“Hãy mô tả lưỡi của chim gõ kiến?” (Trích trong sổ tay của Leonardo da Vinci)
1. Thiên tài là những đứa con hoang
Leonardo da Vinci cũng là con hoang giống như nhiều cái tên nổi bật trong lịch sử khác là Tần Thuỷ Hoàng, Steve Jobs hay Casere Borgia, chủ nhân Leonardo từng phục vụ là một trong những người con của Giáo hoàng Alexander VI. Ngoài ra, rất nhiều các tên tuổi trong thời kì Phục Hưng là con hoang. Sau này khái niệm con hoang được văn học phương Tây coi là quân bài tẩy có tính chất thay đổi cả cục diện và vận mệnh. Điển hình là John Snow trong Game of Thrones.
Cái hay của Isaacson nằm ở chỗ ông luôn tìm được nhiều chi tiết hô biến sự thần thánh hoá các nhân vật này trở thành những con người bình thường mà bất cứ ai đều có thể đạt đến tài năng của họ. Isaac cho rằng tất cả những thiên tài đều có thể đạt được sự tinh hoa là từ chính mình, chứ không nhờ đến ân sủng của các vị thần. Leonardo da Vinci cũng không phải là ngoại lệ.
Nếu như ai đã đọc Steve Jobs thì sẽ biết rằng Jobs là con nuôi của bố mẹ ông, thì Leonardo da vinci là con hoang của một chưởng khế chuyên viết công văn và khế ước tên là Piero da Vinci với một thiếu nữ 14 tuổi tên là Caterina. Cuộc đời Leonardo bắt đầu theo một cách không đơn giản nên những gì sau này ông học hỏi và tiếp thu cũng rất khác biệt.
2. Đi tìm bí mật của thần thánh
Vì là con ngoài giá thú nên Leonardo da Vinci sẽ không được kế nhiệm vị trí của cha mình cũng như chẳng được hưởng một cuộc sống bình thường. Về học hành, ngay từ nhỏ Leonardo da Vinci hầu như không đi học, thậm chí còn không biết nhiều về tiếng Latin, thứ ngôn ngữ dùng trong công việc của nước Ý lúc đó và cũng không biết phép toán chia. Một cái tên được gắn với nhiều giai thoại, sự thật và phép màu của thần thánh phủ lên mà cũng có những góc không toàn vẹn như bất cứ ai.
Theo mình, có lẽ hai chữ “thiên tài” với các góc cạnh hoàn hảo luôn nói về các con người vĩ đại là không đúng. Steve Jobs cũng không biết lập trình nhưng di sản ông để lại là một công ty công nghệ với các sản phẩm đỉnh cao với nghệ thuật tối giản. Thiên tài đúng hơn là sự chênh vênh và mâu thuẫn kì lạ giữa việc biết quá nhiều và không biết gì. Leonardo Da Vinci theo học ở xưởng vẽ của Andera del Verrocchio, bậc thầy nổi tiếng nhất thành Florence. Leonardo da Vinci hơn cả người dẫn dắt mình hai khía cạnh: khả năng vẽ và xao nhãng trong công việc. Trong thế giới hiện đại, việc xao nhãng và không tập trung ảnh hưởng rất lớn đến khả năng làm việc và Leonardo da Vinci cũng giống như những con người lười biếng nhất. Ông hiếm khi hoàn thành các tác phẩm của mình bởi trí tưởng tượng siêu phàm luôn dẫn dắt ông hướng đến những điều mới mẻ, những câu hỏi thay vì tập trung vẽ.
Suốt cuộc đời Leonardo da Vinci chỉ hoàn thành 15 bức tranh. Trong đó có những bức liên tục được vẽ và chính sửa trong thời gian dài như “Mona Lisa”, “Bữa tiệc ly” hay “Chúa Cứu thế.” Nghịch lý là Leonardo da Vinci luôn luôn nhắc nhở mình về sự xao nhãng bằng cách ngày nào cũng viết vào sổ tay mấy chữ “Nói ta nghe, nói ta nghe ngươi đã làm được những gì?”
3. Sự ám ảnh của người phàm
Bất cứ ai cũng đều có những lúc phóng đại về bản thân mình và Leonardo da Vinci cũng làm vậy khi gửi các lá thư đến mấy vị bảo trợ cho mình. Ông giới thiệu bản thân đến Ludovico Sforza là vương công xứ Milan bằng một bức thư tâng bốc quá đà Ludovico lẫn bản thân mình được bắt đầu bằng “Thưa vị chủ nhân tiếng tăm lẫy lừng bậc nhất”. Sau đó Leonardo da Vinci liệt kê ra 11 điều tài giỏi liên quan đến kiến trúc, toán học, chế tạo vũ khí, thuỷ lợi, điêu khắc và vẽ được mọi thứ. Leonardo da Vinci sau này khi giới thiệu mình đến những quân vương, Giáo hoàng tiếp theo cũng tán tụng bản thân bằng sự huyễn hoặc chứ không phải thực tế.
Leonardo da Vinci cũng bị ám ảnh với sự nổi tiếng và tiền tài trong một thời gian. Ông luôn tìm cách chứng minh mình với đám vương công bằng kĩ năng chơi nhạc hay thiết kế các vũ khí được lưu lại trong sổ chép tay của mình. Thậm chí Leonardo da Vinci còn hướng tài năng của mình và chiến tranh với những bức phác hoạ đẫm máu và các thiết kế vũ khí sát thương để làm chiều lòng các nhà vua.
Vậy một người được coi là “á thần” như Leonardo liệu có ghen tức với ai không? Có, vì đó cũng là một “á thần” của thời kì Phục Hưng có tên Michelangelo.
Leonardo da Vinci cảm thấy ghen tức với bức tượng David của Michelangelo khi được đặt ở trung tâm Florence cũng như việc Michelangelo nhận được sự bảo trợ tốt hơn từ những người giàu có hơn ông. Chính Leonardo góp ý rằng bức tượng David nên đặt ở một chỗ nào đó “kín đáo” để nhiều người không phải xấu hổ với chỗ kín của David phô bày ra. Dù rằng chính ông không bao giờ che giấu mình là người đồng tính và có nhiều bạn trai trẻ tuổi.
Sự mâu thuẫn luôn tồn tại là một ân huệ và lời nguyền với các tài năng. Leonardo da Vinci là người đứng đầu trong các thiên tài về sự mâu thuẫn tồn tại trong mình. Khả năng quan sát, sự tò mò và trí tưởng tượng là những yếu tố tạo nên sự vĩ đại và phủ lên Leonardo da Vinci sắc màu thần thánh. Nhưng đó cũng chính là những gì mà cá nhân mình hay bất cứ ai trong các bạn đều có sẵn.
Leonardo da Vinci chỉ là một trong những người kết hợp với tất cả những điều đó để đem đến tới những bức hoạ vô giá của mình. Ngoài khả năng vẽ mọi thứ là điều được công nhận, thì Leonardo là người tiên phong về giải phẫu, vẽ bản đồ, nước, cây cỏ và đặt những câu hỏi “Tại sao bầu trời có màu xanh? Mô tả như thế nào về lưỡi của chim gõ kiến?” Da Vinci cũng sớm nhận ra rằng với một lối sống ăn chay sẽ giúp cho cơ thể tốt hơn, ông tìm được cách ngủ ít để dành thời gian tối đa cho việc tưởng tượng và quan sát.
Trong cuốn Leonardo da Vinci của Walter Isaacson còn viết chi tiết về giới tính của Vinci. Leonardo da Vinci là một người đồng tính nhưng ông không bao giờ giấu giếm điều đó. Một mâu thuẫn lớn nhất trong những bức hoạ của Leonardo da Vinci là ông vẽ về phụ nữ khá nhiều và nổi tiếng nhất là bức Mona Lisa. Tuy nhiên tất cả những bức họa về phụ nữ đều là đơn đặt hàng chứ không phải là niềm say mê của Leonardo. Ông đam mê thân thể nam giới và choáng váng trước vẻ đẹp của các chàng trai.
4. Bao nhiêu sự thật trong truyện của Dan Brown?
Trong cuốn Mật mã da Vinci của Dan Brown viết rằng John ngồi cạnh Chúa Jesus là Maria Madalena vợ Người, nhưng nếu ai biết rõ về Leonardo da Vinci thì đó là một bịa đặt nhằm câu khách của Dan Brown.
Leonardo da Vinci mê mẩn vẻ đẹp lưỡng giới và luôn vẽ các nhân vật nam với khuôn mặt xinh trai, nhỏ nhắn cùng một cơ thể đẹp. Và trên hết Leonardo không quan tâm tôn giáo cũng như không hề gia nhập vào bất cứ một hội nhóm nào cả. Quan trọng nhất, Leonardo không khác chúng ta là bao ngoài sự tò mò vô hạn.
5. Học hỏi ở Leonardo da Vinci
“Người có tài năng hướng tới mục tiêu mà không ai khác có thể hướng tới. Thiên tài hướng mục tiêu mà không ai khác có thể nhìn thấy.”
Không chỉ trong cuốn sách này mà Leonardo da Vinci luôn được nhắc đến là thiên tài của các thiên tài ở thời kì phục hưng và trong thế giới hiện đại ông còn được nói đến nhiều hơn nữa. Nhiều sử gia, các nhà nghiên cứu không ngớt tán tụng về những gì ông đã làm và câu hỏi rằng hậu thế liệu có ai sánh được với Leonardo da Vinci và điều gì đã tạo nên Leonardo da Vinci?
Leonardo là một hình ảnh thu nhỏ của trí tuệ vạn năng, luôn nỗ lực tìm hiểu tạo hoá theo vô hạn cách cũng như đưa con người hoà vào trong sự vô hạn đó. Ông là con người và cũng là thần thánh. Chúng ta cũng như vậy.
Trí tưởng tượng, tò mò không giới hạn và khả năng quan sát là những điều cơ bản tạo nên một con người, nhưng ít ai có thể tận dụng tốt nó như Leonardo da Vinci. Đối với mình khi đọc xong cuốn tiểu sử này thì câu hỏi đúng là “bạn sẽ làm gì với những thứ mình cũng có như Leonardo da Vinci?” và mình tin rằng trong hiện tại và tương lai sẽ xuất hiện những Leonardo da Vinci khác bằng chính các phương pháp của ông như :
Hãy tò mò không nghỉ ngơi
Tìm kiếm tri thức vì tri thức
Quan sát
Bắt đầu với các chi tiết
Nhìn ra những thứ khó nhìn thấy
Đừng ngại mạo hiểm
Hãy để mình xao lãng trong sáng tạo
Tôn trọng sự thật
Trì hoãn để cảm nhận sự hoàn mỹ
Tránh tư duy hạn hẹp
Không ngừng vươn xa
Say sưa tưởng tượng
Sáng tạo cho bản thân chứ không vì khách hàng
Ghi chú vào giấy và sổ
Cởi mở trước những điếu bí ẩn
Đáp án về mô tả lưỡi của chim gõ kiến mà Leo quan sát và ghi chú lại:
“Lưỡi của chim gõ kiến có thể kéo dài gấp 3 lần chiều dài mỏ, khi không dùng đến nó thụt sâu vào trong sọ và cấu trúc giống như sụn của nó tiếp tục đi xuyên qua hàm để bao quanh đầu sau đó vòng xuống lỗ mũi. Ngoài đào bới giun trong thân cây, cái lưỡi dài còn bảo vệ não của con chim khi liên tục thục mỏ vào thân cây với lực tác động lên đầu nó lớn gấp 10 lần có thể làm chết mình. Cái lưỡi kì lạ này cũng cũng đóng vai trò như một cái đệm, giúp bảo vệ não con chim khỏi bị tổn thương.”
Chắc hẳn các bạn ở đây đã từng nghe về khái niệm bản ngã (ego) hoặc đang trên đường tìm hiểu về nó. Thậm chí những người đã từng tu tập hay có các trải nghiệm tâm linh thì có thể nếm trải được góc cạnh nào đó của bản ngã. Tuy nhiên, mình để ý thấy rằng có rất nhiều người (trong đó có mình trước kia) đã từng có góc tiếp cận hời hợt về ego, từ đó tạo nên một lăng kính không trong sáng để nhìn rõ sự thật hay thực tại đang phơi bày trước mắt. Những tư tưởng này không được giải tỏa và làm sạch mà còn bị lan tràn từ người này sang người nọ, để càng ngày càng nhiều người sở hữu những tri kiến ấy, cản trở sự thức tỉnh tâm linh.
Xét theo nguyên lý âm dương thì Chân Ngã mang nguyên lý dương, là nền tảng và ý tưởng vững chắc không thể bị biến đổi, còn bản ngã mang nguyên lý âm là sự chuyển động liên tục để biểu diễn ý chí của Chân Ngã thành hình hài cụ thể. Hai thứ không tách biệt khỏi nhau mà nương nhờ nhau để tồn tại và biểu lộ, như hai mặt của đồng tiền, như hình với bóng. Chân Ngã là Luật, bản ngã là người thi hành Luật, biến thế giới thành nơi tràn đầy vẻ đẹp hoàn hảo.
Dựa theo đó, mình sẽ chỉ ra 5 góc nhìn lệch lạc phổ biến nhất của con người trong quá trình tìm kiếm chân lý và tu tập.
1. “Bản ngã là xấu xa.”
Đây có lẽ là tư tưởng mà đa số người tu vướng phải. Khi nghe hay đọc những nội dung khai sáng từ bậc đạo sư nào đó nói về ego và sự tan rã của nó, hay những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống thì chúng ta dễ dàng lầm tưởng rằng nó là xấu xa, đáng ghét. Cái xấu xa ở đây là thái độ tiêu cực của con người với một phần của sự tồn tại, một phần thiết kế của Thượng Đế, còn ego không xấu xa. Khi sử dụng một góc nhìn tiêu cực thì cái gì nằm trong góc nhìn đó cũng là thứ dở tệ, hay tai hại. Nếu có bản ngã xấu xa thì đó là do người mang nó chưa thể hiện đúng trách nhiệm và bổn phận quy phục Chân Ngã, bản ngã sẽ không được điều tiết và chế ngự.
Nếu một người tu tập ngay từ ban đầu đã có định kiến rằng bản ngã xấu xa thì họ sẽ không thể nhìn ra được giá trị chân thực của bản ngã và những phần tốt đẹp từ nó mà họ đang được hưởng. Muốn biết nó là xấu hay đẹp thì trước tiên một người phải bỏ đi mọi định kiến về nó.
2. “Bản ngã là vô dụng.”
Khi nhìn bản ngã là xấu xa tồi tệ, một người cũng không nhìn thấy được giá trị gì của bản ngã, coi nó như là một đống rác đổ đi, vô dụng và thừa thãi. Đây là tư tưởng sai lầm thứ hai của người tu tập. Nếu không có bản ngã thì người đó không ăn được, không biết lao động là như thế nào, không biết nói chuyện, vui đùa hay nghỉ ngơi, nói chung là họ không thể đứng vững ở trong thế giới vật lý này mà có được an toàn. Họ sẽ rồ xe lao vào gốc cây, sẽ cầm dao để cứa vào thân thể chính mình và bảo rằng tôi đang dùng bông hoa để gãi ngứa cho cái cột điện. Hay nói cách khác, khi không nương tựa vào chức năng tiếp cận với thực tại vật lý của bản ngã, một người sẽ hoặc là sống đời thực vật, hoặc là điên khùng rồ dại, làm những chuyện ngu xuẩn mất trí không thể tưởng tượng nổi. Hay một ví dụ khác đó là mình đang viết những dòng chữ này là nhờ bản ngã, đang truyền đạt các ý tưởng cũng là nhờ nó, và lựa cách viết sao cho dễ hiểu và rõ ràng cũng là nhờ nó nốt. Bản ngã là chiếc xe ô tô, Chân Ngã là người lái xe. Nếu không có chiếc xe thì ý muốn di chuyển của người lái xe cũng không có giá trị gì, cũng như không được hoàn thiện và tựu thành. Hay nói cách khác, bản ngã là nơi mà ý chí và ước mơ của bạn (ở phạm vi nhỏ), và God (ở phạm vi lớn) được hiển thị.
3. “Người còn bản ngã là vô minh.”
“Người còn bản ngã là còn vô minh”, theo mình thì đây là một mệnh đề bị thiếu sót và còn phiến diện. Chính xác hơn thì người còn bản ngã chưa kết nối, chưa quy phục Chân Ngã là còn vô minh. Vì như đã nói ở trên, giá trị của bản ngã là phụng sự Chân ngã, và nhờ sự hiện diện của Chân Ngã quyết định. Nếu một người chưa nhận ra hoặc ít nhất tin vào sự tồn tại và hiện hữu của tâm hồn, Thượng Đế, thì bản ngã là vô dụng và là tấm màn vô minh che phủ con mắt nhìn đời. Họ sẽ sống trong việc sử dụng sai mục đích của bản ngã, như tích lũy của cải vật chất, tham lam, đố kị, hãm hại lẫn nhau, v.v…
4. “Bản ngã phải bị giết chết hoặc dẹp bỏ.”
Một cách tiếp cận tiêu cực về bản ngã sẽ sinh ra ý muốn tác động tiêu cực với nó. Người tu sẽ muốn đè nén bản ngã, muốn nó phải chết đi. Nói chung đây đều là những ý muốn rất cực đoan và bạo lực. Cái cần bị giết chết và dẹp bỏ không phải là bản ngã, mà là góc nhìn tiêu cực và phiến diện về nó. Khi còn thái độ tiêu cực, một người sẽ không thể có bình an. Còn khi có bình an, anh ta mới đạt đến sự sáng suốt, sẽ nhìn ra các giá trị vô tận của ego và biết cách sử dụng nó để sống một cuộc đời hữu ích, hay xây dựng một thế giới tươi đẹp. Như Đức Krishna đã nói trong Chí Tôn Ca:
“Con người cần sử dụng tâm trí để giải thoát chính mình, chứ không phải để thoái hóa. Tâm trí vừa là bạn vừa là thù của linh hồn. Đối với người đã chế ngự được tâm trí, nó là bạn tốt nhất. Còn đối với kẻ chẳng làm được điều đó, nó là kẻ thù ghê gớm nhất.” (6:5-6)
5. “Chưa dập tắt bản ngã thì chưa thoát luân hồi.”
Mình đã từng nghe có người nói rằng chưa hết bản ngã thì chưa thể thoát luân hồi. Vấn đề ở đây không nằm ở việc có thoát luân hồi hay không, vấn đề nằm ở việc một người sống trong luân hồi như thế nào, có lành mạnh không, có thức tỉnh không. Vì nếu câu trả lời là có thì luân hồi không còn ảnh hưởng gì đến họ. Giống như là phải có thần thông để làm trời hôm nay hết mưa, nhưng vấn đề là ta có thể mặc áo mưa đi làm hoặc tắm mưa với niềm hạnh phúc thì mưa chẳng còn là thứ cần phải chống cự. Dựa vào một ý tưởng phiến diện về luân hồi rồi sinh ra ý muốn dẹp bỏ bản ngã là chuyện mê lầm, hoang tưởng. Nếu luân hồi đã không cần thoát thì bản ngã cũng không cần dập. Cái gì cũng có mục đích, vị trí, sứ mệnh của nó trong cuộc đời, theo đúng cách thiết kế của Thượng Đế. Giác ngộ không phải là dập tắt bản ngã hay thoát luân hồi, mà là hiểu ra được bản chất và mục đích chân thực của mọi tạo vật trong thế giới (bao gồm cả chính mình.) Khi ấy, bức tranh thực tại hiện ra là hoàn mỹ. Câu chuyện cuộc đời không còn là chạy đua và giãy đạp để thoát khổ, mà là chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoàn hảo của tất cả mọi thứ.
6. “Bản ngã tách biệt với Chân Ngã.”
Vì tư tưởng sai lầm nên người tu nhìn nhận bản ngã xấu xa, trong khi đó được nghe hiểu về Chân Ngã là thứ tốt đẹp vẹn toàn. Nên người đó sinh ra góc nhìn bản ngã là khác biệt và tách biệt với Chân Ngã. Điều này tiếp tục củng cố sự chia rẽ và phân cực nặng nề trong tâm tưởng của họ. Và một người không được thống nhất và dung hòa mọi mặt của tâm trí thì sẽ luôn sống trong mâu thuẫn, tối tăm và không đi đến được lời giải đáp cuối cùng. Nói bản ngã tách biệt với Chân Ngã cũng không khác gì nói con người tách biệt với Thượng Đế, cành cây tách biệt với rễ cây, và con sông thì tách biệt với đại dương. Nếu nói như vậy thì chẳng khác nào người đó đã phủ nhận sự tồn tại của thân cây, và khẳng định rằng cái cành cây có thể xanh tốt và đơm hoa kết quả mà không cần phải gắn liền một mối với cội rễ. Đây là một tư tưởng vô cùng phi lý và sai lầm.
Trong cuốn Kỳ thư Kybalion cũng đã nói về tính nhị nguyên của hiện tượng. Ý thức và vật chất là hai thái cực khác nhau của cùng một thứ, như nóng và lạnh là hai biểu hiện đối lập của nhiệt độ, nhanh chậm là hai sắc thái tương phản của tốc độ. Làm sao ta tìm ra được đâu là nơi cái nóng hay cái lạnh bắt đầu, đâu là nơi cái nhanh chuyển thành cái chậm. Tương tự như vậy, ta sẽ không thể tìm ra được điểm phân tách giữa bản ngã và Chân ngã, giữa con người và Thượng Đế.
Vì sống với tư tưởng tách biệt nên người hành giả không nhìn ra những giá trị ẩn tàng sau mọi hiện tượng. Anh ta đã tự che khuất con mắt trí tuệ của mình bằng ảo tưởng rằng bản thân chẳng có gì liên quan đến những điều kỳ diệu. Góc nhìn tách biệt này cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự vô thần, dẫn đến những đau khổ không hồi kết trong cuộc sống vì con người đã tin rằng chính bản thân họ không hề có một cội nguồn tuyệt diệu.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có câu nói này:
“Chúng ta ở đây là để thức tỉnh khỏi ảo tưởng về sự tách biệt.”
Có nhiều người cũng cất công tu tập nhưng không hướng tới sự hiệp nhất này nên khó lòng chứng ngộ mà cứ đi lòng vòng với những tư tưởng tiêu cực.
Vậy là vừa xong mình vừa chỉ ra 6 ảo tưởng sai lầm về bản ngã mà một người có thể mắc phải trong quá trình kiếm tìm chân lý. Khi thức tỉnh, bạn sẽ không tìm thấy điều gì mới, mà đơn giản là gạn lọc đi được những tư tưởng hạn hẹp cũ. Càng thanh sạch và tường minh bao nhiêu, bạn càng tới gần sự tỉnh táo bấy nhiêu. Vậy nên nếu bạn đang khao khát sự khai sáng, đừng mất công đuổi bắt những chân lý mãi ở nơi nào, mà hãy quan tâm việc làm sạch tư tưởng của chính mình, hay những định kiến mà bản thân vẫn tưởng rằng đó là chân lý.
Nỗi sợ thất bại chỉ là một nửa của vấn đề khi bạn bắt tay làm một việc nào đó. Một nửa còn lại là mọi người sợ hoàn thành nó. Vì nếu bạn không hoàn thành, sẽ chẳng có chê bai bạn hay nói rằng bạn đã làm rất tệ hoặc thất bại. Cuốn Finish (Hoàn Thành) sẽ giải thích cụ thể về chuyện này, theo cách rất thuyết phục và hài hước. Mình có thể nói rằng cuốn Hoàn Thành là một phiên bản nhẹ nhàng, dễ đọc và hài hước hơn so với Deep Work – tập trung sâu. Hoàn Thành đề cập cách làm thế nào để hoàn thành công việc, mục tiêu, tập luyện với một vài mẹo khá thú vị. Trong đó tác giả Jon Acuff có chỉ ra cách đọc 100 cuốn sách 1 năm cực kì đơn giản là bằng… niềm vui.
Jon Acuff mở đầu bằng việc dẫn chứng các nghiên cứu chỉ ra rằng 92% mọi người sẽ bỏ cuộc – Thuật ngữ gọi là Quyết tâm mùa xuân. Từ việc chạy bộ, giảm cân, viết sách, hoàn thành các dự án… tất cả sẽ bỏ cuộc ngay sau những ngày đầu tiên khi thực hiện không suôn sẻ, hoặc chưa có kết quả tích cực hơn.
Mình sẽ chia sẻ 4 nguyên do mà 8% còn lại hoàn thành được công việc hay mục tiêu của mình mà trong cuốn Hoàn thành chỉ ra là: loại bỏ sự hoàn hảo, nói không với vài thứ, tin vào dữ liệu và luôn vui vẻ. Có những cách khác khi áp dụng cũng rất hay, mọi người có thể tìm đọc trong sách. Đối với mình thì 4 điều dưới đây rất phù hợp với bản thân.
1. Hoàn Thành – Vượt qua chủ nghĩa hoàn hảo
Ví dụ như bạn quyết tâm đi làm sớm để có thời gian cho công việc, nhưng khi đưa con đi học thì chúng lại dậy muộn, hay kẹt xe sẽ làm bạn cảm thấy một ngày bắt đầu cực kì tồi tệ và cho rằng mình không thể bắt đầu công việc có hiệu quả được.
Hoặc hôm nay chạy được 5km, nhưng thời tiết quá nóng hay quá lạnh làm bạn hôm sau chỉ chạy được 2-3km và bắt đầu thấy nản chí để duy trì sự hoàn hảo của 5km đặt ra, rồi dần dần từ bỏ.
Để vượt qua được chủ nghĩa hoàn hảo, Jon Acuff viết rằng đừng chờ đợi những điều kiện tốt nhất khi làm việc, tập luyện hay phát triển kĩ năng mới. Việc bạn kiểm soát được tất cả những gì sẽ xảy ra là điều điên rồ. Hãy làm ngay trong mọi hoàn cảnh có thể.
VD: Muốn làm việc tập trung hãy ngắt internet khi gõ laptop. Muốn giảm cân thì đừng mua kem cất trong tủ lạnh.
2. Hãy nói không với nhiều thứ khác
Kể cả việc bạn tỉ mỉ chuẩn bị một bữa ăn ngon nếu trong ngày hôm đó phải đi tập. Nếu bạn quá lười để bắt đầu làm việc gì đó thì hãy nói không với vài thứ khác.
Ví dụ sau 8 tiếng đi làm, bạn có lịch hôm nay phải đi tập. Nhưng trước khi đi tập bạn muốn ăn cái gì đó, xem cái gì đó để trì hoãn việc đi tập. Như thế thời gian sẽ bị tích lại, và những việc làm bạn phân tâm đó sẽ càng làm buổi tập của bạn trôi vào ngày hôm sau. Và ngày hôm sau sẽ là một ngày khác khi bạn tự nói rằng mình sẽ quay lại tập bất cứ lúc nào cũng được.
Hãy nói không với những suy nghĩ và công việc chưa cần thiết đó. Đội mũ bảo hiểm và lao vào tập ngay đi. Lượng calo của bạn sẽ tiêu hụt ngay lúc này khi bạn nói không với cả suy nghĩ của mình.
3. Tin vào dữ liệu
Dữ liệu ở đây chính là những con số bạn tích luỹ qua từng ngày khi làm việc, viết lách và tập. Dữ liệu chính là sự đối lập với chủ nghĩa hoàn hảo. Sự hoàn hảo luôn yêu cầu và chính bản thân bạn cũng thích nó khi muốn những gì mình làm đều êm xuôi tốt đẹp và có hiệu quả ngay lập tức. Rất tiếc là sự hoàn hảo chính là lời nói dối ngọt ngào nhất.
Hôm nay bạn đọc được 20 trang, ngày mai 30 trang nhưng ngày kia 5 trang thì vẫn tốt hơn là không có trang nào. Chỉ cần mỗi ngày bạn đều đọc, viết hay chạy bộ thì dữ liệu sẽ được tích lại và đến thời điểm đúng là thì trở thành Hoàn thành.
Kiên nhẫn trong mỗi ngày làm chính là biến dữ liệu thành kết quả chứ không phải là sự hoàn hảo.
4. Khi vui vẻ, bạn đọc 100 cuốn sách cũng được
Năm 2017 Jon Acuff chỉ đọc đúng 18 cuốn. Năm sau thì anh đọc hơn 100 quyển mà còn ít hơn cả thời gian đọc 18 cuốn. Vì Jon Acuff chỉ đọc những cuốn anh thích đọc, những cuốn sách anh cảm thấy vui vẻ để đọc, kể cả truyện tranh. Anh nói rằng đọc cuốn sách 200 trang bạn thấy thích còn hơn là phải nhai một tác phẩm kinh điển 700 trang và cảm thấy nản chí.
Mục tiêu đọc 100 cuốn không nhất thiết phải là những cuốn sách hạng nặng và có ai đó nói rằng bạn nhất định phải đọc. Hãy đọc những gì bạn muốn và làm bạn vui vẻ. Khi hoàn thành được những gì đã bắt đầu, thì nó sẽ biến thành thói quen tốt.
Sau khi Steve Jobs đã thất thủ trước cuộc chiến chống lại căn bệnh ung thư của ông, cuốn tự truyện với tên gọi đơn giản là Steve Jobs (tác giả: Walter Isaacson) đã được xuất bản. Quyển sách đã được viết ra sau rất nhiều giờ từ nhiều buổi phỏng vấn người đồng sáng lập huyền thoại, cựu chủ tịch, cựu CEO (Tổng giám đốc điều hành) của Apple. Một số người đã bị sốc khi được biết về những chi tiết về đời tư của thiên tài này, đặc biệt là về lịch sử sử dụng “đồ” (drugs) của ông.
Nó đã quá sốc khi biết rằng Jobs đạt tới đỉnh cao tiền tài danh tiếng mà không có được một tấm bằng đại học. (Ông bỏ đại học sau 6 tháng và đã hy vọng rằng mọi thứ “sẽ ổn thôi.”) Nhưng đa số mọi người đều không biết rằng ông đã từng có thời gian dấn thân vào triết học / tôn giáo Đông phương, ăn chay trường, không tắm (trong thời gian dài), và từng sử dụng rất nhiều các loại chất biến đổi tâm trí (chất thức thần).
LSD là loại thuốc yêu thích của Steve Jobs
Rõ ràng, LSD là loại thuốc yêu thích của Steve Jobs. Trên thực tế, ông đã không muốn dính líu tới bất cứ những ai chưa từng trải nghiệm qua loại thuốc này. Trong những năm đầu của Apple, Jobs tìm kiếm những ứng cử viên nổi loạn, chứ không phải những thể loại mọt sách công nghệ thông thường ứng cử vào những vị trí tuyển dụng.
Khi một ứng cử viên có thái độ cứng nhắc bước vào phỏng vấn, Jobs đã hỏi y, “Cậu còn trinh không? và “Cậu đã dùng LSD bao nhiêu lần?”
Không những Jobs muốn có được những đồng sự biết khám phá tâm trí của chính họ với chất thức thần, ông còn quy kết sự thành công của chính mình cho các chất này. Những hồ sơ FBI trong quá khứ về Jobs đã đưa thông tin này ra ánh sáng, từ những ngày khi ông cần có được sự thông qua của chính phủ để làm việc với Pixar (thời đó Steve Jobs nắm nhiều cổ phiếu của Pixar nhất).
“Suốt giai đoạn đó (1972-1974) tôi đã dùng LSD khoảng 10 đến 15 lần. Tôi hấp thụ LSD dưới dạng một cục đường hoặc dưới dạng gel cứng. Tôi thường dùng LSD khi ở một mình. Tôi không có lời nào để diễn tả hiệu ứng có được với LSD, tuy nhiên, tôi có thể nói rằng nó là một trải nghiệm tích cực thay đổi cuộc đời đối với tôi và tôi mừng là tôi đã trải qua chuyện đó.”
Jobs cũng đã hút cần sa hay hashish (một sản phẩm tinh chế từ cần sa), hay ăn những chiếc bánh brownie sô-cô-la được nấu từ tinh chất cần sa, một hoặc hai lần từ năm 1973 đến 1977.
Đối với nhiều người, những tiết lộ này không có gì quá ngạc nhiên. Rõ ràng, nhiều nhân vật sáng chói — không thiếu những nhà sáng chế — đã sử dụng thuốc để mở rộng giới hạn tâm trí của họ. Bill Gates, một tỉ phú công nghệ khác, cũng đã từng có lịch sử với LSD. Vì một số lý do, văn hóa của chúng ta không đồng hóa thiên tài với việc dùng thuốc, nhưng Steve Jobs rõ ràng là bằng chứng cho thấy hai việc đó không phải lúc nào cũng loại trừ lẫn nhau.
Trong hành trình khám phá chân ngã của mình, Steve Jobs đã hướng về Đông Phương với niềm tin rằng triết học Đông phương sẽ mở ra một cánh cửa mới vào tâm hồn. Khi còn là một thanh niên, Steve Jobs đã đi sâu vào nền văn hóa Ấn Độ, nơi triết học không chỉ là những lý thuyết xa vời mà là những bài học sống động, được thể hiện qua từng nếp sống hàng ngày. Steve Jobs đã dành thời gian để hiểu về Advaita Vedanta, một hệ thống tư tưởng cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất của Atman và Brahman – tâm hồn cá nhân và tâm hồn vũ trụ.
Ngoài Advaita Vedanta, Zen Buddhism, với sự nhấn mạnh vào sự tỉnh thức và nhận thức trực tiếp, đã giúp Steve Jobs hình thành một cách tiếp cận mới trong việc quản lý và sáng tạo. Thiền định không chỉ giúp ông giảm bớt căng thẳng mà còn là công cụ để phát triển sự tập trung và tư duy phản biện. Từ đó, Steve Jobs đã đưa vào Apple một văn hóa đặc trưng với sự đơn giản trong thiết kế và rõ ràng trong mục tiêu.
Steve Jobs tin rằng việc lắng nghe và hiểu bản chất của sự vật qua quan sát và thiền định là chìa khóa để tạo ra những sản phẩm không chỉ hữu dụng mà còn có sức lan tỏa về mặt tinh thần. Ông coi trọng việc tạo ra sự kết nối giữa người dùng và công nghệ, giống như cách Zen tìm cách kết nối con người với thực tại tối hậu.
Sự đơn giản mà ông truyền bá không chỉ dừng lại ở bề mặt của sản phẩm mà còn thấm sâu vào triết lý kinh doanh. Đối với Jobs, “ít hơn là nhiều hơn” không chỉ là một khẩu hiệu mà là một phương châm sống, một cách để đối diện với thế giới phức tạp bằng sự tĩnh lặng và hiểu biết.
Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng cuộc sống và sự nghiệp của Steve Jobs không chỉ được xây dựng trên những thành công vật chất mà còn được nâng đỡ bởi một hành trình tâm linh phong phú, đi tìm kiếm chân lý qua những bài học triết học sâu sắc từ khắp nơi trên thế giới.
Về Steve Jobs và LSD
Steve Jobs không ngần ngại chia sẻ về kinh nghiệm của mình với LSD, mô tả nó như một trong những điều quan trọng nhất mà ông đã từng làm trong đời. Ông xem chất thức thần này không chỉ đơn thuần là một phương tiện để “thoát ly” mà còn là cánh cửa mở ra những tầng lớp sâu kín của ý thức, nơi mà ý tưởng sáng tạo có thể tự do bay bổng không giới hạn.
Những chuyến đi của tâm trí Steve Jobs trải qua dưới ảnh hưởng của LSD đã mở rộng tầm nhìn của ông, giúp ông thấy được sự liên kết không ngờ giữa vẻ đẹp, khoa học và sự sáng tạo. Kinh nghiệm này đã trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình hình thành nên tư duy thiết kế và triết lý kinh doanh của ông.
Về Steve Jobs và cái chết
Về cái chết, Steve Jobs có một quan điểm tâm linh sâu sắc. Trong bài phát biểu nổi tiếng tại Đại học Stanford, ông đã nói về cái chết như một đổi mới lớn nhất của cuộc sống, một phương tiện để dọn dẹp cái cũ và nhường chỗ cho cái mới. Ông không xem cái chết như một kẻ thù mà như một phần tự nhiên của cuộc sống mà tất cả mọi người đều phải đối mặt.
Sự chấp nhận này không phải đến từ nỗi sợ hãi mà từ một sự hiểu biết sâu sắc về Atman, là chân ngã không bao giờ chết đi, mà chỉ chuyển hóa từ hình thái này sang hình thái khác. Đối với Steve Jobs, cái chết không phải là kết thúc mà là một phần của quá trình tiến hóa của linh hồn – một quá trình không ngừng diễn ra và tái tạo chính nó trong vũ trụ.
Những quan điểm này của Steve Jobs không chỉ phản ánh sự độc lập tư duy và khao khát hiểu biết sâu sắc của ông mà còn cho thấy sự liên kết giữa tư duy đổi mới trong công nghệ và tư duy tâm linh. Chúng tạo nên một bức tranh đầy màu sắc về một nhà lãnh đạo tài ba, người không chỉ thay đổi thế giới qua những sản phẩm công nghệ mà còn qua những suy tư sâu sắc về cuộc sống và cái chết.
Với sức ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cuộc sống bình thường của người dân đang thay đổi nhanh chóng. Dĩ nhiên môi trường cũng thế, theo chiều hướng tiêu cực. Đại dịch Covid-19 là biến cố nghiêm trọng trong nhiều năm qua, nhưng nó cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh cho con người.
Việt Nam là quốc gia có thiên tai tàn phá hằng năm và biến đổi khí hậu trở thành thách thức lớn nhất trên chặng đường phát triển. Không khó để nhìn ra các yếu tố tác động đến môi trường như dân số tăng, quá trình đô thị hóa mạnh và nhất là khí thải nhà kính ngày càng tăng do phát triển công nghiệp và dân cư.
Trên thế giới, các nước khác cũng gặp phải vấn đề tương tự, dù ở nhiều góc độ khác nhau. Rất nhiều cảnh báo đã được đưa ra cho con người, nhưng bản chất của việc tăng trưởng cũng bao gồm việc gây hại đến môi trường, không nhiều thì ít.
Trong thời gian hầu như tất cả các nước trên thế giới buộc phải dừng các hoạt động kinh tế, hay nói cách khác là phát triển kinh tế chậm lại, chất lượng không khí được cải thiện rõ rệt. Ví dụ rõ ràng nhất là Trung Quốc và châu Âu. Trung Quốc, từ trước đến nay được coi là một nước gây ô nhiễm môi trường vào loại cao trên thế giới. Ở các thành phố lớn của nước này, mức độ ô nhiễm không khí rất nghiêm trọng, không chỉ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân mà còn có nguy cơ gây thiệt hại đến nền kinh tế của quốc gia đông dân nhất thế giới này. Tuy nhiên, trong thời gian dài giảm các hoạt động kinh tế, Trung Quốc đã ghi nhận sự giảm ô nhiễm đáng kế. Do là nước chịu tác động của đại dịch Covid-19 đầu tiên, Trung Quốc cũng là nước đầu tiên áp dụng biện pháp giảm mức hoạt động kinh tế, đồng thời áp dụng chính sách phong tỏa mạnh mẽ lên cuộc sống người dân. Một nguyên nhân trực tiếp dẫn tới thay đổi này là sự hạn chế sử dụng phương tiện giao thông của người dân. Họ chỉ ở trong nhà. Các nhà máy, xí nghiệp đống cửa, các chuyến bay cắt giảm đến mức tối thiểu. Như vậy, lượng khí thải ra môi trường luôn ở mức thấp, thậm chí chỉ còn dưới 10% so với trước. Theo đo đạc của NASA và ESA (Cơ quan vũ trụ châu Âu), nồng độ khí thải của thành phố Vũ Hán – từng là tâm dịch của Trung Quốc và thế giới đã giảm từ 10 – 30% từ ngày 23/1 (trước khi cách ly) đến 25/2. Đò là mức giảm lớn, là điều mà ngay chính nước này và thế giới dau đầu tìm giải pháp. Thậm chí, một số nhà khoa học cho rằng, mức giảm ô nhiễm này có thể cứu nhiều người hơn là số người chết do virus ở Trung Quốc.
Đối với Châu Âu, trong tháng 3 tại Italia, một nước đang chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 thì chất lượng không khí cũng có sự thay đổi tích cực. Một số nước khác ở châu Âu cũng ghi nhận sự thay đổi của không khí. Còn ở Ấn Độ, người dân đã ngạc nhiên khi có thể quan sát dãy núi Himalaya từ xa. Ấn Độ là ngước có dân số khoảng 1,3 tỷ người và cũng đang chịu tác động xấu của sự ô nhiễm không khí. Nhiều người dân cảm thấy không khí trong lành hơn rõ rệt, dù không ra đường nhưng cũng có thể có tầm quan sát xa hơn trước.
Còn ở Việt Nam thì sao? Chỉ số AQI (chỉ số báo cáo chất lượng không khí hàng ngày) đo được ở Hà Nội đã tốt hơn rất nhiều kể từ khi nước ta áp dụng biện pháp cách ly xã hội. Việc xác định chỉ số AQI là thước đo quan trọng để xác định xem không khí xung quanh ta là sạch hay ô nhiễm, và nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người dân. Một người lớn trung bình hít thở khoảng 15m3 không khí mỗi ngày. Nếu chất lượng không khí tiêu cực thì có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu đến toàn cơ thể, bao gồm cả tim, gan, phổi và hệ hô hấp, hay ngay cả thai nhi đang phát triển trong bụng mẹ. Tại các trạm quan trắc không khí, chỉ số AQI đã xuất hiện nhiều kết quả trung bình và tốt trong ngày. Theo kết quả quan trắc ở Hà Nội (Nguồn: Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nội) đầu tháng 4 , trạm Kim Liên và Tây Mỗ là 2 trạm có chất lượng không khí tốt nhất khi có số ngày AQI đạt mức tốt chiếm 42,9%. trạm Minh Khai chỉ còn 1 ngày có mức kém chiếm 14,3%, với trạm Phạm Văn Đồng là 28,6%. Các trạm nội đô cũng đã có ngày xuất hiện kết quả tốt. Trạm Hoàn Kiếm và Thành Công có 1 ngày AQI ở mức kém, 1 ngày AQI ở mức tốt chiếm 14,3%, còn lại ở mức trung bình.
Những chuyển biến về chất lượng không khí trên thế giới và Việt Nam trong thời gian dịch bệnh hoành hành đã làm con người phải suy nghĩ lại về cái giá phải trả khi chúng ta không hành động, hoặc hành động cầm chừng trong việc gìn giữ môi trường, đồng thời vẫn đẩy mạnh các hoạt động có hại đối với Trái Đất.
Chưa nói đến biến đổi khí hậu, chỉ trong một thời gian ngắn mà chất lượng không khí, thứ tác động trực tiếp tới sự sống của con người đã cải thiện. Điều đó là minh chứng hùng hồn nhất cho nguyên nhân của ô nhiễm môi trường là từ các hoạt động của con người. Thảm họa Chernobyl, thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật Bản, thảm họa bùn đỏ ở Hungary 2010 và rất nhiều thảm họa khác chính là sự trả giá vô cùng đắt cho những hành vi kém ý thức của con người với tự nhiên.
Những thay đổi về môi trường theo hướng tốt lên trong thời gian qua có thể là sự cảnh báo đến các quốc gia và từng con người trong việc bảo vệ chính nơi mình đang sống. Tuy nhiên, nếu xét về độ dài thời gian của các cuộc khủng hoảng thì đại dịch Covid có lẽ sẽ có thời gian ngắn hơn nhiều so với khủng hoảng môi trường đã kéo dài hàng thế kỷ. Từ khi con người dùng máy hơi nước cho đến những công nghệ cao hơn, môi trường dần bị hủy hoại. Có vết thương dần lành lại, có vết thương sẽ mãi mãi không lành.
Một số nhà khoa học cho rằng, những thay đổi tích cực về môi trường trong thời gian đại dịch sẽ chỉ tạm thời dừng ở việc chất lượng không khí được cải thiện. Còn đối với tổn hại của môi trường trong dài hạn thì sự thay đổi hiện nay chỉ có tác động nhỏ. Tuy nhiên, nếu tác động nhỏ này có thể khiến mỗi người, mỗi tập thể, mỗi quốc gia suy nghĩ thấu đáo thì chất lượng môi trường tự nhiên trong tương lai có thể sẽ thay đổi lớn. Theo suy nghĩ thông thường, mạng sống con người có thể đặt lên trên sự toàn vẹn của môi trường. Đúng thế, nhưng chẳng mấy ai biết được rằng sự toàn vẹn của môi trường mới là điều kiện đảm bảo không chỉ cho mạng sống, mà còn cho chất lượng sống mà con người vẫn đang cố gắng níu giữ và phát triển.
Chủ nghĩa Khắc kỷ đã từng biến mất khỏi lịch sử gần 1000 năm, rồi bị quên lãng bởi những tư tưởng, triết học mới của phương Tây. Nhưng qua thời gian, những con người đã thay đổi lối sống và cả sự nghiệp của mình đã chứng minh được chủ nghĩa Khắc kỷ không chỉ là một giá trị lãng mạn, có phần bi quan và chịu đựng mọi khổ đau.
Và tại sao chủ nghĩa Khắc kỷ lại là một lối sống tốt, phù hợp và áp dụng được thực tế như vậy? Mình sẽ nói đến từng khía cạnh đã tạo dựng nên giá trị của chủ nghĩa Khắc kỷ và dẫn chứng sự hiệu quả nó đem lại, ít nhất đối với những tác giả viết sách và làm việc trong môi trường cần tập trung cao.
1. Chủ nghĩa khắc kỷ không chỉ là triết học, mà còn là một tôn giáo
Nếu bạn phân vân giữa việc chọn lựa một tôn giáo để học hỏi những giá trị tốt đẹp cho nội tâm và hướng tới một cuộc sống an yên, nhưng đồng thời không bị phụ thuộc vào các lễ nghi, lễ lạy hàng ngày thì chủ nghĩa Khắc kỷ có thể phù hợp với cùng những tiêu chí trên.
William B. Irvine, tác giả cuốn Chủ nghĩa Khắc Kỷ viết chủ nghĩa Khắc Kỷ có cả hai yếu tố quan trọng trong Thiên Chúa giáo và Phật Giáo: Thừa nhận thần thánh (như Zeno và Marcus Aurelius) và coi trọng thời khắc hiện tại, ngay bây giờ. Một người Khắc kỷ không phủ nhận những giá trị của tâm linh, đồng thời công nhận từng giờ khắc của hiện tại và suy ngẫm về vô thường có thể xảy ra bất cứ lúc nào – biểu hiện trong tính thiền, đi sâu vào bên trong để nhận biết mọi việc lẫn chính bản thân mình.
Ngoài ra, những giá trị khác là lòng yêu thương nhân loại như Aurelius đã viết nhiều lần trong Suy tưởng, mong muốn đạt được sự bình thản, kiểm soát những gì có thể và hiểu rõ những gì không thể mà Epictetus trình bày. Sau này, lời cầu nguyện bình an của nhà thần học Reinhold Niebuhr cũng lập luận một lần nữa quan điểm của Epictetus:
“Cầu Chúa cho con được thanh thản chấp nhận những điều con không thể thay đổi, cho con can đảm để thay đổi những điều thay đổi được, và cho con khôn ngoan để phân biệt được điều nào có thể và điều nào không thể đổi thay.”
Cuối cùng, sau những năm tháng nghiền ngẫm và thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ, William B. Irvine. đưa ra kết luận rằng ngay cả một người vô thần cũng có thể thực hành được lối sống khắc kỷ vì sự thiết thực và phù hợp của nó.
2. Những con người tử đạo vì lối sống khắc kỷ
Tất nhiên, hành động quả cảm nhất để chứng minh cho giá trị của một tôn giáo là sẵn sàng chết vì đức tin của mình. Chủ nghĩa Khắc kỷ cũng có những kẻ tử đạo của nó. Chủ nghĩa Khắc kỷ không chỉ truyền cảm hứng qua văn bản mà còn từ các cá nhân.
Những người Hy Lạp đem đến một tôn giáo, còn những người La Mã đã dùng mạng sống của mình để chứng minh giá trị của lối sống mà chủ nghĩa Khắc Kỷ đem lại. Họ không phải xuất thân trong giới bình dân, mà là tinh hoa của xã hội La Mã.
Khởi đầu là cái chết Cato Trẻ, người được gọi là Vinh quang của La Mã nổi tiếng với lối sống khắc kỷ, giản dị trong hành vi, thanh liêm trong chức vụ. Con người này chính là nhân vật mà Seneca coi là biểu tượng cho chủ nghĩa khắc kỷ của thời đại mình. Cato Trẻ đã đứng về phía Pompey để chống lại Caesar, nhà độc tài vĩ đại của La Mã, người sinh ra trong gia tộc được coi là có dòng máu của thần Vệ Nữ, và là cậu ruột của hoàng đế Augustus sau này.
Cato tự sát khi thua trận trước Caesar không phải bị ép phải chết, nhưng vì muốn bảo toàn danh dự và từ chối trở thành công cụ chính trị của Caesar. Cato Trẻ chính là Thánh Stefano – người tử đạo đầu tiên trong Thiên Chúa giáo. Sự dũng cảm dám chết cho lối sống khắc kỷ của Cato đã gây ấn tượng cho những người khác đến mức, họ đã chống lại các hoàng đế tàn bạo và độc đoán nhất La Mã sau này.
Nghị viên La Mã nổi tiếng Publius Clodius Thrasea Paetus, được truyền cảm hứng từ cái chết của Cato Trẻ đã dũng cảm chống lại hoàng đế Nero và phải chết. Nero cũng là người ép thầy tự sát mình đồng thời là một nhân vật Khắc kỷ xuất chúng – Seneca.
Cuộc tử đạo vẫn chưa dừng lại. Con rể Thrasea Paetus là Helvidius Priscus một triết gia khắc kỷ đồng thời là địa chủ giàu có cũng chống lại hoàng đế Vespasian nổi tiếng độc tài và cứng rắn. Cuộc đối thoại Pricus và hoàng đế La Mã mang đậm chất của một người có lối sống Khắc kỷ và kết quả của nó là ông cũng phải chết như bố vợ mình.
Khi Vespasian cấm Priscus tại thượng viện Lã Mã thì Priscus đáp lại rằng “đó là quyền hạn của ngài, còn nghĩa vụ của tôi là bước vào đó.”
“Ồ. Vậy ngươi cứ có mặt nhưng đừng nói gì cả.” Vespasian trả lời.
“Ngài đừng hỏi ý kiến của tôi thì tôi sẽ im lặng.”
“Nhưng ta sẽ hỏi ý kiến của ngươi.”
“Thì tôi sẽ nói những gì tôi cho là chính trực và đúng đắn.”
“Kể cả điều đó sẽ khiến ngươi phải chết?”
“Vậy sẽ thế nào khi tôi nói với hoàng đế rằng tôi đã và luôn là một người bất tử? Ngài làm việc của ngài là ra lệnh cho tôi phải chết. Còn tôi coi cái chết đó là việc mình đã chọn. Không có gì đáng sợ cả thưa hoàng đế.”
Những con người quả cảm và coi nhẹ cái chết, cộng cả danh tiếng lẫy lừng của những tên tuổi như Epictetus, Marcus Aurelius trong việc thực hành lối sống khắc kỷ. Và cũng không có gì khó hiểu khi im hơi lặng tiếng 1000 năm nhưng chủ nghĩa Khắc kỷ vẫn ngay lập tức xác lập giá trị khi quay lại trở lại. Thậm chí người ta cho rằng, triết học của Spinoza – một triết gia nổi tiếng thế kỷ 17 có vay mượn nhiều thứ từ chủ nghĩa khắc kỷ.
Trên hết, triết lý và lối sống khắc kỷ là một lựa chọn phù hợp bởi nó đã được áp dụng thành công trong sự nghiệp của các hoàng đế, nhà vua, tổng thống và cả các doanh nhân thời nay.
3. Triết học tạo nên các hoàng đế vĩ đại và những kẻ xuất chúng
Trong lịch sử, không thiếu các hoàng đế, nhà vua, người chinh phạt lẫy lừng, nhưng vẫn có những cái tên đặc biệt nổi trội trong thời cổ đại, La Mã, hay thời Kì Khai Sáng là Alexander Đại Đế, Marcus Aurelius và Friedrich Sáng suốt của nước Phổ. Những con người này nổi bật không chỉ vì có vương quyền, tài thao lược trong chiến trận mà còn được nuôi dạy trong bầu không khí của triết học nói chung và chủ nghĩa khắc kỷ nói riêng.
Khái niệm “Quân vương triết gia” được coi là là kiểu mẫu mà đạo học Phương Đông và triết học phương Tây “cảnh giới tối cao của người làm vua.” Trong Trung Hoa cổ đại, chuyện Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, Thuấn truyền lại cho Vũ dựa trên tài năng, đức độ chứ không phải truyền lại ngôi vương cho con cháu.
Thời hoàng kim của Lã Mã cũng vậy, bắt đầu từ Nerva, Trajan, Hadrian, Antonius Pius và cuối cùng là Marcus Aurelius. Họ đều là con nuôi, tướng lĩnh chứ không phải trực hệ, nhưng tạo nên thời đại Ngũ đế hiền vương với những bước đi đúng đắn và một lối sống cương trực để duy trì sự ổn định lẫn các kế hoạch mở rộng La Mã.
Trên hết, những cái tên này còn gắn liền với đạo học, triết học và sự ảnh hưởng vô cùng lớn. Sau cái chết của Marcus Aurelius, chủ nghĩa khắc kỷ ngay lập tức bước vào bóng tối. Điều này cũng xảy ra với Trung Hoa cổ đại, khi thời Tam đế Nghiêu-Thuấn-Vũ kết thúc thì những gì họ đã làm sẽ không còn lập lại.
Khi chủ nghĩa khắc kỷ quay trở lại, lập tức nó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những triết gia và các con người hiểu được giá trị của việc sống “thuận theo tự nhiên.” Henry David Thoreau với tác phẩm The Walden nói về việc 2 năm trải nghiệm cuộc sống trong thiên nhiên đã đem lại nhiều lợi ích và giá trị như thế nào, cũng như cảm thấy Thoreau có nhiều phần là một nhà khắc kỷ rõ ràng ra sao.
Thậm chí có thể nói rằng, Benjamin Franklin – vĩ nhân của nước Mỹ cũng ít nhiều có lối sống khắc kỷ thông qua cuốn tiểu sử viết về ông sau này qua việc “Xây dựng thói quen tốt” – tương tự như những gì một con người có thể kiểm soát mà Epictetus nói tới.
Chưa hết, những tổng thống Mỹ như Theodore Roosevelt, Bill Clinton, các doanh nhân và tác giả best seller Steve Jobs, Robert Green, Tim Ferrris, Nassim Nicholas Taleb, Cal Newport đều thực hành chủ nghĩa khắc kỷ và thành công trong cuộc sống. Tác giả Thiên nga đen – Nassim Taleb trong cuốn Skin in the game kể rằng ông dành thời gian 3 năm trong một căn hộ ở New York để viết xong bản thảo khó nhất mình từng viết.
“Một con người theo chủ nghĩa khắc kỷ hiện đại là biến lo sợ thành thận trọng, biến nỗi đau thành thông tin, biến sai lầm thành hành động và biến ước mơ thành nhiệm vụ.” — Taleb kết luận.
4. Một lối sống dám đối mặt với nỗi đau và cái chết
“Nếu bạn muốn chế ngự nỗi đau Hãy mở cuốn sách này ra và đọc cho chăm chú Và sẽ thấy trong đó đầy những kiến thức về mọi sự vật Đang có, đã có và sẽ có Rồi bạn cũng sẽ biết rằng niềm vui hay nỗi buồn Chẳng có gì khác hơn một làn khói sương.”
Đó là lời giới thiệu của một nhà tu hành dành cho người bạn của mình khi đề cập đến Suy tưởng của Marcus Aurelius. Một người khắc kỷ và cũng là hoàng đế nhưng lại nói đến nỗi đau, sự sợ hãi và cái chết nhiều hơn bất cứ ai đã từng nghĩ.
Trong cuộc sống cũng vậy, những nỗi sợ hãi và lo lắng về bất cứ điều gì tồi tệ nhất, tiêu biểu là cái chết luôn là chủ đề được tôn giáo, sách vở và diễn giả nói đến nhiều nhất. Chủ nghĩa khắc kỷ cũng vậy, nhưng nó còn hướng dẫn cho người ta cách chấp nhận “cái chết là điều làm cho cuộc sống có ý nghĩa”, chứ không phải là chịu đựng hay dùng mọi cách để trốn chạy nó.
Sau cùng, việc là một người khắc kỷ nhiều khả năng sẽ không làm bạn giàu có hơn như các khoá học, diễn giả hứa hẹn. Nhưng mình chắc chắn một điều là mỗi ngày trôi qua, bạn sẽ cảm ơn và trân trọng từng giây phút được sống trong hiện tại, đồng thời biết cách chế ngự được những nỗi đau, kể cả sự sợ hãi về cái chết của chính mình.
Những ngày gần đây mình liên tiếp được chứng kiến những người bạn đi vào trải nghiệm biến đổi nội tâm một cách mãnh liệt sâu sắc. Có thể nói họ đang đứng trước ngưỡng cửa “tái sinh”, thay đổi triệt để về nhận thức bên trong. Họ đang trải nghiệm cái chết của bản ngã (ego death). Tùy người sẽ có những biểu hiện khác nhau với cường độ và thời gian kéo dài khác nhau. Nhưng về bản chất, đây là một phúc lành ẩn giấu sau vẻ ngoài đau đớn và bất mãn. Có người biểu hiện trong sự mất hết động lực sống, mệt mỏi uể oải, cảm thấy mịt mù hoang mang, mất định hướng và khao khát sống. Có người thì biểu hiện trong liên tiếp các sự kiện chấn động, sụp đổ diễn ra, như thay đổi công việc, chia cắt với người thân yêu bởi cái chết, và từ đó bắt đầu tìm kiếm các giá trị tâm hồn. Còn có người thì biểu hiện trong việc chứng kiến nhiều sự kiện trùng hợp một cách lạ lùng, khiến họ phải chú ý cao độ và đặt những câu hỏi nền tảng như “Tôi là ai”, “Mục đích cuộc đời là gì?”, v.v…
Mình nghĩ rằng cái chết của bản ngã là một đề tài quan trọng mọi người cần quan tâm tìm hiểu, nên hôm nay mình muốn chia sẻ những kinh nghiệm và hiểu biết cá nhân về nó. (Cá nhân mình đã trải qua trạng thái giằng co kéo dài 5 năm, do không được tiếp cận với tri thức và định hướng đúng đắn về trải nghiệm này.)
1. Lập trình một con người
Đầu tiên, bạn có thể hình dung mỗi người trong số chúng ta được sinh ra trong đời cũng giống như một cái máy tính đã được thiết kế và lắp đặt hoàn thiện, được cắm điện và đi vào sử dụng. Phần cứng của cái máy tính là thân xác, tâm trí, xúc cảm. Người sử dụng máy tính chính là Linh Hồn (Thần Khí / Spirit / Chân Ngã). Chương trình chạy thì vô vàn các loại, như ăn ở, ngủ nghỉ, học hành, trồng cây, chụp ảnh, làm việc, suy tư, cãi cọ, chiến đấu, yêu thương, hờn dỗi, v.v… Các bạn có thể tưởng tượng bất kỳ điều gì mà con người có thể làm được, thì đó là một chương trình được vận hành. Có hàng triệu tỷ chương trình, và với mỗi người khác nhau thì có giới hạn và biên độ hoạt động khác nhau.
Tuy nhiên, có một vấn đề “nhỏ” ở đây, đó là đa phần con người khi được sinh ra và lớn lên thì quên mất Cội Nguồn là Linh Hồn, và đồng thời quên luôn người sử dụng thể xác, tâm trí chính là Linh Hồn ấy. Chưa hết, ta quên luôn mục đích sống và các tiềm năng sức mạnh đích thực của bản thân. Thay vì sống để lan tỏa ra các giá trị hữu ích và mang tính sáng tạo, thì chúng ta sống để tự bảo tồn chính mình, hưởng thụ thành quả cho chính mình và phản ứng rập khuôn theo văn hóa xã hội cũng như theo sự thao túng của truyền thông, dư luận. Chúng ta nhầm lẫn công cụ với mục đích. Nên có thể nói, một người khi quên mất bản chất và ý nghĩa cuộc đời thì sẽ không có tự do, sống theo một quán tính phản ứng với môi trường mà không hề có sự lựa chọn nào khác. Mục đích sống của họ nằm ở việc xây dựng bồi đắp vô số các hình ảnh phù phiếm bên ngoài (con ngoan trò giỏi, sếp cấp cao, nhân viên xịn, người xinh đẹp dáng chuẩn, người dễ thương thông minh, người có danh tiếng, quyền lực và của cải, v.v…), chứ không phải sống với bản chất nội tại (người hạnh phúc và bình an).
2. Các ví dụ thường gặp về sự phòng thủ của bản ngã
Bản ngã (ego) được sinh ra với nguyên lý âm, song hành với linh hồn là nguyên lý dương. Nó có chức năng là đầy tớ, bề tôi, kẻ theo sau và người phụng sự, diễn đạt các mục đích vĩ đại của tâm hồn. Tuy nhiên, khi quên mất kết nối linh thiêng này, bản ngã sẽ bị thay đổi cơ chế hoạt động, từ hy sinh để phục vụ tâm hồn chuyển sang bảo tồn/bảo vệ chính mình (dù chức năng bảo tồn/bảo vệ vạn vật đã được mặc định là của linh hồn). Đặc điểm của cơ chế phòng thủ này rất rõ ràng nếu bạn để ý. Nó mang tính chất tâm lý ưa thích sự an toàn, ổn định, và thói tự mãn cá nhân.
Cãi nhau cho bằng được với ai đó là sự phòng thủ khỏi việc đối diện với nỗi xấu hổ hay với khả năng mình có thể sai.
Chống cự lại hoàn cảnh khó khăn đang diễn ra là sự phòng thủ khỏi việc phải gỡ bỏ đi ý kiến và kế hoạch của riêng mình.
Không dám từ bỏ các thói nghiện là sự phòng thủ khỏi phải đối diện với một khả năng sức mạnh lớn lao hơn cái mình đang có trong hiện tại, khỏi phải chấp nhận rằng mình đang yếu đuối và u mê.
Đổ lỗi cho người khác đã khơi dậy những khó chịu bên trong mình là sự phòng thủ để khỏi phải đối diện với trách nhiệm tự kiềm chế tâm trí và xúc cảm.
Nuối tiếc quá khứ hay mong ngóng đến tương lai là sự phòng thủ để không phải đắm mình trong hiện tại (vì hiện tại sẽ hòa tan bản ngã).
Lý luận vô độ mà không chịu thực hành và tự cho rằng mình đã giác ngộ và biết hết mọi thứ là sự phòng thủ khỏi phải nhớ lại cội nguồn (không phải là bản ngã), khỏi phải đi vào trải nghiệm trực tiếp nằm ngoài ngôn từ (địa hạt của tâm trí.)
Sợ hãi và chống cự cái chết/sự thay đổi đột ngột là sự phòng thủ để khỏi phải nhòe đi trong sự linh động và vô thường.
Gây dựng hình ảnh cá nhân ấn tượng thu hút sự chú ý và chấp nhận của người khác là sự phòng thủ để khẳng định và gia cố bản ngã phù du, tạo cảm giác vững chắc như thể đây là linh hồn bất biến.
Tìm kiếm sự thỏa mãn và hài lòng trong danh tiếng, tiền bạc hay các thú tiêu khiển là sự phòng thủ khỏi cảm giác bình an chân thực tỏa ra từ Chân Ngã (cố tình đánh tráo cảm giác, gây nhầm lẫn).
Ích kỷ, không dám hy sinh hay phục vụ người khác, viện cớ là mình phải giỏi rồi mới giúp được người là sự phòng thủ khỏi sự tan rã khi tiếp xúc với tình yêu.
Xấu hổ vì những điều mình đã từng làm hay tự ti rằng mình không làm tốt việc gì đó là sự phòng thủ để khỏi được biến đổi tốt đẹp hơn trong ngọn lửa hành động, là cách chống bị thiêu cháy của ego.
Lý luận về Thượng Đế và phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế là sự phòng thủ để khỏi thừa nhận bản chất thật của chính mình (là Thượng Đế).
Lo lắng rằng không có một người Thầy dẫn dắt mình giác ngộ là sự phòng thủ để khẳng định mặt nạ giả tạo yếu đuối hiện tại.
…
Kể ra thì muôn vàn sự phòng thủ của bản ngã được thiết lập khi đánh mất kết nối với linh hồn. Tất cả những gì tiêu cực một người thể hiện trong cuộc sống đều khẳng định rằng anh ta chưa nhận ra được đâu là mặt nạ và đâu là con người chân thực.
3. Cái chết của bản ngã – Tắt đi chế độ phòng thủ
Cái chết của bản ngã là quá trình tắt đi chế độ phòng thủ đã nêu ở trên. Tùy vào độ cứng và dày của những bức tường mà quá trình “tắt” này có thể diễn ra trong những khoảng thời gian dài ngắn khác nhau và có cường độ cực đoan đau đớn khác nhau. Nếu một người hiểu ra rằng chế độ phòng thủ này cần được dẹp bỏ để họ hòa nhập với tâm hồn thường hằng bất biến và vĩ đại tuyệt diệu thì người đó có thể dễ dàng quy phục (surrender) trước các tình huống đang bào mòn bức tường bản ngã. Thời gian tháo gỡ sẽ không kéo dài mà càng ngày càng rút ngắn để người đó được thanh thoát nhẹ nhàng và nhận ra ánh sáng sự thật.
Nhưng nếu một người không hiểu được cơ chế này, không chấp nhận nó và cố tình chống cự những sự kiện nghịch cảnh đang diễn ra, hiểu lầm ý định tốt đẹp của cuộc đời, thì sẽ càng xây nên những bức tường dày đặc hơn. Trong khi sự va vấp với dòng chảy cuộc đời là không đổi nên càng ngày họ sẽ càng sống tiêu cực hơn, cứng nhắc hơn và khổ sở hơn. Thậm chí, nếu quá trình tan rã của bản ngã đang diễn ra mà người đó không quy phục hoàn toàn thì có thể dẫn đến những tổn thương sâu sắc về thể chất và tinh thần.
Sự tắt đi chế độ phòng thủ này có thể hiểu như người sử dụng máy tính (linh hồn) đang cố gắng nâng cấp sản phẩm của mình để nó hoạt động đúng chức năng và mục đích. Anh ta đang tìm cách tắt cái công tắc phòng ngự ấy đi, hoặc đang chỉnh sửa hệ điều hành đang tiếp tay cho cơ chế tiêu cực này. Những cá nhân giác ngộ đã và đang diễn đạt những sự thật về bản chất con người và thực tại chính là những kỹ sư đang giúp những người khác tự nâng cấp chính mình, tự tắt đi chức năng dư thừa độc hại, đi ngược lại với mục đích thánh thiện của tâm hồn. Những người có lòng tin thì sẽ lắng nghe các dấu hiệu của sự nâng cấp, để bản thân mình trở nên thanh sạch và hoàn hảo. Những người kém tin thì sẽ chống cự lại các dấu hiệu mà cuộc đời hay vũ trụ gửi tới trong những nghịch cảnh, để bản thân tiếp tục sống trong ma trận vị kỷ.
4. Một số phương thức ấn nút tắt chế độ phòng thủ của bản ngã
Có thể nói tất cả các sự kiện trong cuộc sống đều giúp một người tháo gỡ chức năng phòng thủ này. Gia đình là để yêu thương và kết nối. Lao động là để cống hiến và phục vụ tận tụy. Khó khăn là để vực dậy những phẩm hạnh thiêng liêng. Khi một người có mục đích tiến hóa, họ sẽ thấy sự nâng cấp được diễn ra mọi phút giây, trong mọi hoàn cảnh sống và mọi mối quan hệ. Còn khi không có mục đích tiến hóa, thế giới này chỉ hiện ra là mồi mê đắm lạc thú giác quan và đấu trường ganh đua kiếm chác, chống cự lại khổ đau, già nua, bệnh tật và cái chết. Có một số phương pháp giúp một người ấn nút tắt chế độ phòng thủ này.
Lao động hăng say cao độ, không mong cầu kết quả
Buông bỏ, xả ly vật chất
Yêu thương ngập tràn, vị tha, phụng sự
Cầu nguyện God với toàn bộ lòng thành kính
Nhập định sâu
Trải nghiệm chất thức thần (psychedelics)
5. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tắt chức năng phòng thủ của bản ngã
Có một câu hỏi đặt ra đó là tại sao phải tắt chức năng phòng thủ này đi? Câu trả lời đó là chức năng này không phù hợp cho sự tiến hóa nhận thức của con người. Nó làm cản trở khả năng học hỏi, thích nghi và yêu thương tự nhiên của chúng ta. Nó khiến con người càng xa rời nội tâm, chia rẽ lẫn nhau, đắm chìm trong xung đột, mâu thuẫn và nghèo đói (cả về vật chất và tinh thần). Sự phòng thủ không phải là mục đích cao thượng của bản ngã, mà là sự nhầm lẫn sinh ra do một người quên mất kết nối với cội nguồn tâm linh. Chức năng của bản ngã là phụng sự và biểu đạt mục đích cao đẹp của tâm hồn, lan tỏa tình yêu, bình an và hạnh phúc. Sự phòng thủ có cấu trúc đi ngược lại với những trạng thái thiêng liêng này nên nó cần phải được gỡ bỏ.
Có người nhầm tưởng rằng tắt chức năng phòng thủ chính là đè bẹp bản ngã hay giết chết bản ngã. Đây là góc tiếp cận sai lầm và phiến diện. Phòng thủ chỉ là một chức năng (tiêu cực) của bản ngã trong vô vàn các chức năng khác nhau. Trong khi, bản ngã là một phần của tâm hồn không thể tách biệt, như cái tay là một phần của cơ thể. Bạn không cắt cái tay đi mà hướng nó đến sự lao động đúng đắn.
Nói là cái chết của bản ngã (ego death) chỉ mang ý nghĩa hình ảnh. Cái thật sự chết đi ở đây là ảo tưởng về chức năng của bản ngã, không phải bản ngã ấy.
6. Kết luận
Nói tóm lại, một người cần nhìn thấy cơ chế phòng thủ tâm lý mà mình đang sử dụng trong những tình huống diễn ra thường ngày để có thể tháo gỡ nó dần dần. Sự chuyển hóa, sự sống, hạnh phúc và tình yêu đích thực chỉ có thể đâm chồi nảy lộc từ một mảnh đất thoáng đạt của tự do và lòng can đảm. Hãy bắt đầu “nâng cấp máy tính” của chính mình để có thể trải nghiệm những “chương trình” hay những thực tại tuyệt vời hơn.
Cách đây đúng một năm, lần đầu tiên mình được đọc một cuốn Thánh Kinh của Ấn Độ, đó là Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita). Nhưng đến bây giờ, sau một quãng thời gian dấn thân tu tập, mình mới thật sự thẩm thấu được những trí tuệ từ cuốn sách tuyệt vời này. Và không có gì vui sướng và vinh hạnh bằng việc viết review Chí Tôn Ca giới thiệu nó đến đông đảo mọi người.
Trước khi chia sẻ về 5 bài học mình nhận ra được từ Chí Tôn Ca sau một năm thực hành tâm linh, mình xin nói tóm tắt về bối cảnh cũng như nội dung chính của cuốn sách. Chí Tôn Ca kể về cuộc hội thoại thiêng liêng giữa Thầy và Trò (Krishna và Arjuna), trước khi trận chiến vĩ đại giữa các gia tộc diễn ra. Cung thủ tuyệt đỉnh Arjuna đã bị lung lay ý chí, trỗi dậy sợ hãi, mâu thuẫn, nghi ngờ trước khi trận chiến bắt đầu. Chính chàng lúc đó đã quy phục Đấng Krishna để đón nhận trí tuệ từ Người. Chàng đã được trí tuệ vô song ấy xua tan bức màn vô minh và run rẩy, để chàng đứng lên giao chiến không hề nao núng (và giành chiến thắng).
Cuộc hội thoại siêu việt này nói thẳng vào các chủ đề như: bản chất linh hồn, Thượng Đế, sự đầu thai luân hồi, các thuộc tính của thế giới, các con đường tu tập đúng đắn và sai trái, bổn phận tâm linh / sứ mệnh cuộc đời của một người khi được sinh ra, v.v… Có thể nói, tất cả những tri thức đỉnh cao và quan trọng nhất về con người và thực tại đều có ở trong Chí Tôn Ca. Không những nói trực tiếp vào các chủ đề quan trọng, không một chút vòng vo, (mình còn được biết) Chí Tôn Ca (bản gốc Phạn ngữ) được viết bằng dạng thơ với cấu trúc chặt chẽ và cân xứng hoàn hảo. Khi truyền đạt lại qua các thế hệ, nó rất khó (hoặc không thể) bị chỉnh sửa, dù chỉ một chữ. Giống như Truyện Kiều của Nguyễn Du vậy, người ta chỉ có thể ngâm nga, khắc ghi và bàn luận về nó, chứ không thể biến tấu nó theo một cách nào đó tối ưu hơn. Có thể nói, Chí Tôn Ca là một tác phẩm hoàn hảo cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Mình đánh giá rằng không có tác phẩm nào trên đời này tuyệt mỹ hơn Chí Tôn Ca.
Sau đây là 5 bài học mình nhận ra từ cuốn sách sau một năm thực hành tâm linh.
1. Quy phục Thượng Đế (surrender) là điều kiện tiên quyết để hấp thu trí tuệ
Trước kia, mình là người từng sống trong rất nhiều khổ đau và bế tắc về mặt tư tưởng. Cách đây 5 năm, mình đã đặt ra một quyết tâm rằng phải tìm được nguyên nhân của tất cả mọi sự khốn khổ ấy, để bản thân không sa vào vực thẳm tiêu cực thêm một lần nào nữa. Dù quyết tâm là vậy, khao khát trí tuệ là vậy, nhưng tất cả mọi thứ sáng sủa và tươi đẹp chỉ mở ra khi mình bắt đầu quy phục Thượng Đế. Đây là bước đi khó khăn nhất trong cuộc hành trình tìm kiếm sự thật của mình. Ngày mình quy phục Đức Krishna cũng là ngày mình hoàn toàn nhập tâm vào cuộc trò chuyện giữa Ngài và Arjuna trước trận chiến vĩ đại. Lúc đó, mình cảm thấy một nỗi xúc động khôn tả rung lên trong lồng ngực và như thể mình đang có mặt ở đó và được Krishna truyền dạy trực tiếp các chân lý vào tâm hồn. Hoàn toàn khác với lần đầu tiên đọc sách mình chỉ nắm bắt nó bằng lý trí hời hợt bên ngoài, đánh giá về câu cú hay cách sắp đặt các dữ kiện và nội dung mà chẳng hề thấy một rung động mãnh liệt nào.
Mình đã từng nghe không ít người bảo rằng Chí Tôn Ca là một cuốn sách khó nuốt, hay nó có ngôn từ trịch thượng và cao ngạo. Nhưng bây giờ mình đã hiểu rằng, phản ứng như vậy của người đọc là do chính trong bản thân họ chưa hoàn toàn quy phục Người Thầy Vĩ Đại (God) đang thuyết pháp, và chưa chịu nhún mình khiêm cung để lắng nghe. Cái cao ngạo và hống hách mà người đọc cảm nhận chính là bản ngã (ego) của họ khi đối diện với chân lý, chứ không phải là cảm nhận về chân lý. Chí Tôn Ca quả đúng là một bài kiểm tra đích thực dành cho ego. Trong Kỳ thư Kybalion đã có câu:
“Đôi môi của Trí tuệ thì khép lại, ngoại trừ với đôi tai của Hiểu biết.”
Nên nếu bạn muốn mở cánh cửa để bước vào trong những tri thức huyền diệu của Chí Tôn Ca (hay bất kỳ cuốn sách Thánh nào khác), bạn phải có được chiếc chìa khóa là sự quy phục. Nếu không có chìa khóa ấy, bạn mãi chỉ đứng loanh quanh ngoài cửa thiên đàng, dù cũng cầm cuốn sách lên đọc như biết bao nhiêu người.
“Chỉ có những kẻ vô tín ngưỡng, những kẻ thậm ngu, những kẻ thấp hèn nhất nhân loại, những kẻ bị ảo tưởng đánh cắp tri thức và những kẻ có bản chất vô thần của loài quỷ quái là không muốn quy phục Ta.”
“Trải qua muôn lần sinh tử, người thật sự có tri thức sẽ quy phục Ta, hiểu rằng Ta là căn nguyên của mọi căn nguyên và thế giới vạn vật. Linh hồn vĩ đại đó vô cùng hiếm thấy.” (7:15,19)
2. Khổ hạnh không phải là ép xác, mà là tăng đức hạnh, giảm hưởng thụ vật chất
Ngày nay khi thời thế tâm linh đang trỗi dậy, nhiều người bắt đầu dấn thân tu tập để tìm lại con người chân thực, và cũng nhiều người khác hùa theo trào lưu tâm linh. Nhưng ít ai biết được rằng bản chất của sự tu tập chính là khổ hạnh (tăng đức hạnh, giảm hưởng thụ vật chất). Vẫn tồn tại những người muốn đắc quả Thánh trong sự tiện nghi giàu có. Hay nói cách khác là không chịu dứt bỏ những dính mắc với thế giới vật chất để có sự tăng trưởng tinh thần. Đây là một sự mâu thuẫn cần được gạn lọc.
Đức Jesus đã từng nói rằng:
“Người giàu vào được nước Trời khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim.”
Hay
“Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước Trời là của họ.”
Mình đã từng chứng kiến những người muốn tu tập để tiến bộ nhưng vẫn tiếp tục hút thuốc lá, vẫn thủ dâm, vẫn còn đay nghiến người hàng xóm, vẫn còn ham tích lũy của cải và sự tiện nghi, ham nhận mọi thành tựu là của mình, v.v… Vậy thì người đó chẳng đi đến đâu cả vì không hiểu tu tập là gì, không hiểu khổ hạnh là gì và đích đến tận cùng của sự tu tập.
Khi bước vào quá trình tu khổ hạnh (ăn chay, sống tiết dục, không mua sắm những gì không cần thiết, không chơi bời cafe nhậu nhẹt, chịu nhẫn nại trước khó khăn, cắt bỏ sân giận, v.v…), mình đã không hề biết rằng nó là khổ hạnh. Chỉ sau này khi đọc Chí Tôn Ca thì mới nhận ra rằng bản thân đã đi đúng hướng. Và tận cùng của đức hạnh là dâng hiến mọi thành tựu tâm linh cho Thượng Đế. Đây là điều mà nhiều người không dám làm và không thể làm được vì chưa tin vào sự tồn tại thiêng liêng, còn chất chứa lòng tham chứng đắc tinh thần, và còn sống với cái tôi mê đắm thành tựu. Nếu ai đã thật sự tu khổ hạnh thì sẽ biết đức hạnh cao quý nhất của con người chính là hiến dâng tất cả cho God, và nỗ lực làm những điều tốt đẹp nhất để hiến dâng.
“Người nào luôn tràn trề ý thức về Ta và hiểu rằng rốt cục chỉ có Ta hưởng thành quả của mọi hy lễ và khổ hạnh, rằng Ta là vị chúa tể tối cao của mọi tinh cầu và tất cả á thần, là ân nhân và người hảo tâm của mọi chúng sinh, người đó thoát khỏi những khổ đau vật chất và có được sự an lạc.” — Sri Krishna (5:29)
3. Tâm linh nằm trong hành động (không mong cầu kết quả), không phải sự lý luận
Đã từng có một khoảng thời gian, mình khao khát sự tu tập để chứng đắc, để mau chóng thoát khỏi mọi khổ đau. Rồi ở trong những chuyện nhỏ nhặt hơn, mình từng mong viết được những bài viết hay, mong có người chú ý, mong được thành công này nọ. Nhưng mọi thứ mong cầu ấy chỉ càng làm mình đánh mất sự thư thái và bình an, thứ mình vẫn hằng khao khát. Nhưng kể từ khi nắm bắt và thực hành một lối sống tuyệt vời mà Đức Krishna đã chỉ dạy trong Chí Tôn Ca, rằng lao động không mong hưởng thành quả, và hiến dâng mọi thành quả cho Thượng Đế, mình mới có được sự thanh thản trong tâm hồn.
Thanh thảnh thôi chưa phải là tất cả, mình có được sự tập trung tự nhiên trong khi làm việc mà không cần nỗ lực. Và quan trọng hơn cả, tình yêu và lòng vị tha đã nảy sinh trong tâm hồn mình để lao động và cống hiến cho xã hội, điều mà trước kia mình hoàn toàn không có.
Mình quan sát thấy rằng sự thất bại trong tu tập đó là do chúng ta có khao khát phát triển trí tuệ nhưng lại tự trói buộc chính bản thân ở một vùng rất hữu hạn là logic lý trí, và sự mơ tưởng về các thành quả. Ta đọc nhiều, nói nhiều, kỳ vọng nhiều mà chưa một lần dấn thân hành động (VD: thực hành thiền hay từ bỏ các thói nghiện,…) Chỉ những người nào dũng cảm thì mới có thể bước ra khỏi vòng vây của cái trí để chạm tới dòng chảy sự sống nằm trong hành động. Terence McKenna có câu nói rằng:
“Nếu bạn muốn có một người thầy, hãy thử một dòng thác, hay một cây nấm, hay một vùng thiên nhiên núi rừng, hay một bờ biển giông tố. Đó mới là nơi Hành Động hiện hữu.”
Khi Chí Tôn Ca xuất hiện, nó mở ra một trường các khả năng tu tập vô cùng gần gũi và thực tế, giúp con người dù thuộc tầng lớp bình dân nhất cũng có thể tiến vào trong hành động với lòng tin và sự dũng cảm. Cá nhân mình mang ơn Chí Tôn Ca rất nhiều vì khía cạnh này, và mình tin rằng nhiều người ở ngoài kia cũng sẽ phù hợp với lối sống, lối lao động cao thượng đã được trình bày trong cuốn sách.
“Nếu ngươi chẳng thể lao động với ý thức về Ta thì hãy gắng dâng hiến mọi thành quả lao động của ngươi và hãy thấu hiểu bản chất thật sự của mình. Nếu ngươi chẳng thể làm được cả hai điều đó thì hãy gắng kiện toàn tri thức. Cao hơn tri thức là thiền định, còn cao hơn thiền định là sự từ bỏ thành quả lao động, vì sự từ bỏ đó sẽ làm cho tâm trí con người an lạc.” (12:11,12)
“Dhanañjaya ơi, hãy chấm dứt mọi việc làm tội lỗi nhờ sự phục vụ tận tụy, và hãy hiến mình cho Đấng Tối Cao trong tâm thức đó. Chỉ những kẻ bần tiện mới muốn hưởng thành quả lao động của mình.” (2:49)
4. Không có tình yêu thì không thể vượt lên trên ảo tưởng nhị nguyên
Nếu đã tìm hiểu thì các bạn có thể nhận ra rằng trong các thánh thư thì Kinh Thánh đề cập về tình yêu rất nhiều, lấy tình yêu và đức tin làm những tôn chỉ cao nhất cho sự thức tỉnh. Chí Tôn Ca cũng không là một ngoại lệ nhưng tình yêu được diễn đạt trong cung bậc cao nhất đó là tình yêu dành cho Thượng Đế. Nói theo cách của Mẹ Teresa thì:
“Cuối cùng, đó không phải chuyện giữa bạn và họ, mà là chuyện giữa bạn và Thượng Đế.”
Con người ngày nay đang mắc kẹt trong lý luận phân tích, và suy nghĩ vô độ không thể điều tiết nên không đủ năng lượng tập trung cho sự khai sáng, thông tuệ. Hay nói cách khác, con người mới chỉ dậm chân ở luân xa 3 (ảo tưởng nhị nguyên) mà chưa vươn tới được luân xa 4, là nơi năng lượng đảo cực, cuốn hút về các tầng cao hơn là trực giác tâm linh và sự hiệp nhất với Nguồn Cội.
Như đã chia sẻ ở mục 3, chính sự lao động không mong hưởng thành quả và phục vụ tận tụy (không chỉ Thượng Đế mà mọi người xung quanh) đã làm nảy nở tình yêu bên trong trái tim mình. Nếu chỉ dùng lực của tâm trí thì con người không thể vươn tới thực tại hiệp nhất nằm ngoài tâm trí được. Sống với tình yêu, đây là điều không thể trốn tránh nếu một người muốn tiến bộ tâm thức.
“Sau khi chẳng còn quyến luyến, sợ hãi và tức giận, sau khi đã dồn toàn bộ tâm trí vào Ta, tìm được chốn nương náu nơi Ta, rất nhiều người ở thời trước đã trở nên thanh sạch nhờ thấu hiểu Ta và vì thế có được tình yêu siêu việt đối với Ta.” (4:10)
“Nhà yoga đó, người phục vụ Linh Hồn Tối Cao với lòng tận tụy và tình yêu biết rằng Ta và Linh Hồn Tối Cao là một, luôn ở trong Ta trong mọi hoàn cảnh.” (6:31)
5. Thiền định giúp chế ngự giác quan và đưa con người vào sự tĩnh lặng
Trong Chí Tôn Ca, Đức Krishna đã đề cập rất nhiều về tầm quan trọng của việc thiền định, rèn luyện một tâm trí bình an và chế ngự các giác quan. Nhưng trong trải nghiệm cá nhân, mình rút ra được một bài học đó là thiền định ở đây không thể tách rời khỏi đời sống thường ngày, và một người chỉ có thể tĩnh lặng khi đã sống được một cuộc đời hữu ích tốt đẹp cho nhân gian.
Mình đã chứng kiến rất nhiều người hiểu lầm về thiền khi cố gắng đè nén và kiểm soát tâm trí khi ngồi thiền. Đồng thời khi bước ra khỏi tấm bồ đoàn thì người đó sống buông thả, vô lối và kiêu ngạo. Thật sự mà nói, việc ngồi xuống thiền chỉ tương đương với lúc người ta hái quả. Còn toàn bộ cuộc sống hàng ngày là lúc một người chăm sóc nuôi dưỡng cái cây. Thiền là sợi chỉ nối cả hai quá trình đó làm một.
“Đức Chí Tôn Sri Krishna phán: Hỡi người con có cánh tay mạnh của Kunti, chế ngự tâm trí bất an tất nhiên là việc rất khó, nhưng có thể làm được điều đó nhờ sự rèn luyện thích hợp và sự từ bỏ hoạt động vật chất. Người có tâm trí không kiềm chế, khó lòng nhận thức được bản chất tinh thần của mình. Còn người đã kiểm soát được tâm trí và nỗ lực vươn tới đích bằng phương pháp đúng đắn sẽ nhất định thành công. Đó là ý kiến của Ta.” (6:35,36)
“Ai chế ngự được tâm trí và giác quan, ai tịch diệt luyến ái và chẳng màng đến dục lạc vật chất, người đó có thể đạt cấp độ toàn thiện tột bậc và thoát khỏi mọi tội báo nhờ lối sống thoát tục.” (18:49)
Review Chí Tôn Ca – Kết luận
Nói tóm lại, Chí Tôn Ca là tác phẩm tuyệt đỉnh không thể chối cãi. Tất cả những điều tuyệt vời nhất về tinh thần mình trải nghiệm được phần lớn là nhờ thực hành theo các tôn chỉ mà Đức Krishna đã chỉ dạy. Bài review này là một hy lễ mình dâng lên để tỏ lòng biết ơn với Thượng Đế và cuộc đời đã rộng lòng dẫn dắt con người hèn mọn này. Đồng thời đây cũng là một món quà tinh thần mình muốn gửi gắm đến tất cả những người anh chị em hữu duyên, cũng đang khao khát dòng chảy sự thật và ân sủng từ Trời. Cảm ơn các bạn đã đón đọc. Chúc các bạn an vui và mạnh khỏe.
Tác giả: Vũ Thanh Hòa
Download Chí Tôn Ca (full, free PDF, 700 câu, 53 trang, THĐP hiệu đính) >>> bit.ly/CTC_THDP
Chí Tôn Ca (tên tiếng Anh là Bhagavad Gita) là một văn bản cổ bằng tiếng Phạn bao gồm 700 câu trong đại sử thi Ấn Độ Mahabharata. Những câu này, sử dụng dạng thơ mỗi câu có năm âm tiết Sanskrit với nhiều so sánh và ẩn dụ, mang nhiều tính thơ ca; và do đó tựa đề, dịch ra là “Bài hát của Đấng Tối cao” dưới hình dạng của Krishna. Nhiều lần được đánh giá cao không chỉ bởi người Ấn Độ mà cả những nhà tư tưởng nổi tiếng như Aldous Huxley, Henry David Thoreau, J. Robert Oppenheimer, Ralph Waldo Emerson, Carl Jung, Bulent Ecevit, Hermann Hesse, Heinrich Himmler và những người khác [1][2][3].
Nguồn gốc chính của học thuyết Karma Yoga (Yoga Hành động) rõ ràng là từ Chí Tôn Ca. Albert Schweitzer (14 tháng 1 năm 1875 – 4 tháng 9 năm 1965) là một tiến sĩ, thầy thuốc, nhà triết học, thần học người Đức, sau mang quốc tịch Pháp. Ông đoạt Giải Goethe năm 1928 và giải Nobel Hoà bình năm 1952 vì đã có công lớn trong giúp đỡ người châu Phi, bất chấp gian khổ, bệnh tật.
Ông đã có khoảng 50 năm chữa bệnh cho người dân Gabon, một đất nước nằm ở miền Tây Trung Phi. Khi mất, ông cũng được chôn tại đây. [wiki]) nhận thấy ở Chí Tôn Ca “Một ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của nhân loại thông qua lòng tôn kính đối với Thượng Đế được thể hiện bằng các hành động khác nhau.” [4][5]
“Người trí huệ sẽ không xót thương người sống hay kẻ chết. Chưa bao giờ có chuyện Ta, ngươi và tất cả các bậc đế vương tề tựu tại đây lại không tồn tại và cũng sẽ không có một thời điểm mà chúng ta ngừng tồn tại. Linh hồn trong thân xác tồn tại mãi mãi, không thể phá hủy và vô hạn, chỉ có thân xác mới thực sự dễ bị tàn lụi. Do đó, hãy chiến đấu, ôi Arjuna.”
“Giống như con người tồn tại trong thân xác này đều phải trải qua các giai đoạn từ thơ ấu, tuổi trẻ tới tuổi già, nên khi chết, anh ta chỉ đơn thuần là chuyển sang một dạng thân xác khác. Người trí huệ không bị lừa dối bởi điều đó. Cái chết chẳng có gì đáng đau thương hơn so với việc cởi bỏ một chiếc áo khoác đã cũ.”
“Những người si mê, về biểu hiện, sống trong sự đối lập giữa sự ô nhục và danh dự, khổ sở và hạnh phúc, đàn bà và đàn ông, tốt và xấu, vui sướng và đau khổ… nghĩ rằng: ‘Đây là vợ tôi, đây là nhà của tôi, tôi là chủ của ngôi nhà này, tôi là chồng của người vợ này.’ Đây là tính hai mặt (nhị nguyên) của ảo tưởng. Những người bị u mê bởi nhị nguyên là những kẻ hết sức ngu ngốc và do đó, không thể hiểu được God.”
“Mục tiêu đích thực của hành động là sự hiểu biết về Chân ngã trong mỗi con người. Những ai an vui trong Chân ngã, mục đích cuộc đời họ là nhận ra được Chân ngã, và chỉ hài lòng trong Chân ngã, hoàn toàn thỏa mãn, thì người đó không còn nghĩa vụ gì.”
“Tat tvam asi — Ngươi chính là Nó (Thou art That). Atman (Ātman là một từ tiếng Phạn có nghĩa là nội tâm, tinh thần hoặc linh hồn. Trong triết học Ấn Độ giáo, đặc biệt là trong trường phái Vedanta của Ấn Độ giáo, Ātman là nguyên tắc đầu tiên, con người thật của một cá nhân vượt ra ngoài sự đồng nhất với các hiện tượng, bản chất của một cá nhân) cũng chính là Brahman (Brahman hay Đại ngã là một khái niệm về thực tại tuyệt đối tối thượng của Ấn Độ giáo.
Brahman là hiện thực siêu việt không thay đổi, vô hạn, có ở khắp mọi nơi và là nền tảng linh thiêng cho tất cả vật chất, năng lượng, thời gian, không gian, các thể sống, và tất cả những gì vượt khỏi vũ trụ này.) Chân ngã trong mỗi người cũng không khác gì God.”
“Người trí huệ nhận thấy mình trong tất cả và tất cả trong mình, họ là những người đã từ bỏ mọi ham muốn vị kỷ và cảm giác thèm muốn đang hành hạ trái tim.”
“Chúng ta thấy những gì mình là, và chúng ta là những gì mình thấy.”
“Người nhìn thấy Ta trong mọi thứ và mọi thứ trong Ta sẽ không bao giờ lạc mất Ta, và Ta cũng sẽ không bao giờ lạc mất hắn. Người mang trong mình sự đồng nhất này nhận ra rằng Ta ở trong mọi sinh mệnh; dù hắn đi bất cứ nơi nào, hắn vẫn ở trong Ta. Khi hắn nhận thấy tất cả đều bình đẳng về nỗi đau khổ hay niềm vui sướng bởi vì họ cũng giống như hắn, người đó đã đạt đến mức hoàn hảo của yoga.”
Về hành động
“Hãy hành động một cách cẩn thận, xuất phát từ lòng trắc ẩn.”
“Sống cuộc sống của chính mình dù không hoàn hảo vẫn tốt hơn việc bắt chước cuộc sống của người khác một cách hoàn hảo.”
“Ngươi có quyền làm việc, nhưng hưởng thụ thành quả thì không. Ngươi không bao giờ nên làm việc để được phần thưởng, cũng không nên mong ngóng chuyện ngưng làm việc. Hãy thực hiện công việc trong thế giới này, Arjuna, như một đàn ông tự gầy dựng chính mình – không có những bám chấp ích kỷ, thành công và thất bại cũng như nhau. Bởi yoga chính là sự cân bằng tuyệt đối của tâm trí.”
“Hãy trú ngụ trong thái độ không níu bám và ngươi sẽ tích lũy được sự giàu có trong nhận thức tâm linh. Những người luôn mong ngóng đến thành quả của hành động thì thật khốn khổ, vì họ luôn lo lắng không ngừng về kết quả của những việc họ làm. Tuy vậy, khi nhận thức đã được thông suốt, tất cả mọi lo lắng vô ích sẽ bị bỏ lại phía sau. Sẽ chẳng có lý do gì để lo lắng, dù cho mọi việc diễn ra thuận lợi hay bất trắc.”
“Ngươi có quyền kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ của mình, nhưng không có quyền kiểm soát hay sở hữu kết quả. Sợ thất bại, bắt nguồn từ sự gắn kết cảm xúc với kết quả của hành động, là trở ngại lớn nhất cho thành công vì nó đánh mất đi hiệu quả công việc bằng cách liên tục làm xáo trộn sự bình thản của tâm trí.”
“Hành động vị kỷ giam cầm thế giới. Hãy hành động một cách vị tha, và đừng bao giờ suy nghĩ vụ lợi cho bản thân.”
“Chủ nghĩa khổ hạnh là khước từ những hành động ích kỷ, như các nhà thơ, và những bậc trí huệ tuyên bố rằng sự từ bỏ có nghĩa là không màng đến thành quả hành động.”
“Nếu thực hiện nghĩa vụ theo đúng bản chất của họ, con người sẽ không mắc bất kỳ tội lỗi nào cả.”
“Trên đời này, không một ai làm việc tốt mà phải nhận kết cục tồi tệ, dẫu cho ở đời nay hay cả đời sau.”
“Hãy hành động với tâm trí hướng về Đấng Thánh, gạt bỏ níu bám, nhìn nhận thành công và thất bại một cách công bằng. Tâm linh nằm trong sự thanh thản.”
“Người thiếu trưởng thành cho rằng kiến thức và hành động là khác nhau, nhưng người trí huệ thì xem chúng là một.”
Về tâm trí, thân xác, thiền định, phát triển tâm linh
“Bởi các giác quan thì đi lang thang, và khi một người để tâm trí của mình bị cuốn theo những giác quan đó, họ sẽ đánh mất đi sự khôn ngoan của mình và mãi lênh đênh giống như một con tàu bị gió thổi trôi dạt vô định trên mặt nước.”
“Bất cứ ai có ý chí kiên định ngay cả trong giai đoạn về sau của nhận thức tâm linh và vẫn vững vàng sau những tột cùng đau khổ cũng như hạnh phúc chắc chắn sẽ đủ khả năng cho sự giải thoát.”
“Hạnh phúc đến từ quá trình thực hành lâu dài, dẫn tới sự kết thúc của mọi khổ đau, ban đầu giống như thuốc độc, nhưng sau cùng lại ngọt ngào như mật hoa – thứ hạnh phúc này nảy nở từ sự thanh thản trong tâm trí một người.”
“Khi một người thấu hiểu và cảm thông với niềm vui và nỗi buồn của người khác, như của chính bản thân mình, thì người đó đã đạt được tới cảnh giới cao nhất của sự hiệp thông tâm linh.”
“Một số người cảm nhận được Thượng Đế trong trái tim bằng trí tuệ thông qua thiền định; một số khác thông qua yoga kiến thức; và một số khác lại thông qua yoga hành động. Mặc dù vậy, một số khác lại không hiểu về Brahman, nhưng đã từng nghe người khác kể lại, rồi hình thành thói quen tôn kính. Họ cũng vượt qua được cái chết bởi đức tin vững chắc vào những gì họ đã được nghe.”
“Khi sự thiền định trở nên rất sâu, hơi thở trở nên chậm, đều và thậm chí, mọi cửa sổ giác quan đóng lại với tất cả các cảm nhận từ bên ngoài cơ thể. Tiếp theo, tâm trí dần rơi vào trạng thái tĩnh lặng, tách biệt khỏi những hoạt động điên cuồng thường nhật; ngay cả những cảm xúc cơ bản về ham muốn, sợ hãi và giận dữ đều lắng xuống. Khi tất cả các cung bậc cảm giác và cảm xúc này đều ngừng lại, thì khi đó, tâm thức ta được tự do, ít nhất là tại thời điểm đó. Nó đã đi vào trạng thái được gọi là Samadhi.”
Về Thượng Đế
“Ta chính là Atma ngự trị trong tim của mọi chúng sinh. Ta là khởi đầu, là khoảng giữa và cũng là kết thúc của mọi chúng sinh.”
“Nguyên nhân dẫn tới sự đau khổ của một người là sự lãng quên mối quan hệ giữa anh ta với Thượng Đế.”
“Thượng Đế là nguồn ánh sáng trong tất cả các vật thể phát sáng. Người vượt ra khỏi bóng tối của vật chất và không thị hiện. Người là tri thức, Người là đối tượng của tri thức, và Người là mục tiêu của tri thức. Người ngự trị trong trái tim tất cả.”
“Ta là Sama Veda ((Ca vịnh thần chú, gồm 585 khổ thơ, tương ứng với các giai điệu được dùng trong những tụng ca hiến tế (hymmes des sacrifices).)) trong số các kinh Vệ-đà; Ta là Indra ((Thần Indra hay còn gọi là Đế Thích Thiên vị thần của sấm sét. Là một trong những vị thần tối cao của đạo Hindu (Ấn Độ).)) trong số các Chư thiên; Ta là tâm trí trong số các giác quan; Ta là ý thức (consciousness) trong mọi sinh linh.”
“Ta chính là người ngự trị trong trái tim của tất cả chúng sinh với tư cách là người điều khiển tất cả; và ta cũng chính là nguồn gốc của trí nhớ, kiến thức và khả năng tư duy. Một lần nữa, Ta là đối tượng duy nhất đáng tìm hiểu thông qua các kinh Vệ-đà; Ta là nguồn gốc duy nhất của Vedānta ((Một trường phái triết học nằm trong Ấn Độ giáo xem xét đến bản chất của thế giới hiện thực.)) và cũng là người am tường bộ kinh Vệ-đà.”
“Trong số hàng ngàn người, có thể có một người nỗ lực để đạt tới sự hoàn hảo và trong số những người đã đạt được sự hoàn hảo đó, hiếm có một người thực sự hiểu về Ta.”
“Ngay cả kẻ mang trong mình nhiều tội lỗi nhất nhưng tôn kính ta bằng tất cả linh hồn của hắn, thì người đó vẫn được coi là người công chính vì ý muốn công chính của hắn. Và hắn sẽ sớm trở nên thuần khiết và chạm tới sự an bình vĩnh cửu. Vì đây là lời hứa của ta, rằng những ai mến yêu ta sẽ không bao giờ bị diệt vong.”
“Cuộn vào trong chính mình, Ta sáng tạo lần nữa và lần nữa.”
“Sự bình an của God sẽ đồng hành với những người có sự hoà hợp giữa tâm trí và linh hồn, những người tự do khỏi ham muốn và phẫn nộ, những người hiểu rõ về linh hồn của chính họ.”
“Thượng Đế chỉ nhận lấy tình yêu trong những hiến lễ được dâng lên Người.”
Về thực tại, thế giới
“Chúng ta không bao giờ thực sự chạm vào thế giới này; tất cả những gì chúng ta trải nghiệm được đều thông qua hệ thống thần kinh của chính mình. Tất cả chúng ta là kết quả của những gì chúng ta nghĩ. Chúng ta được tạo ra từ những suy nghĩ của bản thân; chúng ta được nhào nặn bởi chính những suy nghĩ của mình.”
“Sai lầm của chúng ta nằm ở chỗ cho rằng thế giới vật chất này là thực tại tối thượng, giống như kẻ mơ mộng cho rằng không có gì là thật ngoại trừ giấc mơ của mình.”
“Sự xuất hiện vô thường của hạnh phúc hay đau khổ, và sự biến mất của chúng vào đúng thời điểm, cũng giống như sự xuất hiện và biến mất của mùa đông và mùa hè. Chúng phát sinh từ nhận thức của giác quan, và một người phải học cách sống bình thản mà không chúng bị làm phiền.”
“Họ nói rằng cuộc sống là một sự tình cờ, và chịu sự chi phối của dục vọng, rằng vũ trụ này không có bất kỳ chuẩn mực đạo đức nào, không có sự thật, cũng không hề có Thượng Đế.
Bị những ham muốn vô độ điều khiển, và mãi đắm chìm trong sự kiêu ngạo về quyền lực, đạo đức giả, sự lừa dối, hành động của kẻ đó phạm lỗi cùng với sự tư lợi, bị dằn vặt bởi một nỗi lo lắng lớn kéo dài cho đến khi họ chết, tin rằng thỏa mãn dục vọng là mục tiêu duy nhất của cuộc sống, bị ràng buộc bởi hàng trăm xiềng xích của dục vọng, bị nô lệ bởi lòng tham của chính họ, họ phung phí thời gian vào những việc làm bất lương để đổi lấy núi của cải cho bản thân.”
“Để các giác quan được thỏa mãn, kẻ sống trong dục tính* (mode of passion) sẽ luôn mong muốn có được danh dự trong xã hội, hoặc trong quốc gia, rồi kẻ đó muốn có một gia đình hạnh phúc, có vợ đẹp, con khôn và có một ngôi nhà đẹp. Đây là sản phẩm của dục tính.
Khi một người còn thèm muốn những dục vọng này, kẻ đó phải làm việc rất vất vả. Do đó, rõ ràng ở đây kẻ đó bị dính mắc với kết quả của hành động. Để làm hài lòng vợ, con, xã hội và để giữ gìn danh dự của mình, kẻ đó sẽ phải làm việc. Do đó, toàn bộ thế giới vật chất ít nhiều đều nằm trong dục tính.”
*Một trong 3 tính chất của thế giới. 2 tính chất còn lại là: Hiền tính (mode of goodness) và si tính (mode of ignorance). Tham khảo Chí Tôn Ca, Chương 7
Về đức hạnh
“Người đã buông bỏ hận thù, người đối xử với tất cả chúng sinh bằng sự tử tế và lòng trắc ẩn, người luôn thanh thản, không bị lay chuyển bởi đau khổ hay hạnh phúc, tự do khỏi “cái tôi” và “của tôi”, tự chủ, kiên định và kiên nhẫn, toàn bộ tâm trí của người đó tập trung vào Ta – đó là người Ta yêu nhất.”
“Địa ngục có ba cổng vào: dâm dục, giận dữ và tham lam. Người khôn phải biết trừ bỏ ba thói xấu hủy hoại linh hồn này.”
“Những thú vui đến từ thế giới của các giác quan đều có khởi đầu và kết thúc và sinh ra đau khổ, Arjuna.”
“Những người đã vững chãi trong sự nhận biết Chân ngã kiểm soát những cảm xúc của họ thay vì để chúng điều khiển họ.”
“Các nhà hiền triết đã giác ngộ coi một người là khôn ngoan khi người đó không bận tâm đến kết quả từ mọi hành động của mình; tất cả những dục vọng ích kỷ của con người đó đều bị thiêu rụi trong ngọn lửa của tri thức. Người khôn ngoan, luôn cảm thấy thỏa mãn, đã từ bỏ tất cả các chỗ dựa từ bên ngoài. Sự yên ổn của họ không bị ảnh hưởng bởi kết quả từ hành động của họ; ngay cả khi hành động, họ thực sự không làm gì cả.
Không có sự kỳ vọng hay ý muốn sở hữu, tâm trí và thể xác được kiểm soát chặt chẽ bởi Chân Ngã, họ không mắc bất kỳ tội lỗi nào khi thực hiện hành động của mình. Họ sống một cách ung dung tự tại, là những người đã vượt ra khỏi nhị nguyên của cuộc sống.
Họ không cạnh tranh với bất kỳ ai, thành công và thất bại không có sự khác biệt và họ bằng lòng với bất cứ điều gì xảy đến với họ. Họ tự do, không có những níu bám ích kỷ; tâm trí của họ được cố định trong tri thức. Họ thực hiện mọi công việc trên tinh thần phục vụ, và nghiệp của họ đã tan biến.
“Một Yogi vĩ đại hơn một người theo chủ nghĩa khổ hạnh, vĩ đại hơn một người theo chủ nghĩa kinh nghiệm và vĩ đại hơn một người làm việc vì thành quả. Do đó, ôi Arjuna, trong mọi hoàn cảnh, hãy là một Yogi.”
Bình luận của những người nổi tiếng về Chí Tôn Ca
Gandhi nói về Chí Tôn Ca
Việc Chí Tôn Ca tập trung nhấn mạnh vào sự phục vụ không vụ lợi là nguồn cảm hứng chính cho Mohandas Karamchand Gandhi (Gandhi là vị anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến bất bạo lực chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ của hàng triệu người dân.) Gandhi từng nói,
“Khi những nghi ngờ ám ảnh tôi, khi tôi trực tiếp đối mặt với những nỗi thất vọng và tôi không thấy một tia hy vọng nào ở phía cuối chân trời, tôi mở Chí Tôn Ca ra và tìm một câu để an ủi bản thân, và tôi bắt đầu mỉm cười ngay lập tức giữa vô vàn những nỗi sầu muộn. Những người suy ngẫm về Chí Tôn Ca sẽ tìm thấy niềm vui và ý nghĩa mới mẻ trong nó mỗi ngày.” [6]
Sri Aurobindo nói về Chí Tôn Ca
Theo Sri Aurobindo ((Sri Aurobindo (15 tháng 8 năm 1872 – 5 tháng 12 năm 1950) là một học giả, nhà thơ, triết gia, yogi người Ấn Độ, là một trong những lãnh tụ tinh thần nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của triết lý Vệ Đà. [wiki])),
“Chí Tôn Ca là một kinh sách chân chính của loài người, một sự sáng tạo sống chứ không phải là một cuốn sách, với một thông điệp mới cho mỗi thời đại và ý nghĩa mới cho từng nền văn minh.”
Swami Vivekananda nói về Chí Tôn Ca
Swami Vivekananda ((Swami Vivekananda (12 tháng 1 năm 1863 – 4 tháng 7 năm 1902) là một tu sĩ Ấn Độ giáo Ấn Độ, một trong những lãnh tụ tinh thần nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của trường phái Vedānta. Ông là đại đệ tử của Ramakrishna Paramahamsa và là người sáng lập ra Ramakrishna Math và Ramakrishna Mission.
Nhiều người xem ông là thần tượng cho lòng nhiệt tình, ảnh hưởng tích cực lên lớp trẻ, tầm nhìn thoáng về các vấn đề xã hội, và vô số bài giảng và bài thuyết pháp về Vedanta.)) tỏ ra đặc biệt quan tâm đến Chí Tôn Ca. Người ta nói, Chí Tôn Ca là một trong hai cuốn sách yêu thích nhất của ông. Từ năm 1888 – 1893 khi Vivekananda đi hành hương khắp Ấn Độ với tư cách là một tu sĩ lang thang, ông chỉ mang theo hai cuốn sách bên mình: Chí Tôn Ca và Imitation of Christ (TD: Noi gương Đức Ki-tô) [7].
Aldous Huxley ((Aldous Leonard Huxley (26 tháng 7 năm 1894 – 22 tháng 11 năm 1963) là một nhà văn người Anh di cư đến Mỹ và sống ở Los Angeles cho đến khi chết năm 1963. Ông là một thành viên của gia tộc Huxley nổi tiếng. Rất nổi danh với những quyển tiểu thuyết và những bài viết đa dạng của mình, ông cũng đã xuất bản những truyện ngắn, thơ, bài viết về lữ hành, truyện cho phim và kịch bản.
Qua những quyển tiểu thuyết và bài viết của mình, Huxley đóng vai trò như một người kiểm tra và đôi khi phê phán những quan niệm đạo đức truyền thống, những hành vi và lý tưởng của xã hội. Huxley là một nhà nhân văn nhưng cũng quan tâm đến kết cục cuộc sống của mình trong những chủ đề như tâm lý học tâm linh và thuyết thần bí theo triết học mà ông cũng có viết về chúng.
Vào cuối cuộc đời, Huxley được nhiều giới học thuật xem như một “người đi đầu trong tư tưởng hiện đại” và một nhà trí thức cấp cao. [wiki])), nhà văn người Anh cho rằng Chí Tôn Ca là
“[l]ời tuyên bố có tính hệ thống nhất về sự tiến hóa tâm linh có giá trị to lớn cho nhân loại.” Ông cũng cảm thấy, Chí Tôn Ca là “một trong những bản tóm lược rõ ràng và toàn diện nhất về triết học vĩnh hằng (perennial philosophy) từng được tiết lộ; không chỉ đối với Ấn Độ mà còn đối với toàn nhân loại.” [6]
Jawaharlal Nehru, thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ nhận thấy
“Chí Tôn Ca liên quan chủ yếu đến nền tảng tâm linh đối với sự tồn tại của con người. Đó là một lời kêu gọi hành động để đáp ứng các bổn phận và nghĩa vụ của cuộc sống, nhưng vẫn giữ được quan điểm về bản chất tâm linh và mục đích to lớn hơn của vũ trụ.” [8]
J. Robert Oppenheimer
Cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân Trinity của Dự án Manhattan là vụ nổ vũ khí hạt nhân đầu tiên, khiến Oppenheimer nhớ lại những vần thơ từ Chí Tôn Ca, đáng chú ý là: “Ta đã trở thành Thần chết, đấng hủy diệt mọi cõi thế.” (Bản dịch của THĐP: “Ta là thời gian, đấng hủy diệt vĩ đại mọi cõi thế.”)
J. Robert Oppenheimer, nhà vật lý người Mỹ đồng thời là giám đốc Dự án Manhattan, đã học tiếng Phạn vào năm 1933 và từng đọc bản gốc của Chí Tôn Ca, về sau đã trích dẫn tác phẩm này như một trong những cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất góp phần định hình triết lý sống của ông. Oppenheimer sau đó nhớ lại rằng, khi chứng kiến vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân Trinity, ông đã liên tưởng đến những vần thơ từ Chí Tôn Ca (11:12).
दिवि सूर्यसहस्रस्य भवेद्युगपदुत्थिता। यदि भाः सदृशी सा स्याद्भासस्तस्य महात्मनः।।११-१२।। [9]
“Nếu ánh sáng rực rỡ của một ngàn mặt trời bừng cháy cùng một lúc trên bầu trời, thì đó sẽ giống như sự huy hoàng của Đấng Tối Cao.” [10][11]
Nhiều năm sau ông đã lý giải rằng một khổ thơ khác đã ăn sâu vào tâm trí ông ở thời điểm đó:
“Chúng tôi biết thế giới này sẽ không như trước nữa. Có người cười, có người khóc. Đa số thì im lặng. Tôi nhớ đến một dòng từ kinh sách Hindu, Chí Tôn Ca;
Vishnu ((Là vị Thần bảo hộ trong Ấn giáo, một trong 3 Đại Thần (2 vị còn lại là Brahma và Shiva) )) đang cố gắng thuyết phục Hoàng tử rằng chàng nên làm tròn bổn phận của mình và để gây ấn tượng với Hoàng tử, Người hiện ra bộ dạng Thần Thánh với nhiều cánh tay và nói, “Giờ đây ta đã trở thành Thần chết, đấng hủy diệt mọi cõi thế.” Tôi cho rằng tất cả chúng tôi đều nghĩ như thế, bằng cách này hay cách khác.” [12]
Oppenheimer đã trích dẫn những lời này trong một bộ phim tài liệu The Decision to Drop the Bomb (1965) [12]. Oppenheimer đã đọc từ bản gốc tiếng Phạn, “kālo’smi lokakṣayakṛtpravṛddho lokānsamāhartumiha pravṛttaḥ” (11:32) [13]. Bản dịch tiếng Anh của ông lần đầu tiên được in ra trong tạp chí Time, ngày 8/1/1948 [14]. Sau đó nó được xuất hiện trong sách của Robert Jungk (Brighter than a Thousand Suns: A Personal History of the Atomic Scientists (1958)) [10], nó được dựa trên một cuộc phỏng vấn với Oppenheimer. Xem thêm The Gita of Robert Oppenheimer của James A. Hijiya. [15]
Henry David Thoreau
Henry David Thoreau từng viết:
“Khi bình minh lên, tâm trí tôi chìm đắm trong triết lý mang tính vũ trụ tuyệt vời của Chí Tôn Ca. Đó là tác phẩm kỳ diệu so với thế giới hiện đại và nền văn học yếu đuối và tầm thường của chúng ta.” [16]
Hermann Graf Keyserling, nhà triết học người Đức từng nhận xét về Chí Tôn Ca rằng: “Đây có lẽ tác phẩm tuyệt vời nhất của nền văn học thế giới.” [17]
Hermann Hesse
Hermann Hesse cảm thấy rằng “Sự kỳ diệu của Chí Tôn Ca là ở sự khai sáng thực sự đẹp đẽ của nó về trí tuệ của cuộc sống, điều này cho phép triết học phát triển lên một bậc cao hơn là tôn giáo.” [6]
Ralph Waldo Emerson đã nhận xét như thế này về Chí Tôn Ca:
“Tôi nợ Chí Tôn Ca một ngày tuyệt diệu. Tác phẩm này giống như lời nói của một bậc đế vương, chứ không phải từ một con người nhỏ bé hay tầm thường, nó là giọng nói hùng trang, dõng dạc và kiên định, của một bậc tài trí thông minh giàu kinh nghiệm sống ở một thời đại và bối cảnh khác đã suy ngẫm và đúc kết lại, từ đó làm dẹp bỏ những câu hỏi tương tự đặt ra cho chúng ta.” [18]
“Một bản hùng ca tuyệt vời nhất, có lẽ là bài ca triết học đúng đắn duy nhất tồn tại ở bất kỳ loại ngôn ngữ nào trên đời… có thể là điều sâu sắc nhất và cao cả nhất mà thế giới có được.” [19]
Bulent Ecevit
Bulent Ecevit, Cựu thủ tướng của Thổ Nhĩ Kỳ, khi được hỏi điều gì đã khiến ông đủ can đảm để đưa quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đến Cyprus. Câu trả lời của ông là
“Ông tìm thấy động lực từ Chí Tôn Ca, tác phẩm đã dạy rằng nếu một người có tư cách đạo đức đúng đắn, người đó sẽ không ngần ngại đứng lên chống lại mọi sự bất công.” [5]
Lord Warren Hastings
Lord Warren Hastings, tổng thống đầu tiên của British India đã viết:
“Tôi ngần ngại không dám thừa nhận rằng Chí Tôn Ca là một tác phẩm sáng tạo vĩ đại, về sự thăng hoa của quan niệm, lý luận và ngôn từ gần như vô song; tác phẩm này là một ngoại lệ duy nhất, trong số tất cả các tôn giáo mà nhân loại biết đến.” [20]
Sunita Williams
Sunita Williams, một phi hành gia người Mỹ, người nắm giữ kỷ lục chuyến bay vào không gian dài nhất được thực hiện bởi một người phụ nữ, đã mang theo một cuốn Chí Tôn Ca và Áo Nghĩa Thư ((Nguyên văn Upanishads, “kinh điển với ý nghĩa uyên áo”, là một loại văn bản được xem là thuộc hệ thiên khải, nghĩa là được “bề trên khai mở cho thấy” trong Ấn Độ giáo. Chúng kết thúc hoặc hoàn tất các loại thánh kinh được xếp vào Vệ-đà của Ấn Độ giáo. )) cùng bà bay vào không gian, đã chia sẻ:
“Đó là những trí tuệ tâm linh để bạn tự phản ánh chính mình, cuộc sống, thế giới xung quanh bạn và nhìn nhận mọi thứ theo một cách khác, tôi nghĩ nội dung của tác phẩm rất phù hợp vào thời điểm đó.” [21]
Annie Besant
“Người theo con đường tâm linh không nhất thiết phải là người sống ẩn dật, sự kết nối với Sự sống thiêng liêng có thể đạt được và duy trì giữa những bộn bề của công việc trần tục, những trở ngại đối với sự kết nối đó không tồn tại bên ngoài chúng ta mà ở bên trong chúng ta, đó chính là nội dung trọng tâm của Chí Tôn Ca.” [22]
Rudolf Steiner
“Nếu chúng ta muốn tiếp cận một tạo phẩm siêu phàm như Chí Tôn Ca bằng những hiểu biết đúng đắn và đầy đủ thì chúng ta cần phải hòa nhập linh hồn của mình vào nó.” [23]
E. Sreedharan
“Bạn thấy đấy, tâm linh không mang hàm ý tôn giáo. Bản chất của tâm linh là làm cho tâm trí và suy nghĩ của một người trở nên thuần khiết. Khi tôi bắt đầu đọc những cuốn kinh sách cổ, giống như Chí Tôn Ca, tôi nhận thấy nó có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống hàng ngày, vì vậy tôi bắt đầu thực hành nó. Tôi coi đó là một thánh thư mang tính quản lý, nó sẽ giúp bạn thực hiện những việc như điều hành một tổ chức.” [24]
Shri Narendra D Modi
Thủ tướng Ấn Độ, Shri Narendra Modi đã hùng hồn tuyên bố Chí Tôn Ca là “Món quà lớn nhất của Ấn Độ cho thế giới.”[25] Shri Modi đã tặng quyển Chí Tôn Ca – Theo góc nhìn của Gandhi cho Tổng thống Hoa Kỳ, ông Barack Obama vào năm 2014 trong chuyến viếng thăm của mình tới nước Mỹ [26]. Khi Shri Modi giới thiệu Chí Tôn Ca tới các nhà lãnh đạo trên thế giới, hơn một tỷ người tìm thấy hòa bình và mục đích sống trong những lời này của Krishna9 thông qua Gandhi. [27]
“Archived copy” (PDF). Archived from the original (PDF) on 2013-05-15. Retrieved 2013-12-16. The Gita of J. Robert Oppenheimer by JAMES A. HIJIYA, Professor of History, University of Massachusetts Dartmouth (PDF file)
Pandit, Bansi, Explore Hinduism, p. 27
Hume, Robert Ernest (1959), The world’s living religions, p. 29
The Bhagavad Gita: The Lord’s Song, The Theosophical Publishing House, Adyar, Preface
From his Lectures: Steiner, Rudolf (September 2009). The Bhagavad Gita and the West: The Esoteric Significance of the Bhagavad Gita and Its Relation to the Epistles of Paul. SteinerBooks. pp. 317–. ISBN 978-0-88010-961-1.