30 C
Nha Trang
Thứ bảy, 23 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Vivekananda — Phật giáo là sự kiện toàn của Ấn giáo

7
Phật giáo

Tôi không phê bình Phật giáo

Tôi không phải là một Phật tử, như bạn đã nghe, song xét theo một góc độ nhất định thì tôi cũng là Phật tử. Nếu Trung Quốc, hoặc Nhật Bản, hoặc Tích Lan (Sri Lanka) đi theo lời dạy của Bậc Đại Sư (Thích Ca), Ấn Độ tôn kính Ngài như là Thượng Đế nhập thể trên trái đất. Bạn vừa nghe rằng tôi sẽ phê bình Phật giáo, nhưng tôi muốn bạn hiểu chỉ điều này. Tôi hoàn toàn không có ý muốn phê bình người tôi tôn kính như Thượng Đế hiện thân trên trái đất.

Nhưng quan điểm của chúng tôi về Đức Phật là Ngài không được các đệ tử của mình hiểu đúng. Mối quan hệ giữa Hinduism (Hinduism ở đây ý tôi là tôn giáo của kinh thư Vệ-đà) và cái được gọi là Phật giáo ngày nay gần giống như giữa Do Thái giáo và Kitô giáo. Giê-su Kitô đã là người Do Thái, và Thích Ca Mâu-ni đã là người Hindu. Người Do Thái đã từ chối Giê-su Kitô, không, đã đóng đinh Ngài và người Ấn giáo đã chấp nhận Thích Ca Mâu-ni là God và tôn kính Ngài.

phật giáo

Nhưng sự khác biệt thực sự mà người Hindu chúng tôi muốn cho thấy giữa Phật giáo hiện đại và những gì chúng ta nên hiểu là các giáo lý của Đức Phật nằm chủ yếu ở đây: Ngài cũng như Jesus, đã đến để kiện toàn, không phải hủy diệt. Chỉ trong trường hợp của Chúa Giêsu, chính những người già, người Do Thái, những người đã không hiểu Ngài, trong trường hợp của Đức Phật, chính những người theo Ngài đã không nhận ra được giáo lý của Ngài.

Cũng như người Do Thái không hiểu được sự kiện toàn của Cựu Ước, Phật tử không hiểu được sự kiện toàn của các chân lý của tôn giáo Hindu. Một lần nữa, tôi nhắc lại, Thích Ca Mâu-ni không đến để phá hủy, nhưng Ngài là sự kiện toàn, sự kết luận hợp lý, sự phát triển hợp lý của tôn giáo của người Hindu.

Tôn giáo của người Hindu được chia thành hai phần: nghi lễ và tâm linh. Phần tâm linh được nghiên cứu đặc biệt bởi các nhà sư.

Trong đó không có giai cấp. Một người đàn ông từ giai cấp cao nhất và một người đàn ông từ giai cấp thấp nhất có thể trở thành một nhà sư ở Ấn Độ, và hai giai cấp trở nên bình đẳng. Trong tôn giáo không có giai cấp; giai cấp đơn giản là một thể chế xã hội.

Bản thân Thích Ca Mâu-ni là một nhà sư, và thật vinh quang khi Ngài có tấm lòng rộng lớn để đưa ra những sự thật từ những kinh sách Vệ-đà bí mật và thông qua chúng Ngài thuyết pháp khắp thế giới. Ngài là người đầu tiên trên thế giới thực hành việc truyền giáo, không, Ngài là người đầu tiên nghĩ ra ý tưởng cải đạo.

Vinh quang lớn lao của Bậc Đại Sư nằm trong sự cảm thông tuyệt vời của ông đối với mọi người, đặc biệt là đối với những người thiếu hiểu biết và người nghèo. Một số đệ tử của ông là các đạo sĩ Bà-la-môn (Brahmins). Thời Phật giảng pháp, tiếng Phạn không còn là ngôn ngữ nói ở Ấn Độ. Nó chỉ còn trong những cuốn sách của tầng lớp trí thức.

Một số đệ tử Bà-la-môn của Phật muốn dịch lời dạy của Ngài sang tiếng Phạn, nhưng Ngài đã nói rõ với họ: “Ta vì người nghèo, vì người dân, hãy để ta nói thứ tiếng của mọi người.” Và cho đến ngày nay, phần lớn những lời dạy của Ngài là bằng tiếng địa phương ngày xưa ở Ấn Độ (Tiếng Pali).

Bất kể quan điểm triết học là gì, bất kể quan điểm siêu hình học là gì, miễn là có một cái gì đó như cái chết trên thế giới, miễn là có một thứ yếu đuối trong trái tim con người, miễn là có một tiếng kêu phát ra từ trái tim của con người trong chính sự yếu đuối của họ, thì sẽ có một đức tin vào Thượng Đế.

Về mặt triết học, các môn đệ của Bậc Đại Sư đã lao mình vào những tảng đá vĩnh cửu của kinh thư Vệ-đà và đã không thể phá vỡ chúng, và ở phía bên kia, họ đã tước đi Thượng Đế vĩnh cửu mà mọi người, đàn ông hay phụ nữ ở đất nước này mến yêu gắn bó. Và kết quả là Phật giáo đã phải chết một cái chết tự nhiên ở Ấn Độ. Ngày nay, không có ai gọi mình là Phật tử ở Ấn Độ, vùng đất khai sinh của nó.

Nhưng đồng thời, đạo Bà-la-môn đã mất đi một thứ: lòng nhiệt thành cải cách, sự cảm thông và lòng từ thiện tuyệt vời cho mọi người, thiên đường tuyệt vời mà Phật giáo đã mang đến cho quần chúng và đã khiến xã hội Ấn Độ trở nên vĩ đại đến nỗi một nhà sử học Hy Lạp đã viết về Ấn Độ thời đó đã phải nói rằng không có người Hindu nào nói sai sự thật và không có người phụ nữ Hindu nào là không trong sạch.

Ấn giáo không thể sống mà không có Phật giáo, hay Phật giáo mà không có Ấn giáo. Sau đó hãy nhận ra những gì sự tách biệt đã cho chúng ta thấy, rằng Phật tử không thể đứng vững nếu không có bộ não và triết lý của các Brahmins, hay các Brahmins nếu không có trái tim của Phật tử. Sự tách biệt giữa Phật tử và Bà-la-môn là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Ấn Độ.

Đó là lý do tại sao Ấn Độ có ba trăm triệu người ăn xin, và đó là lý do tại sao Ấn Độ là nô lệ của những kẻ chinh phục trong một ngàn năm qua. Vậy thì chúng ta hãy tham gia trí tuệ tuyệt vời của các Brahmins với trái tim, linh hồn cao quý, sức mạnh nhân văn tuyệt vời của Bậc Đại Sư.

(Bài thuyết trình tại Hội nghị Quốc tế các Tôn giáo – 26/9/1893)

Bình luận từ Akasha (ChatGPT-4)

Vivekananda, một nhà tư tưởng và tâm linh lớn của Ấn Độ, đã có cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa Hinduism và Phật giáo. Ông nói rằng, dù không phải là một Phật tử theo nghĩa truyền thống, nhưng ông cảm thấy mình cũng thuộc về Phật giáo theo một cách nào đó. Điểm mấu chốt của ông là sự hiểu lầm của các đệ tử đối với giáo lý của Đức Phật và Chúa Giê-su, mặc dù cả hai đều đến không phải để phá hủy, mà là để kiện toàn.

Vivekananda cho rằng Đức Phật đã không được hiểu đúng bởi chính những người theo Ngài. Ông so sánh mối quan hệ giữa Hinduism và Phật giáo với mối quan hệ giữa Do Thái giáo và Kitô giáo, nơi Giê-su là người Do Thái và Đức Phật là người Hindu. Điều này làm nổi bật sự phát triển tôn giáo từ những nền tảng đã có.

Vivekananda cũng đề cập đến sự chia rẽ giữa tâm linh và nghi lễ trong Hinduism, và cách mà Đức Phật đã mở ra kiến thức tâm linh cho mọi tầng lớp, không phân biệt giai cấp. Ngài mở đường cho sự cải cách và đồng cảm, đặc biệt là đối với những người nghèo và thiếu hiểu biết.

Tuy nhiên, Vivekananda cũng chỉ trích cách Phật giáo đã phát triển, mất đi những chân lý cơ bản của Hinduism và không duy trì được sự cân bằng giữa trí tuệ (trí thức) và lòng từ thiện (trái tim). Ông nhấn mạnh rằng sự tách biệt giữa hai tôn giáo này đã dẫn đến sự suy yếu của Ấn Độ.

Lời kết của Vivekananda là một lời kêu gọi hòa giải và hợp nhất: hãy kết hợp trí tuệ tuyệt vời của các Brahmins với trái tim và tâm hồn cao quý của Phật tử. Điều này, theo ông, sẽ đưa đến sức mạnh và sự phát triển cho Ấn Độ.

Như Vivekananda đã nói, “miễn là có một cái gì đó như cái chết trên thế giới, miễn là có một thứ yếu đuối trong trái tim con người, miễn là có một tiếng kêu phát ra từ trái tim của con người trong chính sự yếu đuối của họ, thì sẽ có một đức tin vào Thượng Đế.” Điều này nhấn mạnh rằng, trong mọi khó khăn và yếu đuối, con người luôn tìm kiếm sự an ủi và định hướng từ một nguồn lực cao hơn, dù đó là Thượng Đế, Brahman, hay bất kỳ hình thức tâm linh nào khác.

Tác giả: Đạo sư Vivekananda
Biên dịch: Prana – THĐP

spot_img
Triết Học Đường Phố
Triết Học Đường Phố
"Thà chết cho một ý tưởng bất diệt, còn hơn sống cho một ý tưởng phù du." — Steven Biko

BÀI LIÊN QUAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

FOLLOW US

62,550Thành viênThích
3,699Người theo dõiTheo dõi
3,900Người theo dõiĐăng Ký
spot_img

BÌNH LUẬN MỚI

XEM NHIỀU

BÀI MỚI