22.8 C
Da Lat
Chủ Nhật, 21 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 248

Nền văn hóa của tự do

Featured image: Wiki Commons

 

Những cuộc công kích hiệu quả nhất nhằm chống lại quá trình toàn cầu hóa thường lại không phải là những cuộc công kích liên quan tới kinh tế học. Mà là những cuộc công kích về mặt xã hội, đạo đức, và trên hết là lĩnh vực văn hóa. Những luận cứ này từng nổi lên trong những vụ lộn xộn ở Seattle vào năm 1999 và lại vang lên ở Davos, ở Bangkok, và Prague trong thời gian gần đây. Họ nói như sau:

Sự biến mất của các đường biên giới quốc gia và giới quyền uy trên thế giới gắn bó với thương trường sẽ giáng những đòn chí tử vào nền văn hóa khu vực và quốc gia, vào truyền thống, thói quen, truyền thuyết và tập tục, tức là những thứ quyết định bản sắc văn hóa của đất nước và khu vực. Vì đa số các nước và các khu vực trên thế giới không đủ sức chống lại sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa từ các nước đã phát triển – mà cụ thể là từ siêu cường Mỹ – nước chắc chắn sẽ mở đường cho các công ty đa quốc gia cực kì lớn, nền văn hóa Bắc Mỹ cuối cùng sẽ buộc người ta phải chấp nhận nó, nó sẽ định ra tiêu chuẩn cho thế giới và xóa sổ sự đa dạng của những nền văn hóa khác nhau. Theo cách này, tất cả các dân tộc, chứ không chỉ các dân tộc nhỏ và yếu, sẽ đánh mất bản sắc, sẽ đánh mất tâm hồn mình và chỉ còn các thuộc địa trong thế kỉ XXI – những thây ma hay những hình nộm được làm theo những tiêu chuẩn văn hóa của chủ nghĩa thực dân mới, đấy là chủ nghĩa thực dân mà ngòai việc cai trị thế giới bằng đồng vốn, sức mạnh quân sự và kiến thức khoa học của nó, còn áp đặt cho người ta ngôn ngữ, cách tư duy, niềm tin, thú vui và ước mơ của nó nữa.

Cơn ác mộng hay là điều hoang tưởng theo nghĩa tiêu cực về một thế giới mà do toàn cầu hóa đang đánh mất dần sự đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ, đang bị Mỹ xâm lược về mặt văn hóa không chỉ là địa hạt của các chính trị gia tả khuynh, luyến tiếc Marx, Mao hay Che Guevara. Cơn mê sảng về việc bị ngược đãi – do lòng thù hận người khổng lồ Bắc Mỹ mà ra – còn được thể hiện rõ ở cả những nước đã phát triển và những dân tộc có nền văn hóa cao, được cả các nhóm tả, trung dung và hữu khuynh chia sẻ nữa.

Khét tiếng nhất là nước Pháp, ở đây chúng ta thường thấy chính phủ tung ra những chiến dịch nhằm bảo vệ “bản sắc văn hóa Pháp”, một nền văn hóa được cho là đang bị quá trình toàn cầu hóa đe dọa. Một lọat các nhà tri thức và chính trị gia Pháp lo lắng về khả năng là cái vùng đất từng sinh ra Montaigne, Descartes, Racine, và Baudelaire – và đất nước đã có một thời gian dài từng là người đưa ra tiếng nói cuối cùng về thời trang, tư duy, nghệ thuật, ẩm thực và về tất cả những lĩnh vực tinh thần khác – có thể bị những McDonald’s, Pizza Hut, Kentucky Fried Chicken, rock, rap, và phim ảnh của Hollywood, quần bò, bánh sneakers, áo T-shirts xâm lấn.

Nỗi sợ này đã dẫn tới, thí dụ, những khoản tài trợ rất lớn của Pháp cho ngành công nghiệp điện ảnh và đòi hỏi các rạp chiếu bóng phải chiếu một số lượng phim trong nước và hạn chế nhập phim Mỹ. Nỗi sợ này còn là lý do vì sao các chính quyền địa phương ban hành những quy định xử phạt nặng những băng rôn quảng cáo làm ô uế ngôn ngữ của Molière bằng những từ ngữ tiếng Anh. (Mặc dù, nếu nhìn vào vỉa hè các đường phố ở Paris thì thấy rằng những quy định như thế cũng không được người ta tôn trọng cho lắm). Đấy là lý do vì sao José Bové, một điền chủ có thái độ bài xích các món ăn tạp nham (ngụ ý thức ăn nhanh của Mỹ – ND) đã trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Pháp. Và việc ông ta bị bắt giam ba tháng trong thời gian gần đây có vẻ như chỉ làm cho ông ta nổi tiếng thêm mà thôi.

Nhưng tôi tin rằng luận cứ chống toàn cầu hóa như thế là không thể chấp nhận được, chúng ta phải công nhận rằng nó ẩn chứa một sự thật không thể bác bỏ được. Trong thế kỷ này, cái thế giới chúng ta sống sẽ kém sinh động và không có nhiều màu sắc như là cái thế giới mà chúng ta đã bỏ lại phía sau. Những buổi lễ hội, đồ trang sức, phong tục, nghi lễ, nghi thức và tín ngưỡng, tức là những thứ đã tạo cho nhân lọai sự khác biệt mang màu sắc dân tộc và văn hóa dân gian, đang dần dần biến mất hoặc sẽ thu mình vào trong những nhóm thiểu số, trong khi phần lớn xã hội từ bỏ chúng và chấp nhận những thứ khác, phù hợp hơn với thời đại của chúng ta. Tất cả các nước trên thế giới đang trải qua quá trình này, nhanh chậm khác nhau, nhưng đấy không phải là do toàn cầu hóa. Mà đấy là do quá trình hiện đại hóa, tòan cầu hóa là kết quả chứ không phải là nguyên nhân.

Có thể khóc than, dĩ nhiên là như thế, rằng quá trình này đang diễn ra và có thể nuối tiếc về cuộc sống của một thời đã qua, mà với những tiện nghi của ngày hôm nay dường như đấy là cuộc sống vui vẻ, độc đáo và đầy màu sắc. Nhưng đây là quá trình không thể nào tránh được. Những chế độ toàn trị như Cuba hay Bắc Hàn sợ rằng mở cửa sẽ là tự sát, họ tìm cách bế quan tỏa cảng, ban hành đủ thứ quy định kiểu cấm đóan và chỉ trích hiện đại hóa. Nhưng ngay cả những nước đó cũng không ngăn cản được sự thẩm thấu một cách từ từ của quá trình hiện đại hóa và nó sẽ gặm nhấm dần cái gọi là bản sắc văn hóa của họ. Về lý thuyết, một đất nước có thể giữ được bản sắc của mình, nhưng với điều kiện là họ phải sống trong tình trạng cô lập hoàn toàn, chấm dứt mọi trao đổi với các dân tộc khác và thực hiện một nền kinh tế tự cấp tự túc – giống như một vài bộ lạc ở Châu Phi hay những bộ lạc sống trong rừng già Amazon vậy. Bản sắc văn hóa dưới hình thức như thế sẽ đưa xã hội trở lại với cách sống của thời tiền sử.

Đúng là hiện đại hóa làm cho nhiều lối sống truyền thống không thể tồn tại được. Nhưng đồng thời nó lại mở ra cơ hội và làm cho cả xã hội tiến những bước quan trọng về phía trước. Đấy là lý do vì sao khi có cơ hội tự do lựa chọn quần chúng lại ủng hộ hiện đại hóa mà không hề có chút lưỡng lự nào, đôi khi họ còn phản đối điều mà các nhà lãnh đạo hay những người nệ cổ ủng hộ.

Những luận điệu nhằm chống lại toàn cầu hóa và ủng hộ bản sắc văn hóa tiết lộ cho ta thấy quan niệm tĩnh về văn hóa, một quan niệm không có cơ sở lịch sử. Nền văn hóa nào đã từng giữ mãi bản sắc và không thay đổi theo thời gian? Muốn tìm được những nền văn hóa như thế, chúng ta phải thâm nhập vào những cộng đồng tôn giáo ma thuật nguyên thủy và nhỏ bé, tức là những cộng đồng sống trong hang hốc, thờ thần sấm và thú dữ; và vì tính chất nguyên thủy như thế mà họ càng ngày càng dễ bị bóc lột và hủy diệt.

Tất cả những nền văn hóa khác, nhất là những nền văn hóa có quyền được gọi là hiện đại và sống động đều tiến hóa đến mức mà chúng chỉ còn là cái bóng mờ của nền văn hóa từng hiện diện cách đây vài ba thế hệ mà thôi. Sự tiến hóa này thể hiện rõ nhất ở các nước như Pháp, Tây Ban Nha và Anh, nơi đã diễn ra những thay đổi cực kì ngoạn mục và sâu sắc đến mức Marcel Proust, Federico García Lorca, hay Virginia Woolf khó mà có thể coi đây là những xã hội nơi họ đã ra đời – những xã hội mà tác phẩm của họ đã có đóng góp rất lớn trong việc làm cho chúng thay da đổi thịt.

Khái niệm “bản sắc văn hóa” là khái niệm nguy hiểm. Từ quan điểm xã hội thì đấy có thể chỉ là quan niệm nhân tạo và đáng ngờ, nhưng từ viễn cảnh chính trị thì nó đe dọa ngay thành tựu quý giá nhất của nhân loại: Quyền tự do. Tôi không phủ nhận rằng những người nói cùng một ngôn ngữ, sinh ra và sống trên cùng một vùng lãnh thổ, phải giải quyết những vấn đề giống nhau, theo những phong tục và tôn giáo như nhau, có những đặc điểm như nhau. Nhưng tính chất chung đó không bao giờ có thể xác định được đầy đủ đặc tính của từng người, nó chỉ xóa bỏ hoặc đẩy tất cả những tính chất và đặc điểm đơn nhất, tức là những đặc điểm làm người nọ khác biệt với người kia, xuống hàng thứ yếu mà thôi.

Quan niệm bản sắc, khi không được áp dụng cho từng cá nhân riêng biệt, là một quan niệm đã được đơn giản hóa và phi nhân tính, nó là sự trừu tượng hóa mang tính ý thức hệ và tinh thần tập thể của tất cả những gì là độc đáo và sáng tạo trong mỗi con người, của tất cả những gì không được áp đặt bởi di sản, nơi sinh hay áp lực xã hội. Mà sự thật là, bản sắc xuất phát từ khả năng của con người trong việc chống lại những ảnh hưởng đó và phản công lại với chúng bằng những hành động tự do theo sáng kiến của riêng mình.

Khái niệm “bản sắc tập thể” là khái niệm hư cấu mang tính ý thức hệ và là nền tảng của chủ nghĩa dân tộc. Nhiều nhà nhân chủng học và nhân loại học cho rằng ngay cả các cộng đồng cổ xưa nhất cũng không có bản sắc tập thể. Những thói quen và phong tục được nhiều người chia sẻ có thể là những điều tối cần thiết đối với việc bảo vệ cả nhóm người, nhưng sự cách biệt về khả năng sáng tạo và sáng kiến giữa các cá nhân – điều kiện để họ tách biệt khỏi nhóm – bao giờ cũng khá lớn, và khi các cá nhân được thử thách theo những khả năng của riêng họ thì những khác biệt của từng người sẽ lấn át những đặc tính chung, chứ không chỉ là những thành tố ngoại vi của tập thể nữa.

Toàn cầu hóa mở rộng một cách căn bản khả năng của tất cả các công dân trên hành tinh này, nó tạo điều kiện cho họ thông qua những hành động tự nguyện mà tạo dựng bản sắc văn hóa của riêng mình, phù hợp với sở thích và động cơ thầm kín của họ. Bây giờ người công dân không phải lúc nào cũng phải – như trong quá khứ và ở nhiều nơi hiện nay – tôn trọng bản sắc nhưng trên thực tế là làm cho họ mắc kẹt vào trại tập trung không thể nào thoát ra được – đấy là bản sắc được áp đặt lên mỗi người thông qua ngôn ngữ, dân tộc, nhà thờ, thói quen của vùng đất nơi họ ra đời. Theo nghĩa này thì ta phải hoan nghênh toàn cầu hóa vì nó mở rộng một cách đáng kể chân trời cho tự do cá nhân.

Hai lịch sử của cùng một lục địa

Châu Mỹ Latin có thể là thí dụ tốt nhất của những thủ đoạn và sự phi lý của việc cố tình thiết lập bản sắc tập thể. Cái gì có thể là bản sắc văn hóa của châu Mỹ Latin? Phải đưa những gì vào cái tập hợp những tín điều, phong tục, truyền thống, thói quen và những câu chuyện cổ tích để thể hiện rằng khu vực này có một tính cách duy nhất, không ai có và không chuyển nhượng được? Lịch sử của chúng ta được trui rèn trong những cuộc tranh luận trí tuệ – đôi khi quyết liệt – nhằm tìm cho ra đáp án cho câu hỏi đó. Đáp án nổi bật nhất là đáp án của những người lấy Tây Ban Nha làm trung tâm[i] đưa ra trong cuộc đấu trí với những người ủng hộ văn hóa bản địa và có ảnh hưởng trên khắp lục địa ngay từ những năm đầu thế kỉ XX.

Đối với những người lấy Tây Ban Nha làm trung tâm như José de la Riva Agüero, Victor Andrés Belaúnde, và Francisco García Calderón thì Mỹ Latin hình thành khi – nhờ quá trình phát hiện và chinh phục – nó gặp ngôn ngữ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, chấp nhận Thiên Chúa giáo và trở thành một phần của nền văn minh phương Tây. Những người lấy Tây Ban Nha làm trung tâm không coi thường những nền văn hóa tiền-Tây Ban Nha, nhưng họ coi đấy chỉ là một lớp chứ không phải là cốt lõi của hiện thực xã hội và lịch sử, phải nhờ ảnh hưởng của phương Tây mà nó mới hoàn thiện được bản chất và tính cách của mình.

Mặt khác, những người ủng hộ văn hóa bản địa lại cực lực bác bỏ những lợi ích mà có người cho rằng người châu Âu đã mang tới Mĩ Latin. Theo họ, bản sắc của chúng ta có nguồn gốc và linh hồn trong nền những nền văn hóa và văn minh tiền-Tây Ban Nha, quá trình phát triển và hiện đại hóa của nó đã bị kìm hãm bằng bạo lực và là đối tượng của kiểm duyệt, đàn áp và đẩy ra ngoài lề không chỉ trong suốt ba thế kỉ thuộc địa mà còn cả sau này, tức là sau khi có chế độ cộng hòa nữa. Theo những tư tưởng gia ủng hộ văn hóa bản địa thì “Biểu hiện Mỹ” (tên một tác phẩm của José Lezama Lima) nằm ở tất cả những biểu hiện mang tính văn hóa – từ ngôn ngữ bản xứ tới đức tin, nghi lễ, nghệ thuật và tập tục của nhân dân – nhằm chống lại sự áp chế về mặt văn hóa của phương Tây và còn tồn tại cho đến ngày nay.

Ông Luis E. Valcárcel, một nhà sử học nổi tiếng của Peru, thậm chí còn khẳng định rằng cần phải đốt bỏ tất cả các nhà thờ, các nhà tu và tượng đài theo phong cách kiến trúc thuộc địa vì chúng thể hiện tinh thần “bài-Peru”. Chúng là những kẻ giả hình, là sự phủ nhận bản sắc nguyên thủy của châu Mỹ, một bản sắc có nguồn gốc hoàn toàn bản địa. Và ông José María Arguedas, một trong những tiểu thuyết gia độc đáo nhất của Mỹ Latin đã xây dựng được – trong những câu chuyện cực kì duyên dáng và đầy tinh thần phản kháng – bản anh hùng ca về tàn tích của nền văn hóa Cuechua trong dãy núi Andes, mặc dù đã bị phương Tây chẹn họng và làm cho méo mó đi.

Những người thân Tây Ban Nha cũng như những người ủng hộ văn hóa bản địa đã viết được những tác phẩm lịch sử tuyệt vời và những cuốn tiểu thuyết đầy tinh thần sáng tạo, nhưng nếu xét theo bối cảnh của chúng ta ngày hôm nay thì cả hai học thuyết này đều là những học thuyết mang tính bè phái, giản lược và sai lầm. Không bên nào đủ sức nhồi nhét sự đa dạng đang gia tăng của châu Mỹ Latin vào những khuôn khổ ý thức hệ của họ, và cả hai bên đều sặc mùi phân biệt chủng tộc.

Hiện nay ai còn dám tuyên bố rằng chỉ có những cái mang “phong cách Tây Ban Nha” hoặc “da đỏ” mới có quyền đại diện hợp pháp cho Mỹ Latin? Thế mà hiện nay những cố gắng nhằm trui rèn và phân lập “bản sắc văn hóa” đặc thù của chúng ta vẫn được tiếp tục thực hiện với lòng nhiệt tình chính trị và tri thức đáng lẽ nên dành cho những công việc xứng đáng hơn. Tìm cách áp đặt bản sắc văn hóa cho quần chúng nhân dân cũng chẳng khác gì nhốt họ vào tù và không cho họ được hưởng một trong những quyền tự do quý giá nhất – đấy là quyền lựa chọn: Họ muốn thành người như thế nào, và bằng cách nào? Châu Mỹ Latin không có một mà có nhiều bản sắc văn hóa, không có bản sắc nào có thể tuyên bố là hợp pháp hơn hay trong sạch hơn những bản sắc khác.

Dĩ nhiên là Mỹ Latin bao hàm trong nó cả thế giới tiền-Tây Ban Nha lẫn các nền văn hóa của nó, những nền văn hóa đó còn giữ được sức mạnh xã hội đáng kể ở các nước như Mexico, Guatemala, và các nước vùng Andes. Nhưng Mỹ Latin còn là rất đông người nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, với truyền thống của năm thế kỉ ở sau lưng, sự hiện diện và hành động của họ có ý nghĩa quyết định trong việc định hình những đặc điểm hiện nay của châu lục. Và chả lẽ Mỹ Latin không phải là một phần của Châu Phi, châu lục đã đến bến bờ của chúng ta cùng với châu Âu hay sao?

Không phải sự hiện diện của châu Phi đã tạo ra làn da, âm nhạc, khí chất và xã hội của chúng ta hay sao? Những thành tố mang tính xã hội, sắc tộc và văn hóa làm nên Mỹ Latin đã liên kết chúng ta với hầu như tất cả các khu vực và các nền văn hóa trên thế giới. Chúng ta có nhiều bản sắc văn hóa đến nỗi tưởng như chẳng hề có một bản sắc nào hết. Thực tế đó – trái ngược với niềm tin của những người dân tộc chủ nghĩa – là tài sản quý báu nhất của chúng ta. Đấy cũng là phẩm chất tuyệt vời, làm cho chúng ta cảm thấy mình là những công dân đầy đủ tư cách trong thế giới toàn cầu hóa này.

Giọng điệu địa phương, lan tỏa toàn cầu

Sợ Mỹ hóa toàn bộ hành tinh là hoang tưởng mang tính ý thức hệ chứ không phải là thực tế. Dĩ nhiên là không nghi ngờ gì rằng cùng với quá trình toàn cầu hóa, tiếng Anh sẽ trở thành ngôn ngữ phổ biến trong thời đại của chúng ta, cũng như tiếng Latin trong thời Trung Cổ vậy. Nó sẽ còn tiếp tục vươn lên vì đấy là phương tiện không thể thiếu được trong giao dịch và thông tin quốc tế. Nhưng điều đó có nghĩa là tiếng Anh nhất thiết sẽ phát triển, sẽ gây thiệt hại cho các ngôn ngữ lớn khác hay không? Hoàn toàn không. Trên thực tế, ngược lại mới đúng. Sự xóa nhòa các đường biên giới và thế giới ngày càng tương thuộc lẫn nhau hơn đã và đang khuyến khích các thế hệ trẻ học và đồng hóa với những nền văn hóa khác, đấy không chỉ là sở thích mà còn là điều cần thiết, vì nói được vài thứ tiếng và thích ứng một cách dễ dàng trong những nền văn hóa khác nhau đã trở thành yếu tố quyết định cho sự thăng tiến trong nghề nghiệp.

Hãy xem xét trường hợp tiếng Tây Ban Nha. Nửa thế kỉ trước những người nói tiếng Tây Ban Nha là cộng đồng hướng nội, chúng ta cho rằng mình chẳng có mấy cơ hội ở bên ngoài biên giới ngôn ngữ truyền thống. Hiện nay tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ năng động và có nhiều người dùng, nó đã chiếm được những thành tựu ban đầu hay thậm chí những vùng đất rộng lớn trên cả năm châu lục. Sự kiện là có từ hai mươi lăm đến ba mươi triệu người nói tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ là nguyên nhân vì sao hai ứng viên tổng thống Mỹ gần đây – thống đốc Texas là George W. Bush và phó tổng thống Al Gore – tiến hành vận động tranh cử không chỉ bằng tiếng Anh mà còn dùng cả tiếng Tây Ban Nha nữa.

Có bao nhiêu triệu thanh niên nam nữ trên khắp hoàn cầu đã và đang phản ứng lại những thách thức của tòan cầu hóa bằng cách học tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Quan thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Nga hay tiếng Pháp? May thay, xu hướng này sẽ gia tăng trong những năm sắp tới. Đấy là lý do vì sao cách bảo vệ tốt nhất nền văn hóa và ngôn ngữ của chúng ta là nỗ lực quảng bá chúng trên khắp thế giới chứ không phải cứ vờ vịt tìm cách làm cho nó miễn nhiễm với sự đe dọa của tiếng Anh. Những người đưa ra những biện pháp như thế là những người nói rất nhiều về văn hóa, nhưng đấy là những kẻ dốt nát, họ đang che dấu ý định thật sự của mình: Chủ nghĩa dân tộc. Đấy không phải là họ đang tranh luận về những xu hướng phổ quát của văn hóa, đấy là những cách nhìn thiển cận, lầm lẫn, biệt lập, mà những người có quan điểm dân tộc chủ nghĩa tìm các áp đặt lên đời sống văn hóa.

Bài học tuyệt vời nhất mà văn hóa dạy cho chúng ta là nó không cần những quan chức hay các chính trị viên bảo vệ, cũng không cần che chắn sau song sắt hay dùng lực lượng hải quan để cách ly nhằm giữ cho nó sống và đơm hoa kết trái; ngược lại, những cố gắng như thế chỉ làm cho nó khô kiệt hoặc trở thành tầm thường mà thôi. Văn hóa phải sống một cách tự do, phải thường xuyên va chạm với những nền văn hóa khác. Điều đó sẽ làm cho nó luôn luôn đổi mới, luôn luôn tái tạo, làm cho nó tiến hóa và thích ứng với dòng chảy liên tục của cuộc đời. Ngày xưa tiếng Latin đã không giết chết tiếng Hy Lạp; ngươc lại, sự độc đáo và chiều sâu trí tuệ của nền văn hóa Hy Lạp đã thẩm thấu vào nền văn minh La Mã và nhờ nó mà những bản trường ca của Homer và triết lý của Plato và Aristotle mới vươn ra khắp thế giới. Toàn cầu hóa không xóa bỏ các nền văn hóa khu vực, trong không gian bao la của cả hòan vũ, tất cả những gì có giá trị và đáng sống trong những nền văn hóa khu vực sẽ tìm thấy những mảnh đất màu mỡ để có thể đơm hoa kết trái.

Điều đó đã diễn ra trên khắp châu Âu. Đặc biệt đáng ghi nhận là ở Tây Ban Nha, ở đây những nền văn hóa địa phương đang tái xuất hiện với một sức mạnh đặc biệt. Dưới chế độ độc tài của tướng Francisco Franco, những nền văn hóa địa phương bị đàn áp và buộc phải sống trong vòng bí mật. Nhưng cùng với sự trở về của chế độ cộng hòa, sự đa dạng của nền văn hóa đã được cởi trói và được tự do phát triển. Ở những khu vực tự trị, văn hóa địa phương càng phát triển mạnh, đặc biệt là ở Catalonia, Galicia, và xứ Basque; các khu vực khác ở Tây Ban Nha cũng đều như thế cả. Nhưng dĩ nhiên là chúng ta không được đánh đồng sự hồi sinh của văn hóa khu vực – một hiện tượng tích cực và làm cho đời sống ngày càng phong phú thêm – với chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc sẽ tạo ra những mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền văn hóa của tự do.

Trong tác phẩm nổi tiếng: Góp phần định nghĩa văn hóa (Notes Towards the Definition of Culture) xuất bản năm 1948, T.S. Eliot đã dự đoán rằng trong tương lai, nhân loại sẽ được chứng kiến sự phục hưng của những nền văn hóa địa phương và khu vực. Lúc đó, đấy là một lời tiên đoán quá táo bạo. Nhưng toàn cầu hóa có vẻ như sẽ làm cho nó trở thành hiện thực trong thế kỉ XXI và chúng ta nên vui mừng vì chuyện đó. Sự phục sinh của những nền văn hóa nhỏ bé, mang tính khu vực sẽ trả lại cho nhân lọai sự đa dạng trong cách thể hiện và hành vi mà cuối thế kỉ XVII và đặc biệt là trong thế kỉ XIX các quốc gia-dân tộc đã từng hủy bỏ nhằm tạo ra cái gọi là bản sắc văn hóa. (Sự kiện này đã dễ dàng bị lãng quên hay chúng ta tìm cách lãng quên vì những ẩn ý mang tính đạo đức sâu sắc của nó).

Các nền văn hóa dân tộc thường được trui rèn trong máu lửa, nó cấm đoán giảng dạy và xuất bản các tác phẩm viết bằng thổ ngữ hay cấm đoán thực hành các tôn giáo và tục lệ khác biệt với những tôn giáo và tục lệ được quốc gia-dân tộc coi là lý tưởng. Bằng cách đó, các quốc gia-dân tộc tại nhiều nước trên thế giới đã áp đặt nền văn hóa ưu trội lên các nền văn hóa địa phương, văn hóa địa phương bị đàn áp và bị loại bỏ khỏi đời sống chính thức. Nhưng, trái ngược với những cảnh báo của những người sợ toàn cầu hóa, không dễ gì xóa bỏ một nền văn hóa – dù nó có nhỏ đến đâu – nếu đằng sau nó là một truyền thống phong phú và có những người thực hành nó, dù là thực hành một cách bí mật. Và hôm nay, nhờ có sự suy yếu của quốc gia-dân tộc, chúng ta mới được nhìn thấy sự tái xuất hiện của những nền văn hóa đã từng bị lãng quên, bị đẩy ra bên lề và vị bóp nghẹt và thể hiện một đời sống năng động trong sự hài hòa vĩ đại của hành tinh toàn cầu hóa này.

**************

Tác giả: Mario Vargas Llosa

Dịch giả: Phạm Nguyên Trường

******************

[themify_box style=”blue info”]
Mario Vargas Llosa là tiểu thuyết gia và trí thức nổi tiếng thế giới. Năm 2010 ông được trao giải Nobel văn chương vì “những thành tựu trong việc mô tả cơ cấu của quyền lực và những hình tượng sắc bén về sự kháng cự, nổi dậy và thất bại của cá nhân con người”. Ông là tác giả của những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng như: Bữa tiệc của con dê (The Feast of the Goat), Cuộc chiến của ngày tận thế (The War of the End of the World), Cô Julia và người viết kịch bản (Aunt Julia and the Scriptwriter), Cô gái không ra gì (The Bad Girl), Cuộc đời thực của Alejandro Mayta (The Real Life of Alejandro Mayta), và nhiều cuốn khác.[/themify_box]

 

Lặng im…

*Photo: Lay Of Autumn

 

Lặng im nghe tiếng gió rơi
Lặng im nghe tiếng cuộc đời thở than…
Lặng im nghe những dối gian
Lặng im nghe ánh nắng tàn ngoài hiên...
Lặng im nghe những đảo điên
Lặng im nghe những nỗi niềm của ai…
Lặng im nghe buổi nắng mai
Lặng im nghe những đoái hoài nhớ mong…
Lặng im nghe những nỗi lòng
Lặng im nghe phận má hồng xót xa…
Lặng im nghe những ngày qua
Lặng im nghe những nhạt nhòa mắt ai…
Lặng im nghe những đúng – sai
Lặng im nghe những bi hài bể dâu…
Lặng im nghe bạc mái đầu
Lặng im nghe những buồn sầu trong tim…
Lặng im nghe những lặng im
Lặng im nghe những trái tim lặng thầm…

 

Một Đời Quét Rác

Truyện cổ tích và mối tình không “cổ” lắm

*Photo: Jeff_B

 

Khi bé, ta được nghe kể về nàng Lọ Lem xinh đẹp được chàng hoàng tử đem lòng yêu từ cái nhìn đầu tiên. Khi ta lớn lên, ta cảm nắng cậu bạn với vài tài lẻ hay cô gái lớp bên có chút duyên ngầm, và với những gì ta được kể từ khi còn bé, ta nghiễm nhiên cho đó là tình yêu. Quả thật, trong một xã hội hối hả, thì “tình yêu sét đánh” có phần tiết kiệm thời gian, lời nói và…tiền!

Một tình yêu không có sự giao tiếp lâu dài, không phải đối mặt với những trắc trở, khó khăn, không phải giải quyết sự khác biệt giữa hai người và trên hết là sự nhàm chán trong nhịp sống để yêu thương người kia bằng tất cả những gì mình có. Một tình yêu không “tì vết”.

Tôi tuyên bố tôi chưa bao giờ yêu. Tôi từng có người yêu nhưng không có nghĩa tôi đã biết yêu là gì. Tôi không yêu họ, tôi chỉ yêu cảm giác bên họ mà thôi. Thế tại sao bạn phải nghe những dòng chữ của một kẻ chưa biết yêu? Tại sao tôi biết tình là thế này mà không phải là thế kia? Tại vì có thể tôi không hiểu tình yêu, nhưng tôi hiểu những gì không phải là tình yêu. Yêu không phải là trưng bày “trailer” của mình với người kia, mà còn phải có cả “hậu trường” nữa. Yêu không phải là nói những lời sáo rỗng trên trời dưới biển, hay những câu thoại ướt nhoẹt từ phim Hàn Quốc dài tập, càng không phải những dòng status sến súa đăng lên hàng ngày, mà có thể mỗi ngày lại dành cho một người khác!

Nhìn những thanh niên yêu nhau theo một cách vô tội vạ, một cách vừa phức tạp vừa tầm thường, tôi thấy mệt mỏi hơn là vui. Tôi hỏi họ vì sao họ yêu nhau, họ bảo là yêu cái tâm hồn, tôi buồn cười. Giả sử một câu chuyện về một anh chàng bụi bặm ngồi trên chiếc xe tay ga, đằng sau là cô gái với chiếc quần ngắn cũn cỡn, để lộ đôi chân trắng nõn nà. Và rồi có những câu hỏi sau:

  • Nếu một ngày anh trở nên lụi bại trên con đường sự nghiệp, nếu trong một phút yếu lòng, anh bật khóc, em có ở bên anh không?
  • Nếu một ngày anh thấy em với mái tóc bù xù, gương mặt không trang điểm, anh có còn yêu em không?
  • Nếu một sáng mai thức dậy, anh có còn yêu em không?

Quay lại câu chuyện của nàng Lọ Lem, nàng rời nhà lúc 10 giờ  đến lâu đài và rời đi lúc 12 giờ. 2 tiếng không đủ để làm hoàng tử yêu nàng vì tâm hồn được, thế nên bạn hiểu hoàng tử yêu nàng vì cái gì rồi chứ? Nếu Lọ Lem nhỏ bé đến dự vũ hội trong bộ quần áo rách rưới, hoàng tử có yêu nàng không? Hoàng tử đã kịp nhìn thấu “hậu trường” của Lọ Lem chưa? Hay chỉ vì cái “trailer” bóng loáng mà đã vội vã cưới?

Phải, tình cảm có thể đến qua cái nhìn đầu tiên, nhưng tình cảm đó còn ở lại qua năm tháng hay không còn tùy thuộc vào sự hy sinh, sự dâng hiến, sự quan tâm, lắng nghe giữa hai bên, chứ không phải mặc định cho rằng đấy là tình yêu đích thực chỉ vì tim bạn lỡ vài nhịp.

Có thể, nó cũng chả phải tình yêu nữa.

 

Thi Thi

Nào có đâu bao ngày

*Photo: Any Direct Flight

 

Tuổi trẻ ấy nào có đâu bao ngày

đón nắng hứng mưa xẻ đôi cơn gió

ôm cả mây vào vòng tay nhỏ,

tít mắt cười khi ai đó khen xinh.

Tuổi trẻ ấy ngây ngô còn đầy

tròn xoe mắt ngắm nhìn thế giới,

lòng hiếu kì như thôi thúc đôi chân.

Một ngày kia bản năng dẫn đường

chân rón rén bước ra ngoài cánh cửa

mà thân biết bên kia nào trải nhựa,

sẽ rất nhiều gai đá chông chênh.

Tuổi trẻ ấy biết học không là chưa đủ

tập tành gõ đầu trẻ tra bài,

để một hôm trò ngơ ngác hỏi:

Lòng tự trọng là gì hả cô?

Bất chợt như có những mơ hồ,

tự vấn bản thân có không sự hiểu

phải chăng tự bản thân tôn trọng chính mình.

Trò lại hỏi: Quan trọng không cần có?

Quan trọng chứ vì người đời khinh rẻ,

nếu người sống không tự trọng với người.

Trò nhỏ đột nhiên thêm thắc mắc:

Đem bán đi có được bao tiền?

Bản thân chưa bao giờ đong đếm,

nên chẳng biết giá đáng bao tiền,

phải chăng cũng không phải là ít

nên lắm người đem bán cùng mua.

Cũng một lần muốn đặt câu hỏi,

bán đi rồi đã lấy lại được chưa?

Vì trò vốn hãy còn quá trẻ,

nên lựa lời giảng giải đúng sai

Trò chăm chú nghe từng chữ một,

như đã hiểu gật gù tán thưởng…

“Cô nói hay quá con sắp ngủ luôn rồi”

 

Xù Híp Mí

Có những nỗi đau không cần phải quên…

*Photo: Any Direct Flight

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là ngày đầu tập đi, ta vấp té
Ta đau đớn, mắt nhạt nhòa dòng lệ
Nhưng nhờ vậy, ta đã tự bước đi…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi ta bị người thân bỏ mặc
Nỗi đau khiến cho ta câm lặng
Nhưng nhờ vậy, ta đã biết yêu thương...

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi người thân yêu đi xa mãi
Nỗi đau khiến cho ta điên dại
Nhưng nhờ vậy ta thêm yêu cuộc đời…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi ta bị người từ chối
Tình cảm vừa nhen đã tàn lụi
Ta biết rằng họ không dành cho ta…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Là khi người yêu thương bỏ ta ở lại
Nỗi đau trong tim cứ quằn quại
Nhờ vậy, ta thêm yêu bản thân mình…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Vì càng cố quên, ta sẽ càng nhớ
Nỗi đau chết lặng đến từng nhịp thở…
Nỗi đau xé lòng, len cả vào giấc mơ…

Có những nỗi đau không cần phải quên
Vì nó dạy ta biết hy vọng
Dạy ta biết yêu thương và trân trọng
Mỗi khi ta may mắn mỉm cười…

 

Một Đời Quét Rác

Chết vì tình – Một ảo mộng?

*Photo: Korolevatumana

 

“Giống như đôi uyên ương bươm bướm
ở trên đời đã là chuyện điên rồ,
sao còn muốn lên tận trời cao?
Chi bằng hãy cùng ngủ yên trong sự dịu êm”…

Tôi không thể quên những câu hát ấy trong một bộ nổi tiếng khi còn nhỏ. Mộng uyên ương hồ điệp đó đã ám ảnh giấc mơ thời tuổi trẻ yêu đương sôi nổi của rất nhiều người trong chúng ta. Yêu là hy sinh tất cả, thậm chí chết để được gần nhau – một niềm tin vương vấn ít nhiều trong những trái tim tươi trẻ.

Việc cặp đôi đồng tính nữ tự tử để được yêu nhau đã khiến cho tôi suy nghĩ về điều này. Sự kiện đáng tiếc của họ, tuy trở nên thu hút dư luận với chi tiết đồng tính nữ, nhưng có lẽ cũng giống như bao câu chuyện tự tử vì tình khác: khi tình yêu bị ngăn cản, cách trở, họ chỉ còn biết lấy cái chết để được bên nhau. Một trong hai người đã chia sẻ: mong được hóa thành đôi bươm bướm đẹp nhất thế gian, sau khi chết.

Tôi hy vọng những cặp đôi tự tử vì tình không phải là tín đồ Kitô giáo. Một người bạn Kitô giáo của tôi nói, mặc dù tin vào thiên đường, Kitô giáo vẫn cấm người ta tự tử, coi đó là một tội. Tự tử đồng nghĩa với việc sẽ bị đày ải sau khi chết. Ai biết được, không chừng sự đày ải đó có thể làm các bạn phải xa nhau vĩnh viễn? Chạy trốn địa ngục này để đến với một địa ngục khác, đó không phải là lựa chọn tỉnh táo.

Nếu bạn không tin Thiên Đường, hoặc không biết chắc cuộc sống sau khi chết có tồn tại hay không, thì việc chết để được yêu nhau thật đáng tiếc. Chết rồi, có biết là còn yêu nhau được nữa không.

Với niềm tin cá nhân, rằng không có thế giới bên kia, mà nếu có thì chúng ta cũng chẳng còn là chúng ta với thể xác và tâm hồn con người, tôi thấy cái chết lúc này hoàn toàn vô nghĩa. Nó chỉ chứng minh cho thế giới thấy bạn đã từng có một tình yêu, chứ không còn để các bạn được yêu nhau. Tình yêu chỉ còn khi hai quả tim chưa ngừng đập, thân xác chưa nguội lạnh… Khi người ta chết đi, chỉ có một câu chuyện tình còn lại, chứ không phải một tình yêu sống giữa hai con người.

Tôi e rằng, chết là hết. Hết tất cả, hết cả tình yêu. Thà yêu nhau trong đau khổ còn hơn mãi mãi không có cơ hội yêu nhau nữa. Trừ khi bạn xếp tình yêu mà mình coi là thiêng liêng đứng dưới những muộn phiền cuộc sống.

Tuy nhiên, khi những căng thẳng triền miên đầy đọa tinh thần được hòa trộn với những câu chuyện huyễn ảo về tình yêu và cái chết (những câu chuyện hi sinh vì tình được miêu tả tuyệt đẹp trong tiểu thuyết, phim ảnh, v.v…), tôi nghĩ người ta sẽ dễ hình dung ra một thiên đường đẹp tươi và cô độc của tình yêu sau khi chết. Đó chỉ là sự hoang tưởng tinh thần xảy ra do những nỗi đau.

Không ai có được tất cả những gì mình muốn, hoặc có khi, cuộc đời khắc nghiệt khiến bạn nhận được quá nhiều nỗi đau, mà hạnh phúc thì chỉ mong manh như giọt nước. Chẳng biết vì sao chúng ta lại phải sinh ra trong đời, nhưng một khi đã tồn tại và hiểu đâu là niềm vui, nỗi buồn, người ta chỉ còn cách cố gắng hết mình, thậm chí sẵn lòng đứng trong đau khổ để được nếm trải hương vị ngọt ngào nhỏ bé của yêu thương và hạnh phúc. Hoặc chấp nhận cả vui và buồn, hoặc chết và không có bất cứ thứ gì.

Và cho dù tình yêu của bạn đã bị đẩy tới đường cùng, thật sự bạn tuyệt vọng đến mức mong được chết, dường như tình yêu vẫn không phải là lý do đích thực khiến bạn tự tử.

Khi quyết định tự tử, có thật là bạn đang hy sinh vì tình yêu, hay đã cam chịu cúi đầu trước áp lực từ gia đình, người thân và xã hội? Bạn tự tử vì tình, hay tự tử vì đời? Đôi lúc, tình yêu chỉ là tấm màn chắn mà người ta tự che lên mắt mình, để tạo ra cảm giác giải thoát đẹp đẽ. Khi bạn chọn cái chết vì sự ngăn cấm của gia đình và áp lực xã hội, nghĩa là bạn đã buông trôi mạng sống của mình cho chính sự ngăn cấm đó, cho chính áp lực đó, chứ đâu phải cho một tình yêu đã chết cùng thân xác?

Người ta dùng từ “đáng tiếc” để nói về những câu chuyện như thế. Đáng tiếc vì tuổi đời còn quá trẻ, đáng tiếc vì một tương lai phía trước, đáng tiếc vì nỗi đau và sự ân hận còn lại nơi cha mẹ, người thân… Nhưng tôi nghĩ có một thứ còn đáng tiếc hơn nữa, đó là tình yêu của họ. Họ đã không còn sống để yêu nhau được nữa.

 

Đèn Phố

Đừng sống thật với bản thân

*Photo: Adih Respati

 

Một câu khẳng định rằng không có nội tâm con người nào, dù trong sạch đến mấy, lại không ấn tàng trong đó một tật xấu khả ố nào đó. Cho dù là các bậc được mang tiếng là thanh cao thì tôi vẫn chắc chắn rằng trong suy nghĩ của họ vẫn còn có thứ xấu xa mà không ai biết được, ngoài họ. Vậy thì người tốt không phải là người giỏi che đậy cái xấu xa bên trong sao? Câu đó xem ra là đúng, và người tốt cũng là người biết che đậy cái xấu nữa.

Chúng ta thường hay phê phán các cụ ta thời xưa mang lắm bệnh sĩ diện, tức là muốn lắm nhưng giả vờ không thích, hoặc là đạo đức giả, khi những điều đó xét ở một thời đại dân chủ và tự do như bây giờ thì điều đó thực là ngu ngốc. Ngày nay người ta luôn kêu gọi mọi người hãy sống thật với bản thân mình, tức là nên sống đúng với cảm xúc thực, suy nghĩ thực của mình, là xấu hay đẹp đều nên phô ra cho mọi người biết, là viết những dòng tự thú (confession). Khi một nhóm bạn nam ngồi nói chuyện với nhau, một cô gái ăn mặc gợi cảm đi ngang qua, mọi người đều bàn tán về cơ thể cô ta, duy chỉ có một người im lặng, người đó dễ bị gán là đạo đức giả, thích mà còn làm bộ. Nhưng khoan hãy kết tội người đó vội.

Trong bản tính con người luôn có ít nhất một nết xấu, đó có thể gọi là bản tính tự nhiên, tuy nhiên nết xấu ấy cũng ẩn chứa tố chất cho các mục đích tốt đẹp nào đó. Con người chúng ta luôn có xu hướng che giấu những suy nghĩ và cảm xúc thật của mình và chỉ muốn phô bày ra những gì được dư luận chấp nhận và cho là tốt đẹp. Xu hướng thiếu trung thực, xấu che tốt khoe để được lòng xã hội thực ra không những đã góp phần văn minh hóa mà còn dần dần và trong mức độ nhất định nào đó làm đạo đức hóa trong con người chúng ta, vì không ai có thể nhìn thấu ngay vào bản chất thật của vẻ ngoài đứng đắn, danh giá, đạo hạnh và chính những tấm gương tưởng là tốt lành biểu lộ ra bên ngoài hằng ngày lại là một trường học để tăng tiến nền nếp đạo đức cho ta.

Tôi luôn nhớ thây giáo dạy triết cấp ba của tôi có nói với lớp: “Các em nhìn thầy là một thầy giáo lớn tuổi và đứng đắn. Khi ra ngoài đường nếu thầy nhìn thấy những cô gái trẻ trung, xinh đẹp độ tuổi các em thầy có thích không? Thầy vẫn sẽ thích nhưng thầy không thể biểu lộ sự thích đó giống như ở độ tuổi các em được, bởi thầy là người có tuổi để con cháu thầy nhìn vào và thầy là thầy giáo để các em noi gương.” Chúng ta có thể tự do phô bày, nhưng hãy nên biết giới hạn những gì được phô bày.

Trong tình yêu ngày nay, các cặp đôi luôn có nhu cầu muốn tìm hiểu rõ ràng quá khứ của nhau, và ngụy biện rằng điều đó sẽ tốt cho cả hai, để thông cảm cho nhau hơn, nhưng thường có tác dụng tiêu cực ngược lại với mong muốn. Khi cô gái che giấu quá khứ lỗi lầm của mình, nếu một ngày nào đó bị phát giác ra, người con trai chắc chắn sẽ cho cô là đồ giả dối, lừa gạt. Nhưng nếu người con gái đó nói ra điều đó trước thì sao? Người con gái sẽ thường hay bị dày vò bởi người tình, và người con trai khi biết điều đó lại càng đau khổ hơn so với không biết. Ấy vậy mà hầu như ai cũng muốn biết, cũng muốn trở nên đau khổ! Bởi vì bản tính con người hay tò mò và có nhu cầu muốn chiếm hữu trong tình yêu. Tại sao ta lại không chấp nhận bị lừa dối nhỉ, chẳng hay hơn sao? Điều đó xem chừng phi lý nhưng nếu xét sâu xa không phải không có lý.

Không phải điều gì chúng ta cũng nên nói ra cho người khác biết, có những thứ nên giấu kín trong lòng, đặc biệt là những nỗi đau. Xin nhắc lại một đoạn trong tác phẩm Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo, khi Jean Valjean đi tù khổ sai về xin giám mục chỗ ăn ngủ nhờ, vị giám mục đồng ý mà không cần biết những lỗi lầm trước kia của người tù khổ sai này, chỉ biết rằng anh ta là một người đau khổ cần được giúp đỡ. Trong suốt bữa ăn ông không hề hỏi hay gợi lại bất cứ một câu hỏi nào về những đau khổ trước kia của anh ta mà đáng ra ông được quyền hỏi, ông không muốn khoét lại nỗi đau từ quá khứ của anh ta, ông chỉ dùng tình thương người để cảm hóa một con người lầm lỡ, mà như ta vẫn thấy, không phải ai cũng biết dùng tình thương này đúng cách đâu.

Ta đi hơi xa về chủ đề đang nói rồi. Xin nhắc lại, vậy thì chúng ta cứ che đậy cái xấu và làm cho xã hội trở nên suy đồi hơn hay sao? Chính trị thì tha hồ lừa dối, thương trường cũng nhiều dối gian, đến ngay cả tình yêu, con người sống gần nhau mà cũng lừa dối như tác giả bảo thì ta còn biết tin ai được nữa. Tôi muốn nói là, để có một xã hội lý tưởng là điều hoàn toàn không thể, ta phải tin vào chính bản thân mình, phải biết dùng trí tuệ của mình, phải học, phải đọc để phán xét, để biết rõ hơn về người khác. Đôi khi phải dùng Tâm để cảm nhận. Đừng thần tượng bất cứ một ai, bởi nếu một ngày kia khi thần tượng của các bạn sụp đổ ngay trước mắt thì sao?

Tôi vẫn không hoàn toàn khuyến khích cho một xã hội đạo đức giả, nhưng với con người bây giờ, thà một xã hội đạo đức giả còn hơn là một xã hội đạo đức thật. Hãy thử hình dung xem.

 

Đời Thừa

Nghệ thuật này, bí kíp nọ

Photo: Malcolm Lidbury

 

Tôi thấy thời buổi này người ta bịa ra đủ thứ “nghệ thuật” hết. Tôi thì thích từ ngữ mà anh bạn tôi dùng để nói về nó hơn: “Chiêu trò”. Vâng! Chính xác là chiêu trò và “thuật dụ người” thì đúng hơn.

Đơn cử cái cuốn Đắc Nhân Tâm là ông Dale Carnegie biến hóa từ “lòng thành” mà ra. Vậy mà giờ nhiều người cứ lấy “Đắc Nhân Tâm” ra áp dụng kiểu bề mặt, giả vờ lắng nghe người khác để lấy lòng. Điều đó thật ô nhục thay cho Đắc Nhân Tâm. Bao đời nay con người ta chẳng cần phải thuật này, thủ thuật kia, “bí kíp” nọ vẫn sống tốt và đầy tính người. Không hiểu là vì cái cớ gì mà càng về sau người ta càng bịa ra nhiều chiêu trò như thế. Có lẽ chăng là vì nền cơ chế thị trường, sự bùng nổ của dân số, sự quá tải của thông tin, sự nhanh nhảu đoản không có thời gian tìm hiểu nhau mà người ta cần phải có nhiều chiêu trò để “chinh phục” người khác càng nhanh càng tốt?

Đạt Lai Lạt Ma 14 đã nói: “Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là lòng tốt.” Vâng, không phải là chùa chiềng, không phải là tổ chức. Vấn đề là nếu bạn muốn đạt được sự hiểu biết hay thấu triệt về một điều, bạn phải bỏ thời gian để nhìn ra cái gì là bản chất của sự việc, có được bản chất bạn sẽ hiểu được những cái mà nó sinh ra một cách nhanh chóng; và theo cách đó, bạn sẽ biết cái gì là thật, cái gì là giả từ những tiếng ồn quanh bạn. Thường thì điều “thật” thường không ồn ào. Đó là lý do các thánh nhân, vĩ nhân luôn tìm ra những điều hay ho từ tĩnh lặng, từ tách biệt…

Nếu bạn muốn ai đó tin tưởng bạn, một lời nói của bạn đáng tin hơn 10 lời dèm pha, bạn phải có uy lực. Uy lực đó đến từ đâu, nó đến từ việc bạn nói được và làm được, lời hứa chắc như đinh đóng cột. Nó còn đến từ việc bạn luôn thành thật với mọi người xung quanh không gian dối. Điều này cần có nhiều thời gian để người khác trải nghiệm về mối quan hệ giữa ta với họ, hiểu biết về con người của ta, và qua đó hình thành lòng tin, sự cởi mở, niềm hứng khởi, thích chuyện trò, muốn giao du, vân vân.

Và biết sao không? Xã hội ngày nay quá nhanh, quá ồn và quá bận rộn để thỏa mãn cho những điều trên. Chúng ta cứ như là những xác chết gấp rút thi công các công trình hàng ngày, và tiếng động cơ, và tiếng công trình, và dự án, và chẳng còn ai chú ý tới một cá nhân nào, chẳng còn ai nghe một người nào đó nói và quan sát họ nữa. Rồi chúng ta “khám phá” ra các chiêu trò; thật ra cũng chỉ vì nhu cầu xã hội, nhu cầu phải làm sao thật nhanh để lấy được lòng tin của người khác bằng thuật dẫn dụ, bằng thôi miên bằng ngôn từ, bằng “đọc vị”, bằng quan sát ngôn ngữ cơ thể, bằng đủ các thứ mới. Đó không phải là bản chất vấn đề, đó là bề mặt, là ngọn của vấn đề; không có gốc thì ngọn trước sau gì cũng chết tươi thôi.

Đó là ngày mà tôi biết rằng: Kỹ năng mềm – trào lưu của thời hiện đại không phải là cách giải quyết vấn đề. Nó chỉ là một dạng chữa cháy. Nhiều người nghĩ mình sẽ dạng dĩ hơn nhờ học kỹ năng mềm, nhưng nói vanh vách đâu có nghĩa bạn là một người biết thuyết trình hay là một diễn giả có tầm? Vấn đề là kỹ năng sống, là sâu bên trong, là nhận thức của bạn, là cách bạn ứng phó với cuộc đời; nó vững chắc, nó mạnh mẽ và nó đặc biệt. Nó không phải là tư duy tích cực, nó là dạng trung dung mà tư duy tích cực không bao giờ có thể chạm tới. Bản sắc xuất hiện từ đó, và nếu bạn chỉ chạy theo bề mặt, học những thứ chữa cháy, vài ba thứ thủ thuật, nó làm con người bạn trở thành một kẻ ma lanh, ranh mãnh. Có thể bạn lưu loát thật đấy, có thể bạn có nhiều bạn bè thật đấy, nhưng chẳng có ai chân thành với bạn cả đâu nếu bạn cứ xài thủ thuật này đến “bí kíp” nọ.

Tôi không phủ nhận sạch trơn các nghệ thuật mà người ta khám phá ra, tôi chỉ nói nếu bạn muốn đi xa hơn và trở thành một người có năng lực, có sức hút, bạn phải lấy “nhân – tâm” làm gốc. Nhân là người, tâm là tim; tình người từ trái tim, theo cách nghĩ của tôi. Nếu bạn có thể làm được điều đó, lấy lòng thành làm nền tảng, tôi tin đi đâu bạn cũng có quý nhân phò trợ, vũ trụ cảm mến, may mắn sẽ đến.

Những cái mới hiện nay, những khám phá mới về mảng kỹ năng sống hiện nay thực ra chẳng có gì mới. Nó chỉ là phân nhánh hoặc phát triển từ nền tảng xưa nay con người đã sử dụng. Lấy sự thành tâm mà đối đãi với mọi người. Khi thành tâm, có thể bạn sẽ chịu “thiệt” thật đấy, có thể bạn sẽ bị tiểu nhân ganh ghét thật đấy, có thể bạn sẽ bị hãm hại thật đấy, nhưng chí ít bạn sẽ có được những bằng hữu hiểu bạn và dù có gì xảy ra cũng luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn; thà như thế còn hơn là ma lanh, là lanh lợi mà khi gặp chuyện thì hàng trăm người bạn “giao lưu” cũng không chịu giúp gì, đó mới đích thị là cô đơn, là thất bại.

Nếu bạn muốn học một thứ chính đạo, bạn phải học từ bản chất, thời buổi này không hơi đâu học từ nhánh hay từ ngọn, bởi vì thông tin ngày nay thay đổi quá nhanh; sẽ ra sao nếu ta cứ bỏ thời ra cập nhật liên tục những thứ ấy? Chúng ta đâu phải con rối! Đáng mừng thay, nghệ thuật chính quy không nằm trong nhóm thay đổi xoành xoạch, nó có nguyên lý, nó thuộc bản chất con người, tóm lại là bạn chả cần phải đi đâu xa. Nghe tôi này, ngồi xuống, ăn miếng nước, uống miếng bánh (?!??), định thần lại, nó ở bên trong bạn, thấy gì không? Nếu chưa thấy, lặp lại, không phải ai cũng thấy ngay lần đầu tiên. Nếu một ngày bạn thấy được nó, chưa xong đâu, hãy cố gắng thực hành nghiêm túc, thành công sẽ đến với bạn, không phải về kiến thức bạn có, về kiến thức mà mọi người sẽ tự nguyện dành tặng cho bạn; không phải về tình cảm bạn có, về tình cảm mà nhiều người dành cho bạn. Đó mới đích thị là “Nghệ Thuật”!

 

-Lục Phong-

Vượt ngục

Photo: Ông lão trong bộ phim O Brother, where the art thou?

 

Khi tôi bảo bạn tôi là nhạc của Imagine Dragon nghe rất được, nó khen lấy khen để bài Demons. Một thời gian sau khi phát hành album đầu tay, Demons được dựng clip, trở thành một bài khá hot trên bảng xếp hạng Billboard và được rất nhiều người share, trích lời làm caption cho ảnh. Tình cờ, có thể nói là đánh dấu ngày kết thúc của mùa đông, tôi tìm nghe lại bản cover của bài hát này, mới để ý những câu hát phía sau: “When the day are cold and the cards are fold…” Như việc đọc tiểu thuyết và tìm ra được những câu văn ấn tượng sau màn chào đầu, bài hát có thêm câu này: “I can’t escape this now unless you show me how…” Và bất chợt, từ câu hát ấy, tôi nối một mạch liên kết dài với ba bộ phim mình vừa xem trong độ nửa năm trở lại đây, với những ý định bất chợt nhóm lên rồi vụt tắt trong tôi và cả những gì tôi vừa đọc được trong sách. Hành trình tìm sự giải thoát âu là lại tự lao vào một nhà tù khác, là một chuỗi dài những loay hoay.

Ba bộ phim tôi muốn nói đều liên quan đến đề tài vượt ngục: The Shawshank redemption (1994), The way back (2010) và O brother, where the art thou? (2000). Đó là ba cuộc phiêu lưu kì vĩ và ba cuộc giải phóng tư tưởng ấn tượng.Cách nhìn, cách khai thác đề tài của từng bộ phim có sự khác biệt rõ rệt. The Shawshank redemption dựa trên cuốn tiểu thuyết của nhà văn Stephen King. Nó là một câu truyện mang tính thơ hiện thực và được đẩy lên thành một tư tưởng chủ đạo. Câu chuyện dễ gây liên tưởng đến bá tước Monte Cristo và có lẽ, nhà văn đã lấy ý tưởng từ một câu chuyện thật. Song, dù sao đi nữa, vì câu chuyện thật đấy chỉ là cảm hứng, nó đã được chuyển thể thành một tác phẩm văn chương, nên tôi không thực sự gắn kết với câu chuyện ấy lắm.

Nói vậy, không có nghĩa là bộ phim không hay. Chẳng qua, tôi, có thể là bị ám ảnh bởi yếu tố sự thật nhiều hơn, kì vọng yếu tố thật quá nhiều trong một bộ phim và một tiểu thuyết, điều chỉ có nhiều ở phim tài liệu và tác phẩm lịch sử, tiểu sử. Hai nhân vật biểu trưng cho hai kiểu lý trí đối lập. Một bên khao khát tự do, bất bình vì sự hàm oan và điều tiếng, dù anh không thể hiện điều ấy ra ngoài. Một bên hài lòng với sự thể chế hóa. Thời gian ở tù đủ lâu để ông xoay sở, tái kiến trúc cuộc đời mình. Có thể đã bao phen muốn phản kháng, muốn được giải thoát. Nhưng quá nhiều lần bị khước từ đơn ân xá, ông đã cư xử mềm dẻo hơn, chấp nhận tù ngục như là một phần của cuộc đời mình. Ông không nhất thiết phải trở về lại nhà, với gia đình vợ con bạn hữu. Ông tự biến ngục tù thành ngôi nhà của mình và chấp nhận gắn bó.

Theo tôi, thái độ của hai nhân vật không mâu thuẫn nhau, ý chí của họ cũng không mâu thuẫn nhau. Một bên tự do là thế giới bên ngoài là nơi anh ta có thể tung tác vùng vẫy, kiếm tiền và thực hiện những ước mơ của đời mình. Với người tù nhân già, tự do gần như trở nên đơn giản hơn, ít yếu tố ràng buộc hơn. Chỉ cần hài lòng, chỉ cần có thể tạo ra sự thoải mái, cái mà ông gọi là sự thể chế hóa con người. Đại diện nổi bật nhất của tư tưởng thể chế hóa chính là ông lão thủ thư, con người hiền lành và bác học nhất của nhà tù Shawshank. Ông đã tự gây thêm tội để được ở lại tù. Ông ra tù với tâm thái bất đắc dĩ, đến cuối cùng chọn cái chết như phương cách giải thoát cho cuộc đời mình.

Thời gian đã bào mòn, đã đơn điệu hóa con người đi rất nhiều. Chính thời gian tạo nên sự già nua, sự ngại thay đổi, sự lạc hậu. Hơi cực đoan, nhưng theo tôi, họ đã chọn hai lựa chọn khác nhau, không có nghĩa là một bên còn nô lệ, một bên có tự do. Chủ quan là từ tâm thái người ta có thấy thoải mái hay không? Tự do đôi khi cũng là một cái lồng sắt ràng buộc con người, mặt khác, đôi khi người ta chấp nhận mình bị giam cầm một ít, bị nô lệ một ít, bị phụ thuộc một ít, bị kiểm soát một ít để yêu thương, để gắn bó, để ở lại trong cõi an nhiên mà thâm sâu muốn đón nhận. Tự do không nghĩa là bay nhảy khắp phương trời, nó cũng nhỏ bé và giản đơn như việc người ta chấp nhận ở lại cùng nhau, dưới một mái nhà và tôn trọng những nguyên tắc chung của nhau vậy.

Với The Way Back, người ta ít có điều kiện tư tưởng và chiêm niệm về cái tự do và giam cầm hơn. Chỉ có một lựa chọn, là giải thoát, phải giải thoát thì mới được tự do. Bối cảnh câu chuyện chân thực hơn. Một phần, bộ phim không chuyển thể từ tiểu thuyết mà là một câu chuyện thật. Đệ nhị thế chiến là có thật, phát xít và sự tàn sát, xua đuổi là có thật, nhà tù địa ngục ở Siberie cũng không phải là cái mà nhà làm phim tưởng tượng ra. Muốn sống, muốn thoải mái và hạnh phúc, không phải chỉ cần tuân thủ luật lệ của tù ngục là đủ, bởi luật lệ quá khắc nghiệt. Tra tấn nhau, giành giật nhau, súc vật với nhau là những thái độ sống hiển nhiên được chấp nhận. Bởi vậy mà họ phải đi, họ phải thoát khỏi thành lũy của sự giam hãm, cầm buộc. Chuyến hành trình của họ quá dài, quá nhiều hy sinh, quá nhiều mất mát.

Với người này, nó thực sự tạo nên ý nghĩa lớn, với người kia đơn giản là con đường trả nợ đời – để tha thứ cho mình, với người nọ là một ước mơ dang dở – đau đớn thay, giấc mơ mãi ở đó, sáng lấp lánh như một vì sao xa. Với The way back, người ta không phải đấu tranh nhiều về mặt tư tưởng, không phải chuyện là nên đi hay nên ở, ở thì sao và đi thì sẽ ra thế nào. Lựa chọn đơn giản hơn không có nghĩa là thực tế ít khắc nghiệt hơn. Những con người ấy đều ở thế đường cùng, họ sống trong những mối liên lụy. Tù tội không đơn thuần là hình phạt cho tội ác, hay án oan của riêng bản thân họ. Mà suy cho cùng, có cái án nào là hệ lụy cho một và duy nhất phạm nhân đâu?

Thay đổi định hướng địa lí không ảnh hưởng đến mục tiêu định đạt ban đầu. Những con người dấn bước trong cuộc đời thực này, họ không tạo ra tư tưởng nhưng người ta vẫn chiêm ngắm và trầm tư về họ, về ý chí, về sự kiên cường. Sự quả cảm, phải chăng là kiên trì cho đến cuối, bởi nếu nói đến chuyện dám bứt phá hay không thì họ đều đã có thừa. Với điều này, thì những người nhỏ con bé họng, những người mỏng mảnh như cô gái duy nhất của The Way Back lại có nhiều hơn cả, chứ không phải là tay ma cô cầm dao giết người, giết chó gà không ghê tay.

Rồi đến O brother, where the art thou? Trong ba bộ phim thì O brother where the art thou? gây cho người ta cảm giác ngạc nhiên, hoang mang hơn cả. Bộ phim vừa có nhiều yếu tố quá đỗi đời thường vừa thăm dặm vào những mũi kim nhọn của nhân sinh quan. Bộ phim giống như một câu chuyện ngụ ngôn hài hước, nhưng nó lại tạo được hiệu ứng văn chương đậm nét vì góc quay và cảnh quay quá đẹp. Rồi với chất folklore, với những bài hát và bản tin trên radio, với vấn nạn phân biệt chủng tộc (đảng Ku Klux Klan), với chiến dịch tranh cử bang… nó lại một lần nữa trở nên quá thật và đánh động khán giả. Đi ra khỏi ranh giới của một cuộc vượt ngục thông thường, nó thôi thúc nơi người xem những trăn trở về sự giải thoát, về cuộc vượt ngục mà thành lũy không đâu xa, không phải bằng gạch đá sắt thép gì ngoài những mặc cảm, những rào cản, những mệt nhoài của chính bản thân mình.

Người ta tìm sự tha thứ, sự tha thứ là do tôn giáo, do bản thân hay do luật pháp? Bản thân tôi cho rằng, không hẳn cách đánh giá theo quan điểm vô thần là hoàn toàn đúng. Đúng trên lý lẽ mà bản thân ta còn băn khoăn thì đúng để mà làm gì? Nhưng nhà làm phim đâu cố áp đặt ý tưởng nào cho chúng ta. Chỉ có sự thật phơi bày ra đó cho chúng ta thấy, khi người ta coi tôn giáo là bùa chú tha thứ và trừng phạt, hình thức, trình diễn. Còn sự thật thế nào, chỉ có tòa lương tâm mới định án và tha tội được. Ba kẻ đào tẩu trong câu chuyện nửa thực nửa hư này vừa ngông nghênh mà vừa bình thường hết sức. Một kiểu ngốc nghếch, điên điên dễ gây tò mò. Người ta lại thấy rằng, dầu văn chương song nó không có gì xa vời. Đào tẩu và bị truy nã, lần này lượt khác được tha và chịu án.

Không có cuộc vượt ngục có tầm tư tưởng, không có thiên anh hùng ca nào ở đây. Chỉ có hai kẻ ngốc bị thằng bạn gian manh lừa, dụ dỗ đi tìm kho báu. Kẻ gian manh cũng chẳng có ý gây ra sự gì, ngoài chuyện phải về nhà gặp vợ, phải can ngăn đám cưới mới của vợ. Danh dự với xã hội không còn thì danh dự của kẻ làm chồng làm cha, lương tâm và tình yêu thương vẫn còn muốn được biểu hiện ra ở dưới mái nhà nhỏ bé đó. Tôi đặc biệt chú mục vào từng lời của ông lão làm việc trên đường tàu. Ông xuất hiện ở đầu phim và trở lại ở cảnh cuối cùng của phim. Tôi muốn tìm cho ra ông là ai, muốn hiểu xem ông đến và đi trong câu chuyện này để làm gì…

Ba bộ phim là một chuỗi những vấn đề, những giả thiết, những lập luận và chứng minh cho cái gọi là tự do và giam cầm, cho cái giải phóng và nô dịch. Tù ngục là minh họa tốt nhất cho hai khái niệm mâu thuẫn này. Nhưng liệu trở về cuộc sống đời thường, người ta có thôi ngớt nghĩ về nó hay không? Một câu chuyện đơn giản hơn ba bộ phim trên, ngoài “All the saints we see, are all made of gold” – lời ít ý nhiều của Demons, tôi biết có một vlog giản dị tầm dân thường ít tuổi, gần gũi hơn: “Giả thuyết con chim và cái lồng” của nhóm Chuyện 2 giờ sáng trên youtube. Tự hỏi, cái gọi là sự trói buộc hay giam hãm ấy, há chẳng phải là người ta tự tạo ra cho nhau và cho chính mình sao?

Như người ta vẫn cho rằng yêu đương là một sự ràng buộc, làm việc là một ràng buộc, sống như một công dân là một ràng buộc – ràng buộc bởi một cái hợp đồng lớn mà người ta gọi là khế ước xã hội. Và hỡi ơi, trong tất cả sự sáng tạo đáng hoan nghênh và trân trọng, thì người ta còn sáng tạo ra cả sự ràng buộc này nữa, sáng tạo cũng bị giới hạn theo tư tưởng và trường phái đấy thôi. Hệt như việc nghĩ ra những quỷ kế lừa lọc và giết người hay đàn áp và trấn giữ khác.

Cho đến bao giờ người ta mới thực sự hát một khúc tự do? Tự do nhất, chẳng phải là lúc ngồi nhìn bầu trời, ngồi ngắm cỏ cây và ngồi hát ru mình vô lo vô nghĩ đấy sao? Tự do nhất, chẳng phải là lúc cứ để mọi băn khoăn chảy đến rồi trôi đi đấy sao? Ta không còn nghĩ đây là đam mê hay là hình phạt nữa, không nghĩ đây là cùng đích hay là tận diệt nữa, ta chỉ làm, làm và không gán ghép một ý nghĩa nào vào đấy. Để cho bản thân sự vật, sự việc được nên trọn vẹn một cách tự nhiên nhất. Tự do là để mọi điều được như nó vốn có thay vì áp đặt những ý định riêng của ta vào. Tự do không chỉ là một quyền của riêng cá nhân mà còn là quyền của tất thảy mọi tạo vật vậy!

Mỉa may thay, có vẻ như, muốn được tự do, thì không nên nghĩ nhiều về nó nữa!

 

Broon

Vì sao quan hệ tình dục trước hôn nhân không phải là tội lỗi?

*Photo: Virginia Wonka

 

Trước tiên, tôi khẳng định quan điểm tôn trọng ý kiến của mỗi cá nhân về trinh tiết, họ có quyền giữ hay không giữ trước hôn nhân nếu như họ có những lý do chính đáng cho hành động của mình. Thứ hai, quan hệ trước hôn nhân không phải là vấn đề lớn với tôi, nó càng không phải là tội lỗi; những cô gái quan hệ trước hôn nhân không phải là tội đồ. Vì sao?

Mọi người thường liên hệ trinh tiết với phẩm giá và lòng tự trọng, nếu một cô gái không còn giữ được trinh tiết thì xem như lòng tự trọng cũng mất. Suy luận này không hợp lý. Trinh tiết, nếu theo góc độ mà các anh hay bàn đến là màng trinh, là thứ hữu hình trong khi lòng tự trọng là thứ vô hình, xem ra hai điều này không liên hệ với nhau. Và cho dù có, mất lòng tự trọng trước thì có khả năng cao khiến người đó quan hệ bừa bãi mà mất trinh tiết (từ suy nghĩ dẫn đến hành động); nhưng điều ngược lại, vì một người mất trinh tiết mà suy ra họ mất lòng tự trọng thì không hợp lý chút nào (dù có khả năng đó). Hơn nữa, nếu một cô gái quyết định quan hệ mà không suy nghĩ, điều này không liên quan đến lòng tự trọng mà do thiếu suy nghĩ; mặt khác, nếu cô gái ấy đã suy nghĩ trong một thời gian dài trước khi quan hệ thì việc này là lựa chọn của cô ấy. Tóm lại, hoàn toàn không có mối quan hệ chắc chắn nào giữa trinh tiết và phẩm giá (và cũng chưa nghiên cứu nào chứng minh có mối quan hệ này)

Trinh tiết là một giá trị của người con gái, nhưng chỉ là một trong rất nhiều giá trị khác và càng không phải là thứ quan trọng nhất. Trong một chương trình talk show trên TV có một anh chàng bảo rằng anh rất quan trọng chuyện trinh tiết, rằng anh và bạn gái chỉ mới nắm tay và hôn nhau, rằng một người con gái thì nhất thiết phải giữ cho được trinh tiết thì mới giữ được giá trị truyền thống. Một bạn nữ trong talk show, dù khẳng định mình không phải kiểu người phóng khoáng, đã vặt lại anh rằng anh nghĩ thế nào nếu bạn gái anh không còn trinh trắng. Anh bảo nếu anh biết trước khi cưới thì anh chắc chắn không chọn người ấy làm bạn gái, nếu anh biết sau khi cưới thì chắc có lẽ đến một ngày nào đó sẽ kết thúc mối quan hệ hôn nhân.

Nếu tôi là bạn gái anh thì chắc tôi sẽ buồn lắm, vì anh chỉ yêu trinh tiết của tôi thôi chứ có yêu tôi đâu. Vậy nếu tôi không còn trinh thì không thể yêu, không thể chăm sóc, không thể là một người bạn gái tốt được sao? Một người bạn kể với tôi rằng, có một anh kia sắp lấy vợ, trước ngày cưới có một anh khác chạy lại bảo với anh này rằng: “Vợ sắp cưới của anh từng ngủ với người khác rồi đấy.” Anh này bình thản trả lời: “Chuyện đó không quan trọng vì giờ đây cô ấy yêu tôi, và sau này khi cưới nhau thì tôi chỉ quan tâm cho tương lai phía trước của hai người.” Sẽ có người nghĩ anh này khờ. Tôi thấy anh chính chắn và biết suy nghĩ, không tự dằn vặt bản thân và người mình yêu bằng quá khứ và những điều không quan trọng.

Tôi quan niệm có sự khác biệt giữa “making love” (làm tình) và “having sex” (quan hệ tình dục) dù cho bản chất chỉ là cùng một hành động. “Having sex” thiên về thỏa mãn nhu cầu cơ thể còn “making love” thiên về cảm xúc. Có những người phải có cảm xúc với nhau thì họ mới có thể quan hệ, còn có những người họ quan hệ vì cần giải phóng nhu cầu cơ thể. Nếu người ta liên hệ việc một cô gái quan hệ với một người chỉ để thỏa mãn nhu cầu cơ thể, đương nhiên, họ sẽ đánh giá thấp cô gái ấy. Tôi đồng ý với suy nghĩ này. Vì nếu không kiềm chế được bản thân với người này thì đương nhiên sẽ khó kiềm chế với người khác. Ở trong một mối quan hệ với cô gái như thế thì thật khó mà yên tâm. Nhưng nếu cô gái ấy chỉ làm chuyện ấy với người mình yêu và ý thức được việc mình làm thì hoàn toàn không có gì sai.

Còn một cái đuôi liên quan đến chuyện này đó là tình dục. Ở Việt Nam, tình dục được liệt vào thứ “cấm kỵ”. Tôi nghĩ có hai tuýp người, một là càng tránh xa điều cấm kỵ càng tốt, hai là càng cấm kỵ càng cảm thấy muốn khám phá, một cách bí mật. Cho dù ở tuýp người nào bạn cũng không tiếp cận vấn đề một cách công khai vì sợ bị người khác dị nghị, vì đã bảo là điều cấm kỵ thì quan tâm làm gì, tránh càng xa càng tốt. Điều này khiến các bạn trẻ lẽ ra ở cái tuổi phải biết tình dục là gì và làm cách nào để an toàn thì lại hoàn toàn mù tịt. Tình dục là một nhu cầu của cơ thể, cần phải được học tập và tìm hiểu đầy đủ cũng như học sinh học về cơ thể người để biết rõ hoạt động của từng bộ phận. Ở Phương Tây thì không nói gì nhưng bạn tôi ở Nepal kể rằng anh đã được dạy về tình dục an toàn từ khi học lớp 7!

Hai kết luận cuối cùng của tôi là:

  1. Suy nghĩ kĩ trước khi bạn quyết định quan hệ với ai đó và chịu trách nhiệm cho hành động của mình (đừng mong chờ đối phương phải chịu trách nhiệm,vì chính bạn đồng ý mà!)
  2. “Trái tim” lúc nào cũng quan trọng hơn “trái cấm”. Một cô gái mất “trái cấm” rồi thì vẫn còn “trái tim”, mất “trái tim” thì mới là vấn đề lớn. “Trái cấm” thì chỉ ăn một lần nhưng “trái tim” thì dùng cả đời.

 

Tâm Lê