Mấy hôm trước, tôi có ngồi tâm sự với một người bạn. Vừa nhâm nhi ly cafe, người đó vừa bảo rằng những ai sống mà chỉ mong một cuộc đời màu hồng thì là kẻ hoang tưởng – nên được cho vào trại tâm thần để được thỏa chí hái hoa bắt bướm, sớm tối đội cành cây lên đầu mà uốn éo cười cợt. Những khắc nghiệt đắng cay diễn ra trong cuộc sống là điều không thể chối cãi, phủ nhận. Chúng thật sự cần thiết cho sự phát triển của một con người. Giống như ly cafe này vậy, không đắng thì không còn hấp dẫn nữa, không đắng thì không còn là cafe nữa, mà là một ly nước bùn.
Lúc đầu tôi thấy rất khoái chí với những lời nhận định của người bạn và ngồi gật gù tán thưởng. Vì trước kia khi rơi vào vực thẳm không đáy của cuộc đời, tôi đã từng cố gắng giãy đạp để thoát ra vì cho rằng nó là những trải nghiệm kinh tởm, đáng nguyền rủa. Và sự chống cự đó càng khiến mọi thứ trở nên thối tha, tồi tệ. Nhưng từ khi dám chấp nhận những khó khăn khắc nghiệt kia là một phần không thể thiếu của cuộc đời, tôi mới có khả năng nhẹ nhàng đi qua chúng được (thậm chí sau này nhìn lại, tôi còn khắc khoải nhung nhớ những phút giây giông bão cuồng phong ấy.)
Nhưng có một điều kỳ lạ xảy ra, đó là khi đã đi qua những tháng ngày tối tăm đó rồi, tôi không còn nhìn thế giới này bằng con mắt hai màu hồng-đen nữa, mà tất cả đều hóa thành màu hồng. Có thể các bạn không tin và cho rằng tôi là một đứa lạc quan tếu, hoang đường, ngu dại. Ngay đến bản thân tôi còn không tin vào những gì đang diễn ra với con mắt của chính mình nữa là. Đó là một sự phá vỡ góc nhìn cũ, một sự tẩy rửa quan điểm về thế gian đầy chệnh lệch, chia rẽ.
Đôi khi, tôi vẫn nổi giận vì không vừa ý chuyện gì đó, tôi gầm lên, nhăn hết cả mặt lại, ném toẹt một thứ gì đó đang cầm trong tay. Cơn giận ấy chồm lên dữ dội như một ngọn lửa, nhưng nó tắt đi mau chóng như khi nó vừa đến. Và điều quan trọng đó là, tôi nếm hết được những rực rỡ, tinh khiết của nó ở bên trong tim gan phèo phổi của mình. Đó là một trải nghiệm thật sự ấn tượng, xứng đáng với một tiếng WOW!
Trong phim Star Wars, nhân vật Yoda (một bậc thầy Jedi) thường hay nói rằng giận dữ là con đường dẫn đến phe bóng tối. Nhưng khi đứng ở đây, tôi không còn đồng tình với quan điểm đó nữa. Sự sợ hãi, phân vân, nghi ngờ, kìm hãm mới là những bàn tay đen tối dẫn ta đến với những mịt mù tơ nhện.
Tôi giận xong là xong, quên luôn, chẳng để bụng gì. Giống như những đứa trẻ con túm tóc chí chóe khóc lóc với đứa bạn cùng lớp vì tranh giành nhau một con búp bê tí xíu. Nhưng sau đó năm phút, hai đứa lại chơi với nhau vui vẻ vì chúng chẳng nhớ chuyện gì đã vừa diễn ra lúc nãy.
Cái sắc hồng mà tôi đang muốn nói tới ở đây không liên quan gì đến hoàn cảnh đang diễn ra xung quanh cả, nó không liên quan gì đến cơn giận dữ, đến những tủi hờn, đến những âu lo, sợ hãi, căng thẳng, bồn chồn của thế gian cả. Sắc hồng ấy là một cánh cổng lưu thông tất cả những điều đó, là bầu trời để mọi “ngày nắng đẹp rạng ngời hay gió về hay bão táp mưa rơi” đều được bung tỏa hết mình.
Các bạn có hiểu cảm giác mọi thứ “lên đỉnh” là như thế nào không? Như ta đứng trên một ngọn núi cao chót vót và phóng tầm mắt nhìn ra bốn bề, thấy ở dưới kia là trùng điệp nhà cửa, cây cối, đường sá. Tất cả trải ra vô tận đến đường chân trời xa lắc khiến mọi giác quan của kẻ đứng hiên ngang giữa nơi này được giãn nở hết cỡ. Một sự kích thích, hào hứng đến tột cùng đã tìm được điểm nở rộ. Những hứng khởi, hoan vui chảy rần rần dưới từng mạch máu khiến ta nổi da gà từng đợt.
Há chẳng phải cơn giận dữ kia là một mặt trời đang lặn, sự run rẩy yếu hèn kia là đồi thông lung lay gió, và đớn đau vật vã kia là cơn mưa xối xả – tất cả đang nằm dưới tầm mắt của ta đó sao? Ta có thể chối từ được sắc hồng ấy khi “lên đỉnh” được hay sao? Tưởng rằng thế gian đang quỳ gối dưới chân người, nhưng sự thực là gã con người đã quy phục cả thế giới. Chính vì vậy, hắn được vũ trụ nâng lên vượt qua mọi trùng điệp, trắc trở của cuộc đời mà cùng tan chảy xúc động với tất thảy những gam hồng của thiên đường trần thế.
Tôi tin rằng đến một ngày nào đó khi ta có thể “hồng hóa” được mọi hoàn cảnh thì ta sẽ nhận ra rằng thế gian này thực sự xinh đẹp và rực rỡ hơn rất nhiều so với những gì mà ta từng biết. Khi ấy, một nỗi đau không còn là một kẻ tráo trở, hèn hạ và tàn độc nữa, nó trở nên vĩ đại hơn bản thân nó, và chúng ta cũng trở nên vĩ đại hơn chính mình.
Mỗi khi gặp chuyện khó khăn trắc trở trong đời sống, tôi không còn cay cú, hoảng sợ như trước kia nữa, mà tôi cười nhiều hơn. Vì là một con người lịch sự, ngọt ngào (và đôi lúc xàm lầy), tôi sẽ cười với mọi thứ như một sự chào đón. Và chuyện gì xảy ra tiếp theo các bạn biết không? Cánh cổng niềm vui tôi mở ra là một màu hồng, và những chông gai sẽ bị bào mòn hết thảy khi chúng đi qua nó. Nếu bạn không tin, hãy làm và kiểm chứng.
“Người đời quen hai bề đen-trắng
Mặt trời đây, kia mặt trăng rằm
Bâng khuâng trong một vầng mây xám.
Ôm cả mưa, hôn cả nắng ròng.”
Có lẽ đây là bài thuyết trình nổi tiếng nhất của Carl Sagan. Zen Pencils cũng đã từng vẽ minh họa cho bài thuyết trình này và THĐP cũng đã Việt hóa trong quá khứ.
(Wiki) Carl Edward Sagan (9 tháng 11 năm 1934 – 20 tháng 12 năm 1996) là nhà thiên văn học, vật lý thiên văn, vũ trụ học, sinh học vũ trụ, tác giả sách, nhà phổ biến khoa học và là nhà phát ngôn khoa học người Mỹ. Đóng góp quan trọng nhất của ông là cho việc khám phá nhiệt độ bề mặt rất cao trên Kim Tinh. Tuy nhiên ông lại được biết đến nhiều nhất trong những nghiên cứu khoa học về sự sống ngoài Trái Đất, bao gồm cả việc chứng thực thí nghiệm tạo amino acid từ các chất hóa học cơ bản nhờ phóng xạ. Sagan đã thu thập những tin nhắn đầu tiên để gửi vào không gian: tấm thông điệp Pioneer và đĩa ghi âm vàng Voyage, các lời nhắn được gắn trên các con tàu vũ trụ để phòng trường hợp người ngoài Trái Đất có thể tìm thấy và xem chúng.
Ông đã xuất bản hơn 600 bài báo khoa học, và là tác giả hoặc đồng tác giả của hơn 20 cuốn sách. Ông viết nhiều sách phổ biến khoa học như “Những con Rồng của vườn Địa Đàng” (The Dragons of Eden), ” Não Broca” (Broca’ brain), và “Chấm Xanh Nhạt” (Pale blue dot). Đặc biệt, ông là đồng tác giả và người dẫn chuyện cho chuỗi chương trình truyền hình rất thành công của năm 1980 “Vũ trụ: Một cuộc phiêu lưu cá nhân” (Cosmos: A personal voyage). Là chuỗi chương trình đạt số lượt xem nhiều nhất trong lịch sử truyền hình công cộng Hoa Kỳ, Cosmos đã được ít nhất 500 triệu người ở hơn 60 quốc gia theo dõi. Cuốn sách “Vũ trụ” (Cosmos) cũng được viết đồng thời cùng với chương trình này. Sagan đã viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng “Liên lạc” (Contact), và đã được dựng thành phim cùng tên năm 1997. Các tài liệu của ông, khoảng 595,000 mục, hiện được lưu trữ ở thư viện Quốc hội – Hoa Kỳ.
Một lá thư được viết vội bằng ngôn từ thống khổ. Đừng đọc tấm chân tình của tôi khi bạn chưa từng khát khao những trái cấm, chưa từng muốn lật nhào tất cả các biên giới. Không phải vì tôi muốn diễn mãi cảnh u uất buồn thảm, mà bởi tất cả vết thương này cứ luôn muốn nhảy xô vào mặt tôi.
Khi tôi nghĩ về cuộc đời mình, tựa như bức tranh mệt mỏi, chẳng có một chút khởi sắc nào để chấm phá tông màu lạnh lẽo. Có người hỏi tôi tại sao lại nhốt mình trong cô đơn, tại sao hắt hủi lánh xa thế giới, tại sao lại sống khổ sở đến thế. Tại sao? Tại sao lại đẩy tôi về con người bần cùng nhất? Tại sao mình ra nông nỗi này?
Đừng hỏi những câu ngớ ngẩn ấy nữa tôi ơi? Khi đau khổ xâm chiếm tâm hồn tôi, ôm trùm lấy cuộc đời tôi mà mơn trớn, đơn giản vì nó là định mệnh. Nếu tôi không vứt bỏ quê hương, nếu tôi không giã biệt người tôi yêu, không vật lộn với miếng cơm manh áo, không khát vọng, để rồi chán ngán và khinh bỉ, tôi đã không trở thành kẻ săn đuổi tự do.
Nếu cuộc đời cương quyết đầy đọa tôi trong bóng tối thì tôi sẽ sống trong bóng tối. Nếu tất cả con đường tôi chọn sẽ dẫn lối tôi vào ngõ cụt thì tôi sẽ cứ thế tiến vào ngõ cụt. Nếu tuổi trẻ của tôi là lầm lỗi thì tôi tự nguyện quỳ gối ôm hôn tất cả lầm lỗi ấy. Nếu được sống lại một lần nữa những năm đã trôi qua, tôi xin thề cái tôi đây vẫn cứ sống như đã từng: vẫn vứt ùm cả đầu óc lẫn tim gan vào trong những vũng nước giá buốt cắt da; rồi chán ngán, ngạo mạn, kiêu căng và chạy trốn; rồi học cách quên lãng phẫn nộ và hận thù đối với đời sống.
Nếu phải kìm nén tất cả những điều yêu thích, không được làm kẻ mơ mộng đến những điều viển vông trên một con đường cô liêu. Tất cả những sự không được ấy sẽ tích tụ dần rồi chuyển hóa thành độc tố. Nó sẽ phát triển thành ung thư mất thôi.
Tôi viết cho tất cả những ai khát khao tự biến mình thành con người lạc lối. Một kẻ bị hắt hủi bỏ rơi, bị cô lập hoàn toàn khỏi xã hội. Tôi chắc chắn với bạn rằng đến cuối cùng mọi thứ đều khớp vào nhau. Đến cuối cùng mọi thứ sẽ ổn, bởi nếu nó chưa ổn, nó ắt hẳn chưa phải là cuối cùng.
Nếu bạn cảm thấy địa ngục đang vây quanh mình, bạn đang tự giày vò hành hạ bản thân mình. Bạn sợ hãi những con mắt chế giễu đang đăm đăm nhìn bạn từ đáy sâu bóng tối. Tất cả những gì bạn đang phải đối diện, hãy coi nó là một phần của định mệnh. Đừng thắc mắc dù chỉ là một chi tiết vụn vặn, dù nó xấu hay đẹp, đúng hay sai, nó đều là một phần của sự trưởng thành.
Nếu tiếng nói bên trong của tôi bảo tôi viết, viết ra những khắc khoải, viết ra trái tim tan nát, viết rằng tôi đã từng là con người hèn nhát, từng muốn trốn chạy vì sợ hãi, thì hãy cứ viết ra. Tôi chưa bao giờ cố che đậy con người thối nát xấu xa của chính tôi, không có gì cần phải che đậy. Viết ra mà không cần phải bận tâm thiên hạ đang phán xét gì mình, bởi ngay cả sự phán xét cũng là một phần cuộc sống tôi. Tôi đã khôn lớn trong tất cả những lời chửi bới mắng mỏ của họ. Đã có lúc chúng là ánh nến châm ngòi đốt lên ngọn lửa địa ngục trong tôi, nhưng giờ đây tôi không còn muốn chống lại nó nữa. Họ có thể ở lại bên cạnh tôi, cũng có thể bỏ đi, dù thế nào họ cũng chỉ mãi là nhà lữ khách ghé ngang cuộc đời tôi.
Chẳng còn gì khiến tôi bận tâm, chẳng còn gì khiến tôi phiền não. Quá nhiều sự việc đã được soi tỏ dưới mắt tôi. Và giờ đây tôi nhận ra: “Nếu cuộc sống dẫn tôi đi lạc lối, thì đi!” Bởi đến cuối cùng, dù nhanh hay chậm, chúng ta đều sẽ gặp nhau ở một vạch đích mang tên “Trưởng thành.”
Tôi đã đi và gặp rất nhiều các tín đồ phật giáo, thiên chúa giáo, cũng như găp nhiều nhà sư, linh mục và giám mục. Tôi cũng đến thăm nhiều ngôi chùa và nhà thờ công giáo lẫn tin lành. Hôm nay tôi nói đôi chút về tôn giáo, vì tôn giáo là một phần quan trọng trong cuộc sống.
Tôi không thích nói về tôn giáo có tổ chức, có kết cấu chặt chẽ như Thiên Chúa giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo… bởi đó không là tôn giáo thật sự. Đó là hình mẫu của các ý tưởng cá nhân, những con người muốn áp đặt một khuôn mẫu lên những người khác.
Jesus không phải là người sáng lập ra Thiên Chúa giáo, những môn đệ của Ngài ấy mới là người lập ra tôn giáo ở đó có sự phân chia thứ bậc. Đức Phật cũng không phải là người sáng lập ra Phật giáo, các môn đệ của Ngài ấy mới là người tạo ra các thứ bậc trong Phật Giáo. Trong thông điệp của cả Jesus và Đức Phật, có tính tôn giáo trong đó, nhưng cả hai vị ấy không hề lập ra tôn giáo có tổ chức, cơ cấu như một nhà nước trong xã hội. Hơn nữa, cả hai vị ấy không để lại bất kì một trang sách nào, hai vị ấy chỉ sống và rao giảng những gì mình sống.
Tôi có thể nói thế này, hai con người ấy đã đi vào tự do thật sự, đi vào tình yêu, từ bi thật sự, hiểu về chân lý thật sự. Nhưng những kẻ đi theo sau, chỉ là bắt chước, có nhiều người chỉ lợi dụng học thuyết để mưu lợi cho bản thân về quyền lực, danh vọng và tiền bạc.
Tôi không nói con đường của cả hai con người trên là sai nếu bạn đi theo lời dạy của họ, tôi chỉ bảo hầu hết mọi người đều không đi vào thật sự các lời dạy đó của Jesus và Phật.
Tại sao Đức Jesus đề cao tích góp của cải trên trời, tìm kiếm kho báu được ẩn giấu qua đời sống, trong khi Đức Phật lại đề cao từ bỏ, buông bỏ, sống một đời sống không cầu, không bản ngã. Theo tôi, cả hai vị đó đều đạt tới chân lý trong hoàn cảnh sống của mình, và điều đó chứng minh rằng: điểm xuất phát của bản thân không thể ngăn cản bạn đến với tính tôn giáo thật sự, nếu bạn biết học hỏi từ cuộc sống của mình.
Đức Jesus đã sống với mẹ và cha Ngài gần 30 năm, và đến tuổi 30 Ngài mới bắt đầu sự rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Ngài ấy phải học hỏi rất nhiều từ sự nghèo đói của gia cảnh mình, hiểu rõ được rằng cuộc sống này luôn giàu có, chỉ là mọi người không biết tìm kiếm sự giàu có đó qua đâu. Ngài ấy nói về Tình yêu nhiều hơn bất kì ai, và bài ca tình yêu đẹp nhất chính là “bài giảng trên núi” mà bất kì ai, khi để lời kinh đó thấp nhập vào đều sẽ trở nên giàu có, và ngập tràn tình yêu.
Đức Phật trước khi giác ngộ là một chiến binh, là một hoàng tử, và đã có gia đình. Có thể nói Đức Phật là hình mẫu lí tưởng của một con người thành công, thành đạt cho mọi xã hội. Và rồi cũng từ cuộc sống đó, Đức Phật học hỏi được rất nhiều và nhận ra: tiền bạc, của cải, sự giàu sang, quyền lực, ái tình chỉ là tạm thời, nó hơn hết là vô nghĩa hay tệ hơn là đầu mối cho mọi khổ đau. Một con người giàu sang như vậy, quyền lực như vậy lại có thể nói: đời là bể khổ, thì không thể nào lại không phải là người học hỏi từ chính cuộc sống của mình. Phật đi vào thiền và rồi trở nên giác ngộ. Lúc này Ngài ấy mới nhận ra, mọi thứ vật chất đều có giá trị tạm thời, có chăng giá trị là chỉ để con người duy trì cuộc sống thể xác. Vì thế Ngài ấy dạy đừng tích góp, đừng mưu cầu, đừng tư lợi vì nó là nguồn gốc cho khổ đau, hãy sống từ bi, sống cho đi.
Cả Jesus và Phật đều đi đến cùng một điểm chung, đó là hướng tới một đời sống viên mãn. Jesus bảo ngài là con đường, là ánh sáng, là sự thật để đi tới Chúa Cha. Còn Phật lại bảo, Ngài ấy chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ Ngài ấy không phải là mặt trăng. Nếu bạn đi vào đời sống của mình, chiều sâu của mình, bạn cũng sẽ đi tới một điểm như Phật và Jesus đã đi, và nói cùng một chân lý như hai người đó đã từng nói. Có thể từ ngữ bạn dùng sẽ khác, nhưng hướng đi và đối tượng bạn ngụp lặn trong đó là không khác.
Đó là lí do vì sao tôi không thích bàn về các tôn giáo có tổ chức, bởi họ đều đặt nền tảng trên sự bắt chước, tuân phục, và mù quáng. Các tín đồ luôn được treo phần thưởng nếu là người bắt chước giỏi, tuân phục đấng bề trên giỏi. Hãy là tín đồ ngoan, nhưng tôi xin nói rằng: bạn sẽ chẳng có kho báu như Jesus đã hứa, và cũng cách đó sẽ chẳng đạt tới Giác Ngộ như Đức Phật đã đạt tới. Bởi cái người ta bảo bạn, kêu bạn vâng phục, bắt chước đó, tất cả chỉ là sự diễn giải của giám mục, linh mục, thầy tu, nhà sư theo cái trí hạn hẹp và đóng khung của họ.
Bạn phải có tôn giáo, điều này không ngụ ý rằng bạn nên gia nhập một tôn giáo có tổ chức. Cuộc sống mà thiếu tính tôn giáo, bạn chỉ sống hời hợt, sống trên bề mặt, chẳng bao giờ có tự do thật sự, tự do bên trong. Thiếu chiều sâu tâm linh thì bạn sẽ chẳng khác nào những con robot, những cái máy chạy theo các nhu cầu của kinh tế. Hãy đi tới tôn giáo và đạt tới chiều sâu trong chính hoàn cảnh sống của bạn, và rồi bạn sẽ nhận ra rằng nhiều người cũng đang sống như vô thần, kể cả những người Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo…
Đôi khi tôi thấy con người sống chẳng khác nào một côn trùng ký sinh, bu bám vào vật chủ để tồn tại, phó mình cho sự áp đặt của người khác. Vật chủ là những người luôn ảo tưởng bản thân đủ khả năng trí tuệ tạo ra dưỡng chất trần gian nuôi sống sinh vật ký sinh. Bằng những kinh nghiệm, học thuyết, triết lý riêng của mình, họ đánh cắp đi khả năng tự xoay xở cùng bản năng sinh tồn của người đang trong mối quan hệ cộng sinh.
Đối với tôi, người hiểu biết nhất hẳn phải là người hiểu rằng họ không hề biết gì. Họ hoàn toàn mù tịt trong con đường của người khác. Họ có thể lắng nghe những khó khăn chia sẻ, nhưng họ không bao giờ bảo tôi phải bước thế này hay chạy thế kia. Toàn thể nhân loại này, biết bao nhiêu là đôi mắt trần gian đang học cách nhìn cuộc sống. Mỗi con mắt là một quan điểm riêng biệt. Không ai có thể đặt vị trí của họ vào để nhận định đúng sai.
Tôi cần một người chuyên gia tâm lý để tư vấn tình cảm, tôi cần một người có thể giải đáp những dấu chấm hỏi. Tôi cần đến họ cho những câu hỏi làm sao, làm thế nào. Người đó sẽ cho bạn những câu trả lời rất hay ho, những liều thuốc giảm đau hiệu quả. Những vết thương sẽ bị trì hoãn, nhưng nó không bao giờ lành lặn. Nỗi đau vẫn ở đó, trong tư thế ngồi chờ, nó chỉ đơn giản chờ đợi đến thời điểm thích hợp để tái phát. Vậy nên, đừng xoa dịu vết thương của mình bằng kinh nghiệm người khác. Điều duy nhất họ có thể giúp bạn là giảm bớt nhẹ cơn đau. Nhưng họ không thể dạy bạn cách chống chọi nỗi đau.
Không một ai sinh ra để sống bám víu vào người khác. Bạn không cần những tấm bản đồ vay mượn để tránh lạc đường. Mọi ngã rẽ mà cuộc sống cho phép bạn đi qua, ắt hẳn phải chứa đựng bí ẩn chờ bạn giải mã. Cuộc sống là một dòng sông nhiều khúc quanh co, ai cũng cần tự học cách để chảy ngược lại về nguồn, tất chảy ngược vào bên trong. Một tâm hồn vĩ đại chỉ có thể được xây dựng bằng chính linh hồn của người đó. Tuy nhiên, đó là một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn gian nan, không dành cho những ai hấp tấp bước vội vàng.
Đừng hiểu lầm tôi đang cố gán ép điều gì, tôi cũng chỉ là một kẻ mù lòa đang mò mẫm trong bóng tối. Tôi không cố tiêm nhiễm vào ai những thông điệp. Tôi cũng chỉ là một kẻ dốt nát, nhưng tôi muốn trao đi sự chân thành. Tôi không cố gắng viết ra thứ ngôn từ hoa mỹ tráng lệ. Tôi chỉ đơn giản là đang viết một bức thư tình cho cuộc sống của tôi. Trong tất cả sự ngây ngô khờ khạo của trái tim tôi, thật ra tôi chỉ muốn nói với bản thân một điều duy nhất. Khi những chiếc lá úa tàn, đừng bao giờ tìm đến người khác để cất lời than vãn. Bởi ai rồi cũng phải học cách tự chống chọi nỗi đau của chính mình. Đừng sống như một côn trùng ký sinh.
Chúng mình tán nhau một chút chăng? Cần gì quan tâm ta đã có người yêu hay chồng vợ, cần gì quan tâm ta là nam hay nữ, cần gì quan tâm ta đang nhọc lòng với những bộn bề cuộc sống hay đang vui vẻ phởn phơ giữa đời. “Tán tỉnh” chỉ đơn giản là dành cho nhau những sự chú ý dễ thương, vậy thôi.
Nở với nhau một nụ cười xinh xắn khi gặp mặt, ấy là tán. Thả một trái tim vào status thay cho lời động viên, ấy là tán. Khen nhau rằng có nụ cười tươi, ấy cũng là tán vậy. Tôi cho rằng trên đời này chẳng có ai là không thích được “tán tỉnh” như thế. Điều đó chẳng có gì là lố lăng, tầm bậy cả, mà nó thể hiện một sự thư thái, hạnh phúc cao độ của con người. Khi ấy, dòng suối hoan vui sống động kia trào ra thế giới bên ngoài bằng những lời nói và cử chỉ dễ thương dành cho nhau.
Tán tỉnh làm cho ta thấy ở nhau những điều đáng yêu, hướng sự chú ý đỏng đảnh vào những sắc hồng ngọt ngào thay vì vào những đắng cay tủi hờn của cuộc sống. “Hôm nay cô mặc chiếc áo dịu dàng quá!” “Tôi thích ngắm nụ cười của em.” “Chú cảm ơn cháu vì những tấm hình hoa cỏ.” “Tao yêu mày, con đũy ạ!”
Thế giới này đã quá đủ những căng thẳng, ngột ngạt và bon chen rồi. Nó cần nhiều hơn những lơi lả ngọt lành, những mơn trớn vuốt ve để làm dịu đi những gập ghềnh đá sỏi.
Người xưa cũng đã có câu:
“Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
Vậy thì có gì là quá khó khăn khi ta tung hứng với nhau những ngôn từ dịu dàng, tươi mát nào. Nếu có gặp thử thách khi thực hiện thì đó chỉ có thể là chúng ta phải vượt qua những nỗi sợ hãi của dư luận, sợ hãi bị tổn thương vì người kia không đáp lại, không thấu hiểu thôi. Nỗi sợ ấy rồi cũng sẽ qua mau, khi ta bắt đầu trao nhau những lời êm ái.
Tôi cho rằng khi một người có mức độ hạnh phúc càng cao thì họ càng dễ dàng với việc nói lời ái ngữ, hoặc lời tán tỉnh (đúng theo nghĩa đen dành cho những cặp đôi tìm hiểu nhau.) Cái sống động bên trong lòng họ khiến cho thế giới ngoài kia bỗng nhiên trở thành một nàng thơ đầy quyến rũ, và họ không sao cưỡng nổi việc ấu yếm nó bằng những thanh âm của chính mình thông qua ngôn ngữ/lời nói.
Ở đây, xin các bạn chớ nhầm lẫn việc “tán tỉnh” mà tôi đang nói đến là một loại đắc nhân tâm gì đó để hòng thu phục lòng người, hay là một kiểu yêu quái/yêu râu xanh tìm cách mồi chài những con nai ngơ ngác, thèm khát sự thương yêu để rồi cuối cùng đưa lên giường mà chịch cho thỏa mãn cơn đói lòng. Sự tán tỉnh tôi đang muốn diễn đạt, nó chẳng hề có mục đích gì cả. Nó chính là một mục đích, nó tự hoàn thiện và làm đẹp chính nó.
Ta dành cho nhau những lời ngọt ngào, chỉ vậy thôi, không có gì hơn ở đó nữa cả, không ai tiến xa hơn cả (phải trở thành gấu chó của nhau, hay phải chịu trách nhiệm cho sự “nghiêng ngả” của đối phương.) Tán tỉnh này là một biểu lộ của tình yêu, của niềm sướng vui bên trong cõi linh hồn. Nó là cơn mưa ân sủng trải ra khắp xung quanh thế gian, và ai dám mở lòng dưới cơn mưa đó sẽ thấy đầy những sự mát lành.
Tôi để ý thấy rằng khi bản thân càng hài lòng với cuộc sống thì tôi càng nhìn ra được nhiều góc phần dễ thương của người khác. Và khi những sáng tươi đủ lớn để thống trị những hà khắc, cay nghiệt thì những lời ngọt ngào bên trong tôi tự tuôn trào ra dành cho người ở xung quanh. Có người cảm nhận được điều đó và đón nhận nhiệt tình bằng việc tán ngược trở lại, để rồi cả hai bên cùng cảm thấy sung sướng, khoan khái. Có người không cảm nhận được nên bị hoang mang bối rối và cảm thấy tôi là một sinh vật nguy hiểm đang đi ve vãn cả thế gian để thu thập sinh khí về nuôi bộ xương khô của mình. Trong khi sự thật là tôi vẫn ngồi cười đùa và tiếp tục sứ mệnh tán tỉnh đầy niềm vui của mình. Đối với tôi, ngừng làm một việc dễ thương là một tội lỗi không thể dung thứ.
Với những người đã lún quá sâu với đời sống nghiêm túc, khắc nghiệt thì rất khó để có thể mềm lòng ra với những con sóng “ngôn tình” mơn trớn vào lỗ tai được. Người đó sẽ giãy lên từ chối và phản kháng. Hoặc dễ dàng hiểu nhầm đó là một lời tỏ tình nghiêm túc dẫn tới một cái nhẫn đính hôn. Tôi thấy đây là một nhận định rất đáng tiếc và đáng buồn cười. Chẳng phải những thơm thảo trong lúc tán tỉnh nhau đã là đáng quý và to lớn lắm rồi sao? Chúng ta còn cần kích thích thêm nữa bằng việc nuông chiều nhau, bú mớm nhau lâu dài trong một mối quan hệ nô lệ phụ thuộc nữa sao?
“Tán” mọi người, ta sẽ có khả năng yêu và nhìn mọi người như người yêu của mình – có một sự thoải mái kết nối với nhau, trái tim chẳng bị bó buộc vào với bất kỳ ai hết cả. Khi ở trong mảnh đất tự do, những hạt mầm phúc lành sẽ đâm chồi nở rộ. Ở đó sẽ hiển lộ những hoa trái của sự bao dung, vô tư, vui vẻ và tin cậy đến mức không ngờ.
Vậy nên đừng ngại ngần gì mà ta chẳng tán nhau chút đỉnh – cứ lả lơi một đôi lời cho xua tan hết những e sợ đang giăng lối cản bước trái tim yêu.
Nhà vật lý Max Born đã đưa ra một ý tưởng mới, mang tính cách mạng cho những gì mà phương trình sóng mô tả. Born bảo rằng: sóng không phải là một electron bị nhòa đi, hoặc bất cứ điều gì khác trước đây từng gặp phải trong khoa học. Thay vào đó, ông tuyên bố nó là một điều gì đó thực sự kỳ lạ, một làn sóng xác suất. Born cho rằng kích thước của sóng ở bất kỳ vị trí nào dự đoán tính khả dĩ của electron được tìm thấy ở đó.
Source: NOVA – The Fabric of the Cosmos
Translation: Huy Nguyen
Vietsub: Lê Gia Khiêm
Bạn đã đăng ký trau dồi chất xám từ THĐP chưa, đừng để bị bỏ lại phía sau khi những anh em thiện lành từ THĐP đang tiến lên phía trước. Mua membership để đọc tạp chí tại http://bit.ly/THDPmembership (48k/1 volume, 999k/24 volumes)
Nội dung Volume 8
⭐️ [Hỏi- Đáp] Làm sao để có được bình an?
🌟 [Bài dịch] Công nghệ hiện đại tương đồng với siêu hình
học của Vedanta
✨ [Truyện dài] Tuổi trẻ cô đơn – Chương 8-9 | Ni Chi
⚡️ [Bài dịch] 7 lựa chọn đẳng cấp thế giới sẽ giúp bạn có
thành công đẳng câp thế giới
☄️ [Tiểu thuyết dã sử] Người chém cá kình – Hồi 8 | Hai Le
💥 [Truyện ngắn] Cô bé Hạt Tiêu – Quyển 2, Tập 8
Con gà băng qua đường | Vũ Thanh Hòa
🔥 [Bài dịch] 10 nguyên tắc đơn giản về sự thức tỉnh tâm
linh có thể thay đổi cuộc đời bạn
🌪 [Nhân vật] Mozart — Thần đồng âm nhạc chết trong bi kịch | Ni Chi
“Vua không phải là vua nếu không có của cải, nhân dân và quân đội, cũng như hoa không phải là hoa nếu không có mùi hương, sông không phải là sông nếu không có nước. Cũng vậy, người không phải là người nếu không có Brahmacharya. Ăn ngủ, sợ hãi, và tình dục thì cả thú vật lẫn con người đều giống nhau. Sự khác biệt giữa người và thú chính là Dharma (Pháp, Đạo), Viveka (phân biệt), và Vichara (tự vấn) Sakti, Jnana (kiến thức) và Vichara chỉ có thể có được qua việc giữ gìn Veerya (năng lượng). Nếu một người không có được những tiêu chí này, thật sự thì hắn chỉ được nên được xem như thú vật.” — Swami Sivananda
“Thậm chí thánh thần, thiên thần và Khẩn Na La cũng quy phục dưới chân một Brahmachari đích thực. Thậm chí Ishvara bôi lên trán bụi từ chân của một kẻ độc thân chân thực. Brahmacharya là chìa khóa duy nhất mở ra Sushumna và đánh thức Kundalini. Nó mạng lại vinh quang, danh tiếng, đức hạnh và Mana-Pratishtha. 8 Siddhi và 9 Niddhi (các loại thần thông, sức mạnh) lăn dưới chân kẻ tuyệt dục. Chúng luôn sẵn sàng tuân lệnh anh ta. Thần chết tránh xa hắn. Ai có thể mô tả được sự vĩ đại, cao cả, và vinh quang của một Brahmachari đích thực!” — Swami Sivananda, Practice of Brahmacharya
“Không ai có thể nắm chặt lấy những lý tưởng cao cả nếu không thực hành nghiêm ngặt brahmacharya. Để có được sự phát triển toàn diện và sức sống mạnh mẽ cho thân thể, não bộ và tâm trí thì brahmacharya là không thể thiếu. Những ai thực hành nghiêm ngặt brahmacharya sẽ phát triển được một trí nhớ dẻo dai và khả năng thấu hiểu sâu sắc. Khi thực hành Brahmacharya, một mạng lưới kinh mạch đặc biệt được tạo ra và mang lại nhiều sức mạnh tuyệt vời. Bạn có biết vì sao những đạo sư vĩ đại đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Brahmacharya không? Là vì họ biết rằng nếu một người thất bại trong chuyện này, mọi thứ khác cũng sẽ mất. Người Brahmacharin nghiêm túc không bị mất đi sinh lực. Anh ta có thể không trông như một vận động viên, nhưng não bộ của anh đã phát triển tinh vi đến mức có khả năng nắm bắt được những thứ siêu nhạy cảm.” — Swami Brahmananda
“Ojas là sản phẩm cao nhất những nguồn khí lực trong cơ thể trở thành. Bạn phải nhớ rằng nó chỉ là vấn đề chuyển hóa. Những nguồn lực bên ngoài, điện lực và từ lực, sẽ được biến đổi thành nội lực; năng lượng cơ bắp sẽ được biến đổi thành Ojas. Các Yogi nói rằng một phần của năng lượng con người được biểu lộ thành năng lượng tình dục, trong những ý nghĩ dâm dục, khi được kiểm soát và điều khiển, dễ dàng được biến hóa thành Ojas. Các Yogi chuyển hóa hết nguồn năng lượng tình dục thành Ojas. Chỉ có những người đàn ông và đàn bà trong sạch mới có thể khiến cho Ojas đi lên và tích chứa trong não. Đó là lý do vì sao sự khiết trinh (chastity) đã luôn được xem là đức hạnh cao nhất. Nếu một người cảm thấy rằng anh ta không trong sạch, tâm linh liền biến mất, anh ta đánh mất đi sức mạnh tinh thần và sức bền luân lý.” — Swami Vivekananda
“Các Yogi tuyên bố rằng cao nhất trong tất cả các nguồn năng lượng trong cơ thể con người là ‘Ojas’. Thứ Ojas này được lưu trữ trong não, và càng nhiều Ojas có trong đầu của một người, anh ta càng mạnh mẽ, càng thông minh, càng trí tuệ. Một người có thể ăn nói văn hoa, tư tưởng đẹp đẽ, nhưng họ không gây ấn tượng với mọi người; một người khác ăn nói không văn hoa, hay có tư tưởng đẹp đẽ gì, nhưng lời nói của anh ấy lại có sức hút. Mọi hành động của anh ta đều mạnh mẽ. Đó là sức mạnh của Ojas.” — Swami Vivekananda
“Để nhận biết được God, một người phải tuyệt dục tuyệt đối. Những vị thánh như Sukadeva là những ví dụ cho một urdhvareta (người có năng lượng hướng lên). Sự trinh khiết của họ là tuyệt đối không ngắt quãng. Còn có một tầng lớp khác, những người trước đây đã từng xuất tinh nhưng sau đó đã có thể kiểm soát nó. Người có thể kiểm soát được tinh khí trong 12 năm sẽ tạo ra được một sức mạnh đặc biệt. Anh ta có được một mạnh lưới kinh mạch ký ức mới, khiến anh ta có thể nhớ mọi thứ, hiểu mọi thứ. Mất tinh khí làm suy kiệt sức mạnh. Nhưng nếu có mất trong một giấc mơ thì cũng không sao, nó được tạo ra từ thức ăn, phần còn lại sau khi bị mộng tinh là cũng đủ. Nhưng phải không được quen một người phụ nữ. Phần tinh khí còn lại sau mộng tinh là phần rất tinh túy.” — Swami Vivekananda
“Ai cũng muốn ra lệnh, và không ai muốn tuân lệnh; điều này là vì đã thiếu vắng đi hệ thống brahmacharya của ngày xưa. Đầu tiên, học cách tuân lệnh. Ra lệnh sẽ tự động đến sau. Luôn luôn học làm một đầy tớ trước tiên, rồi sau đó bạn sẽ phù hợp để làm một ông chủ.” — Swami Vivekananda
“Năng lượng tình dục có thể được kiểm soát và được chuyển hướng từ mục đính tình dục sang mục đích sáng tạo nghệ thuật và thẩm mỹ, tăng hiệu suất làm việc, hoặc dùng để nâng cao năng lượng trí óc hay những năng lượng khác. Hoàn toàn được kiểm soát, nó cũng có thể được biến thành năng lượng tâm linh. Người Ấn Độ cổ đại đã biết rõ chuyện này, và được mô tả là sự chuyển hóa từ retas thành ojas trong brahmacharya. Retas, tinh dịch, gồm có 2 thành phần, một là cho mục đích tình dục, phần còn lại là năng lượng nền, và nếu một người không sa đà vào tình dục và tinh dịch không bị lãng phí, nó biến thành ojas. Toàn bộ lý thuyết về brahmacharya được dựa trên đó bởi các Yogi.” — Sri Aurobindo
“Brahmacharya là gì? Nó là một lối sống dẫn chúng ta tới Brahman (God).” — Mahatma Gandhi
“Có nhiều chìa khóa mở ra sức khỏe, và tất cả đều khá cần thiết; nhưng có một thứ cần thiết hơn tất thảy đó là brahmacharya. Không khí sạch, nước uống sạch, và thức ăn bổ dưỡng rõ ràng là cũng có đóng góp cho sức khỏe. Nhưng làm sao ta có thể khỏe mạnh nếu ta phí phạm hết những gì ta đạt được? Làm sao để không làm ăn mày nếu ta tiêu phí hết số tiền ta kiếm được? Không còn nghi ngờ gì nữa, đàn ông và đàn bà không thể hùng dũng hay mạnh mẽ được trừ khi họ áp dụng brahmacharya.” — Mahatma Gandhi
“Năng lượng sinh khí của những người biết bảo tồn tinh khí được nâng cấp rất nhiều, nếu anh ta có trở bệnh vì nghiệp trong quá khứ, nguồn năng lượng sinh khí sẽ ngăn không cho căn bệnh trở nên nghiêm trọng. Anh ta sẽ mau chóng lành bệnh. Giả sử như một người bình thường cần một tháng để phục hồi, brahmachari sẽ khỏe lại trong một tuần.” — Swami Dayananda Saraswati
“Brahmacharya hay sự trinh khiết tuyệt đối là khổ hạnh cao nhất trong mọi khổ hạnh. Một người thực hành trinh khiết tuyệt đối thì không còn là người nữa, mà đích thực là thần. Đối với những người độc thân luyện tập brahmacharya không ngắt quãng thì có gì trên đời này mà không đạt được? Bởi sức mạnh của brahmacharya không ngắt quãng, hắn sẽ trở nên giống như ta.” — Adi Shankara
“Nếu bạn cân nhắc rằng ước muốn tình dục được trao cho con người không phải để làm thú vui mà là để duy trì nòi giống, một khi bạn thoát khỏi thứ ham mê bạo lực và hủy hoại này, tất cả những ham muốn khác sẽ không làm gì được bạn.” — Marcus Aurelius (tác giả cuốn Suy Tưởng)
“Một cách tinh vi, xuất tinh (xt) quá nhiều sẽ làm suy giảm sự can đảm dấn thân mạo hiểm, về sự nghiệp lẫn tâm linh. Bạn sẽ chấp nhận làm việc đủ để trôi qua, để được thoải mái, nhưng bạn sẽ thấy rằng mình thà xem TV còn hơn ngồi viết cuốn tiểu thuyết, ngồi thiền, hay gọi một cú điện thoại quan trọng. Bạn sẽ có đủ động lực để sống một cuộc đời tạm ổn, nhưng những lần xt sẽ bòn rút thứ năng lượng xông pha cần thiết để bạn xuyên thủng bức tường lười biếng và cắt xuyên những rào cản xuất hiện trong thế giới. Món quà của bạn hầu như sẽ không được trao tặng cho ai.” — David Deida, The Way of the Superior Man (Đạo của bậc thượng sĩ)
“Vì có người hoạn từ trong lòng mẹ; có người hoạn vì tay người ta, và có người tự tuyệt dục để tới được thiên đàng. Người nào lãnh nổi lời ấy thì hãy lãnh lấy.” — Jesus Christ (Matthew 19:12)
“Sự thật là thủ dâm luôn luôn gây suy nhược và lấy đi sinh lực, dù ở tuổi thanh thiếu niên hay tuổi trưởng thành. Đó là một quá trình hoàn thành dần dần điều mà sự thiến hoạn hoàn thành ngay lập tức. Nó từ từ bào mòn nam tính và tất cả những gì đi cùng với phẩm chất này. Quả đúng là tác hại của thủ dâm thường bị thổi phồng. Tuy nhiên hành vi này – khi lạm dụng tới một mức độ nhất định – nó sẽ khiến một người đàn ông hoàn toàn không còn chỗ đứng nào trong hôn nhân và trong cuộc sống. Do đó, bất kỳ cố gắng nào nhằm tối thiểu hóa tính nghiêm trọng của thủ dâm đều là một sự dối gạt ác ý. Thực tế là nạn nhân có thể vẫn đủ khả năng tự thay quần áo, đi lại và ăn uống, nhưng như vậy không có nghĩa anh ta là một người đàn ông.” — Bernarr MacFaddan
“Người ta có 3 thứ quý nhất là: Tinh, Khí, Thần. Nếu giữ được Thần, vững được Khí, không để mất Tinh thì tật bệnh còn do đâu mà sinh được?” (Danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông – Đời Lê, Trịnh)
“Năng lực của người đàn ông tàng trữ trong tinh dịch, không có bất kỳ loại dược vật hoặc vị thần nào có thể kéo dài sự sống của anh ta, trừ khi anh ta hiểu và điều hòa, nuôi dưỡng nó”. (Hoàng đế đích phanh chử y sinh)
“Âm tinh ở thận khó tạo mà tướng hỏa (có công năng về tính dục) dễ vọng động nên muốn trường thọ khỏe mạnh cần phải thu tâm, dưỡng tâm, ức chế tướng hỏa, tiết chế tình dục để bảo vệ âm tinh”. (Sách Sắc dục châm của danh y Chu Đan Khê – Đời Kim, Nguyên)
“Muốn dưỡng sinh thì phải bảo tồn tinh, bảo tồn được tinh thì trong ngoài (cơ thể) đều được vững chắc an toàn, nguồn suối của sinh mệnh không cạn, sẽ được trường thọ khỏe mạnh” (Quản tử – Tể tướng nước Tề – Thời Xuân Thu Chiến Quốc)
“Người giỏi dưỡng sinh ắt quý trọng tinh, tinh đủ ắt khí thịnh, khí thịnh ắt thần toàn, thần toàn ắt thân thể khỏe mạnh, thân thể khỏe mạnh ắt ít bệnh, thần khí vững vàng, già mà vẫn tráng kiện, thảy đều nhờ đủ tinh vậy!” (Danh y Trương Cảnh Nhạc – Đời Minh)
“Thanh tâm tiết dục thì thần sáng, không những nhiều con mà còn trường thọ” (Sách Đạt Sinh Biên)
“Chuyện phòng the chớ nên kiệt cùng, nếu để âm tinh kiệt sẽ sinh bách bệnh” (Danh y Trương Trọng Cảnh – Đời Đông Hán)
“(Trong việc hành dục) Nam giới không thể không có nữ giới để phối hợp, nữ giới không thể không có nam giới để phối hợp. Nếu cho rằng hành dục chỉ là hành vi cô lập hay đơn độc không cần có vợ/chồng thì quan niệm ấy sẽ làm nguy hại đến tuổi thọ, các bệnh tật do đó phát sinh.” (Thiên kim yếu phương – Danh y Tôn Tư Mạc, thời Đường)
“Phòng the quá độ, quan hệ lâu không thôi khiến âm khí thắng dương, dương bị hao tổn, đã bị tổn thất thì làm sao có thể tiếp tục quan hệ được? … Chớ nên theo dục mà truy tầm khoái lạc, nên tiết dục để dưỡng sinh, chớ cậy sức khỏe, chớ vì nữ sắc mà phóng túng dục tình, ý ấy là bổ dưỡng để tránh bệnh tật, là ý chỉ vi diệu của thuật phòng trung … Nếu dưới 40 tuổi đã uống thuốc phòng trung (thuốc, rượu kích thích) để quan hệ là tai họa sắp đến gần, thật đáng tiếc”. (Ngọc phòng bổ ích/Thiên kim yếu phương – Danh y Tôn Tư Mạc, thời Đường)
“Quan hệ vợ chồng như nước và lửa, chúng có thể giúp người nhưng cũng có thể giết người, vấn đề là điều tiết nó thế nào”. (Khuyết danh)
“Trai gái giao hợp quá sớm hay quá độ đều tổn hại đến nguyên khí của tiên thiên là lý do chết non … Nếu không biết tiết chế sắc dục của mình thì trăm mạch khô cạn, giao hợp không điều độ ắt hao tổn nguyên khí của thận”. (Danh y Việt Nam Hoàng Đôn Hòa)
“Thức đêm lo nghĩ quá nhiều, say mê sắc dục cũng đều hại tâm, biến sinh Lao trái bệnh thâm, chân nguyên suy tổn ngấm ngầm chết non”. (Vệ sinh yếu quyết của Hải Thượng Lãn Ông)
“Phải răn tửu sắc chơi bời; thỏa lòng chốc lát cuộc đời ngắn đi. Tinh hao, chân khí phải suy; nguyên thần ly tán bệnh gì chả sâu”. (Vệ sinh yếu quyết của Hải Thượng Lãn Ông)
“Tam tinh thành nhất độc, chuyên tổn bất khiết nữ” nghĩa là “Tinh dịch của nhiều đàn ông trộn lại thành chất độc, chuyên tổn hại người đàn bà không trong sạch”. (y thư cổ)
“Người có 9 khiếu, 12 đốt là tự sinh trưởng ở các bộ vị nhất định, có tác dụng nhất định. Vì sao bộ phận sinh dục tuy cùng với các bộ phận khác sinh trưởng nhưng công năng lại bị suy giảm trước tiên? … đó là do không biết cách chăm sóc giữ gìn, không tiết chế quan hệ nên sớm suy giảm vậy”. (Sách Thập vấn).
“Trong thận có một khiếu tên Huyền Quan, ngoại thận có một khiếu tên Bắc Hộ, khi chân tinh chưa bị tiết, thể Càn chưa bị phá thì dương khí bao ngoài thận khiến khí của người và khí của trời đất hợp với nhau. Chân tinh tiết mất thì thể Càn bị phá, thận bị tổn dương mà suy mất, cuối cùng không còn ứng với thiên địa nữa”. (Sách đạo giáo)
“Da phấn, tóc thơm với má đào; Mắt nhìn ai cũng thấy nao nao; Thực chất chỉ toàn xương với thịt; Giết người đau đớn chẳng cần dao” (Vua Trần Thái Tông – Đời Trần)
“Bản chất của nước là trong nhưng đất làm cho nó đục. Thiên tính người ta có thể trường thọ nhưng do vật dục quấy nhiễu nên nó không được trường thọ. Vật vốn dùng để dưỡng sinh, dưỡng tính (mệnh) chứ đâu phải tính (mệnh) dùng để dưỡng vật. Người đời không hiểu sự lí, phần nhiều hy sinh thiên tính để chạy theo vật dục. Đó là không hiểu được lẽ bên nào khinh, bên nào trọng nên coi nhẹ tính mệnh mà xem trọng vật dục. Như vậy, làm việc gì cũng không tránh khỏi thất bại …
Muôn người cùng giương cung bắn một cái bia thì bia ấy không thể không bị bắn trúng, muôn vật tốt đẹp cùng dụ dỗ mê hoặc con người, nếu như dùng nó để làm tổn hại nhân tính và sinh mệnh của con người thì nhân tính và sinh mệnh không thể không bị tổn hại …
Thịt béo rượu nồng, nhan sắc mĩ miều, răng trắng nõn nà cùng âm thanh réo rắt cốt để có lạc thú, song thật ra phải gọi nó là thứ làm hại tính mệnh …
Các bậc đế vương, quý nhân và kẻ hiền tài hay người kém cỏi sống trên đời chẳng có ai là không muốn trường sinh bất lão, nhưng ngày ngày lại sống trái với đạo trường sinh, nên dẫu muốn lắm mà có ích gì?
Phàm người sinh mệnh trường cửu đều là người sống theo thiên tính (bản tính thiên chân hợp với đạo) của mình, bắt sinh mệnh của mình phải trái với thiên tính đó chính là tình dục, cho nên Thánh nhân nhất định khống chế tình dục của mình cho vừa phải.” (Sách Lã Thị Xuân Thu – Thời Xuân Thu Chiến Quốc)
“Người thời thượng cổ biết đạo dưỡng sinh, họ bắt chước theo lẽ biến hóa của Âm Dương, điều hòa bằng thuật số (các phương pháp tu dưỡng). Ăn uống có tiết độ, sinh hoạt có mực chừng, không để mình lao nhọc vì những điều càn quấy. Do đó, hình thể họ cường tráng tinh thần họ minh mẫn, có thể sống trọn tuổi trời, trăm tuổi mới thác.
Người thời nay thì không thế, lấy rượu làm thức uống, lấy sự (sinh hoạt) sai quấy làm lẽ thường, say sưa rồi giao hợp, lấy sắc dục làm cho tinh kiệt quệ, hao tổn đến chân khí, họ không biết giữ (tinh, khí, thần) cho đầy đủ, không thuận theo sự thay đổi khí tiết bốn mùa để bảo dưỡng tinh thần, họ chỉ muốn làm cho khoái cái tâm mà trái nghịch lại cái vui chân thực của đạo dưỡng sinh, họ hoạt động – nghỉ ngơi không điều độ, do đó tuổi mới nửa trăm thì đã suy yếu vậy.
Thánh nhân thượng cổ dạy người biết trốn lánh hư tà tặc phong, lòng yên định thanh tĩnh, không ham muốn mơ tưởng hão huyền, giữ cho chân khí sung túc, tinh thần ở yên bên trong không bị hao tán cho nên bệnh tật làm sao xen vào được? Ý chí họ an nhàn, tri túc thiểu dục, tâm an mà không sợ, hình mệt mà không nhọc. Khí huyết điều hòa tự nhiên, mọi sự mãn nguyện. Phong tục thuần hậu, ai cũng vui vẻ an cư, không ham muốn hão huyền. Người ta gọi họ là “phác” (chất phác, có phước). Nhờ vậy, sự ham muốn không làm mắt họ mệt, điều dâm tà không làm tâm họ mê hoặc. Tất cả kẻ ngu, bậc trí, người hiền, vv… đều không bị ngoại vật làm cho kinh sợ. Cho nên ta gọi đó là hợp với đạo. Vì sao họ sống đến trăm tuổi mà sức lực không suy giảm? Đó là bởi họ giữ được đức của mình toàn vẹn, cho nên không bị nguy đến tính mạng vậy.
Kẻ ngu chỉ biết sự khác nhau giữa khỏe mạnh và già yếu, cho nên kẻ ngu khí huyết thường chẳng đủ mà bậc trí giả thì có thừa, có thừa thì mắt sáng thông minh, thân thể nhẹ nhàng cường tráng, tuổi già vẫn như thanh niên, tuổi thanh niên thì càng mạnh. Do đó mà thánh nhân tu hành dưỡng sinh” (Hoàng đế nội kinh tố vấn – Thời thượng cổ)
• • •
“Tiết dục là tuyệt đối cần thiết cho tiến trình phát triển tâm linh. Nó là kết luận của những bậc đại đạo của loài người, bởi vì những thực hành tâm linh tạo ra một gánh nặng to lớn lên hệ thần kinh và não bộ. Những người không thực hành tiết dục sức mạnh tinh thần và não bộ quá yếu để gánh vác gánh nặng đó. […] Những trải nghiệm tâm linh cao hơn sẽ không thể xảy ra đối với người không tiết dục. Đó là lý do vì sao việc tiết dục, cách này hay cách khác, đã được xem là nền tảng của đời sống tâm linh bởi mọi hệ thống tâm linh của thế giới mà không có ngoại lệ.”