24 C
Da Lat
Thứ Ba, 29 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 224

Tại Sao Nước Mỹ Lại Không Dạy Đức Dục?

*Featured Image: Andreas Tsakalis

 

****

Lời Mở Đầu

Đức Dục là một môn học mà hầu như nước nào cũng có, tuy tên gọi có khác nhau tùy theo từng nước; có nước gọi là đạo đức học, có nơi lại gọi là giá trị học. Tại 31 nước Âu châu, có nước bắt buộc học sinh phải học, có nước cho vào môn nhiệm ý bắt buộc (Korim & Hanasova, 2010). Trong chương trình giáo dục của các nước Đông Nam Á, gồm 11 nước, cũng có môn đức dục (Southeast Asian Ministers of Education Organization – SEAMEO). Riêng tại Việt Nam, môn luân lý đã được đưa vào trong chương trình giáo dục tiểu học từ năm 1941 với cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư lớp sơ đẳng do Nha Học Chính Đông Pháp ấn hành. Giáo dục, nói chung, có thể quy vào ba lãnh vực chính là trí dục, thể dục, và đức dục. Ai cũng nhận thấy tầm quan trọng của đức dục; nhà nước nào cũng hô hào phải dạy dỗ và rèn luyện nhân cách, đức tính cho con em từ thuở nhỏ. Nhưng trong những thập niên gần đây, hầu như trên toàn thế giới đều xảy ra một hiện tượng đáng báo động là tình trạng “hư hỏng” của học sinh, thí dụ như bạo lực, gian lận thi cử, hỗn láo trong học đường tại Nhật Bản trong cuối thập niên 1990, tại Indonesia và Việt Nam trong những năm gần đây khi báo chí tường thuật những vụ bạo hành, đánh lộn, gian lận thi cử trong giới học sinh (Tsuneyoshi, 2001; Postscript, 2011).

Nước Mỹ cũng không là trường hợp ngoại lệ. Phong trào phản chiến và hippie của thập niên 1960 và 1970 đã khiến cho giới trẻ tại Mỹ hoài nghi về tất cả mọi giá trị xã hội và sống một cuộc sống buông thả tới mức báo động (Beachum &McCray, 2005). Tình trạng báo động này khiến một số nhà giáo dục, tổ chức xã hội thiện nguyện, đã phải họp lại tại Aspen, Colorado năm 1992 để tìm cách đối phó.[1] Kết quả là một phong trào Đức Dục, do những cá nhân và hội đoàn thiện nguyện cổ xúy, đã được phát triển tại Mỹ cho đến ngày nay. Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại không có môn đức dục chính thức trong chương trình giáo dục phổ thông tại Mỹ? Những lý do nào đã khiến môn đức dục bị “đẩy” ra ngoài chương trình giáo dục phổ thông của Mỹ? Hiện tượng thiếu vắng môn đức dục tại Mỹ là kết quả của sự tác động và ảnh hưởng của nhiều triết lý giáo dục và chính sách của nhà nước đối với nền giáo dục phổ thông. Những động thái này cùng với nỗ lực của những tổ chức xã hội dân sự, phi chính phủ (civil society organization-CSO) trong lãnh vực phát huy và rèn luyện đức dục cho học sinh tại Mỹ, sẽ được phân tích và giải thích trong bài viết này.

Đức hạnh và đức dục là gì?

Có phải nước Mỹ không có môn đức dục trong giáo dục phổ thông hay không? Câu trả lời là không phải. Đức dục là một phần cơ bản không thể thiếu được trong chương trình giáo dục của Mỹ từ những ngày đầu lập quốc (Howard, Berkowitz & Schaffer, 2004). Nhưng thời gian qua, xã hội Mỹ gặp nhiều thay đổi và du nhập nhiều luồng tư tưởng và triết lý từ Âu châu, nên môn đức dục cũng bị ảnh hưởng nặng nề và bị bỏ rơi lại đằng sau, đến nỗi nhà giáo dục Hunter (2000) đã than thở là: “Đức dục đã chết rồi. Những cố gắng làm cho nó hồi sinh chỉ phí công thôi.” (XIII)

Trước hết cần phải định nghĩa thế nào là đức hạnh [2] và đức dục. Howard, Berkowitz, và Schaeffer (2004) trích định nghĩa của Thomas Lickona như sau:

“Đức hạnh bao gồm…những giá trị trong hành động. Đức hạnh có ba phần tương quan với nhau: Hiểu biết về đạo đức, cảm nhận về đạo đức, và hành động đạo đức. Đức hạnh tốt gồm có biết điều tốt, muốn làm điều tốt, và thực hành điều tốt; tức là gồm có tập quán của tâm trí, tập quán của tình cảm, và tập quán của hành động. Ta muốn cho con em chúng ta phán đoán được cái gì là đúng là phải, thiết tha đến điều phải, và làm những điều mà chúng tin là đúng–ngay cả khi phải đối diện với những áp lực từ bên ngoài hay cám dỗ từ bên trong.” (51)

Nói cách khác:

“Đức hạnh gồm có sự nhận thức và hành động theo những phán đoán đạo đức trong một hoàn cảnh xã hội, và đó cũng chính là mục đích của đức dục.” (Howard et al., 190)

Hệ thống trường học ở Mỹ từ thời Thuộc địa cho đến trước Nội chiến Nam Bắc

Kể từ khi người di dân Âu châu đến định cư tại Mỹ cho đến thời kỳ trước khi xảy ra Nội Chiến, nước Mỹ không có một hệ thống giáo dục chính thức cho từng thuộc địa (lúc đó những tiểu bang còn gọi là thuộc địa). Những người di dân đầu tiên đến Mỹ định cư tại bốn vùng chính: New England, New York, Pennsylvania, và Virginia. Mỗi vùng lại có thổ ngơi và khí hậu khác biệt, cho nên, điều kiện sinh sống cũng theo đó mà trở nên khác nhau. Tuy nhiên, về phương diện giáo dục và trường học, thì cả bốn vùng đều có một mẫu số chung là không có trường công lập. Tại mỗi làng, cha mẹ dạy cho con cái biết đọc tại nhà để học giáo lý và đọc kinh, hay tại vài nơi có trường học thì đó là trường tư tại gia do những cô giáo làng dạy, cũng chỉ dạy vỡ lòng cho biết đọc, biết viết mà thôi (Swett, 1900). Những người di dân đến Virginia thời đó cho rằng con cái họ nếu biết một cái nghề nào đó, giữ được đức tin theo Anh giáo và biết đọc biết viết là quá đủ rồi (Vejnar,2002).

“Chương trình” dạy học cho trẻ em thời đó có ba hướng rõ rệt: Thứ nhất là đi tập việc để học lấy một nghề; thứ hai là đi nhà thờ để được dạy về giáo lý và luân lý; và thứ ba là đi học ở trường để biết viết biết đọc hay là học ở nhà, nếu cha mẹ có thể dạy cho con mình học chữ. Còn nếu gia đình khá giả hơn, thì con cái có thể được gửi đi học thêm chương trình giáo dục theo truyền thống Anh quốc, gồm có, học đọc và viết tiếng Anh, tiếng Hy Lạp, Latin.

Sau này khi dân số gia tăng tại cả bốn vùng, vào khoảng giữa thế kỷ 17, thì những trường “văn phạm” được thành lập. Trường “văn phạm” là mô hình trường học du nhập từ Anh quốc, chủ yếu dạy ngôn ngữ bằng văn phạm. Ở bên Anh, trường văn phạm (thế kỷ 16-18) được thành lập nhằm dạy văn phạm Latin, nhưng dần dà bao gồm thêm các môn khác như đọc, viết, và số học. Tại Mỹ, trường văn phạm chỉ chú trọng vào đọc viết Anh ngữ và số học để làm tính và tương đương với cấp tiểu học bây giờ. Những trường này hoạt động bằng ngân sách của chính quyền địa phương và có thu thêm học phí của học sinh. Nhưng những trường này cũng chỉ dành cho nam sinh mà thôi; con gái thời thuộc địa chưa được đi học. Để được nhận vào học, học sinh phải nhận được mặt chữ và biết đọc bằng đánh vần trước đã (Swett, 1900). Mãi đến năm 1635, trường công lập đầu tiên hoạt động bằng tiền thuế do dân đóng góp trực tiếp mới được thành lập tại thành phố Dorchester ở New England (Swett).

Các trường học thời thuộc địa hoạt động riêng rẽ như vậy, một phần được chính quyền địa phương tài trợ, nhưng phần lớn là do học phí của phụ huynh đóng góp; tình trạng này kéo dài cho đến khi nước Mỹ tuyên bố độc lập (ngày 4 tháng 7, 1776). Sau đó bảy trong số 13 tiểu bang mới có chính sách rõ rệt cho giáo dục. Khi các thuộc địa hợp nhất lại thành quốc gia, Thomas Jefferson (sau này trở thành tổng thống đời thứ ba) đề nghị phải xây dựng một nền giáo dục cho toàn quốc; một nền giáo dục do chính quyền kiểm soát, không bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, và mọi học sinh đều được theo học. Nhưng ý tưởng này không được thực hiện mãi tới mấy thập niên sau đó. Trong khoảng thời gian này, trường học tại Mỹ vẫn theo ba dạng, hoặc là tư nhân, hoặc là từ thiện, hoặc là do tôn giáo tổ chức (Thattai, 2001).

Vai trò của tôn giáo và chương trình giáo dục thời thuộc địa

Bản chất của người di dân đầu tiên đến Mỹ, đa số là vì lý do tôn giáo, đã xác định vai trò của tôn giáo trong sinh hoạt hàng ngày và tại trường học. Nếu cha mẹ biết chữ, thì họ dạy cho con cái ở nhà để chúng biết đọc Kinh thánh và học giáo lý. Tại mỗi làng, nhà thờ là trung tâm sinh hoạt của mọi người, và những mục tiêu chính của nhà thờ trong giáo dục là dạy cho trẻ con biết đọc để chúng có thể đọc Kinh và dạy chúng trở thành người tốt (Jeynes, 2003). Trường học thời thuộc địa ngoài việc dạy chữ còn một nhiệm vụ quan trọng hơn là rèn luyện đạo đức, như John Clark, một nhà giáo dục hàng đầu thời đó đã trình bày quan điểm của mình về giáo dục và vai trò của người thầy: “…trước hết phải là người đạo đức. Vì… mục đích chính của giáo dục là tạo nên những con người đức hạnh.” (Clark, 1793, 93, theo Jeynes, 2003)

Một tài liệu tại văn khố tại Dorchester năm 1645 cho ta biết nhiệm vụ và chức năng của ủy ban giáo dục đầu tiên của nước Mỹ. Căn cứ theo điều 2, một niên học kéo dài cả năm (chứ không có nghỉ hè như vây giờ), và nhiệm vụ của thầy giáo gồm có những điều sau:

5. Thầy giáo sẽ nhận và dạy tất cả học sinh được gửi tới trường một cách bình đẳng và không thiên vị, bất kể phụ huynh giàu hay nghèo, hay có quyền lợi gì trong trường hay không.

6. Thầy giáo sẽ dạy dỗ tất cả học sinh được gửi tới trường một cách chu đáo để cho học sinh được học về cách trí và văn chương, cũng như cách cư xử và bổn phận đối với tất cả mọi người, nhất là đối với những bậc trưởng thượng tại bất cứ nơi đâu, ở ngoài đường cũng như trong nhà.

7. Cứ mỗi 6 ngày, vào lúc 2 giờ chiều, thầy giáo sẽ dạy giáo lý Thiên Chúa giáo cho học sinh bằng sách Giáo lý, hay nếu không có thì bằng những phương tiện khác. (Swett, 1990, 12)

Những điều nêu trên cho thấy là không thể tách rời tôn giáo ra khỏi môn đức dục trong chương trình giáo dục thời thuộc địa, dù chương trình này chỉ mới tới bậc tiểu học. Chương trình giáo dục thời thuộc địa không có thay đổi nào đáng kể cho tới thập niên 1830 và 1840, khi phong trào “xóa dốt” được phát động với phong trào xây dựng trường học công cho cả nước (Gutek, 2004).

Sự hình thành trường công lập và hậu quả đối với môn đức dục

Horace Mann thuộc tiểu bang Massachussetts và Henry Bernard thuộc tiểu bang Connecticut được hậu thế đánh giá là hai nhà giáo dục tiên phong, là hai lãnh tụ về giáo dục của nước Mỹ mà ảnh hưởng còn để lại ngày hôm nay. Cả Mann và Bernard cùng chủ trương “chống dốt, chống những quyền lợi chính trị địa phương lặt vặt, chống những tập đoàn lợi ích đặc biệt, và phe nhóm trong tôn giáo” (Gutek, 2004, 149). Mann tin rằng khi sự giáo dục giúp cho những người bình dân có khả năng biết đọc, biết viết, biết tính toán và có kiến thức khoa học, thì giáo dục đã cho họ chiếc chìa khóa để tự giải phóng khỏi sự nghèo khó và tạo ra một sân chơi bằng phẳng hơn với giai cấp thượng lưu (Badolato, 2002). Tuy nhiên, giáo dục còn có một mục tiêu cao thượng hơn là chỉ dùng kiến thức để thủ đắc vật chất. Mann chân thành tin tưởng: “Trách nhiệm đầu tiên của trường công lập là nâng cao và thăng hoa đạo đức. Xóa dốt và rèn luyện cho học sinh biết dùng trí phán đoán là phần quan trọng của giáo dục, nhưng vẫn còn là thứ yếu so với việc dạy dỗ những giá trị đúng đắn.” (Eakin, 2000, 3)

Mặc dù Mann chủ trương phải dạy đạo đức cho học sinh trong trường công lập, nhưng ông không chủ trương kết hợp kiến thức đức dục với bất kỳ một giáo lý tôn giáo nào hết; thay vào đó, cũng giống như những nhà lãnh đạo cùng thời với ông, là chủ trương dạy kiến thức công dân (công dân giáo dục), nhằm củng cố nền dân chủ. Những kiến thức công dân gồm một tập hợp những giá trị đạo đức có tính chất thiết yếu cho việc xây dựng “tư cách” và “đức hạnh” công dân; những đức hạnh này dù không thuộc về bất kỳ một tôn giáo hay hệ phái tôn giáo nào, nhưng đều tương hợp với tất cả” (Eakin, 2000).

Quan điểm của Mann về đức dục phản ánh trào lưu tư tưởng thời bấy giờ là chủ trương phân cách tôn giáo và học đường. [3] Nếu trường học là trường tư hay thuộc về một tôn giáo nào đó, thì chương trình huấn luyện đức dục của trường đó là việc riêng tư của họ; họ muốn dạy gì thì dạy. Tuy nhiên, nếu đó là trường công, dùng công quỹ để điều hành, thì vấn đề đức dục trở nên phức tạp, vì hệ thống giá trị nào thuộc hệ phái tôn giáo nào sẽ được chọn để giảng dạy trong học đường?[4] Một trong những lý do dẫn đến sự tranh cãi về vấn đề này là những làn sóng di dân mới với nhiều gốc tôn giáo khác nhau ồ ạt đổ vào Mỹ. Sự chuyển tiếp từ hệ thống học đường chịu ảnh hưởng tôn giáo của thời thuộc địa sang hệ thống học đường thế tục và công lập xảy ra trong giai đoạn từ 1776 đến 1825 (Mulkey, 1997).

Dù vậy, trong giai đoạn này, trường công lập tại Mỹ vẫn tiếp tục dùng Kinh thánh để giảng dạy đạo đức và môn đức dục. Cho tới năm 1870, thì tôn giáo mới hoàn toàn bị tách rời khỏi học đường vì một phán quyết của tòa án. Những trường học của Công giáo không được nhận tài trợ từ chính quyền vì có lập luận cho rằng đó là những trường học thuộc về một tôn giáo.[5] Những người ủng hộ tài trợ của chính quyền cho trường học của Công giáo phản bác bằng lập luận là những trường công lập cũng là trường thuộc tôn giáo Tin Lành vì sử dụng Kinh thánh (của Tin Lành) trong giảng dạy đức dục. Nội vụ được đưa ra giải quyết tại tòa án và phán quyết của tòa Tối Cao tiểu bang Ohio, năm 1873, ủng hộ lập trường của Bộ Giáo dục là cấm không cho sử dụng Kinh thánh trong trường công lập nữa (Joselit, 2007).

Tuy nhiên, trước khi có quyết định của Tòa Tối Cao Ohio (mặc dù đây chỉ là quyết định của tòa án tại một tiểu bang, ảnh hưởng của quyết định này đã lan sang các tiểu bang khác), kể từ năm 1836, William McGuffey, một mục sư và là một học giả, đã soạn thảo và ấn hành những Sách Tập đọc McGuffey, gồm những chuyện, tích về những danh nhân và cách cư xử của họ, để thay cho Kinh thánh trong việc dạy đức dục (Lickona, 1973). Sách này cũng tương tự như Luân Lý Giáo khoa thư tại Việt Nam năm 1935 nói đến gương của Mẫn Tử Khiên, Tích Quang, vân vân. Chương trình giáo dục công lập của Mỹ trong thời gian đầu gồm có tập đánh vần, đọc, viết, số học, địa lý, văn phạm, công dân, và cách trí.

Sách Tập đọc McGuffey đã được sử dụng làm sách giáo khoa để dạy đọc, viết, văn phạm, và công dân cho chương trình tiểu học trong suốt 70 năm (Vail, 1911). Bộ sách tập đọc McGuffey gồm có tám cuốn: cuốn thứ nhất và nhì là vỡ lòng và vỡ lòng có hình ảnh minh họa, cuốn thứ ba là đánh vần, bốn cuốn từ tập đọc lớp một đến lớp bốn, và cuốn cuối cùng là sách hướng dẫn cho phụ huynh và thầy cô sử dụng Sách Tập đọc. McGuffey tuyển chọn rất công phu những bài đọc, bài thơ, bài học từ những tác giả cổ điển và từ những tác giả Mỹ; nhưng yếu tố quan trọng nhất khiến cho Sách Tập đọc McGuffey thành công là sự chọn lựa những nhân vật, tác giả, danh nhân không liên quan đến tôn giáo để dạy những bài học về luân lý và công dân. Điều này đã thỏa mãn được cả hai phe chủ trương tôn giáo và phi-tôn giáo trong học đường. Đặc điểm của Sách Tập đọc McGuffey được mô tả như sau: “Sách Tập đọc gồm những bài đọc đúng đắn, phù hợp, và không thể thiếu được trong việc dạy dỗ lòng yêu nước, ngay thẳng, thật thà, siêng năng, tiết độ, can đảm, lễ độ và những đức tính khác trong việc rèn luyện trí tuệ và đức hạnh.” (Vail, 1911, 3)

Việc dạy đức dục qua Kinh Thánh, như được trình bày ở trên, đã phải rút lui vì sự phân cách giữa tôn giáo và học đường. Nhưng chương trình đức dục bị tấn công nặng nề nhất từ những tư tưởng và triết lý giáo dục du nhập từ Âu châu vào và ảnh hưởng đến nền giáo dục của Mỹ trong giai đoạn kế tiếp.

Tác động của những triết lý giáo dục trong chương trình giáo dục và đức dục tại Mỹ

Tất cả mọi hệ thống giáo dục đều được đặt trên căn bản của một nền triết lý nào đó, vì từ bản chất giáo dục là một hành trình đi tìm và hướng về những gì được xem là đúng, là tốt, là đẹp (một cái đẹp mà mọi người cùng công nhận), tức là hành trình hướng về chân, thiện, mỹ (Gutek, 2004). Hành trình này tương ứng với những ngành sau đây của triết học: Siêu hình học, nhận thức luận, giá trị luận và luận lý học. Siêu hình học nhằm tìm xem cái gì là thật, là thực sự hiện hữu. Nhận thức luận nhằm trả lời câu hỏi làm thế nào mà ta biết là ta biết, và ta tiếp thu ‘cái biết’ như thế nào? Giá trị luận nhằm trả lời câu hỏi thế nào là đẹp, thế nào là thiện ác, xấu tốt? Sau cùng là luận lý học, môn học giúp cho con người tư duy đúng đắn (Gutek, 2004). Nước Mỹ, từ bản chất, là một nước di dân, đa chủng, vì vậy nước Mỹ bao gồm đủ mọi loại văn hóa, tư tưởng của những người di dân. Hệ quả là nền triết lý giáo dục của Mỹ cũng chịu ảnh hưởng của những nền triết lý giáo dục khác nhau.

Phái triết học cổ xưa nhất và còn tồn tại đến bây giờ là triết phái lý tưởng (idealism). Ở phương Tây, Plato được xem là triết gia phát triển nền triết học này. Về phương diện siêu hình học, những người theo phái Lý tưởng quan niệm rằng: “Cái thực tại tối hậu, thật sự hiện hữu là khái niệm và ý tưởng tinh túy nằm trong lãnh vực tinh thần, phi-vật chất.” (Gutek, 2004, 21). Từ đó suy ra, mục đích quan trọng nhất của giáo dục phải là sự rèn luyện và phát triển trí tuệ và tinh thần của học sinh. Những người theo phái Lý tưởng còn tin rằng tư tưởng và khái niệm đã có sẵn trong tâm trí của con người rồi, nhưng sự chấn động tạo ra bởi quá trình sinh sản đã giam hãm những tư tưởng tinh túy này vào trong phần thể xác và chôn vùi dưới tiềm thức của con người. Người thầy, do đó, nên dùng phương pháp vấn-đáp của Socrates để giúp cho học sinh đem những tư tưởng và chân lý này trở về phần ý thức của mình (Gutek, 2004). Còn về phần giá trị, cả về cái tốt lẫn cái đẹp, những người theo phái Lý tưởng tin rằng đó là những điều phổ quát, và vĩnh hằng.

Mặc dù siêu hình học và giá trị luận của triết phái Lý tưởng sau này bị các triết phái khác tấn công, phái Lý tưởng vẫn còn nhiều ảnh hưởng trên nền giáo dục của Mỹ trên phương diện hệ thống cấp bậc của giáo trình và rèn luyện tổng quát cho học sinh. Phái Lý tưởng cho rằng giá trị có một hệ thống theo thứ bậc từ thấp đến cao, và những “giá trị nào có quan hệ trực tiếp đến việc phát triển và xác định bản chất tinh thần và trí tuệ của con người thì được xếp hạng cao hơn những giá trị khác” (Gutek, 2004, 26). Về phương diện đức dục, người thầy chính là một gương sáng cho học sinh noi theo để trở thành người tốt và hướng tới chân lý (Gutek, 2004). Hơn thế nữa, phái Lý tưởng đóng một vai trò quan trọng trong đức dục trong thời thuộc địa vì nguồn gốc của chân lý phát xuất từ Thượng Đế cũng còn được người Mỹ thuộc địa quan niệm là Thượng Đế của Ki-tô giáo.

Sau ảnh hưởng của triết học Lý tưởng là triết phái hiện thực (realism). Triết phái hiện thực cũng là một trong những nền triết học quan trọng của phương Tây mà ta có thể truy nguyên về triết gia Aristotle của thời cổ Hy Lạp. Aristotle là học trò của Plato, nhưng quan niệm về triết học của Aristotle khác quan niệm của thầy rất xa. Tín điều trọng tâm của triết phái hiện thực là quan niệm cho rằng con người là một sinh vật có lý trí, và tín điều này được đặt trên những tiền đề sau:

(a) Ta sống trong một thế giới gồm có những vật thể, những người khác, và những hiện tượng nằm bên ngoài xác thân của nó;

(b) Ta có thể thu thập được những thông tin về thế giới bên ngoài này, thực ra ta còn có thể biết và hiểu được những điều này vận hành và quan hệ với nhau như thế nào;

(c) Những kiến thức đã được tổng quát hóa này, còn gọi là lý thuyết, về những vật thể, đối tượng bên ngoài, là bản đồ hướng dẫn tốt nhất cho những hành vi và cách cư xử của con người. (Gutek, 2004, 35)

Về phương diện siêu hình học, phái hiện thực cho rằng thế giới bên ngoài của chúng ta không phải chỉ có phần tinh thần như phái Lý tưởng quan niệm, mà thế giới này là một thế giới có “thực,” gồm có cả vật chất và hình thể. Con người, nhờ vào lý tính và giác quan có thể “biết” được thế giới bên ngoài. “Cái biết của con người là kết quả của hai chức năng: Giác quan cho ta biết về chất và sự trừu tượng, và khái niệm cho ta biết về hình thể.” (Gutek, 38).[6]

Về phương diện giá trị luận, phái hiện thực và lý tưởng có điểm giống nhau nhưng cũng có điểm khác nhau then chốt. Thứ nhất, phái hiện thực quan niệm rằng, mặc dù con người không có ai giống ai, nhưng cùng có chung khả năng suy luận và sự tự do để chọn lựa những hành động theo suy nghĩ của họ. “Ở mức độ tổng quát cao cấp nhất, có một hệ thống đạo đức chung dựa trên nhân tính của con người. Mức độ tổng quát này có tính phổ cập cho mọi người chứ không tùy theo hoàn cảnh hay tình huống mà thay đổi.” (Gutek, 2004, 40). Tuy nhiên, phái hiện thực cũng chú trọng đến tính cách và vai trò của cá nhân, và mỗi cá nhân phải hành xử sự tự do chọn lựa và năng lực của lý trí của chính mình trong những vấn đề liên quan đến đạo đức, nhưng đồng thời cũng phải tôn trọng cách hành xử của những người khác. (Gutek, 2004)

Harry S. Broudy, một trong những triết gia hàng đầu của phái hiện thực, lập luận rằng đức dục gồm có ba phần mà mỗi cá nhân phải thực hiện; đó là sự tự-quyết, tự-thể hiện, và tự-tích hợp. Sự tự-quyết có nghĩa là mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm và tự quyết định về việc hoạch định cho tương lai của mình, và qua đó có ảnh hưởng đến tương lai của những người khác; sự tự-thể hiện nghĩa là trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc thể hiện tiềm năng của chính mình; và sau cùng là sự tự-tích hợp, nghĩa là khả năng nhận định và tổng hợp những giá trị khác nhau, thậm chí xung đột với nhau, để quyết định xem giá trị nào sẽ là những giá trị chính hướng dẫn cho sự tự-thể hiện của mình. Thêm vào đó, phái hiện thực cũng nhấn mạnh đến vai trò của phụ huynh và thầy cô trong việc đào luyện đức dục cho học sinh. (Gutek, 2004)

Theo sau hai triết phái cổ điển, có lẽ chủ nghĩa Thực dụng là một trong tất cả những nền triết lý có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến xã hội về phương diện giáo dục và xây dựng dân chủ của Mỹ. Triết phái Thực dụng do các triết gia người Mỹ như Charles S. Peirce, William James, and John Dewey[7] hình thành vào đầu thế kỷ 20. Trọng điểm của triết phái thực dụng là ứng dụng vào thực tế những ý tưởng/kiến thức và đánh giá những kiến thức này qua kiểm tra thực nghiệm. Dewey, triết gia có nhiều ảnh hưởng nhất của triết phái thực dụng chủ trương “tri hành hợp nhất,” nghĩa là: “Cái biết của con người có tương quan mật thiết và liên hệ đến sự thực hành cái biết này.” (Gutek, 71).

Triết phái thực dụng dựa trên ba tiền đề:

(a) giá trị của ý tưởng phải được xác nhận qua thực nghiệm trong sinh hoạt thực sự của con người;

(b) kinh nghiệm là kết quả của sự tương tác của con người với nhau và với môi trường chung quanh; và..

(c) những vấn nạn mới nảy sinh từ những sự tương tác này có thể được giải quyết bằng phương pháp khoa học, còn gọi là “phương thức tư duy toàn diện.”[8] Ảnh hưởng lớn lao của triết phái thực dụng trong việc phát triển và sự tiến bộ của nền khoa học và kỹ thuật của Mỹ là điều mà ai cũng phải công nhận.

Tuy nhiên, hệ luận của những tiền đề thực dụng khi áp dụng vào môn đức dục lại tạo ra một ảnh hưởng khác; đó là quan niệm luân lý tương đối.[9] Những người thực dụng lý luận rằng những điều vẫn được coi là chân, thiện, và mỹ không phải là những gì bất biến và phổ quát cho mọi người, mà được xác định bởi chính kinh nghiệm tương tác của mỗi cá nhân với môi trường chung quanh. Quan niệm luân lý tương đối của phái thực dụng bị những người chủ trương là có những tiêu chuẩn phổ quát chung cho những hành vi đạo đức chỉ trích nặng nề. Thế nhưng, quan niệm luân lý tương đối đã “đẩy” môn đức dục thêm một bước ra khỏi chương trình đức dục trong học đường của Mỹ.

John Dewey, vì được xem là “lãnh tụ” của phái thực dụng, nên cũng bị chỉ trích nặng nề về quan niệm luân lý tương đối là làm hư hỏng nền đức dục của Mỹ. Tuy nhiên, Dewey trong những tác phẩm về đạo đức cho thấy ông chú trọng đặc biệt đến việc rèn luyện đức dục, giá trị, và tư cách cho học sinh. Dewey khẳng định: “Đức tính của trẻ em phải được phát triển và rèn luyện trong một môi trường xã hội, tự nhiên, và công bằng. Học đường nên tạo ra môi trường như vậy cho việc rèn luyện đức dục.” (Mulkey, 36)

Chủ nghĩa Hiện Sinh trở thành một triết thuyết hấp dẫn dân Mỹ sau Đệ nhị Thế chiến. Điều này có lẽ là một phản ứng tất yếu trước sự trỗi dậy của vai trò thống trị thuần lợi nhuận của doanh nghiệp trong xã hội, và sau những đố nát, hủy diệt nhân phẩm do chiến tranh thế giới tạo nên. Triết gia hàng đầu của phái Hiện sinh là Jean-Paul Sartre, cũng là một tiểu thuyết gia nổi tiếng của Pháp. Sartre tóm tắt những tín điều của triết phái hiện sinh như sau: “Con người hoàn toàn không có một mục tiêu cố định hay đã có sự tự khẳng định nào về vai trò của mình trong thế giới khi bước chân vào cuộc đời. Những lựa chọn có tính chất then chốt trong cách sống như thế nào là những hành vi tạo nên bản chất và tự khẳng định mà cá nhân tạo nên cho mình trong xã hội.” (Gutek, 2004, 88). Từ đó suy ra, sự hiện hữu của một cá nhân cũng giống như sự hiện hữu của những cá nhân khác, không tạo ra điều gì khác cho bất kỳ ai, ngoại trừ cho chính cá nhân đó.

Về phương diện giáo dục, phái hiện sinh quan niệm là có hai loại kiến thức. Loại thứ nhất là những kiến thức về thế giới vật chất tự nhiên, những kiến thức căn bản của đời sống; loại kiến thức này con người chỉ có thể chấp nhận và sử dụng trong cuộc sống của mình, chứ không làm khác hơn được. Loại thứ hai, đối với những người theo phái hiện sinh, thì lại quan trọng hơn nhiều và có tính cách chủ quan; nghĩa là “kiến thức về chính con người chúng ta trong tư cách một nhân vị sống trong một thế giới do chính ta quyết định chọn lựa” (Gutek, 91). Như thế, bổn phận đạo đức chính yếu của một cá nhân là quyết định và chịu trách nhiệm về việc kiến tạo những giá trị cho chính mình. Hệ luận của quan niệm này đã tạo một ảnh hưởng tai hại về phương diện đức dục, vì khi không có một hệ tiêu chuẩn khách quan nào làm chuẩn mực, thì mọi hành vi dựa trên sự chủ quan của cá nhân đều được coi là hành vi đạo đức. Phái hiện sinh, do đó, đã “đẩy” môn đức dục thêm một bước ra khỏi học đường.

Sau những ảnh hưởng của phái hiện sinh, có lẽ ảnh hưởng của phái Phân Tích Ngôn ngữ và Luận Lý Thực chứng là tai hại hơn cả cho ngành đức dục tại Mỹ. Phái phân tích đặt chân vào nước Mỹ trong thập niên 1960 và 1970, sau khi những triết gia hàng đầu về giáo dục ở Mỹ, Canada, và Australia chấp nhận triết phái này. Một trong những nguyên nhân phái phân tích được dung nạp và phát triển là phản ứng của những nhà giáo dục trước tình trạng sử dụng những thuật ngữ và ngôn ngữ mơ hồ vay mượn từ các ngành nhân chủng, xã hội, và tâm lý học và đem vào áp dụng trong ngành giáo dục. Phái phân tích quan niệm trong ngôn ngữ có ba loại mệnh đề, gồm có mệnh đề phân tích, tổng hợp và tình cảm. Hai loại mệnh đề phân tích và tổng hợp là những loại cần thiết cho việc diễn đạt tư tưởng có mạch lạc và nghĩa lý. Loại mệnh đề tình cảm là để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, hay ý kiến về giá trị phải quấy, đẹp xấu, v.v. Do đó, những triết gia phái phân tích chủ trương phải tách biệt rõ ràng những loại ngôn ngữ dùng cho sự kiện và những loại ngôn ngữ dùng cho giá trị.

Về phương diện biện luận, phái phân tích đã có những đóng góp quan trọng đáng kể, khi vạch ra những từ ngữ mơ hồ dùng lẫn lộn trong học thuật; nhưng về phương diện đức dục, thì hậu quả lại tai hại vì theo phái này những khái niệm đạo đức đúng sai, phải quấy là những điều không thể chứng minh được mà tùy theo sự diễn dịch của cá nhân (Josephson, 2002). Nói như thế không có nghĩa những triết gia theo phái phân tích không đánh giá cao sự quan trọng của khái niệm về giá trị và hệ thống giá trị, nhưng điểm theo chốt, theo quan niệm của họ: nhiệm vụ của triết gia không phải là để cố vấn cho thiên hạ nên sống như thế nào về phương diện đạo đức và luân lý (phần in nghiêng để nhấn mạnh của người viết) (Gutek, 2004).

Triết phái sau cùng có ảnh hưởng sâu rộng đến môn đức dục tại Mỹ là phái Hậu-hiện đại. Phái Hậu-hiện đại có nguồn gốc từ hai triết gia người Đức là Nietzsche và Heidegger[10] từ cuối thế kỷ 19 sang giữa thế kỷ 20. Triết gia Hậu-hiện đại đương thời là hai triết gia tiêu biểu người Pháp: Jacques Derrida và Michel Foucault[11] Gutek, 2004). Phái Hậu-hiện đại cho rằng “thời kỳ hiện đại đã chấm dứt vào hậu bán thế kỷ 20 và chúng ta đang ở vào thời kỳ hậu-kỹ nghệ” (Gutek, 122). Triết gia Hậu-hiện đại phủ nhận nền triết học truyền thống dựa trên siêu hình học trên cơ sở sau: “những nhà trí thức trong một thời kỳ nào đó đều tìm cách biện minh và giải thích cho sự vận dụng kiến thức mang lại sức mạnh cho một thành phần trong xã hội, nhưng lại từ khước những thành phần khác” (Gutek, 130). Phái Hậu-hiện đại cũng phủ nhận luôn cả phương pháp khoa học của phái Thực dụng là chẳng đáng gọi là “khách quan” mà đã có sẵn mầm thiên vị cho những nhà trí thức được đào tạo trong môi trường sử dụng phương pháp đó.

Về phương diện đức dục và giá trị luận, phái Hậu-hiện đại chủ trương là có nhiều cách tiếp cận khác nhau, có tính chất tương đối theo điều kiện và hoàn cảnh chủ quan của từng cá nhân. “Những giá trị đạo đức-ý thức giữa cái đúng và sai-phản ánh điều kiện sống và cách thức con người đối phó với những hoàn cảnh này” (Gutek, 132). Nói một cách khác, phái Hậu-hiện đại không những chủ trương đạo đức tương đối mà còn đạo đức đa nguyên nữa. Và đó cũng là một lý do cộng thêm vào sự nhượng bộ cuối cùng của môn đức dục trong chương trình giáo dục phổ thông tại Mỹ.

Vai trò của tổ chức xã hội dân sự trong phong trào đức dục tại Mỹ

Như đã trình bày, sự phân cách giữa chính trị, tôn giáo, và học đường là nguyên do chính khiến cho môn đức dục bị “gạt” ra khỏi chương trình giáo dục phổ thông. Sau đó là ảnh hưởng của những triết lý giáo dục khác nhau trong việc hình thành một nền triết lý giáo dục quốc gia. Hậu quả của những động thái này là tình trạng đáng báo động về suy đồi đạo đức trong học đường và ngoài xã hội tại Mỹ. Nếu đức dục không phải là trách nhiệm của học đường, thì thuộc trách nhiệm của ai? Người Mỹ quan niệm rằng vấn đề đức dục, đạo đức thuộc về phạm vi cá nhân, gia đình và tôn giáo. Nhưng cấu trúc gia đình của Mỹ cũng đang trên đà lung lay với con số gia đình chỉ có một phụ huynh ngày càng gia tăng và phải quay cuồng với đời sống nên chẳng còn thì giờ để chăm sóc đến con cái.[12] Tình trạng báo động này khiến một số nhà giáo dục, tổ chức xã hội thiện nguyện, đã phải họp lại tại Aspen, Colorado năm 1992 để tìm cách đối phó. Kết quả là một phong trào Đức Dục, do những cá nhân và hội đoàn thiện nguyện cổ xúy, đã được phát triển tại Mỹ cho đến ngày nay.

Phong trào Character Counts và sau này là tổ chức Character Counts trở thành một trong những tổ chức xã hội dân sự lập ra chương trình xiển dương và rèn luyện đức dục song song với chương trình giáo dục trong học đường và gia đình. Character Counts dùng “Sáu Đức Hạnh Trụ Cột” làm nền tảng cho chương trình giáo dục và huấn luyện đức hạnh cho trẻ em tại Mỹ. Sáu Đức Hạnh Trụ Cột gồm có: Tín (Trustworthiness), Trách Nhiệm (Responsibility), Tôn Trọng (Respect), Công Bình (Fairness), Nhân Ái (Caring), và Nghĩa vụ Công dân (Citizenship) (trong bài viết sau, tác giả sẽ đi sâu vào chi tiết và phân tích “Sáu Đức Hạnh Trụ Cột” trong đức dục).

Kết luận

Môn đức dục trong hệ thống giáo dục công lập của Mỹ đã chịu nhiều thử thách từ khi nước này được thành lập. Trong ba thập niên vừa qua, đức dục đã phải thoái bộ và hoàn toàn bị đẩy ra khỏi chương trình giáo dục chính thức, vì những lý do chính trị phân cách tôn giáo và giáo dục và sự tranh cãi giữa khái niệm “cái tốt” vĩnh hằng và phổ cập của triết học cổ điển với khái niệm đạo đức tương đối, đạo đức đa nguyên của phái hiện sinh, hậu-hiện đại, v.v. Nếu ta không biết “cái tốt” là gì, thì ta không thể giảng dạy và phát huy “cái tốt,” chứ đừng nói đến việc “làm tốt.” Tuy nhiên, có điều thú vị đáng ghi nhận là Sách Tập đọc McGuffey đã được sử dụng để dạy môn đức dục hơn 70 năm; chỉ vì cuốn sách này là một cuốn sách “thế tục” dùng những câu chuyện và danh nhân trong đời thường để làm gương về đức hạnh. Thực ra, tôn giáo nào cũng dạy con người làm điều tốt và sống ngay lành; cho nên Sách McGuffey đã tồn tại trong một thời gian dài gần 100 năm. Hơn nữa, bất kể nền văn minh nào cũng tôn trọng tín, nghĩa, nhân, công bình. Chẳng ai muốn làm việc, giao dịch với người bất tín, bất kể người đó theo tôn giáo nào hay thuộc sắc dân nào. Phong trào giảng dạy đức dục đang được phục hồi tại Mỹ vì xã hội Hoa Kỳ đang phải đối phó với rất nhiều thách thức như sự suy đồi của nền tảng gia đình, tình trạng thói hư tật xấu lan tràn trong giới trẻ. Công cuộc đào luyện đức hạnh cho giới trẻ không phải là công cuộc của riêng học đường hay tôn giáo mà phải là công cuộc chung của cả xã hội, trong đó những tổ chức xã hội dân sự có một vai trò hết sức quan trọng.

 

Nông Duy Trường

© Học Viện Công Dân 2012

Edit: THĐP

******

Tài liệu tham khảo:

Badolato, Robert. (2002). The educational theory of horace mann. New Foundation Publishing [Electronic version]. Retrieved May 1, 2007, from http://www.newfoundations.com/GALLERY/Mann.html

Beachum, F., & McCray, C. (2005). Changes and Transformations in the Philosophy of Character Education in the 20th Century. Retrieved from http://www.usca.edu/essays/vol142005/beachum.pdf

Eakin, Sybil. (2000). Giants of american education: Horace mann. Technos Quarterly, (Vol. 9, No. 2, pp. 1-3).

Gutek, Gerald L. (2004). Philosophical and ideological voices in education. Boston: Pearson.

Howard, Robert W., Berkowitz, Marvin W. & Schaeffer, Esther F. (2004).

Politics of character education. Educational Policy, (Vol. 18, No. 1, pp. 188-215).

Hunter, James D. (2000). The death of character: Moral education in an age without good or evil. New York: Basic Books.

Jeynes, William. (2003). Religion, education, and academic success. California: Information Age Publishing.

Joselit, J. W. (2007). Bible wars. The Jewish Daily Forward. Retrieved from http://forward.com/articles/9982/bible-wars/

Josephson, Michael. (2002). Character education is back in our public schools. The State Education Standard [National Association of State Boards of Education Electronic version]. Retrieved April 15, 2007, from http://www.nasbe.org/Standard/11_Autumn2002/Character.pdf

Korim, D., & Hanesova, D. (2010). The role of character education and its equivalent subjects in the school curriculum in Slovakia and selected European countries. The New Educational Review, 21(2), 1-326.

Lickona, Thomas. (1993). The return of character education. Educational Leadership, (Vol. 51. No. 3, pp. 6-11).

Lickona, Thomas. (1999). Religion and character education. Phi Delta Kappan, (Vol. 81. No. 1, pp. 21-28).

Mulkey, Young J. (1997). The history of character education. JOPERD–The Journal of Physical Education, Recreation & Dance, (Volume: 68. Issue: 9, pp. 35-38).

Nha Học Chính Đông Pháp. (1941). Luân Lý Giáo Khoa Thư Lớp Sơ Đẳng.

Postscript. (2011). Preventive diplomacy: No Asian century without the pan-asian institution. Retrieved from http://www.habibiecenter.or.id/download/PostScript%20May-Jun%202011.pdf

Ryoko Kato Tsuneyoshi. (2001). The Japanese model of schooling: Comparisons with the United States. Psychology Press:
Routledge.

Swett, John. (1900). American public school: history and pedagogics. New York: American Book Co.

Thattai, Deeptha. (2001). A history of public education in the United States. Association for Indina’s Development E-journal. Retrieved May 10, 2007, from http://www.servintfree.net/~aidmn-ejournal/publications/2001-11/PublicEducationInTheUnitedStates.html

Vail, Henry H. (1911). A history of the McGuffey Readers. Cleveland: The Burrows Brothers Co.


Ghi chú

[1] Phải mất tới hơn 20 năm, các tổ chức xã hội dân sự mới có thể kết hợp với nhau thành một phong trào có tính chất
toàn quốc.

[2] Đức hạnh gồm có hai chữ là đức (徳) và chữ hạnh (行). Đức nghĩa là cái đạo để lập thân, còn ở trong tâm, chưa thể hiện ra bên ngoài. Hạnh (còn đọc là hành) là đức đã thể hiện ra bằng hành động (Tự điển Hán Việt Thiều Chửu).

[3] Vấn đề này vẫn còn đang được tranh cãi và kéo dài cho tới ngày hôm nay.

[4]
Theo thống kê hiện nay, có khoảng 217 hệ phái Tin Lành trên khắp nước Mỹ (thoát thai từ Thiên Chúa giáo) và trong số này có 24 hệ phái chính như Baptist, Pentecostal, Lutheran, v.v…Đó là chưa kể tới Công Giáo (Catholic) với tổng số giáo dân khoảng 68 triệu (năm 2011). (theo Hartford Institute for Religion Research: http://hirr.hartsem.edu/research/fastfacts/fast_facts.html#denom). Tổng số người Mỹ theo đạo Thiên Chúa ước chừng 245 triệu người: http://religions.pewforum.org/reports

[5] Những người di dân gốc Anh đầu tiên đến Mỹ, dù không tuyên xưng đạo Tin Lành (Protestant) là tôn giáo chính, nhưng mặc nhiên công nhận như vậy. Đạo Công giáo (Catholic) và những tôn giáo khác (dù cùng gốc Ki-tô giáo) vẫn bị coi là dị giáo.

[6] Theo John Locke, một ý tưởng tổng quát trừu tượng, như “cái cây,” “cái xe,” là một khái niệm “cây” hay “xe” mà ta “thấy” trong tâm trí, không còn những đặc tính nào khác như cây tre, cây táo, cây chanh, v.v…Những triết gia khác, như Schopenhauer, lý luận rằng khái niệm chỉ là sự trừu tượng hóa những gì người ta nhận thức.

[7] John Dewey (1859-1952) là một trong số những triết gia, nhà giáo dục hàng đầu của Mỹ, người đã xướng xuất, phổ biến và áp dụng Triết phái Thực Dụng trong các ngành giáo dục, khoa học, và kỹ thuật của Mỹ.

[8] Xem thêm bài về Phương Thức Tư Duy Toàn Diện tại http://www.icevn.org/vi/node/393

[9] Xem thêm bài “Đạo đức và Luân lý Đông Tây” của Phan Chu Trinh phân biệt sự khác nhau giữa đạo đức và luân lý tại http://icevn.org/vi/DucDuc/Dao-Duc-Va-Luan-Ly-Dong-Tay

[10]
Friedrich Nietzsche (1844-1900) chủ trương “Thượng Đế đã chết” và hư vô chủ nghĩa. Martin Heidegger (1898-1976) cũng đồng thời là một triết gia phái hiện sinh. Tác phẩm nổi tiếng của Heidegger là “Hiện hữu và Thời gian.”

[11] Jacques Derrida (1930-2004) đề xướng ra lý thuyết phê phán (critical theory) và giải cấu (deconstruction); Michel Foucault (1926-1984) vận dụng lý thuyết phên phán trong môn xã hội và tâm lý học và trong những định chế xã hội như trại giam. Cả hai triết gia này đều tuyên bố là họ chịu ảnh hưởng của Nietzsche.

[12] Thống kê năm 2004 cho thấy 36% trẻ em sinh ra là con có mẹ không có cha; 45% trẻ em sinh ra trong gia đình mẹ ly dị cha sống dưới mức hay ngang mức nghèo theo tiêu chuẩn liên bang; hơn một nửa số thanh thiếu niên bị bắt vì tội hình sự và 75% nghiện ngập xuất thân từ gia đình chỉ có một phụ huynh; và sau cùng 75% thiếu nữ không chồng mà có con xuất thân từ gia đình chỉ có một phụ huynh (nguồn: http://www.singleparentsuccess.org/stats.html)

Kinh thánh – Những nguyên tắc làm giàu và thành công (chương 2 – phần 1)

Featured Image: Garrett N

 

Chương 2: Niềm tin – nấc thang thứ 2 trên con đường dẫn đến sự giàu có (phần 1)

Để có thể đạt được sự giàu có và thành công trong cuộc sống này, chúng ta đã biết được rằng phải có một kế hoạch cụ thể như Salomon đã dạy chúng ta trong chương 1. Nhưng chỉ có kế hoạch thôi thì chưa đủ. Bước tiếp theo mà bạn phải chuẩn bị nếu như muốn được nghỉ hưu trong sự giàu có đó là phải có niềm tin. Đó là niềm tin vào mục đích, niềm tin vào Thượng Đế, và cuối cùng là niềm tin vào trí tuệ. Khi đã xác định được một niềm tin chắc chắn, chúng ta sẽ không còn sợ đi sai lệch đường nữa. Cái gì cũng có cái giá của nó. Và cả sự giàu có cũng vậy! Nó cũng có cái giá riêng của nó. Nhiều người đã trả giá bằng sức khỏe, bằng tình cảm gia đình, tình cảm anh em, bằng thời gian… Nhưng, tin tôi đi, tôi đảm bảo với bạn rằng: Cái giá phải trả cho việc làm giàu qua kinh thánh thì thấp hơn nhiều.

Niềm tin về mục đích

Tại sao chúng ta cần phải giàu có?

Trước hết, để có một niềm tin đúng đắn, không sai lệch, chúng ta cần phải có một mục đích rõ ràng và chính xác: Bạn kiếm tiền vì điều gì? Trong nhiều năm, tôi đã tự hỏi bản thân mình và hàng trăm người khác nhau cùng một câu hỏi này. Những câu trả lời mà tôi nhận được thật thú vị:

– Hỏi ngớ ngẩn thế, không kiếm tiền thì cạp đất mà ăn à?
– Hỏi tào lao, bộ em nghĩ tiền từ trên trời rơi xuống chắc. Kiếm tiền thì mới mua được hàng hiệu, có thêm bạn, mới có tiền lo cho bạn gái. Nói thật với em, chứ thời buổi này không có tiền đãi bạn gái đi chơi thì… chả có tình yêu nào theo đâu.

Những người lớn tuổi hơn thì kiếm tiền vì những mục đích “cao cả” hơn:

– Sau này lớn rồi cháu sẽ hiểu. Cái xã hội này không công bằng đâu. Một người tốt có tiền lúc nào cũng được mọi người nể trọng hơn một người tốt mà không có tiền. Dủ ở đâu cũng thế thôi.
– Bác phải lo cho con bác, cho vợ bác, cho gia đình bác cái ăn, cái mặc để không thua kém bạn bè. Kiếm tiền để sống, Đức à!

Tin hay không tùy các bạn. Nhưng đối với tôi, những câu trả lời này khá, nếu không muốn nói là quá, tệ hại. Thượng Đế ban cho mỗi một con người trung bình có 60 năm tuổi thọ để sống. 20 năm đầu chúng ta được bố mẹ nuôi dưỡng, vậy lẽ nào chúng ta phải làm việc suốt 40 năm còn lại vì miếng ăn cái mặc và vì địa vị thôi sao? Chúng ta sống trong cuộc sống này chỉ có việc sáng dậy đi làm, tối về nghỉ để trả những hóa đơn, chi phí hàng tháng thôi ư? Nhiều người trong chúng ta phải làm đến khi đã về hưu, không còn sức để làm nhưng vẫn phải tiếp tục làm ư? Lần theo giữa hàng ngàn câu kinh thánh, cuối cùng tôi cũng tìm ra được mục đích tìm kiếm đồng tiền mà Thượng Đế muốn bày tỏ cho con người:

“Không có đầy tớ nào làm tôi hai chủ được; vì sẽ ghét chủ nầy mà yêu chủ kia, hay là hiệp với chủ này mà khinh dễ chủ kia. Các ngươi không có thể đã làm tôi Đức Chúa Trời, lại làm tôi Ma-môn nữa.” — Lu-ca 16:13

Mục đích của việc đi làm, kiếm tiền sẽ trở nên rõ ràng và đơn giản nếu chúng ta hiểu được câu kinh thánh này. Trong thế kỷ thứ nhất, thời của Chúa Jesus, có 3 loại mối quan hệ cơ bản nhất trong xã hội do thái lúc bấy giờ: Chủ-tớ-khách. (bạn)  Do đó, nếu như chúng ta đã nhận Thượng Đế là chủ cuộc sống của chúng ta thì tiền bạc chỉ còn có thể là tớ hoặc bạn. Cuộc sống của bạn sẽ chỉ dừng lại ở mức trung bình hay khá giả khi bạn xem đồng tiền là bạn của bạn. Nhưng, để trở nên giàu có thì đồng tiền kia sẽ phải làm tôi tớ cho bạn. Nói cách khác, bạn phải là chủ của đồng tiền thì khi ấy bạn mới có được sự giàu có và tự do về tài chính. Và đây mới chính là mục đích kiếm tiền thực sự mà chúng ta nên có: Kiếm tiền để làm chủ đồng tiền.

“Làm chủ đồng tiền”, một thuật ngữ thật hay phải không? Vậy câu hỏi của chúng ta ở đây là làm chủ tiền bạc có nghĩa là gì? Đến khi nào thì chúng ta được xem là chủ của đồng tiền? Làm sao để có thể làm chủ được tiền bạc? Ở đây, tôi sẽ phân tích và trả lời 2 câu hỏi đầu tiên là “là gì” với “đến khi nào”. Còn câu hỏi thứ 3 “làm sao” thì tôi sẽ nói trong chương 4.

Trừ khi bạn là một quý cô, hay một công tử sinh ra trong một gia đình giàu có, không thì chắc chắn ít nhất một vài lần trong đời bạn đạ phải chịu sự căng thẳng vì vấn đề tài chính. Nếu bạn là sinh viên thì chắc có lẽ đã không phải 1 -2 lần phải ăn mì tôm trừ cơm đúng không? Hay ít nhất là cũng có vài lần phải đi bộ về nhà vì không còn tiền đi xe bus? Thậm chí, nợ tiền điện thoại, tiền nhà… đến 2 -3 tháng? Nếu bạn là người lao động thì không phải bạn vì nợ nần, vì muốn gia đình được thoát nghèo mà sang Hàn sao? Nếu bạn là một người bố, chắc không ít lần bạn cảm thấy bất lực khi cảm thấy tiền lương của mình thật ít ỏi để có thể mua cho con mình một món đồ chơi; hay chỉ đơn giản là cũng không đủ tiền để có thể dẫn vợ con đi chơi xa trong những ngày nghỉ như bao gia đình khác? Thậm chí, cũng vì những đồng lương ít ỏi đấy mà đã không biết bao nhiêu lần vợ chồng bạn đã căng thẳng, cãi cọ nhau.

Làm chủ đồng tiền tức là làm chủ được hoàn cảnh sống của bản thân ta, của cuộc sống ta, một cuộc sống tự do và ít căng thẳng về tài chính. Bạn luôn cảm thấy có thể chi tiêu được cho những món ăn bạn ưa thích mà không phải lăn tăn về giá cả. Bạn luôn cảm thấy thoải mái khi con bạn muốn xin tiền học thêm một lớp gì đó, hay thỉnh thoảng có thể dẫn cả nhà đi du lịch xa mà không phải lo lắng gì về tiền bạc cả. Đó chính là cuộc sống khi bạn làm chủ đồng tiền. Một cuộc sống mà khi bạn chi ra những chi phí cẩn thiết cho bản thân và gia đình mà không phải lo lắng. Một cuộc sống mà có thể làm những điều mình thích mà không cần bận tâm đến tiền bạc, nhiều người theo tôi biết thì rất giàu có. Số tiền tiết kiệm trong tài khoản có thể lên tới cả triệu đô là nhưng lại keo kiệt và bủn xỉn. Họ keo kiệt, bủn xỉn với bạn bè, người thận , thậm chí cả con cái và bản thân họ nữa. Đối với tôi, đó không phải là những người làm chủ đồng tiền thật sự. Họ đơn giản chỉ là loại “nhà giàu đáng khinh” mà Chúa Jesus đã nhắc trong dụ ngôn con lạc đà xuyên qua lỗ kim.

Salomon đã viết:

“Ai quá yêu quý tiền bạc thì không bao giờ có đủ tiền bạc; ai quá yêu quý sự giàu có thì không bao giờ hài lòng với thu nhập của mình.”

— Sách Giảng Viên (đoạn 5 câu 10)

Salomon dạy chúng ta thiết lập mục tiêu cuộc sống, chăm sóc gia đình và tương lai của chúng ta, chứ không cho phép tiền bạc mua chuộc chúng ta. Nói cách khác, tiền bạc không phải là nguồn gốc của mọi điều ác, nhưng tình yêu dành cho tiền bạc có thể gây ra những vấn đề nghiệm trọng.
Để đạt được sự tự do về tài chính, hay làm chủ được đồng tiền, thì ít nhất thu nhập thụ động của bạn hàng tháng phải lớn hơn chí phí sinh hoạt.

Điều đó cho ta thấy, trong 1 tháng bạn không cần phải làm gì mà vẫn có đủ thu nhập trang trải cho những chi phí sinh hoạt trong tháng đó. Khi và chỉ khi đạt được mức độ này, bạn mới có thể xem là ông chủ của đồng tiền. Tôi sẽ nói rõ hơn vể các loại thu nhập và cách thức để tạo được thu nhập bị động trong những chương kế tiếp.

 

Hoàng Xuân Đức

Sống như một bông hoa

Featured Image: AnnaBella Photography

 

Tôi là đứa hay tự dưng có “một triệu câu hỏi vì sao”. Ví dụ, màu xanh nước biển và da trời giông giống nhau, nhưng tại sao xanh da trời là từ được gọi nhiều hơn. Trong từ điển cũng định nghĩa: “Blue is the colour of the sky without clouds.” Trời là một “nhân tố bí ẩn”. Biết màu da trời, biết mặt trời và chân trời, ngoài ra không biết gì hết. Một ngày không biết trời phải nghe bao nhiêu câu “Trời ơi!” Và mặc dù người ta than trời ơi, gọi trời ơi như thế, nhưng người ta ít khi ngước mặt nhìn lên trời.

Tôi vừa trở về từ một hòn đảo. Trong lúc đi tản bộ trên bãi cát tối muộn thì tôi thấy ba đứa trẻ đang xây lâu đài cát. Tôi ngồi xuống, ngắm, thỉnh thoảng hỏi một câu, nhưng bọn trẻ cả miền núi lẫn miền biển, sẽ có cùng một cách trả lời rất trống không hoặc không trả lời, kiểu như: “Em có vui không? – Vui.’. Tôi không nghĩ bọn trẻ hỗn xược. Chúng chỉ xa lạ với kẻ như tôi, như với những vị khách đến từ phía sau đường chân trời, nếu chúng chưa bao giờ đi tàu ra khỏi hòn đảo này.

Một đứa tên Yến, một đứa tên Việt Anh, một đứa tên Long. Tôi ngồi im và nghe lỏm. Bọn nó vui vẻ. Bọn nó đen đúa và nhỏ thó, nhanh nhẹn. Nó bảo chưa ăn tối vì xây lâu đài vui quá. Phía trước là sóng, bên trên là sao và trời đêm. Thật là may mắn quá. Những đứa trẻ thành phố ở trong những khối hình hộp chữ nhật như nhà, như xe bốn bánh, ở trong bầu không khi vô trùng của bố mẹ chúng tạo ra, có bao giờ thấy vui đến thế không. Có những đứa trẻ sống cuộc đời trong hộp. Loại hộp mà chất liệu và kích cỡ, nhãn mác đều do các bậc cha mẹ sáng chế.

Tôi đã gặp một người mẹ mà đi học kỹ năng quản lý thời gian và cuộc đời không phải cho mình mà là học hộ con để về dạy nó, dù nó mới mười tuổi. Và dù nó mới mười tuổi, mẹ nó đã quyết sẽ sống chết biến nó thành tiến sỹ học bên Mỹ trong tương lai. Bọn trẻ miền biển có bao giờ biết những vị khách đến từ phía sau đường chân trời đem những nỗi buồn gì đến đây không, và họ ít khi có thể ngắm trời rộng thế này lắm. Họ mải nhìn phía trước về tương lai, nhìn xung quanh xem có bằng người không. Họ không nhìn lên trên, không ngắm bầu trời, không biết bầu trời rất đẹp.

Hôm nay trong con ngõ rộng 2 mét cũng khó sang đường, tôi đem túi rác đi đổ nhưng xe rác lỡ đi mất, nên đành đặt cái túi ở góc đường đợi xe rác ngày mai quay lại. Bà bán nước gần đấy xa xả gọi: “Cô kia, điếc à, đi tìm chỗ có xe mà đổ, đây là chỗ tôi bán hàng.” Bình thường tôi đâu có bị mắng. Tôi nhìn lên trên, nhà lô nhô, dây điện chằng chịt, trời còn một mẩu, và tôi nghĩ: “Hẳn là bà ta không bao giờ ngắm trời.”

Người ta bị tầm thường đi khi không còn yêu thứ gì cả

Phòng của tôi có cửa sổ bằng kính. Trong vắt. Cái cửa sổ có ba ô kính hình chữ nhật. Nằm trên giường một buổi chiều mùa hè thế này nhìn ra, chỉ thấy bầu trời qua ô cửa, trông giống hệt vỏ của một lốc sữa TH True Milk. Đi học đại học, tôi không còn ngắm trời qua cửa sổ được nữa. Ở lớp, tôi cũng cố ngồi cạnh cửa sổ. Lên xe bus, tôi cũng cố ngồi cạnh cửa sổ. Để vớt vát lấy những mảnh trời be bé. Nó giống như nỗi sợ cố hữu trong lòng về một ngày mình khác đi, lòng mình chật hẹp, mình chẳng thấy gì ngoài những đồ vật trong mấy vách tường, những ý nghĩ bộn bề trong đầu và một vài những con người cả thân, hơi thân, hay xa lạ đi qua đi lại giữa mấy vách ngăn tim.

Đường chân trời vốn không phải điểm cuối của biển, nó chỉ là điểm cuối của tầm mắt. Có những thứ mắt chúng ta không thấy được. Giống như ngày mai. Tôi chưa nhìn thấy ngày mai. Không có nghĩa là nó không tồn tại. Tôi nằm trên cát ngắm biển ngắm trời, bị cái khối dịu dàng xanh nuốt chửng vào trong lòng, và tự trấn an một ngày nào đó, một điều gì đó thật khác, đang đợi mình ở sau đường chân trời kia. Tôi nằm nhìn lên trời, trên tay nắm một sợi dây diều, cái diều no gió bay phần phật hình chú chim xanh lướt trong gió. Tôi là con chim xanh, tôi bay trong tưởng tượng, tôi chỉ có một sợi dây nhỏ nối với mặt đất mà thôi. Tôi thấy mình như thế, một đứa chân lửng lơ đi không chạm đất, có lúc thu mình lại một góc, giữa tất cả những người nhìn về tương lai và nhìn ra xung quanh, tôi lại chỉ thích nhìn lên trời.

1000 năm sau, tôi đoán thế, chuyện những ngày chúng ta đang sống sẽ trở thành truyện cổ. Truyện như sau: Có một cô gái được sinh ra trong gia đình mà bố mẹ hết mực yêu cô ấy. 12 năm học trôi qua êm đềm. 4 năm đại học trôi qua nhạt nhẽo. Bố mẹ muốn cô có một tấm bằng. Ừ thì cô có một tấm bằng. Bố mẹ muốn cô làm việc ổn định nhàn hạ. Cô cũng vâng. Bố mẹ muốn cô có một tấm chồng. Ừ thì cô có một tấm chồng. Lúc đó cô 25 tuổi. Bố mẹ bảo đó là tuổi đẹp đấy. Cô ấy có những đứa con có cuộc đời về đại loại như của cô ấy trước kia. Những đứa con của con của cô ấy có cuộc đời về đại loại cũng như đã kể. Cô ấy sống đến lúc chết. Hết truyện.

Nghĩ lại thì chỉ cần một câu để kể thôi: Cô ấy sống đến lúc chết

Đó có phải là một câu chuyện đâu. Đó chỉ là quy luật tự nhiên. Ai chẳng sống đến lúc chết, nhỉ? Muốn cuộc sống là một câu chuyện, chính mình phải tạo ra tình tiết. Vẫn biết người ta luôn cần phải cảm thấy an tâm, ai cũng truy tìm cảm giác an tâm như cái lí do bảo hiểm ra đời, nhưng tôi luôn muốn tôi có một câu chuyện để kể về mình. Ai đó nói thế giới được tạo nên từ những câu chuyện kể. Tôi kể chuyện về một bông hoa nhỏ nhé.

Có hạt giống được gieo xuống đất. Hạt thấy quanh mình tối tăm ẩm ướt. Hạt nghe tiếng ai gọi từ bên trên: Hoa ơi, mau lớn nhé. Hạt thầm nghĩ: “ Cô bé gọi ai thế nhỉ, ai tên là Hoa?” Có lúc đất ngập nước. Nó nghe tiếng ai nói từ bên trên: Trời mưa, trời mưa. Hạt tự hỏi: “ Mưa là gì ?”. Có những ngày hạt thấy nóng bức lắm. Lại có ai đó nói: “Trời nắng quá, nắng quá.” Nó không biết trời màu gì, nắng là gì. Nó ôm trong lòng những câu hỏi về những âm thanh phát ra bên trên tầng đất kia. Có một thế giới mà nó chưa biết, Nhưng thế giới đó tồn tại. Nó ăn thật nhiều, uống thật nhiều từ đất với hy vọng sẽ cao lớn nhanh để biết đâu, sẽ ra khỏi lòng đất tối tăm này. Một ngày thức dậy, nó thấy mình vỡ ra, cắm chùm rễ vào đất và ngày qua ngày, nó biến thành một cái cây non xinh đẹp. Nó thấy trời rồi. Nó đã biết mưa và nắng. Nó yêu cuộc đời biết bao. Nó giấu bộ rễ trong đất hút thật nhiều sinh dưỡng để có thể đứng đây thật lâu, ngắm nhìn mọi thứ và cả cô bé ngày nào cũng đến chơi với nó. Một ngày khác, nó thức dậy, và ngạc nhiên thấy những cánh hoa xòe nở rực rỡ trên người mình như chiếc áo xinh xinh. Cô bé reo lên: “Hoa nở rồi!” Và nó biết cô bé đã gọi tên nó là Hoa từ khi nó ở trong đất. Nhưng không có hạt giống nào trong đất lại biết mình sẽ trở thành một bông hoa cả.

Không có bông hoa nào tự dưng sinh ra đã là một bông hoa cả. Nó đều bắt đầu từ một hạt mầm trong đất tối. Và nó cũng không hay biết mình sẽ trở thành bông hoa rực rỡ đâu. Chẳng có ai tự dưng sinh ra đã là người thành công hạnh phúc. Và bản thân họ, lúc trẻ tuổi, chắc cũng chưa bao giờ nghĩ sau này mình sẽ làm được nhiều điều đến thế.

Mình chúc bạn sống như một bông hoa nhỏ. Và một bông hoa luôn nhìn lên trời. Dù bạn có muốn thay đổi thế giới đi chăng nữa, hãy cứ cho bầu trời xin một phút của bạn. Bầu trời thật đẹp trong những ngày nắng thế này. Thật buồn khi nó là thứ rộng lớn nhất mà lại bị lãng quên. Đừng bận rộn quá. Đừng hẹp lòng.

Để ai cũng là một bông hoa.

 

Trang Xtd

Ông và những bài học cuộc sống!

Featured Image: Lifehack Quotes

 

Trong một buổi chiều muộn, khi ánh nắng chỉ còn le lói đâu đó sau những áng mây trôi dạt. Hoàng hôn lúc nào cũng buồn thì phải, thiên nhiên là vậy lúc nào cũng khiến cho con người tâm trạng.  Nhân tiện trở về từ chuyến đi biển Sầm Sơn, tôi tạt qua thăm ông và biếu ông chút quà nho nhỏ mà mẹ mua cho ông. Vừa vào đến cổng đã nghe thấy tiếng ông và cu tít nói cười rôm rả vang cả một góc sân.  Trẻ con và người già thật kỳ lạ, hai thế hệ hoàn toàn khác xa nhau nhưng đâu đó trong họ lại có những điểm giống nhau đến tuyệt vời. Chẳng vậy mà người ta hay nói, khi con người già đi đó là lúc họ lại trẻ con một lần nữa. Con người cũng kỳ lạ thật khi trẻ thì mong trưởng thành thật nhanh, nhưng đến khi trưởng thành rồi đến một lúc nào đó người ta lại ước quay ngược thời gian về hồi mình còn trẻ để làm lại mọi thứ, đó là cảm giác sống trong sự hối tiếc muộn màng. Đúng là cuộc sống chứa đầy những nghịch lý, ngang trái.

Tôi dựng xe xong thì qua chào ông, tiện thể nghe ông kể những câu chuyện về cuộc sống. Thấy ông đang vui vẻ tôi liền hỏi:

– “Ông và cu tít có chuyện gì vui mà nói cười rôm rả thế ạ?”

Ông cười rồi đáp lại:

– “Có gì đâu cháu, cu tít đang hỏi ông về ước mơ nó có biến được thành sự thật hay không ấy mà. Cu tít bảo nó sau này nó muốn làm phi công, vì làm phi công sẽ giống như loài chim đại bàng mà cu tít xem trên tivi được tự do bay lượn trên bầu trời, thỏa sức lướt gió cưỡi mây mà chẳng cần suy nghĩ nhiều lắm.”

Tôi quay sang cu tít:

– “Trẻ con toàn mơ ước viển vông, đến ăn còn chả đủ mà suốt này ngồi đấy mơ làm phi công với chả phi vịt.”

Đột nhiên ông trầm ngâm suy nghĩ, rồi bất chợt ông quay sang hỏi tôi:

– “Cháu có ước mơ không? Và cháu có tin ở bản thân mình sẽ biến ước mơ đó thành sự thật?”

Tôi ngượng ngùng nhìn ông rồi đáp lại:

– “Dạ, cháu cháu cũng không biết nữa. Cháu nhớ hồi cháu còn bé cháu mơ ước nhiều lắm y hệt như cu tít bây giờ. Cháu cứ nghĩ cuộc sống chỉ toàn màu hồng, như bức tranh mà cháu hay học tô hồi bé vậy vậy ông ạ. Hồi ấy, cháu muốn làm siêu nhân vì làm siêu nhân cho cháu những thứ sức mạnh siêu nhiên, nếu có nó cháu có quyền năng thay đổi nhiều thứ khác, nó giúp cháu không còn sợ hãi điều gì nữa. Nhưng càng lớn dần lên, cháu càng không biết mình là ai và đang sống vì điều gì nữa ông ạ? Có nhiều lúc cháu sợ hãi và muốn trốn tránh tất cả, cháu cố gắng chối bỏ mọi thứ. Cháu sợ những kỳ vọng, những thứ quần áo, mặt nạ mà cháu phải cố gắng đeo lên mỗi ngày để diễn một vở kịch lớn làm hài lòng tất cả mọi người. Nhưng cuối cùng có lẽ cháu đã thất bại, thất bại hoàn toàn ông ạ.”

Ông nhẹ nhàng đến bên tôi xoa đầu rồi ôn tồn nói:

– “Cháu ngốc nghếch của ông ạ, ai bảo cháu của là một người kém cỏi nào. Những khó khăn cháu gặp phải trong cuộc sống, những tâm trạng bơ vơ và lạc lõng đôi khi cô đơn mà cháu đang trải qua ông rất hiểu nó vì ông cũng đã từng như thế. Hôm nọ ông có xem một bài phát biểu của Steven Job tại trường đại học Stanford năm 2005 và khi ông gắn nó vào cuộc đời mình thì ông giật mình hình như ông nhận ra vài thứ và giờ ông muốn nói nó với cháu. Cháu có biết tại sao trên chiếc điện thoại Iphone lại có kiểu password là những dấu chấm và phải nối điểm với điểm không?”

Tôi suy nghĩ rồi gãi đầu và trả lời ông trong vẻ ngượng ngùng:

– “Dạ, tuy cháu học kỹ thuật nhưng thực sự là cháu không biết ông ạ. Nhưng cháu có cảm giác nó có liên quan đến một cái gì đó chứ không đơn giản chỉ là mội kiểu đánh password. Vì kiểu truyền thống chí đánh số vào là xong ông nhỉ?”

Ông nở một nụ cười hiền hậu:

– “Cháu nói đúng đó, đằng sau nó chính là bài học về sự kết nối cháu ạ. Mọi thứ xảy ra trong cuộc sống của cháu không có gì là vô nghĩa cả. Khi nó xảy ra ắt hẳn nó có những lý do riêng của nó. Chỉ khi nào cháu thôi suy nghĩ về những thứ chưa xảy ra trong tương lai, thôi luyến tiếc những thứ đã xảy ra trong quá khứ để sống với hiện tại. Cháu hãy tìm một nơi nào đó yên tĩnh, nhắm mắt lại và dành thời gian để kết nối những chuyện đã xảy ra trong cuộc đời cháu ông nghĩ cháu sẽ giật mình khi nhận ra một điều gì đấy. Như cảm giác mà tình cờ ông được xem video đó, để cháu hiểu rằng mọi thứ xảy ra dù đau đớn đến đâu nó chính là giáo trình riêng mà cuộc sống diệu kỳ thiết kế dành riêng cho cháu. Nó sẽ còn lặp lại cho tới khi nào cháu học được bài học đó thì thôi, do vậy cháu đừng cố gắng trốn tránh một điều gì cả. Hãy dũng cảm đối diện với nó và giải quyết nó bằng tất cả niềm tin và sức mạnh bên trong của cháu. Chắn chắn cháu sẽ có suy nghĩ rất khác về cuộc sống đấy. Ông rất thích câu nói của ông Henry Ford mà tình cờ ông đọc được đâu đó trong những cuốn sách: “Whether you think you can, or you think you can’t–you’re right.”

Bộ não của cháu nó đặc biệt hơn cháu tưởng tượng rất rất nhiều, dù cháu có dũng cảm đối mặt để giải quyết những khó khăn xảy ra trong cuộc sống hay cháu sợ hãi trốn chạy và ngụy biện cho chính những thất bại của mình cháu đều đúng. Bộ não không có tâm hồn, chính cháu thổi hồn vào cho nó cháu hiểu chứ. Nó chỉ như một bề tôi trung thành, một vị thần đèn trong những câu chuyện cổ Aladanh mà thôi. Đó là lý do khi cháu suy nghĩ tiêu cực cháu sẽ thu hút về mình toàn thứ tiêu cực. Còn khi cháu vui vẻ và hạnh phúc, tự nhiên cuộc sống của cháu cũng sẽ thay đổi bất ngờ. Lúc ấy may mắn sẽ liên tiếp đến với cháu nếu cháu biết trân trọng và nâng niu những món quà mà cuộc sống ban tặng cho cháu dù nó có là gì đi chăng nữa, cháu hiểu ý ông chứ ? Mọi thứ xảy ra trong cuộc sống đều có lý do riêng của nó cháu ạ, chỉ khi nào cháu dừng lại gạt bỏ tất cả những thứ vo vẻ của tiếng người khác xung quanh cháu. Để cháu lắng nghe được tiếng nói nội tâm từ tận sâu thẳm bên trong con người cháu, trong trái tim cháu. Đó chính là con người thứ hai của cháu, có lẽ lúc ấy cháu sẽ tìm được câu trả lời cho câu hỏi cháu là ai và tại sao cháu được sinh ra trên thế giới này, cháu ạ!”

Tự nhiên tâm trạng của tôi rối bời, có lẽ nếu bạn ở trong hoàn cảnh của tôi lúc đó chắc bạn sẽ hiểu phần nào cảm giác của tôi lúc đó. Dường như tôi đã nhận ra một điều gì đó mới mẻ, một luồng sinh lực kỳ lạ đang chảy trong huyết mạch của tôi, nóng bỏng. Tôi chắc chắn đã cảm nhận thấy nó ngay tại đây và ngay bây giờ. Tôi mung lung và mơ hồ khi nghĩ về mọi thứ.

Ông nhẹ nhàng đến bên tôi, ôm tôi vào lòng và nói:

– “Có mấy câu này ông mượn của Steve Jobs để muốn nói với cháu. Có lẽ cháu đã được người ta nói nhiều rồi nhưng ông nghĩ ông cần phải nhắc lại nó:

“Thời gian của các bạn có hạn, vì thế đừng nên lãng phí để sống cho cuộc đời của một ai đó. Đừng bị mắc kẹt bởi những giáo điều, đó là sống vì những suy nghĩ của người khác. Đừng để tiếng ồn của các ý kiến khác làm lấn át đi tiếng nói của chính bạn. Và điều quan trọng nhất, có can đảm để sống theo trái tim và trực giác của chính mình. Chính trái tim và trực giác mới là thứ biết được bạn muốn gì và bạn sẽ trở thành thế nào. Mọi thứ còn lại, chỉ là thứ yếu.”

Có lẽ nó cũng là tất cả những gì mà tôi thay ông muốn mang tới cho các bạn. Thay cho lời kết là câu nói mà tôi rất thích và nó đã trở thành triết lý sống của cuộc đời tôi:

“Stay hungry, stay foolish.” (Tạm dịch: Hãy cứ khát khao, hãy cứ dại khờ.)

 

Nguyễn Văn Dương

Facebook lợi hay hại?

Featured Image: Ross Moody

 

Mỗi thời đại có một vấn nạn kiểu thời đại khác nhau. Thời nay có một loại đang nóng là căn bệnh ảo “nghiện mạng xã hội”. Mạng xã hội có rất nhiều, ở Việt nam hot nhất bây giờ là Facebook.

Trích:

“Mạng xã hội đã và đang làm thay đổi thói quen sử dụng Internet của giới trẻ, trong đó có thể nói dẫn đầu là Facebook. Hiện tại, Facebook đang thu hút khoảng 500 triệu người sử dụng ít nhất một lần mỗi ngày. Ở Việt Nam, sử dụng mạng xã hội này đã trở thành thói quen không thể thiếu của nhiều người. Không chỉ thu hút giới trẻ, ngay cả thế hệ U40, U50 cũng tự lập cho mình tài khoản Facebook để giao lưu bạn bè và quản lý con cái.

Tính năng liên kết của mạng xã hội đã khiến nhiều người tham gia không thể dứt nổi sự quan tâm thái quá, có thể nói là “nghiện”. Trung bình mỗi thanh niên Việt Nam ngồi trước màn hình mạng xã hội 60 phút mỗi ngày, chưa kể lượng lớn khác chìm đắm hàng giờ, mỗi phút lại phải “lượn” vào thế giới ảo một lần. Những người sử dụng nhiều đều phải chấp nhận sự thật: không dứt nổi mắt khỏi mạng xã hội.

Chính vì dành quá nhiều thời gian cũng như mê đắm thế giới ảo, ngoài việc đề cao thái quá hình ảnh bản thân, nhiều người sử dụng mạng xã hội còn bị ám ảnh đến mức sống ảo, xây dựng luôn cho mình một cá tính “ảo” không kém.

Nguồn

Hết trích.

Đó là sự thật không thể chối cãi đang hiển hiện hàng ngày xung quanh ta, với mỗi chúng ta?

Không một vấn đề gì không có tính hai mặt. Facebook cũng vậy. Mặt tốt của nó cũng không thiếu:

  1. Cập nhật thông tin dễ dàng, tiện lợi.
  2. Tính tương tác và độ lan truyền thông tin nhanh, rộng.
  3. Kênh quảng cáo, bán hàng hữu hiệu, chi phí thấp ( đối với người Việt ).
  4. Học hỏi miễn phí một số thứ không có trong trường học, trong sách vở.
  5. Cách giữ liên lạc “nhanh bổ rẻ “ với người thân, bạn bè.
  6. Kênh “giao lưu” thân thiện giữa thầy cô và phụ huynh.
  7. “Khai quật” được những người bạn “nhiều năm không gặp” từ thời lớp cháo, vỡ lòng, tiểu học tới đại học…
  8. Cơ hội nhìn thấy, tương tác, kết bạn bắc cầu với của bạn của bạn của bạn…. và có khi còn kết bạn với cả “kẻ thù” ☺
  9. Cơ hội cho và nhận, chia sẻ những điều tốt đẹp với cộng đồng.
  10. Học được miễn phí cả bài học thành công và thất bại từ những kinh nghiệm, trải nghiệm và cảm xúc từ người thật, việc thật.
  11.  Đáp ứng tốt nhu cầu “được thể hiện“ trong tháp nhu cầu của Maslow.
  12. Thay thế tất cả các loại của nả tài sản ảo của cá nhân – các loại ứng dụng khác gom lại kiểu “ nhiều trong “ vào FB : nhật ký, blog, lưu trữ dữ liệu, hình ảnh…

Mặt hại của Facebook thì sao?

  1. Gây nghiện
  2. Chiếm mất nhiều thời gian
  3. Xao nhãng, thiếu quan tâm tới các mối quan hệ, công việc ngoài đời thường
  4. Đắm chìm trong tính cách ảo, suy nghĩ ảo
  5. Kẻ có ý đồ xấu có thể lợi dụng facebook gây rắc rối, làm hại uy tín, thanh danh người khác.

Góp phần tạo ra căn bệnh này còn phải kể đến các loại điện thoại thông minh, độ phủ sóng 3G, wifi rộng khắp, tiện ích để truy cập internet mọi lúc, mọi nơi, chứ kết tội riêng mình Facebook thì tội anh Mark Zuckerberg quá.

Tuy nhiên, đổ lỗi cho mạng xã hội, cho Facebook, cho các tiện ích thông minh thời nay cũng khá là bất công, mặc dù không phủ nhận hiện tượng ‘nghiện mạng ảo’ đang lây lan và những hệ lụy của nó.

Mạng xã hội bản thân nó là một dịch vụ kết nối mọi người trong xã hội, còn kết nối thế nào, vì mục đích gì là do ý muốn chủ quan của mỗi người và khi chấp nhận sử dụng dịch vụ này đồng nghĩa với việc chấp nhận luật chơi của nó.

Trở lại với Facebook, mạng xã hội phổ biến nhất Việt nam, sử dụng Facebook thế nào là quyền của bạn. Facebook có rất nhiều tính năng cho bạn lựa chọn theo mức độ tùy chọn riêng tư khép kín (chỉ mình tôi) hay mở rộng chia sẻ trạng thái, thông tin cá nhân của bạn tới những đối tượng khác nhau trong danh sách bạn bè của bạn. (gia đình, bạn thân, bạn bè, đồng nghiệp…) Bạn hoàn toàn chủ động được cách bạn muốn cho ai được biết thông tin bạn cập nhật và ai được phép tương tác với bạn.

Vì lẽ đó, nếu bạn không thích nick ABC hay khoe, nick DEF hay có tâm trạng tiêu cực, nick XYZ hay bình luận thiếu xây dựng…. thì bạn hoàn toàn có thể chấm dứt ngay không đọc/nhận thông tin của họ bằng cách thôi kết bạn với họ. (unfriend)

Với những người đang tìm kiếm khách hàng, những người đang muốn truyền tải một ý tưởng mới, thông điệp tốt đẹp nào đó có ích lợi cho cộng đồng, cập nhật trên FB là một lựa chọn gần như hoàn hảo trong thời điểm này bởi tính lan truyền nhanh mà miễn phí. Facebook thực sự đem lại lợi ích nhất định cho một số công việc bán hàng, tìm kiếm khách hàng, quảng cáo sản phẩm và dịch vụ.

Để Facebook là công cụ phục vụ nhu cầu, công việc, là phương tiện giải trí hay là mối nguy hiểm với bạn là tùy thuộc vào bạn. Hãy thành thật một lần với chính bạn xem bạn đang làm gì với facebook hay là facebook đang làm gì bạn nào. Nếu bạn vẫn đang cảm thấy facebook mang lại lợi ích cho bạn, cảm xúc tích cực hay lượng thông tin bổ ích.., nghĩa là bạn đang chủ động khai thác mặt tốt đẹp của facebook. Ngược lại, nếu bạn cảm thấy đang sa lầy vào facebook, facebook làm bạn mất thời gian, làm bạn sợ hãi bị nghiện, làm bạn suy nghĩ tiêu cực, ảo…nếu facebook gây cảm giác nguy hiểm với bạn…, bạn phải xem xét lại. Có lẽ facebook không phải loại trò chơi phù hợp với bạn, hoặc nói cách khác là không thể để facebook làm hỏng thế giới của bạn.

Cũng giống như những trò chơi thuộc loại nguy hiểm, không phải tất cả mọi người đều chơi được mà người ta phải đưa ra khuyến cáo một số đối tượng không nên chơi, ví dụ những người lớn tuổi, người có tiền sử bệnh tim mạch, huyết áp…, là cũng có lý do.

Bởi vậy, Facebook ở trong tay bạn, chỉ có bạn mới biết bạn nên tiếp tục hay nên dừng cuộc chơi với nó

Tuy nhiên, cho dù bạn có không thèm chơi, hay chơi thử rồi nghỉ chơi với facebook thì bạn cũng không thể phủ nhận sự thật về số tài khoản facebook được tạo mới bởi người Việt Nam tăng mỗi ngày với con số hàng chục ngàn. Bạn có đứng ngoài cuộc chơi đi nữa cũng không phủ nhận rằng xu hướng này vẫn còn tiếp tục gia tăng, phát triển và chưa biết đến khi nào sẽ bị một loại hình mới ‘ác chiến’ hơn đào thải.

Facebook cùng với các mạng xã hội khác ra đời, là một hiện tượng mới mẻ trong thời đại này, do đó sẽ có nhiều tranh cãi chưa ngã ngũ vì chưa đủ thực tế để chứng minh. Nhưng cũng như sự ra đời của máy ảnh kỹ thuật số đã lật đổ thời kỳ hoàng kim của máy ảnh cơ, sự ra đời của báo mạng đã khai tử cho một số tờ báo giấy là những sự thật không thể nào chối cãi. Facebook và các loại mạng xã hội đã xuất hiện và vẫn còn đang thống trị thế giới văn minh hiện đại này với những tác dụng nhất định của nó.

Tuy nhiên, một khi nó trở nên lạc hậu và lỗi thời, hết giá trị sử dụng, chắc chắn điều đó cũng xảy ra thôi vì không gì là không thể, không gì có thể đi ngược lại quy luật đào thải… hay là khi có một loại giao tiếp hiện đại hơn xuất hiện thay thế nó, ví dụ vậy. Khi ấy, tự khắc người ta bỏ facebook, bỏ mạng xã hội mà theo cái mới thôi. Đó là quy luật tự nhiên.

Viết cái bài dài khiếp này để làm gì nhỉ? Yên tâm, tôi không quảng cáo, không kết tội ai cả. Chỉ phục vụ bà con dân cư mạng tự vấn lương tâm để an tâm ra quyết định chơi tiếp hay dừng cuộc chơi thôi.

Bạn tự tìm câu trả lời cho mình, đừng ‘theo bài bạn bên ta có’ nhé.

 

Julia Le

Tôi trở về chính tôi

 Photo: hotblack

 

 

Bản nhạc ở phía trên là Lilacs (*), do Rachmaninoff sáng tác và được thể hiện bởi nghệ sĩ piano người Nga Arsentiy Kharitonov.

Thú thật là trước khi nghe Arsentiy thể hiện tác phẩm, tôi không thích nghe nó cho lắm. Nhưng khi thưởng thức phần trình diễn này, tôi bị chinh phục hoàn toàn.  Tôi thấy được phép màu xuất hiện trong tiếng đàn và trên bàn tay của người nghệ sĩ – điều này làm tôi xúc động vô cùng.

Từ khi nốt nhạc đầu tiên cất lên cho đến lúc kết thúc, tôi như chìm trong một không gian nhẹ tênh, tĩnh lặng. Tôi cứ nhắm nghiền mắt như vậy – thật hiếm lúc nào có được giây phút như thế này.  Một cảm giác thanh nhẹ, dịu êm lan khắp tâm trí tôi trong hai phút rưỡi ngắn ngủi mà bình yên. Đó là một cảm giác hoàn toàn khác, hoàn toàn mới, tôi chưa bao giờ chạm đến cảm giác thanh thản đến như vậy khi nghe phần trình diễn tác phẩm này của bất kì ai đó khác.

Nhưng đâu chỉ có vậy. Phần thể hiện của Arsentiy còn cho tôi nhiều điều tuyệt vời khác. Những âm thanh như cơn gió đưa tôi vào một vùng đất trong tâm tưởng. Nơi đó có thể là khu rừng chìm trong sương mờ. Nắng sớm làm tan dần lớp sương, soi rọi những tán cây xanh um. Văng vẳng ở đâu đó tiếng thác nước chảy, tiếng côn trùng, tiếng lá rì rào, xào xạc dưới những bước chân nhẹ tênh của tôi.

Những âm thanh đưa tôi về một vùng ký ức của ngày hôm qua, nơi ánh sáng nhảy nhót ngoài kia và bóng đêm khẽ rơi ngang cửa sổ. Nơi bầu trời mùa hè luôn bất tận cả ngày lẫn đêm. Nơi mùi đốt lá ùa vào trong gió mát.  Nơi trăng và sao cùng khiêu vũ trong không gian lam mờ của chiều muộn.

Những âm thanh đưa tôi về những câu chuyện cũ kỹ, những ánh mắt mênh mang, những ánh đèn lấp lóa. Và cả những cái nắm tay xiết chặt không rời. Những âm thanh đó cũng đưa tôi về ngay chính hiện tại – khoảnh khắc thuộc về vĩnh cửu và chỉ có một. Âm nhạc đưa tôi trở về với chính tôi, thuần khiết và hồn nhiên như mặt nước hồ trong lành, phẳng lặng. Không một nỗi buồn, không một lo nghĩ nào có thể làm xao động được.

Chợt, tôi thấy vui như một đứa trẻ vừa nhận được quà. Một niềm vui bừng sáng. Mà đúng vậy, tôi vừa nhận được một món quà. Món quà vô giá mà âm nhạc đã trao cho tôi. Hay nói cách khác là tài năng và sự cống hiến xuất sắc của người nghệ sĩ đã trao cho tôi.

Âm nhạc như dòng nước, uyển chuyền và mạnh mẽ, cho tôi một sức mạnh tinh thần lớn lao. Đó là niềm tin vào cuộc sống dẫu xung quanh tôi không thiếu những khó khăn, buồn đau. Đó là động lực để vươn lên mặc dù đôi khi ngay trước khi âm nhạc vang lên nó đã vỡ tan tành.

Âm nhạc nhắc nhở tôi cuộc sống này vẫn luôn đẹp biết nhường nào, và tôi phải biết trân trọng từng khoảnh khắc được sống và trải nghiệm cả niềm vui lẫn nỗi buồn.

Âm nhạc dạy tôi cách tận hưởng những điều nhỏ bé, giản dị mà vô cùng đẹp đẽ trong đời sống thường ngày để biết cảm nhận rằng hạnh phúc không phải thứ gì đó quá cao xa, mà nằm ngay trong tâm ta.

Nói cách khác, âm nhạc dạy tôi cách SỐNG trọn vẹn.


 

Chú thích (*): Về Lilacs: Lilacs được sáng tác bời nhà soạn nhạc người Nga Sergei Rachmaninoff, vào năm 1900–02. Tác phẩm được trích từ tập 12 khúc Romance. Lilacs vốn được sáng tác cho giọng hát và piano nhưng cũng được Rachmaninoff chuyển soạn cho piano solo.

Xin kết lại bài viết này với một phần thể hiện nữa – phần thể hiện Lilacs của chính tác giả.

Cảm ơn Rachmaninoff, cảm ơn nghệ sĩ piano Arsentiy Kharitonov vì đã cho tôi thấy được nguồn năng lượng tỏa sáng bất tận từ tâm hồn khi hòa nhập cùng âm nhạc.

Và cảm ơn các bạn đã đọc bài viết này. Chúc các bạn vui và rất mong được đọc những chia sẻ của các bạn.

 

 Cánh Đồng Âm Nhạc

Nhà có con tuổi “teen”, không quan tâm không được

Photo: Pink Sherbet Photography

 

Tuổi “teen” cái gì cũng dở dở ương ương. Nhỏ đã qua, lớn chưa hẳn. Quần áo, giày dép lỡ cỡ, cũng khó tìm kiểu. Kiểu thiếu nhi hắn không ưng, kiểu người lớn chúng không chịu. Ngay cả việc nhắc nhở nếu không thay đổi, cữ giữ nguyên cách như chúng đang là trẻ con cũng làm chúng khó chịu, bực mình mà chẳng lọt tai chúng câu nào.

Thế giới của chúng bây giờ bạn bè cùng trang lứa là quan trọng nhất. Thầy cô bây giờ cũng không còn là “khuôn vàng thước ngọc”, nói gì chúng cũng nghe như ngày xưa còn bé đâu. Có khi, tên gọi và các hoạt động của những thần tượng ở xa nửa vòng trái đất còn được chúng nhắc tới, biết tới nhiều hơn cha mẹ chúng. Thời gian của chúng trừ những lúc đi học ở trường, những lúc cả nhà cùng ăn cơm, những lúc cần “báo cáo” với phụ huynh thì chúng cũng muốn sử dụng riêng hết. Nếu không bị ép, chúng thực lòng không muốn chia sẻ “tài sản riêng” này cho những sinh hoạt gia đình : xem phim, ngồi hàn huyên trò chuyện…, cũng như phụ huynh chúng ngày xưa thôi (?)

Ngôn ngữ, chữ viết chúng giao tiếp với nhau cũng đầy bí hiểm. Nếu không muốn khoảng cách với chúng ngày càng xa thì phải chấp nhận những ký tự lạ, cách phát âm lạ. Nếu muốn tiếp chuyện được với chúng lâu một chút thì buộc phải tìm hiểu chúng thích nói về chuyện gì. Đề tài có khó nghe hay lạc hệ cũng phải tỏ ra “hòa nhập”, tuyệt đối không phê phán ngay lập tức để còn ‘dò la’ suy nghĩ của chúng đang ở đâu, có đúng đường hay đi “trệch cột dọc”, rồi mới tìm thời điểm phù hợp uốn nắn, điều chỉnh.

Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng, nếu chúng cảm nhận được cha mẹ nghiêm khắc, hay “tuýt còi” chúng là vì yêu thương chúng, muốn chúng thành người tử tế, đàng hoàng nên mới thế, thì chúng cũng khá “biết điều” đấy. Với tuổi này của các con, tôi không thích cách dùng quyền cha mẹ áp đặt con phải nghe lời, mà muốn lắng nghe chúng phát biểu, để khi mình ra “phán quyết cuối cùng”, chúng hoàn toàn tâm phục, khẩu phục.
Đôi khi, bỏ qua ngôi vị là cha, mẹ, bỏ qua khoảng cách thế hệ mà lắng nghe được những lời phản biện của chúng, cũng không phải không có những điều có lý. Để chúng mạnh dạn “cãi lời” cha mẹ nhưng vẫn trong khuôn khổ phép tắc trên dưới rõ ràng, đôi khi lại tạo được cơ hội cho chúng bảo vệ được chính kiến và cơ hội rèn luyện khả năng thuyết phục.

Nói là “hiểu con, làm bạn với con” thì đơn giản, nhưng thực hiện được cũng không dễ. Nhưng khi trong tâm tưởng ta có điều đó, chí ít cũng làm cho khoảng cách giữa cha mẹ và con cái trong lứa tuổi thành niên gần lại.

Trong khi cứ tạm “hô khẩu hiệu” như vậy, thì đầu tư cho con một không gian riêng, đầu tư vào những môn học năng khiếu, phát huy sở trường, đam mê của tuổi vị thành niên cũng là một “hành động thiết thực” và có ý nghĩa. Bọn trẻ sẽ rất vui sướng nếu chúng được sở hữu một góc riêng, được tha hồ bày bừa và dọn dẹp, đương nhiên rồi, theo ý chúng. Chưa kể, những môn ngoại khoá còn làm dày thành tích của chúng và làm nền tảng vững chắc cho giai đoạn cột mốc ” vào đại học”, nhất là đối với những bạn có nguyện vọng du học, thì ngoài kết quả học tập tốt, thành tích của những môn năng khiếu, thể thao và các hoạt động ngoại khoá gần như là tấm vé thông hành bắt buộc.

Nếu quan tâm tới các con đúng cách, phụ huynh chúng ta nên phải đầu tư sớm ngay từ khi các con còn nhỏ, đợi tới tuổi “teen” cũng là hơi chậm rồi. Những đứa trẻ được cha mẹ hướng đến việc học tâp chính kết hợp với những môn năng khiếu sớm luôn có những thành tích đáng kể và có kết quả học tập tốt, phát triển tư duy toàn diện hơn so với những bạn chỉ được học văn hoá. Trong phạm vi bài viết này không có số liệu thống kê làm dẫn chứng về điều này, nhưng nếu so sánh học sinh ở thành phố lớn (thường được học thêm môn ngoại khoá) so với học sinh vùng cao, vùng sâu (hầu như chỉ đươc học văn hoá), chúng ta có thể hình dung được sự khác biệt này.

Rẩt may là đa số các phụ huynh thời đại này ý thức được việc cho con học ngoại khoá từ sớm (ngoại ngữ, nhạc, hoạ, thể dục, võ…) và xu hướng các trường mầm non, tiểu học ở các thành phố hiện nay mở các lớp ngoại khoá ngoài giờ ngay tại trường rất phổ biến. Thực tế này mang lại lợi ích không chỉ cho các trường học, cho học sinh mà còn rất tiện lợi cho phụ huynh không phải không phải mất công chạy tới chạy lui đưa đón con em mà có thể đón sau giờ làm việc.

Tuy nhiên, đầu tư học ngoại khoá thế nào là đúng cách luôn là vấn đề gây tranh cãi cho các phụ huynh. Người cho rằng không cần thiết nếu con không có năng khiếu, người lại cho là quá quan trọng, cần phải ép vào khuôn khổ trước rồi năng khiếu mới xuất hiện. Khách quan, phụ huynh nào cũng có lý, là bởi chỉ có họ mới hiểu rõ khả năng và nguyện vọng của con em và điều kiện, hoàn cảnh riêng của gia đình. Lựa chọn cách đầu tư cho con cụ thể thế nào, học những môn gì, không học những môn gì hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm cá nhân phụ huynh. Lựa chon thế nào thì tuỳ, nhưng cách đúng đắn nhất phụ huynh áp dụng cho con em mình luôn luôn là kết hợp giữa năng lực, sở thích, diều kiện của gia đình, và quan trọng nhất, vẫn là không tạo áp lực không cần thiết cho các con và cho cả chính bản thân cha mẹ và sự lựa chọn ấy phải mang lại kết quả nhất định cho chính con em mình.

Nếu con em chúng ta dành ra 1 giờ mỗi ngày để học đàn, piano chẳng hạn, sau 5 năm ít nhất con có thể chơi thành thạo ít nhất 20 bản nhạc, có thể tham gia các buổi biểu diễn thiện nguyện hoặc dàn nhạc của nhà thờ… Đây là một kết quả có thật, so với một bạn khác không học gì thì thời gian 1 giờ mỗi ngày đã không tạo ra kết quả gì mà còn có thể lấy đi của bạn này khoảng thời gian lẽ ra làm được những việc có ích thì lại sa đà vào các thú vui giải trí ti vi, điện thoại thông minh, ipad, games, mạng xã hội.. dễ gây nghiện và lãng phí thời gian vô bổ.

Quan tâm tới con, nghĩa là phải dành cả thời gian, đồng hành cùng con, chứ không chỉ là đầu tư itền bạc, vật chất cho con. Tuỳ theo tính cách con mình, cha mẹ có thể để con tự giác học tập, hoặc nghiêm khắc quan tâm, nhắc nhở. Tuy nhiên, trẻ con hay ngay cả các bạn tuổi “teen” đều vẫn chưa hoàn toàn trưởng thành, nên việc quan sát các bạn sát sao, thường xuyên để kịp thời uốn nắn, điều chỉnh là một việc rất cần thiết và là một quá trình lâu dài mất nhiều thời gian, công sức và cả sự kiên nhẫn.

Phụ huynh chúng ta nếu thực sự yêu thương con hãy yêu con một cách thông thái, đó là làm những gì tốt nhất cho con phù hợp với khả năng, nguyện vọng của con theo cách con mong muốn, chứ không phải là cái chúng ta mong muốn. Nếu không chúng ta sẽ dễ bị rơi vào cái bẫy ngọt ngào “ để cho con tự do “ của sự lười biếng cha mẹ do quá bận rộn nại ra để bỏ quên, không đi sâu đi sát để con hoặc là từ bỏ đam mê, có năng khiếu mà không phát huy… hoặc là áp đặt quá làm con không còn thấy yêu thích học những môn cha mẹ bắt buộc, học cầm chừng, đối phó.

Trở lại vấn đề tuổi “teen”, khi các bạn ở trong độ tuổi, có một nhận thức nhất định, bắt đầu muốn thể hiện bản thân và chính kiến, các bạn cũng có một thái độ nhất định đối với cách giáo dục của cha mẹ mình. Các bạn sẽ thực sự tự hào, trân trọng và tâm phục khẩu phục cha mẹ mình nếu cha mẹ cũng tôn trọng các bạn, để các bạn được là chính mình hơn là cách cha mẹ hết lòng yêu thương nhưng áp đặt thói quen, sở thích và cả kỳ vọng của bản thân cha mẹ lên đôi vai các bạn.

Đầu tư cho các con chưa bao giờ lỗ vốn, mà còn là khoản đầu tư chính đáng nhất trong đời ta. Nhưng để có một kết quả tốt, có khả năng sinh lời, phụ huynh chúng ta còn cần một chút kiên nhẫn, một chút khoảng không nới lỏng ranh giới cho các bạn “teen” được thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình, và không bao giờ quên cho các bạn biết rằng cha mẹ luôn đồng hành cùng các bạn.

Làm được như vậy, cả nhà đều vui, phải vậy không bạn?

 

Julia Le

Cơm áo gạo tiền và sự lựa chọn nghề nghiệp

Photo: Pete

 

Nhân câu chuyện về buổi giao lưu chia sẻ với các a em ngày thứ 6 vừa rồi, ngẫu hứng viết một bài viết cũng với chủ đề: Cơm áo gạo tiền và sự lựa chọn nghề nghiệp. Khác với những buổi gặp gỡ khác, và không đơn thuần chỉ là lắng nghe và chiêm nghiệm, với buổi chia sẻ này ai cũng được nói và trải lòng mình. Nghe những câu chuyện của mọi người, của Khac Tu Nguyen hay của a Pham Phan, anh Phạm Văn Cương, hay của Tonny Thành. Đó là câu chuyện về một người chưa tìm được đam mê của mình và vẫn đang duy trì một công việc khác mà mình không thích để trang trải cuộc sống.

Hay đó là câu chuyện về một người truyền cảm hứng, người muốn đứng trước sân khấu, muốn mang lại niềm vui cho mọi người nay vì một số lý do mà phải bỏ dở giữa chừng. Tiếp đó là câu chuyện của một anh chàng CEO tương lai với hành trình không ngừng nghỉ, cho dù là bỏ học giữa chừng hay dọn nhà ra ở riêng, tất cả cũng vì một niềm đam mê. Cuối cùng là câu chuyện về một lập trình viên, với niềm đam mê tin học từ những ngày học cấp 3 nay đã có một tiền đồ hết sức sáng lạng với thu nhập không dưới 7 con số 0.

Những câu chuyện thú vị, những con số biết nói?

Với mỗi câu chuyện chúng tôi luôn đặt ra câu hỏi cho anh (bạn) ấy: Liệu đó có phải là công việc phù hợp với bạn không, bạn có định làm công việc này lâu dài không. Số đông lựa chọn giữa việc chấp nhận một công việc ít, thậm chí không có thu nhập và một công việc không ưa thích nhưng trang trải được cuộc sống. Chỉ có một số ít thực sự hài lòng với công việc hiện tại, cả về đam mê lẫn thu nhập.

Cuối cùng chúng tôi hỏi mọi người: Nếu tiền không phải là vấn đề, nếu như một ngày tiền không còn giá trị thì bạn muốn một công việc như thế nào? (nhưng rất tiếc do một số lý do mà câu hỏi này còn bỏ ngỏ, nhưng tôi tin khi nhận được trả lời, chúng ta sẽ đều bị sốc)

Kiếm tiền hay cống hiến

Trong khi viết những dòng này thì cùng lúc tôi đang làm cho mình một bản kế hoạch cuộc đời, một bản kế hoạch cho tất cả những gì tôi muốn đạt được trong 1 năm, 5 năm và thậm chí 20 năm nữa. Đương nhiên là có cả mục tiêu “kiếm tiền”. Nhưng tôi thay đổi tựa đề thành “cống hiến”. Hầu hết những lứa sinh viên mới ra trường như tôi đều có một niềm trăn trở đó là mình sẽ làm gì để trang trải cuộc sống đây khi không còn sự chu cấp của gia đình nữa hoặc vì lý do nào khác. Bất kể nơi nào kiếm được tiền thì mình sẽ đến đó… và có rất nhiều lý do để chúng ta lăn xả vào kiếm tiền mà quên rằng bản chất thực sự của việc kiếm tiền đó là kết quả của sự cống hiến. Bạn cho đi và bạn sẽ nhận lại, đó là điều tất yếu. Với tôi sự cống hiến không chỉ giúp mình trang trải cuộc sống mà quan trọng hơn nữa nó còn giúp tôi trưởng thành, giúp tôi học được nhiều điều hơn. Vậy còn bạn thì sao, bạn đang kiếm tiền hay cống hiến?

Hạnh phúc hay cái đích khác?

Tính đến nay tôi đã đi hết được 1/3 cuộc đời, chặng đường đi được chưa được bao nhiêu, nhưng rất may mắn khi gặp được 3 người thầy đáng quý trọng. Người đầu tiên là bố mẹ tôi với bài học vỡ lòng: “Hạnh phúc là cái chúng ta luôn hướng đến, con trai à.” Người thầy thứ 2 đó là sư phụ mà 3 anh em chúng tôi bái sư, và cũng là một người tôi hết sức ngưỡng mộ, anh đã giúp tôi hiểu rằng hạnh phúc không đến từ bên ngoài mà đến từ chính bên trong chúng ta. Người thầy cuối cùng đó là những cuốn sách. Tôi lớn lên với sách, ăn ngủ với sách, giác ngộ cũng nhờ sách.

Và sau những điều đấy tôi học được rằng hạnh phúc mới là cái chúng ta hướng tới trong cuộc đời này chứ không phải sự dư dả vật chất hay bất kỳ thứ gì khác.

Có một câu nói nổi tiếng mà tôi rất thích nghe đó là: “Không có tiền cạp đất mà ăn à.” Nghe đi nghe lại mới thấy càng chuẩn. Tiền là công cụ trung gian để đáp ứng những nhu cầu của con người, trong đó có nhu cầu tối thiểu nhất đó là sinh tồn, ăn mặc, ở. Tiền cũng là công cụ để giúp mang lại hạnh phúc theo một cách nào đó. Tiền rất quan trọng nhưng đáng tiếc không phải là tất cả. Chúng ta đang bị cuốn vào những cuộc chạy đua, chúng ta đang vô tình trở thành những người “làm tiền”. Tôi mới chỉ nghe những bài báo tan nát gia đình, hay thảm án đêm khuya vì tiền chứ chưa từng nghe nói rằng có bất kỳ vụ án hay sự vụ nghiêm trọng nào do hung thủ là “hạnh phúc” cả.

Chỉ cần đam mê liệu bạn có trang trải được cuộc sống

Có nhưng chưa đủ. Thế kỷ 21 đã chứng minh cho chúng ta thấy tất cả những tỷ phú triệu phú trên thế giới đều có chung một xuất phát điểm đó là đam mê. Nhưng chỉ đam mê thôi thì chưa đủ, ngoài ra còn kiên trì, sáng tạo, thói quen tốt,.. và chỉ khi những yếu tố đó cùng kết hợp mới tạo nên những cuộc đời thành công những thương hiệu triệu đô…

Nhưng bạn thân mến, chúng ta đang nói về câu chuyện trang trải cuộc sống, chứ không phải về một gia tài triệu đô hay tỷ đô. Bạn có biết nhưng câu chuyện ở trên tại sao tôi lại sắp xếp như vậy không. Từ câu chuyện một người chưa biết rõ đam mê của mình, tiếp đến là chuyện về anh chàng đã khám phá ra đam mê, sau đó là một CEO tương lai đang trên đường học hỏi để từ đam mê trở thành một nghề nghiệp, và cuối cùng là câu chuyện của lập trình viên người đã phát triển đam mê thành một nghề nghiệp và kiếm tiền từ nó.

Những câu chuyện đó đã cho chúng ta thấy rằng để phát triển từ đam mê đến một nghề nghiệp hái ra tiền đó là một quá trình tích lũy không ngừng. Cũng giống như khi bạn chăm sóc một vườn cây, bạn luôn mong muốn một ngày chính tay bạn sẽ hái những quả chín mọng từ vườn cây đó nhưng nếu bạn không gieo hạt, không chăm sóc cho nó thì lấy quả ở đâu ra. Trong cuộc sống cũng vậy, có những người đang gieo hạt, và có những người đã hái quả rồi đấy. Còn bạn thì sao? Hãy nghĩ kỹ đi nào, lựa chọn một công việc là đam mê của bạn hay một công việc bạn không thích nhưng đủ trang trải cuộc sống.

Tôi đã từng thấy một anh chàng ca sĩ sáng chiều đến văn phòng đối mặt với công việc mình không thích để trang trải cuộc sống và cuối tuần hát tại các phòng trà chỉ để nuôi dưỡng niềm đam mê của mình. Và cuối cùng khi cảm thấy không còn thích hợp với công việc văn phòng, anh đã quyết đi theo con đường nghệ thuật. Bạn có thể làm theo chàng ca sĩ này tất nhiên rồi. Nhưng không sớm thì muộn bạn cũng sẽ quay trở lại với chính đam mê của mình! Vậy tại sao lại không theo đuổi nó từ đầu? Viết miên man một hồi thì gà đã gáy rồi, chợt nhìn lại bản thân mình,… cảm thấy những gì mình đang làm thực sự có ý nghĩa, và thấy hạnh phúc… như vậy là đủ rồi.

Đôi dòng chia sẻ, mong nhận được ý kiến từ mọi người.

 

Tuan Dao

Biết mình muốn gì

Photo: Richard Stewart James Gaston

 

Đến khi nào ta mới biết điều mình thực sự mong muốn trong đời? 10, 20, 30, 40, 50, 60, 70 hay bao nhiêu tuổi?

Mỗi tuổi mỗi mong muốn khác, nhưng số những điều ta thực sự mong muốn trong đời của mỗi người có lẽ cũng không quá nhiều. Có nhiều khi ta tưởng như đã nắm chắc được mong muốn đó rồi, nhưng hóa ra không phải, đó chỉ là mong muốn ngắn hạn, nhất thời. Hoặc khi đạt tới nó, ta lại có mong muốn khác lớn hơn, khó hơn nữa.

Những mong muốn thông thường như học đại học, có việc làm, lập gia đình, có con, có xe, có nhà, có công việc tốt, thu nhập ổn định… thì đa phần ai cũng phải có và trải qua, nên nó không còn là điều mong muốn đặc biệt riêng tư nữa. Tất nhiên, với nhiều người, đạt được những mong muốn này cũng đã coi như hoàn thành bổn phận cuộc đời họ. Tôi thì muốn nói đến những mong muốn khác, mong muốn thầm kín, riêng tư, là sứ mệnh của mỗi người và cách người ta phát hiện, theo đuổi, đạt được sứ mệnh của mình.

Thật may mắn khi ngay từ tấm bé ta đã phát hiện ra điều làm ta say mê, khao khát và cứ thế theo đuổi nó theo thời gian, ngày càng thấy rõ hơn khả năng của ta trong đó và sớm tập trung được mọi năng lực để đi đến kết quả. Có những người đi hết nửa đời người mới tìm ra sứ mệnh của mình, người can đảm thì từ bỏ hết để đi theo cái mình vừa phát hiện. Người sợ thay đổi thì không dám thay đổi, cứ giữ nguyên hiện trạng để rồi sau đó nuối tiếc, mà cái hiện tại cũng chẳng làm họ hài lòng.

Nhưng tìm ra được thì muộn vẫn còn tốt hơn là những người chẳng biết mình muốn gì, chẳng biết đặt khả năng của mình vào đúng chỗ, để phát huy, biến khả năng thành kết quả.

Theo tổng kết chung thì thường con người ta khi về già lại nuối tiếc về những điều mình chưa dám làm trong đời nhiều hơn là tiếc về những điều đã làm. Bởi vậy, nếu đã biết chắc chắn mình mong muốn những điều gì nhất trong đời mình, thì không bao giờ là quá muộn để thực hiện.

Ai cũng chỉ có một cuộc đời để sống. Tại sao lại không sống vì những điều làm ta khát khao, cháy bỏng, muốn cống hiến hết mình thay vì sống một cuộc đời êm ái nhưng nhạt nhòa.

Những người dám sống trọn vẹn cho những mơ ước của mình thành hiện thực, dù người đời có công nhận hay không, có biểu lộ thế nào, thì chắc chắn đó cũng vẫn là một người hạnh phúc.

Trẻ con, nếu từ nhỏ đã dám ước mơ, dám làm theo ý mình đến cùng, chẳng lý gì mà bậc làm cha mẹ chúng ta lại cấm cản, thay vì thế việc nên làm là động viên, khích lệ, đầu tư, nuôi dưỡng ước mơ cho chúng. Dù sau này có thành hay không, chắc chắn chúng vẫn biết ơn cha mẹ đã hiểu và ủng hộ chúng.

Nếu bạn biết chắc mình muốn gì, điều gì làm bạn hạnh phúc, chắc chắn bạn sẽ là người tìm thấy hạnh phúc ở quanh bạn, không cần biết lúc đó bạn bao nhiêu tuổi.

Tuy nhiên, tôi vẫn muốn chúc bạn biết được điều đó, càng sớm càng hay!

 

Julia Le

Những cái kết trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng

 

I. Mở đầu

Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912. Ông từ nhỏ đã tỏ ra có năng khiếu nghệ thuật: Giỏi vẽ, biết đánh đàn nguyệt, soạn bài hát cải lương, cũng thích làm thơ. Nhưng do điều kiện gia đình khó khăn mà Vũ Trọng Phụng không thể chỉ chuyên tâm vào làm nghệ thuật. Ông đã phải kiếm sống rất cực nhọc lại nhiễm lao nặng nên qua đời khi mới 28 tuổi vào ngày 13 tháng 10 năm 1939.

Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng ông đã để lại cho nên văn học Việt Nam giai đoạn 30-39 một khối lượng tác phẩm không những đồ sộ mà còn mang giá trị thời đại sâu sắc. Có lẽ chính sự đối nghịch trong cuộc sống – nghèo khổ, bệnh tật, cuộc sống ngắn ngủi và số lượng lớn tác phẩm giá trị, đặc sắc, nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng đã khiến ông không chỉ thấu hiểu xã hội “chó đểu” đương thời mà còn có một phong cách viết văn trào phúng điển hình.

Cùng với Vũ Trọng Phụng còn có Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nam Cao… đã để lại nhiều dấu ấn trên văn đàn Việt Nam thời kỳ đó.Vậy nên thách thức “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” đối với Vũ Trọng Phụng là rất khó khăn. Ông đã viết qua nhiều thể loại như phóng sự, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… Tuy truyện ngắn không phải thể loại thành công nhất của ông nhưng cũng đã đánh dấu những chặng đường phát triển của Vũ Trọng Phụng. Và hơn thế nữa, người đọc bắt gặp ở truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng những manh nha cho tư tưởng tiểu thuyết sau này.

Chính vì vậy mà việc tìm hiểu truyện ngắn Vũ Trọng Phụng cũng là một vấn đề quan trọng không thể bỏ qua khi nghiên cứu đến sự nghiệp sáng tác của ông. Trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng ngoài yếu tố đá kích sâu cay còn có yếu tố châm biếm bất ngờ và thường xảy ra ở đoạn kết. Để tìm hiểu ý nghĩa những cái kết trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng thì ta nên đi tìm hiểu ba vấn đề: nhân vật, nút thắt trong truyện và quan điểm của Vũ Trọng Phụng.

II. Nội dung chính

1. Nhân vật

Hệ thống nhân vật được xây dựng trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng không có cái tài năng của Nguyễn Tuân, không có sự tinh tế của Thạch Lam mà gần với cái giản dị của Nam Cao. Nhưng có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa “đứa con tinh thần” của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao là nhà văn Nam Cao vẫn luôn tin vào một “nhân chi sơ tính bản thiện” của các nhân vật. Điển hình như Chí Phèo đã được “giải độc” sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở. Còn Vũ Trọng Phụng thì lại xây dựng một ranh giới rõ ràng giữa thế giới của những đứa đạo đức giả với thế giới của những con người bất hạnh sống trong xã hội “chó đểu”. Ví dụ như trong “Thủ Đoạn” xuất hiện song song một xã hội thượng lưu dâm ô, bẩn thỉu với lão chủ, cậu ký bên cạnh một tấm lòng đẹp đẽ của cô ký. Những quan chức nhà nước, bác đánh giậm, thằng nghiện, anh em trong cùng một gia đình… nhưng lại có thái độ, suy nghĩ và hành động không phải của quan chức nhà nước, bác đánh giậm, thằng nghiện, anh em trong cùng một gia đình… đã tạo nên những nghịch lý. Có ai ngờ đâu một anh chàng quyết tâm cai nghiện, vứt thư tình của người yêu cũ vào lò sưởi để bạn mình không tống tiền được người yêu lại là một “gương… tống tiền” – vừa tống được tiền mà vừa được thương yêu. Cả một câu truyện mà chỉ đến đoạn văn cuối cùng Vũ Trọng Phụng mới để nhân vật bộc lộ tính cách thật và làm người đọc vừa giật mình ngỡ ngàng vừa chua xót thay cho cô người yêu (Gương… tống tiền – Vũ Trọng Phụng). Sự bất ngờ trong cách xây dựng suy nghĩ và hành động nhân vật chính là một yếu tố làm cho cái kết trở nên hấp dẫn hơn, châm biếm hơn.

2. Những “nút thắt” được tháo bằng “cái kết”

Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nói trong Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn: “Trong văn chương, tôi không bao giờ tin rằng có một cái tài nào đó chỉ nhờ biết đặt câu, dùng từ cho khéo, biết quan sát và mô tả sự vật cho tinh mà có thể tạo nên được những tác phẩm có giá trị thật sự. Văn học là tâm huyết, là thứ tư tưởng – nhiệt tình tự nó hiện hình thành những nhân vật đầy sức sống, tự nó đẻ ra những chữ có góc có cạnh, có hình có khối, có hơi thở phập phồng trên trang giấy. Ở Vũ Trọng Phụng, cái tư tưởng – nhiệt tình ấy là gì? Ấy là niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội ác độc, bất công vô lý và “chó đểu” thời thuộc Pháp và khát vọng muốn đập tan tành nó di để xây dựng một xã hội công bằng hơn, có nghĩa lý hơn.” Trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng thì chưa thể hiện được một cách suất sắc và đầy đủ cái “tư tưởng – nhiệt tình” của ông nhưng nó đã làm tiền đề cho sự thành công của các tác phẩm sau này. Truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng chủ yếu có cốt truyện liên quan đến đề tài tiền và tình. Những nút thắt trong truyện sinh ra cũng từ tiền và tình. Gia đình nhân vật tôi và Ký Bích trong Một đồng bạc là ví dụ cụ thể của lối sống vật chất.

Câu chuyện được xây dựng dựa trên ký ức của nhân vật tôi. Vừa tự nhiên lại vừa sống động, người đọc có lẽ chẳng lạ với cái cảnh “của biếu là của lo, của cho là của nợ” nhưng Vũ Trọng Phụng đã đưa vấn đề này vào truyện hết sức thành công khi hiện thực cuộc sống, xã hội, con người được vạch ra, chỉ rõ không kiêng nể. Khi hai gia đình còn êm đềm, của biếu của cho đã là gánh nặng nhưng họ vẫn vui vẻ và giả tạo. Rồi Vũ Trọng Phụng đã đặt vào một nút thắt sa cơ cho gia đình Ký Bích. Như một tấm kính mờ hơi nước được người ta lấy giẻ lau cho sạch, cho trong. Hành động của kẻ có tiền khác hẳn và làm cho cái kết truyện chìm trong hối hận… vì một đồng bạc.

Chính những nút thắt hợp lý nhưng sắc sảo mà Vũ Trọng Phụng chọn đã giúp ông tố cáo thành công bộ mặt của xã hội nửa phong kiến thời Pháp thuộc. Cuộc sống của bà lão giàu sang, phúc đức bỗng một ngày sa cơ phải ở nhà cháu. Nhưng chỉ vì túng quẫn, thiếu miếng ăn mà mụ vợ đang tâm để bà cô chồng mù loà ngồi ngoài đê trong đêm mưa gió để sáng hôm sau, bác chồng ra bờ đê thì chỉ còn thấy xác của bà cụ đã bị quạ rỉa nát nhừ. Cái kết khiếp đảm đã trả lời cho cái nút thắt “bà lão sẽ sống thế nào trong cảnh nghèo khổ ấy?”. Nhưng nó đã trả lời đầy oán giận và đau đơn (Bà lão loà – Vũ Trọng Phụng). Chỉ có những nhà văn đã trải qua cảnh sống khốn khó thì mới vắt được ra những dòng tâm huyết như thế. Và với những kinh nghiệm mà cuộc đời đã dạy cho, đã tôi luyện nên thì ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã đả đúng, đả đau xã hội đương thời. Những kết thúc không những bất ngờ mà còn đáng kinh khiếp như những cái chết của bà lão loà, của cô kí, của ông bố có bộ răng vàng… đã thay hết thảy các bản cáo trạng đanh thép nhất để lên án hiện thực xã hội.

3. Quan điểm sống và viết của Vũ Trọng Phụng

“Cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người.” (Lý luận văn học tập II – Trần Đình Sử) Vậy nên nếu truyện ngắn chỉ có tố cáo để thương xót là thiếu sót, là không đủ. Truyện ngắn cần có thêm những triết lý được đúc rút từ tác giả gửi gắm thông qua các nhân vật. Ví dụ như câu: “Trên thế gian cũng như trong vũ trụ, vật nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng có một lý.” Của sư cụ Tăng Sương (Sư cụ triết lý – Vũ Trọng Phụng). Hay câu “Tuy rằng chẳng ai lại hoàn toàn thật thà với ai bao giờ, điều ấy thì ai cũng thừa biết, vậy mà người nào cũng cứ ao ước sẽ có kẻ thật thà với mình…” (Cái ghen đàn ông – Vũ Trọng Phụng). Những câu mang ý nghĩa triết lý hay chính là quan điểm của tác giả với vấn đề được bàn tới trong truyện phần lớn đều là những nghịch lý.

Vâng, “vật nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng có một lý” và nghĩa lý của sư cụ chính là miếng thịt chó thơm phức. Rồi đến cái điều đơn giản là “chẳng ai thật thà hết nhưng lại cứ mong người ta thật thà hết với mình” của Giao Đài trong “Cái ghen đàn ông” cũng được tìm ra và phát biểu thành câu thành chữ. Thực ra mục đích cuối cùng của những quan điểm đó là đưa cho độc giả xem cái suy nghĩ, cái nhìn của chính tác giả. Từ đó dẫn dắt con người ta đi đến sự chiêm nghiệm về những vấn đề trong đời sống cũng như giải thích cho cách kết truyện mà tác giả đưa ra. “Than ôi, con người ta khi lâm vào cảnh nghèo, có ai mà lại không hèn” chính nhân vật tôi trong “Một đồng bạc” đã xót thương chị Ký Bích bằng cái ý nghĩ ấy. Nhưng rồi sau này, nhân vật tôi đã ân hận mãi khi lạnh lùng với chị Ký Bích chỉ vì tiền. Câu “có ai nghèo mà không hèn” lúc này ngầm định như là sự xót thương của chính tác giả, người đọc dành cho nhân vật tôi.

III. Kết luận

“Ý nghĩa của tác phẩm văn học là nội dung của nó trong sự tiếp nhận của người đọc thuộc các thế hệ, thời đại.” (Lý luận văn học tập II – Trần Đình Sử) Đối với các tác phẩm truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, ta có thể đánh giá trên hai phương diện: Tính thời đại và tính lịch sử. Truyện ngắn của ông được viết vào thời gian xã hội Việt Nam đang vô cùng đen tối và nội dung tác phẩm cũng phản ánh được những mù mịt, kinh rợn của xã hội nên nó mang tính thời đại rất cao. Bên cạnh đó, khi đã trải qua giai đoạn 30-45 của đất nước và sống trong thời bình, độc giả đọc truyện ngắn Vũ Trọng Phụng không còn để khơi dậy lòng căm thù và ý chí đập tan xã hội “chó đểu” mà là để nhìn lại một chẳng đường đã qua. Một chặng đường đầy nguy nan của dân tộc Việt Nam được thể hiện sinh động và đầy nghệ thuật trong tác phẩm. Qua đó cũng thức tỉnh ý thức con người sống trong xã hội phải sống sao cho có lương tâm, có đạo đức. Đó chính là ý nghĩa lịch sử.

Trong cái ý nghĩa chung của toàn bộ tác phẩm thì cái kết chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó vừa thể hiện được con mắt nhìn sự việc của Vũ Trọng Phụng lại vừa thể hiện được thái độ của ông đối với những vấn đề trong truyện. Từ đó mà người đọc có thể biết thêm đã có một xã hội như thế, những con người như thế tồn tại bên trong dân tộc Việt Nam anh hùng để tự cảnh tỉnh chính bản thân. Qua đó, ta cũng có thêm được những tư liệu chân thực và xác đáng để nghiên cứu và đánh giá đúng về con người Vũ Trọng Phụng.

 

 Phong Linh