19.8 C
Da Lat
Thứ Sáu, 12 Tháng 9, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 64

Chọn đam mê hay tiền bạc?

0

Sống với đam mê hay sống một cuộc đời rập khuôn?

Trước kia, mình đã từng rơi vào sự phân vân giữa việc nên lựa chọn sống với đam mê hay là sống một cuộc đời rập khuôn ngày ngày đi kiếm tiền cho đủ bữa ăn như đại đa số. Lúc đó, bên trong mình xuất hiện cùng lúc hai nỗi sợ và không biết phải làm sao để thoát ra: sợ không làm theo trái tim và sợ nghèo đói mất cân bằng. Bây giờ nhìn lại, mình thấy không hề khó để có thể nói được tương lai nếu lúc đó mình không thay đổi, đó là sẽ chẳng có gì tươi sáng cả, vì sự thành công không đi cùng những nỗi sợ hãi.

Khi ở trong những sự toan tính, mình đã không thể nào sống với mức năng lượng cao nhất. Sự sáng tạo dần dần bị hủy hoại bởi một ngưỡng năng lượng thấp hơn quấy nhiễu, bởi sự chia rẽ trong tư tưởng. Khi chú ý vào tiền bạc thay vì vào việc đồng hành với những nhiệt huyết bên trong, mình đã đặt sự thành bại của bản thân vào việc lo lắng cho những thứ không phải là cốt lõi. Nên trong suốt một khoảng thời gian dài, mình đã luôn phải sống với nỗi lo âu, căng thẳng, mâu thuẫn, tự ti và sợ hãi.

Nhưng rồi từ khi mình quyết định không quan tâm đến tiền nữa, tập trung làm những gì mình thật sự yêu thích và phó mặc kết quả cho Trời đất, thì sự màu nhiệm bắt đầu nảy nở. Trong cuộc hành trình ấy liên tiếp xuất hiện những người (đôi khi chưa từng gặp mặt) trợ giúp cả về tài chính và tinh thần; xuất hiện những cơ hội phát triển, kết nối, lan tỏa, rèn luyện kỹ năng, chúng đến vào lúc mình không hề kỳ vọng. Những sự kiện đều được liên kết chặt chẽ với nhau như thể được “ông lớn” vũ trụ dẫn lối. Tất cả những gì mình làm chỉ là tập trung vào những gì mình yêu mến nhất, thay vì tập trung vào thứ khiến mình bị âu lo căng thẳng.

“Trời đất yêu quý lòng can đảm. Nếu bạn đặt ra quyết tâm thì trời đất sẽ đáp ứng lại quyết tâm đó bằng cách loại bỏ hết mọi vướng bận tưởng chừng không thể. Mơ giấc mơ không tưởng và thế giới sẽ không nghiền nát bạn; nó sẽ nâng bạn lên. Đây chính là cái mẹo. Đây là những gì mà các đạo sư và các triết gia, những người thật sự đáng kể, những người thật sự đã chạm vào được hòn đá hóa kim, đây là những gì họ hiểu. Đây là điệu nhảy của pháp sư trong thác nước. Đây là cách phép thuật được thực hiện: Bằng cách quăng bản thân mình vào vực thẳm và khám phá ra được rằng nó là một chiếc giường tơ êm ái.” — Terence McKenna (NHH dịch)

Đam mê hay tiền bạc?

Không chỉ có mình, mà rất nhiều người bạn ngoài kia cũng rơi vào mâu thuẫn tương tự, không biết nên chọn sống theo đam mê hay tiền bạc. Bạn thích vẽ nhưng sợ rằng nếu chỉ vẽ thôi thì không kiếm đủ tiền nuôi thân. Trong sự bối rối không tìm thấy lối ra, các bạn lại đổ tội cho đam mê thuộc thị trường “ngách”, chứ không phải do bạn vẽ chưa đủ giỏi và chưa đủ kiên trì theo đuổi con đường mình yêu thích. Giỏi ở đây không phải chỉ ở kỹ thuật, mà ở cái tâm của bạn – linh hồn. Vẽ mà không có tâm (không dũng cảm, không trong sáng, không hướng thiện, luôn sợ hãi lo lắng chuyện tiền này tiền kia) thì sẽ chỉ tạo ra một sản phẩm chết. Mà một thứ chết rồi thì sẽ chẳng ai ngó ngàng tới. Nên đừng vội nói đến tiền khi bản thân còn chưa tìm thấy giá trị bên trong con người mình.

“Nhiệm vụ của người nghệ sĩ là cứu rỗi linh hồn nhân loại. Nếu người nghệ sĩ không tìm thấy con đường thì con đường không thể được tìm thấy.” — Terence McKenna

Không nhiều người tìm thấy được đam mê của mình

Trên đời này rất ít người tìm thấy được đam mê của bản thân. Nhưng số người dám sống với nó lại còn ít hơn nữa. Và số cực hiếm ấy mới là người trở nên vĩ đại. Họ mới là những người nghệ sĩ đích thực, người chạm tới sự sinh động của cuộc đời, là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ của thế giới. Một khi dòng nhiệt huyết bên trong đã được sống dậy thì tư duy phải đầy đủ vật chất không còn là một gánh nặng, vì họ biết sự đầy đủ về tâm hồn đã thỏa mãn tất cả.

“Cuối cùng, khi chúng ta đến được điều mà một cá nhân nói anh ta muốn làm, tôi sẽ nói với anh ta: ‘Hãy làm điều đó và quên tiền đi.’ Bởi vì nếu bạn nói rằng kiếm tiền là quan trọng nhất, bạn sẽ dành suốt cuộc đời chỉ để lãng phí thời gian. Bạn sẽ làm những việc mình không thích để tiếp tục sống. Và tiếp tục làm những việc bạn không thích. ĐIỀU NÀY THẬT NGU NGỐC!” — Alan Watts

Một người có một ngưỡng tinh thần trù phú sẽ hiện thực hóa được một cuộc đời trù phú, không chỉ về vật chất mà còn là các mối quan hệ, những kinh nghiệm sống. Còn một người có một ngưỡng năng lượng thấp kém, nhiều sự sợ hãi, căng thẳng, chật chội sẽ biểu diễn ra một cuộc đời nghèo nàn, co rút trên tất cả các khía cạnh. Tiền luôn là công cụ, là thứ đến sau mục đích. Và nếu không xem nó như là thứ đến sau thì mọi chuyện sẽ trở nên bát nháo mất trật tự. Chúng ta sẽ không bao giờ có được bình an và hạnh phúc từ một nguyên tắc sống hỗn độn.

Vậy nên, nếu bạn nào đã tìm thấy đam mê thì hãy sống hết mình với nó, nhìn nó như một cơ hội to lớn để thiêu đốt những sợ hãi, tham lam và ngờ vực. Chúng ta ai rồi cũng chết, chỉ khác nhau ở lúc sống, là một người hạnh phúc hay là một kẻ suốt ngày âu lo.

“Hãy xem loài hoa huệ, coi chúng mọc lên thể nào. Chúng chẳng làm lụng khó nhọc, cũng không kéo chỉ, nhưng Ta nói với các ngươi, dẫu Vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, vua ấy cũng không mặc đẹp như một hoa nào trong các hoa ấy. 28 Nếu hoa cỏ ngoài đồng là giống nay còn sống mai bị tống vào lò mà Thượng Đế còn cho chúng mặc đẹp thể ấy thay, lẽ nào Ngài chẳng lo cho các ngươi sao, hỡi những kẻ yếu đức tin? 29 Các ngươi đừng tìm kiếm về việc ăn gì, uống gì, và đừng quá lo lắng về những việc ấy. 30 Vì các dân trên thế giới đều tìm kiếm những điều ấy, và Cha các ngươi đã biết các ngươi cần những điều ấy rồi. 31 Thay vào đó hãy tìm kiếm vương quốc nước Trời thì các ngươi sẽ được ban thêm những điều ấy nữa.” — Jesus Christ (Luke 12:31)

Tác giả: Hòa Taro
Ảnh minh họa: Julia Caesar

Xem thêm

💎 [THĐP Translation™] Vì sao những học sinh thành công nhất không có đam mê dành cho trường lớp

[THĐP Translation™] Những điều cơ bản cần biết về Chủ nghĩa Stoic (chủ nghĩa “khắc kỷ”)

0

thdp translation 3

“Một lý do tuyệt vời để chọn ra một vị thần hay một dạng tâm linh nào đó để thờ phụng – có thể là Jesus (Giê-su) hay Allah… hay các nhóm nguyên tắc đạo đức không thể vi phạm – là vì hầu như mọi thứ khác bạn tôn thờ sẽ nuốt sống bạn.”

— David Foster Wallace

Trong 28 ngày của tháng Mười, tôi cùng 7 người khác đã trải qua những đêm lạnh cắt da và cái nắng ban ngày như thiêu đốt tại một nơi hoang vu trên sa mạc Utah trong tình cảnh thiếu thốn lương thực trầm trọng (gần một tuần không có thức ăn). Ngoài cuốn sách dạy kỹ năng sinh tồn, tôi còn mang theo bên mình quyển Letters from a Stoic (Những lá thư từ một Stoic (phát âm: Stô-íc)) của Seneca. Ngày qua ngày, tôi đã thấy một vài thành viên trong nhóm bỏ cuộc bởi sự khắc nghiệt và nhiều lý do khác. Tôi thường hỏi tại sao tôi lại làm một việc điên rồ như vậy.

Từ lâu, tôi đã là một người hâm mộ Chủ nghĩa Stoic, và bởi vì chỉ đọc quyển sách Letters from a Stoic trong suốt một tháng qua, nên tôi dành rất nhiều thời gian để chiêm nghiệm về triết lý này trong cuộc sống ngày nay. Bài viết này được thực hiện với mục đích giúp các bạn hiểu được những nguyên tắc cơ bản của một trường phái triết học cổ xưa nhưng có liên hệ mật thiết đến hiện tại.

>> [THĐP Vietsub] (TED-Ed) Chủ nghĩa “khắc kỷ” là gì?

LỊCH SỬ

Chủ nghĩa Stoic được thành lập vào khoảng thế kỷ 3 TCN bởi Zeno, một người con của nước Cộng hòa Síp (Cyprus). Trong tiếng Anh, Chủ nghĩa Stoic có tên gọi là Stoicism, bắt nguồn từ chữ stoa – một khu vực có kiến trúc hình mái vòm – nơi Zeno giảng dạy cho học trò ở Athens. Trong nhiều thế kỷ, Chủ nghĩa Stoic đã là một trong những trường phái triết học có sức ảnh hưởng nhất trong thế giới Hy-La (Hy Lạp – La Mã), và với lượng đông đảo tín đồ và giáo chủ, họ đã chỉnh sửa và phát triển nó trong mấy trăm năm. Tuy nhiên, những giá trị cơ bản vẫn luôn được giữ nguyên vẹn.

Mục tiêu chính của trường phái này là giúp con người có được hạnh phúc bằng cách đạt được điều thật sự quý giá trong cuộc sống, đó chính là arete trong tiếng Hy Lạp hay virtus trong tiếng La-tinh (dĩ nhiên nghĩa của những từ này sẽ phức tạp hơn rất nhiều so với từ “virtue” – mang nghĩa “đức hạnh” trong tiếng Anh). Lẽ chí thiện (lý tưởng thượng đỉnh) (Summum bonum) này là sự tập hợp của bốn phẩm chất:

  1. Trí tuệ, hay sự thấu hiểu đạo đức
  2. Cản đảm
  3. Tự chủ
  4. Công bằng trong việc đối xử với người khác

Một khi đã theo đuổi và đạt được arete, con người sẽ có được sự viên mãn, thật sự tự lập, tự chủ,  miễn nhiễm khỏi đau khổ và những điều không may. Arete không phải là phẩm chất chỉ dành riêng cho một tầng lớp hay vị trí nào, thậm chí khi một người nô lệ có được arete thì anh ta sẽ được tự do, bởi vì không ai, kể cả nhà vua, có thể tác động đến anh.

Trong Chủ nghĩa Stoic, không có một vị thần nào (ND: không phải tôn giáo), nhưng họ thường nhắc đến thánh ý (divine will) theo nhiều cách khác nhau, nhìn chung đều mang nội dung rằng tất cả chúng ta đều chung sống trong một cộng đồng với những điều kiện và hạn chế như nhau. Do đó, nghĩa vụ của chúng ta là phải sống hòa thuận và phù hợp với cộng động này. Nghĩa vụ này gồm 2 điểm:

  1. Chúng ta không nên phàn nàn, thay vào đó ta chấp nhận số phận của chính mình dù có thế nào đi nữa.
  2. Chúng ta nên sống theo quy luật tự nhiên.

Bước 1 – Chấp nhận số phận

Tại sao chúng ta phải hoàn toàn chấp nhận số phận? Thoạt nghe, điều này dường như khuyến khích ta không nên cố gắng cải thiện tương lai. Tuy nhiên, đó là một cách hiểu không đúng. Ví dụ, những người khắc kỷ rất chú trọng vào các dịch vụ công cộng hay luôn cố gắng cải thiện bản thân. Do đó trong trường hợp này, chấp nhận số phận có nghĩa là không nên quá coi trọng những thứ nhất thời, ngắn hạn. Nếu biết cách buông bỏ những điều không quan trọng, một người có thể tìm cho mình được sự bình yên trong tâm hồn và sự mãn nguyện không màng vật chất mà không gì có thể lay chuyển được. Nếu biết cách chấp nhận tất cả mọi thứ trên đời đều đến và đi, thì sự mãn nguyện và bình yên đó sẽ luôn đứng vững trước mọi thử thách của tham vọng, giàu sang, và nguy hiểm nhất là lòng tham. Hãy nhớ rằng khái niệm mọi thứ “đến và đi” cũng chính là một nguyên tắc cốt lõi trong Thiền Tông.

Bước 2 – Sống theo quy luật tự nhiên

Khái niệm “Quy luật tự nhiên” là một khái niệm hơi mang tính cá nhân, nên điều này cũng lý giải vì sao “chất vấn tục lệ tập quán” là một trong những điểm cơ bản của Chủ nghĩa Stoic. Tuy nhiên, có một số tư tưởng quan trọng lại rất dễ hiểu:

  • Tập sống với nhu cầu tối thiểu. Một người nên biết cách sống chỉ với những thực phẩm cơ bản, nước, quần áo và chỗ trú. Seneca đã từng viết trong thư của mình: “Thỉnh thoảng trong nhiều ngày bạn tập sống mãn nguyện với loại thức ăn nhạt nhẽo nhất, với số lượng cực ít, và bộ quần áo thô ráp. Khi đó, bạn hãy tự hỏi bản thân: ‘Đây có phải là điều mà mình từng lo sợ?’”(67). Chính ý tưởng này (và đặc biệt là câu trích dẫn này) đã khiến tôi thử thách bản thân trong 28 ngày ở một nơi hoang vắng và gần như không có thức ăn.
  • Chúng ta nên biết cách phát triển khả năng lý luận của mình. Như thế nào? Chúng ta phải hoàn thiện khả năng đó để chinh phục được những cảm xúc hủy diệt từ bên trong: nỗi buồn, nỗi đau, nỗi sợ (đặc biệt là nỗi sợ chết) và sự mê tín. Lý trí sẽ cho phép chúng ta thoát ra khỏi những cảm xúc tiêu cực trên, kiểm soát được những ham mê của bản thân, hiểu rằng không có gì là tốt hoặc xấu, tất cả đều phụ thuộc vào ý nghĩ của chúng ta, và chấp nhận tâm trí như một nơi tốt hơn để tìm thấy sự thật chứ không phải cơ thể hay cảm xúc. Một câu nói của Seneca mà những người khắc kỷ rất tâm đắc: “Con đường ngắn nhất dẫn tới sự sung túc chính là coi thường sự sung túc.”

Tác giả: Maneesh Sethi

Biên dịch: Mai Nguyen

Hiệu đính: Prana


📌 Bài dịch đã được đăng tải trong Volume 9 tạp chí Aloha. Mua membership để đọc tạp chí Aloha đang giảm giá 25% ➡️ http://bit.ly/THDPmembership 

📌 Volume 1, 2, 3 Free! (Click here)

📌 Mời Triết Học Đường Phố và các tác giả một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  1. Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  2. Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2

Triết lý khắc kỷ – 5 cách để sở hữu ý chí bất khuất

thdp translation 3
chủ nghĩa khắc kỷ

Các thành viên của một phong trào trí thức ở châu Âu đang hồi sinh một trường phái triết học khắc kỷ (stoicism) cổ xưa và kết hợp tư tưởng này với tâm lý học hiện đại để tăng cường sự dẻo dai cho tinh thần. Những ý tưởng của họ đưa ra hứa hẹn hấp dẫn cho các lãnh đạo doanh nghiệp, cũng như người đứng đầu chính phủ đang phải giải quyết những vấn đề toàn cầu trong thời kỳ hậu suy thoái đầy biến động.

Đây là tuần lễ mà những người lãnh đạo của phong trào trên tài trợ cho một sự kiện được gọi là “Tuần lễ Khắc kỷ,” trình bày những nguyên tắc bất hủ và thực tiễn của các hoàng đế và chiến sĩ từ hàng ngàn năm trước. Đồng thời, đó cũng là bài học hữu ích đối với những nhà lãnh đạo trong thời đại này để có thể áp dụng nhằm lấy lại sự bình tâm khi đứng trước hoàn cảnh khó khăn hay khi đứng giữa vòng xoáy danh lợi.

Jonathan Newhouse, tổng giám đốc của công ty truyền thông Conde Nast, đã khẳng định triết lý khắc kỷ chính là chìa khóa đem lại sự tĩnh tâm cho bản thân trong một ngành công nghiệp quá chú trọng vào hình thức. Sam Sullivan, cựu thị trưởng Vancouver, cũng cho rằng chủ nghĩa này đã giúp ông thoát khỏi trầm cảm sau vụ tai nạn trượt tuyết khiến ông bị liệt tứ chi. Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton (người từng có lối sống buông thả, trái ngược với những nguyên tắc Khắc kỷ) cũng được cho là đã tìm đến trí tuệ Khắc kỷ trong nhiệm kỳ của mình.

Một người có đầu óc kinh doanh xuất chúng như Nassim Nicholas Taleb cũng ca ngợi triết lý Khắc kỷ trong quyển Antifragile: Things That Gain from Disorder (TD: Kháng mong manh: Hưởng lợi từ hỗn loạn), một cuốn sách mà người tổ chức “Tuần lễ Khắc kỷ” Donald Robertson cho rằng đã thu hút nhiều độc giả tìm đến với chủ nghĩa Khắc kỷ.

Robertson, một nhà trị liệu người Scotland và một người đam mê văn hóa cổ điển, đã mở ra một khóa học về phục hồi tâm lý cho những người quản lý tại tập đoàn dầu khí Shell nổi tiếng thế giới với tên gọi “Làm thế nào để nghĩ như một vị Hoàng đế La Mã” dựa vào cuộc sống của triết gia–hoàng đế Marcus Aurelius. Cuộc sống của ông là hiện thân của 5 tư tưởng Khắc kỷ chính.

📌 [THĐP Review] Suy tưởng (Meditations), Marcus Aurelius – Khi vị vua hiền triết “cai trị” chính mình

khắc kỷ

1. Người Khắc kỷ nhận ra ngay lập tức những gì ngoài tầm kiểm soát

Một nhà lãnh đạo Khắc kỷ biết rằng chỉ có suy nghĩ và ý định của bản thân là thật sự nằm trong tầm kiểm soát, còn mọi thứ khác suy cho cùng đều không thể.

 “Bất kỳ ai ở vai trò lãnh đạo đều phải chấp nhận một nghịch lý về vị trí của họ: những người lãnh đạo phải nắm quyền lực nhưng thường xuyên nó xảy ra vượt khỏi tầm kiểm soát của họ,” Robertson trả lời với Forbes. “Vậy làm sao chúng ta có thể chấp nhận được những giới hạn quyền lực này mà không rơi vào trạng thái bị động?”

Người ta đôi khi nhầm lẫm chủ nghĩa Khắc kỷ với sự phục tùng, nhưng theo ông đó là “một cách hiểu lầm rất thiển cận.” Học trò của trường phái Khắc kỷ cổ xưa thường là con trai của những gia đình giàu có trên khắp thế giới. Rất nhiều người sau đó đã trở thành người cai trị các đế chế hay làm cố vấn về giao thương và chiến tranh cho các nhà lãnh đạo.

Tác giả của quyển Stoicism and the Art of Happiness: A Teach Yourself Guide (Chủ nghĩa Khắc kỷ và Nghệ thuật của Hạnh phúc: Hướng dẫn tự rèn luyện) Robertson cũng nhấn mạnh thêm: “Bạn có thể nêu tên một nhân vật khắc kỷ nào trong lịch sử chỉ biết khoanh tay đứng nhìn không? Ngồi yên một chỗ và không làm gì cả không nằm trong bản chất triết lý của họ.”

Ông cũng dẫn chứng cho câu nói trên thông qua một ví dụ so sánh của Cato xứ Utica rằng người Khắc kỷ giống như một cung thủ đang giương cung một cách tự tin, nhưng một khi mũi tên đã được bắn đi thì người đó phải chấp nhận mũi tên có thể bị gió thổi chệch hướng hoặc mục tiêu đã di chuyển.

Các nhà quản lý Khắc kỷ cũng tương tự như vậy: hoạch định, tính toán mọi thứ rất kỹ lưỡng nhưng vẫn phải chất nhận những gì xảy ra với sự bình thản toàn diện.

2. Trong bất cứ trường hợp nào, sợ hãi, tức giận và các cảm xúc khác chỉ là những sự lựa chọn cá nhân

300px-James_Stockdale_Formal_Portrait

Trên trang Harvard Business Review có bài viết mang tựa đề “Rèn luyện sự kiên cường,” trong đó nhà tâm lý học Martin Seligman của trường Đại học Pennsylvania đề cập đến khái niệm “tâm lý bất lực do huấn luyện.” Đó là khi con người phải sống và chịu đựng những môi trường gây căng thẳng, rồi cuối cùng rơi vào trạng thái hoàn toàn bị động. Tình trạng này là sự đối lập rõ rệt nhất với niềm tin của chủ nghĩa Khắc kỷ vào sức mạnh nội tại.

Bị nhốt tại một trại tra tấn ở Việt Nam, sĩ quan người Mỹ James Stockdale phải chịu những đòn nhục hình từ phía quân kháng chiến và mang trên mình những thương tích như: trật khớp vai, dập nát chân (2 lần) và gãy lưng. Sau khi bị bắn rơi từ máy bay, Stockdale đã bị giam cầm trong 7 năm: hơn 4 năm biệt giam và 2 năm trong tù.

Mặc dù thân thể ông luôn đầy thương tích trong các buồng giam ở Hà Nội, nhưng khi hồi tưởng lại, lúc đó tâm trí ông vẫn luôn tự do, và tinh thần không khuất phục.

Thông qua các kênh liên lạc bí mật, Stockdale, khi đó là một sĩ quan cấp cao, đã duy trì được mạng lưới thông tin đối với các cộng sự cùng bị bắt giam – con số này ban đầu là 75 người, về sau thì có hơn 460 người – bằng cách chỉ đạo và động viên tinh thần. Được trao trả tự do khi chiến tranh kết thúc, Stockdale sau đó được trao Huân chương Danh dự, phần thưởng cao quý nhất trong quân sự, và giữ chức hiệu trưởng trường Naval War College.

Trước khi bị bắt, Stockdale đã tự trui rèn tâm lý và khả năng chịu đựng khổ cực sau khi tốt nghiệp Đại học Stanford, nơi một giáo sư triết học đã giới thiệu cho ông những nhân vật Khắc kỷ, đặc biệt trong đó có Epictetus.

Stockdale sau này viết rằng: “Epictetus đã nói với các học trò của mình rằng không có khái niệm nào gọi là ‘nạn nhân’ của người khác. Bạn chỉ có thể là ‘nạn nhân’ của chính mình. Điều này hoàn toàn nằm ở cách bạn kỷ luật tâm trí.”

Một người quản lý Khắc kỷ cho rằng dù tình hình xung quanh có hỗn loạn đến mấy, người đó vẫn hoàn toàn kiểm soát được cảm xúc và sự giàu có trong nội tâm.

3. Sống một cuộc sống xoay quanh nguyên tắc, không phải tiền tài, danh vọng, gia đình hay quyền lực

Đối với một nhà lãnh đạo Khắc kỷ, mục đích không biện minh cho phương tiện. Họ luôn khao khát và muốn xây dựng cuộc sống xung quanh 4 phẩm cách cốt yếu: Trí tuệ, can đảm, chừng mực và công lý. Nếu họ sống theo bất kỳ giá trị nào khác, thì sự thất vọng là điều không tránh khỏi vì tất cả mọi thứ, ngoại trừ các phẩm cách trên, đều là phù du. Đó cũng là chủ đề chính trong quyển 7 Habits Of Highly Effective People (7 thói quen của người thành đạt) của bậc thầy kinh doanh Stephen R. Covey.

Quả thật rất khó để rèn luyện các phẩm chất này ở những nơi xô bồ và phức tạp như Phố Wall hay Thung lũng Silicon. Tuy nhiên, một doanh nhân Khắc kỷ sẽ nhận ra nếu tham vọng của anh ta gắn liền với bất cứ thứ gì ngoài các phẩm chất cốt yếu kể trên, anh ấy cũng sẽ “giống như chú chó bị buộc vào chiếc xe đẩy và bị lôi theo bất cứ nơi nào chiếc xe đó đi đến” – một câu nói của triết gia Khắc kỷ Cleanthes.

Điều này không có nghĩa người Khắc kỷ không tận hưởng những lạc thú như sự tôn vinh, tình yêu và tiền tài. Đó chỉ là những thứ mà “có thì tốt hơn” chứ không “buộc phải cóđể mang lại hạnh phúc cho những ai theo trường phái này. Một triết gia chân chính, theo lời của Crates thành Thebes, là người “đối xử với những người quyền quý hay những kẻ nghèo hèn đều như nhau.”

Hành trình cuộc sống quan trọng hơn bất cứ ham muốn vật chất nào bởi vì hành trình chính là cuộc sống. Nếu bạn cảm thấy bế tắc trong một môi trường làm việc đòi hỏi những hành vi trái luân lý, một bậc thầy Khắc kỷ sẽ khuyên bạn tốt hơn là nên nghỉ việc thay vì ở lại một nơi làm xói mòn nguyên tắc bạn đang gìn giữ.

Một nhà lãnh đạo Khắc kỷ sẽ làm tất cả mọi thứ trong khả năng để thành công, nhưng sẽ không vi phạm những nguyên tắc của chính mình để theo đuổi lợi danh phù phiếm.

4. Đừng phí phạm cảm xúc cho những kẻ lỗ mãng

Về mặt từ ngữ, khi nói đến chữ “khắc kỷ”, chúng ta thường liên tưởng đến hình ảnh một nguời lạnh lùng, nghiêm khắc, giống như nhân vật Scrooge trong tác phẩm A Christmas Carol. Nhưng trớ trêu thay chủ nghĩa Khắc kỷ còn dẫn tới lòng cảm thông sâu sắc hơn đối với những ai không phải là Khắc kỷ, vì họ không đủ may mắn để sống một cuộc sống xoay quanh nguyên tắc.

Vì vậy, bất kì người nào cư xử lỗ mãng hay lừa lọc, dùng thủ đoạn với một người Khắc kỷ, thì điều này càng minh chứng họ chẳng khác gì con vật bị trói buộc trong câu nói của Cleanthes. Hiển nhiên, với một tâm lý đã được rèn luyện trước những kích thích tiêu cực, người Khắc kỷ lựa chọn cách phớt lờ về mặt cảm xúc khi có người gây sự.

 “Thử thách đối với những ai theo trường phái này luôn là việc chung sống trong một xã hội đầy rẫy những người phải chịu khổ sở vì luôn coi trọng vật chất hay địa vị xã hội, mà không bộc lộ sự không cảm thông cho hoàn cảnh của những người đó,” Robertson nói thêm.

Ông đã viết về sự liên kết giữa liệu pháp nhận thức hành vi hiện đại và chủ nghĩa Khắc kỷ: “Hầu hết các bác sĩ trị liệu hiện nay gặp rất nhiều trường hợp tự gây ra đau khổ cho bản thân nhưng vẫn phải thể hiện thái độ cảm thông và thấu hiểu, ngay cả khi người đó là kẻ thù lớn nhất của chính mình.”

Chủ nghĩa Khắc kỷ là một triết lý tất định, nghĩa là những người theo chủ nghĩa này tin rằng mọi hành động bên ngoài là kết quả không thể kiểm soát được của những tình huống dẫn đến hành động đó. Do đó, nếu một người cư xử thô lỗ, đó là bởi vì bên trong họ có điều gì đó không bình thường dẫn đến hành động như vậy. Điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của người Khắc kỷ. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên rắc rối hơn khi liên quan đến vấn đề tội phạm.

Robertson đề cập thêm: “Một hệ thống công lý hình sự nên đối xử tội phạm như thể họ đã ngu ngốc phạm phải một sai lầm nghiêm trọng nhất trong cuộc đời. Hệ thống đó nên tập trung hướng đến việc khôi phục danh phẩm và giáo dục, hay có thể dùng biện pháp răn đe, chứ không phải trừng phạt hành vi phạm tội, điều mà người Khắc kỷ cho là một cách đáp trả dại dột và hà khắc với phạm nhân. Hành động đó khiến chúng ta chẳng khác gì những kẻ đã phạm tội.”

Một nhà lãnh đạo Khắc kỷ luôn giữ được sự điềm tĩnh trước những hành vi sai trái, thiếu suy nghĩ của người khác. Anh ta không phản ứng thái quá, trong trường hợp buộc phải xét xử sự việc, bất kỳ hành động trừng trị nào được áp dụng đều nhằm cứu giải cho những động cơ bất ổn đằng sau, hơn là mù quáng đưa ra hình phạt đích đáng.

5. Thiền định mỗi ngày để bản thân luôn hướng về những nguyên tắc

Mỗi ngày là sự khởi đầu mới, và người Khắc kỷ thư giãn đầu óc bằng cách đọc hoặc ngẫm nghĩ về một triết lý Khắc kỷ nào đó. Quá trình này được gọi là “làm sạch nhận thức,” hay sự thanh lọc. Người Khắc kỷ ngồi thiền mỗi buổi sáng để lấy lại sự phấn chấn, cũng như tự nhắc nhở bản thân trong việc rèn luyện các nguyên tắc. Trong khi đó, vào buổi tối, việc ngồi thiền sẽ giúp họ chiêm nghiệm lại những việc làm sai trái và cảm nhận sự tự hào xứng đáng cho những gì đã đạt được.

Điều thú vị trong làn gió mới được thổi vào để làm sống lại chủ nghĩa Khắc kỷ từ thời xa xưa này chính là việc cụ thể hóa những tư tưởng này vào đời sống. Chủ nghĩa này được lập ra, kể từ khi Epictetus và các nhà thông thái Khắc kỷ khác dạy rằng triết học là một lối sống, chứ không phải là một bài tập học thuật.

Trong cuốn sách Philosophy for Life and Other Dangerous Situations (Triết lý dành cho Cuộc sống và Những tình huống nguy hiểm) của mình, nhà văn người Anh Julian Evans đã lồng những buổi phỏng vấn của ông với các nhân vật Khắc kỷ xuất chúng ngày nay để tăng thêm giá trị thực tiễn cho những lý tưởng cao thượng này.

Khi đó, những người tổ chức Tuần lễ Khắc kỷ, bao gồm Evans và các giáo sư tại trường Đại học Exeter, đã huy động được hơn 2000 người tham gia sự kiện “Sống như người Khắc kỷ trong vòng 1 tuần.” Họ đã tạo ra nhiều bản thu âm về thiền định và phát hành một quyển số tay 38 trang hướng dẫn cách thực hiện.

Hoàng đế Aurelius đã hình dung một người Khắc kỷ “như một võ sĩ, chứ không phải kiếm sĩ. Vũ khí của kiếm sĩ có thể được nhặt lên và bỏ xuống. Vũ khí của võ sĩ là một phần thân thể của anh ta. Tất cả những gì anh ấy cần làm là nắm chặt nắm đấm.”

Chủ nghĩa Khắc kỷ không phô trương hay đòi hỏi bất cứ điều kiện nào, do đó ai cũng có thể rèn luyện một cách nhanh chóng và đơn giản. Thông qua việc luyện tập hằng ngày, kể cả nam hay nữ, đều sẽ có được một rào chắn tâm lý vững vàng và tự nhiên như bản năng.

Tác giả: Carrie Sheffield – Forbes
Biên dịch: Mai Nguyen
Hiệu đính: Prana


📌 Bài dịch đã được đăng tải trong Volume 9 tạp chí Aloha. Mua membership để đọc tạp chí Aloha đang giảm giá 25% ➡️ http://bit.ly/THDPmembership 

📌 Volume 1, 2, 3 Free! (Click here)

[Review] 2001: A Space Odyssey – Chuyến du hành vào miền tâm thức

0

Trong suốt qua hơn sáu mươi năm lịch sử điện ảnh, điều đã được minh chứng rõ ràng nhất hết lần này đến lần khác là hiếm có một nhân vật nào có thể so bì được với bậc thầy auteur Stanley Kubrick

Với cách tiếp cận điện ảnh độc đáo, trí tuệ, hàm chứa nhiều ý nghĩa ẩn dụ nhiều tầng về mỹ học, triết học, chính trị, Kubrick được ví như một Leonardo da Vinci của thời hiện đại, là một tượng đài mà bất cứ ai đam mê điện ảnh cũng phải dành lấy một sự kính trọng nhất định đối với ông. Kubrick, đối với giới nghệ thuật, là một hiện thân của sự vĩ đại và trù phú trong từng đường nét chấm phá, với những món sơn hào hải vị đòi hỏi người thưởng thức phải có một trình độ và tư tưởng, cách suy nghĩ nhất định đối với từng món ăn được bày ra thịnh soạn.

Kubrick là một đạo diễn người Mỹ nhưng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ phong cách làm phim của các vị đạo diễn Châu Âu; từ phong trào Làn Sóng Mới Pháp cuối những năm 1950, Andrei Tarkovsky, cho đến những phim của Ingmar Bergman. Điều đó được phản ánh rõ nhất qua những tác phẩm như hài đen Dr Strangelove, Ben-Hur, Barry Lyndon, và nổi bật nhất, có tầm ảnh hưởng nhất trong số đó chính là 2001: A Space Odyssey.

Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người và trong nhà

Luôn đứng đầu trong danh sách những bộ phim khoa học viễn tưởng có tầm ảnh hưởng nhất trong lịch sử, 2001 là kết tinh của sự sáng tạo vô biên của loài người, của nền khoa học kỹ thuật, khoa học vũ trụ phát triển như vũ bão vào bối cảnh bộ phim ra đời: Những năm 1960.

Được viết song song với cuốn sách cùng tên của Arthur C Clarke, 2001 hoạt động dựa trên nhiều tầng lớp có sự gắn kết mật thiết và chặt chẽ với nhau. Đó là những góc máy quay như xuất phát từ tiềm thức của người xem, là những kỹ xảo practical đi trước thời đại nửa thập kỷ, sự pha trộn giữa cái nghệ thuật và sự tính toán tỉ mỉ của một nhà toán học. Đó là những phép ẩn dụ, hoán dụ, nghịch đảo cho quá trình tiến hóa của nhân loại, vũ trụ, chủ nghĩa nhân sinh. Đó là tương lai, là những suy đoán về số mệnh của con người với sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo. Là tư tưởng của Nietzsche, là dấu vân tay của Picasso, là một cái gật đầu đồng tình trong sự đột phá nghệ thuật làm phim của Orson Welles, kết tinh của mọi tư tưởng triết học, tâm linh, tình huống tiến thoái lưỡng nan trong những vấn đề cấp bách của nhân loại thế kỷ XXI.

Trong hình ảnh có thể có: đêm và bầu trời

2001 là một trải nghiệm, không khác biệt với những trải nghiệm tâm linh, khai mở tâm trí của khán giả và mở ra những cánh cửa nhận thức. Quả thật, khó có thể dùng từ ngữ để lột tả trọn vẹn hết điều làm nên cái hay của Kubrick, của 2001. Suốt nhiều thập kỷ qua, bộ phim đã được phân tích đến từng chân tơ kẽ tóc, với nhiều những giả thuyết xoay quanh nội dung: điên rồ có, siêu hình có, “giả thuyết âm mưu” cũng không nằm ngoài những dự đoán của các fan bộ phim.

2001: A Space Odyssey lấy bối cảnh năm 2001 (33 năm sau khi bộ phim được sản xuất) về một nhóm các phi hành gia lên đường tìm kiếm và nghiên cứu một vật thể tảng đá monolith (tảng nguyên khối). Khối monolith là một vật thể kỳ bí, công dụng không ai biết rõ nhưng điều mà các nhà khoa học có thể nhận thấy rằng nó là một sản phẩm trí tuệ ngoài hành tinh. Nhìn ở một khía cạnh vượt khỏi nội dung bộ phim, nó đại diện cho sự thúc đẩy, bước tiến vượt bậc trong quá trình tiến hóa của loài người. Với hình dáng như được mài dũa thật tỉ mỉ bởi những công nghệ cấp tiến, khối monolith là một trong những tâm điểm chính đáng để bàn luận trong 2001, bên cạnh cỗ máy trí tuệ nhân tạo HAL 9000.

Trong hình ảnh có thể có: ngoài trời

HAL 9000 là hiện thân của sức mạnh khoa học kỹ thuật, của những gì nhân loại chưa biết. Một sản phẩm nhân tạo song có đủ trí tuệ và sự biểu đạt cảm xúc đến mức thượng thừa, đủ để thậm chí còn trên cơ cả con người trong bộ môn cờ vua. (Đến giữa những năm 1990, cỗ máy Deep Blue đã biến điều này thành sự thật khi đánh bại đại kiện tướng Garry Kasparov để chứng minh sức ảnh hưởng của máy tính trong cả những lĩnh vực cần sự khéo léo về tư duy.) HAL 9000 trong tâm trí của Kubrick như thuộc một “chủng loài” với nhận thức tiến hóa hơn, hoàn hảo hơn con người về mọi mặt, đồng thời cũng là đại diện trở ngại lớn nhất của loài người: Vấn đề hiện sinh.

Tôi sẽ dừng review phần nội dung của bộ phim ở đây, và tiếp đến là nêu ra những quan điểm tôi đúc kết được sau khi đọc vô số những bài phân tích về tác phẩm này. Phần còn lại, hãy tự bạn trải nghiệm bộ phim và tự rút ra những ý kiến của bản thân. Ngay cả như vậy, việc thấu hiểu hoàn toàn 2001 gần như là điều không thể: Bộ phim được sản xuất dàn dựng quá chặt chẽ, mà bất cứ giả thuyết nào cũng sẽ gần như tự tin rằng nó là chính xác.

Về mặt lý học, không có lý do gì để những con người yếu đuối về cả thể xác lẫn trí tuệ phải tồn tại. Những kẻ ngu dốt đi lạc trong màn đêm vũ trụ, luôn tò mò khát khao vươn tới những vì sao sau khi đã phá nát hành tinh quê nhà của chính họ. Những kẻ đi ngược lại chu trình tiến hóa, muốn chơi trò chơi của Thượng Đế dù rằng trí thông minh so với một cỗ máy như HAL 9000 không khác gì những con vượn. Khoa học càng phát triển ta càng hiểu ít đi về bản thân và chỗ đứng trong lịch sử hơn. Ta nghĩ quá nhiều mà ta lại cảm quá ít. Ta có cái nhìn một chiều về tất cả mọi thứ, ngay cả ở những điều ngoài tầm với.

Trong hình ảnh có thể có: bàn và trong nhà

2001, với tôi, là cái nhìn của Kubrick đối với quá trình lịch sử khoa học và tâm linh nhân loại: quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Mỗi lần khối monolith xuất hiện, nhân loại lại có một bước tiến về mặt khoa học. Lần đầu tiên những con vượn nhìn thấy khối monolith, chúng đã biết thế nào là xung đột: Chúng phân chia ra lãnh thổ; chúng đã đặt ra những ranh giới, hiểu về định nghĩa cái tôi, hiểu thế nào là sinh tồn và đấu tranh vì lẽ sống của bản thân. Hàng triệu năm sau, những chú vượn ấy đã tiến hóa thành loài người, và loài người lại tìm thấy khối monolith ở một hành tinh xa xôi. Lần thứ ba, khi khối monolith đứng trước một David Bowman già cỗi, con người đã “tiến hóa” (tái sinh) trở thành một đứa trẻ một lần nữa: Một thực thể Starchild.

Dưới góc nhìn của tôi, 2001 còn hoạt động trên một tầng lớp tâm linh: Quá trình tiến hóa của linh hồn. 2001 không khác gì hành trình của một kiếp sống trong vòng lặp samsara. Ta sinh ra, ta học hỏi về thế giới xung quanh, và rồi đến cuối đời ta vô tư, vô nghĩ, hồn nhiên như một đứa trẻ: Đi thật xa để trở về điểm xuất phát.

Trong hình ảnh có thể có: đêm

2001: A Space Odyssey cũng là một bộ phim đẹp đến ngỡ ngàng. Mỗi cảnh quay tồn tại độc lập mà vẫn gắn kết với nhau, tạo thành một “slideshow” những bức tranh sơn dầu đẹp đẽ nhất từng được đưa lên màn ảnh, ngay cạnh Stalker của Tarkovsky, hay The Tree of Life của Malick. Lần đầu tiên ta xem 2001, mọi suy diễn của ta dường như trở nên vô nghĩa khi ta đi lạc trong thế giới hớp hồn của bộ phim. Kỹ xảo của bộ phim đi trước thời đại gần nửa thế kỷ và ngay cả khi chúng ta nhìn lại bây giờ, những nhà quay phim vẫn có thể học hỏi được từ Kubrick.

2001: A Space Odyssey vừa đặt ra những câu hỏi, vừa trả lời chúng trong lúc đặt ra những câu hỏi khác. Bộ phim đã định nghĩa lại dòng phim khoa học viễn tưởng, ảnh hưởng đến một thế hệ những nhà làm phim (từ George Lucas cho đến Malick) khai phá một cộng đồng fan trung thành qua suốt nhiều thập kỷ mà vẫn giữ trong đó một chất rất Kubrick: ranh mãnh từng đường nét, tinh quái, cảm xúc đi trước lý trí và luôn làm người “xem” ngớ người với mỗi cảnh quay. 2001: A Space Odyssey là một trải nghiệm mà tôi nghĩ bất kỳ ai cũng phải có trong đời. Xem để nghĩ, để cảm nhận vẻ đẹp, cái trí tuệ của thiên tài điên Kubrick và để hiểu rằng chúng ta không hiểu gì cả.

Trong hình ảnh có thể có: ô tô

Tác giả: Minh Tu Le
Ảnh minh họa: wallpapercave


📌 Mua membership để đọc tạp chí Aloha đã giảm giá 25% ➡️ http://bit.ly/THDPmembership

📌 Mời Triết Học Đường Phố và các tác giả một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  1. Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  2. Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2

Làm sao để tin vào Thượng Đế?

0

Trước kia, mình không có niềm tin vào God hay vào bất kỳ điều gì, sống như một người vô thần luôn ngờ vực mọi thứ, không có sự trân trọng dành cho cuộc đời. Cái giá mình phải trả là sự bào mòn của tâm trí, chúng mang tới những nỗi đau và sự đổ vỡ trong tâm hồn cùng sự tan nát của rất nhiều mối quan hệ. Cho mãi tới bây giờ, sau khi thực hành vâng phục Trời Đất, mình mới hiểu ra rằng việc tin vào Thượng Đế là một việc rất quan trọng đối với sự phát triển nhận thức của một con người. Nhưng đổi lại, đây lại là việc vô cùng khó khăn với đa số những người đang sống chỉ bằng suy nghĩ.

Vì sao? Vì một người sống trong thực tại của suy luận, phân tích, tương đương với chức năng của luân xa 3 thì không thể biết đức tin, thực tại của trực giác trí tuệ, tương đương với luân xa 6, là gì. Khoảng cách giữa ngờ vực và đức tin là 3 bậc tâm thức. Người sống ở thực tại nào luôn tiếp cận mọi thứ theo quy luật của thực tại đó. Nó có nghĩa là những người vô thần luôn cần phải biết God là ai, có hình dạng gì, có nắm bắt được không và cách thức tiếp cận ra sao. Khi một người bảo rằng đừng nghĩ nữa mà hãy cảm nhận, hãy nâng tâm hồn lên, thì họ không thể làm được. Việc này hết sức khó khăn, vì đa số con người đã hóa thân vào chính thực tại đó. Những người vô thần sẽ giãy đạp bằng mọi giá để thoát khỏi ý tưởng tin vào Thượng Đế, hay Thượng Đế có tồn tại, dù rằng bản thân đang rất đau khổ và cần một góc nhìn mới, một cái phao cứu hộ.

“Your faith was strong but you needed proof.” (Đức tin của bạn thì mạnh, nhưng bạn lại cần bằng chứng.)

Dù có làm gì thì đích đến cuối cùng của tất cả mọi người đều là sự tiến hóa, hòa nhập với nguồn cội tâm linh. Có thể những gì ta thể hiện trong đời sống là một sự thoái hóa hay vô thần. Đó chỉ là một bước đường trong Đạo lộ mà ta đều cần trải nghiệm và đi qua. Nhưng nếu ai gần gũi với tâm hồn của chính mình thì người đó sẽ quyết tâm hướng tới Thượng Đế, tới những điều vĩ đại hơn dù họ không biết “nó” như thế nào. Đây được gọi là một “cú phóng đức tin” (leap of faith) khi ta quăng mình ra khỏi địa hạt của tâm trí để rơi vào nơi không biết (unknown), nhảy từ mạn thuyền xuống đại dương miên man sóng. Có thể trải nghiệm mới mẻ này sẽ khiến chúng ta hoảng loạn và sợ hãi lúc ban đầu, nhưng chỉ bằng cách đó, những hạt mầm dũng cảm của con người mới được đâm chồi, phiên bản thực tại cũ kỹ mới được vươn mình khôn lớn.

Terence McKenna đã từng nói:

“Trời đất yêu quý lòng can đảm. Nếu bạn đặt ra quyết tâm thì trời đất sẽ đáp ứng lại quyết tâm đó bằng cách loại bỏ hết mọi vướng bận tưởng chừng không thể. Mơ giấc mơ không tưởng và thế giới sẽ không nghiền nát bạn; nó sẽ nâng bạn lên. Đây chính là cái mẹo. Đây là những gì mà các đạo sư và các triết gia, những người thật sự đáng kể, những người thật sự đã chạm vào được hòn đá hóa kim, đây là những gì họ hiểu. Đây là điệu nhảy của pháp sư trong thác nước. Đây là cách phép thuật được thực hiện: Bằng cách quăng bản thân mình vào vực thẳm và khám phá ra được rằng nó là một chiếc giường tơ êm ái.”

Cách chúng ta tiến hóa không phải bằng việc ghì giữ những gì mình đang có, giậm chân tại chỗ, mà bằng việc nâng mình lên những tầng thực tại tiến bộ hơn, sử dụng luật cao hơn để điều phối luật thấp hơn. Cách chữa chạy cho sự toan tính là tình yêu, cách chữa chạy cho nỗi đau là sự cảm nhận, cách chữa chạy cho lòng nghi ngờ là đức tin tuyệt đối. Những điều tích cực sẽ gỡ mở, thậm chí phá tung những ranh giới thù hằn của sự tiêu cực (thực tại tần số thấp), mở ra cánh cửa vào miền hạnh phúc mà con người vẫn hằng ao ước.

Những hóa thân của Thượng Đế như Phật, Jesus, Krishna chỉ là những hình tượng trợ giúp cho chức năng hình dung, suy luận của tâm trí. Khi tiếp xúc với một đối tượng cụ thể, chúng ta sẽ phát huy khả năng kết nối bằng trái tim, quen thuộc như giữa hai con người bình thường (luân xa 4), để rồi từ đó có thể diễn đạt tình yêu với Thượng Đế hữu hình (luân xa 5), và cuối cùng là tin tưởng, hòa nhập với Thượng Đế (luân xa 6,7). Nếu bạn không biết God là ai và không biết phải đặt đức tin vào God kiểu gì, thì hãy sử dụng một hình tượng cụ thể là những bậc thánh thần trong lịch sử nhân loại, hay bất kỳ một đối tượng nào bạn tôn kính và yêu thương hết mực. Tất cả họ sẽ là bậc thang nâng bạn lên những tầng thực tại trù phú và linh động hơn, là tình yêu, niềm vui, sự biết ơn và thấu hiểu. Hãy sử dụng mọi công cụ bạn có với mục đích tiến hóa, chắc chắn bạn sẽ được tiến hóa.

Còn nếu bạn không sử dụng một hình tượng cố định nào đó (vì e ngại khả năng dính bám với đối tượng đó, qua sông mà không bỏ lại con thuyền hoặc cảm thấy không phù hợp) thì bạn hãy tự tìm kiếm God bên trong chính mình, tự đào sâu vào bản chất của mình, trau dồi những phẩm hạnh bằng việc gần gũi với đạo lý, cho tới khi gặp được Người. Như cách mà Alan Watts đã nói trong câu:

“Đừng tìm kiếm Thượng Đế ở ngoài kia, như là một điều gì đó trên bầu trời, tìm kiếm trong con người bạn.”

Hay như Rumi đã nói:

“Tôi kiếm tìm Thượng Đế và chỉ thấy chính mình. Tôi kiếm tìm chính mình và chỉ thấy Thượng Đế.”

Dù lựa chọn con đường niềm tin nào, God hữu hình hay vô hình, bạn cũng đều đang nắm bắt một cơ hội để bước vào một thực tại mới. Miễn sao những gì bạn làm là hướng thiện, thì God chân thực sẽ xuất hiện dành cho bạn và sự phát triển trong nhận thức của bạn sẽ ngày càng tăng tốc. Chúng ta luôn gặp nhau ở nguồn cội tâm linh.

“Nếu bạn đang gặp vướng mắc về lòng tin, bạn đang sống vì điều gì? Tình yêu đúng là khó tin, cứ hỏi những người đang yêu. Sự sống đúng là khó tin, cứ hỏi các nhà khoa học. Thượng Đế đúng là khó tin, cứ hỏi những người đang tin. Bạn có vấn đề gì với những chuyện khó tin?” – Life of Pi

 

Tác giả: Hòa Taro
Ảnh minh họa: Josh Gordon/unsplash


📌 Mua membership để đọc tạp chí Aloha đã giảm giá 25% ➡️ http://bit.ly/THDPmembership

📌 Mời Triết Học Đường Phố và các tác giả một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  1. Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  2. Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2

[THĐP Translation™] Công nghệ hiện đại tương đồng với siêu hình học của Vedanta

0

thdp translation 3

📌 Bài dịch đã được đăng tải trong Volume 8 tạp chí Aloha. Mua membership để đọc tạp chí Aloha đang giảm giá 25% ➡️ http://bit.ly/THDPmembership 

Bạn có thể nghĩ rằng những công nghệ kỹ thuật số, thường được coi là một sản phẩm của phương Tây, sẽ gia tăng sự khác biệt giữa các triết lý Đông phương và Tây phương. Nhưng trong nghiên cứu về Vedanta, một trường phái tư tưởng Ấn Độ cổ đại, tôi thấy một khía cạnh khác. Nhờ sự hiểu biết ngày càng tăng của chúng ta với điện toán, thực tế ảo (VR) và trí thông minh nhân tạo (AI), xã hội hiện đại đang phù hợp hơn bao giờ hết để thấu hiểu những trí tuệ của truyền thống này.

Vedanta tóm gọn phần siêu hình học của bộ kinh Upanishads (Áo Nghĩa Thư), một tập hợp các văn bản tôn giáo Phạn ngữ, có khả năng được viết trong khoảng từ 800 đến 500 trước công nguyên. Chúng tạo thành nền tảng cho nhiều truyền thống triết học, tâm linh và huyền bí của tiểu lục địa Ấn Độ. Upanishads cũng là nguồn cảm hứng cho một số nhà khoa học hiện đại, bao gồm Albert Einstein, Erwin Schrödinger và Werner Heisenberg, khi họ đấu tranh để thấu hiểu vật lý lượng tử của thế kỷ 20.

>> Con mèo của  Schrödinger

Cuộc hành trình của Vedanta tìm kiếm sự hiểu biết bắt đầu từ cái được xem là một điểm khởi đầu hợp lý: Ý thức của chính chúng ta. Làm thế nào ta có thể tin tưởng vào những kết luận về cái ta quan sát và phân tích, trừ khi ta hiểu cái đang thực hiện những quan sát và phân tích đó? Sự tiến bộ của AI, những mạng lưới thần kinh và deep learning (học sâu) đã khiến một số nhà quan sát hiện đại cho rằng tâm trí con người chỉ là một cỗ máy hữu cơ xử lý phức tạp – và ý thức, nếu nó tồn tại, có thể chỉ đơn giản là một đặc tính xuất hiện từ sự phức tạp của thông tin. Tuy nhiên, quan điểm này không giải thích được các vấn đề khó hiểu như về một cái ngã (self) chủ quan và trải nghiệm của chúng ta về qualia (tạm dịch: tính chất), những khía cạnh của nội dung tinh thần như ‘màu đỏ’ hay ‘sự ngọt ngào’ mà chúng ta trải nghiệm trong thời gian chúng ta tỉnh thức (nd: những lúc không ngủ). Tìm hiểu làm thế nào vật chất có thể tạo ra ý thức, vẫn còn được gọi là ‘vấn đề khó khăn’ (the hard problem of consciousness).

Vedanta đưa ra một mô hình để tích hợp ý thức chủ quan và hệ thống xử lý thông tin của cơ thể và bộ não của chúng ta. Lý thuyết của nó tách não bộ và các giác quan khỏi tâm trí. Nhưng nó cũng phân biệt tâm trí với chức năng của ý thức, cái nó định nghĩa là khả năng trải nghiệm đầu ra tinh thần (mental output). Chúng ta đã quen với khái niệm này từ các thiết bị kỹ thuật số. Máy ảnh, micrô hoặc các cảm biến khác được liên kết với máy tính thu thập thông tin về thế giới và chuyển đổi các dạng năng lượng vật lý khác nhau – sóng ánh sáng, sóng áp suất không khí, vân vân – thành dữ liệu kỹ thuật số, giống như các giác quan cơ thể của chúng ta. Bộ xử lý trung tâm xử lý dữ liệu này và tạo các đầu ra liên quan. Điều tương tự cũng đúng với bộ não của chúng ta. Trong cả hai trường hợp trên, dường như trải nghiệm chủ quan (qualia) có một vai trò rất nhỏ để đóng trong các cơ chế này.

Mặc dù máy tính có thể xử lý tất cả các loại thông tin mà không cần sự giúp đỡ của chúng ta, chúng ta cung cấp cho chúng một màn hình để làm một giao diện (interface) giữa máy tính và chúng ta. Tương tự, Vedanta cho rằng thực thể có ý thức – thuật ngữ gọi là Atma – là người/sự/cái quan sát đầu ra của tâm trí. Atma sở hữu, và được cấu tạo bởi, tính chất nền tảng của ý thức. Khái niệm này được khám phá trong các thực hành thiền định, của những truyền thống phương Đông.


Bạn có thể nghĩ về Atma như thế này. Hãy tưởng tượng bạn đang xem một bộ phim trong rạp. Nó là một phim kinh dị, và bạn lo lắng về nhân vật chính, bị mắc kẹt trong một căn phòng. Đột nhiên, cánh cửa trong phim mở tung ra đứng ngay đó là… Bạn nhảy dựng lên mất hết hồn vía. Nhưng mối đe dọa thực sự đối với bạn là gì, ngoài việc nó có thể làm đổ bỏng ngô của bạn? Khi bạn ngưng nhận thức về cơ thể của mình trong rạp phim, đồng nhất với nhân vật trên màn hình, chúng ta cho phép trạng thái cảm xúc của chúng ta bị thao túng. Vedanta gợi ý rằng Atma, cái ngã có ý thức, đồng hóa với thế giới vật chất cũng theo cách tương tự.

Ý tưởng này cũng có thể được khám phá trong lĩnh vực VR (thực tế ảo). Khi tham gia vào một trò chơi, chúng ta có thể được yêu cầu chọn nhân vật hay còn gọi là avatar (hóa thân) – có nguồn gốc là một từ tiếng Phạn, một cách khéo léo tinh tế có nghĩa là ‘một người giáng xuống từ một chiều miền cao hơn.’ Trong các văn bản cũ, thuật ngữ này thường có nghĩa là những hiện thân thần thánh. Tuy nhiên, từ này cũng phù hợp của các game thủ, anh ta hoặc cô ta giáng xuống từ thực tại ‘bình thường’ rồi bước vào thế giới ảo VR. Chúng ta chọn giới tính cho avatar, các tính năng cơ thể, thuộc tính và kỹ năng, tiếp theo chúng ta học cách kiểm soát các chi và công cụ của nó. Chẳng mấy chốc, nhận thức của chúng ta chuyển từ bản thân vật lý sang khả năng ảo VR của nhân vật đại diện.

Trong tâm lý học Vedanta, điều này gần giống với Atma dần quen với cái ngã tâm lý cá nhân gọi là ahamkara, hay bản ngã giả (pseudo-ego). Thay vì là một sự quan sát ý thức tách rời, chúng ta chọn cách xác định bản thân qua các mối liên hệ xã hội và các đặc điểm vật lý của cơ thể. Như thế, ta tin vào bản thân với tham chiếu về giới tính, chủng tộc, kích thước, tuổi tác v.v.. cùng với vai trò và trách nhiệm của gia đình, công việc và cộng đồng. Trong điều kiện nhận dạng như vậy, ta đắm chìm trong những cảm xúc liên quan – một số thì hạnh phúc, một số thì thử thách hoặc căng thẳng – được tạo ra bởi những hoàn cảnh ta chứng kiến mình đang trải qua.

Trong một trò chơi thực tế ảo VR, avatar của ta thể hiện sự bắt chước nhợt nhạt về bản thân thực tế của mình và các vướng mắc của nó. Trong các tương tác của ta với avatar của người khác, ta có thể tiết lộ rất ít về tính cách hoặc cảm xúc thực sự của mình và ngược lại. Thật vậy, những cuộc gặp gỡ giữa các Avatar – đặc biệt là khi có tính cạnh tranh hoặc chiến đấu – thường thâm hiểm, dường như không bị hạn chế bởi mối quan tâm với cảm xúc của những người đứng sau Avatar. Các kết nối được tạo ra thông qua chơi game trực tuyến không phải để thay thế cho các mối quan hệ ngoài đời. Thay vào đó, như các nhà nghiên cứu tại Đại học Johns Hopkins đã lưu ý, những game thủ có đời sống xã hội thực tế lành mạnh sẽ ít có khả năng rơi vào tình trạng nghiện game và trầm cảm.

Những quan sát này lặp lại tuyên bố của Vedanta rằng khả năng hình thành các mối quan hệ có ý nghĩa của chúng ta bị giảm đi bởi sự đắm chìm trong ahamkara. Tôi càng coi bản thân mình như một thực thể vật lý đòi hỏi nhiều hình thức thỏa mãn các giác quan, tôi càng có khả năng vật hóa (xem như đồ vật, objectify) những người có thể thỏa mãn ham muốn của tôi và tạo nên các mối quan hệ dựa trên sự ích kỷ lẫn nhau. Nhưng Vedanta gợi ý rằng tình yêu nên xuất phát từ phần sâu nhất của chân ngã, không phải cái ngã hư giả. Tình yêu, là trải nghiệm từ tâm hồn tới tâm hồn. Tương tác với những người khác trên cơ sở của ahamkara chỉ cho ra được một thứ tình cảm châm biếm giả tạo.

Là Atma, ta vẫn là cái ngã chủ quan trong suốt cuộc đời. Cơ thể, tâm lý và tính cách của ta thay đổi đáng kể – nhưng trong suốt quá trình, ta biết mình là người/sự quan sát bất biến. Tuy nhiên, khi nhìn thấy mọi thứ thay đổi xung quanh ta, ta nghi ngờ rằng ta cũng bị ảnh hương bởi thay đổi, tuổi già và hướng đến sự hủy diệt (cái chết). Yoga, được hệ thống hóa bởi Patanjali,  là một phương pháp thực tế để giải thoát Atma khỏi cơn hoạn nạn tinh thần không ngừng, và để an trú đúng đắn trong thực tại của ý thức tinh tuyền.

Trong thực tế ảo VR, chúng ta thường được kêu gọi để chiến đấu với các thế lực xấu, đối mặt với nguy hiểm và tử vong ảo trên đường đi. Bất chấp những nỗ lực của chúng ta, điều không thể tránh khỏi hầu như luôn xảy ra: Avatar của chúng ta bị giết. Trò chơi kết thúc. Các game thủ, đặc biệt là các game thủ “bệnh hoạn”, gắn bó sâu sắc với Avatar của họ, và có thể đau khổ khi Avatar của họ bị tổn hại. May mắn thay, chúng ta thường được đưa ra một cơ hội khác: Bạn có muốn chơi lại không? Chắc chắn, chúng ta chơi. Có thể chúng ta tạo ra một avatar mới, một người nào đó lão luyện hơn, dựa trên những bài học kinh nghiệm thời gian qua. Điều này lặp lại khái niệm đầu thai trong Vedanta: sự chuyển đổi của cái ngã có ý thức vào một phương tiện vật lý mới.

Một số nhà bình luận giải thích Vedanta gợi ý rằng không có thế giới thực, và tất cả những gì tồn tại đều là sự nhận biết ý thức (conscious awareness). Tuy nhiên, một cái nhìn rộng hơn về các văn bản Vedanta thì nó gần giống với thực tế ảo VR. Thế giới ảo VR hoàn toàn là dữ liệu, nhưng nó trở thành ‘thật’ khi thông tin đó thể hiện ra với những giác quan của chúng ta dưới dạng hình ảnh và âm thanh trên màn hình hoặc thông qua tai nghe. Tương tự, đối với Vedanta, chính những biến hiện nhất thời của thế giới bên ngoài là những vật thể quan sát được, khiến nó ít ‘thực’ hơn bản chất bất biến của ý thức, cái quan sát những biến hiện đó.

Đối với các nhà hiền triết xưa, đắm mình trong thế giới vô thường có nghĩa là cho phép Atma chịu khuất phục một ảo tưởng, ảo tưởng rằng ý thức của chúng ta là một phần của ngoại cảnh, phải chịu đựng hoặc tận hưởng cùng với nó. Không biết Patanjali và những vị tổ sư Vedanta sẽ nghĩ gì về VR: Một ảo ảnh trong một ảo ảnh, có lẽ thế, nhưng nó có thể giúp chúng ta nắm bắt được cái tinh túy trong thông điệp của họ.

Tác giả: Akhandadhi Das – Aeon

Biên dịch: Hàn Tâm

Hiệu đính: Prana

Akhandadhi Das là một triết gia Vedanta và nhà thần học Vaishnava Ấn Độ giáo. Ông là giám đốc của Buckland Hall, một trung tâm hội nghị và tu viện ở Wales, thành viên của Science and Philosophy Initiative (tạm dịch: Khởi xướng Khoa học và Triết học), đồng thời là phát thanh viên và cố vấn cho BBC về những truyền thống triết học và tâm linh Ấn Độ.


📌 Mời Triết Học Đường Phố và các tác giả một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  1. Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  2. Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2

Triết Học Đường Phố Official Offline Đà Lạt 26/10/2019

Một cuộc gặp gỡ hết sảy, vui hơn cả mong đợi. Rất nhiều tiếng cười và những trải nghiệm thú vị bên nhau. THĐP chân thành cảm ơn sự hiện diện và đồng hành của các bạn. Tất cả đều là những động lực to lớn giúp THĐP tiếp tục cống hiến những điều giá trị tới cộng đồng. Thân chúc các bạn sức khỏe và bình an trong cuộc sống.

DSC_3618DSC_3621DSC_3629DSC_3638DSC_3667DSC_3668DSC_3673DSC_3707DSC_3717DSC_3722DSC_3723DSC_3726DSC_3728DSC_3809

Tạp chí Aloha volume 17

0

Volume 17 lần này có thêm một chương mục mới (“Thế Giới Đó Đây”) nên số trang và nội dung cũng nhiều hơn những volume trước đây. Ai chưa có membership để đọc tạp chí Aloha của THĐP thì mua ngay tại bit.ly/THDPmembership (SALE 25% OFF)

📌 Aloha Volume 1-16

📌 Mời Triết Học Đường Phố và đội ngũ một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  • Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  • Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2

Untitled

Nội dung Volume 17

🌈 [Hỏi-Đáp] Làm sao để thay đổi định mệnh?

🌈 [Bài dịch] David Hawkins – Các mức độ tâm thức

🌈 [Truyện dài] Lên Đà Lạt | Chương 5: Phủ bụi và tái sinh – Vũ Thanh Hòa

🌈 [Bài dịch] Tại sao những ý tưởng vĩ đại luôn xuất hiện trong lúc tắm (và cách tận dụng nó)

🌈 [Truyện dài] Tuổi trẻ cô đơn – Chương 26-27 | Ni Chi

🌈 [Bài dịch] Tư duy như Elon Musk

🌈 [Truyện ngắn] Cô bé Hạt Tiêu – Quyển 2, Tập 17 – Con mèo đu dây | Vũ Thanh Hòa

🌈 [Thơ dài] Thiên đường trần gian – Phần 17 | Vũ Thanh Hòa

🌈 Thế Giới Đó Đây

74362349_2504714603095548_2162655684397629440_n

75481738_2504714746428867_425235031120674816_n

73395359_2504714836428858_6754135818727587840_n

74634733_2504715203095488_3110204389919293440_n

Cọc đi tìm trâu hay trâu đi tìm cọc?

1

Trong thời buổi hiện đại giới tính hỗn độn, vai trò bổn phận của nam nữ không còn được gìn giữ theo lối truyền thống thì chuyện trâu và cọc, cái nào đi tìm cái nào luôn nằm trong sự mơ hồ của con người. Nó thường là chủ đề của những cuộc tranh cãi lý luận dựa trên khoa học duy vật nhiều hơn là dựa vào trí tuệ và sự tự thực hành để kiểm chứng. Bản chất của Đạo lý là sự không có đối cực, vì nó là sự hài hòa của các đối cực. Nên một điều được nói ra mà có một ý trái ngược phản biện thì điều đó không phải chân lý và không xứng đáng được noi theo thực hành. Khi bảo đàn ông nên đi tán gái thì sẽ đồng thời tồn tại khả năng đàn bà đi cưa trai. Chẳng có cái nào là kiện toàn cả, chúng chỉ là thứ gây mâu thuẫn, xung đột, cần được loại bỏ càng sớm càng tốt thì một người mới có hy vọng sống hạnh phúc tiến hóa. Ngoài ra, Đạo lý là sự vận hành hài hòa của nhiều tầng lớp (layer), chứ không diễn ra một chiều như đa số con người thường nghĩ. Nên nắm bắt Đạo không phải chuyện đơn giản, nó cần trí tưởng tượng đa chiều và trực giác để cảm nhận. Khi một người bình an, họ mới có khả năng nắm bắt được Đạo. Còn người náo động nháo nhác thì không thể.

Bài viết này được đúc kết từ sự tìm hiểu và thực hành đạo lý âm dương mà cha ông để lại, và mình cố gắng viết tường minh nhất có thể. Cá nhân mình đã thay đổi nhận thức hoàn toàn về âm dương và đi ra khỏi rất nhiều đau khổ trong đời sống.

1. Trâu đi tìm cọc hay cọc đi tìm trâu?

Mình xin trả lời đó là cọc và trâu không hề đi tìm nhau như người ta vẫn thường nghĩ, chính bác nông dân là người dẫn trâu tới cố định vào cái cọc, hoặc đóng cọc vào chỗ con trâu đang đứng thẩn thơ. Vấn đề ở đây đó là con người không nhận ra được đâu là bác nông dân, và đâu là hai thứ cần được kết nối, trâu và cọc.

Ở đây, bác nông dân là biểu tượng đại diện cho Luật Trời (luật âm dương và luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”), trâu ám chỉ nguyên lý âm chứ không phải người phụ nữ, cọc ám chỉ nguyên lý dương chứ không phải người đàn ông. Nguyên lý dương (masculine) là sự đứng yên tĩnh lặng, không chuyển động, mang vai trò trụ cột. Nguyên lý âm (feminine) là thứ linh động, chuyển động, sáng tạo, mang vai trò quấn quýt. Âm luôn xoay xung quanh dương, “nương tựa” vào dương. Còn dương thì khẳng định bản chất của mình nhờ sự hiện diện của âm. Nguyên lý (spirit) dương sẽ có biểu lộ (body) âm, và ngược lại nguyên lý âm sẽ có biểu lộ dương.

Ví dụ: Mặt trời đứng yên không chuyển động, mang nguyên lý dương. Nhưng có biểu lộ của nguyên lý âm là sự tỏa phát ánh sáng. Các hành tinh chuyển động quanh mặt trời, mang nguyên lý âm. Nhưng có biểu lộ của nguyên lý dương là phản xạ ánh sáng. Một bên là hành động, một bên là phản ứng. Mọi người thường nhầm lẫn sự biểu lộ của nguyên lý là nguyên lý, trong khi hai thứ đó là ngược nhau. Nên đa phần chúng ta bị bối rối trong việc phân định đâu là nam tính đích thực và đâu là nữ tính đích thực.

2. Như thế nào là người nam tính hay nữ tính đích thực?

Người nam tính đích thực có bản chất điềm tĩnh, vững chãi, ít dao động bởi hoàn cảnh bên ngoài, ví như quả núi, và biểu hiện bên ngoài của họ ở thể hình cứng cáp, săn chắc, “sần sùi”, “gồ ghề” (tough); còn ở tinh thần thái độ là sự dũng cảm, tự tin, can trường, nhiệt huyết, năng nổ, thẳng thắn, chủ động, kỷ luật; đôi khi theo chiều hướng tiêu cực là táo bạo, liều lĩnh, tự phụ, nóng nảy, bốc đồng, khắt khe. Vì sự tận cùng tĩnh lặng (nguyên lý dương) là tiềm năng to lớn nhất cho sự rung động (nguyên lý âm).

Còn người nữ tính đích thực thì sao? Họ có bản chất linh động, sáng tạo, luôn có xu hướng cần một điểm tựa, ví như con nước và biểu hiện bên ngoài của họ ở thể hình là sự êm mềm, láng mịn, căng tròn, thướt tha (soft); còn ở tinh thần là sự dịu mát, khiêm nhường, thụ động, dưỡng nuôi, nương theo hoàn cảnh; đôi khi theo chiều hướng tiêu cực là sự tự ti, nhút nhát, dễ tổn thương, hay suy diễn ảo tưởng, màu mè, trì hoãn, ỷ nại, lẳng lơ. Vì sự tận cùng linh động (nguyên lý âm) là tiềm năng to lớn nhất cho sự ngơi nghỉ (nguyên lý dương).

Có rất nhiều câu ca dao tục ngữ Việt Nam nói về nguyên lý âm dương này. Các bạn quan sát tìm hiểu là sẽ thấy.

“Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

“Đàn ông cười hoa, đàn bà cười nụ.”

“Đàn bà không biết nuôi heo, đàn bà nhác; đàn ông không biết buộc lạt, đàn ông hư.”

3. Sự sai lầm trong tư duy của con người hiện đại nằm ở đâu?

Sai lầm của chúng ta không chỉ là sự nhầm lẫn bản chất nguyên lý với biểu lộ của nguyên lý, mà còn là khẳng định việc chỉ cần làm theo mỗi biểu lộ nguyên lý ấy là đã hoàn thiện con người. VD: Một người đàn ông cứ năng nổ lồng lộn thì sẽ là đàn ông, mà không cần quan tâm đến cội nguồn thực sự của dao động ấy là sự điềm đạm. Còn người phụ nữ cứ thể hiện sự phóng đãng, lẳng lơ thì mặc định là phụ nữ, chứ không cần quan tâm đến cội nguồn của sự lắng đọng là tính linh động. Khi không biết bản chất của các biểu lộ thì các biểu lộ ấy sẽ thể hiện ra sự tiêu cực, thoái hóa. Những sai lầm của con người đều đến từ tư duy một chiều phiến diện và mang bản chất duy vật chia rẽ. Chúng sẽ làm cho chúng ta chỉ bám vào vẻ bề ngoài của vấn đề, sống một cách máy móc hình thức, và không cảm nhận được các đối cực tiềm tàng bên trong chính mình và trong người khác giới mà mình tương tác.

Vì không hiểu được vai trò và vị trí âm dương, không hiểu được đạo lý của cha ông nên con người hiện đại sống hỗn loạn và ảo tưởng, sinh ra tranh luận mâu thuẫn, cãi cọ, tranh giành, lấn lướt chức năng của nhau. Họ lý lẽ rằng đàn ông sinh ra với bản năng chinh phục nên đàn ông phải là người xông pha đi tán gái. Rồi có người không chịu, phản biện lại thì bảo phụ nữ được bình đẳng nên phụ nữ có quyền xông lên tán trai cũng không vấn đề gì. Nhưng họ không hề biết rằng bản chất tận cùng của nam tính là nữ tính và tận cùng của nữ tính là nam tính, âm dương ở trong nhau không thể tách rời, là hai mặt của một đồng xu. Nên các ý tưởng chia rẽ của loài người về việc ai là người nên đi tán tỉnh đối phương đều rơi vào ngõ cụt và xung đột. Đạo lý không hề nói về việc cưa cẩm, mà chỉ nói về việc hoàn thành chức năng của chính mình. Sự thu hút lẫn nhau là điều hiển nhiên diễn ra sau đó. Đa phần con người xem xét vấn đề theo đối tượng rời rạc chứ không theo sự phối hợp của tần số rung động. Họ nhìn thế giới theo chiều nằm ngang, hướng tới lẫn nhau, kiểm soát lẫn nhau, thay vì nhìn thế giới theo chiều thẳng đứng, hướng tới đạo lý là sự tương hỗ âm dương và quy phục theo sự dàn xếp, mai mối của Đất Trời cho vạn vật.

4. Đạo lý thể hiện trong tự nhiên thế nào?

Nếu các bạn để ý kỹ, tất cả các hiện tượng tự nhiên đều tuân theo đạo lý âm dương. Trong nguyên tử, các hạt electron mang điện tích âm quay quanh hạt nhân mang điện tích dương. Các hành tinh xoay xung quanh Mặt Trời, những người chưa giác ngộ tìm kiếm người giác ngộ (biểu hiện trong tôn giáo), những cánh hoa xếp xung quanh nhị/nhụy hoa, bút chì quay xung quanh chân compa, tinh trùng vây xung quanh trứng, mưa gió quanh quẩn trong bầu trời, sự thay đổi cuộn tròn trong vĩnh hằng. Trong đạo tam tòng, chức năng của người phụ nữ là “chưa chồng theo cha, có chồng theo chồng, chồng chết theo con trai.” Ở đây, người phụ nữ cũng đóng vai trò “theo”, xoay xung quanh người đàn ông, tương tự như các electron vậy. Hạt nhân nguyên tử, hay người đàn ông, chẳng hề được nói là nên xông pha đi cua cô nào, chỉ được nhận biết với vai trò đứng yên, làm trụ cột. Nguyên tắc về tương tác âm dương chỉ thuần là một sự cố định và một sự đi theo. Trong Đạo, sự tán tỉnh diễn ra là thụ động, bằng việc làm đúng chức năng của mình, chứ không phải sự chủ động như cách hiểu của con người là một việc gì đó có thể “làm” được.

(Tam tòng tứ đức – Đạo lý dành cho phụ nữ là đạo lý ngầm dành cho đàn ông)

Nguyên lý nam tính mà con người đang nhận biết ngày nay bị lộn ngược, bóp méo cùng với nguyên lý nữ tính. Họ nghĩ rằng xông pha mới thể hiện bản lĩnh đàn ông. Nhưng sự thật rằng tính nam nằm ở sự kiên cố, bình an. Nó thu hút tính nữ là sự huyên náo, ồn ào, linh động, sáng tạo. Những bậc giác ngộ như Jesus, Phật Thích Ca, Lão Tử, Gandhi, v.v… mới là người mang tính nam chuẩn mực, thu hút vô số người noi theo, quy phục – là những người mang tính nữ (không điều tiết được tâm trí hỗn độn). Tôn Ngộ Không thông minh, nháo nhác bản chất là nguyên lý âm, tìm về đất Phật, giác ngộ thành Phật bình an, khiêm nhường (nguyên lý dương).

Tất cả những tư tưởng chủ động tán tỉnh, cưa cẩm nhau đều không nằm trong Đạo lý. Chúng chẳng hề làm người ta trở nên bản lĩnh hay dịu dàng, mà chỉ làm người ta dễ thoái hóa, hao hổn năng lượng, rời xa bản chất chân thực của chính mình, phụ thuộc dính mắc vào ái tình.

Các bạn hãy thử nghĩ mà xem, đàn ông bản lĩnh thì đàn bà con gái tự cảm nhận thấy mà yêu thích, mến mộ, tự đi theo xung quanh hàng đàn như các hành tinh xoay quanh mặt trời. Yêu quái săn đón Đường Tăng là vậy. Vua của nữ vương quốc cũng xiêu lòng vì Đường Tam tạng là thế. Còn phụ nữ dịu dàng yêu kiều thì sao? Đàn ông cũng tự thấy hấp dẫn, thu hút, muốn được nâng niu che chở, họ đâu cần phải hối hả đi tán trai nào cho nhiễu loạn tâm hồn.

Âm dương tương hợp là bản chất của vạn vật, chỉ khác nhau ở cường độ. Khi cường độ tương đồng, các vật tự hút lấy nhau (luật hấp dẫn). Hay nói cách khác, người nam và nữ tự hút lẫn nhau với cùng mức độ hòa hợp bên trong chính mình, chứ không phải do dương của người này hút âm của người kia hay ngược lại. Đàn bà xốc nổi thì dễ gặp đàn ông bạc nhược. Đàn bà ôn hòa thì dễ gặp đàn ông điềm tĩnh. Con người thời đại này sai lầm vì chia rẽ tính âm hay dương ra thành một khối riêng biệt, không hiểu ra nền tảng bên trong của phẩm hạnh bên trong bản thân chính là đối cực còn lại. Mỗi chúng ta đã là một sự trọn vẹn cân bằng. Sự lao về phía trước kiếm tìm “một nửa” chỉ thể hiện sự thiếu thốn, đói khát chân lý mà thôi. Chẳng có gì đáng hấp dẫn ở một người xông pha đi tán tỉnh. Tất cả sự cao quý và hấp dẫn nằm ở một người hiểu biết chân lý và tập trung làm việc của chính mình trong bình thản. Họ chẳng bao giờ phải nghi ngờ trí tuệ của Trời Đất (bác nông dân) trong việc sắp đặt lương duyên, nên chẳng bao giờ phải lồng lên truy tìm “đối phương” theo ý riêng ích kỷ của mình.

5. Vậy chúng ta lên làm gì để trở nên nam tính đích thực hay nữ tính đích thực?

Ta nên tìm hiểu và nắm bắt cho thật rõ ràng nguyên lý âm dương, bằng cách học hỏi Đạo lý từ những bậc giác ngộ, quan sát từ tự nhiên, luyện tập sự hài hòa bên trong con người mình, nâng cao nhận thức, tần số rung động, sống hướng thiện chứ không hướng vật (con người, đối tượng bên ngoài) để vượt lên khỏi tư duy mâu thuẫn, phân cực và duy vật. Thực hành đạo lý “yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” vừa là để kiểm chứng đạo lý, vừa để hợp nhất tâm hồn và biểu lộ của tâm hồn là cơ thể, mang lại bình an. Chỉ khi nào nội tâm bình an, đạo lý mới hiển lộ, âm dương mới hòa hợp, người đối ngẫu tương thích giá trị cao mới xuất hiện. Kiếm tìm chân lý là nền tảng bảo hành cho kiếm tìm chồng vợ. Luật Trời mới là ông Tơ bà Nguyệt tuyệt vời nhất. Hay nói cách khác, cái cọc và con trâu chỉ cần làm đúng bổn phận của mình là cái cọc và con trâu, những việc còn lại cứ để bác nông dân tùy cơ thi hành.

(“Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” – Ai còn biết nghe theo đạo lý này?)

Tác giả: Vũ Thanh Hòa – Hòa Taro

Ảnh minh họa: Joel Overbeck

📌 Mua membership để đọc tạp chí Aloha đã giảm giá 25% ➡️ http://bit.ly/THDPmembership

📌 Mời Triết Học Đường Phố và các tác giả một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  1. Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  2. Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2

Hình tượng Tôn Ngộ Không hé lộ 4 bản chất của tâm trí

0

Một trong những nhân vật nghệ thuật mà mình yêu thích nhất là chàng khỉ đá Tôn Ngộ Không trong đại kiệt tác Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân. Trong góc nhìn khiêm tốn thì mình nghĩ rằng việc thấu hiểu được giá trị tinh thần của nhân vật này có thể mang lại lợi lạc lớn lao trên con đường tìm Đạo của một người. Hoặc ngược lại, việc cảm thấu được các chân lý khiến người ta có thể nắm bắt sâu sắc hơn ý đồ của tác giả khi xây dựng nên nhân vật đầy sắc màu này.

1. Tâm trí không phải sở hữu của cá nhân

Khi nhìn Tôn Ngộ Không, điều ấn tượng nhất mình liên tưởng đến là tâm trí. Nó sinh ra từ hư vô giống như con khỉ sinh ra từ phiến đá nằm giữa đất trời, chứ không theo thói thường là từ một khỉ mẹ. Tâm trí náo động nhảy nhót không yên là tạo vật của trời đất, không phải của con người. Chúng ta chỉ nằm trong tâm trí ấy và trải nghiệm nó thông qua những liên kết não bộ. Đi đến đâu ta cũng có thể suy nghĩ, tưởng tượng, ảo tưởng không phải bởi vì ta sở hữu tâm trí, mà có nghĩa là mạng lưới tâm trí ở muôn nơi và ta được kết nối với nó.

Ảo tưởng của con người nằm ở sự tư hữu, từ đó sinh ra một ảo tưởng khác là sự kiểm soát tâm trí. Việc này giống như chém lưỡi kiếm xuống mặt nước hòng cho mặt nước đứng yên. Sự nỗ lực kiểm soát tâm trí càng làm cho tâm trí náo động và sản sinh ra áp lực, bạo động. Trong cuốn Kỳ thư Kybalion, tác giả diễn giải sự “kiểm soát tâm trí” thực chất là sự dùng luật cao hơn để điều phối luật thấp hơn, tức là dùng một rung động thanh cao yên bình để đi ra khỏi vòng ảnh hưởng của tâm trí. Tương tự như trong Tây Du Ký, Đức Phật không hề sở hữu, kiểm soát Tôn Ngộ Không dù chàng khỉ đá ngỗ nghịch không thể lọt khỏi lòng bàn tay Ngài. Nhưng Ngài vẫn có thể dẫn dắt, cảm hóa Ngộ Không tiến bước trên đường phò tá Đường Tăng, hòa nhập Đạo lý, và cuối cùng Ngài phong hiệu Phật cho hắn khi bốn thầy trò hoàn thành cuộc hành trình.

2. Tâm trí không thể bị tiêu diệt, chỉ có thể được sử dụng

Tôn Ngộ Không là một nhân vật vô cùng thông minh và lanh lợi. Ngay từ khi đi học Đạo từ sư phụ Bồ Đề, hắn đã thể hiện sự nhạy bén xuất chúng, tương thông tư tưởng với bậc giác ngộ, vượt qua các bạn học khác đề được sư phụ trao truyền cho các phép thần thông. Có thể nói, Ngộ Không là một kỳ tài, một kho báu của đất trời. Tâm trí cũng vậy, nó có một tiềm năng vô hạn trong việc học hỏi. Chỉ là con người chưa đủ khả năng để rèn luyện và khai mở tiềm năng ấy. Nên tất cả những gì tâm trí thể hiện ra là một sự vô phép tắc và rối loạn. Điều này gây nên đau khổ bất tận cho con người giống như thể họ là đứa bé được đưa cho một thanh kiếm quá sắc mà lóng ngóng tự cắt vào chính mình.

Xét về ý tưởng này, Terence McKenna đã có câu:

“Vũ trụ là một bài kiểm tra trí thông minh.”

Còn Carl Jung thì nói:

“Suy nghĩ là việc khó, đó là lý do tại sao hầu hết mọi người phán xét.” (“Thinking is difficult, that’s why most people judge.”)

Tôn Ngộ Không là một tài năng xuất chúng, không thể bị giết chết. Hắn đã bị bắt lại tra tấn chặt đầu nhưng lại mọc đầu mới, luyện trong lò bát quái không cháy ra than mà rèn được đôi mắt thần nhìn xuyên vỏ bọc giả dối của yêu tinh, bị đày xuống chân núi Ngũ Hành 500 năm nhưng vẫn sống mạnh khỏe như thường (chỉ là phải chịu đựng sự kiềm chế bó buộc.) Phật Tổ đã nhìn ra điều này và có thể định hướng Tôn Ngộ Không cho một mục đích vĩ đại, trợ giúp Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, thay vì để uổng nhân tài. Trong quá trình có mục tiêu hướng thiện, Ngộ Không cũng tự được rèn dũa và trưởng thành.

Tâm trí cũng vậy, nó không thể bị tiêu diệt mà chỉ có thể được sử dụng. Có người tu thiền với mong ước tiêu diệt tâm trí, đây là một sự hoang đường ảo tưởng, không thực tế và sẽ làm cho người đó đau khổ bất mãn nhiều hơn mỗi khi tâm trí trỗi dậy. Tâm trí chỉ có thể được sử dụng với mục đích thiện lành, phục vụ Đạo lý. Sử dụng nó là cách duy nhất thuần phục nó, khẳng định vị trí làm chủ của trí tuệ cao hơn. Suy nghĩ tích cực là một trong những cách sử dụng tâm trí mà đa số con người không biết thực hành.

“Đối với người đã chế ngự được tâm trí, nó là bạn tốt nhất. Còn đối với kẻ chẳng làm được điều đó, nó là kẻ thù ghê gớm nhất.” – Sri Krishna, Chí Tôn Ca (6:6)

(Download Chí Tôn Ca THĐP version (Free) >>> bit.ly/CTC_THDP)

3. Tâm trí và trí tuệ là hai thái cực đối nghịch

Trong phim, xuất hiện rất nhiều cảnh Tôn Ngộ Không và Đức Phật tương tác với nhau. Chúng ta có thể nhìn thấy hai trạng thái nhận thức đối nghịch, một bên là ồn ào, linh động, náo nhiệt, lanh lợi còn một bên là trầm tĩnh, kiên cố, dịu mát và thư thái. Giống như hai người là tấm gương phản chiếu lẫn nhau, nhờ có người này mà người kia mới thể hiện rõ ràng bản chất của chính mình. Cuối cùng, kết cục tốt đẹp nhất xảy ra thể hiện trong sự gặp nhau của hai thái cực, khi Ngộ Không giác ngộ thành Phật. Tức là sự tiến hóa của con người, của tâm trí là trở nên khiêm cung, tĩnh lặng và thấu suốt. Ngay trong cái tên “Ngộ Không” đã thể hiện xu hướng tiến hóa của tâm trí nháo nhác là trở thành sự tĩnh lặng tuyệt đối và mang một tầm nhìn vượt qua những ồn ào.

Trong con đường tu tập, có những người không hiểu ra được sự tương hỗ giữa hai đối cực nên ra sức gạt bỏ, chối từ tâm trí; đấu tranh, giãy đạp để vượt thoát đau khổ. Họ không nhận ra rằng sự hiện diện của ồn ào là biển báo dẫn đến khả năng thinh lặng. Họ cũng không nhận ra rằng đau khổ là động lực cho sự kiếm tìm chân lý. Nỗi đau thể hiện sự vươn mình rộng mở, sự trưởng thành của tâm trí chứ không phải một mối hiểm họa cần chống cự. Người ta nên vui sướng thay vì hoảng loạn.

“Khả năng tự hủy diệt bản thân là hình ảnh phản chiếu lại trong gương khả năng tự cứu lấy bản thân, điều đang thiếu là một tầm nhìn sáng suốt về việc nên làm gì.” — Terence McKenna

Trong cuốn Kỳ thư Kybalion, ở nguyên lý thứ 7 về giới tính, đã thể hiện rõ tính âm dương của tâm trí và trí tuệ. Chúng tuân theo nguyên lý nữ tính và nam tính, tâm trí huyên náo tiềm tàng sự tĩnh lặng, còn sự tĩnh lặng tiềm tàng tính linh động của tâm trí. Chúng là hai cực của thực tại mà không thể tách rời nhau, thu hút bổ trợ lẫn nhau. Việc cần làm của người tu Đạo là nhận ra điều này và học cách điều phối sử dụng chức năng của từng thứ sao cho nó mang lại lợi lạc lớn lao nhất trong đời sống. Hay nói cách khác, chúng ta cần phải học tập Phật Tổ trong cách thuần phục Tôn Ngộ Không vậy.

4. Giác ngộ là sự quy phục của tâm trí

Dù thông minh lanh lợi, chí khí hơn người nhưng sự ngang bướng của Tôn Ngộ Không cũng to chẳng kém tài năng của hắn. Chính sự kiêu căng của Mỹ Hầu Vương là thứ gây nên tai ương cho hắn ngay từ thuở đầu. Sư tổ Bồ Đề đã nói trong lúc đuổi Ngộ Không đi khỏi đạo tràng bởi sự nông nổi sĩ diện của hắn là: Sau này có gây nên tai họa thì đừng nhận là học trò của ta. Nhớ làm điều thiện, chớ làm điều ác.

Trong quá trình hỗ trợ Đường Tăng thỉnh kinh, Ngộ Không cũng không ít lần làm sai như giết người, bỏ mặc sư phụ, ăn nói xấc xược với Bồ Tát hay Phật Tổ, không bao giờ biết cúi mình trước các vị thiên thần, tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh (là thánh to ngang Trời), náo loạn thiên cung, v.v… Nhưng trong cuộc hành trình gian nan, mỗi lần được chư thiên cứu hộ là Ngộ Không đều biết cúi mình cảm tạ (dù đôi lần cũng tính “thủ” luôn các bảo bối của các vị), và đến cuối cùng, hắn biết bái lạy Phật Tổ và các vị Bồ Tát ở chốn Tây Thiên. Người ta được chứng kiến một sự quy phục của Ngộ Không và thấy sự thay đổi thần thái rõ ràng của nhân vật này. Hắn không còn là một con khỉ loi choi nhảy nhót đòi đi đầu thiên hạ, mà là một vị thánh khiêm nhường điềm đạm đến bất ngờ, tỏa ra hào quang dịu dàng bình yên.

Việc tu thiền hay học Đạo của con người là việc để cho tâm trí quy phục những điều lớn lao hơn như tình yêu, trí tuệ, Thượng Đế. Có như vậy thì bản thân tâm trí mới được soi sáng và nắm bắt được mục đích cao thượng vĩ đại của chính nó chứ không còn là sự nháo nhác phá hoại. Những người vô minh là những người kiêu căng, sống trong cái ao làng hiểu biết nông cạn; không có khả năng lắng nghe và đón nhận Đạo lý; thích đi tranh cãi, tranh luận, giằng co, đòi phần đúng và sự đồng tình về phía mình. Đó là một căn bệnh rất nguy hại, và cách chữa trị duy nhất là sự dập đầu khiêm cung, quy phục Trời Đất.

“Còn những kẻ vô minh, không có đức tin và nghi ngờ lời dạy của Thánh Kinh sẽ không thể đạt được ý thức Thượng Đế, họ thoái hóa dần dần và mãi mãi. Linh hồn hoài nghi không có hạnh phúc ở kiếp này lẫn kiếp sau.” — Sri Krishna, Chí Tôn Ca (4:40)

Tóm lại, không phải ngẫu nhiên mà Tây Du Ký là một trong bốn đại kiệt tác của Trung Hoa, và Tề Thiên Đại Thánh thông minh tinh nghịch lại chiếm được trái tim của nhiều thế hệ khán giả hơn bao giờ hết. Tôn Ngộ Không là một hình tượng ẩn dụ sâu sắc về con đường tiến hóa của một người, hay hành trình quy phục đạo Trời của họ. Bằng việc thấu hiểu bản chất của tâm trí và tinh tấn thực hành nâng cao nhận thức sống, một người sẽ tiến bộ vượt bậc trên Đạo lộ, hay sớm muộn cũng tới được miền đất Phật và được phong hiệu thiên thần, như chàng khỉ Tôn Ngộ Không vậy.

Tác giả: Vũ Thanh Hòa – Hòa Taro

Ảnh minh họa: vietnamnet

📌 Mua membership để đọc tạp chí Aloha đã giảm giá 25% ➡️ http://bit.ly/THDPmembership

📌 Mời Triết Học Đường Phố và các tác giả một ly cafe ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

  1. Chuyển tiền qua ngân hàng Việt Nam
    Người nhận: Vũ Thanh Hòa
    Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, Hà Nội
    Số TK: 0451000409314
  2. Chuyển tiền qua Paypal
    Người nhận: Huy Nguyen
    Địa chỉ: https://paypal.me/huythdp

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố, bài viết nổi bật sẽ có nhuận bút/tip. ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2