Featured Image: Alex Platt
Du dix-huitième siècle et de la révolution, comme d’une source commune, étaient sortis deux fleuves: le premier conduisait les hommes aux institutions libres, tandis que le second les menait au pouvoir absolu.
Kể từ thế kỷ XVIII và từ cuộc Cách mạng Pháp, có hai dòng chảy tư tưởng dường như có chung một nguồn: Dòng thứ nhất hướng con người tới các thể chế tự do, dòng thứ hai hướng họ về phía quyền lực tuyệt đối.
Alexis de Tocqueville
1
Ngày nay, bất cứ ai cổ súy cho bất kỳ nguyên lý rõ ràng nào về trật tự xã hội thì gần như cầm chắc sẽ phải gánh chịu điều tiếng là nhà lý luận giáo điều không thực tế. Một người sẽ được xem là có đầu óc sáng suốt đối với các vấn đề xã hội nếu anh ta, thay vì bám chặt vào các nguyên lý cố định, lại nhìn nhận từng vấn đề “dựa trên các phẩm tính của riêng nó”; nghĩa là người đó, nói chung, được định hướng bằng mưu lợi và sẵn sàng thỏa hiệp giữa các quan điểm. Tuy nhiên, các nguyên lý tự chúng có cách chiếm lĩnh xã hội ngay cả khi chúng không được công nhận một cách minh bạch mà chỉ được ngụ ý trong các hành động cụ thể, hoặc ngay cả khi chúng chỉ hiện diện như là các ý tưởng mơ hồ về cái gì đang diễn ra hoặc không đang diễn ra. Vì thế, dưới tấm biển “không chủ nghĩa cá nhân cũng không chủ nghĩa xã hội”, chúng ta đã thấy một hiện tượng rằng trên thực tế chúng ta đang nhanh chóng chuyển từ một xã hội của các cá nhân tự do sang một dạng xã hội mang màu sắc tập thể hoàn toàn.
Tôi dự định không chỉ tiến hành việc bảo vệ một nguyên lý tổng quát về tổ chức xã hội mà còn cố gắng chỉ ra rằng sự sợ hãi động chạm đến các nguyên lý chung và cái sở thích chuyển từ hết vấn đề cụ thể này sang vấn đề cụ thể khác là sản phẩm của thứ trào lưu, mà dưới dạng “nước chảy đá mòn”, sẽ đưa chúng ta từ một trật tự xã hội dựa trên việc công nhận tổng quát các nguyên lý chung nhất định trở về một xã hội mà trật tự được hình thành bằng các mệnh lệnh một chiều.
Sau kinh nghiệm của 30 năm vừa rồi, có lẽ chúng ta không cần phải nhấn mạnh một thực tế: nếu như không bám vào các nguyên lý, chúng ta đã bị cuốn phăng rồi. Thái độ thực dụng ngự trị trong thời gian đó, thay vì làm tăng năng lực phát triển của chúng ta, trên thực tế, lại đưa chúng ta tới một tình trạng mà chẳng ai mong muốn, và kết quả duy nhất của việc bỏ qua các nguyên lý có lẽ là việc chúng ta bị dẫn dắt bởi một xâu các sự kiện mà chúng ta không thể, dù có muốn, phớt lờ logic của nó. Vấn đề bây giờ không phải là liệu chúng ta có cần các nguyên lý để chỉ dẫn cho chúng ta hay không mà là: liệu có còn một bộ các nguyên lý chứa đựng khả năng ứng dụng tổng quát hòng có thể chỉ đường cho chúng ta khi cần? Chúng ta có thể tìm thấy ở đâu những đạo lý làm cẩm nang dẫn đường cho chúng ta để giải quyết các vấn đề của thời đại? Liệu có tồn tại một triết lý nhất quán khả dĩ có thể cung cấp cho chúng ta không chỉ đơn thuần các giá trị đạo đức mà còn cả một phương pháp thoả đáng để đạt tới các giá trị đó?
Các nỗ lực của nhà thờ trong việc xây dựng chi tiết một triết lý xã hội hoàn chỉnh và các kết quả do những người có cùng nền tảng Thiên chúa giáo đưa ra lại hoàn toàn đối nghịch nhau là sự minh chứng cho việc bản thân tôn giáo không trao cho chúng ta một cẩm nang dẫn đường trong các vấn đề này. Không còn nghi ngờ gì, sự suy giảm ảnh hưởng của tôn giáo là một nguyên nhân chính dẫn đến sự thiếu hụt ngày nay về định hướng trí tuệ và đạo đức; mặc dù vậy, sự phục hồi trở lại của nó sẽ không làm giảm nhu cầu về một nguyên lý được chấp nhận phổ quát về trật tự xã hội. Chúng ta sẽ vẫn cần có một triết lý chính trị vượt lên trên những đạo lý không chỉ có tính nền tảng mà là có tính phổ quát của tôn giáo hoặc của các loại luân lý.
Tiêu đề mà tôi chọn cho bài luận này cho thấy, đối với tôi, dường như vẫn tồn tại một loại triết lý như thế – một tập hợp các nguyên lý thực ra được ngụ ý hầu như xuyên suốt trong tập quán chính trị phương Tây hoặc Thiên Chúa giáo nhưng lại chưa bao giờ được mô tả theo cách không gây ra nhầm lẫn dù nó có vận dụng bất kỳ thuật ngữ đã biết nào. Do vậy, chúng ta cần trình bày lại những nguyên lý này một cách đầy đủ trước khi có thể phán quyết liệu chúng vẫn còn hữu ích cho chúng ta với vai trò như là các loại cẩm nang hành động hay không.
Khó khăn mà chúng ta gặp phải không chỉ đơn thuần vì một thực tế quen thuộc là các thuật ngữ chính trị hiện tại nổi tiếng là mơ hồ, hoặc thậm chí các trường phái khác nhau có thể thường xuyên sử dụng cùng một thuật ngữ nhưng lại mang những nghĩa gần như trái ngược nhau, mà còn vì một thực tế nghiêm trọng hơn là: có loại thuật ngữ thường xuyên dùng để chỉ những người cùng chí hướng nhưng trong thực tế lại tin vào những lý tưởng mâu thuẫn và không thể dung hòa. Các thuật ngữ như “chủ nghĩa tự do” hay “dân chủ”, “chủ nghĩa tư bản” hay “chủ nghĩa xã hội” ngày nay không còn đại diện cho những hệ thống tư tưởng nhất quán. Chúng có xu hướng mô tả những tập hợp các nguyên lý và các sự kiện hoàn toàn khác biệt và việc gắn chúng với các thuật ngữ này là do ngẫu nhiên lịch sử, thay vì là do có cùng những điểm chung, dù cho các nguyên lý này được cổ vũ bởi cùng một nhóm người ở những thời điểm khác nhau hoặc thậm chí đơn thuần là dưới cùng một cái tên trường phái.
Ở khía cạnh này, không có thuật ngữ chính trị nào lại có tình trạng tồi dở như thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân”. Nó không những chỉ bị các đối thủ bóp méo thành một bức tranh biếm họa không tài nào có thể nhận biết được – và chúng ta nên luôn nhớ rằng hầu hết các bạn đồng nghiệp của chúng ta biết đến các thuật ngữ chính trị, vốn đã trở nên lỗi mốt trong hiện tại, chỉ qua bức tranh biếm họa do kẻ thù của họ vẽ ra – mà còn được sử dụng để mô tả một vài thái độ xã hội mà thực ra giữa chúng hầu như chẳng có đặc điểm gì chung, tựa như giữa chúng với các thái độ không đội trời chung với chúng. Thực ra, trong quá trình chuẩn bị để viết bài luận này, tôi đã khảo sát một số bài luận được xem là mẫu mực về “chủ nghĩa cá nhân”, nhưng, thật đáng tiếc, tôi phải thú nhận tôi không thể nào nối mạch được các lý tưởng mà mình tin với cái thuật ngữ vốn đã bị lạm dụng và gây hiểu lầm một cách quá thể. Tuy vậy, dù cho thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân” có thêm nhiều nghĩa khác so với các lý tưởng của tôi đi chăng nữa thì vẫn còn hai lý do để giữ lại thuật ngữ này theo quan điểm mà tôi sẽ phải bảo vệ: (i) quan điểm luôn được biết đến bởi tên của chính thuật ngữ này, bất kể nó có thể mang những nghĩa khác ở những thời điểm khác nhau, và (ii) thuật ngữ này khác biệt với thuật ngữ “ chủ nghĩa xã hội ” được xây dựng một cách có chủ ý để bày tỏ sự đối lập với chủ nghĩa cá nhân[2]. Nó gắn với loại hệ thống có tính loại trừ với chủ nghĩa xã hội mà tôi sẽ đề cập tới.
2
Trước khi giải thích chủ nghĩa cá nhân chân chính là gì, có lẽ sẽ hữu dụng nếu tôi trình bày đôi chút về dòng lịch sử trí tuệ của nó. Chủ nghĩa cá nhân chân chính mà tôi sẽ cố gắng bảo vệ khởi đầu giai đoạn phát triển hiện đại nhờ đóng góp của John Locke, đặc biệt là nhờ Mandeville và David Hume, và lần đầu tiên nó có hình hài đầy đủ trong những tác phẩm của Josiah Tucker, Adam Ferguson và Adam Smith, đồng thời cũng trong tác phẩm của một nhà tư tưởng vĩ đại cùng thời với họ – Edmund Burke – nhân vật mà Smith mô tả là người duy nhất trong số những người mà ông đã từng biết đến có suy nghĩ về các vấn đề kinh tế giống hệt như ông trước khi có những đàm thoại qua lại[3].Trong thế kỷ XIX, tôi thấy dòng tư tưởng này được trình bày hoàn chỉnh nhất trong các tác phẩm của hai nhà sử học và triết học chính trị vĩ đại nhất: Alexis de Tocqueville và Lord Acton. Với tôi, hai người này đã kế thừa thành công những cái hay nhất trong triết học chính trị của các nhà triết học người Scotland, Burke và những người thuộc nhóm Whig của Anh hơn bất kỳ tác gia nào mà tôi biết; trong khi đó, các nhà kinh tế cổ điển của thế kỷ XIX, hoặc ít nhất là những người theo chủ thuyết Vị công lợi (Benthamites) hay các nhà có tư tưởng triết học cấp tiến ngày càng bị ảnh hưởng bởi một dòng chủ nghĩa cá nhân có nguồn gốc khác.
Dòng tư tưởng thứ hai và hoàn toàn khác, cũng dưới cái tên chủ nghĩa cá nhân, được đưa ra chủ yếu nhờ các tác gia khác người Pháp và Châu Âu lục địa – mà theo tôi, nguyên nhân là do vai trò thống trị của chủ nghĩa duy lý Descartes trong chủ thuyết này. Những đại biểu xuất sắc nhất của trường phái này là các nhà Bách khoa (Encyclopedist), Rousseau, và những người theo phái trọng nông (physiocrat) và vì những lý do chúng ta xét đến ở đây, chủ nghĩa cá nhân duy lý này luôn có xu hướng phát triển thành thứ đối nghịch với chủ nghĩa cá nhân chân chính, nghĩa là phát triển thành thứ có tên gọi là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tập thể. Chúng ta phải phân biệt điều này chỉ vì loại chủ nghĩa cá nhân thứ nhất nhất quán với với cái tên tôi gọi chủ nghĩa cá nhân chân chính, trong khi đó, loại chủ nghĩa cá nhân thứ hai có lẽ cần phải được xét đến như là nguồn gốc của chủ nghĩa xã hội hiện đại với ảnh hưởng không kém các triết thuyết thuần túy chủ nghĩa tập thể[4].
Tôi không thể đưa ra một minh hoạ rõ ràng nào cho sự nhầm lẫn phổ biến về nghĩa của chủ nghĩa cá nhân hơn là qua hiện tượng Edmund Burke, một người, theo tôi, là đại diện xuất sắc nhất của chủ nghĩa cá nhân chân chính, người thường được xem (và đúng như vậy) là đại diện đối trọng với cái cũng được gọi là “chủ nghĩa cá nhân” của Rousseau – nhân vật đề xuất những lý thuyết mà Burke sợ rằng nó sẽ nhanh chóng đốt cháy nền thịnh-vượng-chung thành “tro bụi”[5], và qua hiện tượng de Tocqueville, một đại biểu vĩ đại khác của chủ nghĩa cá nhân chân chính, đã sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân” với một thái độ đầy xót xa trong tác phẩm Democracy in America (Nền dân chủ ở Mỹ)[6]. Tới thời điểm này, chúng ta không còn nghi ngờ gì về việc cả hai người, Burke và de Tocqueville, hoàn toàn đứng về phía Adam Smith, người mà không ai dám tước bỏ danh hiệu đại diện của chủ nghĩa cá nhân và do đó, cái thứ “chủ nghĩa cá nhân” mà hai người bác bỏ là một cái gì đó hoàn toàn khác so với quan điểm của Smith.
3
Vậy thì, đâu là các đặc điểm then chốt của chủ nghĩa cá nhân chân chính? Trước hết cần phải thấy, trên hết thảy, nó là một lý thuyết xã hội, một nỗ lực để hiểu các xung lực định đoạt đời sống xã hội của con người, còn vai trò như là một tập hợp các châm ngôn chính trị rút ra từ quan điểm xã hội này thì chỉ là vai trò phụ của nó mà thôi. Thực tế này, tự bản thân nó, đủ để bác bỏ những hiểu lầm phổ biến, ngờ nghệch nhất: niềm tin cho rằng chủ nghĩa cá nhân đặt trên nền tảng (hoặc xây dựng các luận cứ của nó trên các giả thiết) về sự tồn tại của các cá nhân tách biệt hoặc cô lập, thay vì bắt đầu từ quan điểm cho rằng đặc điểm và bản chất tổng thể của con người được định đoạt bởi sự tồn tại của họ trong xã hội[7]. Nếu giả sử điều này đúng thì thật sự nó chẳng có đóng góp gì cho hiểu biết xã hội của chúng ta. Nhưng luận điểm cơ bản của nó là một cái hoàn toàn khác; đó là không có cách nào có thể hiểu được các hiện tượng xã hội mà không phải thông qua sự hiểu biết của chúng ta về các hành động của cá nhân hướng tới những người khác và được định hướng bởi kỳ vọng về hành vi của những người khác đó[8]. Luận điểm này được đưa ra trước tiên để chống lại những lý thuyết xã hội thuần túy tập thể có tham vọng có thể hiểu biết một cách trực tiếp các tổng thể có tính chất xã hội, chẳng hạn xã hội được hiểu như là các thực thể sui generis (có thế giới riêng của nó – ND), tồn tại độc lập với những cá nhân cấu thành chúng. Tuy nhiên, bước tiếp theo trong phân tích dựa trên chủ nghĩa cá nhân về xã hội là chống lại chủ nghĩa cá nhân giả hiệu trên nền tảng chủ nghĩa duy lý – thứ chủ nghĩa mà rốt cục, trên thực tế, cũng dẫn đến chủ nghĩa tập thể. Chủ nghĩa cá nhân chân chính cho rằng, qua việc tìm hiểu những ảnh hưởng kết hợp của các hành động cá nhân, chúng ta phát hiện ra rằng đa phần các thể chế mà thành tựu của nhân loại xây dựng trên đó đã hình thành và đảm nhiệm các chức năng mà không cần phải dựa vào một bộ óc chuyên trách việc thiết kế hay định hướng; rằng như Adam Ferguson nói, “các quốc gia xuất hiện trên các thiết chế thực ra là kết quả của hành động con người chứ không phải là kết quả của sự thiết kế của con người”[9]; và rằng sự hợp tác tự nguyện của những con người tự do thường tạo ra những cái vĩ đại hơn bất cứ những gì mà những bộ óc đơn lẻ có thể hiểu biết được một cách đầy đủ. Đó là chủ đề vĩ đại của Josiah Tucker và Adam Smith, của Adam Ferguson và Edmund Burke, là phát kiến kỳ vĩ của kinh tế chính trị cổ điển vốn đã trở thành nền tảng cho hiểu biết của chúng ta không chỉ trong phạm vi đời sống kinh tế mà còn đúng cho hầu hết các hiện tượng xã hội.
Sự khác nhau giữa quan điểm cho rằng hầu hết các loại trật tự tìm thấy trong đời sống của con người như là kết quả không dự đoán trước được của các hành động cá nhân và quan điểm qui mọi loại trật tự (xã hội) mà chúng ta có khả năng phát hiện ra được cho sự thiết kế có chủ đích là sự đối nghịch lớn nhất giữa chủ nghĩa cá nhân chân chính của các nhà tư tưởng Anh thế kỷ 18 và cái thứ mang cùng tên “chủ nghĩa cá nhân” của học phái Descartes[10]. Nhưng đó chỉ đơn thuần là một khía cạnh của một sự khác biệt rộng lớn hơn nhiều giữa một quan điểm vốn luôn đánh giá thấp vai trò của lý trí trong đời sống con người, cho rằng con người đã đạt được cái mà anh ta đang sở hữu dù rằng anh ta chỉ được dẫn dắt một phần bởi lý trí và rằng lý trí cá nhân của anh ta rất hạn chế và kém hoàn hảo với một quan điểm giả thiết rằng Lý Trí, hai chữ Lý Trí viết hoa, luôn luôn hiện hữu đầy đủ và hoàn hảo đối với tất cả mọi người, và rằng mọi thứ mà con người đạt được là kết quả trực tiếp của, và do đó phụ thuộc vào, sự kiểm soát của lý trí cá nhân. Người ta thậm chí có thể nói rằng loại quan điểm đầu là sản phẩm của một sự hiểu biết sâu sắc về những giới hạn của trí tuệ cá nhân, dẫn đến một thái độ khiêm cung đối với các quá trình xã hội vô danh mà nhờ đó, các cá nhân trợ giúp tạo ra những cái vĩ đại hơn nhiều những thứ họ biết, trong khi loại quan điểm sau là sản phẩm của một niềm tin cường điệu vào sức mạnh của lý trí cá nhân và theo đó là sự coi khinh bất cứ thứ gì mà không được thiết kế một cách có ý thức bởi lý trí hoặc không thể hiểu đầy đủ được bằng lý trí.
Phương pháp phản-duy-lý-trí luận vốn xem con người không như là một loài có lý trí và trí tuệ cao mà lại như là một loài rất phi lý trí (irrational) và có khả năng mắc lỗi lầm, mà những lỗi lầm cá nhân này được hiệu chỉnh chỉ trong tiến trình của một quá trình xã hội, và hướng tới mục đích làm cho một chất liệu rất không hoàn hảo trở nên hữu dụng nhất, có lẽ là điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa cá nhân Anh. Với tôi, việc đặc điểm này chiếm ưu thế trong suy nghĩ của người Anh đa phần là do chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bernard Mandeville, người đầu tiên đã hệ thống hoá một cách mạch lạc tư tưởng trung tâm của hệ thống triết lý này[11].
Tôi không thể nào có một minh họa nào tốt hơn sự tương phản giữa “chủ nghĩa cá nhân” duy lý trí luận hay chủ nghĩa cá nhân theo học phái Descartes với quan điểm của chủ nghĩa cá nhân Anh bằng cách trích dẫn một đoạn nổi tiếng trong phần II cuốn Discourse on Method (Luận về phương pháp). Descartes cho rằng “những công trình chắp ghép lại từ nhiều phần riêng biệt được tạo ra bởi nhiều bàn tay khác nhau hiếm khi đạt được độ hoàn hảo so với những công trình được hoàn thiện bởi một bậc thầy đơn lẻ”. Sau đó, ông (quan trọng là sau khi đã trích dẫn minh họa hình ảnh một kỹ sư thiết kế các kế hoạch của mình) đi tới chỗ cho rằng “những quốc gia nào có khởi điểm từ một tình trạng còn man rợ và tiến tới nền văn minh một cách chậm chạp mà lần lượt xây dựng các bộ luật và tuân thủ các bộ luật này đơn giản qua kinh nghiệm từ những tác hại do các loại tội phạm và tranh chấp cụ thể gây ra sẽ có những thể chế kém hoàn thiện hơn so với những quốc gia mà từ lúc hình thành sự liên kết xã hội như là các cộng đồng tuân thủ sự bổ nhiệm của một nhà lập pháp sáng suốt nào đó”. Để lái quan điểm này tới đích, Descartes bổ sung thêm theo ý ông “sự ưu việt trong quá khứ của [chế độ] Sparta không phải là do tính ưu việt của từng bộ luật của nó nói riêng… mà là do hoàn cảnh, theo đó, khởi tạo bởi một cá nhân đơn lẻ, tất cả các bộ luật này có xu hướng hướng tới cùng một đích”[12].
Sẽ có nhiều thú vị khi xem xét kỹ càng hơn sự phát triển của thứ chủ nghĩa cá nhân dựa trên khế ước xã hội hay các lý thuyết thiên về “thiết kế” các thể chế xã hội từ Descartes qua Rousseau và cuộc Cách mạng Pháp cho tới thái độ đặc trưng của các kỹ sư đối với các vấn đề xã hội[13]. Một lược đồ như thế sẽ cho thấy chủ nghĩa duy lý Descartes đã không ngừng cản trở sự hiểu biết về các hiện tượng lịch sử, do đó, nó phải chịu trách nhiệm lớn cho niềm tin vào những quy luật tất yếu về sự phát triển của lịch sử và chủ nghĩa định mệnh hiện đại xuất phát từ niềm tin đó[14].
Tuy nhiên, tất cả những điều chúng ta quan tâm ở đây là quan điểm này, mặc dù cũng có tên là “chủ nghĩa cá nhân”, đối nghịch hoàn toàn với chủ nghĩa cá nhân chân chính ở hai điểm có tính quyết định. Trong khi với thứ chủ nghĩa cá nhân giả hiệu này, hoàn toàn đúng là “đối với bất kỳ triết gia nào mà coi con người cá thể như là điểm khởi đầu và giả thiết anh ta tham gia vào việc hình thành xã hội bằng cách liên hợp ý nguyện cá thể của mình với người khác thông qua một bản khế ước chính thức thì niềm tin vào các sản phẩm xã hội tự phát, xét về mặt logic, là không thể chấp nhận được,”[15] thì chủ nghĩa cá nhân chân chính là loại lý thuyết duy nhất dám cho rằng việc hình thành các sản phẩm xã hội tự phát là điều có thể lý giải được. Và trong khi các lý thuyết thiên về thiết kế tất yếu đi đến kết luận, rằng các quá trình xã hội chỉ có thể được hình thành để phục vụ các mục đích của loài người khi chúng nằm dưới sự điều khiển bởi lý trí của một cá nhân và do vậy, trực tiếp dẫn đến chủ nghĩa xã hội thì ngược lại, chủ nghĩa cá nhân chân chính tin là nếu được tự do, con người sẽ thường đạt được nhiều thứ hơn những cái mà lý trí con người đơn lẻ có thể thiết kế hoặc viễn kiến được.
Sự đối lập giữa chủ nghĩa cá nhân chân chính, phản-duy-lý-trí luận và chủ nghĩa cá nhân giả hiệu, duy lý trí luận thâm nhập vào mọi tư tưởng xã hội. Nhưng bởi vì cả hai lý thuyết này được biết đến với cùng một cái tên và một phần bởi vì các nhà kinh tế học cổ điển thế kỷ XIX, đặc biệt là John Stuart Mill và Herbert Spencer, hầu như đã bị ảnh hưởng bởi nền tảng Pháp quốc nhiều như Anh quốc, nên tất cả các cách nhận thức và giả thiết hoàn toàn xa rời chủ nghĩa cá nhân chân chính lại có xu hướng được xem như là những phần cốt yếu trong lý thuyết về xã hội.
Có lẽ minh hoạ tốt nhất cho sự nhầm lẫn hiện nay về chủ nghĩa cá nhân của Adam Smith và nhóm của ông là niềm tin phổ biến cho rằng họ đã tạo ra kẻ tội đồ “con người kinh tế” và do vậy, các kết luận của họ đã bị lệch lạc do giả thiết về hành vi lý trí tuyệt đối, hay nói chung, do nền tảng tâm lý duy lý sai lầm. Tất nhiên, họ hoàn toàn không bao giờ có những thứ giả thiết kiểu đó. Chính xác hơn là trong mắt của họ, con người về bản chất là uể oải và biếng nhác, cạn nghĩ và lãng phí và do vậy, chỉ nhờ áp lực của hoàn cảnh, con người mới có thể hành sự một cách kinh tế và cẩn thận để cải tiến phương tiện anh ta sở hữu nhằm đạt được mục đích của mình. Nhưng ngay cả như vậy, điều này vẫn không lột tả được cái nhìn rất hiện thực và phức tạp mà những tác gia này quan niệm về bản chất của con người. Vì việc bài bác Smith và các đồng nghiệp đương thời của ông, cho rằng nền tảng tâm lý của họ là sai lầm, thường đã trở thành cái mốt nên có lẽ tôi đánh bạo đưa ra ý kiến là: để phục vụ cho tất cả các mục đích thực tiễn thì chúng ta vẫn có thể học được nhiều thứ về hành vi của con người từ tác phẩm The Wealth of Nations (Của cải của các quốc gia) hơn là từ hầu hết các học thuyết hiện đại đầy tính tự mãn về “tâm lý xã hội”.
Tuy nhiên, chúng ta có thể có một chút nghi ngờ về một luận điểm chính, đó là Smith đã không dành quá nhiều quan tâm cho cái mà con người có lẽ thỉnh thoảng đạt được khi anh ta ở trạng thái đỉnh cao nhất, mà là cho việc anh ta nên có càng ít cơ hội càng tốt để làm điều tồi tệ khi anh ta ở trạng thái tồi tệ nhất. Sẽ không quá đáng khi cho rằng tinh thần chính của chủ nghĩa cá nhân mà ông và đồng nghiệp của ông cổ vũ là một hệ thống mà những con người tồi có thể gây ra ít điều tồi tệ nhất. Nó là một hệ thống xã hội mà vai trò của nó không phụ thuộc vào việc tìm kiếm những con người tốt để vận hành nó, hoặc vào việc tất cả mọi người trở nên tốt hơn so với cái họ có ngày hôm nay, đúng hơn, nó là một hệ thống sử dụng được hết mọi người với tất cả sự đa dạng và phức tạp vốn có của họ, có lúc tốt và có lúc xấu, đôi khi thông minh và thường xuyên ngốc nghếch. Mục đích chính của họ là một hệ thống có khả năng đem lại sự tự do cho tất cả mọi người, thay vì hạn chế nó vào cái khung “đức hạnh và thông thái” như các các đồng nghiệp Pháp của họ đã từng mong muốn[16].
Mối quan tâm chính của các lý thuyết gia về chủ nghĩa cá nhân có tên tuổi thực ra là đi tìm một bộ các thể chế mà con người có thể đúc kết được, bằng sự lựa chọn của chính mình và từ các động cơ dẫn tới cách cư xử hàng ngày của mình, để đóng góp nhiều nhất có thể cho nhu cầu của tất cả những người khác; và điều mà họ đã khám phá ra được là hệ thống tư hữu đã tạo ra những đóng góp như thế nhiều hơn cả mức vẫn thường được hiểu. Tuy nhiên, họ không cho rằng hệ thống này không có khả năng tiếp tục cải thiện được và rằng, như những luận điệu bẻ cong lập luận của họ ngày nay, đã tồn tại một “sự hài hoà tự nhiên giữa các sở thích” bất kể các thể chế tích cực nào. Họ còn vượt lên cả sự nhận thức đơn thuần về các xung đột sở thích cá nhân và nhấn mạnh sự cần thiết của “các thể chế được tạo dựng một cách công phu”, mà ở đó, “các qui tắc và nguyên lý duy trì các sở thích và các lợi-thế-được-thoả-hiệp”[17] sẽ dung hoà các sở thích trái nhau, thay vì phải trao quyền lực cho bất kỳ một nhóm nào để đưa quan điểm và sở thích của nhóm này luôn vượt lên trên quan điểm và sở thích của tất cả những nhóm khác.
Friedrich A. von Hayek
Dịch: Đinh Tuấn Minh
Rất ủng hộ những bài dịch thế này! cảm ơn THĐP