19.6 C
Da Lat
Chủ Nhật, 6 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 294

Biết ngắm hoa hồng và sử dụng súng

0
*Photo: CowgirlMs

 

Tôi không thích những triết lý hoa mỹ về “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”, rằng con người ai cũng chứa bên trong mình Chân Thiện Mỹ, rằng luôn có những kết thúc như cổ tích giữa đời thường, và rằng hạnh phúc không khó tìm kiếm… Dù rằng nhân sinh quan mỗi người mỗi khác, nhưng tôi vẫn thuộc nhóm người ủng hộ các ý niệm trên, tôi ủng hộ và tin đến độ tôi thấy việc bàn về các ý niệm đó như thể các điều ấy sắp được đưa vào biên soạn thành kinh sách của một loại tôn giáo thời hiện đại, dù rằng chúng đã được đề cập trong rất nhiều giáo lý trước đây. Do đó tôi không thích bàn, không thích lặp đi lặp lại, như một nhà truyền giáo tân thời của một tôn giáo tân thời. Và đương nhiên việc làm lan tỏa ý niệm đại đồng nhân ái bình an là điều tốt đẹp, nhưng tôi không thích sự sa đà vào một thái cực.

Tôi thích nói về đấu tranh, tôi thích nói về tiền tuyến. Tôi vốn dĩ không thích lối sống cầu an, tôi luôn nghĩ hạnh phúc không bao giờ là thứ được cho không hay biếu không, hạnh phúc là cái phải mưu cầu mới có. Đừng nói nhiều về hậu phương, đừng nói nhiều về lương tâm, đừng nói nhiều về tương thân tương ái, về lòng tốt con người dành cho nhau, vì nó sẽ tạo tâm lý an nhàn, tâm lý thụ hưởng trước lao động sau, tâm lý ủy mị dễ xúc động. Hãy nói về phương pháp để bản thân mình được vững chãi, về cách thức để lòng dạ mình gan góc, vì rằng ngoại cảnh đúng là mẹ thiên nhiên nuôi sống và nâng đỡ chúng ta, nhưng cũng mang những yếu tố bào mòn xác thịt và tâm trí chúng ta; đúng là chúng ta có những người chúng ta phải yêu thương, trân quý, nhưng chúng ta còn có những kẻ thù bên kia chiến tuyến, chúng ta phải đấu tranh vì những người thương sau lưng chúng ta; luôn biết cảm nhận vẻ đẹp của hoa hồng và cách sử dụng súng.

*Photo: CowgirlMs

Trước khi cho đi, chúng ta hãy học cách làm ra và bảo vệ cái chúng ta có, sống tích cực với nguồn lực chúng ta có được, trước hết là thời gian tuổi trẻ. Trân trọng cảm kích khi được nhận nhưng không nên đưa yếu tố “lòng tốt con người” vào làm tham số nguồn lực cho quá trình xây dựng của chúng ta. Mỗi con người chúng ta phải hiểu giá trị tự do là không phụ thuộc ai, song song đó là cố gắng đừng làm cho người khác phụ thuộc mình. Để mỗi người rực rỡ tỏa sáng với tài năng cá nhân, đôi khi sự dìu dắt lại là sự cản trở cho cá nhân đó hoàn thiện mình, sự chỉ bảo là sự bóp nghẹt các tố chất đang manh nha.

Bất cứ lúc nào trong cuộc đời, hãy chọn cho mình một kẻ thù, tìm kiếm cho mình một vũ khí và cả cách sử dụng; kẻ thù đôi khi rất gần, chính bản thân ta, sự lười biếng, nhu nhược được vũ trang bằng sự biện hộ cho bản thân, bằng các lý lẽ giáo điều mà trước đây ta từng nghe giảng mà nội dung bị hiểu mỗi lúc một cách khác nhau. Phải biết rằng đấu tranh có ở khắp nơi và mọi lúc, đừng để bản thân an nhàn hưởng thụ quá lâu, đừng để bản thân chìm đắm trong các ý niệm “thấm đẫm tình cảm” quá lâu. Đấu tranh là con đường duy nhất mang đến cái mình muốn có, bản thân đấu tranh đã là tài sản lớn nhất của một cá nhân tự do và khao khát tự do.

Triết học đường phố là lý luận đời thực, đời thực có yêu thương và chiến đấu.

 

Bạn không phải là một cỗ máy trong xã hội này

0

Cái xã hội mà bạn đang sống trong là một mớ bòng bong đầy những lằng nhằng trói buộc bạn. Còn bạn, bạn không phải là một cỗ máy.

Trong bài viết này tôi xin được phân tích sơ qua những nhận định của tôi về một phần nhỏ trong nét tính cách chung của con người Việt Nam đã tạo ra những sợi dây ràng buộc như thế nào, và về lựa chọn của cái tôi cá nhân trong xã hội này.

Xã hội Việt Nam có gì?

Có ai đó đã từng ví von xã hội Việt Nam bây giờ giống một bầy cua trong chậu: Có con trèo thì tự khắc có con kéo nó lại, kết quả rằng chúng mãi ở trong cái chậu chẳng thể thoát ra. Ở đây, tôi lại dùng hình ảnh một mớ dây hỗn độn, ngoắc với nhau, buộc vào nhau, càng kéo ra thì càng thít chặt lại, khó gỡ vô cùng. Vậy, những sợi dây này từ đâu mà ra?

1. Tâm lý dân tộc và biến tướng – sợi dây đầu tiên

“Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại.” (1)

Sự thật đúng là như vậy, người Việt Nam chúng ta cả ngàn đời nay luôn tự hào về nguồn gốc Con Rồng Cháu Tiên với những đức tính nổi bật như siêng năng, cần cù, hiếu học, chịu thương chịu khó, kiên trì, đoàn kết, đùm bọc, xả thân vì nghĩa lớn,… ngồi cả ngày kể cũng chẳng hết. Chính tâm lý dân tộc khiến người Việt Nam đoàn kết lại, sẵn sàng chìa tay ra giúp đỡ những người không quen biết trong cơn hoạn nạn, đồng tâm hiệp lực đánh giặc ngoại xâm. Nhưng trở về đời sống hàng ngày chúng ta có gì? Hay nên hỏi liệu chúng ta có đang quá khiên cưỡng huyễn hoặc về bản thân mình khi giờ đây cái tâm lý dân tộc ấy đã bị biến tướng thái quá để rồi trở thành những sợi dây tệ lậu mà người ta vẫn tự mua lấy để buộc mình?

Chúng ta buộc mình đầu tiên bởi cái dây hội chứng bầy đàn. Tính cộng đồng của người Việt khi được đề cao quá mức, nó thể hiện ở xu hướng kìm hãm những phát triển cá nhân hay đào thải sự khác biệt. Đỗ Nhật Nam, Huyền Chip, Lễ Nguyễn Quỳnh Anh là những nhân vật  được làm cho nổi tiếng bởi văn hóa ném đá trên mạng. Những phát ngôn “bất thường” của họ được những kẻ trên-tay-có-đá (2) vin vào “giường cột đạo lý” để mạt sát, chỉ trích con người họ. Tâm lý bầy đàn, thích bài trừ sự khác biệt đã tạo ra một đám đông giận dữ chỉ biết ném đá, cậy đông hiếp yếu, chửi cho đã cái mồm mà ít biết nhìn nhận con người như cách họ nhìn nhận chính mình. Một đám đông đòi hỏi người khác phải biết giữ lễ nghĩa, trong khi họ chẳng tôn trọng cái cá nhân của mỗi con người. Một đám đông thiếu lòng vị tha, đủ lời ngụy biện, và thừa sự phán xét.

Thứ hai, người Việt Nam ta cảm thấy tự hào vì nước ta có những vị tướng huyền thoại như Võ Nguyên Giáp hay Trần Hưng Đạo, có những người được trao giải Nobel hay Field như Lê Đức Thọ và Ngô Bảo Châu. “Cần cù”, “hiếu học”, “nhẫn nại”,… hàng ngày ta vẫn bước ra đường với những huân chương lấp lánh như thế trên người. Nhưng thử bước vào công viên, quán cà phê hay hàng nét và 24/7 ta thấy vô số người đang lê la trà đá, chơi game, buôn chuyện giết thời gian, đủ mọi thành phần từ học sinh cấp 2 đến nhân viên công sở. Chúng ta có thể viện cớ này, bám lý nọ rằng họ là những con sâu làm rầu nồi càng nhưng chúng ta đang phí phạm thời giờ của xã hội để biến thành những sợi dây cột chặt đất nước này lại mà thôi. Chúng ta có thể mãi tự hào về quá khứ, về một vài nhân vật, để rồi quên mất rằng chính chúng ta cũng là bộ mặt của đất nước này, cũng là tương lai của Việt Nam này.

2. Trí tuệ dân tộc – sợi dây thứ hai

Tuy rằng được đánh giá rằng có một nhận thức về dân tộc rất cao, nhưng người Việt Nam lại được nhà cách mạng Phan Bội Châu miêu tả :

“(…)Hay nghi kỵ lẫn nhau, không làm nên việc gì cả, đó là điều rất ngu thứ nhất. Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ những sự nghiệp đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai. Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần, đó là điều rất ngu thứ ba. Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích chung, đó là điều rất ngu thứ tư. Biết có thân mình nhà mình mà không biết có nước, đó là điều rất ngu thứ năm.”

Người Việt Nam đã thể hiện sự thông minh xuất chúng của mình qua việc dò sóng nghe trộm tin mật của Mĩ bằng đài radio, qua đường mòn Hồ Chí Minh – “một trong những thành tựu vĩ đại trong kỹ thuật quân sự thế kỷ 20” (3)… nhưng khi quay trở về cuộc sống bình thường lại bộc lộ ra tính cách tư hữu, lý sự, khôn lỏi, óc bè phái, thích xa hoa. Đặc biệt nhiều người sử dụng trí thông mình để lách luật, lừa đảo người khác, hay lợi dụng kẽ hở trong bộ máy để trục lợi, đặc biệt còn sử dụng trí thông minh của mình để bao biện cho những tính xấu của chính họ.

Nhỏ là học sinh thì tìm cách quay tài liệu, lớn lên thì là tiêm thuốc vào rau củ quả, bòn rút vật liệu thi công. Nghiêm trọng hơn nữa là vụ việc tinh vi giấu xác nạn nhân để cản trở quá trình kết án. Người ở nước ngoài thì giấu rau củ quả đợi đến giờ giảm giá đem ra thanh toán, mua đồ trả góp trước khi về nước, tự lái xe đâm vào cây để được bảo hiểm, đỡ phải trả phí rác thải. Trí thông minh ngắn hạn được tận dụng triệt để ở mọi tình huống, mọi môi trường mà chẳng lường trước những hậu quả lâu dài.

Điều quan trọng nhất là khi những thói quen xấu sử dụng chất xám để chống đối hay làm cho qua chuyện dần dần ăn vào nếp sống người Việt, được biện minh bằng vô số những cái mác hoa mỹ, bỗng khiến cho “liêm chính”, “mô phạm” mới trở thành những hiện tượng lạ cần xem xét. Ngoài ra, chúng ta cũng có một bản năng đổ lỗi cho ngoại cảnh hay người ngoài. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” là thế nhưng khắp nơi ta nghe đầy những phàn nàn, than thở: Phụ huynh lên án đạo đức người thầy; giáo viên chỉ trích học sinh bê tha, lười biếng; học sinh đổ lỗi cho hệ thông giáo dục; ngành này thì vun cớ sang cho ngành khác, bệnh nhân trách móc y đức, bác sĩ đổ lên cơ sở vật chất; người ỷ lại vào thiên tai, người oán thán chính phủ;…mà chẳng ai nhận ra bản thân mình cũng đầy khiếm khuyết và thiếu sót. Ai cũng đòi tự do, bình đằng trong khi còn thiếu hiểu biết, kiến thức về trách nhiệm về luật pháp. Chẳng ai chịu nhận lỗi, chẳng ai chịu thay đổi, muốn thay đổi cũng khó lòng thay đổi, khi mà cả một cơ chế từ cao xuống thấp đều có vấn đề.

3. An phận thủ thường – Sợi dây thứ ba

Đây là sợi dây khó cắt nhất, vì nó khó nhận biết, dễ đánh lừa con mắt mọi người. Nó còn được biết đến với cái tên “hội chứng con bò” (4). Văn hóa Việt Nam đi lên từ văn hóa làng, văn hóa lúa nước, nên con người Việt Nam vẫn còn nặng tư duy tiểu nông. Tư duy tiểu nông trong văn hóa của người Việt có thể được nhìn thấy ở tất cả mọi nơi: Cách làm việc thiếu khoa học, suy nghĩ chưa sâu sắc, tiếp cận vấn đề còn nông nổi, thói ngã mạn và dễ ảo tưởng về khả năng của mình. Nhiều tư tưởng văn minh của nước ngoài đã bị bóp méo khi tiếp cận với Việt Nam như sống thử, tự do ngôn luận, quyền bình đẳng, tự do cá nhân… do sự tiếp nhận dễ dãi, hời hợt thay vì hiểu trọn vẹn bề sâu văn hóa. Chúng còn khiến chúng ta mắc nặng bệnh thành tích, dễ thỏa hiệp, tôn sùng phù phiếm.

Không chỉ dừng lại ở đó, sợi dây an phận thủ thường chính là tác nhân kìm hãm sự thay đổi trong lòng xã hội Việt Nam. Dân tộc Việt Nam so với dân tộc khác thì có phần siêng năng, chịu khó hơn nhưng lại thích dễ dãi và ổn định. Chính điều này làm chúng ta có những thế hệ học sinh chăm chỉ học hành nhưng lại lười tiếp cận vấn đề theo cách mới, ít khi tìm hiểu những kiến thức nằm ngoài sách vở, thiếu khá năng ứng dụng thực hành. Chúng ta có những nhân viên đến cơ quan còn hội họp nhiều hơn làm việc, dễ luồn cúi, cầu cạnh, xin xỏ hơn là chứng minh khả năng của bản thân. Thử hỏi, một xã hội đầy rẫy đám mây đen ngòm xám xịt như thế lấp tịt bầu trời, thì lấy đâu những tia hy vọng cho những cái cây văn minh phát triển. Và nếu những cái cây không thể lớn lên, không thể sống được, thì còn bao lâu nữa để đến cái ngày mà chúng ta ngộp thở trong cái không khí chúng ta thải ra hàng ngày?

Chẳng có hạt mưa nào ý thức rằng nó đang tạo nên cơn bão. Tôi không nói tất cả đều là những kẻ biếng nhác, thiển cận, ngụy biện. Nhưng sống trong một xã hội đầy những kẻ như thế, đâu phải ai cũng có thể mở mắt ra, hay có mở mắt ra được thì liệu có đủ can đảm để sống theo ý mình, làm theo lương tâm của mình không? Bỏ ngoài tai những lời ra tiếng vào, mặc cho tên mình bị đem lên thớt để chặt chém, hay tách mình khỏi những bầy đàn để đi tìm vị thế riêng, đều là những việc làm đầy rủi ro mà không phải kẻ nào cũng dám chấp nhận. Mà kể cả chấp nhận và dám tiến tới đâu chắc chắn sẽ thành công. Chính xã hội với những ràng buộc lẫn nhau bằng sự trái khoáy sinh ra từ thói quen, nỗi sợ, tư duy lối mòn hàng ngày của con người, đã tạo ra một sự cộng hưởng của những rắc rối, để rồi tác động lại vào chính họ. Để đến một ngày họ sẽ như đoàn quân của Napoleon tự kéo chính mình xuống kết cục chết đuối dưới dòng sông (5).

Xã hội còn có những cô đơn

Và chúng ta có quá nhiều những con người đang cảm thấy cô đơn. Ý tôi nói đến ở đây không phải là cái cảm giác thiếu thốn bạn bè để tâm sự, hay như khi bị bỏ rơi mà ai cũng phải trải qua một hai lần trong cuộc đời mà là khi bạn thấy lý tưởng của mình vụn vỡ, trong ánh mắt những người mà bạn hằng tin tưởng. Như thể bạn vừa phát biểu về vật lý lượng tử trong lớp học và nhận được ánh nhìn chòng chọc của những người đồng môn. Là khi bạn cảm nhận rõ tình thương của của cha mẹ nhưng không thể chịu đựng được bao bọc mãi trong đó, bạn cảm thấy mình như một con sói đứng giữa giữa bầy cừu trên một thảo nguyên mênh mang rộng lớn.

Bạn không còn thích những câu chuyện phiếm về việc hôm nay ai mặc gì làm gì, mà muốn bàn luận về những giả thuyết xuyên không-thời gian, hay chỉ đơn giản là quan niệm của bạn về thức tỉnh. Bạn chẳng quan tâm việc người khác xấu tính ra sao vì bạn vừa chiêm nghiệm ra tha thứ là tài sản lớn nhất bạn có. Hay khi bạn cảm thấy tù túng và ngộp thở với với những điều thừa thãi chẳng định nghĩa được con người bạn hàng ngày như giành tình cảm của ông sếp, hay được điểm tuyệt đối trên lớp. Nhưng cho dù bạn đứng trước gương và hỏi câu tương tự Steve Jobs cả ngàn lần với câu trả lời “Không” duy nhất, bạn vẫn chấp nhận cái lịch trình của ngày hôm nay.

Và điều đang trói buộc bạn là sự sợ hãi: Sợ hãi về một tương lai không chắc chắn, về những ánh nhìn, về lời nói bóng gió, về những kỳ vọng. Hơn hết bạn sự hãi sợ vì còn nghi ngờ vào khả năng của chính mình. Bạn viện lấy cớ về trách nhiệm và bổn phận với gia đình để vứt bỏ đam mê của mình xuống hố đen bất tận. Bạn ép mình vào trong những cuộc nói chuyện vô vị tẻ nhạt vì chẳng có ai nói những điều vĩ đại và hay ho với bạn. Bạn cất những chuyến phiêu lưu vào trong hộc tủ, tự nhủ rằng cuộc sống yên bình ấm êm này cũng đã làm bạn đủ hài lòng.

Dừng lại đi, bạn đâu phải là một cỗ máy!

Máy móc thì chạy trên một chương trình đã cài đặt sẵn có chức năng, vai trò, nhiệm vụ. Đời sau sẽ cải tiến hơn đời trước. Bạn thì không. Bạn là một con người thực thụ, chẳng cần bất cứ phần mềm cài đặt nào. Bạn yêu thương, bạn đam mê, bạn và những thế hệ sau bạn đều bình đẳng. Hơn hết bạn có quyền tự do chọn lựa.

Tôi đã từng nói trong một bài viết, con người ta không thể nào có nhiều lựa chọn khi họ còn ở trong bốn góc tường nhà, muốn có được tự do chọn lựa, tự do tư duy, tự do sống thì chúng ta phải bước ra ngoài thế giới và tập nhìn đời bằng con mắt của chính mình chứ không phải con mắt của người khác.

Xin các bạn đừng hiểu ý tôi trong cái hạn hẹp về từ ngữ. “Bước ra ngoài thế giới” không nhất thiết cứ phải là bỏ nhà đi bụi, ngắm nhìn năm châu bốn bể. Điều bạn cần làm là phải tự mình trải nghiệm, chịu trách nghiệm cho những kết luận, hành động của bạn. Đừng từ chối đọc một cuốn sách vì có người bảo rằng nó dở, đừng khó chịu với một người vì mẹ bạn bảo nó không tốt. Đó chỉ là cảm xúc của họ chứ không phải một mớ dữ liệu để bạn khai thác như máy móc. Hãy loại loại bỏ những suy diễn, những định kiến thành kiến mà xã hội và truyền thông gieo rắc vào đầu bạn, bởi vì:

“Cuộc hành trình thật sự của khám phá không nằm trong việc tìm đến những những vùng đất mới, mà ở sở hữu những cách nhìn nhận mới.” – Marcel Proust

Đừng để những cái dây cột chặt lấy bạn một khi bạn đã chọn lựa. Đừng sợ sai, bạn đâu thể đi nếu chưa từng vấp ngã? Đừng sợ bị chê cười, khi người ta thích phán xét những điều họ không biết. Đừng bận tâm đến những lí do, những biện minh của người đời, nó chỉ làm bạn chùn bước. Cũng đừng chờ đợi ngoại cảnh vừa ý bạn, hay cố thay đổi ngoại cảnh, hãy thay đổi chính mình bằng cách tìm ra những con đường, chỉ có khi đó ngoại cảnh mới thay đổi.

“Chúng ta có thể lật ngược dòng thủy triều trong lòng chúng ta, thoát khỏi sự sợ hãi để có được tự do đích thực, thì chúng ta có thể đẩy dòng thủy triều đó đến thế giới bên ngoài. Và tất cả chỉ còn là một sự lựa chọn. Một sự lựa chọn giữa sợ hãi và tình yêu. Chỉ có vậy thôi.” – David Icke

 

Hạnh Phúc Đích Thực – David Icke, Terence McKenna (vietsub bởi Nguyễn Hoàng Huy)

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=Asjzw_cYyQ8]

(1) “Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” – Báo Điện tử Tia Sáng, Bộ Khoa học & Công nghệ.

(2) “Trên tay có đá” – Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

(3) “The infamous and ingenious Ho Chi Minh Trail” – Cameron Paterson, TED.Ed

(4) “Ngày xưa có một con bò” – Camilo Cruz, PhD

(5) Ví dụ về sự cộng hưởng từ việc đoàn quân của Napoleon bước đều trên một cây cầu

Tác giả: Đơn Du

*Featured Image: Free-Photos

Câu chuyện thứ hai: Lần đầu tiên đứng trước mặt xấu của đời

0
*Photo: the girl who made it on her own

 

Lời bình của tác giả: Lại là một câu truyện nhẹ nhàng khác. Hình như trong truyện, tôi đã nói đúng không rằng: “Mọi thứ xảy đến trong cuộc đời bạn đều mang một ý nghĩa nào đó.”

Trong những điều bình thường và tưởng chừng nhỏ nhặt trong cuộc sống, cậu bạn Ric lại phân tích mổ xẻ và trên hết cho tôi nhiều bài học.

Vỏ ốc của tôi quá lớn và tôi hiểu rằng tôi phải dám phá vỡ nó để thoát ra ngoài. Ngay lúc đó tôi mới có thể bay nhảy và trở thành người tự do.

Triết học đường phố – Tôi gọi nó bằng cái tên như vậy

0

Triết học đường phố – Tôi gọi nó bằng cái tên như vậy bởi đó là những triết lý, những ngóc ngách nhỏ trong cuộc sống mà tôi tìm thấy nó ngoài đời thực, ngoài cuộc sống chứ không nằm trong sách vở hay những cuốn lý thuyết bay bỏng nhưng sáo rỗng và vô hồn.

Bạn thân? Không phải là chính mình ư?

0
Photo: ready4thehouse

Không ai cấm một đứa con gái khóc khi bị người yêu đá, khi bị kẻ khác chơi xấu, lợi dụng… nhưng tại sao cô lại không khóc?

Cô ôm nỗi đau vào trong mình làm cái quái gì? gắn gượng như vậy chả được gọi là mạnh mẽ! Mà tưởng gì chứ, cô đem nổi niềm mình kể hết cho con bạn thân nhất (ờ, thì cô cho là thân thôi, có ai công nhận điều này). Bây giờ thì thế nào? Khóc rồi phải không? vừa lắm cô ơi….

Sống chung với một đàn lừa thì chả sung sướng gì

0
Photo: Matt Jones

 

Dân mình, muốn khá hơn, “giới có học” ngoài những kiến thức được học (và nhồi nhét) thì mỗi cá nhân nên tìm đọc thêm sách về triết học, văn học, nghệ thuật (tốt nhất là các tác phẩm đoạt giải vì đở mất thời gian sàng lọc mấy thứ tiểu thuyết vớ vẩn, ý này ông nhà văn Nhật Bản có nói trong quyển rừng rú gì đó rất hot..)

Chờ Đèn Đỏ Đúng 3 Phút Và Trải Nghiệm Về Sự Kiên Nhẫn

0
*Ảnh: Billy Rowlinson

 

Tôi sẽ kể cho bạn hai câu chuyện.

Câu chuyện thứ nhất: Nhà tôi cách chỗ làm tương đối xa, trên đường đi vướng nhiều đèn đỏ, có đèn đỏ dài những hơn 100 giây. Vốn là một người hay quan sát, tôi nhận ra có vài nhóm người chờ đèn đỏ. Một nhóm thì chờ 5 đến 10 giây và vượt ngay, không một chút do dự – nhóm này không nhiều,  lác đác vài người. Một nhóm khác sẽ chờ hầu hết thời gian, dù cho đó là hơn 100 giây hay 20 giây, nhưng điểm đặc biệt là tôi thường nghe thấy tiếng rú ga ngày một gấp gáp trong 3 giây cuối, và khi một người quyết định “tiết kiệm” 3 giây đó bằng cách vượt đèn đỏ, và một hiệu ứng dây chuyền xảy ra, hầu hết sẽ vượt trước khi có đèn xanh.

Câu chuyện thứ hai: Nhiều người hay hỏi tôi “Làm thế nào để kiên nhẫn làm việc A, việc B”. Tôi thường nghĩ kiên nhẫn là việc làm thực ra không khó, nhưng đòi hỏi “công phu”. Thực chất bạn chỉ cần làm một việc lặp đi lặp lại HÀNG NGÀY, có khi chẳng cần đột phá gì cả. Ngày hôm nay học ba từ mới tiếng Anh, ngày hôm sau cũng ba từ (mà thực ra một từ mới cũng đã là quá nhiều) và dần dần bạn sẽ cảm thấy đó là việc đương nhiên bạn phải làm, nếu không làm nó bạn sẽ bứt rứt và khi người khác hỏi bạn “Tại sao mày lại kiên nhẫn vậy?” bạn sẽ chỉ cười và cũng không hiểu tại sao luôn. Ồ, vậy hóa ra kiên nhẫn cũng chỉ giống như việc đánh răng trước khi đi ngủ, nó chỉ nhỏ gọn, dễ dàng vậy thôi, nhưng tháng qua tháng, năm qua năm, sẽ đến lúc bạn sẽ không ngủ được nếu không đánh răng buổi tối. Không khó lắm nhỉ, chỉ là khá “công phu” thôi. Công phu có nghĩa là mỗi ngày làm nó một tí, có nghĩa là một lần/ngày trong 1 năm sẽ tốt hơn 365 lần/ngày.

Vậy có mối quan hệ giữa hai câu chuyện này không? Tôi là người hay quan sát và xét nét, tôi nhận ra trong ba giây cuối đó, dường như tim đập nhanh hơn, hơi thở gấp gáp hơn, bạn rung đùi, dần dần rú ga đến một mức nào đó vượt quá sức chịu đựng, cộng thêm một sự thỏa hiệp rằng “vượt mấy giây cuối đâu có tính là vượt đèn đỏ”. Cũng như vậy, bạn nghĩ rằng học một từ mới/ngày làm sao khiến bạn học giỏi tiếng Anh, tập đàn 30’/ngày sao khiến bạn chơi được như một nghệ sỹ. Điều đó đúng trong vài tuần, vài tháng nhưng không đúng cho một quá trình vài năm.

Về mặt sinh học, khi quyết tâm một điều gì, lượng dopamine trong não sẽ tiết ra nhiều khiến bạn hưng phấn và vô cùng quyết tâm, như một ngọn lửa hừng hực vậy. Nhưng lẽ thường, nồng độ dopamine sẽ giảm theo thời gian và bạn sẽ rơi vào trạng thái mất hứng thú, chưa kể còn gặp khó khăn (vẫn không hiểu khi đọc tiếng Anh, chơi đàn vẫn vấp váp nhiều), sự bỏ cuộc sẽ đến càng nhanh hơn. Sự thực, bạn chỉ cần cố gắng vượt qua giai đoạn đó, cứ tiếp tục làm nó một chút, một chút nữa thôi, cứ làm nó kể cả không thấy có gì tiến triển, bạn sẽ tiến được đến giai đoạn biến “nó” thành một phần cuộc sống của mình. Nó giống như 3 giây chờ đèn đỏ thôi, chỉ 3 giây thôi, nếu không 97 giây chờ kia của bạn sẽ thành vô nghĩa. Thực sự rất thú vị khi tôi nhìn thấy mọi người vượt đèn đỏ trong 3 giây đó trong khi bản thân thì vẫn cố chờ 3 giây mặc cho tiếng còi đằng sau inh ỏi. Đến giờ, trong 3 giây đó, tôi vẫn thở bình thường, tim vẫn 70 nhịp/phút và đôi chân vững vàng chờ đèn xanh, tôi cảm nhận được nguồn năng lượng tràn đầy trong cơ thể – năng lượng của sự kiên nhẫn.

*Ảnh: Billy Rowlinson

 

Hình ảnh 3 giây đèn đỏ kia có gợi cho bạn về các hình ảnh khác không? ví như những người bạn của bạn học ngày học đêm tiếng Anh rồi bỏ cuộc sau vài tuần hay họ vô cùng hứng thú mua một chiếc đàn guitar, violin rồi xếp xó nó sau vài tháng. Hay chính bản thân bạn, có bao giờ bạn nghĩ rằng trong 6 tháng bạn bỏ cuộc kia, nếu bạn cố gắng duy trì nó đến tận bây giờ, hiệu quả sẽ như thế nào?

Suy cho cùng, nếu 3 giây bạn không chờ được, thì liệu bạn có thể chờ được 5 năm để nắm bắt một ngoại ngữ hay 10 năm cho một nhạc cụ.

Không quan trọng bạn làm gì, quan trọng là bạn làm được bao lâu.
 

 

“Hãy nhìn vào Phật, chớ nhìn vào Tăng”

0
*Photo:  sqfp

Một lần chúng tôi đi hộ niệm bằng xe ô tô của một cô Phật tử. Trên xe, cô Phật tử lái xe hỏi chúng tôi rằng: “Tại sao có những quý Thầy cả đời tu hành mà lâm chung vẫn hiện tướng ác?” Cô lấy làm hoang mang vì “tu hành cả đời đến như quý Thầy” mà lâm chung vẫn hiện tướng ác, thì Phật tử tại gia “có còn hy vọng gì không?” Chư Tổ ngày trước, dù là tu hành theo pháp môn nào, khi ra đi rất tự tại, cho dù có tật bệnh hay không, thần thức không mê mờ, lúc ra đi ai nấy đều sáng suốt, tỉnh táo. Lúc đó, khi đối trước câu hỏi của cô Phật tử, chúng tôi có cả người xuất gia và tại gia không biết nên trả lời như thế nào. Sau cùng, chúng tôi nói với cô rằng: “Tu Phật thì hãy nhìn vào Phật, chớ nhìn vào Tăng.”

Truyền thuyết ghi lại rằng, ba lần vua Càn Long đến núi Phổ Đà (Trung Quốc), là đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát, đều gặp một nhóm sư sãi uống rượu, hút thuốc, đánh bạc, ôm vai bá cổ, la hét lớn tiếng. Vua thường nghe mẫu hậu nói về đạo hạnh cao siêu, oai nghi tế hạnh của những người xuất gia ở núi Phổ Đà, nay chứng kiến những cảnh này thấy rất mâu thuẫn. Khi vua hỏi họ tại sao lại như vậy, những nhà sư trả lời rằng: “Đó là gia phong hải ngoại, cảnh giới La Hán, không việc gì đến ông.” Ba lần mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm, vua tức giận quyết định cho binh lính san bằng núi Phổ Đà, bắt hết nhóm sư sãi uống rượu hút thuốc kia cho chém đầu. Khi dẫn binh lính vào chánh điện, thấy áo bào và mũ của mình bị mất do đánh bạc thua đám sư sãi, đội trên tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, vua mới hiểu ra rằng đám sư sãi đó chính là Bồ Tát hóa thân để thử ông, đúng như lời mẫu hậu của ông đã nói. Ông liền sám hối trước tượng Bồ Tát, phát nguyện từ nay không dám coi thường sư tăng. Trở về cung, vua kể lại đầu đuôi câu chuyện cho mẫu hậu nghe. Mẫu hậu của ông nói rằng: “Từ nay, khi nào con thấy nhà sư quần áo không chỉnh tề, hành vi không đoan chính, thì con hãy nhớ lấy lời mẹ dặn, con ơi, công đức của Phật vô biên, hãy nhìn vào Phật, chớ nhìn vào Tăng.”

photo: sacred-circle
photo: sacred-circle

Bạn xem, câu nói này biết bao ý nghĩa, “Hãy nhìn vào Phật, chớ nhìn vào Tăng?”

Thế nào gọi là “nhìn vào Phật?” Đó là lấy những hành động, lời nói, suy nghĩ của Phật để làm chuẩn cho những hành động, lời nói, suy nghĩ của mình. Từ đâu mà biết được hành động, lời nói, suy nghĩ của Phật như thế nào? Từ kinh điển mà biết được. Đạo tràng chúng tôi vào những ngày tu thường tụng kinh Vô Lượng Thọ, khi đọc tới phẩm 8 “Tích Công Dồn Đức” nói về sự tu hành của Đức Phật A Di Đà khi còn ở quả vị Bồ Tát, trong kinh chép: “Khéo gìn khẩu nghiệp, không chê lỗi người. Khéo gìn thân nghiệp, không mất luật nghi. Khéo gìn ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm.” Hằng ngày chúng tôi tự hỏi mình đã làm được như vậy hay chưa? Khẩu nghiệp không nói lỗi của người, thân nghiệp luôn giữ oai nghi, ý nghiệp thanh tịnh không ô nhiễm, đã làm được hay chưa? Nếu chưa, thì hằng ngày đọc tụng đoạn kinh này, có thấy xấu hổ hay không?

Có một cô Phật tử ở đạo tràng nói với tôi rằng, mỗi lần hồi hướng cuối thời khóa, khi đọc tới Tứ Hoằng Thệ Nguyện “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ – Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn – Pháp môn vô lượng thệ nguyện học – Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành,” cô thấy rất xấu hổ. Xấu hổ nhất là “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” cô nói, thậm chí chưa đoạn được phần phiền não nào, mà hằng ngày còn tạo thêm phiền não cho chính mình! Nếu hằng ngày đọc tụng cho nhiều, mà không thực hiện được lời trong kinh, vậy thì chúc mừng bạn, hằng ngày bạn lừa Phật dối Bồ Tát rất nhiều!

Vì vậy, “hãy nhìn vào Phật” để tự phản tỉnh và sửa lại hành động, lời nói, suy nghĩ của chính mình, để chính mình chân thật có được lợi ích từ việc học Phật, chứ đừng “nhìn vào Tăng” để phán xét đúng sai rồi chính mình làm tâm mình không tròn vẹn, không được sự lợi ích thân thật.

 

Tâm An

Quyển nhật ký bị phanh phui

0
*Photo:  the twinkling of an eye

 

Em biết mình có thể viết, và em đã tập làm điều đó từ năm 9 tuổi. Tất cả những gì em thấy, em nghĩ, em thắc mắc…đều được em cho vào trang giấy. Bằng thứ ngôn từ ngây thơ, chân thật nhất có thể, một tâm lý non nớt của con bé 9 tuổi đều được thể hiện qua đấy. Quyển nhật ký của em.

Em xem nó là bạn, một người bạn khôn ngoan. Bởi lẽ, nó biết khi nào nó nên xuất hiện, và khi nào nó nên biến mất. Không ồn ào, không hờn giận, không khiến em lo lắng, hay sợ bị bỏ rơi…Và em quý nó bởi những điều ấy.

Những cảm xúc đầu đời, những bực dọc của tuổi học trò, những oan ức của một đứa trẻ thiếu tình thương, quyển nhật ký biết hết. Nó giữ kín lắm, nó trốn mọi người bằng cách lẫn sâu mình dưới gầm giường, chỉ khi nào em gọi, thì nó mới xuất hiện. Khoảng thời gian ấy, em ít bạn, và thân thì chỉ có mỗi quyển nhật ký.

Nhưng rồi, em cũng lớn, em đi học nhiều hơn, khoảng thời gian trống dành chơi với quyển nhật ký cũng không còn như trước, em cũng phải quên nó thôi. Nhưng không phải kiểu quên mất tiêu đâu. Chỉ là thay vì trước đây mổi ngày đều gặp nhau, lúc này thì mỗi tuần gặp một lần. Cũng thấy có lỗi, nhưng cảm giác ấy được lắp đi bởi những lo toan khác của tuổi dậy thì…

Rồi năm ấy sửa nhà, em được đưa đến nhà người quen sống cho đỡ vướng tay chân người lớn, và điều đáng tức ở đây là em quên mang theo quyển nhật ký. Tất cả được lục tung lên, căn phòng gỗ màu nâu bị phá bỏ, chiếc giường gỗ bị bẻ gãy, quyển nhật ký không có chỗ trốn. Thế là nó bị phát hiện, bị bắt, bị phanh phui. Năm đó em 14 tuổi. Tình bạn của tụi em chấm dứt.

Những lời nói mỉa mai, những câu nói cay độc, trách móc, theo em đến tận lớn. Nó khiến em thấy dằn vặt, thấy khó sống, em như kẻ tội đồ sai trái vì đã phanh phui suy nghĩ của bản thân bằng một kiểu gián tiếp. Tất cả người lớn nói rằng họ bị em làm tổn thương, họ nói rằng em thiếu suy nghĩ, họ nói rằng em không biết đúng sai, em không biết họ thương em thế nào, em không biết như thế là hỗn hào, họ nói rằng em viết thật tệ… Và em đã nghĩ, chắc là em không biết viết thật.

Em ít nói hẳn từ đó, chỉ là với gia đình thôi. Nhưng ngược lại, em giao tiếp nhiều với người ngoài, nhiều lúc em chỉ muốn trời mau sáng để tới lớp. Trốn ánh mắt soi mói của người lớn. Đi học rồi về, trốn trên căn phòng gỗ trắng tinh, được gọi thì xuống.

Em không muốn mình như thế, nhưng em buồn lắm, em không làm gì được, quyển nhật ký bỏ em thật rồi. Em từng có suy nghĩ tìm lại nó, nhưng không được. Dù cầm nó trên tay, nhưng em không thấy mình còn có thể giao tiếp với nó như trước. Đối với em, nó như đã chết.

Em cũng có đi tìm quyển khác, nhưng vẫn không được, em không thấy, không cảm được gì hết, cầm bút lên, đầu óc em lại trống rỗng. Suốt thời gian ấy, em không viết được gì. Mãi cho tới lúc này cũng vậy.

*Photo:  the twinkling of an eye

Những thứ em viết ngày nay mang một thứ gì đó sáo rỗng, nhảm nhí, tự em cho là vậy. Em luôn có tâm lý thế này: Viết ít thật thôi, sẽ có người đọc, chắc chắn là vậy, phần này có nên nịnh nọt một tí hay không? Ôi, tình cảm ở đây hơi quá rồi, sẽ bị nói là không thực tế mất…

Cứ thế, câu chữ của em dần dần đi theo mong muốn của người khác, còn phần tâm, phần hồn của em thì lại chết dần đâu đó. Một kẻ có suy nghĩ chắc chắn không muốn điều đó xảy đến. Em tìm và lục lọi những nơi có thể cho mình cảm hứng viết trở lại, hay ít nhất cũng là một không gian để em chứa đựng, và facebook là một nơi như thế.

Nhưng rồi, quá khứ lặp lại khi facebook dần dà trở nên phổ biến, ngay cả người già về hưu, trẻ nhỏ mới biết chữ cũng có thể chơi. Thâm tâm em lại bị lục lọi một lần nữa. Và em chắc rằng lần này mình không thể viết thêm một thứ gì nữa…

Triết Học Đường Phố là điểm dừng cuối cùng  của em. Em muốn thử thêm một lần nữa. Tất cả những gì em có thể làm là đọc, viết, cảm nhận, và không ai trong người thân gia đình biết được. Có thể đó là sai, nhưng quá khứ về sự xem thường đã khiến em không thể lớn.

 

Chạy trốn cô đơn, thì ở đâu cũng thấy cô đơn

0
*Photo: Sam Li

 

Người ta cứ vồ vập yêu, cũng do vì nóng lòng quá đỗi chạy trốn nỗi cô đơn trong lòng, mà kết cục ai nấy ra đi với một tâm hồn đầy ắp thương tổn. Chạy trốn cô đơn, thì ở đâu cũng thấy cô đơn.

Tôi tình cờ nhớ ra có lần đã đọc một đoạn viết ngắn trên mạng, đại ý nói Tình Yêu gồm có bốn giai đoạn: Hợp – Yêu – Hiểu – Cần. Người viết chắc hẳn có lý do riêng để sắp xếp bốn giai đoạn như vậy. Tôi thấy thích thú vì người ta để chữ “Cần” ở cuối cùng. Người ta yêu nhau suy cho cùng là vì người ta cần có nhau. Và trong bất cứ cuộc tranh luận nào về thứ tự của bốn giai đoạn, không ai đặt chữ “Yêu” ở đầu như một điểm xuất phát. Giống như đi chơi xa, yêu thương cũng cần có sự chuẩn bị.

Người ta thường lấy lý do “hợp (nhau)” để nói về một xuất phát điểm cho tình yêu. Hòa hợp về sở thích, tính cách là một cơn gió nhẹ dễ dàng thổi bùng một ngọn lửa lớn. Không phải chỉ có trên phim ảnh hay trong những tiểu thuyết văn học lãng mạn mới có những tình yêu xuất phát từ một sở thích chung be bé nho nhỏ nào đó như cùng yêu động vật, cùng thích một quán café… Nhưng cũng phải nói luôn, từ “hợp” nhau đến “yêu” nhau chắc cũng còn xa, vì rất nhiều cặp đôi sau một thời gian yêu nhau thì đã chia tay vì “quá khác biệt” và “không hợp nhau”.

Tôi có một thói quen kỳ cục thỉnh thoảng xuất hiện, đó là tự vấn: “Điều gì khiến hai người đó yêu nhau?”. Có những chàng và nàng dường như đến từ hai thế giới hoàn toàn xa lạ, chàng thích viết lách; nàng thích shopping, chàng thích café đọc sách một mình; nàng thích lượn đường cùng bạn bè… Dường như không có điểm nào trong sở thích, tính cách của hai-người-đang-yêu-nhau-đó được xem là ‘giống nhau’ (chứ chưa nói là ‘hợp nhau’). Vậy thì, khởi điểm của tình yêu đâu phải lúc nào cũng là sự hòa hợp về sở thích, tính cách? Và còn những mối quan hệ thân thiết trên mức bình thường khác cũng bắt đầu từ sự hòa hợp này, đâu phải tất cả đều được gọi chung là tình yêu?

*Photo: Sam Li

Tôi thường nghĩ, yêu thương một người là một quyết định có ý thức, chứ không phải là một cảm giác vô thức “không rõ từ khi nào.” Có rất nhiều trạng thái cảm xúc na ná như tình yêu, nhưng để trở thành một thứ tình cảm gọi là tình yêu, cần có một cam kết yêu thương giữa hai người. Những thiện cảm, những ấn tượng, những “say nắng” và nhớ nhung, những ngại ngùng rụt rè ban đầu chỉ là những cảm xúc nhất thời trong khi yêu thương thực sự bắt đầu khi đã trải qua những thử thách, ta hiểu và chấp nhận bản thân ta và người ta thương. Bởi vậy thường nói, có hiểu mới có thương. Khi đã thương rồi, thì không còn thấy bốn “giai đoạn” kia nữa. Thương là thương, là hiểu, là hợp, là yêu, là cần. Là tất cả, mà cũng có thể là chẳng có gì.

Cho nên xin đừng yêu quá vội vàng mà không hiểu vì sao ta yêu, có chắc ta đã hiểu người. Hiểu người thực ra chính là hiểu ta. Ta đang tìm kiếm điều gì ở người? Ta đã có chắc mình sẽ bao dung với những lỗi lầm của người? Ta đang yêu người hay yêu chính ta? Người ta cứ vồ vập yêu, cũng do vì nóng lòng quá đỗi chạy trốn nỗi cô đơn trong lòng, mà kết cục ai nấy ra đi với một tâm hồn đầy ắp thương tổn. Chạy trốn cô đơn, thì ở đâu cũng thấy cô đơn.

Đáng tiếc là ta thường nói yêu nhau mà không yêu nỗi cô đơn của nhau. Thậm chí còn chưa từng chạm tới.

Và cũng chưa bao giờ biết yêu nỗi cô đơn của chính mình.

 

 

Tâm An