường đoán rằng họ sẽ không vui khi ở đó. Nhưng một khi những sinh viên này tới xem triển lãm, họ trả lời rằng họ thật sự thích trải nghiệm này. Nghiên cứu kết luận rằng, nếu ta tránh khỏi những hoạt động vui vẻ chỉ vì nghĩ rằng nó sẽ không vui khi không có bạn đi cùng, ta sẽ đánh mất đi cơ hội được tận hưởng niềm vui.

Tôi nghi ngờ rằng lí do tiềm ẩn của sự khó chịu khi bị bắt gặp đang tham gia các hoạt động một mình, chính là hiện tượng tâm lý: hiệu ứng ánh đèn sân khấu (the spotlight effect*). Hiệu ứng này xảy ra khi ta, qua nhiều năm, phóng đại việc người khác chú ý khi ta lóng ngóng trong giao tiếp xã hội – hoặc thậm chí phóng đại việc người khác chú ý đến ta. Trong một nghiên cứu xuất bản năm 2000, Thomas Gilovich và đồng nghiệp đã thử nghiệm cho những sinh viên trường Đại học Cornell University mặc áo in hình Barry Manilow (ca sĩ nổi tiếng Hoa Kỳ) đi đến những nơi công cộng một mình.

*The spotlight effect: Là hiện tượng người ta tin rằng họ được chú ý nhiều hơn sự thật, nghĩ mình là “cái rốn của vũ trụ”. Lý do đằng sau hiệu ứng này là người ta thường quên rằng mỗi người chỉ là trung tâm trong thế giới của anh ta, không phải thế giới của người khác.

24557703_max

Kết quả là, những người sinh viên trong cuộc thử nghiệm đoán rằng một nửa số người tham dự sự kiện sẽ chú ý. Thực tế cho thấy chưa đến một phần tư số người tham dự chú ý đến họ. Gilovich và đồng nghiệp giải thích rằng: “Chỉ vì chúng ta quá tập trung vào hành vi của bản thân, ta sẽ khó đánh giá chính xác được người khác sẽ chú ý đến ta nhiều thế nào – hay ít thế nào.”

Thật đáng báo động khi đánh giá thấp sự phổ biến của hiệu ứng này. Ví dụ, có nhiều bằng chứng cho thấy nhiều cặp đôi sẽ có giấc ngủ tốt hơn khi 2 người ngủ khác giường. Tôi không biết có bao nhiều người không thể làm được điều này vì ngại người khác sẽ có cái nhìn xấu về mối quan hệ của hai người. Sự lo lắng đó quá vô lý. Dĩ nhiên là nếu có người đứng trong phòng ngủ của bạn và đánh giá ta về cách bạn ngủ, có lẽ bạn nên gọi cảnh sát. Những lo ngại về việc bị xã hội luôn tồn tại sâu thẳm trong mỗi người.

Ngoài việc bạn sẽ tận hưởng được niềm vui nhiều hơn bạn nghĩ, lí do thật sự khiến bạn không nên ngại đi ăn uống, đi xem phim, đi tham gia sự kiện một mình, là sẽ không ai chú ý. Tôi có thể kể cho bạn hàng tá các câu chuyện để khiến bạn tự tin hơn về việc đi ra ngoài một mình sẽ khiến họ nhìn bạn như một con người tự tin và bản lĩnh, và về việc họ ghen tị với thần thái của bạn. Nhưng sự thật là họ đã bị mê hoặc bởi chính những suy nghĩ của họ để có thể chú ý đến bạn quá nhiều. Người đàn ông ngồi cách bạn 2 bàn đang lo lắng về mái tóc của anh ấy. Người phụ nữ ngồi bàn trong góc nhà thì đang tự hỏi tại sao mình lại cưới phải anh chàng ngồi góc đối diện. Cả ba người ấy đều trông có vẻ quan tâm đến người khác, sự thật là họ chỉ đang chú ý đến bản thân họ thôi.

Và sự thật là khi họ quá chú ý đến bản thân họ, bạn sẽ được tự do đến quầy bar, gọi một ly Gin và tonic kinh điển, mở ra một quyển sách và bước ra khỏi bản thân được vài giờ đồng hồ.


Tác giả: Oliver Burkeman, The Guardian
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

 

8 tiếng, tan ca, vác xác thân mệt mỏi về nhà

0

“8 tiếng, tan ca, vác xác thân mệt mỏi về nhà.
Quấn điếu ganja, mơ màng buông mình xuống sô pha…”

https://youtu.be/g9_VYyZtprI

Mấy bro nói sao chứ ngày của bro 8 tiếng còn được quấn vài điếu nằm sô pha, hồi trước em ngày 16 tiếng về đến nhà chỉ có nằm chẹp lép trên giường không còn biết trăng sao. 8 tiếng của bro còn hạnh phúc quá đáng thì cớ sao còn chửi bới inh ỏi trên youtube thế này. Mà nhạc hay lắm, nghe thư giãn lắm, mấy bro làm em nhớ ngày xưa em còn đi làm lắm.

Tại sao chúng ta chăm chỉ làm việc 8 tiếng mỗi ngày? Sáng ra cắp sách đến công ty, thỉnh thoảng đưa mắt liếc nhìn đồng hồ đã sắp điểm giờ tan ca? Chúng ta chán ngán công việc đó nhưng vẫn không thể từ bỏ?

Một câu hỏi quá dễ để trả lời. Chúng ta cần kiếm tiền. Đừng nói với tôi những điều ý nghĩa triết lý xa xôi. Kiểu như tôi sẽ học hỏi được các kĩ năng, kinh nghiệm, điều đó giúp tôi trưởng thành. Tôi làm việc vì tôi biết mình đang cần gì chứ không phải cần chiếc phong bì vào cuối tháng. Công việc đó là ước mơ hoài bão của tôi. Tôi không bao giờ lấy tiền lương làm mục đích của lao động… Ôi thôi bạn đừng kể cho tôi hàng trăm lý do chứng tỏ bạn đang cố gắng làm việc để vẹn tròn ý nghĩa cuộc sống của bạn. Bởi những người làm việc để theo đuổi ý nghĩa cuộc sống riêng họ, họ có thể làm việc 24 tiếng mỗi ngày mà không cần quan tâm đếch gì kim chỉ đồng hồ.

Thật ra có người cũng đang cố gắng làm việc chăm chỉ vì trách nhiệm. Sống ở đời, con người gánh trên vai rất nhiều trách nhiệm. Với cha mẹ, con cái…Để hoàn thành bổn phận của mình, đôi khi người ta phải hy sinh rất nhiều, vất vả kiếm tiền không phải vì quá yêu tiền mà là vì quá yêu thương những người bên cạnh, không dám ngã xuống vì sau lưng còn rất nhiều người đang cần mình chống lưng cho họ.

Tôi từng có suy nghĩ chán ghét những con người làm việc robot. Nhưng có lẽ khi đã sống nhiều hơn những ngày dài cần thiết, tôi nhận ra họ xứng đáng được khen ngợi và động viên. Những kẻ bỏ phố lên núi ngao du với thiên nhiên giống tôi thì khỏe khoắn, vô lo vô ưu như tôi thì may mắn quá. Tôi chỉ là một đứa hèn yếu. Kẻ nào ở lại chiến đấu với bon chen cuộc sống mới xứng đáng là người hùng. Kẻ đó thật ra mới là người can đảm. Có thể họ không đủ can đảm để vứt bỏ những điều mình không thích, nhưng họ đã rất dũng cảm khi tiếp tục ở lại và quyết chí sinh tồn cùng nó.

Tôi nhận ra rằng những kẻ đang cố gắng từng ngày với không chỉ 8 tiếng mà nhiều hơn thế cùng công việc họ chẳng yêu thích, họ đúng là những con người gan góc, dám đương đầu với những điều mình sợ hãi. Những người thuộc loại này, thử hỏi có trùng khơi dữ dội nào mà người cầm lái không vững tay băng qua.

Chúng ta cần được sống với những điều mình yêu thích. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta để cho tâm hồn mình bị cuốn hút về những tiếng sáo vi vu cũng đúng. Biết là có  những ngày ưu sầu bước đi trong ánh hoàng hôn nhợt nhạt, khuôn mặt tối tăm khốc liệt, đôi môi mím chặt nhưng chúng ta sinh ra nhất định đã có sẵn một con đường cần phải bước qua dù đó là một con đường quá dữ tợn.

Tôi từng có thời gian làm việc 16 tiếng một ngày, làm những công việc tệ hại nhất đối với suy nghĩ của cha mẹ tôi. Tất nhiên là ngay cả chính bản thân tôi cũng chán ghét công việc đó. Sáng ra ngập mặt trong giấy tờ, buổi tối cặm cụi cùng đống chén bát trong nhà hàng. Tôi đã bắt đầu công việc ấy bằng việc lấy tay bịt mũi, chớp mắt lia lịa, đưa tay lên cằm, chúng bốc lên những mùi quá  kinh khủng. Ở nơi làm việc, không chỉ là mùi của chén bát chất đống chưa rửa, mà còn cả mùi trộn lẫn các thứ thức ăn thừa trong thùng rác, thi thoảng pha trộn mùi thơm các gia vị của ẩm thực phong phú lọt qua cánh cửa, hòa trộn với mùi ghê sợ của nhà vệ sinh nườm nượp người ra vào. Tôi tin chắc rằng bất kỳ ai  đứng ở vị trí của tôi thì giác quan của họ cũng sẽ phải choáng ngợp.

Nhưng hồi ấy tôi bỏ học, bỏ nhà để vào Sài Gòn. Tôi đã ra đi với một niềm tin vững chắc không bao giờ quay trở về nhà xin cha mẹ tha thứ, và tôi đã quyết tâm trụ lại Sài Gòn bằng mọi giá. Tôi biết là mình chẳng thể mong đợi gì nhiều hơn công việc tôi đang làm sau khi đã giết chết và thiêu rụi đi bao nhiêu niềm tin từ cha mẹ. Tôi là con quái vật đáng ghét nhất hành tinh. Tất cả khó khăn tôi đã và đang trải qua là cái giá cho tội ác tôi đã gây ra. Tôi làm gì có quyền sợ hãi, dù cho đây là chút hơi thở cuối cùng của một đứa khốn nạn đang sống những ngày tuyệt vọng.

Tôi không có ý kể lể trình bày khó khăn. Tôi chỉ muốn các bạn biết rằng tôi đã từng sống qua những ngày đó. Tôi hiểu những gì người khác đang trải qua. Những người giống tôi, chán ghét công việc hiện tại nhưng không thể từ bỏ. Không ai làm gì mà không có lý do của họ. Tôi biết điều đó luôn luôn đúng.

Tôi biết họ đang bước trên một con đường quá cô đơn, mặc dù có rất nhiều người đang cùng bước trên đó. Trên con đường ấy, bạn chỉ có thể căm nín im lặng lắng nghe mỗi bước chân riêng của chính bạn. Những bước chân vẫn lầm lì bước đi trên những tiếng rít mạnh giễu cợt của sỏi đá.

Không thể dừng bước, mặc cho tinh thần trì trệ nặng nề vẫn luôn xui khiến và rót vào tai tôi từng giọt, từng giọt, nhưng phải chăng tâm hồn người chiến sĩ cần trở nên chai sạn hơn thế nữa?

Cố gắng, cố gắng hơn nữa. Sự mạnh mẽ trong tôi thách đấu tinh thần sa trụy đang muốn lôi nó xuống hố thẳm. Tinh thần trì trệ nặng nề, tôi phải luôn xem nó là kẻ thù truyền kiếp.

Tôi đã từng sống những ngày như thế. Đã từng có một lòng can đảm chẳng khác gì một kẻ sát thủ tuyệt vời. Nó kiêu hãnh trước cuộc đời mỗi khi cất tiếng. Sao? Cuộc sống chỉ có thế thôi sao? Tôi tự tin vì mình có lòng can đảm. Nhưng đến lúc mọi sự cùng đè nén tôi ngạt thở. Đã đến giới hạn thì ngay cả lòng can đảm cũng không đủ để dập tắt mọi chán nản rã rời. Lòng can đảm cuối cùng cũng chịu dừng chân lên tiếng: “Này, gánh nặng cuộc đời, đã đến lúc ta với mi phải quyết một trận sinh tử thôi, ta và mi hôm nay phải có một người chết.” Giây phút đó tôi sống và chấp nhận mình là kẻ hèn yếu.

May sao là bên cạnh tôi không có ai cần bờ vai tôi để nương tựa. May sao tôi sinh ra không mang vác nhiều trách nhiệm. Và dù tôi có chấp nhận biến mình thành kẻ hèn nhát thì cũng chẳng ảnh hưởng đến ai. Tôi lại không có quá nhiều ham muốn nên cả tôi và cuộc sống này đã cùng học cách bằng lòng với nhau.

Bởi không còn gánh nặng nào nên tôi cũng chẳng quan tâm tương lai sẽ lôi kéo tôi đi đến đâu. Tôi không thể cứ mãi chạy theo một con đường dài tận thiên thu vĩnh viễn. Bởi càng bước đi, tôi chỉ càng thấy mình đứng chơ vơ giữa những khoảng không man dại hoang liêu, lạc loài giữa màn đêm hoang tịch.

Hỡi các bạn gan lì đứng chung quanh tôi, tôi biết cũng có khi bạn muốn cất tiếng cười như chưa từng nghe một con người cười như bạn trong cõi đời này. Cũng có khi bạn muốn vứt bỏ mặc kệ tất cả, không cần biết mình là ai. Tôi biết, biết tất cả. Vì thế mà tôi ở đây, để các bạn hiểu rằng vẫn có tôi luôn hiểu thấu và cảm thông cùng các bạn.

“Và không gian bao la là nhà ta lim dim trôi la đà.
Nơi đây không bon chen ganh đua riêng mình ta ta tà tà.”

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: www_slon_pics

[Quora] (Những câu chuyện trong) đạo Hindu chỉ là huyền thoại hay có thật?

0

Trả lời từ Ajay Krishna, The student of life

Cái gì là thật và cái gì chỉ là một mảnh tưởng tượng?

Không có câu trả lời chắc chắn cho câu hỏi này. Cái bạn cảm nhận được có thể không phải là thực. Thế giới chúng ta có thể không phải là thực. Nhưng nó không quan trọng. Những gì bạn học được khi còn sống mới quan trọng. Những gì giúp bạn trưởng thành mới là thật.

Hinduism là một văn hoá, một lối sống đã tiến hoá trong nhiều nghìn năm. Những câu chuyện, hay còn được gọi là puranas, có vẻ như được thêu dệt phóng đại và khó tin. Dù cho những vị thần thánh trong đó đã từng tồn tại hay không không quan trọng. Rút ra những tinh tuý. Hấp thụ những nguyên tắc. Đạo Hindu không phải chỉ có chuyện thờ phượng thần linh. Có rất nhiều chi pháp và phương pháp để lựa chọn Con đường tri thức, con đường phục vụ vị tha vô ngã, con đường khổ hạnh, con đường thờ phượng, vân vân… Mỗi người có thể lựa chọn cho mình con đường thích hợp. Một tâm trí non nớt có thể không hiểu những gì đã được viết, nhưng sẽ toàn tâm tôn kính và trung trung thực với niềm tin của anh ta. Anh ta có thể tin những câu chuyện kia là hoàn toàn có thật, nhưng đó lại chính là sức mạnh của anh ta, một niềm tin tưởng không lung lay.

Còn đối với những tâm trí thông minh hơn thì tìm thấy chân lý ẩn sau từ ngữ, anh ta tìm kiếm những ý nghĩa sâu sắc hơn và phát triển.

Cái đẹp của Hinduism, hay bất kì tôn giáo nào khác, dù bạn có chọn con đường nào, bạn vẫn sẽ có được hạnh phúc và bình an.

Cho nên nếu bạn hỏi Hinduism có thật không, câu trả lời chắc chắn là có. Nếu nó có hư cấu, huyền thoại thì chỉ là một phần nhỏ, nhưng nói tóm lại thì chuyện này không quan trọng.

Source: Quora
Phóng dịch: Ka Ka

Featured image: Marisa04

Tôi, người Kito hữu hay tín đồ Công giáo? Chất vấn Jesus trong mơ

0

Tín đồ Công giáo

Giống như bao đứa trẻ khác sinh ra trong một gia đình Công giáo tại Việt Nam, tôi được đưa đến nhà thờ từ khi còn rất nhỏ để trải qua nghi thức rửa tội và theo đó, trở thành một Kito hữu. Mặc dù được “nhập đạo” trong trạng thái chưa phát triển nhận thức nhưng tôi không cảm thấy thụ động, ngược lại còn có phần thoả mãn bởi lẽ tôi đã lãnh nhận tôn giáo như một phần tài sản kế thừa hay một yếu tố di truyền từ cha mẹ.

Bạn biết đấy, dẫu có chào đời với một cơ thể khuyết tật, chúng ta vẫn nên học cách hài lòng với những gì đấng sinh thành ban cho vì đó là những thứ tốt đẹp nhất (trong hầu hết mọi trường hợp).

Tuổi thơ của tôi gắn liền với các buổi thánh lễ, đôi khi háo hức, đôi khi bị bắt buộc. Tôi còn nhớ rất rõ thói quen ấy, hễ cứ nghe thấy tiếng chuông nhà thờ là lập tức tắm rửa sạch sẽ, quần tây áo trắng, sốt sắng di chuyển trên con đường bê tông đổ nát. Ở đó, người đông như trẩy hội. Ở đó, không khí thật trang nghiêm. Ít ra thì tôi thấy tiết học giáo lý ngắn ngủi sáng Chúa nhật vẫn bổ ích hơn môn Đạo Đức thời tiểu học, môn Giáo Dục Công Dân thời trung học cơ sở, trung học phổ thông.

Tôi mỉm cười đắc ý, vì sao ư? Vì tôi là con Thiên Chúa. Sự tự hào non trẻ ấy thậm chí còn khiến tôi lao vào ẩu đả với một người bạn thân hồi năm lớp 4 chỉ vì một câu nói mang tính chất đùa giỡn. “Nghe bảo đạo Thiên Chúa có thằng Dây-su (Jesus).”

Để rồi mọi thứ dần sụp đổ, thể xác càng to lớn, niềm tin trong tôi càng nhỏ bé, dần dà trở thành một đứa trẻ, dễ dàng bị hiếp đáp bởi những kẻ tồi tệ. Tôi nhìn thấy một bà lão phúc hậu dâng hiến rất nhiều thời gian và tiền bạc cho giáo xứ nhưng lại đi bày bán các mặt hàng độc hại chỉ vì lợi nhuận kinh tế. Tôi nhìn thấy những gã đàn ông đốn mạt vẫn sống phè phỡn ngoài xã hội, những tên giả tạo vẫn được đám đông tin tưởng. Tôi nhìn thấy bất công đầy rẫy, kể cả bên trong nhà dòng của Chúa. Tuy nhiên, đừng lo lắng, chỉ cần họ đến với thánh đường 45 phút mỗi tuần, họ sẽ được tha thứ!?

Đồng tiền chi phối, Judas Iscariot sẵn sàng bán rẻ con Thiên Chúa và những cô nàng bán nước giải khát trên đường quốc lộ cũng đang học cách kinh doanh bất động sản.

Đại hồng thuỷ dâng trào, giông tố mang theo sự đen tối, chỉ còn tôi lạc lõng trên vũng nước. Tôi nhìn thấy thánh giá, Jesus, máu đỏ và những cây đinh gỉ sét, mờ ảo, rõ ràng, không thống nhất.

“Người có thật?”

Tôi choàng tỉnh giữa lòng thành phố, chạy băng qua vài con hẻm hôi thối, từng bước chân loạn lạc. Lại thêm một con hẻm nữa hiện ra, rác thải ngập vỉa hè, thi thể tràn cống rãnh, điện thoại thông minh, dân cư đần độn.

Tôi hoài nghi…

Người Kito hữu

Kể từ khi đánh mất đức tin, tôi bắt đầu dành thời gian cho việc tìm hiểu các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo hay gần gũi hơn là đạo Cao Đài. Tôi khát khao nhìn thấy sự tồn tại của thần linh thay vì chấp nhận những lý giải được khoa học đưa ra.

Đã có lúc tôi tin tưởng vào thiên kinh Quran (Hồi giáo) rồi bất chợt nghiên cứu Phật sử, thỉnh thoảng lại phó thác nơi Shiva, một trong 3 vị God chính của Hinduism. Mải mê lang thang giữa muôn vàn tín ngưỡng, tôi chán nản nhận ra rằng chẳng thứ gì có thể (tuyệt đối) thuyết phục được bản thân. Suy cho cùng, thượng đế cũng chỉ là bậc đáng kính thuở xa xưa còn tôn giáo hình thành nhờ vào ảo giác, chất thức thần, sự tin cậy và yếu tố di truyền. Tôi đang nghĩ vậy.

Giai đoạn “vô thần” tiến triển trong vài năm, tôi dần dần rời xa Thiên Chúa dù vẫn thường xuyên lui tới nhà thờ mỗi khi cảm thấy bế tắc hoặc đơn giản hơn là chẳng còn chỗ nào khác để đi. Đối với tôi, không gian bên trong bốn bức tường giáo xứ luôn luôn mang lại sự thanh tẩy cần thiết, nó chữa lành mọi thương tổn.

Một buổi chiều thứ 7 cách đây hơn ba tháng, tôi chạy xe vào một nhà thờ rộng lớn thuộc thành phố Biên Hoà, an vị lên chiếc ghế đá đối diện tượng Đức Mẹ nằm bên phải thánh đường. Khác với những lần trước, lần này tôi không hề mang theo bất kỳ một thứ gì cả, không hành lý, không thù hiềm, không dục vọng, tiện đường ghé qua, tâm hồn trống rỗng. Hôm đó, dấu chỉ đầu tiên đã xuất hiện.

Tôi hướng về phía mẹ Maria, nở một nụ cười rạng rỡ thay cho lời chào thành kính rồi thả lỏng cơ thể, buông bỏ tất cả mọi vướng bận ngoài kia, khép mắt tận hưởng những phút giây thanh bình hiếm có.

“Hôm nay con đã trưởng thành hơn.” Một giọng nói vang lên trong tiềm thức. “Không còn niềm đau, sự ấm ức và những giọt nước mắt.”

Tôi hé mắt, quang cảnh dường như vẫn vậy song lại bị bao trùm bởi những tia sáng mờ ảo. Trước mặt, bên dưới tượng Đức Mẹ, một người đàn ông cường tráng đang mỉm cười với gương mặt nồng ấm và giàu lòng trắc ẩn.

sculpture-3408348_960_720
Photo: Couleur

“Jesus?”

Người khẽ gật đầu dù điều ấy căn bản không cần thiết.

Tôi điềm tĩnh nghĩ rằng đây thực tế chỉ là một giấc mơ. “Ai cũng có thể quỳ gối, cầu xin hoặc than khóc trước tôn nhan Người?” Tôi đứng dậy, tiến tới, từng bước chân chậm rãi.

“Đúng, ta vui mừng vì điều đó.”

“Và đau đớn nhận ra… những khi khoẻ mạnh hay sung sướng, họ chẳng bao giờ nhớ tới Người.” Tôi gằn giọng. “Người sẵn sàng ban phước?”

“Tại sao không?”

“Họ nhân danh Người làm những điều sai trái.”

“Họ không biết việc họ làm.”

“Người dung túng cho họ.” Tôi nổi cáu. “Đó là cách mà Người cai trị?”

Jesus không trả lời, Người ngẩng đầu, thái độ “tỉnh queo”.

“Chẳng có phép màu nào cả!” Ngay khi tôi sắp sửa bồi thêm vài câu nói phạm thượng, mặt đất đột nhiên rung chuyển, bầu trời sập tối, đại hồng thuỷ dâng trào. Tôi nhìn thấy thánh giá trồi lên từ vũng nước, kéo theo Người, máu đỏ và những cây đinh gỉ sét.

“Con là ai?”

“Con là ai? Sao giờ này còn ở đây?”

Tôi mở mắt, bắt gặp một ông lão ăn mặc lịch sự đang chăm chú quan sát từng cử chỉ của tôi. “Con có bị làm sao không đấy?”

“Con không sao.” Tôi cố gắng đứng dậy cho phải phép. “Con, một người Kito hữu.” Rồi bật cười giải thích. “Ngủ quên thôi ạ…”

Lúc đó đã gần 7 giờ tối.

Có bao giờ bạn tự hỏi bản thân về những phép màu nhiệm? Đó là khi Thiên Chúa “phán một lời”, tất thảy mọi chuyện đều theo ý của bạn? Không, Người đã phán trời đất, nhân loại và vạn vật, phần còn lại là do tôi, do bạn mà thành (hoặc bại). Đã đến lúc chúng ta tự đứng lên xây dựng “nước trời” thay vì dựa dẫm vào thượng đế. Sự tồn tại của chúng ta chính là minh chứng rõ ràng nhất cho phép màu Thiên Chúa, hãy nhân danh người làm nên những chiến công vĩ đại.

“Đi là sẽ tới, tin là sẽ có.”

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, Amen.

Tác giả: Võ Trọng Gia
Edit: Triết Học Đường Phố

Featured image: Skitterphoto

Nhà quê lên tỉnh và những gì tôi đã học được khi sống ở Sài Gòn

1

Tôi chỉ biết đến một thành phố lớn qua ti vi sách báo, đây là lần đầu tiên đặt chân đến Sài Gòn. Đâu đâu cũng là đèn giao thông, biển báo, bảng hiệu rực rỡ màu sắc, người qua lại đông đúc và xe cộ. Ô tô chạy rầm rầm trên các con đường, đám xe buýt, khách bộ hành. Những vỉa hè đầy rẫy sự giao thương. Ở các giao lộ, mấy anh cảnh sát đứng nghiêm nghị đang thổi còi điều khiển xe cộ lưu thông giờ tắc đường. Đây chính là sự hối hả và tấp nập của một thành phố lớn nhộn nhịp.

Rồi tôi rẽ vào một con đường nhỏ sau khi băng qua khu đại lộ đông đúc. Nếu như không có mấy bảng hiệu ghi rõ địa chỉ thì tôi chẳng biết nơi tôi sẽ sống cũng được gọi là Sài Gòn. Tôi lấy làm lạ là nơi này cũng chẳng khác gì nơi tôi từng sống, thậm chí còn tệ hơn. Tôi đã từng nghe đến một Sài Gòn đô thị phồn hoa, trên đường đi tôi cũng đã trông thấy điều đó, nhưng thực tế cho thấy người xa xứ như tôi chỉ có thể sống ở một nơi thế này. Chốn xa hoa kia không phải là nơi mà tôi có thể sống ở đó.

Chỗ của tôi là ở đây, trong căn phòng trọ thấp bé lẻ tẻ, lối vào bằng cái lỗ mũi, vách tường đổ nát cũ kỹ. Khu này đường xá hẹp, hai bên đường chạy dài những nhà cửa mộc nát, dơ bẩn, xấu xí. Rác rưởi vứt thành từng đống, rau quả ôi thiu bốc mùi hôi thối. Mấy rãnh nước đọng lại, xe cộ chạy ngang qua, bùn bắn phèn phẹt lên từng mảng dày, chập vào tường mấy ngôi nhà xung quanh.

Tất nhiên là nếu tôi không từng sống trong nó bạn sẽ chê cười vì điều tôi nói ra là vô căn cứ không lý lẽ. Nhưng chính vì đã quá hiểu rõ để vạch mặt sự trần truồng của nó, có lẽ bạn sẽ càng chê cười mỉa mai tôi hơn, bởi lẽ những điều tôi đang giải trình phải chăng chỉ là sự thái quá cực đoan của riêng tôi?

Sài Gòn, xứ sở văn minh hiện đại nhất của đất nước tôi. Một đứa nhà quê lên tỉnh đã từng choáng ngợp bởi nó. Nhưng khi đã phóng bay quá xa vào nó, tôi nhận ra bản chất thực sự của một thành phố hiện đại, đó là sự rùng mình run sợ đang vồ chụp lấy tôi. Tôi đã ước bay ngược trở về thật nhanh.

Nhưng chuyện gì đã xảy đến với tôi? Điều gì đã khiến chân tôi run rẩy trong khi miệng vẫn đang mỉm cười? Đó chẳng phải là lần đầu tiên tôi được sống với tấm lòng đầy hoài vọng, một khát vọng từng rất chân thật?

Những khuôn mặt và tâm hồn được tô quét lên đó những đốm màu đủ sắc, chiếu rọi bởi những tấm gương tâng bốc, cả tôi và những người sống trong nó, ai cũng chơi trò học hỏi bắt chước nhau vô cùng hăng say. Ở vùng đất văn minh hiện đại này, tôi đã mệt mỏi khi luôn phải mang một chiếc mặt nạ. Ai có thể nhận ra được bộ mặt thật của tôi? Bộ mặt lem luốc của tôi được bao phủ bởi một lớp dày son phấn, đó là cách tôi lẩn tránh khỏi mọi sự thăm dò. Kể cả tôi hay ai khác, đều đủ khả năng để khiến mọi người tin rằng trái tim mình vẫn còn đang đập thình thịch trong lồng ngực.

Sống ở thành phố, vật chất và xã hội dường như luôn biết cách làm lẫn lộn nhân cách tôi. Nhưng tôi lại không lột bỏ chúng ra khỏi cơ thể mình, nếu thế tôi chỉ còn lại là một con chim non nớt yếu đuối và luôn sợ hãi. Thực ra, điều đã khiến tôi sợ hãi nhất là bỗng một ngày nọ tôi thấy mọi người xung quanh trần truồng, không màu sắc, lại tỏ những cử chỉ yêu thương với tôi.

Một thành phố lớn luôn nói đến văn minh, mọi người ưỡn ngực hô vang rằng họ biết về tri thức, sự hiện đại, họ biết những cái vĩ mô, biết về vũ trụ nhân loại. Họ vênh váo thế đấy, nhưng trái tim họ trống rỗng.

Tôi không hiểu nổi mình. Nhưng khi nhận ra mình chỉ là con chim lạc lối, e dè những thứ đã quá quen thuộc với mình, tôi muốn bay đi. Tôi đã trông thấy tôi đứng trước mặt đời sống, khô cạn, nghèo nàn. Mọi thứ đều đang bị lụi tàn hủy diệt. Ôi tôi bật cười ngạc nhiên về cả chính mình.

Những con người tâm trí đơn sơ, mang đầy rẫy trang sức và ngồi long trọng trên những chiếc xế hộp, nằm ngủ trong các biệt thự cao tầng. Chính  xứ sở văn minh hiện đại này  đã đặt họ vào ngồi trong đấy, trang điểm cho họ và gọi tên tráng lệ, rực rỡ. Khi tôi tự dấn thân mình trên con đường tìm kiếm ấy, tôi sẽ phải trả giá.

Dẫu đã từng yêu thương nó thế nào đi nữa, thì tôi cũng phải chấp nhận nó giờ đây cũng đã biến thành thù địch đối với ý chí tình yêu trong tôi. Nhưng đừng nghĩ rằng mọi suy nghĩ trong tôi luôn cực đoan. Nhà quê lên tỉnh, tôi cũng học được khối điều hay ho.

Giá trị tinh thần được xây dựng kiên cố qua bề dày kinh nghiệm những năm sống ở một thành phố lớn. Tôi đã hiểu hơn về chính mình bằng những tự do khám phá. Trở nên độc lập qua từng năm tháng can đảm đẩy mình ra khỏi vùng an toàn bình yên trước đây. Hiểu được cảm giác tự giải quyết các vấn đề mà không được sử dụng quyền trợ giúp của người thân. Ý chí tự lực tự cường giữa cơn giông bão. Trở nên cứng cáp hơn và không còn biết sợ hãi… Tôi đã học được cách ra khơi, biết cách vũng vẫy giữa đại dương. Một thành phố lớn đã luôn biết cách để rèn luyện mài dũa một đứa nhà quê trở thành một chiến binh.

Giá trị vật chất của một thành phố lớn thu hút một đứa nhà quê còn là bởi sự đa dạng ánh sáng và sự sang trọng của nó. Tôi rất hài lòng bởi nó cho phép tôi tận hưởng sự tiện lợi. Sống ở một thành phố lớn, bạn sẽ có cơ hội học tập và làm việc tốt nhất. Dễ dàng tìm được một công việc với mức lương tốt. Dịch vụ y tế luôn đáp ứng nhu cầu sức khỏe của mọi người…

Tuy nhiên, khi kẻ nhà quê khờ khạo làng lúa bắt đầu quên đi ấn tượng ban đầu để trở nên quen thuộc thích nghi với sự xa lạ. Đó phải chăng là lúc tôi bắt đầu đặt ra câu hỏi cho riêng mình. Nơi đâu mới thực sự là nơi tôi thuộc về?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Quangpraha

10 bài học từ thí nghiệm xây dựng tính kỷ luật áp dụng dãy số Fibonacci

2

Cách đây 5 tháng, tôi có thực hiện một thí nghiệm nhỏ kéo dài 6 tuần với mục đích xây dựng tính kỷ luật, tự rèn luyện và đánh giá xu hướng hành động của bản thân. Sau này đọc cuốn Cộng Hòa của Plato, tôi mới được biết rằng 1 trong 4 phẩm chất cấu thành nên công bình chính trực (đề tài bàn luận xuyên suốt tác phẩm) là sự tiết độ và tính kỷ luật. Socrates đã đề xướng những cách thức xây dựng một thành quốc hoàn hảo. Trong đó, những ý tưởng về sự tự chế, tự giác, vừa phải, điềm đạm được nhấn mạnh rất nhiều lần.

Trong quá trình thực hiện, tôi đã liên tục cải tiến thí nghiệm cho tới điểm tôi cho là hoàn thiện nhất – không còn trở ngại trước việc thực hiện thói quen và tính toán được các thông số cần thiết (tôi đã dừng lại ở tuần thứ 7). Từ đó cho đến giờ, tôi quan sát lại thí nghiệm này và đối chiếu với những khía cạnh/trải nghiệm khác trong đời sống thì nhận ra được những bài học quan trọng với bản thân (có thể áp dụng trong thực tiễn được). Chưa kể, theo đánh giá của tôi, thí nghiệm này có thể sử dụng để xây dựng một Mobile App về thiết lập thói quen được. (Tuy nhiên, tôi chưa tìm được ai có thể hợp tác làm việc này.)

Hôm nay, thiên thời địa lợi nhân hòa, tôi xin chia sẻ sơ bộ thí nghiệm này với các bạn. Không phải nó sẽ đúng cho tất cả mọi người (vì tôi tự lấy bản thân làm chuột bạch), song cũng hy vọng bài viết này mang lại nguồn cảm hứng hay ý tưởng gì đó cho các bạn trong cuộc sống. Nếu không thì cũng đọc cho vui, để biết là trên đời vẫn còn có người mày mò làm thí nghiệm. Terence McKenna đã từng nói:

Không ai quá giác ngộ tới nỗi họ không cần phải cải tiến chính mình.

Mục đích chính của thí nghiệm là quan sát một thói quen được hình thành như thế nào, tìm hiểu mối liên hệ giữa các thói quen ảnh hưởng gì đến đời sống của bản thân, tác dụng của tính kỷ luật, làm sao để phát triển đức tính này và cuối cùng là tìm hiểu ý nghĩa của dãy fibonacci.

Tôi đã tiến hành như sau:

  1. Lựa chọn 5 hoạt động mình muốn xây dựng thói quen trong vòng 1 tháng (Đi bộ, tập yoga, thiền, viết sách và học ngoại ngữ. Với ai mới bắt đầu thì nên chọn 1 việc, rồi khi thạo rồi mới dần dần tích hợp thêm các việc khác.)
  2. Chia tổng giá trị (trọng số) cho các hoạt động tương ứng (tùy thuộc vào mức độ cần thiết, độ khó thực hiện và lợi ích của nó lên đời sống.)
  3. Gán hệ số phát triển là 7 số đầu tiên trong dãy fibonacci (1, 1, 2, 3, 5, 8, 13) tương ứng với 7 ngày trong tuần (từ thứ 2 đến chủ nhật) (Dãy số này xuất hiện rất nhiều trong tự nhiên. Tôi cho rằng vạn vật phát triển và suy thoái theo tiến trình của dãy số này.)
  4. Thực hiện mỗi ngày các hoạt động trên và đánh dấu check vào ngày nào làm được, bỏ trống ngày nào lười không làm và đánh dấu sao (*) ngày nào có sự kiện bất khả kháng chen ngang không thể thực hiện được.
  5. Kết thúc mỗi tuần, tôi tổng kết điểm số trung bình của từng hoạt động, từng ngày, tính % lười, % bất khả kháng, vẽ đồ thị phát triển của tuần, vẽ đồ thị phát triển của từng thói quen, tính biên độ giao động min/max, độ cộng hưởng của các hoạt động, tổng sinh khối của tuần.

*Dưới đây là một vài hình ảnh trong quá trình tôi làm thí nghiệm 😀_20180704_101750

_20180704_101804

Trong quá trình thời gian 6 tuần thực hiện thí nghiệm tôi nhận ra những yếu điểm của bản thân bao gồm:

  1. Lười
  2. Chán nản, thấy nhàm chán
  3. Ngụy biện để thoái thác công việc
  4. Làm việc cực đoan: Ngày không làm gì, ngày làm gấp đôi gấp ba
  5. Chạy theo thành tích mà không tập trung vào chất lượng công việc
  6. Ước lượng, tổ chức hoạt động/sự kiện khác trong ngày không khoa học dẫn tới nhiều việc chen ngang thói quen
  7. Không linh động trước các tình huống bất khả kháng
  8. Bỏ cuộc một lần là dễ chùn bước, không muốn quay lại

Sau này, nhờ có quan sát và chiêm nghiệm thêm cộng với việc tiếp tục duy trì 1-2 thói quen cơ bản (không đánh dấu vào bảng nữa), tôi có được góc nhìn rõ ràng hơn về thí nghiệm của mình và nhận thấy những lợi ích của việc xây dựng tính kỷ luật mang lại (càng về sau sẽ càng lớn nếu duy trì đều đặn), bao gồm:

  1. Nâng cao ý thức về cuộc sống
  2. Tăng cường sự tập trung vào bản thân, vào công việc và vào con đường mình đã chọn
  3. Tăng cường sự quyết đoán và sức mạnh ý chí
  4. Tăng cường sự kiên nhẫn, bền bỉ, gan lì dù gặp thất bại
  5. Tăng cường sự linh động trước tình huống nắm ngoài tầm kiểm soát
  6. Xây dựng được quan điểm/vị trí rõ ràng, vững chãi trước những biến cố của cuộc sống. (Từ đó có khả năng tự gỡ bỏ quan điểm khi nó không còn mức tối ưu cao nhất – tùy theo tình huống cụ thể.)
  7. Nhận biết được điều gì thật sự quan trọng trong đời sống cá nhân, điều gì cần bỏ bớt
  8. Chiến thắng sự lười, cảm giác nhàm chán và những lời lẽ ngụy biện cản trở trong đầu óc. Khai phóng được sức mạnh của bản thân.
  9. Tự tin hơn vào chính mình từ đó nâng cao được hiệu quả và hiệu suất công việc
  10. Tiết kiệm thời gian

Bên cạnh đó, tôi cũng rút ra được 10 bài học cho riêng mình (có thể nó sẽ đúng với ai đó):

1. Kỷ luật càng chặt chẽ, càng khó sa ngã

Việc chủ động xây dựng các thói quen cố định giúp bản thân có điểm nương tựa rõ ràng, vững chãi. Các hoạt động khác sẽ tự khắc được điều chỉnh thích hợp để tương thích với các thói quen được cài đặt. Mở rộng ra về việc xây dựng kỷ luật tinh thần, thái độ sống: Một người có thái độ càng rõ ràng và tích cực sẽ càng ít bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát và có khả năng điều tiết cảm xúc tốt hơn.

Kỷ luật càng chặt chẽ thì những điều tầm phào, mất thời gian, vô bổ, tiêu cực sẽ càng khó len lỏi vào đời sống, như một khu rừng có cấu trúc hoàn mĩ và không còn kẽ hở, các thực vật ngoại lai sẽ không thể xâm nhập được, hoặc nếu xâm nhập vào thì chúng cũng sẽ chết trong thời gian ngắn.

2. Không được bỏ cuộc

Khi đặt hệ số phát triển là dãy fibonacci, chưa cần nhân với trọng số của từng hoạt động, ta cũng dễ dàng nhìn thấy rằng nếu liên-tục-thực-hiện thói quen thì sự phát triển sinh khối những ngày sau càng lớn. Chỉ cần 1 lần gián đoạn thì đích đến đó bị tuột khỏi tầm tay một cách cực kỳ dễ dàng, thậm chí ta phải làm lại mọi thứ từ con số 0.

Giả sử ta thực hiện thiền liên tục trong 6 ngày, đến ngày thứ 7 ta bỏ không làm. Đáng lẽ ta sẽ đạt điểm 13 trọn vẹn, nhưng bây giờ ta không những không giữ được 8 điểm của ngày thứ 6, mà còn bị trừ đi 1 điểm khi bắt đầu rơi vào xoáy suy thoái. Rốt cuộc ta chỉ còn 7 điểm. Ta đã đánh mất 6 điểm – gần 50% tổng giá trị cao nhất có thể đạt được chỉ vì một lần bỏ cuộc.

Đấy là chưa kể nếu không vực lại ngay mà tiếp tục đà bỏ cuộc thì chiều hướng suy thoái càng ngày càng gia tăng theo dãy fibonacci. Thậm chí đến ngày cuối cùng tổng kết lại, sinh khối của tuần đó là âm. Tức là không những không được phần thưởng mà còn bị hao tổn năng lượng, nguồn lực. Rượu thưởng không được mà chỉ còn rượu phạt.

3. Kỷ luật là tự do (Khả năng nói Có hoặc Không)

Trước kia tôi đã từng nghĩ rằng việc ép mình vào một khuôn khổ/thói quen sẽ khiến bản thân bị gò bó, căng thẳng, mất tự do và điều này không tốt cho sự phát triển của bản thân. Nhưng khi thực hiện 6 tuần làm thí nghiệm, tôi đã nhận ra rằng việc xây dựng một thói quen sẽ giúp mình có sự lựa chọn, sự chủ động. Mình có khả năng nói có hoặc không trước một hoạt động/công việc nào đó chen ngang, hoặc ngay chính với thói quen mình đang thực hiện.

“True freedom is impossible without a mind made free by discipline.”
— Mortimer J. Adler

Chúng ta thường làm các việc trong vô thức và không có khả năng dừng lại hay nói “không” với nó. Ta không biết được điểm đầu vào của việc đó nên không thể tìm thấy lối ra, như việc ăn đồ ngọt, hút thuốc lá, check facebook, v.v…Chúng ta nghiện từ lúc nào mà không hay. Và khi xa rời những thói quen đó, chúng ta bị bồn chồn, cảm thấy thiếu thốn, khó chịu, không hài lòng và cần được thỏa mãn/giải tỏa ngay. Chúng ta là nô lệ cho những thói quen vô thức.

Nhưng khi đặt giới hạn cho số điếu thuốc ta hút, giờ hút thuốc, giờ check facebook, v.v… Ta tự do khỏi những thói nghiện đó một cách khá dễ dàng. Vấn đề không phải làm việc gì, mà làm nó ra sao. Tôi nhận ra rằng kỷ luật chính là tự do, còn phóng đãng mới là cứng nhắc (không có khả năng lựa chọn nói Có hoặc Không).

4. Không có công việc khó khăn hay sự bận rộn, chỉ có sự ngụy biện

Những ngày đầu thực hiện thói quen, những suy nghĩ trì hoãn xuất hiện rất nhiều và chúng cản trở tôi làm việc. Những lúc như thế tinh thần rất yếu đuối và mất tập trung. Khi nhìn rõ được những lý lẽ ngụy biện trong đầu, khi đến giờ làm việc tôi chỉ cần lao vào làm, bất chấp tâm trí nói gì, bất chấp mình có đang mệt hay không. Cứ 8h sáng là xỏ giày vào đi bộ, cứ 5h chiều là trải thảm ra tập yoga.

Khi bắt đầu không thỏa hiệp với những sự cản trở bên trong, những công việc bên ngoài dần được diễn ra mạnh mẽ và dứt khoát. Thậm chí về sau khi đã thành đường đi thông suốt, khi đến giờ, tự có một lực đẩy tôi về phía trước để thực hiện công việc. Thay vì nhăn nhó, khó chịu, than vãn như trước kia, bây giờ tôi vui vẻ, thích thú, sảng khoái. Khi ta bỏ bớt những chướng ngại sẽ thấy con đường luôn mở rộng.

5. Trung thực với bản thân là việc đầu tiên cần làm nếu muốn phát triển

Khi làm thí nghiệm, việc đầu tiên là phải trung thực. Nhiều lần, khi làm biếng bỏ một buổi nào đó, tôi vẫn muốn check vào bảng như là mình đã làm rồi vì nghĩ rằng có ai dõi theo mình đâu chứ.

Nhưng khi nhận ra nếu gian dối với chính mình thì thí nghiệm sẽ không cho ra kết quả chính xác. Như thế tôi sẽ không đánh giá đúng được hiện trạng của bản thân và không đề ra được các phương án cải thiện sau này.

Tương tự với các khía cạnh khác của cuộc sống, việc gian dối sẽ phủ lấp những điểm yếu của bản thân, thứ đáng lẽ cần được lộ ra để được cải tiến. Nếu một người muốn phát triển, tuyệt đối phải sống thực với chính mình, dù rằng việc soi thấy những điều tồi tệ ấy nhiều lúc không mang lại cảm giác dễ chịu. Người ta đã có câu:

“Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng.”

6. Đoàn kết là sức mạnh

Trong thí nghiệm, tôi có tính toán độ cộng hưởng của các hoạt động với nhau. Vì chúng diễn ra song song nên sinh khối sẽ được tính bằng tích giá trị của các hoạt động đó. Kết quả thu được là những con số khổng lồ.

Tôi để ý thấy rằng chỉ cần 1 hoạt động thụt lùi hay rơi vào vòng suy thoái thì tổng sinh khối của tuần suy sụt nghiêm trọng, bất kể những hoạt động kia mình đã cố gắng ra sao.

Cũng giống như trong một tập thể, một người yếu kém sẽ kéo cả tập thể đi xuống. Một cái thùng nước chỉ chứa được lượng nước tới chiều cao của thanh gỗ ngắn nhất, chứ không phải cao nhất.

Vậy nên khi làm các việc song song, việc này ảnh hưởng sức mạnh đến việc kia. Nếu đã cố gắng thì tất cả phải cùng cố gắng. Khi xảy ra mâu thuẫn nội bộ, lệch pha lẫn nhau sẽ khiến chất lượng chung bị suy giảm.

Trong cuộc sống cũng vậy, ở một tập thể chung, sự đoàn kết và hài hòa giữa các thành viên quan trọng hơn là việc tranh luận ai đúng ai sai. Vì môi trường hài hòa là cốt lõi để phát triển, còn đúng sai chỉ là lớp vỏ hình thức, là thứ đến sau. (Tôi vẫn đang nỗ lực để cải thiện mình ở điểm này.)

7. Không nên chống lại tự nhiên

Ta không thể kiểm soát được mọi thứ, dù ta đã xây dựng các kế hoạch rất rõ ràng. Sẽ vẫn có những sự kiện chen ngang, tôi gọi nó là tự nhiên. Cuộc sống của một người là sự giao thoa giữa kế hoạch của anh ta và kế hoạch của tự nhiên.

Việc thiết lập thói quen chặt chẽ không chỉ giúp cam kết với công việc, mà còn tăng cường khả năng linh động khi rơi vào tính huống không mong muốn. Nó giúp ta biết phân biệt việc nào có thể kiểm soát được và việc nào không. Từ đó ta không bị rơi vào sự bất mãn khi mọi thứ không như ý. Một người càng nắm rõ bản thân thì càng dễ dàng thích ứng với ngoại cảnh, khiêm nhường với khả năng của chính mình và biết tôn trọng tự nhiên.

“Knowing other is intelligence, knowing yourself is true wisdom. Mastering other is strength, mastering yourself is true power.” – Lão Tử

8. Thành công không khó khi biết chia nhỏ vấn đề

Việc xây dựng thói quen và thực hiện đều đặn hàng ngày là một cách chia nhỏ khối lượng công việc để giải quyết. Càng chia nhỏ việc ta càng dễ làm. 1 tháng chạy bộ 100km nghe có vẻ to tát, nhưng thực ra chỉ cần mỗi ngày chạy hơn 3km là được. Một tháng đọc 1000 trang sách nghe đã thấy sợ, nhưng thực ra chỉ cần mỗi ngày đọc 30 trang là được.

Những người thành công là người có tầm nhìn, không phải người nước đến chân mới nhảy.

Tôi quan sát trong tự nhiên thấy sự chia nhỏ vấn đề, sự điều tiết nguồn lực và công việc của cây cối. VD cây chanh leo cứ 3 ngày nảy ra một dây cuốn, cây cà chua mới nảy cứ 3 ngày lại ra một nhánh lá, v.v…

Đến đây tôi chợt nhớ ra một câu nói, không nhớ chính xác tác giả là ai:

“Thiên nhiên không vội mà việc gì cũng thành.”

Thiết nghĩ, mình cũng nên học tập người thầy thiên nhiên điều tiết bản thân dần đi là vừa.

9. Cực đoan không phải là lối sống nên chọn

Sự cực đoan trong thí nghiệm được thể hiện ở việc chao đảo liên tục giữa chiều hướng phát triển và suy thoái, tức là ngày làm ngày bỏ, không ổn định. Tôi đã có một tuần lên-xuống như vậy và kết quả sinh khối cuối cùng của tuần đó bằng 0, thậm chí về âm.

Khi nhìn đồ thị những ngày kết quả đi xuống sâu, tôi phải nỗ lực nhiều hơn vào ngày hôm sau để kéo lại. Trong khi nếu thực hiện đều đặn, tôi không phải dùng quá nhiều sức mà vẫn cho kết quả cao hơn những ngày phải gồng gánh.

Có thể dễ dàng nhận ra, sự cực đoan làm hao tổn năng lượng nhiều hơn mà đem lại kết quả kém hơn sự ổn định trong cùng một khoảng thời gian, cùng một công việc.

Liên hệ đến đời sống, thiết nghĩ chúng ta cũng nên học cách điều tiết công việc, mối quan hệ và cảm xúc của mình, hạn chế sự chao đảo từ cực này sang cực nọ, tránh gây thất thoát nguồn lực, năng lượng và làm suy giảm chất lượng cuộc sống.

Ngoài ra, theo nhìn nhận cá nhân, cực đoan cũng là mầm mống sản sinh ra sự phóng đãng, bất ổn, vô tổ chức, không cân bằng nên cũng không công bằng của một cá nhân hay của một tập thể.

10. Ý tưởng không đi kèm với hành động thì chỉ là ảo tưởng

Việc bắt tay vào làm thí nghiệm trên cũng xuất phát từ khao khát của tôi là muốn thấu hiểu mọi thứ và muốn trở thành một phiên bản con người có giá trị hơn. Trước kia, tôi thường hay mơ tưởng, hứa hẹn, trì hoãn mà mãi không hành động được nên cuối cùng không sản sinh được giá trị gì (kể cả cho mình hay cho tập thể). Từ đó, tôi càng rơi sâu vào cái hố tự ti, mặc cảm.

Nhưng khi bắt đầu xây dựng cho mình một lộ trình, một hướng đi và cam kết thực hiện nó đến cùng, tôi đã nhận ra rằng mình có nhiều sức mạnh hơn mình nghĩ. Và chỉ cần biết tổ chức tâm trí và cuộc sống thật quy củ thì dần dà, những điều gây cản trở trước kia sẽ tự khắc chuyển hóa thành động lực và công cụ hữu ích giúp mình thực hiện bước đường mong muốn.

Trong group THĐP đang tổ chức các Challenge xây dựng thói quen hàng tháng rất bổ ích. Chúng đã được phát triển được 3 tháng liên tiếp, bao gồm thói quen thiền, đọc sách, nofap và tập thể dục. Bạn nào muốn tham gia thì vào group ghi danh nhé.

Trong bài viết này, tôi chỉ xin chia sẻ những điều mình cho là giá trị nhất đến với mọi người. Các nội dung và ý tưởng hoàn toàn xây dựng từ trải nghiệm cá nhân, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các bậc tiền bối chỉ giáo. Xin cảm ơn rất nhiều.

“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.”

–Hồ Chí Minh

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: Free-Photos

Trịnh Công Sơn – 20 năm xin trả nợ người

0

Ánh nến đốt lên phảng phất hình bóng của những chú muỗi ẩn hiện rập rình. Mấy người xung quanh, họ thủ thỉ vào tai nhau câu chuyện tâm sự, một vài người lặng im lắng nghe giai điệu êm ái của tiếng hát những năm trước 1975 không thu âm bằng điện tử.

“Ánh bảo anh viết thật dài cho Ánh, nhưng những dòng chữ không thể dài bằng nỗi nhớ được. Nỗi nhớ đã đi qua hết quảng đời dài hơn 20 năm. Đi từ Huế tới Đà Lạt về Sài Gòn và âm ỉ như một dòng dòng nước ngầm không quên lãng. Anh không thấy Ánh thay đổi gì khác. Cứ như vậy mãi mãi. Những kỷ niệm xưa đã nằm trong những bài hát của anh. Anh thì chẳng giữ lại gì cả. Thế mà cũng hay, hãy để một người khác giữ và mình thì lãng quên hoặc nhớ trên một văn bản không bao giờ có thật.”

Lời tự sự của lão Trịnh sắp mở màn cho bản Xin trả nợ người phát ra từ chiếc loa thùng.

Tôi châm lên một điếu thuốc. Hít vào một hơi nồng nàn rồi thả trôi những làn khói trắng bồng bềnh. Lão Trịnh này ghê thật. Tôi mới đi được một nửa chặng đường lão mà đôi khi muốn tắt thở. 20 năm thiên thu của lão biết bao giờ mình đuổi kịp. Mà Dao Ánh này, nàng đúng là cô gái may mắn. Đôi khi tôi nghĩ tình yêu lão Trịnh dành cho nàng thật ghê gớm. Nhưng để khước từ tình yêu hủy diệt đó của lão, nàng phải thuộc vào hàng ngũ siêu nhân.

trinhcongsonvadaoanh201502092
Trịnh Công Sơn và Dao Ánh trong một lần tái ngộ

Dao Ánh là em gái của Bích Diễm, người mà lão Trịnh một thời vương vấn. Không đến được với nhau, lão đã chôn giấu tình cảm của mình qua bài hát nổi tiếng Diễm xưa. Bài này tôi đã nghe đến mòn cả hai lỗ tai. Nhớ răm rắp từng câu từng chữ, bởi lẽ tôi cũng đã lớn lên những ngày tháng như thế ở Huế. Nhưng nghĩ lại thấy cuộc đời đúng hay ho, những lời an ủi của Dao Ánh trong thư viết động viên lão sau chia tay lại chính là những hạt mầm gieo vào  khu vườn tình mà lão đâu ngờ phải mất cả một đời người để sống cùng.

Nói đúng ra thì chẳng phải nàng bỏ lão, chính lão là người chủ động rời xa nàng sau gần bốn năm mặn nồng thư từ hơn 300 bức. Lúc đó, lão đang đi dạy trên B’lao (Lâm Đồng), mới 25 tuổi sau khi tốt nghiệp Sư phạm Quy Nhơn và Dao Ánh đang là cô nữ sinh 16 tuổi học tại Huế. Do hoàn cảnh xa cách, niềm tin mong manh dần vụn vỡ, Trịnh Công Sơn chủ động chia tay với Dao Ánh.

“Chúng mình chấm dứt tình yêu ở đây… anh xin cám ơn 4 năm ròng rã nâng niu tình yêu đó, cũng xin cám ơn những buổi đợi chờ thật dịu dàng.”

Nhưng chính lão cũng đã bàng hoàng khó tin khi nhận được tin nàng lên xe hoa vào hai năm sau. Lão chưa bao giờ có thể quên nàng, chưa có ý định quên.

“Mọi việc đến quá nhanh, việc chuẩn bị cho tương lai của anh thì quá chậm…Từ buổi chiều nay hay là sớm mai này anh phải tập cho anh vào một lề lối mới, tập cho anh biết rằng từ đây anh không bao giờ còn có Ánh được nữa. Chúc Ánh cũng hạnh phúc như Diễm.”

Cứ tưởng từ đó rừng xưa đã khép lại, ai nào ngờ đâu 20 năm sau nàng trở về. Khi mà tưởng rằng đã quên thì sự muộn màng giờ đây “Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một thời em đã bỏ ai, hai mươi năm xin trả nợ dài, trả nợ một đời em đã phụ tôi.”

“Một dĩ vãng tưởng chừng sẽ mất khuất mãi mãi bỗng dưng còn đó, trở về như một hiện tại, như của ngày hôm nay. Tất cả những hình ảnh đó cứ trôi đi bềnh bồng trong anh và cứ buộc anh phải cầm ly rượu lên để mà nhớ.” Kèm lời nhắn ấy, lão còn gửi  tặng nàng một hộp đựng nữ trang bằng sơn mài với một lời đề tựa lãng mạn: “Anh gửi Ánh cái hộp laque đựng bijoux, đựng luôn trong đó nỗi nhớ của anh và nếu cần Ánh hãy bỏ cả nỗi nhớ của Ánh vào đó.”

Lão ta yêu da diết cả đời vậy thì tại sao tôi không thể tin vào tình yêu của mình mặc cho người tôi yêu đã chết?

Nghĩ thử xem người ta cứ tụ tập chen chúc quanh tình yêu, dùng từ ngữ hoa mỹ để nói về nó, nhưng có ai thực sự hiểu được thứ tình yêu tôi đang bảo vệ tôn thờ ấy. Khi tôi bảo rằng tôi muốn dành cả một đời để yêu một người, không có ai tin tôi, họ không bao giờ tin vào thứ tình yêu vĩnh cửu trường tồn theo năm tháng.

Nhưng có mấy ai được sống trong ngày tháng cô đơn từng khiến tình yêu trở nên hoàn hảo? Có mấy ai hiểu cái chết của một người tình trở thành lời hứa hẹn cho một tình yêu bất tử? Chỉ có những kẻ chưa biết yêu mới luôn gán quá nhiều tầm quan trọng vào tình yêu. Tất cả bọn họ đều xem tình yêu là quan trọng, nhưng bản thân mới là một điều tất yếu với họ. Nếu họ không biết yêu nên họ có đủ tư cách để bàn luận tình yêu?

Làm một kẻ tha thiết với tình yêu, chết vì yêu còn chẳng đáng sợ huống gì được sống mãi mãi trong tình yêu. Đường của tôi còn ngắn vì tình yêu đang giết chết tôi hay đường của tôi đã đi xa lắm vì tình yêu vẫn dõi theo từng bước chân tôi?

Tôi không muốn nói cho nhân gian nghe về những người yêu mà tôi chỉ muốn nhắc mãi đến một người yêu. Một người yêu luôn khiến trái tim tôi chan chứa tràn bờ. Một người yêu mà tôi muốn dành một đời để ôm ấp và yêu thương.

Dù cho tôi là một ngôi sao đang lao mình vào khoảng không trống rỗng, trong hơi thở giá lạnh của cô đơn. Tôi vẫn muốn kể về một thế giới tràn đầy tình yêu. Người yêu tôi đã chết nhưng tình yêu tôi thì vẫn mãi trường tồn. Đánh lừa tình yêu và dối trá ngay cả chính mình, tôi không thể.

Họ cho rằng tôi chỉ đang thánh hóa tất cả mọi sự. Nhưng chỉ khi họ biết đến thứ tình yêu mà dù có cố gắng thì mình vẫn cứ mãi không thể cao chạy xa bay khỏi nó. Dù mình có chạy trốn đến đâu thì vẫn không thể từ bỏ. Bao giờ người ta hiểu được “Ngày ngày ngọn gió đời vẫn thổi nhưng chưa bao giờ thổi tắt được tình yêu.” (Khung cửa hẹp của Andre Gide). Lúc đó họ mới hiểu rằng có những người tình càng muốn quên đi lại càng thấy nhớ thêm.

Thực tế bắt ép những người yêu nhau luôn đòi hỏi một người yêu phải luôn yêu thương mình. Nhưng phải chăng một khi đã thuyết phục được họ yêu thương mình, thì đó chẳng qua là mình đang yêu lấy chính mình. Nhưng nếu họ không yêu mình thì cớ làm sao mình cứ yêu họ. Biết thế mà có bao giờ ngừng yêu được đâu?

Dù cho tôi có trở thành trò cười thiên hạ vì một lòng một mực tôn thờ người yêu đã bỏ đi theo một người yêu mới khác. Tôi biết họ nhìn tôi thế nào, tôi biết chứ? Ánh mắt bạn bè tôi. Tôi là một kẻ ngu ngốc, một đứa lụy tình, một kẻ ngoan cố sùng bái thứ tình yêu chỉ có trong ngôn tình. Tóm lại, tôi chỉ là một đứa điên tình. Rồi thì hãy cứ cho là thế đi, tôi chẳng muốn phân giải tình yêu với những kẻ thậm chí còn chưa yêu ai bao giờ?

Ngày tháng đã qua đi, tôi chẳng còn đủ thời gian để tường tỏ. Một sự giam hãm vô hình đã siết tôi lại với chính tôi, làm thế nào khi kẻ cầm trong tay chìa khóa cũng chẳng muốn mở ra. Tôi muốn mình mãi mãi sống trong nhà tù. Tôi chẳng cần ai nữa cả, bởi tôi đã có tình yêu.

Tình yêu là gì? Làm sao cắt nghĩa được một buổi chiều… chẳng gặp nhau mà đã biệt ly, hồn vẫn dõi theo…Tôi không hiểu sao hồi trước tôi lại có những suy nghĩ ngu xuẩn như lão Trịnh. Tôi còn tập tành bắt chước viết thư gửi người tình giống lão. Bây giờ thì tôi không dám nói đến những lá thư đó nữa. Ôi những lá thư chưa kịp gửi đã chết trong tù.

Tôi châm lên một điếu thuốc, rồi điếu thứ hai, điếu thứ ba cho đến khi số thuốc lá trong hộp vơi dần đi.

“Có những hạnh phúc không bao giờ mình đến gần được. Bình thường thôi, anh sống một mình và cố tìm một niềm vui của riêng anh.” — Trịnh Công Sơn

Tác giả: Ni Chi
Edit: Triết Học Đường Phố

*Featured Image: Pezibear

 

Em có dám yêu vô điều kiện?

Dám là động từ thể hiện việc ta đang thử thách mình thực hiện điều gì đó khó hoặc ít khi/chưa bao giờ làm. Với em, dấn thân vào tình yêu vô điều kiện là một sự sẵn sàng, em không đón nhận bất cứ thách thức nào để phải đạt được nó. Em chỉ là tự nhiên đi rồi đến được đây, và em đón nhận mọi thứ như nó là. Chỉ thế thôi.

Vậy yêu sao là yêu vô điều kiện?

Nếu người nói em nghe về nó vài năm trước, em sẽ không nuốt nổi mà quay đi. Làm sao có thể sẻ chia người mình yêu với ai khác? Làm sao mà nhìn ai cũng có thể yêu được? Làm sao mà yêu được cả những cái mình không đồng quan điểm? Hóa ra, vì em gán cho định nghĩa về tình yêu co quắp như thế, nên em đã không hiểu.

Em vẫn cần thêm trải nghiệm để hiểu hơn về nó. Và đúng là khi dùng ngôn từ để nói, nó đã không còn đúng như bản chất của nó nữa. Em sẽ mượn lời mẹ Teresa thường nói với chúng ta:

“Spread LOVE everywhere you go. Let no one ever come to you without feeling HAPPIER.”

Đơn giản nó là thứ tình yêu càng lan rộng càng được thêm nhiều. Giống như loài hoa bồ công anh, đủ nhân duyên, cơn gió thổi qua và trăm hạt giống bay đi để rồi nảy nở sự sống mãnh liệt.

dandelion-3416140_1280
Photo: Comfreak

Em yêu người như yêu một người bạn. Không có đôi bạn thân nào lôi nhau ra phường đăng ký KẾT BẠN hay ra tòa LY BẠN cả. Nhưng tình bạn là cái gì đó ta luôn tin tưởng dù không có bất cứ tờ cam kết nào, hay không có tí huyết thống nào, ngay cả khi ta không nói chuyện với người bạn ấy cả một đoạn đời, người đó vẫn cứ hãy là bạn ta. Người từng nói với em, mối quan hệ không cam kết, chính là mối quan hệ có sự cam kết mạnh mẽ nhất. Đối với em, nó thực sự đôi khi đem đến bất an, nhưng là bất an gắn với tự do.

Em có thể ở gần người, hoặc cách xa người cả nửa vòng Trái đất. Khoảng cách hữu hình không khiến em thấy xa xôi người. Em trân trọng thời gian được bên người bằng xương bằng thịt. Nhưng khi người vắng mặt theo chiều kích không gian này, cảm xúc đủ đầy vẫn thường trực trong em, em vẫn thấy người hiện diện qua những khuôn mặt bạn bè, hay bất cứ sự vật nào quanh em.

Bạn bè hỏi em liệu tình yêu thế này có nhạt không?

Mẹ em từng yêu cuồng si hai người đàn ông, bố em và dượng cũ thời thanh xuân. Ôi tình yêu cuồng si, em thấy nó đẹp đẽ cháy bỏng như chính khí khái mạnh mẽ của mẹ. Nhưng ngọn lửa mạnh đến mấy cũng có lúc tàn rụi. Tình yêu rực rỡ rồi cũng tan thành khói mây. Em từng thấy mẹ còn lại với rất nhiều thương tổn, những ngày tháng cô đơn đeo bám. Đến nỗi mẹ đã chẳng thể tin yêu thêm một người đàn ông nào. Tuy vậy, việc tu tập đã giúp mẹ bình an và đủ đầy hơn. Em mừng vui vì điều ấy. Mẹ cho em hiểu rằng, không phải là ta phải tìm ai đó đi bên mình cả đời rồi sống cuồng si, mà là ta chọn lựa đi bên chính mình thế nào. Đó là bài học mẹ đã dành phân nửa cuộc đời để trải nghiệm và dạy cho em.

Em cũng từng yêu điên cuồng. Em thậm chí còn không tỉnh táo mà đâm vào yêu. Chẳng ai dạy cho em phải yêu thế nào. Nên hết lần này sang lần khác em đi vào vết xe đổ của chính mình. Khi em đã đến cái mốc cảm thấy quá khổ sở, em quyết định dừng lại và học yêu lại từ đầu – là yêu chính mình trước cái đã.

Rồi nhân duyên đủ, em gặp người, em thấy nó nhạt hơn bát nước luộc rau. Nhưng thứ nước luộc rau này có vị ngọt thanh ở cuống họng, uống vào em giải được cơn khát đã đành, em còn thấy vui tươi vì có đường, vitamin bổ trợ. Tình yêu nước luộc rau ấy đã dạy em những bài học sơ đẳng nhất về việc yêu chính mình.

>> [THĐP Translation] Tình yêu xịn thì “tẻ nhạt” – Tình yêu rởm thì thất thường

Làm sao em có thể yêu người như chính người là, nếu em không thể yêu em như chính em là? Có lúc em chưa yêu em đủ, nên em bế tắc, và sự bế tắc ấy biểu hiện lên mối quan hệ với người. Khi ấy, sự nhẫn nại, yêu thương, hiện diện đủ đầy người dành cho em bất kể cảm xúc thất thường đã giúp em đi qua những cơn bão lòng. Giúp em dần tự biết cách mà chuyển hóa, mà yêu thương rộng hơn. Tình yêu này nhẹ nhàng như lục bình trôi trên hồ nước. Mưa có to cách mấy, lục bình vẫn trôi là việc của lục bình.

Em cũng thôi dằn vặt về quá khứ. Em đã chẳng chọn sai ai cả. Chẳng ai đến sai thời điểm. Em biết ơn tất cả những người thương ghé đến em, cho em nhiều bài học để lần sau em yêu đúng hơn, yên vui hơn.

Thành thật đi, em có sợ không?

Rất nhiều người khác cũng sẽ yêu người như cách em yêu người, và người cũng sẽ đem tình yêu rộng lớn đến tất cả. Trong nhiều giấc mơ vào những đêm lo sợ, em không giấu rằng em sợ hãi, lo lắng. Nhưng THIS TOO SHALL PASS. Nỗi sợ chỉ là biểu hiện của bản ngã, em cảm ơn bản ngã đã báo hiệu “nguy hiểm” có thể đến với em. Em đã biết cách an ủi nó, nó chỉ có quyền thông báo, chứ không có quyền quyết định cho cuộc đời em. “Người là của tất cả, người không thuộc về ai, vì người thuộc về tất cả.” Và em cũng vậy. Như em đã nói, bất an trong mối quan hệ đi liền với tự do. Khi đã hiểu về mối bất an ấy, ta có thể chấp nhận rồi chuyển hóa. Mỗi ngày em dần hiểu sâu sắc điều này hơn.

Và em yêu người như chính người là. Em chấp nhận người như chính người là, và chấp nhận cả những thay đổi mai sau chắc chắn sẽ xảy ra. Em sẵn sàng cho việc ấy.

Vậy nên làm gì có cái gọi là chia tay

Người ở cạnh em, hay xa em, người vẫn luôn tác động được đến em, ảnh hưởng đến hơi thở của em, nhịp tim em. Một con bướm đập cánh ở Sài Gòn còn có thể gây ra cơn lốc ở Tây bán cầu cơ mà! Thế nên em hiểu, dù có chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn tiếp tục bổ trợ, nâng đỡ cho con đường này, bằng cách này hay cách khác. Hiểu được điều đó, thì sẽ không còn bám chấp, lo sợ mất mát nữa. Đã khổ nhiều rồi, bây giờ chúng ta có quyền chọn lựa hạnh phúc đích thực ra sao.

Cảm ơn người vì sự sẻ chia cùng em mỗi ngày. Con đường tu tập với em còn khó khăn lắm, nhưng nó xứng đáng bởi chính em xứng đáng yêu và được yêu đúng đắn. Người ta rồi sẽ cười mà kể lại những thứ đã từng khiến họ phải khóc trong giây lát. Không hẳn vì vết thương đã lành, mà bởi ai cũng sẽ trưởng thành hơn qua mỗi trải nghiệm.

Cảm ơn người vì luôn dạy em những bài học khó nhằn. Học yêu có lẽ học cả đời không hết. Gặp được người là hạnh ngộ lớn trong cuộc đời em.

Cảm ơn người vì hành trình này em có người bước bên, với nhiều niềm hân hoan, không thiếu những loang lổ còn sót của quá khứ được đánh động rồi trồi lên. Nhưng thôi em không gồng mình nữa, em để nó tự chảy qua em tự nhiên cũng như khi em vui cười bên người. Không có gì là xấu với cảm xúc của mình, tất cả đều là cơ hội soi tâm mình, soi cho thật rõ.

Cảm ơn người luôn tưới tẩm cho em mỗi ngày, nâng đỡ em, thấu hiểu và dìu dắt em trên con đường tu tập khó khăn nhưng không thiếu trải nghiệm thú vị. Em thích tình yêu nước luộc rau này!

Có những bài học, nghe như đơn giản lắm người nhỉ. Như bài học lan tỏa tình yêu, vậy mà biết bao nhiêu thế kỷ, con người ta vẫn còn vật lộn với nó. Thượng Đế đã luôn sắp đặt mọi bài học hiển hiện như bông hoa, chúng ta yêu bông hoa, và ti tỉ người có thể yêu được nó. Nhưng nó vẫn chỉ làm một việc là-một-bông-hoa.

Khi tình yêu được lan tỏa, tâm phân biệt cũng sẽ mờ dần đi mất. Một em bé bồng trên tay ai, em cũng có thể xem như con mình, đối đãi như với con mình. Hãy tưởng tượng một ngày, thế giới vận hành như thế. Yêu ai cũng như đang yêu chính mình, yêu con mình.

Này người thương, người thấy không. Cô gái đáng yêu của người (của mà không của, không của mà của) vẫn đang trưởng thành mỗi phút giây.

Tác giả: The Clearest Bleu

*Featured Image: Josch13 

[THĐP Translation] 5 phương pháp giúp bạn giảm stress

3

(Bài viết hiện đang có 77.8k Saves tại trang getpocket.com, và được nằm trong chuyên mục Must Read.)

Bill Rielly (Head of Partner Marketing, Apple Pay) đã có tất cả những thứ này: tấm bằng đại học West Point (Học viện Quân sự Hoa Kỳ), một chức vụ điều hành ở Microsoft, một niềm tin mạnh mẽ, một gia đình yên ấm, và rất nhiều tiền. Ông ta còn hòa thuận cả với anh chị em vợ! Vậy tại sao ông lại trở nên quá căng thẳng và lo âu tới mức không thể chợp mắt vào mỗi tối? Tôi đã làm việc với Bill được vài năm và bọn tôi nghĩ rằng những trải nghiệm của Bill sẽ trở nên hữu ích với những người có khả năng và động lực.

Bill-Reilly_McAfee
Bill Rielly — Photo: Business Wire

Đã từng có lúc, không có mức độ thành công nào là đủ đối với Bill. Ông đã được học ở trường West Point rằng cách để giải quyết vấn đề là phải kiên nhẫn vượt qua mọi nỗi đau. Nhưng cách này lại không có tác dụng khi ông cần giảm căng thẳng. Khi ông hoàn thành cuộc chạy đua marathon (42.2km) lần thứ 2 chậm hơn vài phút so với mục tiêu, ông cảm thấy mình đã thất bại. Vì vậy, để “giải quyết” vấn đề đó, ông lại tiếp tục tham gia một cuộc marathon khác năm tuần ngay sau đó. Cơ thể ông ngay lập tức chống đối ý tưởng này, và kết quả của vòng marathon này là ông đã về đích chậm hơn lần trước tận một giờ đồng hồ. Cuối cùng, vợ ông thuyết phục ông tìm ra nguyên nhân gây ra stress. Ông bỏ ra vài năm tiếp theo để tìm niềm vui trong hành trình của cuộc đời. Trong vài năm đó, ông đã tìm ra 5 công cụ. Đó là những công cụ thông thường, nhưng chúng lại chứng tỏ khả năng thay đổi cuộc sống và cho ông cơ hội để trở nên thành công với cương vị nhà điều hành Apple sau này.

1. Hít thở

Bill bắt đầu đơn giản với việc hít thở sâu 3 lần mỗi khi ông ngồi xuống bàn làm việc và ông cảm thấy việc đó khiến ông thư giãn. Khi hít thở sâu 3 lần đã thành thói quen, ông kéo dài chúng thêm vài phút mỗi ngày. Ông cảm thấy mình kiên nhẫn, điềm tĩnh, và có thể sống trong hiện tại nhiều hơn. Giờ đây ông bỏ 30 phút một ngày cho việc hít thở. Việc này giúp ông khôi phục lại những quan điểm, cùng lúc giúp ông có cái nhìn khác hơn về một câu hỏi hay một vấn đề và tìm ra hướng giải quyết mới. Những bài tập hít thở sâu là một phần trong những bài tập yoga đã có nhiều ngàn năm nay, nhưng nghiên cứu gần đây[1] của Bệnh viện Đa khoa Harvard’s Massachusetts General Hospital cho thấy hít thở sâu có tác động tích cực lên khả năng chống lại stress của cơ thể.

2. Thiền định

Lần đầu tiên biết về thiền, Bill nghĩ rằng thiền chỉ dành cho đám hippie. Nhưng anh đã rất ngạc nhiên khi biết được nhiều người nổi tiếng cũng ngồi thiền: Steve Jobs, Oprah Winfrey, Marc Benioff, và Russell Simmons là những ví dụ tiêu biểu. Được khuyến khích bởi khám phá ấy, Bill bắt đầu thiền một phút mỗi ngày. Ông thiền bằng cách sử dụng kĩ thuật “quét cơ thể”, tập trung trí lực và năng lượng vào các phần của cơ thể từ đầu đến chân. Nghiên cứu gần đây[2] của Harvard cho thấy thiền trong vòng ít nhất 8 tuần sẽ giúp cơ thể tạo ra chất xám tại vùng não bộ giúp một người điều tiết cảm xúc và sự học hỏi. Nói cách khác, những người tọa thiền có thể cải thiện khả năng kiểm soát cảm xúc và tăng sức mạnh của não bộ.

3. Lắng nghe

Bill nhận ra rằng nếu anh tập trung vào việc lắng nghe người khác với sự tập trung như khi thiền tọa, phản ứng của ông sẽ lập tức trở nên sâu sắc hơn. Người đối diện có thể nhận ra rằng Bill đang lắng nghe, gần như một cách vật lý. Và một khi họ biết Bill đang lắng nghe họ, sợi dây liên kết giữa hai người sẽ được tạo ra dễ dàng hơn. Cuộc sống ngay lập tức trở nên sâu sắc và có ý nghĩa hơn. Như giáo sư Graham Bodie đã ghi nhận[3] theo kinh nghiệm, lắng nghe là hành động giao tiếp tích cực giữa các cá nhân.

4. Đặt câu hỏi

Công cụ này không phải chỉ là hỏi người khác những câu hỏi, mà là đặt câu hỏi về những suy nghĩ tâm trí bạn tạo ra. Chỉ vì tâm trí tạo ra một suy nghĩ không có nghĩa những suy nghĩ đó là đúng. Bill đã tạo ra thói quen hỏi bản thân “Suy nghĩ đó có đúng không?” Và nếu ông không chắc chắn nó đúng, ông sẽ buông bỏ nó. Ông nói: “Biết ơn tâm trí của bạn khi nó tạo ra những suy nghĩ rồi quên nó đi. Tôi cảm thấy tự do hơn vì điều này sẽ giúp tôi bỏ qua những suy nghĩ tiêu cực, nó giống như là một van xả xoa dịu cảm xúc mà tôi chưa phát hiện ra trước kia.”

Kĩ năng truy vấn những suy nghĩ của bản thân đã được Byron Katie[4] làm cho nhiều người biết đến, cái bà gọi là “the great undoing” (tạm dịch: sự hoàn tác vĩ đại.) Kinh nghiệm và nghiên cứu của bà cho thấy sẽ tốt hơn khi ta nhìn nhận những suy nghĩ tiêu cực thay vì kìm nén chúng. Thay vì cố phớt lờ điều ta tin là đúng, việc đặt câu hỏi sẽ giúp ta đối mặt với những suy nghĩ của bản thân và bỏ qua những suy nghĩ ấy vì chúng không đúng.

5. Mục tiêu

Bill quyết tâm sống có mục đích. Không phải kiểu “Mục Đích Cuộc Đời” — nó giản hơn thế. Anh sống trọn vẹn với những quyết định của bản thân và chỉ tập trung vào những điều mình chọn. Nếu anh ấy quyết định xem TV, anh sẽ thật sự xem TV. Nếu anh ấy ăn một bữa ăn, anh sẽ giành thời gian thưởng thức bữa ăn ấy. Đã có một cuộc nghiên cứu ủng hộ trải nghiệm của Bill, nó được đặt tựa đề “Bước đi không bị điều khiển bởi electron: Một nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề Làm việc không email.”[5] Tác giả nghiên cứu Gloria Mark và Armand Cardello đưa ra bằng chứng về việc những người lao động trí óc kiểm tra email lên đến 36 lần trong một giờ. Kết quả của việc làm này là gia tăng stress. Hãy hoàn toàn tập trung vào hoạt động bạn đang làm và sống trong khoảnh khắc ấy.

Chìa khóa quan trọng dẫn đến thành công của Bill trong việc giảm stress là nhờ vào việc bắt đầu với những bước nhỏ – rất nhỏ. Điều này rất quan trọng vì bạn không thể chiến đấu với căng thẳng bằng một cách làm căng thẳng. Thường thì chúng ta sẽ tạo ra những thay đổi bằng cách thật sự nỗ lực và dồn tất cả năng lượng của ta vào bước đầu tiên. Tuy nhiên bạn không thể chiến đấu với stress bằng cách sử dụng những kĩ thuật đã tạo ra stress ngay từ đầu.

Thay vì thế, chìa khóa là làm ít hơn một chút so với mục tiêu. Nếu bạn cảm thấy muốn tập hít thở sâu 2 phút, bạn hãy bắt đầu với 1 phút. Nếu bạn muốn lắng nghe mọi người trọn vẹn nguyên cả ngày, hãy chỉ lắng nghe trong suốt buổi họp tới. Hãy khiến bản thân bạn cảm thấy muốn cố gắng tiếp vào lần tới. Cái bạn muốn là tạo ra được một thói quen có thể duy trì: giảm căng thẳng bằng một lối tiếp cận không căng thẳng.

Tham khảo

  1. Harvard’s Massachusetts General Hospital
  2. Havard’s research
  3. Graham Bodie
  4. Bryon Katie
  5. A Pace Not Dictated by Electrons: An Empirical Study of Work Without Email

Tác giả: Greg McKeown, Harvard Business Review
Dịch: Hà Huy Dương
Review: Nguyễn Hoàng Huy

Featured image: Free-Photos