(Bài viết đã được đăng trong Aloha Volume 1 tạp chí Aloha của Triết Học Đường Phố.)
“Mọi vấn đề của loài người đều xuất phát từ việc họ không thể ngồi im một mình trong phòng.” — Blaise Pascal
Bạn có thể ngồi một mình trong một khoảng thời gian, lặng lẽ, không bị phân tâm? Hành động đơn giản đó đã khiến tôi mất nhiều năm để làm chủ và tôi vẫn còn một chặng đường nữa phải đi. Việc tìm kiếm sự tĩnh lặng đã đưa tôi đến một câu nói của nhà toán học và cũng là nhà thần học người Pháp Blaise Pascal.
Blaise Pascal có ý gì với câu nói nổi tiếng trên?
Ý nghĩ trên được trích trong Pensees 139, một trong nhiều suy nghĩ Blaise Pascal đã viết xuyên suốt đời mình vào giữa những năm 1600 và sau này được chia sẻ mọi nơi sau khi ông qua đời. Nhiều nhà phê bình sau đó đã xem xét và dịch lại các câu từ của Blaise Pascal có nghĩa là con người chúng ta né tránh sự tĩnh lặng và tịch mịch bởi chúng ta sợ sự thật mà thế giới không có sự xao lãng sẽ khiến chúng ta phải đối mặt.
Tại sao chúng ta không thể ngồi một mình? Chúng ta đang chạy trốn khỏi sự thật nào?
Có vẻ như trong ý nghĩ 139, Blaise Pascal nói rằng nếu không có những thú tiêu khiển, sự mất tập trung, con người sẽ bị buộc phải ở một mình với “sự thật” không thể tránh khỏi về sự tồn tại của mình. Điều được coi là sự thật ấy là: Cuộc sống là khó khăn và con người phải phải chịu đựng. Con người nhất định bị khổ sở. (Pascal’s Pensees, n.d.)
Điều này có đúng không hay đơn thuần chỉ là một niềm tin mà nhân loại đã theo bám trong suốt nhiều thế kỷ? Chúng ta đang chạy trốn sự thật hay một ảo tưởng?
Điều tôi tin là đúng là nếu con người bị buộc phải ngồi một mình tĩnh tâm trong phòng, không bị phân tâm, họ sẽ phải đối phó với một tâm trí không thể chịu nổi, những lo lắng, đe dọa, tin đồn và sợ hãi đang lấp đầy nó. Họ sẽ bị buộc phải lắng nghe những lời thủ thỉ không ngừng nghỉ của bản ngã về sự tồn tại khổ sở này.
Có thể hiểu được tại sao nhiều người trong chúng ta tránh né ở một trong yên tĩnh và tĩnh lặng. Có ai muốn tĩnh lặng khi sự tĩnh lặng mang lại nỗi bất hạnh khủng khiếp như vậy?
Giải pháp của Blaise Pascal
Nếu vấn đề là con người không thể ngồi tĩnh tâm một mình, thì giải pháp được đề ra sẽ là gì? Không phải nó quá rõ ràng sao? Chúng ta phải học cách ngồi yên một mình trong phòng.
Có khả năng nào điều Blaise Pascal muốn nói không chỉ là các vấn đề đều xuất phát từ việc con người không có khả năng ngồi yên lặng và chấp nhận khổ đau, mà giải pháp duy nhất là ngồi tĩnh tâm để có thể học cách vượt qua khổ?
Có thể Pensees 139 là một lời yêu cầu chấm dứt những hoạt động vô nghĩa và gợi ý rằng chúng ta thực sự có thể giải quyết các vấn đề của nhân loại nếu chúng ta đơn giản là, như mỗi cá nhân, hướng tâm vào trong? Đây không phải là câu thần chú của hầu hết các giáo viên và bậc thầy tâm linh trong thời đại của chúng ta sao?
Liệu có thể Blaise Pascal đang cho rằng sự phân tâm, sự săn đuổi theo những mục tiêu trong tương lai và những nhu cầu không ngừng nghỉ của chúng ta sẽ không cứu được chúng ta nhưng dành thời gian yên tĩnh cầu nguyện, thiền định và tìm kiếm sự thật có thể sẽ làm được điều đó?
Liệu chúng ta có thể gác bỏ các thiết bị điện tử, điện thoại của chúng ta, dẹp đi những hoạt động làm tê liệt não bộ của chúng ta trong vài phút và cố gắng ngồi yên lặng một mình ở đâu đó không?
Ngồi tĩnh tâm một mình đòi hỏi điều gì?
Tôi tin rằng việc ngồi tĩnh tâm là một quá trình gồm hai giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta phải đối mặt với những cảm xúc nảy sinh khi chúng ta quán chiếu niềm tin tập thể rằng cuộc sống là khổ và rằng chúng ta không làm gì khác ngoài việc chịu đựng. Chúng ta cần đặt câu hỏi liệu niềm tin ấy, điều khiến chúng ta không hạnh phúc đó, có đúng không? Chúng ta cần hỏi bản ngã.
Cái nhìn khiếm khuyết về bản thân và cuộc sống này là do bản ngã. Bản ngã không muốn chúng ta tĩnh lặng. Nó làm mọi thứ có thể để giữ cho cơ thể ta luôn hoạt động và tâm trí ta chứa đầy những ý nghĩ vô dụng để nó lấp đầy chúng ta với nỗi sợ hãi của không gian yên tĩnh. Ngay cả Blaise Pascal trong một Pensees sau này đã viết:
“Sự im lặng vĩnh cửu của không gian vô hạn này làm tôi sợ hãi.” (Pensees 206)
Chính bản ngã tạo ra sợ hãi, và bản ngã khiến chúng ta xa rời Bản thân, điều chúng ta tìm thấy trong sự tĩnh lặng. Bản ngã biết nếu chúng ta tìm thấy chân Ngã, câu trả lời cho câu hỏi muôn thuở “tôi là ai”, chúng ta sẽ không còn cuốn theo những lời nói dối và lời hứa trống rỗng của nó nữa. Nó sẽ không thể tồn tại. Tìm thấy sự bình an trong sự tĩnh lặng và yên lặng có nghĩa là sự kết thúc của bản ngã. Vì vậy, bản ngã cố gắng thuyết phục chúng ta rằng sự yên tĩnh là một nơi nguy hiểm mà chúng ta không nên đi vào.
Chúng ta cần ngừng nghe theo bản ngã.
Thứ hai, khi chúng ta đối mặt với nỗi sợ hãi do niềm tin sai lệch gây ra, chúng ta sẽ có cơ hội vượt lên trên bản ngã để đến với chân Ngã, con người đích thực của bạn, để ghi nhớ chúng ta là ai, là gì, và từ Ai chúng ta đã đến. Chúng ta đã quên đi Sự Thật này và sự tĩnh lặng là nơi duy nhất nó có thể được tìm thấy. Nhớ ra được chúng ta thực sự là ai sẽ mang lại sự bình yên và hạnh phúc mà không một niềm vui tạm thời nào xuất phát từ sự phân tán của bản ngã có thể sánh được.
Chúng ta không phải là bản ngã. Chúng ta còn nhiều hơn thế. Cuộc sống cũng không phải do bản ngã hoạ ra. Nó cũng còn rất nhiều điều hơn thế nữa. Đây là Sự Thật tĩnh lặng mang lại cho chúng ta. Đây là sự thật chúng ta đã xa rời khi chúng ta nghe theo bản ngã và bị cám dỗ bởi những náo loạn và sự đa dạng của thế gian.
Tìm kiếm Hạnh phúc trong Tĩnh lặng
Nếu chúng ta mong muốn niềm hạnh phúc thực sự đời đời, chúng ta sẽ chỉ tìm thấy nó trong im lặng, trong sự tĩnh lặng và trong hiện tại. Đó là nơi mọi thứ có ý nghĩa. Đó không phải là nơi để sợ hãi mà là một nơi để nâng niu, một nơi để chữa lành, và một nơi để nhớ lại.
“Thế giới thực phản chiếu một cách khác qua đôi mắt yên tĩnh và với tâm trí yên bình. Không có gì ngoài việc nghỉ ngơi ở đó. Không có tiếng kêu đau đớn và nỗi buồn nào được nghe thấy…”
Tại sao chúng ta không bỏ qua những thú tiêu khiển và tìm một căn phòng yên tĩnh để ngồi? Ở đó, chúng ta có thể quán chiếu về những suy nghĩ đầy sợ hãi của mình. Chúng ta có thể học cách nhìn thấu qua những ảo tưởng của bản ngã và thấy được vẻ đẹp của sự phản chiếu chân thật. Không có khổ đau trong căn phòng chúng ta học cách ngồi tĩnh lặng, chỉ có bình yên. Và chẳng phải bình yên là thứ mà nhân loại cần?
Cứ ngồi đi!
Tác giả: Nancy Daley Biên dịch: Mai Nguyen Hiệu đính: Prana Ảnh minh họa: Polaris Do
Khi mọi người đã có con cái tôi vẫn còn ngồi ăn snack với mèo.
Khi mọi người đã có công việc ổn định tôi vẫn còn đang lông bông xứ người.
Khi mọi người có nhà cửa tôi vẫn còn nay đây mai đó ngủ vạ vật trên chiếc ghế sofa.
Trong lúc các bạn thức dậy đi làm, tôi thức dậy nhấm nháp ly cà phê ngồi đọc sách.
Trong lúc các bạn học về sinh học đại cương, tôi chỉ đang đứng tưới cây và nghĩ về cuộc đời này.
Trong lúc các bạn đang có những ý tưởng sáng tạo về bản thiết kế nhà mới của khách hàng, tôi chỉ ngồi vẽ doodle và hút cần.
Trong lúc các bạn nghiên cứu về mã code thì tôi vẫn ngồi đánh liên minh và chửi bọn óc chó.
Và khi các bạn đang rơi vào một mớ hỗn độn vì guồng quay của các bạn bị trục trặc một bánh răng thì tôi vẫn ngồi đàn hát vu vơ.
Các bạn hỏi khi nào tôi mới ổn định? Các bạn có biết biển cả không? Hoặc là bạn phải lặn thật sâu dưới đáy hoặc bạn phải luôn giữ mình khô ráo trên chiếc thuyền và gồng mình bám chắc khi bão đến.
Bạn ở trên chiếc thuyền những ngày biển lặng, yêu mến bầu trời và vẻ đẹp của mặt biển. Bạn hỏi tôi rằng tại sao tôi không nhìn chúng giống bạn? Bởi vì bạn chưa bao giờ được nhìn thấy đáy biển cả. Ổn định của tôi là không bị sóng biển quật ngã. Ổn định của bạn là đánh bắt được nhiều cá và giàu to.
Bạn hỏi tôi không sợ chết đói sao? Không làm, không có tiền thì sống làm sao? Vậy bạn đang kiếm tiền bởi vì bạn sợ hãi sao? Tôi không làm mọi việc vì sợ hãi, bất kể việc gì. Tôi chỉ làm mọi việc khởi phát từ tình yêu. Tôi tin vào năng lượng và luật hấp dẫn. Khi tôi làm mọi việc vì tình yêu tất nhiên sẽ hiệu quả hơn khi làm trong sợ hãi. Khi mọi việc tôi làm hiệu quả nó sẽ tự hấp dẫn đến những cơ hội.
Bạn có biết chết đói là như nào không? Hãy thử đến những thôn bản, những vùng đất khô ráp nắng cháy, chiến tranh bom đạn. Họ là những người không còn cơ hội, không được chọn lựa và không có tự do. Tôi vẫn ngồi ở đây, gõ những dòng chữ này để bày tỏ nỗi lòng với bạn thì bạn lo đến lúc tôi chết đói còn hơi xa đấy.
Tôi có một anh bạn, ngày xưa là một anh bạn rất thân. Nhờ anh ấy mà tôi lên được lớp 11 vì điểm hồi lớp 10 của tôi be bét. Anh ấy dạy lại hết những kiến thức cơ bản lượng giác, vân vân mây mây cho tôi. Một vài năm không gặp thì nghe tin anh ấy bị điên, chạy bộ mấy vòng bờ kè. Vài năm sau nữa vẫn nghe tin anh ấy còn sống và vẫn đi lông bông đây đó. Mọi người nhìn vào, phóng chiếu vào rồi bảo cuộc đời anh ấy khổ. Nhưng anh ấy không chết đói như mọi người nghĩ, sướng khổ cũng chẳng ai biết được ngoài anh ấy.
Vạch xuất phát của chúng ta khác nhau, có người vừa sinh ra đã sung sướng hết phần người khác. Có người lại đầu thai vào gia đình nghèo khó. Vậy nên vạch đích của chúng ta cũng sẽ khác nhau. Nếu bạn cứ chạy mãi đường đua của người khác thì bạn sẽ chẳng bao giờ đến được cái đích của mình.
Trông tôi có vẻ chậm bởi vì tôi tận hưởng mỗi giây phút đi qua. Đi bộ mỗi buổi chiều quanh khu nhà và có biết bao nhiêu thứ hiện lên – bao nhiêu thứ đã ở đấy từ rất lâu rồi nhưng chưa một lần nhìn thật kỹ.
Có bao nhiêu phương pháp để thức thần? Nhưng có lẽ tôi phải nói sơ qua thức thần là gì. Ngắn gọn nhất cho dễ hiểu là đánh thức linh hồn, biết mình có linh hồn, chỉ thế thôi. Biết mình có linh hồn để sống tốt lành hơn trước đã, còn thức thần để giác ngộ, để hoà vào Thượng Đế, để thấu triệt tính không nó quá xa vời. Tôi sẽ không nói những thứ đó. Tôi có một số phương pháp, chính bản thân tôi đã kinh qua, nhưng tôi chỉ nói về những phương pháp miễn phí, hợp pháp, an toàn tuyệt đối.
1. Nhịn ăn
Phương pháp thức thần đơn giản nhất, cổ xưa nhất, bạn không cần làm gì cả. Bạn chỉ việc nhịn ăn, bạn có thể tìm thấy về nhịn ăn trong cuộc hành trình của Phật. Chúa Giêsu đã nhịn ăn 40 ngày trong sa mạc. Tôi có một lần nhịn ăn trong 12 ngày, quá trình đó tôi dùng kèm thảo dược để giải độc tuyến tùng. Quá trình diễn ra từ từ, nhưng tôi sẽ lấy kết quả của ngày thứ 12 để review. Hôm đó tôi chơi trò xếp hình, trò bình thường tôi chơi không quá 3000 điểm. Trong ngày thứ 12 tôi đã chơi được 7600 điểm, có lẽ nó còn hơn con số đó nếu tôi chơi tiếp. Tôi chỉ chơi trong lúc rảnh rỗi, chờ đợi ngày thứ 12 kết thúc. Hôm đó tôi đi chợ, tâm trí trống rỗng, tôi để râu từ ngày đầu tiên nhịn ăn. Để râu ria xồm xoàm đi chợ, tôi còn chẳng quan tâm tới việc bị chê rằng thanh niên mà râu ria không cạo. Tôi đứng giữa chợ, người lúc này nhẹ như ăn nấm, cảm giác trời đất và con người như chảy xuyên qua tôi vậy. Tối hôm đó tôi ngồi thiền, ngồi 5 phút tôi đã lên 9 tầng mây, hiệu ứng tới rất nhanh và rõ ràng. Dĩ nhiên những trạng thái tôi đạt được ở ngày thứ 12 nó sẽ cứ tiếp tục và kéo dài 24 giờ một ngày. Bởi nó thuộc nội sinh, không phải ngoại nhập. Mức độ tỉnh thức cực kỳ cao, tôi chỉ ngủ vài tiếng một ngày nhưng vẫn khoẻ, một lần nhịn ăn giải độc tuyệt vời. Sau này nhịn ăn trở thành một nghi thức quan trọng trước khi thực hiện nghi lễ ăn nấm, ít nhất 3 ngày trước khi tôi thực hiện nghi lễ. Dĩ nhiên kèm theo một số thảo dược đặc biệt để dùng chung với nấm, nhưng tôi xin phép giữ bí mật, tôi chỉ kích thích sự tò mò thôi. Ăn bao nhiêu nấm khi thực hiện nghi lễ tôi cũng xin phép giữ bí mật.
2. Giấc mơ thực (lucid dream) – Thức tỉnh trong cơn mơ
Vào năm 1988, Snyder & Gackenback tiến hành khảo sát về lucid dream và kết quả là 20% báo cáo rằng họ vẫn hay có lucid dream (ít nhất một lần /tháng), và 50% nói rằng họ đã có lucid dream ít nhất một lần trong đời. Khi bạn biết mình đang mơ, lúc đó bạn sẽ đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Bạn sẽ bối rối, bắt đầu đặt câu hỏi về thực tại thật sự. Bởi khi tỉnh trong mơ, sự sống của bạn gần như vĩnh hằng. Ban ngày bạn sống, ban đêm bạn vẫn sống, dường như không có giới hạn cho sự sống của bạn. Trong mơ nó có cái gì, thế giới trong mơ ra sao, chỉ có cách bạn tự tìm hiểu thôi. Vì nó không giống như việc nhịn ăn. Một ngày có 24 giờ, bạn tỉnh thức 12 giờ, 12 giờ còn lại bạn ngủ, bạn đi vào trong bản thể mình. Vì lý do nào đó, người ta sửa giấc ngủ còn 8 giờ, để bạn thiếu ngủ, ngủ thật say, để quên đi cái bên trong bản thể mình. Với giấc ngủ 8 giờ, người ta cố làm cho 16 giờ tỉnh thức trở thành thực tại quan trọng. Nếu một đời người dài 60 năm, 30 năm để ngủ trong tỉnh thức, 30 năm để tỉnh thức, thì có lẽ thực tại thật sự cần phải suy nghĩ lại. Dĩ nhiên không có gì miễn phí, tỉnh trong mơ cần có kỹ thuật cao, mức độ thuần thục, hoặc thêm ít thảo dược.
3. Thiền định
Ngồi thiền thôi, ngồi xếp bằng, nhắm mắt quên đi, cái gì tới nó tới. Thiền là con đường thức thần tối thượng thừa. Không một hoá chất gây tê gây phê nào qua được Định. Cũng không có bất kỳ hóa chất nào đưa người ta vào trạng thái Định, trạng thái đi vào trong bản thể tâm thức. DMT, LSD, những thứ chỉ đưa người ta ra ngoài, độ “phê” tôi cũng nói khách quan một chút, như muỗi so với voi vậy. Con đường dẫn tới Thượng Đế, dĩ nhiên nó phải khó khăn nhất. Bạn phải đối phó với việc mình ăn gì, uống gì, chất độc trong người bao nhiêu. Cảm xúc, dục vọng, tâm trí, tư tưởng như thế nào nó đều ảnh hưởng tới việc bạn có thể nhập Định hay không. Nếu hút một hơi DMT bạn trip trong 10 – 15 phút, tôi nghe nói vậy, tôi cũng chưa thử qua DMT nhân tạo, tôi chỉ thích DMT tự nhiên trong giấc mơ thực, thì Định khiến người ta phê tính bằng năm, nếu người ta chịu ngồi. Giống với giấc mơ thực, khi vào Định tâm trí phải vắng lặng tuyệt đối, nếu không muốn bị đá ra ngoài. Bởi khi gặp Thượng Đế, người ta chỉ được phép chiêm ngưỡng, nhìn, nghe, không một chút phán xét, một chút suy nghĩ nào được khởi lên khi gặp Thượng Đế.
4. Tự nhiên
Thức thần diễn ra một cách tự nhiên, không thông qua bất kỳ hình thức nội sinh hay ngoại nhập nào. Một người sống theo Chân – Thiện – Mỹ sẽ đạt được trạng thái thức thần, chỉ vậy thôi. Không trúng độc vật lý lẫn tâm trí, một cơ thể với tâm trí trong suốt. Người ta hay gọi với nhiều tên như Thánh, Thiên Thần, sứ giả hay đại khái vậy. Trường hợp này hiếm, nhưng vẫn có. Thực hành rất đơn giản.
Thức thần “sạch” không chỉ giúp người ta khoẻ mạnh, nó còn giúp gia tăng trí tuệ, sự sáng suốt. Không phê lòi kèn, không bước chân nọ xọ chân kia. Người thức thần sạch họ không biết họ đang thức thần đâu, bởi nó diễn ra 24 giờ một ngày, cho tới lúc họ quá quen như vậy. Còn thức thần “không sạch”, bạn không thể dừng lại giữa chừng được, Chúa không giải cứu cho bạn được. Nó tới quá đột ngột, người ta dễ bị sốc, nó không diễn ra từ từ như tự nhiên. Người ta gọi là thức thần, nhưng làm gì có thức thần. Linh hồn vẫn trực diện 24 giờ một ngày, chẳng qua bị mê mờ, nay đánh thức nên sốc thôi.
722 trang, sách khoa học, lúc mới xem qua cuốn Lược sử vạn vật là tôi đã thấy e ngại cho việc đọc của mình. Không phải vì nó dày cộp mà vì cảm giác đầy ứ trong quãng đời đi học phổ thông và đại học của tôi ùa về với rất nhiều những bài thi, bài vấn đáp về các tầng khí quyển, chu kỳ bán rã của các chất phóng xạ hay số vi khuẩn chen chúc nhau trong một viên đất. Nên dù được mua cách đây vài tháng bởi sự cao hứng nhất thời, cuốn sách rất thành công của Bill Bryson vẫn bị tôi để xó không dám chạm vào.
Và đến hôm nay, sau khi đọc xong nó, tôi mới nhận ra cảm giác dè dặt trước kia là một trong những đánh giá hồ đồ, trẻ con nhất mà tôi từng có.
Về nội dung, Lược sử vạn vật trình bày một cách ngắn gọn lịch sử nghiên cứu khoa học tự nhiên, những thành tựu khoa học trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên chính. Đây là cuốn sách khoa học phổ thông bán chạy nhất nước Anh năm 2005 với hơn 300.000 bản in. Nó đã được nhận xét bởi nhà phê bình người Anh, Craig Brown, rằng tác phẩm này xứng đáng bán được 500 tỷ cuốn (bằng với số proton có trong một dấu chấm câu.)
Không hề giống như những sách khoa học khác, Lược sử vạn vật kể câu chuyện từ những hạt nguyên tử đến những dải ngân hà, từ những con vi khuẩn đến những bầy khủng long một cách vô cùng duyên dáng, thông minh và hóm hỉnh. Bằng vô số những so sánh những hiện tượng khoa học với những điều bình dị gần gũi của đời sống thường ngày mà những thông tin trong sách được đón nhận trong sự thích thú. Khi đọc Lược sử vạn vật, trí tưởng tượng của tôi được mở rộng liên tục cũng không khác gì khi xem một bộ phim khoa học viễn tưởng.
“Chỉ cần chệch đi một li khỏi những mắt xích tiến hóa này, giờ đây có thể bạn đang liếm tảo trong các hang, lang thang như những con hải mã trên các bãi đá ven biển, hay phun không khí từ một lỗ thở trên đỉnh đầu trước khi lặn sâu 60ft để đớp một miệng đầy sâu biển.”
Hay:
“Vì thế tôi có thể nói rằng nó (hằng số Avogadro) tương đương với số hạt bỏng ngô cần thiết để bao phủ toàn bộ nước Mỹ dưới độ sâu 9 dặm. Đó cũng là số các đồng xu Mỹ đủ để khiến tất cả mọi người trên thế giới này trở thành triệu phú đô-la.”
Thay vì xếp hàng đánh số, gạch đầu dòng những thông tin cơ bản về thế giới một cách tẻ nhạt, Bill Bryson biến hóa tất cả khối thông tin khổng lồ vào trong một cuộc hành trình phát triển của thế giới – nơi mọi thứ đều có sự liên kết nhịp nhàng. Ta có thể được chứng kiến câu chuyện về sự nhẫn nại của đám địa y, sự mưu mẹo của lũ vi khuẩn, sự duyên dáng của hệ mặt Trời và bên cạnh đó là sự lập dị đến mức điên rồ của các nhà khoa học đang nghiên cứu những thực thể đó.
Tôi đã rất ngạc nhiên khi người viết nên cuốn sách này lại không phải một nhà khoa học. Ông Bill Bryson chỉ đơn thuần có một sự tò mò to lớn với thế giới và muốn trả lời những câu hỏi của bản thân mà những cuốn sách giáo khoa không hề đề cập tới, hoặc có thì chúng lại chẳng hề đúng như thực tế. Với hơn ba năm vùi đầu vào các tác phẩm khoa học và thảo luận với nhiều nhà khoa học tên tuổi trên thế giới, Bill Bryson đã tìm ra được những đáp án cần thiết. Khi đọc cuốn sách này, nếu may mắn, bạn có thể nhận được câu trả lời cho một nỗi băn khoăn nào đó của mình, như một cân sắt có thật sự nặng bằng một cân gỗ không chẳng hạn.
Đùa thôi, Bill Bryson không đề cập gì đến vụ cân đong này đâu, nhưng đây cũng là một câu hỏi đáng để tìm hiểu đấy nhỉ?
Cuốn sách này mang văn phong rất linh hoạt, lôi cuốn, cùng sự liên tưởng, so sánh dồi dào. Nhưng nếu bạn không quen với những thuật ngữ khoa học đại cương từ trước thì Lược sử vạn vật sẽ vẫn là một món “nặng đô” khó nuốt. Nếu muốn nắm bắt triệt để những gì tác giả đang cố gắng tường thuật hoặc mỉa mai, bạn sẽ phải liên tục xoắn não với hàng loạt các định luật, lý thuyết, khái niệm, nguyên lý từ đủ các bộ môn vật lý, toán học, sinh học, hóa học, địa chất, khí tượng thủy văn, hải dương học; cùng với đó là hàng tá tên tuổi những nhà khoa học mang đa dạng tính cách và số phận nối từ năm này sang năm nọ như một hội thi tiếp sức. Quả thực, mới hình dung như vậy thôi đã đủ thấy được sự khổng lồ về thông tin của cuốn sách và bộ óc lỗi lạc của tác giả trong việc sắp xếp và xử lý chúng để đưa đến độc giả một sản phẩm sống động.
Trước kia, hồi còn đi học cấp hai, tôi thường theo dõi những những cuốn truyện, tạp chí hay chương trình TV kể về cuộc đời của những nhà khoa học, giải mã các hiện tượng tự nhiên hay khám phá thế giới động vật hoang dã. Sau này khi lên đại học, theo đuổi một ngành khoa học tự nhiên, đôi lần may mắn tôi cũng gặp được những giảng viên mang trong mình niềm say mê với thế giới. Vào những tiết học ngắn ngủi, họ đã truyền cảm hứng cho những sinh viên qua những câu chuyện về mối liên quan giữa entropy và tính kỷ luật của con người, sự tương đồng giữa việc ghép đôi của các electron trong obitan và tình yêu nam nữ, hay đơn giản họ lý giải sắc đỏ của hoàng hôn từ đâu mà thành khiến sau này tôi thích ngắm mặt trời lặn hơn bao giờ hết. Có thể nói, tình yêu và sự tò mò với thế giới trong tôi đã được cuốn sách này khơi lại không hề nhỏ.
Thật sự, thế giới này rất đẹp đẽ, màu nhiệm, và khoa học là một lĩnh vực vô cùng quyến rũ. Nhưng khi mục đích của người đến trường là đạt được điểm số lớn hay cầm trên tay tấm bằng đỏ để đệm lót cho một sự tiến thân về mặt xã hội thì những sắc màu sống động của khoa học ở trong những cuốn sách giáo khoa hay giáo trình không còn được chăm chút nhiều nữa. Những công thức được người ta học thuộc một cách máy móc để hòng tính cho ra nhanh nhất kết quả sinh năng lượng của một bước nhảy electron hay sự thay đổi chiều dài tương đối của một đoàn tàu khi nó dịch chuyển với vận tốc bằng 60% tốc độ ánh sáng. Rồi họ vội vàng khoanh tròn đáp án A hoặc C gì đó trước khi huy động một công thức tiếp theo trong trí nhớ. Dần dà, khoa học bị mang tiếng rằng khô khan, tẻ nhạt, và thế giới hữu hình này chẳng còn mấy ai ngắm nhìn say sưa nữa.
Đọc cuốn Lược sử vạn vật, tôi thật sự thấy xúc động, không chỉ bởi sự kỳ vĩ và bí ẩn của thế giới, hay sự hiện diện quý giá với xác xuất cực thấp bản thân, mà còn vì tình yêu lớn lao của tác giả đối với khoa học được thể hiện qua từng trang viết tỉ mỉ đến kinh ngạc. Và sâu trong những câu chuyện là sự khao khát khám phá thế giới tự nhiên cùng ý chí, nghị lực phi thường của con người. Trong quá trình dấn thân ấy, họ đã phải đánh đổi bằng biết bao mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả tính mạng của mình.
Người ta bảo rằng khoa học không thể giải thích được chân lý hay chạm tay vào Thượng đế, nhưng tôi cho rằng nó có thể làm được việc đó, tương tự như văn học, âm nhạc, hội họa hay triết học. Chỉ là, chúng được diễn đạt bằng những công thức – thứ con người khó hình dung hơn so với một lời thơ hay một bức họa. Ví dụ như phương trình nổi tiếng của nhà vật lý người Đức Albert Einstein, E=mc2, được người ta nói rất nhiều ở trong những lớp học hay những giảng đường, nhưng có mấy ai để ý rằng nó ám chỉ về một năng lượng tiềm năng bên trong một con người ngang với sức công phá của 30 quả bom nguyên tử cỡ lớn. Chuyện này cứ như thể Einstein hóa thân vào nhân vật Yoda trong loạt phim Star Wars để nói về Thần Lực (The Force) có mặt trong vạn vật, hay các bậc chứng ngộ nói về tình yêu bên trong mỗi con người – thứ sức mạnh choáng ngợp khổng lồ chưa được khai phóng và tận dụng.
Cá nhân tôi cho rằng nếu tôn giáo nghiên cứu trải nghiệm của con người thì khoa học đi sâu vào trải nghiệm của thế giới. Những nhà khoa học cũng là những shaman – người đang tiến gần hơn với bản chất của thế gian hay của chính mình. Cuốn sách Lược sử vạn vật không chỉ kể những câu chuyện về nguyên tử, vũ trụ, đất đai, đại dương, các loài động thực vật, tổ tiên của con người, v.v… mà còn lồng ghép không ít những chiêm nghiệm sâu xa của tác giả về mục đích, sự vận hành của sự sống và những bằng chứng nhằm trả lời câu hỏi mà con người trên trái đất vẫn đau đầu tranh cãi, đó là Chúa có chơi trò xúc xắc không?
“Và chúng ta tồn tại trong vũ trụ này là vì chỉ trong vũ trụ này chúng ta mới có thể tồn tại.”
Nếu chỉ được dùng một từ duy nhất để mô tả cuốn sách kinh điển này thì tôi chọn từ “vĩ đại.” Không chỉ ở tầm nhìn hay sự hiếu kỳ của tác giả, mà còn ở trong chính đối tượng mà ông đã “liều lĩnh” kể chuyện – thế giới. Cuốn sách vĩ đại đến mức đối với ai đang quay cuồng với một vấn đề “to đùng” của bản thân, người đó chỉ cần với tay lật giở vài trang Lược sử vạn vật. Ngay lập tức, họ sẽ vươn mình ra như vũ trụ quảng đại, hoặc vấn đề của họ sẽ thu nhỏ lại như một hạt nguyên tử tí hon. Rồi sau đó, khi đã vui vẻ với kích thước được thay đổi của các thứ, họ sẽ hiểu được thông điệp mà nhà thiên văn học, vật lý thiên văn, vũ trụ học, sinh học vũ trụ, tác giả sách, nhà phổ biến khoa học, nhà phát ngôn khoa học người Mỹ, Carl Sagan muốn nói trong bài phát biểu về cái chấm xanh nhạt (Pale Blue Dot) dưới đây.
Còn tôi, lúc này, ngồi lơ lửng trên mặt ghế với khoảng cách 1 angstrom (1/100,000,000 của 1cm) tại một hành tinh đầy khả kính đã tồn tại 4.54 tỷ năm, thấy mình như vượt lên trên mọi chuyện nhỏ nhặt thường ngày, thấy khả năng xuất hiện giữa vũ trụ của bản thân bằng với khả năng xuất hiện của một vì tinh tú. Dường như tôi có thể chạm tay vào những tia sáng Mặt trời và hiểu được câu chuyện gặp gỡ giữa chúng và những tầng mây phiêu bạt. Tất cả chỉ bằng việc đọc một cuốn sách.
Tôi không thể chấm điểm được tác phẩm kỳ công này, mà chỉ có thể gửi đến tác giả một lời cảm ơn chân thành nhất. Không chỉ bởi vì ông đã gợi mở ra rất nhiều nguồn cảm hứng về việc khám phá thế giới bằng con mắt khoa học, mà hơn tất thảy, với một lòng trắc ẩn sâu sắc, Bill Bryson không quên nhắc nhở độc giả về việc tôn trọng sự sống quý giá của mình và của muôn loài. Hiển nhiên rằng, sự tiến bộ về mặt khoa học không thể thiếu đi sự phát triển tương đương về mặt nhân văn. Có lẽ, đây là nội dung khiến cho cuốn Lược sử vạn vật vượt lên trên tầm mức một cuốn sách khoa học thông thường. Nó không chỉ có kiến thức, mà còn có trí tuệ. Tôi xin kết thúc bài viết này với một đoạn tâm tư trầm lắng của tác giả, sau khi ông vừa trình bày một loạt những thông tin về sự tuyệt chủng của động vật và thực vật trên khắp thế giới do sự tác động của con người.
“Tôi đề cập tất cả những điều này vì muốn nói rằng nếu chọn một sinh vật để chăm nom sự sống trong vũ trụ cô đơn này, nhằm dõi theo những nơi nó đang đi tới và ghi lại những nơi nó đã đi qua, hẳn bạn sẽ không chọn con người. Nhưng điều rất quan trọng là: chúng ta đã được lựa chọn, do số phận, do tạo hóa, hay bạn muốn gọi là gì cũng được. Chỉ có thể nói rằng, chúng ta là sự lựa chọn tốt nhất. Cũng có thể chúng ta là sự lựa chọn duy nhất. Thật đáng sợ khi nghĩ rằng chúng ta chính là thành tựu tối cao còn tồn tại của vũ trụ, lại cũng là cơn ác mộng tồi tệ nhất.”
Psychedelics và những tập tục tâm linh là hai trong số những dự án nghiên cứu thực tế của tôi trong hai hơn hai năm vừa qua sau khi trở về Việt Nam. Nhấn mạnh cụm từ “nghiên cứu thực tế” bởi vì tôi sẽ không đề cập nhiều đến những nghiên cứu “khoa học” hay những lý thuyết giấy. Gần như tất cả đều là trải nghiệm bản thân. Các lý thuyết giấy và giấy tờ khoa học, xin mời các bạn Wikipedia hay Google Scholar.
Nếu như Psychedelics, các chất thức thần, cần sa là những điều phương Tây ưa chuộng và tin rằng giúp họ thấy được, hiểu được, và nhìn thấy được những điều mà người thường không thấy thì những tập tục tâm linh như bói toán, tử vi, phong thuỷ được phương Đông sùng bái và mang hết lòng tin.
Mục đích và nguyên nhân tôi muốn nghiên cứu hai dự án này tôi sẽ nói sâu hơn trong những phần sau. Lý do tôi viết những bài này là vì với tôi, tôi đã trải nghiệm đủ về Psychedelics, những tập tục tâm linh và trong tương lai gần, tôi không có dự định tiếp tục, nên tôi muốn chia sẻ những gì đã trải nghiệm và nghiên cứu trong thời gian vừa rồi.
Tuy nhiên tôi muốn bạn hiểu rằng, tôi không sùng bái hay hoàn toàn tin vào tập tục nào cả. Nhưng chắc chắn tôi đã bị ảnh hưởng ít nhiều và thay đổi bản thân trong quá trình nghiên cứu. Bởi vì không ai vào hang cọp bắt cọp và trở ra không trầy xước, và không có cảnh sát ngầm nào vào hang mafia mà không biến chất.
Psychedelics và các chất thức thần trong bài viết của tôi phần lớn sẽ là weed (cỏ, cần sa tự nhiên), LSD, nấm (mushroom), DMT. Các loại kẹo, ma tuý, cocaine hay các chất kích thích khác không phải là những thứ tôi muốn nói đến.
Tôi biết đến Psychedelics và các chất thức thần đầu tiên là khi tôi du học bên Hà Lan. Tất cả mọi người đều nói về “weed”, cần sa, hoặc nấm bởi vì nó hợp pháp, và có một cái gì đó rất bí ẩn và hấp dẫn về nó. Đối với tôi, tôi chẳng quan tâm lắm. Tôi chỉ nghĩ đó là một “văn hoá” mới và chẳng có gì đặc biệt.
Hơn nữa, trong 4 năm ở Hà Lan, những lần trải nghiệm cần sa của tôi chẳng dẫn tới đâu vì… tôi không biết hút. Chỉ cho đến khi gần hết năm 4, gần tốt nghiệp, có đúng một lần, lần đầu tiên tôi hiểu “thứ high” là gì. Mọi thứ rất chậm, lặp đi lặp lại, và tôi nói những điều rất ngớ ngẩn… nhưng rất thật, và tôi cười rất nhiều.
Bạn gái cũ của tôi từng khuyên tôi khi tôi mới sang Hà Lan rằng: “Nếu như anh có sử dụng cần sa, hãy sử dụng với bạn bè thân thiết trong lần đầu tiên.” Đó cũng là lời khuyên của tôi với những bạn có ý định trải nghiệm. Tôi khá may mắn khi “những lần đầu” của tôi đều trải qua với những kỉ niệm đẹp chứ không có “bad” trip.
Bad trip, không giống như “say quắc cần câu” như dân uống cồn hay nói, bad trip đơn giản là một “thứ high” tồi tệ, một chuyến đi tồi tệ. Có thể là nôn ói, khóc lóc, buồn bã cực độ, quay cuồng, và vân vân. Tôi bad trip một lần, khi ở Việt Nam. Và đó là lần khá ngu ngốc.
Mục đích chính tôi nghiên cứu về Psychedelics có lẽ xuất phát từ cuốn sách Flow của Mihaly Csikszentmihalyi, một trong top 5 cuốn sách hay nhất tôi từng đọc. Hơn nữa, Tim Ferriss, một tác giả và nhân vật ảnh hưởng tôi rất nhiều, cũng nói rất nhiều về Psychedelics.
Trong cuốn sách Flow của Mihaly, ông nói:
“Bạn không cần sử dụng các chất kích thích để vào trạng thái flow, trạng thái sống và làm việc một cách mượt mà và hiệu quả.”
Hay hiểu đơn giản hơn, Mihaly nói:
“Bạn không cần Psychedelics để get high. Psychedelics chỉ giúp đảo lộn mọi thứ, và tạo ra ảo giác tạm thời.”
Ngược lại, Tim Ferriss, nghiên cứu, gặp gỡ, trải nghiệm Psychedelics cùng những bậc thầy và nhà nghiên cứu khoa học về ngành Psychedelics bên Mỹ. Tóm tắt, Tim Ferriss nói: “Mày nên thử. Và thử một cách có khoa học và nghiêm túc.”
Tôi nghĩ: “Thôi được rồi, cách duy nhất để hiểu đó là trải nghiệm. Trăm nghe không bằng mắt thấy.”
Đối với tôi, Psychedelics, cần sa, hay các chất thức thần không phải là một thú vui. Nó là một việc nghiên cứu nghiêm túc, và mỗi session là một “chuyến đi” nghiêm túc. Tôi không phải là dạng đi du lịch ngắm cảnh và chill. Tôi “đi” để “khám phá.”
Russell Cobb
Tuy nhiên, tôi không muốn quá khắt khe thời gian đầu. Chúng ta nên ngu ngốc một chút khi còn trẻ, và lớn dần với mỗi trải nghiệm.
Tôi có hai “người dẫn đường, hay nói ngắn gọn là guide. Guide là người dẫn “trip” cho tôi. Mỗi “chuyến đi”, bạn cần có một guide kinh nghiệm, người đã từng trải với Psychedelics và các chất thức thần. Hay hiểu đơn giản, mỗi khi đi phượt, bạn cần có một người dẫn đường kinh nghiệm.
2 Guides của tôi có hai cách trải nghiệm khác nhau. Một người, tôi gọi là Ph, rất khoa học, rất nghiêm túc, nhưng cũng rất chill. Người còn lại, là Z, chill hoàn toàn. Tôi được trải nghiệm cả hai loại chuyến đi khác nhau, và tôi đều thích cả hai. Bạn có thể đi để khám phá, hoặc đi để chill, ít nhiều bạn sẽ học được một điều gì đó mới. Tuy nhiên, tôi vẫn khuyên bạn nên “trip” một cách có khoa học và nghiêm túc.
Lần đầu tiên tôi trip với Ph, cậu ấy gửi tôi tài liệu đọc kỹ trước, những gì tôi phải chuẩn bị, cộng hiểu biết cần thiết về Psychedelics và trip. Với tôi, tôi luôn tìm hiểu ít nhiều về những sự thực hành trước khi quyết định tham gia. Tất nhiên là tôi không đọc nhiều lắm đâu, bởi vì khi bạn nghiên cứu và biết quá nhiều trước khi hành động, thường là bạn sẽ không làm, và chỉ giỏi nói về nói thôi.
Tôi khuyên các bạn nên tìm hiểu ít nhiều trước khi thực hành và thử nghiệm Psychedelics và các chất thức thần. Tôi thấy không chỉ ở Việt Nam, mà cả ở phương Tây, Psychedelics và các chất thức thần vẫn còn được sử dụng một cách bừa bãi, và mang tính “nghệ thuật.”
Tất nhiên là không có gì sai cả, vì Psychedelics không phải như ma tuý. Bạn đi sai, bạn chưa chắc chết. Bạn may mắn, có khi lại tạo ra một “tác phẩm nghệ thuật.” Tuy nhiên, nếu Psychedelics tràn lan và không được thực hành và trải nghiệm đúng sau này, rất dễ dẫn đến những ảo giác, bad trip, cũng như những cái nhìn xấu mà Psychedelics không đáng có.
2. Bạn đã sẵn sàng chưa?
Tưởng tượng bạn nhảy dù ở độ cao hàng ngàn mét, hoặc tàu lượn đang lao ở tốc độ cao, chắc chắn bạn sẽ không còn là chính mình như khi ngồi ở nhà cầm điện thoại lướt FB hay ở trường học, công ty chán nản với công việc của mình. Mọi giác quan của bạn sẽ kích hoạt tột độ, hay hiểu đơn giản, bạn thức tỉnh. Và tất nhiên, đây vẫn chỉ là 50% những gì giác quan của bạn có thể thấy, bởi vì bạn vẫn chỉ nhìn thấy những thứ ở bên ngoài giác quan.
Nếu như các giác quan của bạn nhìn vào bên trong, cảm giác nó sẽ như thế nào? Đó là lúc Psychedelics xuất hiện. Psychedelics là tấm vé lên tàu bay của bạn khám phá thế giới bên trong, thế giới bên ngoài, và cả những thế giới bạn không thể thấy.
Nếu như Thiền là phương pháp luyện tập tự nhiên để chúng ta có thể quan sát thế giới bên trong, bên ngoài, và vạn vật xung quanh, thì Psychedelics như khi chúng ta đeo kính VR vào và cảm nhận mọi thứ một cách nhanh nhất, và không mất công phải đi đâu, luyện tập gì cả. Nếu như bạn sẽ phải mất chục năm luyện tập Thiền liên tục để có thể kích hoạt hết tất cả các giác quan, thì Psychedelics sẽ làm điều đó trong 30 phút.
Tuyệt vời phải không? Không hẳn. Không có gì là miễn phí, và khi đã đụng đến tâm linh, tất cả mọi thứ đều công bằng.
Có bao giờ bạn đi du lịch đến một đất nước tuyệt vời và khi trở về nơi bạn sinh sống, bạn cảm thấy nơi mình ở thật nhàm chán hoặc quá xấu xí? Sau khi xài Psychedelics xong, bạn sẽ như rơi từ chín tầng mây xuống hố sâu. Bạn nhận ra cái thế giới bạn đang sống nó xấu xí và đôi khi, tầm thường, nhàm chán đến cỡ nào. Thiền thì không. Nhưng tôi sẽ không nói về Thiền trong bài này.
Vậy thì tại sao lại sử dụng Psychedelics và sử dụng như thế nào?
Một trong những điểm chung của Thiền và Psychedelics, và cũng là bước đầu tiên cả hai việc thực hành tác động lên chúng ta đó là chúng tắt hết bộ não “hàng ngày” của các bạn. Đây là một trong những lợi ích lớn nhất mà các nhà khoa học ngành Tâm lý học và ngành Psychedelics phát hiện ra. Nó cũng là “tác động” ít nguy hiểm nhất mà các nhà khoa học có thể chấp nhận được. Đó cũng là lý do việc dùng cần sa trồng tự nhiên để sử dụng cho các liệu pháp tâm thần ngày càng được ưa chuộng, hơn là các liều thuốc an thần.
Cần sa tự nhiên, hay thường được biết tới là cỏ dại (weed), cũng là một loại cỏ cây, nếu sử dụng ngôn ngữ của phương Đông, thì nó là một loại thảo dược “Tây y.” Cần sa mọc với các yếu tố tự nhiên, ánh nắng mặt trời, nước, gió, và sỏi đất. Duy chỉ là, khác với những loại cỏ tự nhiên khác, lá cần sa có những tác dụng đến thần kinh của chúng ta. Trong các loại Psychedelics, cần sa (weed) có lẽ là loại chất thức thần tự nhiên nhất, an toàn nhất, và có thể sử dụng kèm với Thiền để tăng các khả năng luyện tập tâm linh.
Nói vậy để biết các chất Psychedelics khác như LSD, DMT cũng là từ tự nhiên nhưng là các chất Psychedelics chiết xuất tổng hợp từ nguồn gốc tự nhiên, chứ không phải xài trực tiếp như cần sa hay nấm.
Nếu như các bạn mất ngủ, hay suy nghĩ nhiều, căng thẳng tột độ, bồn chồn lo lắng, tâm thần bất ổn, một microdose của cần sa có thể giúp thư giãn bộ não của bạn, thư giãn các dây thần kinh, giúp bạn trở về trạng thái nhẹ nhàng, bình tĩnh, và dễ ngủ (và phải chọn đúng loại cần sa.) Microdose, tức một liều nhỏ, khác với Macrodose, một liều lớn. Khi bạn mới xài Psychedelics, bạn chỉ nên bắt đầu với một microdose, tức một trip nhỏ.
Cũng giống như các bạn du học sinh chưa đi du lịch bao giờ, lần đầu các bạn đến một nền văn hoá xa lạ như Mỹ hay Châu Âu, tức là các bạn đang xài macrodose. Các bạn rất dễ bị shock “văn hoá” nặng, hay từ ngữ của Psychedelics, bạn sẽ có “bad trip.” Bad trip tôi đã giới thiệu trong phần 1.
Microdose giúp bạn làm quen với Psychedelics, giúp bạn có một chuyến đi nhẹ nhàng, tìm hiểu các nền “văn hoá” gần, chuẩn bị cho một “trip” lớn. Làm sao để biết thế nào là một Microdose? Có hai cách chính, một là bạn phải có một Guide, như tôi đã giới thiệu trong phần 1, và hai là bạn phải tìm hiểu.
Guide, “người dẫn trip”, sẽ biết liều lượng phù hợp với bạn, cũng như kiến thức cá nhân sẽ giúp bạn. Microdose với mỗi người là khác nhau. Có người với cùng một microdose có một chuyến đi tuyệt vời, có người vẫn nôn ói “bad trip” là chuyện bình thường. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thần kinh bạn có mạnh không, bạn có ăn uống gì trước khi trip không, vân vân.
Ví dụ, một microdose khi sử dụng cần sa có thể là 1 đến 2 hơi cho lần đầu tiên, hoặc nếu LSD thì là 1 góc tam giác nhỏ tầm 5mm (0.5cm).
Macrodose, hay big trip, là những “chuyến đi” lớn, những bước nhảy lớn. Như tôi có nói, nếu bạn từng rời xa gia đình, đi du học, hoặc đi học, đi làm ở xa, hay đi phượt, đi bụi tới một nền văn hoá hoàn toàn khác với nơi bạn sinh ra và lớn lên, tức là bạn đang có một “cú nhảy định mệnh.”
Ít hay nhiều, sau những cú nhảy lớn như thế này, bạn sẽ “chết” ở bên trong, và bạn sẽ không nhìn thế giới như cũ nữa. Khi bạn đã đi đến một nền văn hoá khác, nhìn mọi thứ bằng ánh mắt khác, học cách mưu sinh, tự lập, và học cách sinh tồn, bạn sẽ “thay đổi”, lớn lên, và học cách cảm nhận mọi thứ theo cách khác bình thường. Trong Psychedelics, nấm, LSD, và DMT là các lựa chọn cho “chuyến đi” lớn đó. Trong đó, DMT thường được coi là “last trip”, chuyến đi lớn cuối cùng – cái chết ngắn.
Và tất nhiên, lần đầu đi “big trip”, hãy nên có một “người dẫn trip.” Nếu không, bạn sẽ đánh cược 50-50 cho sự sống của mình. Bạn sẽ không chết theo nghĩa đen, nhưng có thể bạn sẽ không bao giờ muốn trở lại một lần nữa.
Tôi hiểu được điều này vì tôi đã từng đi du học mà không có một người dẫn trip đúng nghĩa. Cảm giác sẽ rất kinh khủng khi một mình bạn phải đối chọi với mọi thứ trong sự cô đơn. Trong Psychedelics cũng vậy, tuyệt đối không nên “big trip” một mình nếu bạn không tự tin về khả năng kiểm soát thần kinh của mình, cũng như cuộc sống của bạn đang không phải ở trạng thái tốt nhất.
Có một lần tôi “big trip” trong trạng thái cơ thể không phải là tốt nhất, và tôi đã cảm thấy choáng váng, suýt ngất xỉu vào sáng hôm sau. Nếu sau khi big trip xong và bạn cảm thấy không được không được khoẻ, hãy nghỉ ngơi, và đừng hoạt động hay đi lại mạnh.
Với Microdose, các bạn có thể sử dụng hàng ngày, hoặc hàng tuần, hay theo tháng. Với Macrodose, mỗi trip nên cách nhau khoảng 6-12 tháng để bạn có thể “tiêu hoá” hết lượng thông tin và hình ảnh bạn nhìn thấy. Với tôi, microdose hàng tuần là hợp lý nhất, và macrodose nên cách nhau tầm 12 tháng.
Hiểu rõ về Microdose và Macrodose để các bạn lựa chọn liều lượng cũng như cách xài hợp lý với bản thân. Mục đích bạn xài là gì? Thể trạng của bạn như thế nào? Thần kinh bạn có tốt không? Bạn muốn khám phá điều gì?
Cũng như khi bạn quyết định di du học hay đi làm xa. Nếu bạn chưa xác định được mục đích đi để làm gì, hoặc ai đó bắt ép bạn phải “đi”, tôi khuyên bạn có hai lựa chọn:
1) Hãy nói không, và suy nghĩ kĩ hơn. 2) Fasten your seatbelt, and get ready for the trip of your life. (Thắt đai an toàn, và đừng ngoảnh đầu lại.)
3. Chuyến đi cuộc đời
Psychedelics chính là cỗ máy thời gian mà cả thế giới đã tưởng tượng và kể về nó trong truyền thuyết. Psychedelics cũng chính là tàu vũ trụ đi xa hơn bất kì nơi đâu bạn có thể tưởng tượng được. Nhắm mắt lại, và trong 5 giây, tôi đã trở về với tuổi thơ của mình. “Cho tôi một vé đi tuổi thơ.” Chẳng phải chúng ta muốn vậy sao? Bạn sẽ nhìn lại hết những gì đã từng xảy ra với bản thân. Tất cả sẽ lặp lại trước mắt của bạn.
Bạn là ai? Bạn đã thay đổi thế nào? Con người nào chính là bạn? Bạn sẽ có câu trả lời cho riêng mình. Hay đơn giản là bạn chẳng cần câu trả lời gì cả, mà chỉ muốn khám phá một thế giới mới.
Psychedelics, cần sa, và những “chất kích thích” mang một tiếng xấu, đó là “nghiện.” Điều này đúng và không đúng. Không đúng bởi vì thực sự nó không phải chất gây nghiện. Ngược lại, các loại chất kích thích mạnh như ma tuý đá, cocaine hay các loại kẹo tổng hợp, có hàm lượng gây nghiện rất cao.
Psychedelics, cần sa tự nhiên, với hàm lượng phù hợp và sử dụng có trách nhiệm, sẽ kích thích hoạt động của não, kích thích sự sáng tạo, cũng như được sử dụng cho các công dụng thư giãn, giảm stress (trong Phần 2.) Đúng là Psychedelics và cần sa có khả năng gây “nghiện.” Nhưng không phải nghiện chúng, mà chúng ta nghiện khám phá, nghiện chạy trốn thực tại hay nghiện quá khứ và tương lai.
Khi thế giới không còn hoang dã, và đầy khám phá như thời tiền sử, chúng ta sống trong một vòng tròn cuộc sống, trong những toà nhà cao tầng, lặp đi lặp lại những kiến thức giấy vở từ đời này qua đời khác. Chúng ta đi đến những vùng đất mới với chiếc điện thoại, máy ảnh trên tay, sẵn sàng up ảnh “mạng xã hội”, khi hiện tại quá nhàm chán, và có vẻ như mọi thứ lặp đi lặp lại không lối thoát.
Psychedelics sẽ giải thoát bạn, giải thoát những giác quan, giải thoát những “luật lệ” và “định nghĩa” về thế giới xung quanh mà bạn bị nhồi vào đầu từ bé đến lớn. Bạn có chắc là bạn đã hiểu và nhìn thấy hết những gì bạn đang thấy? Hay tất cả chỉ là những gì người khác bảo nó phải như vậy? Lý do các nghệ sĩ sử dụng các chất kích thích đơn giản bởi vì họ không thể tìm thấy sự sáng tạo trong thế giới hiện tại – thế giới của những bộ máy, của những chuỗi và hệ thống, của sự tôn thờ các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Một trong những lý do lớn nhất Psychedelics, cần sa từng hợp pháp và sau đó bị giới hạn dần bởi vì những bộ máy không muốn con người thức tỉnh và nổi loạn, cũng như không muốn con người “lười biếng”, như vậy sẽ dễ kiểm soát và tốt cho kinh tế hơn. Nhưng các nhà khoa học và nhà kinh tế cũng phát hiện ra Psychedelics và cần sa không nguy hiểm đến tính mạng như các chất kích thích mạnh khác, và lại “tốt cho kinh tế”.
Chính bởi điều này mà việc hợp pháp hoá hay không hợp pháp hoá Psychedelics và cần sa vẫn đang là vấn đề tranh cãi như hôn nhân đồng giới vậy. Có những nơi hợp pháp, và có những nơi không, tuỳ vào “văn hoá”, tôn giáo, và nền chính trị của quốc gia đó.
Đúng là nếu sử dụng Psychedelics không có trách nhiệm và không có liều lượng điều độ, chẳng khác nào bạn là bợm nhậu, hay kẻ nghiện game không hơn không kém. Bạn không thể thoát ra được thế giới ảo và không dám đối mặt với thế giới thực.
Nước Mỹ từng muốn cấm việc kinh doanh rượu, thuốc lá, cần sa, và mới đây là súng, nhưng tất cả đều là tranh cãi và đều không thành công. Chúng có lợi cho kinh tế, một hình thức thư giãn, giảm stress, hoặc là một hình thức tự vệ. Tất cả phụ thuộc vào trách nhiệm sử dụng của mỗi cá nhân.
“If it doesn’t break, don’t fix it.” (Nếu nó không hư, đừng sửa.)
Việc của chính phủ đó là nếu như những vấn đề nào gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quốc gia, sức khoẻ và an toàn của người dân, họ sẽ phải đưa ra những điều luật mới để ngăn chặn. Ma tuý, mại dâm, kẹo cao su, mỗi đất nước định nghĩa cho riêng họ sản phẩm nào là tội ác và không phù hợp với văn hoá và tôn giáo chính của quốc gia.
Psychedelics, cần sa chắc sẽ phải mất mấy chục năm nữa mới được chấp nhận ở Việt Nam, hoặc có thể không bao giờ. Bây giờ chỉ cần một bài báo nói các bạn trẻ xài kẹo hay ma tuý và chết hay ngất xỉu ở các bữa tiệc cũng đủ đến người ta e ngại về các chất kích thích.
Nhưng họ phải phân biệt được các loại chất kích thích, nguồn gốc và tác động của nó. Để cần sa có thể hợp pháp ở Hà Lan hay Mỹ không phải dễ, và vẫn cần sự kiểm soát chặt chẽ từ chính phủ. Dù gì đi nữa, tôi vẫn buồn là thuốc lá, rượu bia, súng ống được hợp pháp trong đa phần các quốc gia trên thế giới, trong khi một thứ khiến con người vui vẻ, yêu đời, yêu người và trả họ về với tự nhiên lại là một thứ “nguy hiểm.”
Bản thân tôi không thích sử dụng các chất kích thích, từ rượu bia cho tới Psychedelics. Việc sử dụng Psychedelics và cần sa là một trải nghiệm khó quên, nhưng đối với tôi, chặng đường đến với Psychedelics và cần sa tạm dừng ở đây. Mục tiêu của tôi vẫn là làm sao sống một cuộc sống “high” tự nhiên, với mỗi “thứ high” không chán nản, sợ hãi khi nghĩ về việc đi làm, và trở lại thực tại sau một cuối tuần nghỉ ngơi.
“High”, một cảm giác sống một cuộc sống trong mơ, như mơ, nhưng tất cả mọi thứ là thật. Đó mới là mục tiêu đáng sống. High trong công việc khi làm những thứ mình yêu thích. High trong các mối quan hệ khi tất cả những gì cho đi là tình yêu, và không nghi ngờ. High trong những phút giây cuộc sống, khi mỗi người, mỗi sự kiện, mỗi khung cảnh chúng ta gặp đều đáng để chúng ta nhìn và trân trọng kĩ hơn.
Có lẽ cái duyên đến với Psychedelics cũng giúp tôi nhìn thấy rõ hơn thế nào thực sự là “high”, là biết nhìn thế giới khác đi, hiểu hơn về các giác quan, hiểu hơn về cách “thả lỏng” và thực sự thư giãn. Tiền không thể mua được hạnh phúc. Psychedelics cũng vậy. Chẳng có gì mua được hạnh phúc. Tất cả những gì chúng ta mua được là những công cụ, một sự “high” ngắn hạn để quan sát sự hạnh phúc rõ hơn trong chốc lát mà thôi.
Đừng bao giờ quên những gì làm mình thực sự cảm thấy hạnh phúc trong cuộc sống này, từ lúc còn bé cho tới gần đây. Hàng ngày, chúng ta đều có thể lựa chọn làm những việc, gặp những con người khiến bản thân hạnh phúc cho tới cuối đời. Make bold, daring choices.
This life is a big trip. And you will see it all once again at your last breath. Make sure it’s god damn great movie. No regret. No wishy washy. No coming back. It’ll be over before you know it.
🧠 [Hỏi-Đáp] Làm sao để kết nối với Thượng Đế?
🧠 [Bài dịch] Nhựa là nguồn khí thải nhà kính khổng lồ lâu nay chúng ta không biết
🧠 [Bài dịch] 25 tựa phim cực đỉnh (có thể) bạn chưa xem
🧠 [Bài dịch] Elon Musk: “Hãy nhớ lời tôi, A.I nguy hiểm hơn nhiều so với vũ khí hạt nhân.”
🧠 [Truyện dài] Người chém cá kình – Hồi 3 | Hai Le
🧠 [Truyện dài] Tuổi trẻ cô đơn – Chương 1 | Ni Chi
🧠 [Truyện ngắn] Cô Bé Hạt Tiêu – Quyển 2, Tập 3 – Lễ thành hôn của Tanna và Hulk | Vũ Thanh Hòa
🧠 [Thơ dài] Thiên đường trần gian – Phần 3 | Vũ Thanh Hòa
🧠 [Triết lý] Đứa bé bên trong bạn giờ đang ở nơi đâu? | Nguyễn Hồng Quý
🧠 [Zen Pencils] John Green – Làm thế nào để trở thành một nhà văn (hay bất cứ ai)?
“Đa số mọi người đều có cuộc sống nằm trong khoảng thước bậc từ tệ nhất là đau đớn cho tới tốt nhất là đơn điệu, nghèo nàn và giới hạn. Mong muốn được thoát ra, khát khao được vượt lên bản thân dù chỉ trong một vài khoảnh khắc, đã và đang luôn là một trong những mong mỏi cốt lõi của linh hồn.”
– Aldous Huxley, The Doors of Perception and Heaven and Hell, Trang 6
Đã khá lâu rồi tôi không còn cảm hứng cho những bài review về sách hay phim nữa. Khoảng chục bộ phim gần đây tôi xem toàn là những phim rất có tiếng vang như Fight Club, Mr.Nobody, Old Boy, Forrest Gump,… Nhưng những triết lý trong các bộ phim tôi đã được chiêm ngưỡng từ khá nhiều bài review, nên sau khi xem xong chúng, tôi thật sự chỉ biết ngậm ngùi chiêm nghiệm. Không có bất kỳ từ ngữ nào được diễn tả. Lần này, vô tình, tôi tìm một bộ của Netflix để giải trí chứ không nghĩ rằng sẽ xem để dùng nó làm nguồn cảm hứng cho một bài review. Nhưng thật sự sau khi xem xong Bird Box tôi thật sự ngạc nhiên với một bộ phim đầy tinh tế và tỉ mỉ đến từng chi tiết.
Bộ phim mô tả về sự diệt vong của thế giới. Ngày tận thế, mọi người tự tử hàng loạt và dẫn đến viễn cảnh vô cùng xơ xác, hoang tàn. Chỉ còn lại vài người sống sót và họ phải bịt mắt không để mình bị nhìn vào “con quái vật.”
Khi những người còn sống hoảng loạn, họ tìm wifi đầu tiên. Tín hiệu wifi mất, sự kinh hoàng tăng tột độ. Sau đó họ mới nghĩ đến đồ ăn và đi tìm kiếm thức ăn.
Trong căn nhà, mỗi người một hoàn cảnh không ai quen biết ai nhưng nhờ có tận thế họ kết nối với nhau, yêu thương và đùm bọc nhau hơn. Trong phim có câu Malorie nói với Tom khi Tom thổ lộ rằng anh ta thích cô: “Chỉ vì sắp tận thế nên anh mới nói vậy?”
Bởi khi thế giới càng phát triển, sự kết nối giữa con người càng suy giảm. Họ có thể yêu một đôi giày, một chiếc xe, một thứ vật chất hơn một con người. Họ có thể bỏ hàng trăm triệu mua quần áo nhưng khi một người ăn xin cần giúp đỡ thì họ phủi tay làm ngơ. Đoạn này làm tôi nhớ đến bộ phim Her– khi thời kì của trí thông minh nhân tạo lên ngôi. Loài người càng nghĩ mình thống trị thế giới thì càng trở nên ngu ngốc khi bại lụi trên chính công nghệ mà mình tạo ra.
Quay lại bộ phim Bird box. Thật đáng buồn cho những người thích xem phim quái vật, thích ngắm nhìn sự hùng vĩ của những con quái vật. Bởi xuyên suốt từ đầu đến cuối phim sẽ chẳng có con quái vật hữu hình nào mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Con quái vật tác giả muốn đưa vào chính là một con quái vật vô hình: tâm trí – tập hợp các phần nhỏ hơn là suy nghĩ, nhận thức, tưởng tượng,…
Chi tiết Gary lôi những bản vẽ đủ mọi hình thù khác nhau cho thấy hình dạng con quái vật không cố định. Loài người đang bị rất nhiều các con quái vật khác nhau chi phối và dẫn dắt. Nó giống như con quỷ của Napoleon Hill nhắc đến, hoặc bất kỳ con quái vật nào chúng ta có thể tưởng tượng ra được. Nó đại diện cho những nỗi sợ hãi của chúng ta, đại diện cho sự tha hoá của thế giới hiện đại. Và cách duy nhất để không bị “con quái vật” chi phối là phải “bịt mắt”, nhìn sâu vào bên trong chính linh hồn chúng ta.
Chúng ta cảm thấy mình tự do khi có nhiều lựa chọn trong cuộc sống. Mình có thể chọn chơi game này thay vì game kia, chọn mua áo này thay vì áo kia, điện thoại này thay vì laptop kia. Nhưng tất cả những sự chọn lựa tự do đó đều nằm trong sự kiểm soát nhất định. Chúng ta sẽ phải đi làm cái này cái kia để mua cái kia cái nọ. Vui vẻ khi được mua sắm, khi được vui chơi, làm quần quật để mua sự vui vẻ ấy tiếp và bùm đến một ngày chúng ta chết.
Mấy ai sẽ vượt qua được những nỗi sợ hãi, suy nghĩ, tưởng tượng, “con quái vật”, “con quỷ” của bản thân?
Chính là những kẻ tâm thần, chẳng có quá nhiều điều phức tạp để làm, IQ có thể đủ xài hoặc không. Họ chẳng quan tâm quá nhiều về vấn đề của thế giới hay của bản thân, cứ sống ngày qua ngày, vui vui buồn buồn bộc lộ theo đúng cảm xúc.
Chính là những đứa trẻ. Tại sao khi Gary nhìn hai đứa trẻ vừa sinh ra đời nhưng chúng không bị thôi miên? Vì chúng trong sạch như một tờ giấy trắng. Chưa từng bị nhồi nhét bất kỳ điều gì vào tâm trí.
Chính là những người có tâm lý vững chắc như Malorie. Đoạn cuối khi ở trong rừng, con quái vật hiện lên chính là tâm trí của Mal – đầy cám dỗ, suy nghĩ, tưởng tượng, tình cảm. Chúng moi móc điểm yếu của cô nhưng cô đã chống chọi đến cùng bằng cách vô cùng đơn giản là tĩnh lại.
Bạn có đang đọc bài review này, sau khi đọc xong bạn hãy tắt điện thoại đi, lắng nghe mọi tiếng động xung quanh mình và gạt bỏ những dòng suy nghĩ sang một bên. Tĩnh lặng.
Nếu nói sâu về chiều hướng tâm linh thì việc ngồi thiền cũng giống như tất cả những gì Mal trải qua và thế giới trong Bird Box. Những người tâm lý yếu sẽ khó vượt qua những buổi tập đầu tiên bởi việc kiểm soát tâm trí là việc làm cả đời.
Tại sao phải kiểm soát tâm trí? Đôi lúc mình làm một việc mà không biết tại sao mình làm. Tự nhiên làm việc đó mình vui mà không biết tại sao mình vui. Cuộc đời chúng ta sẽ tốt hơn khi nhận biết được những điều mình đang làm và tại sao mình lại làm điều mình đang làm.
Tóm lại, Netflix dạo gần đây rất tuyệt vời, Bird Box là một bộ phim đáng xem. Khi xem, bạn có thể chưa hiểu nội dung phim muốn truyền tải vì nó hơi trừu tượng. Nhưng bên cạnh đó, phim có nhịp độ cao, chuyển cảnh hay và lôi cuốn.
Nhắc đến Marcus Aurelius là người ta nhắc đến vị hoàng đế La Mã cổ đại theo trường phái Khắc kỷ (Stoicism) được nhân dân yêu mến, ngưỡng mộ bởi lòng nhân đức, sự tận tâm, giản dị trong đời sống cũng như trong cách cai trị đất nước. Ông được người đời tôn kính gọi bằng cái tên Ông vua triết gia hay Vị Phật của La Mã. Tất nhiên, bản thân ông không tự nhận mình là một triết gia. Ngay cả ngôi vị Hoàng đế cũng đến với ông một cách bất ngờ.
Review tác phẩm Suy tưởng (Meditations) của Marcus Aurelius
Tác phẩm Suy tưởng (Meditations) của Marcus Aurelius là tập hợp những chiêm nghiệm của ông về tự nhiên, hành vi của con người và những quy luật của cuộc sống. Ông đúc rút những ý tưởng hay suy nghĩ của mình không phải với mục đích để xuất bản và cuốn Suy tưởng vốn dĩ cũng không phải là một trước tác triết học.
Những nội dung trong đây không theo một hệ thống suy luận hay triển khai văn bản nào nhất định mà là những dòng “tự răn” chính mình được Marcus Aurelius tập hợp lại một cách ngẫu hứng – tương tự như nhật ký hay journal. Sau này người đời lưu giữ và đặt tên (gần đây nhất) là Meditations.
Chữ “Meditations” này theo cách hiểu dưới thời đại La Mã cổ đại thì đúng là Suy tưởng, chiêm nghiệm. Còn theo lối tiếp cận hiện đại ngày nay thì nó có nghĩa là Thiền định. Nhưng khi đào sâu quan sát tác phẩm, ta có thể nhận ra không ít những chi tiết Marcus Aurelius mô tả sự thiền, quán chiếu thân thể hay suy nghĩ, và hình dung về cái chết.
“Dù tôi là cái gì, thì cũng là xác thịt với một linh hồn và một trí thông minh bé nhỏ. Ném sách vở đi; đừng để anh bị quẫn trí nữa. Điều ấy không được phép. Trái lại, như thể ngay lúc này đây anh đang hấp hối, khinh thường xác thịt của anh. Một đống hỗn độn nào máu, những mẩu xương, một búi nhằng nhịt dây thần kinh, tĩnh mạch, động mạch.
Xem xét linh hồn là cái gì: không khí, và không bao giờ là cùng thứ không khí ấy, nhưng mỗi khoảnh khắc cứ nôn ra rồi lại nuốt vào. Cuối cùng: trí thông minh. Hãy nghĩ về nó theo cách này: Bạn là một ông già. Không cho phép trí óc bạn làm nô lệ, để nhảy giật lên vì những thôi động ích kỷ, để đá trả số phận và hiện tại, và để ngờ vực tương lai.”
Việc tiếp cận cuốn sách này mang đến cho tôi một cảm giác vừa mới lạ vừa thân mật khi nó trong hình hài một cuốn nhật ký. Chưa kể, đây còn là những suy tư từ một vị vua – người gánh vác trăm công ngàn việc ở địa vị tối cao và có cả thế gian rộng lớn để tiếp quản và cai trị.
Việc ông vẫn dành thời gian để tự quán chiếu và rèn dũa chính mình, cũng như ghi chép lại những chiêm nghiệm cá nhân với một sự thẳng thắn nghiêm túc bậc cao, cho thấy được đức hạnh và tính kỷ luật to lớn của ông. Dường như với Marcus Aurelius, việc cai trị chính mình là điều quan trọng số một cần thực hiện.
Khi đọc cuốn Suy tưởng, tôi có thể hình dung được ông đã noi gương những vị hiền triết tiền bối trong tầm nhìn về mối quan hệ giữa triết học và chính trị. Bản thân hành động tự uốn nắn chính mình của ông đã thể hiện ý chí hòa mình vào triết học và mang triết học để làm lợi cho muôn dân.
Tất nhiên, “triết học” ở đây không được định nghĩa theo lối hiện đại là một bộ môn nghiên cứu những vấn đề cơ bản của con người hay thế giới theo một hệ thống lập luận nhất định. “Triết học” mà Marcus Aurelius đang thể hiện là “tình yêu với trí tuệ.” Chỉ bằng sự tiếp cận tri thức và thông hiểu những quy luật của tự nhiên, một ông vua mới xứng đáng là một người trị vì.
“Đất nước chỉ hạnh phúc khi nhà cầm quyền trở thành triết gia, và triết gia trở thành nhà cầm quyền.” – Plato, Cộng hòa
Dưới dạng một cuốn nhật ký, Suy tưởng có những nội dung để ta hình dung được bối cảnh lịch sử hay nhận ra được những nhân vật ảnh hưởng đến nhân cách, lối tư duy của Marcus Aurelius. Dù theo trường phái khắc kỷ nhưng không phải tất cả những nội dung trong Suy tưởng đều bị tác động bởi nó.
Xu hướng đào sâu vào nội tâm và nghiên cứu chính bản thân mình của Marcus Aurelius là một trong những phản ánh rõ rệt nhất bức tranh thời kỳ tri thức thịnh trị – nền văn hóa Hy Lạp cổ. Tức là khi sinh ra dưới thời này thì anh ít nhiều cũng mang hơi hướng đào sâu vào nội tâm hay vươn mình tìm kiếm ánh sáng trí tuệ.
Dù cuốn sách là tập hợp những suy nghĩ, chiêm nghiệm ngẫu hứng nhưng không có nghĩa là ta không thể tổng kết được những gì mà vị vua triết gia đầu tư quan tâm. Đó là việc trải nghiệm tính thần thánh, những quy luật tự nhiên và việc làm điều đúng đắn nhất của một con người. Suy tưởng như một sự dẫn dắt, sự tự răn mình của Marcus Aurelius.
Ông luôn hướng bản thân tới những giá trị tinh thần cao quý nhất mà một người có thể đạt được. Bên cạnh đó, ông tin rằng mọi sự đã được tự nhiên sắp đặt hoàn hảo và có lợi cho tất cả, những bất hạnh của con người chỉ xảy ra khi họ (mờ mắt) tách mình ra khỏi tự nhiên hay chống lại sự trôi chảy đó.
Từ “logos” được dùng rất nhiều trong tác phẩm này. Trong Thiên Chúa Giáo thì logos được hiểu là Ngôi lời, còn trong cuốn Meditations thì chúng ta có thể tiếp cận từ này theo ý là “Tự nhiên” hay “Đạo.”
Chủ nghĩa khắc kỷ (Marcus Aurelius chịu ảnh hưởng) đang bị hiểu nhầm trong thời đại ngày nay khi bị đánh đồng với sự nghiêm khắc, áp chế hay thiếu hụt cảm xúc. Nhưng khi đi sâu vào cuốn Suy tưởng, ta có thể nhận ra được Marcus Aurelius đang diễn đạt những phần tinh hoa nhất của tư tưởng khắc kỷ là khả năng sống thuận theo tự nhiên, sự biết đủ trong đời sống hay việc sử dụng con mắt trong sáng để quan sát thế giới như đúng nó là.
Bằng lối tiếp cận như vậy, một người có thể đón nhận được vẻ đẹp thuần khiết của thế gian (bao gồm cả những cảm xúc) và chữa trị mọi nỗi thống khổ trong tâm hồn. Những tư tưởng chủ nghĩa khắc kỷ truyền đạt cũng mang hơi hướng tương tự với những tư tưởng cốt yếu trong Đạo giáo. Điều thú vị ở đây là những bậc hiền triết phương Tây và phương Đông cùng hướng về một giá trị nhưng diễn đạt theo những cách khác biệt.
Chưa dừng lại ở đó, Suy tưởng của Marcus Aurelius còn vũ chung một điệu với Đạo Phật khi nội dung đề cập khá nhiều về cái chết, sự tận diệt của thế giới có điều kiện hay chính là tính vô thường của vạn vật. Gần hơn với thời hiện đại, ai từng nghiên cứu tâm linh thông qua những tác phẩm của Osho, Krishnamurti, Eckhart Tolle hay Thích Nhất Hạnh thì có thể thấy dường như họ có sự tương thông tâm trí với vị vua Marcus Aurelius khi nói về về sức mạnh của việc an trú hiện tại, hay mối tương giao thần thánh giữa cái chết và sự thức tỉnh của con người.
Thậm chí, Marcus Aurelius cũng cho rằng cuộc đời là một giấc mơ và sự thức tỉnh trong hiện tại là khả năng duy nhất mang một kẻ đến bản chất thực của hắn và giúp hắn hòa nhập với sự bình an nội tâm, chẳng khác gì ý tưởng trong những kiệt tác điện ảnh The Matrix hay Inception.
“Luôn nhớ rằng mọi vật tồn tại là đã xác xơ ở các rìa mép, và đang chuyển hóa, đang bị vỡ ra từng mảnh và thối rữa. Hay mọi vật sinh ra để chết.”
“Để ý xem mọi vật trôi qua và biến mất nhanh như thế nào – những gì mới lúc này đây đã qua đi. Cuộc sống trôi qua chúng ta như một dòng sông, cái ‘là gì’ nằm trong dòng chảy miên viễn, cái ‘tại sao’ có hàng ngàn biến thể. Không cái gì ổn định, ngay cả cái đang ở đây lúc này. Cái vô cùng của quá khứ và tương lai há hoác trước mắt chúng ta, một kẽ nứt sâu không đáy.”
Việc dịch thuật trải qua hai lần khúc xạ, từ ngôn ngữ Hy Lạp cổ sang tiếng Anh rồi cuối cùng sang tiếng Việt không có nghĩa là những cốt lõi tinh hoa của cuốn Suy tưởng bị bẻ gãy. Có thể ta không đi trực tiếp vào tư tưởng của Marcus Aurelius trong phút giây ông trầm tư chiêm nghiệm, nhưng những ý tứ trong đó vẫn đánh động tới được tâm linh của độc giả.
Vì những điều ông đang truyền đạt là những giá trị thẳm sâu, phần thánh thiêng bên trong con người và song song là những quy luật vận hành của tự nhiên. Có đôi phần tôi cảm thấy khá khó hiểu tương tự như khi đọc Cộng Hòa của Plato vì tư duy đa chiều kết hợp với văn phong thượng lưu xưa cổ và lối nói tượng trưng ẩn dụ của tác giả. Nhưng đó chính là những chi tiết tạo nên phong thái riêng biệt của cuốn sách.
Cuốn Cộng Hòa có sự tiếp cận và triển khai logic, hệ thống hơn trong nội dung so với cuốn Suy tưởng. Nhưng khi xét về lối hành văn thì kẻ tám lạng người nửa cân. Sức sáng tạo trong việc liên kết các sự vật, hiện tượng và con người vào trong một sự diễn đạt triết lý khiến tác phẩm Suy tưởng bay bổng và rực rỡ sắc màu. Người ta không phải đọc một mớ triết lý khô khan; mà họ, trước tiên được đắm mình trong sự diễm lệ, nguy nga của ngôn từ, rồi sau đó hài lòng với sự đau đầu của mình khi phải suy tư về ẩn ý đằng sau đó.
Riêng cá nhân tôi thì học hỏi được rất nhiều từ lối hành văn và việc sử dụng trí tưởng tượng của tác giả. Nếu không biết trước tiểu sử của Marcus Aurelius thì khi đọc cuốn Suy tưởng, tôi sẽ không thể nghĩ rằng người viết những dòng này là một vị vua. Tôi chỉ toàn thấy bóng dáng của một nghệ sĩ, một hiền triết và một bậc chứng ngộ.
Có rất nhiều những câu, đoạn đáng giá cả về mặt triết học và mặt nghệ thuật. Nếu lấy những nội dung tâm đắc trong cuốn sách này in ra đóng thành tranh quote treo tường thì tôi phải sở hữu ngôi nhà của mèo Oggy thì may ra mới đủ sức chứa.
Xuất hiện những ý kiến cho rằng cuốn Suy tưởng thấp thoáng một nét buồn, một sự nhìn nhận bi quan về thế giới khi Marcus Aurelius đề cập nhiều đến cái chết, sự kết thúc của sự kiện thế gian, sự thờ ơ với những lạc thú, danh vọng cuộc đời.
Cá nhân tôi thì không thấy chút buồn nào trong cuốn sách cả, nếu như không nói có những phần đọc lên tôi thấy sự hài hước, châm chích, dí dỏm. Vâng, tất nhiên chúng làm tôi phải bật cười khi tưởng tượng ra Marcus Aurelius ôm mặt đầy bất lực rồi giơ hay tay hướng lên trời cảm thán khi nhận ra sự ngu muội trong nhận thức của con người (hay có thể, của chính mình.)
“Và tại sao chúng ta lại cảm thấy giận dữ đối với thế giới? Cứ làm như nó nhận biết được ấy!”
Hay
“Anh đã hiến tặng, đã giúp đỡ, và người ta đã nhận. Thế nhưng, giống như một thằng ngu, anh vẫn còn muốn đòi hỏi hơn nữa, muốn được đền bù bằng cái tiếng thơm của Nhà Từ Thiện. Tại sao?”
Cuốn sách là tổ hợp những suy tưởng ngẫu hứng, rời rạc, không theo trật tự của Marcus Aurelius, nên chúng ta có thể đọc nó theo bất kỳ cách nào tùy thích – lần lượt từ quyển 1 đến quyển 12 hay giở một trang tình cờ và thưởng thức.
Dù điểm khởi đầu ở đâu, ta cũng có thể tìm thấy được một giá trị nào đó cần thiết cho chính mình vì phủ khắp nội dung là sự thông thái. Cuốn Suy tưởng sẽ thỏa mãn bất kỳ kẻ nào đang lên cơn khát ngôn từ, trí tuệ và sự tưởng tượng. Thiết nghĩ, tôi cũng nên theo chân Bill Clinton đọc cuốn sách này, không phải hàng năm như ông ta nữa, mà là hàng ngày mới được.
Không có gì nhiều hơn bây giờ. Không có cách nào để sống. Không cần sự diễn đạt hay dẫn dắt nào để việc đang sống tiếp tục diễn ra là đang sống. Những gì ta từng nhìn thấy, từng phiên dịch hay lưu trữ chỉ là ảo ảnh chốc lát. Chúng mang đến cho bản thân một sự say sưa mê đắm vào cảm giác rợn ngợp nhất thời: đời là một giấc mơ, đang ở trong một cú trip, sống giữa những vì sao, lơ lửng trong vũ trụ, đoạn tuyệt với cảm giác điều kiện nhân gian, thế giới giả lập, sự vô nghĩa của thời gian, sự sống vĩnh cửu, giao tiếp với Thượng Đế, v.v…
Tất cả mọi thứ đều là những khái niệm, hay được tạo dựng nên từ những khái niệm. Ở đó, ngôn từ hữu hạn được dùng để mô tả những trải nghiệm trực tiếp sống động trong khoảnh khắc – thứ mang tầm cỡ vĩ đại hơn mọi ngôn từ. Nhưng khi những bước chân rực rỡ qua đi rồi thì văn bản phiên dịch ấy vẫn còn lưu trữ lại, nhưng hoàn toàn méo mó và khuyết tật. Khốn thay, ta lại thèm khát những cảm giác cao siêu ấy một lần nữa, ta khẩn cầu được nếm lại những sự màu nhiệm để vượt lên trên nỗi chán chường, hiu quạnh của trần gian. Thế là, ta rút bức tranh biển khơi ra từ trong hốc tủ, liếm láp nó để cảm nhận cơn triều cuồng đánh vào da thịt. Rồi ta rên rỉ như một con chó khi gặm khúc xương bằng bông thân mến.
Một thứ phép thuật mê ly gì đó làm ta phải háo hức động lòng mà chú ý hết mực – sự chú ý vượt ra ngoài những gì đang ngồi im lìm trong hiện tại. Và những động đậy kia trở thành làn sương khói che phủ đi cái đang là, cái bình tâm thư thái đang diễn ra như nó vẫn đang hằng diễn ra.
Đời là giấc mơ hay không, liệu có còn quan trọng? Ý thức là phần nào và nó đang hướng đến đâu có là điều nhất thiết phải giải trình? Chẳng còn gì là cần thiết cho sự hiện hữu vốn dĩ vẫn đang hiện hữu. Bất kỳ cái gì dùng để diễn đạt hay dịch giải hiện tại đều là thừa thãi và ngớ ngẩn, chẳng khác nào gồng lên để nắm lấy thứ vốn dĩ vẫn đang trong lòng bàn tay. Không để làm gì cả, ngoài trở nên vô dụng và tổn hại.
Tất cả những sự lý giải hay đóng đinh kết luận cho khoảnh khắc hiện tại đều là những cái mặt nạ, là những bản dịch lỗi lầm. Chúng đáng được ném hết xuống biển khơi, hoặc thùng rác, tùy theo sở thích. Anh vĩnh viễn không đi ra khỏi hiện tại, trừ phi anh tưởng rằng mình đã bước một chân ra khỏi cánh cửa “bây giờ.”
Dù diễm lệ đến nhường nào thì những trạng thái được gầy dựng bằng ngôn từ kia đều qua đi, chẳng có gì tồn tại vĩnh cửu. Những sự phù phiếm chớp nhoáng hấp dẫn ta, nâng ta lên khỏi hoàn cảnh (được nhận định rằng) tẻ nhạt và ngao ngán. Nhưng ta là ở đây, mục đích ta sinh ra là ở ngay đây, trong đúng lúc này. Vậy ta đâu cần cái phao siêu việt nào kéo lôi đi chứ? Nó chỉ là những trò bậy bạ nhất thời, khuấy đảo những dịu dàng và thanh khiết của hiện tại – điều ta vẫn đang cố gắng phản bội. Ta mờ mắt đến độ chẳng nhận ra rằng thứ siêu việt hơn cả sự siêu việt là thứ không cần đến sự siêu việt.
Ở đó, trong những cơn mê mộng, ta được vào vai một kẻ tỉnh táo, thấy mình vượt trội hơn kẻ láng giềng, nhìn mình vĩ đại hơn hoàn cảnh đang diễn biến. Ta có sức mạnh mà bình thường ta không thấy, sở hữu những quyền năng mà những phút tẻ nhạt thờ ơ giữ khư khư trong cạp quần không chịu chia chác. Thứ sống động ấy tuôn trào trong mạch máu và chúng chào mời ta những khả năng hoành tráng để trở thành một kẻ hữu dụng vượt bậc, hay một kẻ thăng tiến không ngừng đến đỉnh vinh quang (của việc gì không cần biết, miễn sao phải là chiến thắng chói lòa, rực rỡ.)
Không, ta không đối diện với sự thật, không nhìn thấy sự thật, mà chỉ nhìn thấy những ước mơ hay chính là nỗi sợ hãi thầm kín nhất của mình. Chúng khoác áo choàng của sự lộng lẫy, nguy nga. Chúng là những tiếng vang từ một cái thùng ngôn từ trống rỗng. Và rồi chúng, chẳng khác gì nhau, lần lượt biến mất như những bọt bia vỡ trên thành cốc, để lại trong ta một khoảng hẫng hụt, một sự nhức nhối muộn phiền.
Nhưng rồi chẳng chóng thì chầy, tất cả những cơn mộng rồi cũng chấm dứt. Ta chẳng còn lại chút hình dung nào để bám víu, chẳng còn cánh cửa nào để bước vào đời sống. Khi ấy, ta nhận ra mình vốn dĩ đã ở trong đời sống rồi và vẫn đang diễn ra cùng nó. Tất cả chỉ có vậy: là cái đang là. Chẳng còn gì khác hơn thế nữa. Không thêm vào, cũng chẳng thể bớt đi.
Đến lúc đó, ta mới hiểu được sự khiêm nhường của hiện tại, cái phúc lành của kẻ không còn mang lòng tham luyến hay bịt mắt với những điều khuôn khung. Sự tự do ấy không ồn ào, rầm rộ. Sự tỉnh giác ấy chẳng cao siêu, thần thánh gì. Nó chỉ là cái bây giờ và ở đây, như nó vẫn đang ở đây bây giờ.
Chính vì sự đơn giản đến tận cùng như vậy của đời sống mà ngay đến việc nói về nó cũng chẳng còn cần thiết, và bất kỳ một mô tả nào ngoài “nó là chính nó” lại càng trở nên là thứ sáo rỗng, dư thừa. Có thể lý giải hiện tại bằng trăm vạn cách, nhưng rốt cuộc ta chỉ tạo ra những bản dịch khuyết lỗi, dở dang – thứ đã từng nhấn chìm ta trong những phút vui cuồng ngắn ngủi. Quả nhiên rằng, những cơn mê sẽ làm người ngây ngất. Nhưng chỉ sự thật mới khiến kẻ đó được bình an – như ta đang ở đây lúc này.