21.2 C
Da Lat
Thứ Ba, 26 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 110

Có một Thượng Đế mang tên Chân Lý

5

Những tôn giáo nói rằng kẻ nào không tin vào Thượng Đế, kẻ đó vô thần. Chân lý nói rằng kẻ nào không tin vào chân lý, kẻ đó không tin có Thượng Đế. Tôi nói rằng kẻ nào không tin vào lời tôi nói, kẻ đó chắc chắn đã tìm thấy chân lý trong trái tim mình.

Tất cả tôn giáo đều do bàn tay con người tạo ra. Tôn giáo nói về Thượng Đế bằng một sự phỏng đoán sáng tạo, nhưng nó không thể vượt qua được ý chí của những kẻ đứng đầu tôn giáo.

Con người tôn sùng Thượng Đế, bằng cách tôn thờ các tôn giáo. Nhưng con người không hề biết chính mình là cha mẹ họ. Tôn giáo là do con người sinh ra, sống trong tư tưởng và ý chí của tâm trí con người. Thượng Đế chẳng bao giờ quan tâm đến các tôn giáo. Thượng Đế không bao giờ sống trong một tôn giáo.

Con người tạo ra tôn giáo nhưng bất kỳ người nào đứng ra nói với đám đông điều đó thì họ điều phải nhận lấy sự trừng phạt. Không phải từ bàn tay Thượng Đế, mà chính từ bàn tay của tôn giáo. Tôn giáo là một tư tưởng làm cong queo đi tất cả những gì thẳng thớm nhất của Thượng Đế. Đức tin vào tôn giáo đã khiến cho tinh thần và cuộc sống con người bị chao đảo, họ khoác lên mình những căn bệnh điên loạn mà khởi nguyên chính là từ niềm yêu thương mù quáng với Thượng Đế.

Tôn sùng các tôn giáo bởi con người muốn tìm đến cách nhìn thấy Thượng Đế, con người muốn đem tư tưởng và ý chí của mình đi cầu xin tôn giáo ban phát, nhưng thực chất con người đã có sẵn những cái đó. Ở một góc trong sâu thẳm tư tưởng con người. Thượng Đế đã đứng sẵn đó cùng chân lý.

Tôi đã nhìn thấy những tôn giáo đông đúc con chiên đến vái lạy, cúng kiếng, đổ vào đó bao nhiêu tiền của để xây dựng, bảo tồn, yêu thương Thượng Đế mà họ tin rằng đang sống trong ngôi nhà được xây lên bằng tiền của họ. Rồi họ dùng những gì viết trong Kinh Thánh, trích Kinh Phật, trích dẫn đủ thể loại kinh sách được đóng khung trong trí nhớ, lặp lại chúng một cách máy móc từ ngôi chùa này sang nhà thờ kia. Lời của Đức Phật, của Chúa, đánh cắp nó một cách trắng trợn bằng cái đầu trống rỗng. Hãy thôi vỗ ngực vươn vai, đồ vay mượn chẳng ích lợi gì, đồ đánh cắp càng dơ bẩn hơn cả thế. Thượng Đế chẳng bao giờ muốn dính dáng đến nó đâu.

Thượng Đế, Ngài làm sao chịu đựng nổi các con chiên của mình khi trái tim họ không nuôi giữ chân lý. Và phải chăng người nuôi dưỡng chân lý là người chẳng bao giờ tìm đến các tôn giáo. Chân lý từ khi nào đã bị đóng khuôn trong các tôn giáo? Chính Thượng Đế là người nói về các tôn giáo chứ không phải là tôn giáo nói về họ.

Chân lý là gì? Đừng hỏi câu ngớ ngẩn này, bởi chẳng có câu hỏi nào cao siêu hơn câu hỏi đó. Cũng như việc bạn đừng hỏi nên tìm kiếm Thượng Đế ở đâu? Nó chắc chắn không nằm trong các nhà thờ, chùa chiền…Tại sao đó là một câu hỏi cao siêu? Bởi lẽ không ai có thể trả lời. Người nào có thể cho bạn một câu trả lời, người đó chỉ là kẻ ngu xuẩn, một tên mù tỏ ra hiểu biết ánh sáng.

Chân lý không bao giờ nằm trong một danh từ, không nằm trong tôn giáo. Chân lý không thuộc về Công giáo, không thuộc về Phật giáo, Ấn Độ giáo…, không thuộc về ai cả. Chỉ có chân lý và Thượng Đế mới thuộc về nhau. Nhưng tại sao các bạn lại đi tìm chân lý từ Thượng Đế thuộc về kẻ thứ ba mang tên tôn giáo?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Gửi em và tuổi trẻ của chúng ta

Mưa đã ngớt nhưng bản nhạc vẫn da diết và buồn hơn cả khi mưa xối xả, anh ngồi đây trong căn phòng với ánh đèn vàng dịu dàng, nghe bản nhạc không lời và muốn viết điều gì đó, điều mà hợp với cảm xúc của hiện tại. Anh đã luôn ấn tượng những con người khiêu vũ với những dòng chữ để mang lại cho người đọc những cảm nhận quá đỗi đáng yêu và tươi đẹp. Anh thì lại không có cái khiếu ấy mà chỉ viết được những dòng chân thật – chân thật một cách khô khan về những gì trong anh đang có, đang cảm nhận, những gì của hiện tại mà thôi.

Anh luôn cảm thấy con người thật vô định, vô định chứ không phải tự do em ạ. Có một sự khác biệt rất lớn giữa chúng, tự do khi em hân hoan, vui vẻ, an nhiên, tự tại làm mọi thứ mà không sợ hãi. Nhưng vô định thì trái ngược. Em sẽ luôn sợ hãi, hoang mang khi em không có chỗ nào để bám víu, hay những thứ em đang dựa vào. Em biết chỉ như ngọn nến trước gió mà thôi.

Sự vô định luôn đi cùng với sự trống rỗng. Anh đã nghĩ rằng đây là số phận của con người, khi chúng ta được sinh ra trong một thế giới mà mọi thứ đã sẵn có và thay đổi liên tục. Ta phải học mọi thứ về thế giới ấy, càng học ta càng hoang mang về mục đích ta sống trên cuộc đời này, ý nghĩa của sự tồn tại nhỏ bé này của ta. Càng hoang mang ta càng cố gắng tìm kiếm câu trả lời để khỏa lấp. Có lẽ tuổi trẻ là quãng thời gian sự vô định và hoang mang đạt đến cực điểm, và cũng là nơi tốt lành nhất để chúng ta khám phá được ý nghĩa của cuộc đời.

Nhìn lại tuổi trẻ của mình, em có yêu chính mình của ngày đó không? Anh nghĩ ai cũng yêu thôi không chỉ tuổi trẻ của ta mà của tất cả mọi người. Hãy nhìn những con người sôi sục nhựa sống và nhiệt tâm ấy, những người luôn muốn làm điều gì có ý nghĩa nhất, cao cả nhất và cống hiến nhiều nhất cho cuộc đời mà chẳng mảy may nghĩ đến bản thân. Em tìm được ở thời điểm nào của cuộc đời một con người có những phẩm chất ấy không – những phẩm chất mà có lẽ chỉ xuất hiện ở các thiên thần nếu như họ tồn tại. Nhưng với những phẩm chất ấy không có điều gì dẫn dắt họ cả, họ tự do đấy nhưng tự do đó là một sự hỗn mang rối loạn không có trật tự, mà đôi khi chỉ để thỏa mãn cho khao khát muốn trải nghiệm nhiều hơn. Những thiên thần này vì không có một trí tuệ nào soi sáng rất dễ sa ngã, họ ngã vào đâu thì hãy nhìn những người lớn tuổi và em sẽ thấy.

Em có nhớ ngày xưa khi ngôi nhà chúng ta chỉ nhỏ thôi, với sân vườn và không có cổng. Chúng ta đến nhà nhau mỗi sáng, mỗi tối để trò chuyện, uống trà, cười vui trong sự thanh thản của cái nghèo. Nhưng càng ngày những ngôi nhà cao càng mọc lên, những cánh cổng kiên cố, những hàng rào cao vượt tầm mắt, chẳng còn mấy ai đến với nhau như ngày xưa nữa vì giờ ai cũng yên ổn trong cái nhà của mình rồi. Nó cũng buồn như cách chúng ta tiếp xúc với nhau vậy, ai cũng đều xây lên thế giới của riêng mình bằng những lý tưởng, ham muốn, ý niệm, niềm tin và yên ổn trong thế giới ấy, chúng ta tiếp xúc nhau qua một bức tường của tư tưởng mà chẳng bao giờ có thể chạm đến nhau thực sự, dù là trong tình yêu và cho đến lúc chết.

Chúng ta đã hóa giải sự vô định bằng cách bám vào những tư tưởng khác nhau và từ đó xây lên cho chúng ta một thế giới riêng mà ở đó ta sống, ta tiếp xúc với người khác, với thế giới. Con người qua bao thế kỷ trải qua bao chiến tranh, ganh ghét, hận thù cũng đều chỉ vì bám chấp hay cố chứng minh thế giới của ta là đúng nhất và muốn tất cả cũng phải giống như thế giới của mình. Nếu như được lựa chọn, anh thà được chọn sự hoang mang trong vô định hơn là bị cầm tù và đui mù trong tâm trí ấy.

“Tôi muốn thúc giục các anh can đảm đi tìm chân lý một mình và can đảm chấp nhận tất cả mọi sấm sét búa rìu của dư luận, và có được thế các anh mới trừ được cái tánh khí ươn hèn của mình bao giờ cũng cố tìm một cái “lồng” để chui vào cho yên thân.”

– Krishnamurti

Anh nghĩ chỉ có một lối thoát duy nhất khỏi sự vô định của người trẻ và sự bám chấp của người già là chúng ta phải ý thức con người chúng ta của hiện tại. Ta phải đối diện với sự vô định ấy xem nó là gì. Ta phải lật lại mọi thứ ta từng tin tưởng, chấp giữ để tìm cho ra sự thật, bởi trong sự ý thức ấy ta mới hy vọng tìm thấy sự tự do, chứ không phải vẽ nên một lý tưởng về tự do để ta bám vào…

Nhưng con người quá dễ dãi và lười biếng em ạ, vì chúng ta chỉ muốn bám víu dựa dẫm vào người khác thôi, chúng ta chỉ muốn bám vào một thứ gì đó chắc chắn để sống theo, hay chỉ muốn thỏa mãn những ham muốn, dục lạc của mình. Và thế giới cũng quá nhiều thứ giải trí, thú vui để ta hưởng thụ đến suốt đời mà không phải lo nghĩ về cái thứ “ý nghĩa cuộc sống” vớ vẩn kia nữa, chúng ta hoàn toàn mãn nguyện và chấp nhận trở thành con rối của xã hội, của lòng tham, của tư tưởng và an phận trong sự ngu dốt và hời hợt đó.

Tuổi trẻ thì không biết điều gì là đúng là sai, là sự thật và còn đang khao khát được trải nghiệm, thì những thú vui kích thích giác quan, dục vọng kia lại hấp dẫn hơn cả, thêm nữa bản năng tính dục bộc phát khiến chúng ta lao vào ái tình như con thiêu thân rồi lập gia đình, sinh con, làm việc, giải trí… trở thành một phần trong cái guồng quay của xã hội, của tư tưởng và ta mắc kẹt trong đó mãi mãi.

Em có thấy mọi điều đó không? Thực sự anh hy vọng mình không phải kẻ bi quan hay bất mãn với cuộc đời để nhìn đời với một thực tế ảm đạm đến thế, đó là tất cả mọi thứ sẽ vồ lấy và nuốt trọn chúng ta vào trong nỗi khốn khổ của con người, chúng ta không còn vô định nhưng chẳng còn sức sống và tự do để cảm nhận cuộc sống này nữa, và rồi “ý nghĩa của sự tồn tại” sẽ bị lãng quên trong nỗi chán trường, thờ ơ, trong sự tự mãn và trong mọi cuộc vui thú của loài người.

Vậy anh và em như hai con người yêu thương nhau, đã nhìn thấy hết mọi điều ấy, ta phải làm gì đây? Chẳng phải ngay từ giây phút này ta phải ý thức thật rõ ràng và sáng suốt con người của ta, những niềm tin lý tưởng và thứ tư tưởng kỳ quặc đang ngự trị trong ta, đang định hình cuộc sống của chúng ta hay sao? Chẳng phải chúng ta phải dồn hết sinh lực của tuổi trẻ để tìm cho ra cái quái gì đang nằm trong đầu ta hay sao? Thay vì lao như một con thiêu thân vào vòng xoáy cuộc đời và đến lúc chết ta cũng không biết mình là ai,  mình sống để làm gì.

Nhưng hãy nhìn xem chúng ta biến tình yêu trở thành thứ gì. Chúng ta dựa dẫm vào nhau, bấu víu lấy nhau, vuốt ve bản ngã của nhau, xây lên đủ thứ lý tưởng lãng mạn hay thực dụng để rồi sống với chúng. Chúng ta có tự do không? Anh nghĩ (và chắc chắn) là không nếu anh và em sống một đời như thế. Chúng ta cần phải một mình – hoàn toàn một mình trong việc đối diện với sự trống rỗng, vô định này, trong mớ hổ lốn của thứ tư tưởng này để tìm cho ra cái gì là Thật, để ý thức sáng suốt chúng ta đang là gì. Và em không thể giúp anh, mà chỉ có thể là tấm gương để anh nhìn lại bản thân, và anh cũng vậy.

Trong mối quan hệ của chúng ta, chúng ta không cố gắng thay đổi nhau, hay làm hài lòng nhau mà chúng ta chỉ chia sẻ sự thật, anh đang giận, em đang buồn, anh đang trống rỗng, em đang hạnh phúc… Tất cả mọi cảm xúc chúng ta có thể chia sẻ nhưng người đối diện sẽ không làm gì khác ngoài việc lắng nghe và chia sẻ cái họ đang cảm thấy, hay gợi mở những câu hỏi để người kia nhìn lại chính mình.

Em có thấy cái đẹp của điều này không, khi cả hai đều tự do và phản chiếu lẫn nhau trong mối quan hệ mà không ràng buộc, bám víu, dựa dẫm, tạo ảnh hưởng, tạo lý tưởng. Trong sự tự do ấy là tình bạn, là sự thân mật, là sự vô tư, là tri kỷ, là tình yêu – thứ tình yêu không nhuốm màu của thất vọng và đau khổ. Chỉ việc ngày qua ngày chúng ta tự ý thức chính mình và là tấm gương cho đối phương thì qua đó tình yêu mới triển nở, nó xuất hiện khi chúng ta không toan tính, không chờ đợi, không lên kế hoạch, không lý tưởng, không mong cầu…

Nó đến tự nhiên khi anh và em ý thức bản thân, chia sẻ sự thật và là tấm gương cho nhau nhìn lại mỗi ngày. Và rồi ta sẽ nhận ra ý nghĩa của sự tồn tại của nhau, chẳng phải để cho nhau có một đối tượng để yêu, mà để đánh thức con người thật bên trong mỗi chúng ta bằng sự tự ý thức mỗi ngày nhờ người kia. Và anh nghĩ đó cũng là ý nghĩa lớn nhất của sự tồn tại giữa con người với nhau – là tấm gương cho nhau để nhận ra chính mình.

“Đó là vì ngươi và người khác là một. Và đó là vì… Chẳng hề tồn tại gì, ngoại trừ ngươi.”

– Neale Donald Walsch, Đối thoại với Thượng Đế

Anh hy vọng nếu một ngày anh không còn tình yêu trong quả tim nữa thì em cũng không ngạc nhiên hay thất vọng vì điều ấy, chúng ta luôn thay đổi và tâm thức cũng vậy. Có những khi anh buồn và trống rỗng thì anh không thể nói yêu em được, tâm anh không thể đang đau khổ và dửng dưng mà lại  vẫn yêu em được, nhưng dù anh không còn tình yêu khi ấy, anh sẽ luôn chia sẻ sự thật với em, những cảm xúc, cảm nhận, suy nghĩ của hiện tại và anh hy vọng em cũng như vậy. Dù có những tháng ngày chúng ta chỉ còn lại sự thờ ơ, lãnh đạm, trống rỗng, ích kỷ, đau khổ… Nhưng hãy đối diện với chúng, ý thức chúng và chia sẻ chân thật về chúng. Khi sự thật được hiển hiện, tình yêu sẽ theo sau em ạ. Anh không biết em có nhận thấy điều ấy không, rằng chúng ta không cần phải trao nhau tình yêu – vì tình yêu không phải thứ để ta có thể trao hay làm gì được với nó, chỉ cần trao nhau sự chân thật và đối diện với sự thật ấy bên trong chúng ta thôi, đó là tất cả mọi điều chúng ta cần làm cho nhau rồi em ạ.

Anh đã từng viết trong cuốn nhật ký của mình rằng: “Nếu một ngày nào đó cậu đọc lại những điều trong cuốn nhật ký này, tôi hy vọng đó là ngày mà nội tâm cậu đã được giải thoát khỏi mọi sợ hãi, đau khổ, dục vọng mà tự do hoàn toàn, thì hãy nhớ đến tôi – cậu bé 23 tuổi này và những người sẽ lớn hơn tôi nữa. Hãy nhớ cậu đã là tôi và cậu đã là tất cả, hãy nhớ rằng chúng tôi đã từng tồn tại dù nội tâm của chúng tôi chỉ có sự trống rỗng, đau khổ nhưng chúng tôi luôn hướng đến điều tốt đẹp nhất. Và dù cho nội tâm cậu có tệ hơn tôi bây giờ thì hãy đối mặt với những gì trong cậu có, tôi biết cậu có đủ năng lượng, niềm khao khát tự do trong con tim và khối óc của cậu, hãy bắt đầu sống với mọi điều trong cậu. Và đừng để chúng tôi là gánh nặng ký ức của cậu, hãy xem chúng tôi là những người bạn trên hành trình cùng cậu đi tìm tự do – giải thoát của cuộc sống.”

Đó là tất cả trí tuệ và tình yêu của tuổi trẻ mà “cậu bé” 23 tuổi ấy gửi đến những người bạn già của mình, dù khi ấy trong cậu vẫn đầy rẫy nhưng hoang mang và trống rỗng cho cuộc đời phía trước, nhưng cậu không sợ hãi, né tránh, mà luôn tự mình bước đi tìm kiếm sự thật trong sự âm thầm và “cố chấp”.

“Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không.” – Tagore

Trên con đường này chúng ta luôn một mình em ạ, em sẽ thấy cô đơn ghê gớm nhưng nếu em sống trọn sự cô đơn ấy, em sẽ thấy cái đẹp của nó, hương thơm tự do của nó. Anh đã đau khổ, đã dằn vặt, đã mâu thuẫn giằng xé tâm can trong nỗi cô đơn, và rồi anh cũng thanh thản, bình an, tự do cũng chính trong nỗi cô đơn ấy. Khi em đau khổ, em chẳng thể làm gì khác hơn ngoài việc sống trọn vẹn cái khổ ấy mà không né tránh, sợ hãi, dựa dẫm, cố thay đổi, hay cố trốn chạy. Nếu em có thể sống trọn vẹn từng xúc cảm của em trong sự cô đơn một mình, và anh cũng sống với mọi điều trong anh ở hiện tại, thì chúng ta mới có thể tự giải thoát cho nhau, mới có thể bên nhau trong sự tự do, mới có thể chạm đến nhau thực sự, mới có thể biết thế nào là Tình Yêu.

Anh và em không còn là cậu bé, cô bé 23 tuổi nữa, tuổi trẻ của chúng ta đã qua, có thể hiện tại ta chẳng là gì ngoài những lo lắng, chán chường, tham lam, trống rỗng, đau khổ… Nhưng trên hết chúng ta luôn giữ ngọn lửa đó của tuổi trẻ, luôn đối diện và nhận biết mọi điều trong ta, sống thật với chúng, không phàn nàn, không phán xét, không cố sửa đổi, không lý tưởng, không sợ hãi, … ta sống với chính ta trong từng khoảnh khắc, và ta cũng chết đi trong từng khoảnh khắc, ta ý thức ta trong ánh mắt của mọi người, trong ánh mắt của người ta thương, ta chia sẻ sự thật, ta bình thản, ta vô tư, ta tự do… ta Yêu!

Tác giả: Phạm Đức Hậu

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Tại sao lại là tôi?

Khi còn nhỏ, như mọi đứa trẻ khác, tôi cũng hay đặt ra cho người lớn rất nhiều câu hỏi “tại sao” gây nhức óc. Tại sao bầu trời lại có những ngôi sao? Tại sao những ngôi sao lại sáng? Tại sao ánh sáng lại màu trắng? Tại sao màu trắng đó không phủ hết bầu trời đêm mà chỉ chiếu sáng li ti những chấm rất nhỏ, như ánh đèn từ một thị trấn xa xăm? Tại sao và tại sao…

Bạn cũng biết rồi đấy, đặc điểm của những câu hỏi theo kiểu như vậy là tính chất “nối đuôi nhau”: Hễ một câu được trả lời là lập tức một câu hỏi khác, có liên quan, ra đời.

Người lớn thường phát mệt bởi những câu hỏi đó. Đôi khi họ thành thật nói rằng họ không biết. Đôi khi họ bịa bừa ra một hai đáp án. Rõ ràng, bịa không phải là giải pháp khôn ngoan, vì chỉ cần đáp án xuất hiện – thì bất kể nó đúng hay sai – sẽ có ngay một nghi vấn khác được đứa trẻ đặt nối tiếp vào sau cái đáp án đó. Rốt cuộc người cáu lên: “Hỏi gì mà lắm thế!?” và nén bực bội bảo: “Sau này lớn lên sẽ hiểu!”

Thế giới này là vậy. Không có câu trả lời rốt ráo. Không có đáp số trọn vẹn, và không có chân lý sau cùng. Chúng ta bước đi giữa lằn ranh tương đối của những điều ta biết và những điều ta không biết. Nếu có người nào đó cho rằng mình đã khám phá ra bí mật sau cùng của cuộc đời, thì có lẽ người đó chỉ đang tưởng tượng. Người bình thường hơn thì an nhiên trong cái không biết của chính mình: Họ vẫn học hỏi, thay đổi để thích nghi, nhưng không kiếm tìm đáp án hoàn hảo.

Nếu bạn để ý, những em bé không đau khổ khi đặt câu hỏi “Tại sao” về thế giới. Nhưng với cùng kiểu câu hỏi đó, người lớn lại đau khổ.

“Tại sao lại là tôi?” là một trong những câu hỏi khủng khiếp nhất. Nếu sống đủ lâu, ít nhất sẽ một lần chúng ta co rúm lại bởi một cơn ‘bão tố nhân sinh’ dữ dội. Chẳng hạn, một căn trọng bệnh làm thể xác đau đớn. Tuy nhiên vấn đề sẽ chỉ dừng lại ở đó thôi nếu bạn không nghĩ: “Thôi xong rồi, mình chết đến nơi rồi, đời mình còn đâu nữa, người thân của mình ở lại biết nương tựa vào ai?…” Lúc đó, sự thống khổ nội tâm xuất hiện. Vậy là bên cạnh cái đau thể xác, bạn tạo thêm cái khổ tâm trí.

Nỗi khổ không chừng sẽ chỉ dừng lại ở đấy, nếu bạn không thêm một câu hỏi nữa: “Tại sao lại là tôi?”

Tại sao người bị bệnh là bạn? Tại sao người có bố mẹ ly hôn, gia đình tan vỡ, bị phản bội, bị đánh rớt, thi trượt, gặp xui xẻo triền miên… lại chính là bạn? Bạn truy vấn số phận. Câu hỏi đó vô tình nhân nỗi đau của bạn lên gấp bội.

Ta có thể tìm được một phần đáp án từ gen di truyền hoặc chế độ sinh hoạt bất hợp lý (bệnh tật), từ tính cách trái ngược nhau của bố mẹ (dẫn tới ly hôn), thông qua bản chất thiếu chung thủy của người bạn yêu, hay sự kém siêng năng của bạn (thi trượt)… Thậm chí, bạn có thể tin vào các giả thuyết như “nghiệp báo” từ tiền kiếp, hoặc là coi đấy là nỗi đau cần mang trên vai để được bước qua cửa thiên đàng sau khi chết.

Tuy nhiên, khi khổ tâm quá lớn thì tất cả những đáp án này đều không hoàn toàn thỏa mãn ta. Chúng chỉ mang tính an ủi. Ta vẫn tiếp tục chìm trong tuyệt vọng.

Người truy vấn “Tại sao lại là tôi” là người đang tự đào hố chôn mình. Mỗi lần nghĩ tới câu hỏi ấy là một lần anh ta ấn xẻng xuống, xúc đất lên. Đáng buồn là dù trên đầu anh ta, trời vẫn xanh, gió vẫn thổi, xung quanh cỏ vẫn tươi, mọi người vẫn sống và lũ trẻ vẫn cười… thì mắt người đào chỉ dán chặt vào cái hố mang tên Tuyệt Vọng kia mà thôi. Khi cái hố sâu quá đầu, anh ta mất hút trong đó. Anh ấy trầm cảm nghiêm trọng!

Sự thật: Ta đang có một nghịch cảnh. Vậy thôi. Không còn gì hơn nữa. Đáp án cho câu hỏi: “Sao lại là tôi?” đơn thuần chỉ là “Đó chính là hiện tại của tôi!” Đó chính là tôi! Chấm hết.

Biết chấp nhận mang cho bạn một sức mạnh lớn. Khi biết chấp nhận, bạn không còn bị kiệt sức bởi những câu hỏi. “Ừ, đó là tôi thôi”, bạn bảo, và với sự nhẫn nại, bạn làm những điều thật sự thiết thực cho tình trạng của mình.

Chấp Nhận khác hẳn Từ Bỏ. Khi từ bỏ, bạn buông xuôi hoàn toàn, phó mặc cho số phận. Bạn ngồi luôn trong cái hố đã đào và không chui ra nữa. Ngồi dưới đó chờ ngày tàn của bạn. Ngược lại, chấp nhận là xác định với mình rằng, chính nỗi đau này là nền tảng của ta, từ nền tảng đó ta sẽ bắt đầu một cuộc sống thực sự.

(Nếu ta nhìn cách người Nhật đương đầu với những thảm họa thiên nhiên và sự tàn phá của chiến tranh, ta sẽ thấy Sức mạnh của sự chấp nhận trên bình diện một quốc gia).

Khi ta ngừng cật vấn bản thân, cuộc chiến nội tâm cũng kết thúc. Lúc ấy ta có cơ hội sử dụng năng lượng tinh thần cho những điều thiết thực và tươi sáng hơn, thay vì hì hục đào hố chôn mình.

Một vài người chết rất nhanh sau khi phát hiện căn bệnh nghiêm trọng nào đó, bởi họ không chấp nhận nổi tình trạng của họ. Họ ra đi khi trong đầu quanh quẩn thắc mắc: Cớ gì ông trời gọi tên tôi chứ không phải tên người nào khác?

Câu hỏi “Tại sao” rất có rất có ích trong nhiều hoàn cảnh, ví dụ như nghiên cứu khoa học, hoặc đôi khi trong việc điều chỉnh hành vi để sống đúng đắn và thông minh hơn. Nhưng nó không dành để giải đáp vấn đề số phận.

Bạn có biết lý do vì đâu cũng với việc thường xuyên đặt câu hỏi “Tại sao?”, nhưng người lớn thì hỏi ít hơn mà khổ nhiều hơn, còn trẻ thơ thì hỏi rất nhiều mà chẳng khổ tí nào?

Câu hỏi “Tại sao” của người lớn thường hướng tới việc giải quyết vấn đề. Trong đời, có rất nhiều vấn đề không thể hiểu được trọn vẹn, nhiều tình huống phải chấp nhận, nhiều thời điểm chúng ta giật mình tỉnh ra rằng mình cần một thái độ buông xả. Giống như liên tục húc đầu vào tường, càng cố tìm đáp án cho số phận, chúng ta càng tự làm mình đau.

Người lớn thường sử dụng câu hỏi “Tại sao?” để tìm ra phương cách sau cùng hòng đạt được những thứ mà anh ta cho rằng sẽ đem lại hạnh phúc. Buồn cười thay, đó chính là cội nguồn đau khổ. Chẳng bao giờ có đáp án hoàn chỉnh cho hạnh phúc.

Trẻ con, ngược lại, không hỏi để giải quyết vấn đề. Chúng hỏi để khám phá thế giới. Để đi sâu vào bí ẩn khôn cùng của thiên nhiên: Những vì sao, bầu trời, hoa lá, sự sinh sản, sự tàn phai, các mối quan hệ con người… và tất cả những gì chúng thấy là bí ẩn. Trong câu hỏi “Tại sao” của trẻ con không có tham cầu, không tư lợi, cũng không có ý tìm kiếm tri thức để “nhét đầy túi khôn”. Đó là hồn nhiên. Đó là sự khác biệt.

Tất nhiên nói vậy cũng không hoàn toàn đúng. Trẻ con cũng có những câu hỏi “phi hồn nhiên” với tâm tư tham đắm. Nếu không, lũ trẻ đã chẳng trở thành người lớn chúng ta.

Điều quan trọng không phải những câu hỏi, mà là cái tâm hồn nhiên trong sáng. Tâm ấy thấy bí ẩn mà không phá hủy hiện tại để truy cầu lời giải cho bí ẩn. Chỉ thấy trọn vẹn mà thôi.

Tác giả: thieuletuanh

*Featured Image: cdd20

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Ngộ nhận về 49 ngày thiền

Thế giới này là một thế giới bình thường. Chỉ có con người chúng ta, vì mơ những điều phi thường, mà trở nên không bình thường. Thiền sư Viên Minh có nói đại ý như vậy.

Một người tu hành theo đạo Phật là một người đang trở về với cái bình thường. Và người giác ngộ là người bình thường nhất trong số những người bình thường. Phật Thích Ca có lẽ là người giác ngộ đầu tiên được ghi tên lại.

Điều bình thường thể hiện rõ trong hành trình giảng đạo của ngài. Ngài đi bộ. Đi bộ với chân trần suốt mấy chục năm trời, cho đến khi ngài qua đời ở tuổi ngoài 80, sau một đợt bệnh nặng (đi ngoài ra máu, mà tôi ngờ rằng là ung thư đường tiêu hóa) kèm theo ngộ độc thức ăn. Ngài đã đi như chúng ta đi và chết như chúng ta chết, có khi còn chết đau đớn hơn nhiều người không giác ngộ – những người đang khỏe mạnh bình thường bỗng ra đi trong một giấc ngủ ngon, ít đau đớn.

Kinh điển nói về các sự thần thông biến hóa liên quan đến cuộc đời ngài. Tôi cho rằng đó chỉ là sự thêm thắt, không có gì phi thường trong đời ngài cả. Đời sống của Phật là tận cùng của sự bình thường.

Nếu bạn có dịp đọc Đường xưa mây trắng, cuốn tiểu thuyết của thiền sư Thích Nhất Hạnh viết dựa trên cuộc đời và các lời dạy của Phật Thích Ca – bạn sẽ thấy thiền sư Nhất Hạnh lược bỏ hầu hết những gì thần thánh hóa quanh đức Phật, trả ngài về trong hình dáng một con người hòa dịu bình thường. Tuy nhiên tôi có cảm tưởng hình bóng Phật trong cuốn sách đó có gì phảng phất hình bóng của chính ngài Nhất Hạnh và phép tu thiền riêng của Làng Mai. Điều này cũng khó tránh khỏi.

Mẹ của Phật chết sau khi sinh ra ngài. Ngài lớn lên trong hoàng cung và được bù đắp bởi tình yêu từ vua cha. Ngài lấy vợ sinh con và có một cuộc sống đẹp. Tuy nhiên, ngài từ bỏ tất cả để ra đi sau một đợt (mà ngày nay chúng ta gọi là) khủng hoảng tinh thần. Rất may ngài không sống trong thời hiện đại, nếu không có lẽ người ta sẽ bảo ngài “bị hâm” và đề nghị ngài dùng thuốc chống trầm cảm.

Đức Phật đã tập Thiền Định để tìm câu trả lời. Nhưng sau khi đạt đến những tầng cao nhất của thiền định, ngài nhận ra trong nội tâm mình, đau khổ vẫn còn. Vì thế, ngài từ bỏ thiền định, và dấn thấn vào lối tu khổ hạnh: Hành hạ thể xác để tìm câu trả lời. Đây là một cách tu ngớ ngẩn và ngài đã suýt chết vì nó.

Vì thế chúng ta nên cẩn trọng với huyền thoại nói rằng đức Phật “ngồi thiền” dưới cây bồ đề 49 ngày và đạt được giác ngộ. Chúng ta nên cẩn trọng với việc truy cầu các “tầng thiền định” để đạt được giác ngộ. Chẳng có giác ngộ nào trong thiền định cả – đó là điều chính đức Phật khẳng định. Thiền định dù có xoa dịu nội tâm ta êm ái đến đâu, thì trong sâu thẳm, đau khổ vẫn còn.

Bản thân con số 49 là một con số có nhiều ý nghĩa trong văn hóa Á Đông, vì vậy, có thể nó cũng chỉ là một con số biểu tượng, được thêm thắt sau khi Phật qua đời. Phật chưa hẳn đã cần tới 49 ngày để nhận ra chân lý.

Sự giác ngộ của đức Phật được đánh dấu bằng việc ngài từ bỏ mọi nỗ lực tu hành, một phần bởi lúc đó thân thể ngài đã suy kiệt do tu khổ hạnh. Ngài được cứu sống nhờ việc sử dụng thực phẩm bình thường, bắt đầu với sữa động vật – thứ mà nhiều người tu hành hiện nay không dùng vì cho rằng nó không phải thực phẩm “thuần chay”. Ngài từ bỏ việc “thoát khổ”, một sự từ bỏ hoàn toàn. Bởi mọi hành động “thoát khổ'” đều chỉ là phản ánh của ham muốn tìm kiếm hạnh phúc. Và ham muốn kiếm tìm hạnh phúc, đến tận cùng, sẽ đem tới bất hạnh.

Nghịch lý là khi không còn nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc, thì một thứ “hạnh phúc” tự nhiên và đích thực sẽ đến.

Không phải ngẫu nhiên mà bài kinh đầu tiên Phật giảng sau khi giác ngộ, kinh Tứ Diệu Đế, lại khẳng định rằng: Khổ là một sự thật. Một sự thật không thể chối cãi. Làm sao bạn có thể chạy trốn, làm sao bạn có thể dập tắt, làm sao bạn có thể phủ định được sự thật?

Khát khao “thoát khổ” chỉ là tham vọng của bản ngã mà thôi. Chỉ khi nào bạn chấp nhận sâu sắc rằng bạn không thể thoát được Khổ, tức bạn từ bỏ sâu sắc cái ước vọng kiếm tìm hạnh phúc, thì bình yên đích thực mới bắt đầu xuất hiện. Đó là trạng thái mà Phật gọi là Niết Bàn. Và con đường vô ngã bắt đầu hé mở.

Sự giác ngộ của Phật được gọi mởi khi ngài nghe câu chuyện của hai người lạ mặt về dây đàn: Dây đàn căng quá cũng không được, chùng quá cũng không được. Muốn chiếc đàn có âm thanh hay, thì dây đàn chỉ nên được căng ở một mức vừa phải. Chúng ta cũng vậy, nên nỗ lực vừa đủ. Đừng buông thả quá, nhưng cũng đừng nỗ lực thái quá. Ví dụ, nếu bạn đang tập thiền, bạn không cần phải ngồi thâu đêm suốt sáng hoặc cắt bớt giấc ngủ của mình để làm điều đó. Nếu điều kiện cho phép, hãy ngủ đủ giấc và sinh hoạt một cách khoa học.

Phật đã nhớ lại hình ảnh tuổi thơ của mình trong lúc đang giác ngộ. Chúng ta cũng vậy, hãy thấy ở mình một đôi mắt hồn nhiên của trẻ thơ.

Bất cứ một điều gì cao siêu đều không phải là Phật Pháp. Điều gì càng bình thường, giản dị, càng gần với Phật Pháp. Tận cùng của sự bình thường, tận cùng của sự giản dị, chính là Phật. Chẳng thế mà thiền sư Trần Nhân Tông viết:

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.”

Dịch là:

“Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ.

Chân lý nằm trong những điều bình thường. Điều bình thường chính là chân lý.  (Và phát biểu này cũng chẳng có gì mới mẻ cả. Mọi điều tôi nói trên đều đã cũ. Dù vậy, nhắc lại chúng cũng tốt thôi.)

Ngộ nhận về chân lý dẫn đến những việc đáng tiếc. Một trong những ngộ nhận dễ thấy nhất gần đây là tình trạng của ông Đặng Lê Nguyên Vũ – ông chủ của cà phê Trung Nguyên. Trong những điều ông Vũ đã làm, có những khía cạnh đáng trân trọng. Nhưng ở đây chỉ bàn tới vấn đề phương pháp.

  • Ông Vũ ngồi 49 ngày, có lẽ là bắt chước điển tích “Phật ngồi 49 ngày dưới gốc cây bồ đề.” Như đã nói, con số 49 có thể không chính xác.
  • Ông Vũ ngồi thiền và nhịn ăn. Đó là hai thứ mà Phật đã từ bỏ: thiền định và khổ hạnh. Trong quá trình giác ngộ “dưới cội cây bồ đề”, Phật Thích Ca đã ăn uống trở lại để khôi phục sức khỏe sau những ngày dài nhịn ăn, hành xác.
  • Có vẻ như sau khi ngồi thiền và nhịn ăn, ông Vũ đã khám phá ra bí mật của vũ trụ. Phật thì chẳng khám phá ra thứ gì cả. Ngài chỉ thấy rõ những sai lầm nội tâm đem đến đau khổ trong chính mình. Ông Vũ hướng tới sự siêu việt, còn Phật trở về với sự bình thường.

Đáng tiếc.

Tuy nhiên, những sai biệt ấy cũng không thấm vào đâu so với những biến đổi từng xảy ra trong lịch sử Phật Giáo, biến đạo Phật từ một chuỗi những gợi ý để người ta tự điều chỉnh các tổn thương bên trong lòng mình, thành ra một tôn giáo đa thần với nhiều bùa chú và khấn nguyện cao siêu ở nhiều nơi trên thế giới.

Như dây đàn không quá chùng cũng không quá căng, đừng trở nên tầm thường nhưng cũng đừng tìm thứ phi thường. “Tâm bình thường là đạo.”

Tác giả: Thiếu Lê Tú Anh

*Featured Image: brenkee 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Nhật ký đã thay đổi cuộc đời tôi như thế nào?

0

Nếu có gì trần trụi nhất về một con người thì tôi cho rằng đó là những trang nhật ký. Ở đó, ta chẳng cần phải nịnh bợ bất kỳ ai bằng những ngôn từ hoa mỹ, cũng không phải giấu diếm chính mình bằng những dòng viết qua loa. Vì lương tâm nhìn thấu tất cả, mọi lời lẽ vỏ bọc chẳng có ý nghĩa gì khi đứng trước con mắt tinh tường ấy.

Tôi đã bắt đầu viết nhật ký từ khi lên 10 tuổi. Nhưng đó chỉ là những dòng viết ngây ngô của trẻ thơ và không được duy trì thường xuyên đều đặn. Chỉ khi nào có sự kiện hay biến cố gì đó trong cuộc sống, tôi mới tìm đến những trang giấy để giãi bày.

Trong suốt ba năm trở lại đây, tôi bắt đầu thói quen viết nhật ký hàng ngày. Càng gần gũi với bản thân bao nhiêu, tôi càng nhận ra sự bỏ bê đời sống nội tâm đã khiến thế giới bên trong mình hoang tàn như thế nào trước kia. Những con sóng tiêu cực cuộn trào vô tổ chức, những suy nghĩ đen tối cũng thường trực lấn lướt sân chơi cuộc đời. Tôi đã từng mang một thế giới hết sức hỗn độn, xô bồ bên trong mình mà không hề hay biết. Cho tới khi giọt nước tràn ly (vấp phải những điều đau khổ dồn dập dẫn đến khủng hoảng), tôi mới nhận ra rằng thế giới kia cần được dọn dẹp và tổ chức lại.

Tôi đã dành (tối thiểu) khoảng một giờ đồng hồ mỗi ngày cho chính mình chỉ để viết ra tất cả những gì mình cảm thấy và suy nghĩ. Những trăn trở, những mâu thuẫn, những sợ hãi, những thay đổi, những ước mơ, những điều cần tháo bỏ, v.v… – tất cả đều được “chụp ảnh” lại bằng những con chữ. Càng viết, tôi càng tiến sâu vào sự đơn giản và chân thực (đến mức phũ phàng). Tôi đã từng cho rằng việc dành một giờ đồng hồ chỉ để ngồi viết (thậm chí viết những thứ vớ vẩn, trên trời dưới biển xuất hiện trong đầu) là sự quá đỗi lãng phí. Nhưng sau này tôi nhận ra nếu không làm như vậy, tôi có thể đánh mất cả một đời cho sự tăm tối và hỗn loạn bên trong. Với sự so sánh như vậy, tôi thấy mình đã có một hành động khá khôn ngoan khi đó.

Nhờ việc kiên trì viết, thế giới nội tâm của tôi có sự chuyển đổi tích cực, cùng với đó là những tín hiệu tươi mới xuất hiện ngày càng nhiều hơn trong cuộc sống. Ở nơi những điều tiêu cực được gột rửa, những hạt mầm ánh sáng bắt đầu nảy nở.

Hôm nay tôi muốn chia sẻ những lợi ích mang lại từ cuộc hành trình với trang nhật ký của mình. Có thể việc viết lách không phù hợp với tất cả mọi người, nhưng tôi cũng hy vọng rằng những gì mình chia sẻ là một cánh cửa ai đó có duyên bước vào.

1. Sống thật với bản thân

Viết nhật ký tưởng chừng là một việc dễ dàng nhưng không phải là như vậy trong giai đoạn đầu. Vì nó buộc một người phải sống thật với chính mình – đó là tiền đề để không giả dối với người khác. Lúc đầu, tôi đã rất sợ phải chạm vào những điều tăm tối bên trong lòng và không dám viết chúng ra. Nếu có viết, tôi cố gắng tìm cách nói giảm nói tránh hoặc lia bút phớt phơ cho qua.

Sau này, tôi dần nhận ra rằng những sự trốn tránh bỏ chạy ban đầu đó là hết sức bình thường, vì tôi không có nhiều sự tin tưởng ở bản thân để có thể tâm sự với chính mình. Nhưng khi biết rằng tôi được an toàn với những gì mình viết ra và rằng nếu tiếp tục nuôi dưỡng sự xấu xí bên trong thì chúng sẽ chỉ càng trở nên xấu xí, tôi bắt đầu mở lòng và chạm tay tới những khối tiêu cực đang ẩn nấp.

Vậy là, điều đầu tiên việc viết nhật ký mang lại cho tôi đó chính là sự dũng cảm và niềm tin vào chính mình. Sau đó, nó mang tới một người bạn thông thái luôn song hành cùng tôi vào những giờ phút khó khăn trong đời – lương tâm.

2. Vượt qua các cơn bão lòng

Khi có được sự dũng cảm bắt đầu cuộc hành trình rồi, tôi dần tiến sâu hơn vào trong bóng tối nội tâm. Ở đó có rất nhiều những điều tiêu cực chưa được nhận biết rốt ráo như những con thú hoang chưa được thuần phục. Việc viết giúp tôi bước đầu lôi được chúng ra ánh sáng ý thức.

Nhưng đây là giai đoạn thử thách nhất trong quá trình viết vì khi ấy tôi vừa phải chịu đựng sự dữ dội trong lòng, vừa phải tập trung để đưa cơn bão ấy trên trang giấy sao cho trung thực nhất. Có thể nói, bước này tiêu hao rất nhiều năng lượng, giống như khi đói gần chết rồi mới lôi xoong chảo ra nấu nướng vậy.

Dù sao thì, đến cuối cùng tôi vẫn không chết, mà còn rút bớt sự chết chóc ra khỏi bản thân khi những câu chuyện căng thẳng bây giờ không vùng vẫy trong đầu nữa mà ngoan ngoãn nằm trên trang giấy.

Sự cải biến tâm trạng sau khi viết thật sự như một phép màu. Có lần, tôi nổi cơn giận khủng khiếp với một người. Lúc đó, tôi phải cố gắng lắm mới kéo được bản thân ngồi vào bàn và viết ra mọi thứ đang cuộn trào, thay vì đi tuyên chiến hơn thua với họ. Sau một giờ đồng hồ trút giận qua những con chữ, tôi tự nhiên thấy nhẹ nhõm hẳn như mặt hồ không chút gợn sóng – tâm trạng đảo ngược hoàn toàn so với lúc ban đầu khiến tôi cũng phải ngỡ ngàng đến mức bật cười.

Sau này tôi dần nhận thấy rằng mọi xúc cảm hay suy nghĩ dù là tiêu cực hay tích cực đều có đỉnh điểm của nó. Nếu ta đi qua cái đỉnh đó thì sau đấy, chúng sẽ tự thoái trào nhanh chóng. Phần khó nhất là trụ vững khi cơn bão càn quét. Tôi tạm ước lượng vui như sau: Việc viết ra giúp ta có thêm điểm neo đậu nên tăng cường sự vững chãi/cứng rắn lên gấp đôi. Đồng thời, sự tàn phá của cơn bão cũng giảm đi một nửa vì ta có thêm một phần không gian hứng chịu nó (đó là trang giấy). Vậy là cuối cùng, ta mạnh lên gấp bốn lần nhờ việc viết.

3. Tháo gỡ các vấn đề phức tạp

Khi có sự bình an về xúc cảm, lý trí mới có khả năng xét đoán vấn đề một cách hiệu quả. Bên cạnh việc giải phóng và chuyển hóa những cảm xúc cực đoan, việc viết hỗ trợ cho khả năng thâu tóm và nhìn nhận vấn đề. Một chuyện khi đặt trước mắt vẫn dễ quan sát hơn so với việc cứ để nó luẩn quẩn ở trong đầu như một cuộn len bị mèo vờn.

Khi có các rắc rối nội tâm cần giải quyết, tôi thường viết ra: Mình đang không thấy ổn ở đâu? Nguyên nhân là gì? Làm sao để cải thiện vấn đề này? Hiện tại mình đang có nguồn lực gì để giải quyết chuyện đó? Mình cần sự trợ giúp của ai không? Mình sẽ triển khai nó ra sao? v.v… Tất cả những gì liên quan đến việc đó đều được viết ra như một tấm bản đồ. Tùy vào mức độ chi tiết và sâu sắc của thông tin mà tôi có thể tìm ra lối thoát cho bản thân nhanh hay chậm.

Trong trường hợp bị quá tải công việc, tôi cũng viết ra danh sách những việc cần làm và sắp xếp chúng với các mức độ ưu tiên, hay lập thời gian biểu. Từ đó nhìn được mối quan hệ của các công việc và có thể bố trí chúng sao cho việc nọ hỗ trợ được việc kia, giảm tải sự hao phí năng lượng không cần thiết. Các kế hoạch, dự án gì cũng đều được viết xuống, và được theo dõi và cập nhật thường xuyên.

Từ đây, việc viết không chỉ giúp tôi đơn giản hóa vấn đề gặp phải mà còn tăng cường khả năng chịu trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình. Tôi tự làm giám đốc của mình vậy.

4. Tăng cường khả năng diễn đạt và thấu hiểu chính mình

Viết là cách để não bộ được vận động một cách chủ động. Nó như một quá trình điêu khắc một tác phẩm nghệ thuật là những tư tưởng hay xúc cảm bên trong lòng. Càng viết nhiều thì sự sắc bén của trí não càng được tôi luyện. Ta chạm tới được những diễn biến tâm trạng phức tạp và vi tế hơn.

Việc giải phóng và thể hiện xúc cảm hay suy nghĩ là một việc rất quan trọng giúp cho thế giới nội tâm không bị quá tải hay rơi vào trạng thái mập mờ khó nắm bắt, từ đó dẫn tới việc ta khó cảm thấy thỏa mãn, hài lòng. Càng diễn đạt chính xác bản thân bao nhiêu, ta càng thấy tự tin vào chính mình bấy nhiêu. Chuyện này cũng giống như càng thông thạo đường đi lối lại ở một khu vực nhất định, ta càng cảm thấy an toàn khi di chuyển ở nơi đó.

Có thể trong một lĩnh vực chúng ta không giỏi, nhưng khi ý thức được điều đó, ta tập trung hơn vào những gì mình có, những gì trong giới hạn nắm bắt của bản thân. Từ đó, ta không bị rơi vào trạng thái quá sức khi phải cố với tới một thứ xa xôi, không bị thất vọng đau khổ.

Trên đây là những điều cơ bản nhất và ích lợi nhất việc viết nhật ký mỗi ngày đã đem lại cho cá nhân tôi. Ngoài ra, nó còn giúp tăng cường sự tập trung, tìm ra xu hướng vận động của bản thân, nắm bắt được các ý tưởng sáng tạo giữa cơn mưa tư tưởng và yêu thương chính mình. Tất nhiên, sự tích lũy các lợi ích trên chỉ chảy ra khi ta viết đều đặn và đủ lâu. Tôi vẫn từng tự nhắc mình rằng: Không có cái cây nào trở thành đại thụ chỉ sau ba ngày.

Có hai điều tôi cho là khó khăn nhất trong quá trình viết:

  1. Ngại, lười, trì hoãn vì việc viết chưa thành thói quen. Chuyện này là rất bình thường ở giai đoạn đầu, cần nỗ lực hơn một chút để ghim được việc viết vào trong đời sống. Thường thì cần khoảng tối thiểu hai tuần liên tục viết là sẽ đi qua được cảm giác cản trở.
  2. Càng viết càng rối rắm, luẩn quẩn, bế tắc. Đây cũng không phải là chuyện hiếm gặp. Có hai cách giải quyết: Hoặc là ngừng lại ngay khi bắt đầu cảm thấy rối, hoặc là viết đến tận cùng cái rối. Chuyện này sẽ mở ra nhiều những suy nghĩ và xúc cảm ở tầng sâu hơn đòi hỏi phải tập trung và bình tĩnh hơn. Thường thì đến cuối cùng, các luận điểm sẽ tự triệt tiêu nhau nếu ta đi đủ sâu. Nhiều lần như vậy, ta sẽ thấy chúng tự tan khi vừa xuất hiện.

Vậy là sau khi đi qua cả một quá trình viết lách và nhìn lại, tôi thấy bây giờ mình đã trở thành một con người khác đỡ tiêu cực hơn xưa rất nhiều. Hạnh phúc không tự nhiên mà có, con người cần sự nỗ lực rèn luyện, thay đổi và cải tiến chính mình để xứng đáng với hạnh phúc ấy. Viết là một cách tôi đã lựa chọn và nó đã đem lại những lợi ích không nhỏ. Sau khi đi qua trải nghiệm ấy rồi, tôi muốn chia sẻ với mọi người công cụ này, hy vọng nó sẽ mang lại lợi lạc cho ai đó dù là trong khoảnh khắc ngắn ngủi hay trong cả một quãng đường dài.

“When you learn how to suffer, you suffer much less.” – Thích Nhất Hạnh

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: JeongGuHyeok

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

 

Nhân viên có cần cảm thông cho nỗi lòng của sếp?

0

Dạo gần đây tôi thường hồi tưởng đến khoảng thời gian vật lộn với công việc lúc trước, bâng quâng về mấy ông sếp đã mãi mãi bước lùi sau lưng. Bỗng nhận ra mình đã đi đoạn đường khá xa, sống đủ thêm những ngày non nớt, hiểu thấu hơn mọi sự của những con người tôi từng chua chát gọi bằng cái tên thân thương ”Sếp”.

“Sếp” – Đó là tên gọi mà chúng ta dành cho những kẻ đang ngồi trên đầu mình. Hắn ta thực ra chẳng ghê gớm gì, chỉ là khôn ngoan hơn chúng ta đôi phần, may mắn hơn, đôi khi chỉ vì lớn tuổi hơn…

Chúng ta luôn phải sống với công việc cùng sự tồn tại của kẻ mà chúng ta gọi là sếp. Cho phép hắn ta bước vào cuộc sống và làm nhốn nháo mọi sự mỗi ngày. Nhưng thực không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận. Thực ra thì bạn có thể viết đơn xin thôi việc để gạt phăng kẻ đó ra khỏi cuộc đời mình. Nhưng bạn lại không đủ dũng cảm. Vậy là cúi đầu chấp nhận cho kẻ ta đè đầu cưỡi cổ.

Phận làm nhân viên, bao giờ cũng ước mơ mình có một ông sếp đúng chuẩn sếp quốc dân: Yêu thương, tâm lý, lầy lội với nhân viên. Một ông sếp có thể quy phục và gấp người lại với nhân viên.

Nhưng trước khi muốn sáng tạo ra một ông sếp dịu dàng và luôn quy phục tinh thần, hãy nghĩ xem các bạn với tư cách một nhân viên đã đặt sếp của mình vào một căn phòng, rồi sơn quét lên đó bao nhiêu là rắc rối?

Sếp này còn trẻ, kinh nghiệm sống non nớt, miệng còn hôi sữa. Sếp lớn tuổi thì tư tưởng cổ hũ, già rồi nên tính tình đôi khi trái gió trở trời. Bao giờ sếp ra bài tập thì dạ dạ vâng vâng, vỗ ngực vươn vai em hiểu rồi thưa sếp. Đến hôm trả bài thì ngớ người ra nói một đằng làm một nẻo.

Khi sếp nói thì trịnh trọng nghiêm nghị, ai ngờ đâu nghe tai này lọt tai kia. Vừa đẩy cửa bước ra, uống một tách cà phê, tán gẫu với đồng nghiệp vài câu là bao nhiêu lời sếp tan tành mây khói. Não được tẩy sạch tất cả bằng cụm từ: “Dạ, em quên.”

Bao giờ cũng có mười vạn lý do biện minh: Sáng nay kẹt xe giữa đại lộ nên em đến muộn. Con em ốm nên hôm nay xin phép cho em về sớm… Chuông báo tan ca chưa kịp reo đã xếp gọn giấy tờ, áo quần chỉn chu, cặp xách trong tư thế sẵn sàng chuẩn bị, chỉ đợi chuông reo là phắn. Hiệu suất làm việc chẳng được bao nhiêu mà lúc nào cũng đòi hỏi tiền cho vào phong bì phải thật nhiều. Tự ý cài đặt cho sếp là bách khoa toàn thư, có việc gì cũng “ Alô, sếp à…”

Nhức đầu với anh nhân viên không bao giờ có ý chí trách nhiệm làm việc, giao trọng trách nào cũng làm mất nhiều thời gian lui tới. Mấy anh này sống lầy lội, suốt ngày bị khiển trách đâm ra thành thói quen. Chứ động phải anh nào đi du học bên nước ngoài, từng làm ở những nơi có quy mô lớn hơn. Kiểu nhân viên này cứ nói vài ba câu là tinh thần tự ái sôi trào sùng sục trong lồng ngực.

Người ta làm sếp, cuối tháng tiền chuyển vào tài khoản nườm nượp. Tên nhân viên què như mình chưa bằng một góc nên cứ tà tà mà đến nơi làm việc qua ngày. Lo lắng gì cho tội cái thân.

Rồi cái kiểu tụ tập tụm năm tụm ba nói xấu sếp rồi cười hô hố. Sếp thì cứ luôn phải đơn độc trong khi nhân viên lúc nào cũng quy mô đám đông. Cứ anh nói gà chị nói vịt thì dù có chỉ số IQ cao ngất ngưỡng sếp cũng khó lòng nhớ nổi. Vậy mà chẳng chịu cảm thông, trách sếp lú lẫn, sếp không chịu lắng nghe.

Nhân viên chỉ cần làm hài lòng một ông sếp là đủ, trong khi một ông sếp luôn gánh vác trách nhiệm với bao nhiêu nhân viên? Bao giờ cũng tồn tại những nhân viên thiếu năng lực, lại ngoan cố, nhưng cho lời khuyên góp ý xây dựng tinh thần thì lại tỏ ra bất mãn, dọa dẫm nghỉ việc.

Có không ít hài hước xoay vần quanh chuyện sếp và nhân viên. Nếu bạn là nhân viên, bạn có lý do để biện minh cho tất cả sự bất mãn của mình, tất nhiên bạn luôn luôn đúng bởi bạn có đồng minh. Những đồng minh thân cận có cùng chung ý chí căm thù với bạn. Tuy nhiên, bạn có nghĩ rằng không phải sếp là mối nguy hiểm. Tất cả những gì bạn đang được hưởng trọn từ sếp chỉ là kết quả tất yếu từ hành động, thái độ làm việc của bạn?

Theo bạn, làm một kẻ chỉ huy liệu có khó khăn hơn làm một kẻ chỉ cần phải vâng phục? Kẻ chỉ huy hay kẻ vâng phục sẽ là người mang gánh nặng hơn? Cái này tôi biết, kẻ chỉ huy bao giờ cũng phải mang vác luôn cả phần của kẻ vâng phục. Đã thế thì kẻ nào giữa sếp và nhân viên dễ dàng bị đè bẹp hơn?

Khi tự ban lệnh chỉ huy cho nhân viên, thì ngay tự thân sếp đã phải đặt cược tính mạng của mình vào trong mệnh lệnh đó. Bạn nghĩ rằng đó chỉ là câu chuyện riêng bạn?

Sếp dù ở cấp độ nào thì cũng chỉ là nhân viên mà thôi. Họ cũng có những vấn đề và vướng mắc từ cấp trên ban xuống. Cấp bậc càng cao, trách nhiệm lại càng lớn. Bởi phải mang vác cồng kềnh thêm trách nhiệm của đám đàn em đang ngồi gác chân phe phẩy nói xấu họ. Vậy mà chẳng có nổi lấy một thằng đồng minh để uống cho say quên hết mọi sự. Kẻ làm sếp tính ra chẳng phải là kẻ cô đơn nhất hành tinh?

Vậy nên phận làm nhân viên, có phải đôi khi bạn cũng phải cảm thông cho sếp?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: markusspiske

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Làm từ thiện sao cho hiệu quả?

2

Chắc chắn chẳng ai còn xa lạ với những cảnh người ăn xin nằm lê lết trên đường, tay chân đen đúa, bẩn thỉu, giơ cái nón rách ra có vài đồng tiền lẻ. Mặc dù những cảnh ấy tôi thấy nhan nhản gần như chai sạn nhưng thỉnh thoảng vẫn mủi lòng. Có lần tôi được nghe kể một tên què chân xin ăn ngoài đường lớn đến tối lết vào ngõ hẻm phủi quần áo đứng lên đi về, chỉ lấy tiền không lấy đồ ăn.

Trên tivi cũng cảnh báo đầy những chuyện chăn dắt ăn xin. Những bà già, trẻ em, phụ nữ được đưa đến ngã tư ngồi hết ngày sẽ có người đưa về sau đó lột sạch tiền bạc. Hôm nào không có tiền thì không được ăn. Về phía tôi cứ bứt rứt cho hay không cho? Mà cho đồ ăn người ta lại không nhận vì không được nhận hay gì tôi không xác thực được.

Có kẻ ăn xin lại rất chảnh chọe, có kẻ vừa đi ăn xin vừa đi lừa đảo, cướp giật. Đủ các thể loại trên đời. Nhưng vẫn lại có những người khổ đến mức phải đi ăn xin thực sự cũng lại bị đánh đồng với những tệ nạn kể trên. Họ không có chỗ ở khu tập thể cho người vô gia cư. Họ cũng không có nơi nào để cư trú, cứ vật vờ qua ngày.

Đối với người không quan tâm vì đấy không phải vấn đề của họ thì không có gì để nói. Nhưng còn những người quan tâm đến xã hội, đến cộng đồng thì phải làm sao cho đúng, cho hợp lý và hiệu quả?

Theo tôi, việc cho tiền chắc chắn bị loại bỏ đầu tiên. Việc cho tiền của chúng ta đã góp phần cho việc càng ngày càng nhiều người ăn xin hơn. Có những người dân tộc thiểu số họ sống ở làng quê nghèo khó quá lại được kháo nhau lên thành phố ngồi ăn xin được nhiều tiền lắm, thế là bồng bế nhau đi ăn xin. Kể cả việc chăn dắt ăn xin cũng vì miếng mồi béo bở chúng tìm ra được kẽ hở là tình thương mù quáng của người dân đã bị kẻ xấu lợi dụng. Thế nên chúng ta không nên cho tiền, cho ít cho nhiều cũng không. Không lao động mà vẫn có tiền chỉ làm họ lười biếng và ỷ lại nhiều hơn chứ chẳng giúp ích được gì.

Đồ ăn cũng tương tự như vậy. Không lao động mà đã có thành quả chỉ làm người ta trở thành một cái cây tầm gửi. Vì vậy mới có câu: Cho người ta cần câu chứ đừng cho con cá. Nhưng chúng ta cũng đang rất dư thừa nhân lực, thất nghiệp tràn lan. Mà có những người ăn xin hầu như cũng là người già, phụ nữ, trẻ nhỏ và người tàn tật. Khi nói lan man rồi lại đến vấn đề vĩ mô thế này thật sự nó là một điều rất khó giải quyết. Nếu giải quyết được thì đã không có vấn đề. Nên tôi sẽ chỉ nói về phần tôi và bạn có thể làm được gì.

Theo tôi, đầu tiên chúng ta nên cung cấp kiến thức cho họ. Về phần tôi, tôi cũng không có tài sản, vật chất nên tôi sẽ đóng góp những gì mình có. Xin nhắc lại tôi đang không nói về phần vĩ mô, ví dụ như trường học từ thiện, thầy cô giáo chấp nhận không công nhưng vẫn không thể đủ nhân lực. Tôi chỉ đang nói về những thứ tôi với bạn có thể làm và khi mỗi người một ít sẽ trở thành cái to lớn.

Tôi rất thích mô hình quán trà Quán của thời thanh xuân ở Đà Lạt. Họ tận dụng nhân lực là những người điếc, hội tụ lại làm đồ handmade, khách đến uống trà có thể bỏ vào thùng bao nhiêu tuỳ ý. Họ có thời gian biểu. Thứ Hai là ngày lười biếng, mọi người có thể vừa làm vừa lười, những ngày trong tuần làm việc bình thường và cuối tuần thì “sống như một bông hoa”. Làm việc vừa đủ với sức lực và sống bình yên.

Tương tự vậy có những làng nghề của người khiếm thị làm tăm tre. Những cách tận dụng nhân lực rất tốt và tích cực. Tôi có những kiến thức cơ bản để xoá mù chữ, tôi có thể mở một lớp dạy chữ vào 1-2 tiếng rảnh rỗi cho vài đứa trẻ. Mình vừa làm được việc tốt cho mình vừa giúp người khác.

Bạn có những điều bạn học được bạn có thể chia sẻ với những người kém may mắn hơn mình. Bạn biết một trung tâm dạy nghề cho người vô gia cư hãy giới thiệu cho họ.
Một vài bữa cơm phân phát cứu đói họ một vài ngày nhưng họ vẫn chẳng biết tại sao mình có cơm ăn. Bạn vẫn có thể giúp họ bằng cách đó nhưng hãy kèm thêm điều gì có ý nghĩa lâu dài hơn, bền vững hơn. Có bệnh thì phải chữa dứt hẳn chứ không phải chỉ chữa cái ngọn.

Mà có những người cũng rất hời hợt khi làm tình nguyện. Họ nghĩ đó là trách nhiệm và nghĩa vụ cần làm, làm xong thì thôi. Khi không biết cách làm tình nguyện nào nữa thì chỉ có phát cơm là hợp lý hơn cho tiền bạc. Nhưng nhiều người họ chỉ hiểu phát cơm là phát cơm, mỗi người một phần xong thì đi về.

Nhưng theo tôi, nếu tôi có đi phát cơm thì tôi sẽ mang theo điều gì đó sâu sắc hơn là việc cứu đói họ. Tôi sẽ mang cơm đến bên họ một cách thân thương nhất, tôi sẽ không vội vàng cho xong để đi về. Tôi sẽ ngồi nán lại mỗi người vài phút nghe họ kể chuyện, họ cần gì, muốn gì, tôi có thể cho họ cái gì hơn là một bữa cơm. Nếu đã chấp nhận làm công việc này thì nên làm cho hết mình còn không thì thôi. Vì bữa cơm nó chỉ giúp người ta bớt đói còn để họ thấy được sự đồng cảm, chạm được đến tâm hồn họ, giúp họ có thêm động lực trong cuộc sống khốn khó mới là thứ đáng làm.

Khi chúng ta không làm được những điều to lớn, không làm ông nọ bà kia để làm từ thiện như xây trường, xây bệnh viện,… thì tôi và bạn vẫn có thể làm những điều nhỏ bé bằng tất cả những gì mình có thể. Hãy biết làm từ thiện khôn khéo, hiệu quả. Đừng bao giờ nghĩ rằng vứt cục tiền ở đó, phần cơm ở đó là từ thiện.

Tác giả: Bà Năm

*Featured Image: Myriams-Fotos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

 

[THĐP Translation™] Công ty kì lạ đứng sau thương hiệu tương ớt Sriracha nổi tiếng thế giới không tốn một xu quảng cáo

0

E-T-3

Giả như David Trần là một kiểu CEO điển hình hơn, hẳn ông sẽ là một lãnh đạo chỉ luôn có mặt trong các cuộc họp, một nhân vật được săn đón cho chuyên mục tiểu sử của các tạp chí, và một đối tượng cho các nghiên cứu tình huống của tờ Harvard Business Review. Tương ớt Sriracha của công ty Huy Fong Foods do ông Trần thành lập cách đây 38 năm tại Los Angeles là một trong những thương hiệu nổi tiếng nhất thành phố. Có những cuốn sách nấu ăn viết ra chỉ để ca ngợi tính đa dụng của Sriracha; những đồ lưu niệm đủ loại,  từ ốp lưng iPhone đến áo thun; một bộ phim tài liệu về sự hình thành và phát triển của Sriracha; và vô số những thương hiệu bắt chước. Năm ngoái (2012), doanh số của Sriracha đạt mức 20 triệu chai tương đương 60 triệu đô la, tỷ lệ tăng trưởng doanh số đạt hơn 10 phần trăm mỗi năm, và tất cả thành tích này đạt được mà không cần một xu quảng cáo.

direct2
Thu hoạch bao nhiêu ớt cũng không đủ cung cấp cho thị trường
Photo: Amit Dave – Reuters

Mặc dù vậy, ông Trần cũng không màng đến chuyện đánh bóng tên tuổi hay bận tâm đến lợi nhuận, hầu như không biết tương ớt của mình đang bán ở đâu, và có lẽ bỏ lỡ hàng triệu đô la lẽ ra có thể kiếm được mỗi năm. Ước mơ của ông Trần, như chính ông nói với trang Quartz, “không phải là trở thành một tỉ phú.” Ông mơ “làm ra đủ tương ớt tươi để mọi khách hàng nếu muốn đều có thể thưởng thức. Chỉ thế thôi.”

Đặt chất lượng lên trên lợi nhuận

Ngày nay tương ớt là một ngành kinh doanh đang lên trên khắp thế giới. Ngành công nghiệp này, vốn nằm trong tốp 10 ngành phát triển nhanh nhất nước Mĩ, giờ đây gom về 1 tỉ đô la doanh thu toàn cầu mỗi năm. Nhưng khi đặt chân đến Los Angeles từ Việt Nam vào năm 1980, ông Trần rơi vào cảnh không có việc làm. Khi đó, ông gần như không thể tìm được một loại sốt cay nào cho vừa khẩu vị của mình, và sớm nhận ra rằng cộng đồng người Đông Nam Á ở Los Angeles cũng đang phải chịu cảnh thiếu tương ớt tương tự.

Chỉ trong vài tháng, ông Trần đã tạo ra Sriracha, một phiên bản của tương ớt Thái, được làm từ ớt jalapeño lai (có màu đỏ hoặc đôi lúc màu cam), giấm, đường, muối, và tỏi; sản phẩm được ông đưa đến các khu chợ địa phương trong khắp thành phố. Không lâu sau, ông đã thiết kế cho chúng một hình thức bao bì không lẫn vào đâu được cho đến ngày nay: chai nhỏ trong suốt với logo con gà trống và nắp màu xanh lá cây.

direct-2

Nhưng mong muốn duy nhất mà ông từng ấp ủ chỉ là cung cấp cho những người Việt nhập cư một món tương ớt xứng đáng với món phở của họ. Việc phát triển một công ty chân phương như vậy chưa từng nằm trong suy tính của ông Trần, dù là trước hay sau này. “Tôi đã khởi nghiệp với đôi mắt nhắm kín. Không có một kì vọng nào cả,” ông cho biết.

Giờ đây ông Trần vẫn giữ cách kinh doanh như vậy: với đôi mắt nhắm. Ông nói rằng mình chưa lần nào tăng giá bán buôn Sriracha (con số không được ông tiết lộ), dù cho lạm phát đã khiến giá thực phẩm tăng gấp ba lần kể từ năm 1980. Ông Trần không biết rõ tương ớt Sriracha đang bán ở đâu, ông chỉ biết rằng Huy Fong có 10 nhà phân phối, và ông chuyển sản phẩm này cho họ suốt hơn 10 năm nay. Ông thành thật chia sẻ, “Chúng tôi không có một bản ghi cụ thể nào về việc sản phẩm được bán ở đâu cả.” Griffin Hammond, nhà sản xuất bộ phim tài liệu về Sriracha, nói với Quartz rằng theo ông biết thì Sriracha đang bán ở Mĩ, Canada và châu Âu. “Nhưng có lẽ là một vài nơi khác nữa,” ông thừa nhận. “Ít nhất, tôi có biết trên hộp in tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha.”

Ông Trần cũng gần đây mới biết rằng Sriracha rất được ưa chuộng bởi các đầu bếp sushi, những người nhiều năm nay dùng nó để tạo vị cay cho những cuộn cá ngừ cay của họ. Ông chia sẻ, “Đến khi một nhà phân phối nói thì tôi mới biết.” Thực ra theo lời Hammond, Sriracha “ngày nay là nguyên liệu cay cho gần như mọi loại sushi cá ngừ. Có lẽ nó chiếm một phần lớn trong doanh số của công ty.”

Không chỉ có riêng các đầu bếp sushi. Chuỗi nhà hàng P.F. Chang, sở hữu 204 chi nhánh tại Mĩ và trên khắp thế giới, cũng có những món ăn kết hợp hương vị Sriracha. Đầu bếp David Chang (không có liên hệ với P.F. Chang) luôn có  những chai Sriracha trên bàn bếp trong mỗi nhà hàng Momofuku Noodle Bar của ông ở New York. Năm 2010, tạp chí Bon Appétit bầu chọn Sriracha là gia vị của năm. Năm 2012, Cook’s Illustrated gọi nó là loại tương ớt ngon nhất; và mặc dù không chiến thắng trong chung cuộc, Sriracha vẫn là một trong ba hương vị được chọn trong cuộc thi Hương vị mới cho Khoai tây Lay’s cùng năm.

direct-3

Ông Trần tất nhiên là hãnh diện với lượng người hâm mộ. Ông dành thời gian mỗi ngày để đọc qua hàng tá email, và rất nhiều trong số đó kể lại những cách mới lạ và thường là không thể tưởng tượng nổi mà người ta sử dụng tương ớt Sriracha. Ông nhớ có một người chia sẻ đã ăn Sriracha cùng với macaroni và phô mai, một cách kết hợp ông Trần chưa từng thử qua – đến giờ hầu như ông vẫn chỉ ăn loại tương ớt này cùng với phở.

Tăng trưởng theo trái ớt

Nguồn cầu quá cao nên Huy Fong – vốn sản xuất cả Chili Garlic và Sambal Oelek, hai loại tương ít nổi tiếng hơn nhiều – đã mua thêm một nhà máy rộng 60,000 m2 chỉ nhằm xử lí và đóng hộp Sriracha. Đó quả là một nâng cấp đáng kể: cơ sở hiện tại đang sản xuất 3.000 chai tương mỗi giờ, trong 24 giờ mỗi ngày và sáu ngày mỗi tuần, và nhà máy mới sẽ có sản lượng gấp 2.5 lần như vậy.

Song rào cản tăng trưởng lớn nhất với công ty không phải là không gian sản xuất. Khó khăn lớn nhất là nguyên liệu thô.

direct-4
Hơn 45 triệu kg ớt thu hoạch năm ngoái vẫn không đủ cung cấp cho các đơn đặt hàng.
(Photo: Beawiharta Beawiharta, Reuters)

Hầu hết tương ớt phân phối đại trà được làm từ ớt khô nhằm giúp thu hoạch, xử lí và đóng chai dễ dàng hơn ở quy mô lớn. Ví dụ, McIlhenny, công ty sản xuất Tabasco, mua ớt từ các nhà sản xuất trên khắp thế giới. Song Sriracha từ trước đến nay luôn luôn được làm từ ớt tươi. Theo ông Trần, đó là điểm khác biệt không cần bàn cãi của Sriracha.

Một trong số ít những dữ liệu mà ông Trần tiết lộ về Huy Fong là năm 2012, công ty đã chế biến khoảng 45 triệu kilogram ớt tươi suốt mùa thu hoạch kéo dài chỉ 10 tuần và đủ cung cấp cho toàn bộ công sản lượng của Sriracha suốt một năm. “Tốc độ tăng trưởng của chúng tôi tỉ lệ thuận với khả năng chúng tôi thu hoạch ớt,” ông Trần nói.

Sự kiên quyết không hạ thấp chất lượng sản phẩm của ông Trần đồng nghĩa với việc nguyên liệu ớt tươi để tạo ra Sriracha phải được xử lí trong ngày sau khi hái. Vì thế nhà máy Rosemead của Huy Fong chỉ cách Underwood Family Farms một tiếng đồng hồ xe chạy, đây là nhà cung cấp ớt duy nhất của Huy Fong trong suốt 20 năm qua. Nhà máy mới của công ty ở Irwindale cũng chỉ cách đó vài cây số. Tìm đất trồng mới phù hợp cho những đợt thu hoạch ớt tiếp theo quả là một khó khăn – khu đất không chỉ phải rộng lớn, mà còn phải phù hợp mục đích trồng. “Tôi không thể mua những khu đất mà vốn để trồng cam,” ông Trần giải thích. “Chúng không hợp với cây ớt.”

Một minh chứng khác từ nguồn cầu cao là trong gần 40 năm qua, theo ông Trần, Huy Fong Foods chưa từng thuê một người chào hàng hay chi một xu nào để quảng cáo. Quảng cáo sẽ chỉ nới rộng khoảng cách cung-cầu mà thôi. “Tôi không quảng cáo, vì tôi không thể quảng cáo,” ông Trần giải thích.

Huy Fong cũng không có một tài khoản Twitter, Facebook hay Google Plus, và trang web của công ty cũng trống không (2013). Kết quả là, khách hàng của Sriracha dường như biết rất ít hoặc không biết gì về công ty sản xuất ra sản phẩm mà họ dùng hàng lít. “Tất cả là nhờ truyền miệng,” Hammond nói. Chỉ cần để ý đôi chút để biết rằng Sriracha hiện đang được sản xuất ở Rosemead, California, nhưng “hầu hết mọi người vẫn nghĩ rằng Sriracha đến từ châu Á.”

Nhiều người cũng phải tránh những hãng giả mạo Huy Fong Sriracha ngày một tràn lan, từ thay thế logo gà trống bằng cá mập cho đến những kiểu sao chép gần như không thể phân biệt được. Luật sư của ông Trần, Rob Berman, một chuyên gia về quyền sở hữu trí tuệ, chia sẻ với Bloomberg rằng ông phải viết bốn đến năm đơn khiếu nại vi phạm bản quyền mỗi năm.

Đại gia bất đắc dĩ

Được phỏng vấn ông Trần là một điều tương đối khó khăn. Đến gần đây ông mới cởi mở hơn với việc trả lời báo giới. Trợ lí kiêm giám đốc nghiệp vụ của ông, Donna Lam, đồng hành với ông trong các cuộc gọi phỏng vấn. Ông Trần nói tiếng Anh chậm và cẩn trọng, và ông thường cần trợ lí dịch lại các bình luận và câu hỏi phức tạp, như vậy ông có thể trả lời hoặc né tránh chúng một cách trọn vẹn và tài tình. Cứ thử dụ ông nói ra những con số tăng trưởng trong quá khứ mà xem, bạn sẽ mất công vô ích thôi, vì ông Trần không chia sẻ về chuyện đó. Tất cả những gì ông sẵn lòng thừa nhận là tỷ lệ doanh thu tăng trưởng ổn định trong khoảng hai chữ số kể từ khi ông bắt đầu đóng chai sản phẩm Sriracha từ 38 năm trước.

Ông Trần không muốn ai biết Huy Fong đã tăng trưởng nhanh như thế nào vì ông sợ nhiều người sẽ xuất hiện trước cửa nhà mình để chào hàng các dự án kinh doanh mà ông không quan tâm hay những kế hoạch tăng trưởng mà ông không có chút hứng thú nào. Ông cho biết rằng một số nhà đầu tư đã tiếp cận ông với hàng chồng tiền mặt và những hứa hẹn hậu hĩnh, thậm chí chào giá cao ngất để mua đứt công ty. Ông Trần từ chối tất cả. “Những người tới đây chẳng ai quan tâm tới sản phẩm, chỉ lợi nhuận mà thôi,” ông cảm thán chia sẻ.


Tác giả: Roberto A. Ferdman – Quartz
Dịch: Sang Doan
Review: Dương Tùng

📌 Ủng hộ dịch giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, bạn có sống như ngày hôm qua?

0

Cuộc sống luôn xuất hiện cùng những con người đau khổ, tuyệt vọng rồi muốn chết. Những con người muốn khước từ sinh mệnh bằng hương khói trên nấm mồ. Chính vì thế mà chủ đề bàn tán của chúng ta vẫn thường diễn quanh bàn tròn của sự chết chóc, nói đến kẻ ảo tưởng cái chết. Nhưng chúng ta chưa bao giờ thử đặt trọn một dấu chấm hỏi vào ô trống mơ màng đó. Một dấu chấm hỏi cho điều mà chúng ta ít khi nghĩ đến. “Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống?”

Tôi nghĩ rằng thế giới này vĩnh viễn bất toàn. Cuộc sống này mãi mãi bất toàn. Biết nó luôn bất toàn, nên dù có trưng diện cố gắng trang điểm lên đó bao nhiêu lớp son phấn, bạn cũng sẽ chẳng bao giờ tận hưởng cảm giác hài lòng.

Vậy tại sao lại loanh quanh tìm cách cứu rỗi? Muốn cho nó không còn bất toàn, hãy thử chấp nhận sống với nó bằng tất cả hoan lạc say đắm, hãy thử sống một ngày như chưa bao giờ còn có ngày mai nữa, dùng sự điên cuồng của mình để tạo ra một ngày không còn bất toàn, chí ít là đối với riêng bạn.

Bạn không bao giờ nghĩ đến điều đó? Hoặc có nghĩ nhưng vẫn còn thói quen nói đến lời hứa hẹn? Rồi tự tay đập nát cuộc sống mình thành những mảnh vụn thảm thương.

Bạn có bao giờ tự đặt câu hỏi sẽ có gì xảy ra với chúng ta ngày hôm nay? Không, bạn đang bận xoay vòng cùng guồng quay của cuộc sống hàng ngày. Đày đọa thân xác mình mệt mỏi, hướng trái tim lạc lối bước ra khỏi những người bạn yêu thương.

Bạn luôn lừa dối mình né tránh tất cả, tự làm rối ren cuộc sống mình thành mớ hỗn loạn. Lang thang trên mặt đất trần gian này như một tên mù điếc. Đến một ngày lê lết như những tên bệnh trong cơn hấp hối. Rồi quỳ gối van xin ước gì ta đã sống một cuộc đời khác hơn. Nhưng ngay cả Thượng Đế cũng chẳng bao giờ còn đủ thời gian cho bạn.

Đã đến lúc chúng ta nhìn lại đằng sau. Sẵn lòng thoát khỏi đời sống này, sống những ngày ý nghĩa bằng những giá trị chân thực và thuần khiết hơn. Vẫn là câu hỏi đó cho những đêm gối đầu. “Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống?”

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, mệt mỏi chán nản, u sầu ủ rũ có cần phải buông lơi?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, bạn có ý định hì hục kiếm tiền, mắc kẹt trên các đại lộ, dành thời gian cho những đối tác xa lạ?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, bạn có lục lọi ký ức để nhớ ra bao lâu rồi ta chưa về nhà, chưa ăn một bữa cơm với cha mẹ, một cái ôm cho những con người đã vẫn luôn ở đó trông ngóng bước chân bạn đặt trước cửa nhà?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, bạn có chăm chú vào màn hình máy tính, điện thoại, dõi theo cuộc sống của những kẻ không hề quen biết, giết thời gian vào ảo ảnh không thực?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, bạn có muốn một lần sống trọn vẹn cùng khoảnh khắc thiên thu của một dòng sông, ngắm nhìn một bác chèo đò, thưởng ngoạn một bông hoa, ôm lấy một cái cây, một buổi hoàng hôn hay bình minh trên những chân trời bất tận?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, bạn bè thân thiết bao lâu rồi không gặp, những ngày thơ ấu đạp xe chung lối cùng tí tởn đến trường, nói đủ thứ chuyện tào lao tầm phào?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, nuối tiếc xoay vần cho những dang dở chưa trọn vẹn, cho ước mơ chưa bao giờ dám gọi tên?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, giây phút nào của hiện tại ta đã chần chừ, nói một lời xin lỗi, một lời cám ơn cho những người đã luôn bên cạnh ta từ những nhỏ nhặt nhất?

Nếu biết không còn nhiều thời gian để sống, lỗi lầm nào cho những lời trách móc, chênh vênh nào dạy ta cách tiếp tục bước đi. Vậy mà chúng ta chưa bao giờ biết yêu lấy một ngày từng được hiện hữu trên mặt đất trần gian này?

Nếu biết không còn nhiều thời gian, bạn có sống như ngày hôm qua?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: elizadean 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Chúng ta đi du lịch để làm gì?

0

Chúng ta luôn khao khát nhảy múa vòng tròn trên những vùng đất mới, được giải phóng mọi xó ngách. Chúng ta lên đường với ý muốn rửa sạch bụi bặm, muốn trần truồng dưới đôi mắt nóng bỏng của mặt trời. Và quả thật, những chân trời mới, chúng chưa bao giờ ngược đãi bạn. Luôn hiến dâng cho bạn tinh hoa quý giá nhất mà chúng có khi bạn đến. Ban tặng những giá trị ý nghĩa để mang về làm quà khi bạn rời đi. Ai cũng hiểu được giá trị những chuyến đi, chính vì thế mà giờ đây, người người dâng cao khẩu hiệu xách ba lô lên và đi.

Vâng, ai ai cũng lên đường, lao vụt thân xác vào chốn xa lạ, bằng sự hạn hẹp về chiều sâu của trái tim mình.

“Chán đời quá đi.” “Tôi cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống này.” Vừa buột miệng thốt ra mấy câu kiểu này là ngay lập tức thu dọn hành lý, chẳng cần biết sẽ mang vác chúng đi đâu. Bằng mọi cách sáng mai thức dậy phải ở một nơi xa. Bạn hùng hổ lên đường đi tìm kiếm lửa nồng nhưng phải chăng chỉ đang mang cái tro tàn của mình đi phân rải. Xê dịch tâm hồn vẩn đục từ vùng đất này sang vùng đất kia, dùng chính sự nhơ nhuốc đó làm biến dạng môi trường nơi sắp đặt chân đến.

“Thế giới bao la, tôi muốn tận mắt trông thấy.” Thiên nhiên bao bọc bao nhiêu là tinh tú lóng lánh, bao nhiêu vẻ đẹp kiều diễm, bạn vì muốn ngắm nhìn nó mà hô hào lồng lộn, muốn một lần đặt chân. Nhưng bạn có đến đó để được một lần ngước lên nhìn vòm trời trong xanh thuần khiết, nhìn vào hố thẳm vô ngần của ánh sáng và run lên từng lời ước vọng thiêng liêng một lần được sống cùng nó. Không, bạn đến với nó bằng quỹ đạo ngắn ngày và chỉ chơi đùa bằng trò cưỡi ngựa xem hoa.

Và tất nhiên, thay vì ra về với món quà tặng quý giá, giờ đây bạn mang cái thân xác uể oải mệt mỏi lết về nhà, bắt đầu than vãn đủ thể loại trên đời.

Bạn mang một trái tim chằng chịt vết thương, muốn đến cầu xin thần linh phương xa chữa khỏi cho bạn? Làm gì có thần linh nào có thể chữa khỏi những nỗi chán chường.

Muốn đến tận mắt để nhìn thấy thế giới bao la, một chuyến du lịch hai ba ngày sẽ giúp bạn tận hưởng được gì từ thế giới bao la ấy. Bạn có đến đây để khám phá văn hóa, bản sắc dân tộc của từng vùng miền? Bạn chỉ vội vàng ra vào các khách sạn nhà nghỉ để nghỉ ngơi lấy sức?

Muốn đi du lịch cho thư giãn thoải mái, trở về tràn đầy năng lượng. Cứ đi đi rồi trở về phát ngôn mấy câu sáo rỗng bằng trái tim rỗng tuếch. “Đi đâu cho bằng nhà mình.”

Tôi chẳng biết tại sao mọi người lại yêu thích du lịch đến vậy. Bằng cách cố gắng miễn cưỡng của sự áp đặt những chuyến đi kém tự nhiên. Trải qua bao nhiêu sự chịu đựng của chốn đông đúc, ngột ngạt, bỡ ngỡ… sửng sốt nhận ra nơi đây cũng chẳng có gì hay ho.

Tuổi còn trẻ thì còn phải đi. Nếu bạn xách ba lô lên và ra đi bằng một ý chí trải nghiệm, đi vì thực sự muốn tìm hiểu bản sắc văn hóa, chứ không phải là đứng trên tháp Eiffel để nhớ anh người yêu cũ, nghe điện thoại của sếp, chăm chú nhìn đồng hồ vì còn có những địa điểm khác cần lướt qua để check in. Đi kiểu này chỉ càng nhận ra “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.”

Tôi nghĩ rằng có rất nhiều lý do để bạn lên đường đi du lịch. Đi để mở rộng chân trời, văn hóa và cảm xúc, học được ý nghĩa thực sự của câu “Tất cả chúng ta đều sẽ phải trải qua.” Những trải nghiệm tuyệt vời được điền vào sơ yếu lý lịch cuộc đời bạn. Thật hãnh diện cho tuổi già khi nhìn lại chiến tích mình từng có. Mở rộng chân trời tri thức với các nền văn hóa đặc sắc bản địa, học cách mạnh mẽ để bước ra khu vực an toàn… Nhưng nếu bạn không hoàn toàn hiểu hết được ý nghĩa của nó, bạn sẽ lên đường du lịch chỉ để tiêu tiền và ra về với trái tim trống rỗng.

Hãy lên đường du lịch. Nhưng đừng lấy đi của nó bất kỳ ý nghĩa nào.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: DariuszSankowski

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2