16.3 C
Da Lat
Thứ Năm, 25 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 208

Lọc thông tin

Featured Image: John

 

Thời buổi thông tin lan truyền nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Chỉ một tin thôi, hàng loạt kiểu đưa tin và muôn vàn bình luận. Đọc tới đọc lui cũng chỉ có nhiêu đó thông tin. Đứng ở góc độ này ta thấy thế này, đứng ở góc ngược lại, ta sẽ thấy khác. Nhận thức ở mức này ta thấy vậy, nhận thức khác ta thấy không phải vậy.

Những người có công việc liên quan đến truyền thông, thì người ta viết gì, nói gì, cũng là nghề của họ. Họ được trả lương để làm việc đó. Những người có đạo đức nghề nghiệp, họ sẽ đưa ra những thông tin có giá trị và có trách nhiệm. Ok.

Những người khác, những người kinh doanh, họ vừa biết tận dụng, khai thác thông tin và thu được lợi nhuận từ thông tin, hợp pháp mà vẫn nghĩ đến trách nhiệm với xã hội. Cũng tốt.

Còn những người phó thường dân chúng ta thì sao?

Trong một thế giới mà từ lúc mở mắt tới khi khép mắt lại trong suốt một ngày, chúng ta có thể tiếp nhận ti tỉ thông tin từ vô số các nguồn, các phương tiện rất dễ dàng. Việc chúng ta đọc gì, nghĩ gì, chính kiến của chúng ta là gì mới là cái cần nói.

Đọc thì cứ đọc. Đọc để nắm bắt thông tin, tình hình thời sự, kinh tế, chính trị, xã hội, để áp dụng, điều chỉnh cho cuộc sống của bản thân và gia đình mình… Tốt quá.

Đọc để mở mang kiến thức, có cái nhìn sâu rộng, đa chiều về cuộc sống, để học hỏi từ những người có chuyên môn, kinh nghiệm, có tâm hồn phong phú, để áp dụng và thực hành rèn luyện những thói quen tốt, những kỹ năng sống thực tế của bản thân… Trên cả tuyệt vời.

Nhưng đọc để chìm sâu trong tranh luận vô bổ, sa đà mất thời gian, không chọn lọc những thông tin khách quan, nhiều chiều, gợi suy ngẫm mà để mình bị dẫn dắt theo những thông tin khác lề, bị cuốn vào lối suy nghĩ của số đông, quên cả chính kiến và nguy nhất là quên rằng khoảng thời gian mình bỏ ra cho một sự kiện hot này là quá nhiều. Nồi cơm nhà bạn có thể chưa bị ảnh hưởng, nhưng chắc chắn, công lực của bạn thì sẽ bị phân tâm ít nhiều. Những sự kiện như vậy nhan nhản hàng ngày, đó là nghệ thuật của truyền thông, họ đang làm việc và được trả lương. Gì chứ đưa một sự kiện nào ‘lên đĩa’ hay ‘xuống cống’ là nghề của họ. Cãi nhau, tranh luận phỏng có ích gì?

Với những sự kiện, câu chuyện, chủ đề ta quan tâm, ta dành cho chúng nhiều thời gian hơn để đọc và suy ngẫm. Cái không thuộc phạm vi, thói quen, sở thích của mình, đơn giản là lướt qua hoặc bỏ qua. Chứ nếu đã không thích lại còn hăm hở xông vào đọc, rồi thấy trái chiều hay thấy mình đứng trong đội hình số đông ngược với quan điểm đọc được là la toáng lên, phán xét, dùng những lời lẽ cay nghiệt để bôi nhọ, chỉ trích, hạ bệ… thì quả là một trò chơi “hại não” của chính mình. Sử dụng những nơ-ron thần kinh của mình hoang phí, vô bổ quá. Có một điều tôi nghiệm được rất hay và chưa bao giờ chứng kiến nó sai là: “Đừng bao giờ phán xét người khác, nhất là khi bạn chưa trải nghiệm thực tế đó, vì bạn chưa bao giờ biết tại sao họ lại có thể làm như thế.”

Kinh Phật cũng dạy rằng: ” Hãy nhìn sự việc đúng với bản chất của nó, không thêm bất kỳ định kiến nào vào.” Ai cũng biết mà làm được thì khá khó, bởi vì chúng ta thường có xu hướng làm theo những gì dễ dàng, làm những gì bản năng mách bảo. Mà bản năng chúng ta, nếu hiểu rõ nó, ta biết chắc chắn rằng nó có đôi lúc phản chủ, là những khi nó nuông chiều theo cái tôi to lớn, vuốt ve những hư danh, ảo vọng, vị kỷ, hiếu thắng … khiến ta quên đi rằng đó hoàn toàn chỉ là cảm xúc nhất thời và chỉ đẹp đẽ như một lâu đài xây trên bờ cát.

Trở lại về chuyện lọc thông tin. Nếu chúng ta, mỗi ngày trôi qua, chỉ để tâm sức vào việc của người khác, thương vay khóc mướn chuyện của ông Trời… thì chúng ta tự đánh mất khoảng thời gian quý báu của mình lẽ ra làm được những việc hay ho hơn nhiều. Nhưng ngay cả tôi đôi khi cũng vậy. Khi đưa ra những điều này, tôi cũng mất 15-20 phút để gõ. Cũng vô bổ không kém J.

Nên tôi thích nói KHÔNG với những gì không thuộc về thế giới của mình để tập trung cho những việc tôi muốn làm, mà luôn cảm thấy không đủ thời gian.

Không chính trị, không tôn giáo!

Vâng. Tôi chẳng làm gì thay đổi được thế giới, tôi chỉ có thể chấp nhận thế giới như nó vốn có. Tôi thay đổi mình, để thích nghi, tồn tại và nhất là cố gắng sống một đời đáng sống.

 

Julia Le

Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 7

Featured Image: Trenton Gartke

 

Những người theo phái tự do (Liberals) thường nhấn mạnh vai trò quan trọng của cá nhân. Những người theo phái tự do thế kỷ XIX từng coi sự phát triển của cá nhân là vấn đến quan trọng nhất. “Cá nhân và chủ nghĩa cá nhân” từng là khẩu hiệu của phái tự do và tiến bộ. Bọn phản động đã tấn công quan điểm này ngay từ đầu thế kỷ XIX.

Những người duy lý và tự do thế kỷ XVIII từng chỉ ra rằng cần phải có những luật lệ tốt. Những phong tục cổ xưa, không thể biện hộ được bằng lý trí phải bị bãi bỏ. Lời biện hộ duy nhất cho một điều luật là nó có thúc đẩy sự thịnh vượng xã hội hay là không. Ở nhiều quốc gia, những người duy lý và những người tự do đòi hỏi rằng hiến pháp thành văn, quá trình sọan thảo luật lệ và những điều luật mới phải tạo điều kiện cho sự phát triển năng lực của từng cá nhân.

Phản ứng đã gia tăng, đặc biệt là ở Đức, mà luật gia, đồng thời là sử gia trong lĩnh vực luật pháp Friedrich Karl von Savigny (1779–1861) là người có đóng góp cực kì tích cực. Savigny tuyên bố rằng người không thể viết được luật, luật pháp là do tâm hồn của toàn thể bộc lộ ra bằng con đường bí mật. Đấy không phải là cá nhân suy nghĩ – đấy là cả dân tộc hay thực thể xã hội sử dụng cá nhân chỉ nhằm để thể hiện những tư tưởng của nó. Marx và những người Marxist đặc biệt nhấn mạnh tư tưởng này. Về mặt này, những người Marxist không phải là đồ đệ của Hegel, tư tưởng chính của Hegel về quá trình tiến hóa của lịch sử là tiến hóa về phía tự do của cá nhân.

Theo quan điểm của Marx và Engels, trong con mắt của cả dân tộc, cá nhân là không đáng kể. Marx và Engels phủ nhận ý kiến cho rằng cá nhân có vai trò trong quá trình tiến hóa của lịch sử. Theo họ, lịch sử đi theo con đường riêng của mình. Các lực lượng sản xuất vật chất đi theo con đường riêng của mình, chúng phát triển độc lập với ý chí của các cá nhân. Và các sự kiện lịch sử xảy ra là do sự tất yếu của quy luật tự nhiên. Các lực lượng sản xuất họat động như là người chỉ huy dàn nhạc giao hưởng vậy, chúng phải có người thay thế sẵn sàng, như người chỉ huy dàn nhạc phải có người thay thế nếu ca sĩ bị ốm. Theo tư tưởng này, Napoleon và Dante, là nói thí dụ thế, đều là những người không quan trọng – nếu họ không xuất hiện để đóng vai trò đặc biệt của mình trong lịch sử thì một người nào đó sẽ xuất hiện trên sân khấu để thay thế họ.

Muốn hiểu một số từ, bạn phải hiểu tiếng Đức. Từ thế kỷ XVII trở đi người ta đã tập trung nhiều cố gắng vào cuộc đấu tranh chống lại việc sử dụng những từ Latin và loại bỏ chúng khỏi tiếng Đức. Trong nhiều trường hợp, vẫn còn từ ngọai quốc mặc dù có những từ tiếng Đức cùng nghĩa. Hai từ này trở thành những từ đồng nghĩa, nhưng theo dòng lịch sử, chúng lại có những nghĩa khác nhau. Thí dụ, từ Umwälzung, nghĩa đen của từ cách mạng (revolution) trong tiếng Latin. Trong tiếng Latin từ này không có nghĩa nào là chiến đấu hết. Như vậy là từ cách mạng (revolution) đã có hai nghĩa – một nghĩa là bằng bạo lực, còn nghĩa kia là cách mạng từ từ, tương tự như “cuộc cách mạng công nghiệp”. Nhưng Marx sử dụng từ cách mạng (tiếng Đức) không chỉ cho những cuộc cách mạng bạo lực như Cách mạng Pháp hay Cách mạng Nga, mà còn cho cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra một cách từ từ nữa.

Nhận tiện nói them rằng thuật ngữ cuộc Cách mạng công nghiệp là do Arnold Toynbee (1852–1883) đưa ra. Những người Marxist nói rằng “Sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản thì không còn cách mạng nữa – hãy nhìn cuộc Cách mạng công nghiệp”.

Marx gán cho từ nô lệ, nông nô và những hệ thống ép buộc ý nghĩa đặc biệt. Công nhân cần phải được tự do, ông ta nói, để những kẻ bóc lột bóc lột họ. Ý tưởng này xuất hiện từ lời giải thích của ông ta cho sự kiện là chúa đất chăm sóc người công nhân ngay cả khi anh ta không làm việc. Marx giải thích những thay đổi theo hướng tự do vừa xuất hiện như là việc giải phóng những kẻ bóc lột khỏi trách nhiệm trước đời sống của người công nhân. Marx không nhận ra rằng phong trào tự do hướng tới việc lọai bỏ sự bất bình đẳng trước pháp luật, cũng như bất bình đẳng giữa chủ và tớ.

Karl Marx tin rằng tích lũy tư bản là trở ngại. Dưới mắt của ông, chỉ có một lý giải duy nhất cho việc tích tụ tài sản là một người nào đó cướp của một người nào đó. Đối với Marx, tòan bộ cuộc Cách mạng công nghiệp chỉ đơn giản là công nhân bị tư bản bóc lột mà thôi. Theo ông, sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản làm cho hòan cảnh của người công nhân càng tồi tệ them. Sự khác biệt giữa hòan cảnh của họ với hòan cảnh của nô lệ và nông nô chỉ là ở chỗ tư bản không có trách nhiệm lo lắng cho những người công nhân mà họ không thể bóc lột được nữa, trong khi chủ phải chăm sóc người nô lệ và nông nô. Đây mà một trong những mâu thuẫn không thể hóa giải được của hệ thống của Marx. Nhưng hệ thống này lại được nhiều nhà kinh tế học hiện nay chấp nhận mà không nhận thức được rằng có mâu thuẫn như thế.

Theo Marx, chủ nghĩa tư bản là giai đọan tất yếu và không thể tránh được trong lịch sử nhân lọai, tức là lịch sử đưa con người từ hoàn cảnh sơ khai đến thiên đường của chủ nghĩa xã hội. Nếu chủ nghĩa xã hội là bước đi tất yếu và không thể tránh được trên con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội thì người ta không được liên tục phàn nàn rằng những điều tư sản làm là xấu về mặt đạo đức – đấy là theo quan điểm của Marx. Thế thì tại sao Marx lại tấn công các nhà tư sản?

Marx nói rằng một phần sản phẩm bị tư sản chiếm đoạt và bóc lột từ người công nhân. Theo Marx, đây là điều rất xấu. Hậu quả là người công nhân không được tiêu thụ tòan bộ sản phẩm được sản xuất ra. Vì vậy mà một phần sản phẩm do họ làm ra không được tiêu thụ, nghĩa là “tiêu thụ dưới mức”. Vì lý do đó, vì có hiện tượng tiêu thụ dưới mức, cho nên suy thóai kinh tế xảy ra thường xuyên. Đấy là lí thuyết tiêu thụ dưới mức của Marx về suy thóai kinh tế. Nhưng ở chỗ khác, Marx lại mâu thuẫn với lý thuyết này.

Những người cầm bút theo trường phái Marxst không giải thích vì sao sản xuất lại đi từ những phương pháp đơn giản sang những phương pháp ngày càng phức tạp hơn.

Marx cũng không nhắc đến sự kiện sau đây: Khoảng năm 1700 dân số nước Anh khỏang 5,5 triệu người; giữa những năm 1700 dân số tăng lên thành 6,5 triệu người, 500.000 người ở trong tình trạng thiếu thốn. Tòan bộ hệ thống kinh tế đã tạo ra dân số “thặng dư”. Vấn đề thặng dư dân số xuất hiện ở Anh sớm hơn lục địa châu Âu. Điều này xảy ra trước hết là vì Anh là đảo quốc, không bị quân đội nước ngòai xâm lược cho nên dân số không bị giảm như ở châu Âu. Chiến tranh ở Anh là nội chiến; đấy là những cuộc chiến tranh tàn bạo, nhưng đã chấp dứt rồi. Và khi mà lối thóat cho dân số thặng dư biến mất thì số người thặng dư gia tăng. Tình hình ở châu Âu có khác; vì một lí do là cơ hội làm trong ngành nông nghiệp thuận lợi hơn là ở Anh.

Hệ thống kinh tế cũ ở Anh không thể giải quyết được công ăn việc làm cho số người gia tăng. Đa phần những người tăng thêm đều là những người khốn khổ – ăn xin, ăn cướp, ăn cắp và gái điếm. Họ được một số định chế như luật về người nghèo[1] và hội từ thiện của cộng đồng giúp đỡ. Một số bị bắt vào quân đội và hải quân để phục vụ ở nước ngòai. Trong nông nghiệp cũng thừa người. Hệ thống phường hội và những tổ chức độc quyền khác trong ngành công nghiệp chế biến làm cho công nghiệp không thể mở rộng được.

Trong những giai đọan tiền tư bản đó, sự phân biệt giữa các giai cấp trong xã hội, tức là giữa những người có thể mua được quần áo và giầy mới với những người không thể mua được, thể hiện rất rõ. Những ngành công nghiệp chế biến được sản xuất chủ yếu là cho những tầng lớp thượng lưu. Những người không có tiền mua quần áo mới mặc những đồ bỏ đi. Lúc đó ngành buôn bán quần áo cũ khá phát đạt – ngành này hầu như đã biến mất hoàn toàn sau khi nền công nghiệp hiện đại bắt đầu sản xuất cho cả những tầng lớp bên dưới. Nếu chủ nghĩa tư bản không cung cấp đủ phương tiện sống cho số người “thặng dư” này thì họ đã chết đói hết rồi. Trong thời tiền tư bản, bệnh đậu mùa từng làm chết rất nhiều người, ngày nay căn bệnh này gần như đã bị xóa sổ rồi. Những cải tiến trong lĩnh vực y tế cũng là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.

Điều mà Marx gọi là thảm họa lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp lại hoàn toàn không phải là thảm họa, nó mang lại sự cải thiện khác thường trong điều kiện sống của người dân. Nhiều người đáng lẽ đã chết thì nay có cơ hội sống. Marx nói rằng những cải tiến trong lĩnh vực công nghệ chỉ dành cho những kẻ bóc lột và hiện nay quần chúng sống trong tình trạng tồi tệ hơn thời trước khi diễn ra cuộc Cách mạng công nghiệp là sai. Tất cả những điều mà những người Marxist nói về bóc lột là hoàn toàn sai! Hoàn toàn dối trá! Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản đã làm cho nhiều người đáng lẽ đã chết thì nay có cơ hội sống. Và hiện nay nhiều người, phải nói là đa số người sống với mức sống cao hơn là tổ tiên họ cách đấy 100 hay 200 năm.

Trong thế kỷ XVIII đã có một số tác giả kiệt xuất – nổi tiếng nhất trong số đó là Adam Smith (1723–1790) — người biện hộ cho tự do thương mại. Họ tranh cãi chống lại độc quyền, chống lại các phường hội và đặc quyền đặc lợi do nhà vua và quốc hội ban phát. Thứ hai, một số người tài trí, những người hầu như không có tiền tiết kiệm và tư bản, đã bắt đầu tổ chức những người cùng khổ để tiến hành sản xuất, không phải trong nhà máy mà bên ngòai nhà máy, và không chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu mà thôi. Những người sản xuất vừa được tổ chức lại này bắt đầu làm ra những món hàng đơn giản cho quảng đại quần chúng. Một sự biến đổi to lớn đã xảy ra, đấy chính là cuộc Cách mạng công nghiệp. Và cuộc Cách mạng công nghiệp này đã làm ra cũng nhiều lương thực và những hàng hóa khác như số người đang gia tăng vậy. Karl Marx cũng nhìn thấy những điều đang diễn ra như bất cứ người nào khác. Ngay trước Thế chiến II dân số tăng nhanh đến nỗi ở Anh đã có 60 triệu người.

Không thể so sánh Mỹ với Anh. Ngay từ đầu Mỹ đã gần như là một nước tư bản chủ nghĩa hiện đại rồi. Nhưng chúng ta có thể nói rằng cứ tám người đang sống trong những nước thuộc nền văn minh phương Tây hiện nay thì bảy người sống được là vì có cuộc Cách mạng công nghiệp. Bạn có tin chắc rằng bạn là người sẽ sống sót ngay cả khi không có cuộc Cách mạng cộng nghiệp hay không? Nếu bạn không tin chắc thì xin dừng lại và cùng xem xét hậu quả của cuộc Cách mạng công nghiệp.

Cách Marx giải thích cuộc Cách mạng công nghiệp cũng có thể được áp dụng cho “thượng tầng kiến trúc”. Marx nói rằng “lực lượng sản xuất vật chất”, tức là công cụ và máy móc, sinh ta “quan hệ sản xuất”, tức là cơ cầu xã hội, quyền sở hữu..v.v.., quan hệ sản xuất lại sinh ra “thượng tầng kiến trúc”, tức là triết học, nghệ thuật và tôn giáo. Thượng tầng kiến trúc, Marx nói, phụ thuộc vào phụ thuộc vào địa vị giai cấp của cá nhân, nghĩa là phụ thuộc vào việc anh ta là nhà thơ, họa sĩ..v.v.. Marx giải thích mọi thứ diễn ra trong đời sống tinh thần của dân tộc từ quan điểm này.

Arthur Schopenhauer (1788–1860) được gọi là triết gia của những ông chủ kho hang và trái phiếu. Friedrich Nietzsche (1844–1900) được gọi là triết gia của các thương vụ lớn. Mỗi thay đổi trong ý thức hệ, trong âm nhạc, trong nghệ thuật, trong sáng tác tiểu thuyết và sáng tác kịch bản, những người theo trường phái Marx đều có ngay một lời giải thích. Mỗi cuốn sách mới đều được giải thích bằng “thượng tầng kiến trúc” của cái ngày cụ thể đó. Mỗi cuốn sách đều được gán cho một tính từ – “tư sản” hay “vô sản”. Giai cấp tư sản bị coi là đám người phản động, không cần phân biệt.

Đừng nghĩ rằng một người có thể suốt đời theo một ý thức hệ mà không tin vào nó. Việc sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản chín muồi” chứng tỏ một cách rõ ràng rằng những người không hề nghĩ rằng mình là người theo thuyết của Marx đã chịu ảnh hưởng của Marx. Ông bà Hammond, trên thực tế là tất cả các nhà sử học, đều chấp nhận các giải thích của Marx về cách mạng công nghiệp[2]. Trừ Ashton[3].

Karl Marx, trong giai đoạn hai của sự nghiệp của mình, đã không còn là người ủng hộ sự can thiệp của chính phủ vào họat động kinh tế nữa; ông ủng hộ laissez-faire. Vì ông mong chờ sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thay thế nó bằng chủ nghĩa xã hội sẽ diễn ra sau khi chủ nghĩa tư bản đã chín muồi hoàn toàn, ông ủng hộ việc để cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Vế khía cạnh này,trong các trước tác và tác phẩm của mình, Marx là người ủng hộ tự do kinh tế.

Marx tin rằng những biện pháp can thiệp là không tốt vì nó trì hõan sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội. Các liên đòan lao động đề nghị những biện pháp can thiệp, vì vậy mà Marx chống lại họ. Liên đòan lao động không sản xuất được gì và vì vậy mà nó không thể tăng được tiền lương nếu người sản xuất không sản xuất được nhiều thêm.

Marx tuyên bố rằng can thiệp gây thiệt hại cho quyền lợi của người công nhân. Những người xã hội chủ nghĩa Đức bỏ phiếu phản đối những cuộc cải cách xã hội của [Otto von] Bismarck dự định thực hiện vào khỏang năm 1881 (Marx chết năm 1883). Ở nước này (Mỹ – ND) những người cộng sản cũng chống lại kế họach kinh tế mới (New Deal). Dĩ nhiên là lý do thực sự của việc chống lại chính quyền là rất khác. Không có đảng đối lập nào muốn dành cho đảng khác quá nhiều quyền lực. Trong khi xây dựng cương lĩnh xã hội chủ nghĩa ai cũng ngấm ngầm nghĩ rằng mình sẽ là người lập kế họach hay nhà độc tài hoặc về mặt trí tuệ người lập kế họach hay nhà độc tài sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào anh ta và người lập hế họach hay nhà độc tài kia chỉ là nhân viên sai vặt của anh ta. Chẳng có người nào muốn trở thành thành viên bình thường trong kế họach của một người nào hết.

Ý tưởng về lập kế họach có nguồn gốc từ chuyên luận bàn về chế độ cộng hòa của Plato. Plato là người rất bộc trực. Ông đã phác thảo hệ thống do các triết gia cai trị. Ông muốn bãi bỏ tất cả các quyền và quyết định của cá nhân. Nếu chưa có lệnh thì không ai được đi, được nghỉ, ngủ, ăn, uống, tắm rửa. Plato muốn biến người ta thành những con tốt đen trong kế họach của ông. Cần phải có một nhà độc tài, ông này sẽ chỉ định một triết gia làm thủ tướng hay chủ tịch trong ủy ban quản lý sản xuất trung ương. Cương lĩnh của tất cả những người xã hội chủ nghĩa kiên định như thế — thí dụ như Plato và Hitler — còn lập kế họach sản xuất cho những người xã hội chủ nghĩa trong tương lai, cho việc nuôi dạy những thành viên tương lai của xã hội nữa.

Trong suốt 2.300 năm kể từ thời Plato, người ta thấy rất ít người phản đối ý tưởng này của ông. Thậm chí ngay cả Kant. Xu hướng ủng hộ chủ nghĩa xã hội về mặt tâm lý cần phải được tính đến trong khi thảo luận các tư tưởng của Marx. Chứ không chỉ giới hạn ở những người tự nhận là đồ đệ của Marx.

Những đồ đệ của Marx phủ nhận sự kiện, thí dụ như tìm kiếm kiến thức chỉ vì kiến thức. Nhưng trong trường hợp này họ cũng không phải là những người kiên định, vì họ nói rằng một trong những mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa là chấm dứt việc tìm kiếm kiến thức như thế. Họ nói rằng nghiên cứu những thứ vô ích là sự xúc phạm con người.

Bây giờ tôi muốn thảo luận ý nghĩa của việc xuyên tạc sự thật. Ý thức giai cấp không xuất hiện ngay từ đầu, nhưng nó nhất định sẽ tới. Marx phát triển học thuyết về ý thức hệ của ông vì ông nhận thức được rằng mình không thể trả lời được những lời phê phán chủ nghĩa xã hội. Câu trả lời của ông là: “Điều anh nói là không đúng. Đấy chỉ là ý thức hệ thôi. Khi chúng ta chưa có xã hội phi giai cấp thì tất cả những gì người ta nghĩ cũng đều là ý thức hệ giai cấp hết – nghĩa là dựa trên ý thức sai lầm”. Không cần bất kỳ giải thích nào nữa, Marx cho rằng ý thức hệ như thế có ích cho giai cấp và cho những thành viên của giai cấp làm ra ý thức hệ đó. Những tư tưởng như thế là nhằm theo đuổi mục đích giai cấp của họ.

Marx và Engels xuất hiện và trình bày tư tưởng giai cấp của giai cấp vô sản. Vì thế, từ đó trở đi học thuyết của giai cấp tư sản trở thành hoàn toàn vô ích. Người ta có thể nói rằng giai cấp tư sản cần sự giải thích như thể để làm an lòng lương tâm tồi tệ của họ. Nhưng tại sao họ lại có lương tâm tồi tệ nếu sự tồn tại của họ là tất yếu? Nó là tất yếu – theo học thuyết của Marx – vì không có giai cấp tư bản thì chủ nghĩa tư bản không thể phát triển được. Khi chủ nghĩa tư bản “chưa chín muồi” thì không thể có chủ nghĩa xã hội.

Theo Marx, kinh tế học tư sản, đôi khi được gọi là “lời biện hộ cho quá trình sản xuất của giai cấp tư sản”, giúp đỡ chính giai cấp tư sản. Những đồ đệ của Marx cũng có thể nói rằng dưới mắt của họ cũng như dưới mắt của những người bị bóc lột, tư tưởng mà giai cấp tư sản đổ vào lí thuyết tư sản sai lầm này cũng như phương thức sản xuất tư bản là có thể biện hộ được vì nó giúp cho hệ thống tồn tại. Nhưng đấy lại là lời giải thích rất phi-Marxist. Trước hết, theo học thuyết của Marx, hệ thống sản xuất tư sản không cần lời biện hộ nào hết, giai cấp tư sản bóc lột là vì việc của họ là bóc lột, cũng như việc của vi trùng là sống ký sinh vậy. Giai cấp tư sản không cần bất kỳ lời biện hộ nào. Ý thức giai cấp của họ chỉ cho họ rằng họ phải làm điều đó. Bản chất của tư sản là bóc lột.

Trong thư gửi cho Marx, một ông bạn người Nga viết rằng nhiệm vụ của những người xã hội chủ nghĩa là phải giúp giai cấp tư sản bóc lột hiệu quả hơn, Marx trả lời rằng không cần. Sau đó Marx viết một nhận xét ngắn, nói rằng nước Nga có thể tiến lên xã hội chủ nghĩa mà không cần trải qua giai đọan tư bản chủ nghĩa. Sáng hôm sau, chắc chắn là ông đã nhận ra rằng nếu ông thừa nhận là một nước có thể nhảy qua giai đọan tất yếu thì tòan bộ học thuyết của ông sẽ bị phá sản. Cho nên ông không gửi lời nhận xét này. Engels, người không sáng suốt bằng, phát hiện ra mảnh giấy trên bàn viết của Marx, ông liền chép lại và gửi bản sao của mình cho Vera Zasulich (1849–1919). Bà này là người nổi tiếng ở Nga vì đã tổ chức ám sát giám đốc sở công an thành phố St. Petersburg và được tha bổng – bà có nhóm luật sư biện hộ thông minh. Người đàn bà này đã cho công bố nhận xét của Marx và lời nhận xét này đã trở thành tài sản lớn của đảng Bolshevik.

Hệ thống tư bản chủ nghĩa là hệ thống, trong đó phải có công thì mới được thưởng. Nếu người ta không tiến bộ được thì người ta cảm thấy đau khổ. Họ không chịu công nhận rằng họ không tiến được là vì họ thiếu kiến thức. Họ đổ cho xã hội. Nhiều người lên án xã hội và quay sang chủ nghĩa xã hội.

Trong hàng ngũ trí thức xu hướng này còn mạnh hơn. Vì những người có nghề thường đối xử với nhau một cách bình đẳng cho nên những người có tay nghề thấp tự coi mình là “giỏi” hơn những người không có tay nghề và cảm thấy là xứng đáng hơn so với những thứ họ được nhận. Lòng đố kỵ có vai trò quan trọng. Đây là khuynh hướng mang tính triết học của những người bất mãn với tình trạng hiện hành. Có cả thái độ bất mãn với điều kiện chính trị nữa. Khi bất mãn, bạn sẽ hỏi nên tìm hiểu kiểu nhà nước nào.

Marx là người bất tài. Ông ta chịu ảnh hưởng của Hegel và Feuerbach, đặc biệt là những tác phẩm phê phán Thiên chúa giáo của Feuerbach. Marx công nhận rằng thuyết bóc lột được rút ra từ cuốn sách mỏng không có tên tác giả được xuất bản trong những năm 1820. Kinh tế học của ông ta là sự xuyên tạc học thuyết của [David] Ricardo (1772–1823)[4].

Marx chẳng hiểu gì về kinh tế học hết, ông ta không nhận thức được rằng người ta có thể lưỡng lự khi lựa chọn những phương tiện sản xuất tốt nhất. Một câu hỏi lớn là chúng ta phải sử dụng những tác nhân khan hiếm như thế nào. Marx cho rằng người ta thấy ngay cần phải làm gì. Ông ta không nhận thức được rằng tương lai bao giờ cũng là bất định, nghĩa là công việc của mỗi doanh nhân là lo liệu cho tương lai bất định. Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa công nhân và những người làm công nghệ tuân thủ doanh nhân. Trong chủ nghĩa xã hội họ sẽ phải tuân thủ các quan chức xã hội chủ nghĩa. Marx không xem xét sự kiện là có sự khác biệt giữa nói rằng cần phải là gì và làm cái mà một người nào đó nói rằng cần phải làm. Nhà nước xã hội chủ nghĩa chắc chắn là nhà nước cảnh sát.

Marx cố gắng tránh trả lời câu hỏi điều gì sẽ diễn ra trong chủ nghĩa xã hội, đấy chính là sự coi thường nhà nước. Trong chủ nghĩa xã hội tù nhân biết rằng họ bị trừng phạt là vì lợi ích của tòan thể xã hội.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Ludwig von Mises – Chủ nghĩa cá nhân và cách mạng cộng nghiệp


[1] English legislation relating to public assistance for the poor, dating from the Elizabethan era and amended in 1834 in order to institute nationally supervised uniform relief.
[2] J.L. and Barbara Hammond, authors of the trilogy The Village Labourer (1911), The Town Labourer (1917), and The Skilled Labourer (1919).
[3] T.S. Ashton, The Industrial Revolution 1760-1830 (London: Oxford University Press, 1998 [1948, 1961]).
[4] On the Principles of Political Economy and Taxation (London: John Murray, 1821 [1817]).

Sống sao cho sôi động, sống sao cho hạnh phúc!

Featured Image: Ezgi Koyagasioglu

 

Có một câu hỏi mà tôi nghĩ rằng sẽ nhận được sự quan tâm của rất nhiều các bạn trẻ đó là: “Làm sao chúng ta có thể xin được việc sau khi ra trường?”

Đầu tiên, tôi thấy rằng, chúng ta nên bỏ khái niệm hay cơ chế “xin–cho”, trên vị thế là những người có năng lực lao động, chúng ta không đi “xin” của ai cái gì cả, thực chất, chúng ta đang mang khả năng của mình đến chào hàng những tổ chức, doanh nghiệp đang có nhu cầu về năng lực và họ sẽ phải trả giá để mua lại cái năng lực của chúng ta mang đến. Đó là một giao dịch kinh doanh, tôi có năng lực, anh có tiền, chúng ta trao đổi với nhau một cách công bằng, không có sự xin–cho ở đây. Với góc nhìn tự chủ về bản thân và vị thế là một người bán năng lực của mình như vậy, chúng ta buộc phải tìm cách tự nâng cao chất lượng mặt hàng của mình để cạnh tranh với các hàng hóa từ người khác, không những để bán được mà còn phải mang lại sự hài lòng từ cả hai phía cho năng lực của mỗi con người.

Ngày nay, không thiếu những tấm gương trên mặt báo kể về những sinh viên trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn, bi đát vẫn vươn lên đạt kết quả học tập xuất sắc, nhưng rồi chúng ta nghĩ rằng đó là do hoàn cảnh khó khăn khiến họ có động lực để vươn lên. Cũng có những tấm gương khác hoàn toàn đối lập, trưởng thành trong những gia đình có điều kiện, học tập và sinh sống tại nước ngoài rồi thành danh, nhưng rồi chúng ta lại cho rằng đó là do họ có điều kiện để thành công.

Vậy một tấm gương như thế nào mới xứng đáng để cho chúng ta trân trọng và học tập đây, hay phải chăng thay vì tìm cách vươn lên, chúng ta luôn luôn tìm những lý do bao biện cho sức ì của bản thân để rồi chưa một lần cất bước phấn đấu trưởng thành hơn, hoàn thiện năng lực bản thân hơn, được xứng đáng với một công việc tốt hơn, thay vì cứ ngồi thẩn thơ suy nghĩ làm sao để có thể “xin việc”. Với tôi, cho dù là ai trong những đối tượng trên thì họ đều đáng trân trọng vì những cố gắng họ bỏ ra để đạt được thành công và để người khác phải ghi nhận và chúng ta cần phải học hỏi.

Nếu bạn chẳng thuộc diện đối tượng nào kể trên, hoàn cảnh chưa đủ khó khăn để có động lực phấn đấu, hay gia đình chưa đủ điều kiện để thành danh thì cũng chẳng sao cả. Bạn vẫn có thứ tài sản to lớn nhất mà tuổi trẻ ban cho là thời gian, với khối tài sản đồ sộ đó mà nhiều người phải mơ ước, tại sao bạn không sử dụng thời gian của mình để đánh đổi với những gì thú vị trong cuộc sống và nâng cao giá trị cho bản thân nhỉ.

Hãy dùng thời gian để tham gia học tập thật tử tế?

Có nhiều người không học đại học nhưng vẫn thành công như Bill Gates hay Mark Zuckerberg, vậy tại sao tôi lại phải cần học đại học, xin lưu ý một điều trước khi bỏ học đại học, họ đều là những sinh viên của các trường đại học hàng đầu nước Mỹ như Harvard, Standford, MIT… và việc được nhận vào những trường đại học danh tiếng như vậy đã khẳng định phần nào năng lực xuất sắc của họ. Vì vậy, nếu bạn đang học tập tại những ngôi trường hàng đầu thế giới kia và đang ấp ủ ước mơ kinh doanh, xin chúc mừng bạn, bạn có thể bỏ học được.

Dẫu có thất bại bạn một vài dự án, bạn vẫn có thể đường hoàng vui sống với vốn ngoại ngữ bạn nắm trong tay rồi, nhưng nếu ai đó vẫn đang được ngồi trên ghế giảng đường ở những ngôi trường khác, nơi bạn vẫn còn đang yếu về ngoại ngữ, còn hơi non nớt về kiến thức chuyên ngành, xin hãy hãy tập trung học hành một cách nghiêm túc nhất có thể với năng lực của bản thân, điều đó thể hiện sự tôn trọng của bạn trước hết với chính mình và sau đó là cho xã hội. Nơi đây, cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn, nơi chúng ta không thiếu những kẻ khôn lỏi, nhưng lại khao khát những con người tài năng thật sự.

Hãy dùng thời gian để trải nghiệm cuộc sống thật thú vị?

Học tập chăm chỉ nhưng không có nghĩa phải trở thành một con mọt sách, còn trẻ, còn nhiều thời gian, hãy đối đầu với những thách thức, khó khăn, quen với chúng, gạt bỏ sự sợ hãi, sẵn sàng thử nghiệm những gì mới và chấp nhận thất bại. Nếu bạn còn yếu và sợ giao tiếp, hãy tham gia một lớp học giao tiếp hoặc những câu lạc bộ khắp các trường đại học, điều đó sẽ cho chúng ta mối quan hệ, rèn luyện khả năng nói chuyện với mọi người. Nếu bạn gầy ốm, đi học bơi, học nhảy hoặc tham gia vào một môn thể thao hoàn toàn mới lạ sẽ mang lại cho bạn những trải nghiệm rất bất ngờ thú vị, cùng với sức khỏe để học tập và tiếp tục chinh phục những thử thách mới.

Quan niệm về việc tham gia những trải nghiệm thứ thế đòi hỏi phải có nguồn tài chính, tôi không nghĩ vậy, chỉ mất vài trăm nghìn đến một, hai triệu động là bạn có thể tự mình xách ba lô và bắt xe đi đến những miền đất đất mới như Hạ Long, Đà Nẵng hay Hội An, gặp những con người bản xứ hay những vị khách du lịch khắp bốn phương, cùng nhau nhảy múa, hát ca kết nối bạn bè. Rất nhiều người phương Tây phải đi máy bay từ một nơi xa xôi đến Việt Nam chỉ để được trải nghiệm đi thuyền ở Hạ Long thì tại sao người bản xứ chúng ta lại không tận hưởng.

Hoặc bạn có thể bắt một chuyến xe từ Sài Gòn đi đến Angkor, một di sản của thế giới, chỉ mới vài USD, hãy đi và trải nghiệm cuộc sống. Có thể bạn không tin, nhưng tôi nghĩ những điều đó sẽ giúp bạn xây dựng nên những tính cách và góc nhìn mới, hoàn thiện bản thân mình hơn, điều đó quý giá không hề kém so với những kiến thức hàn lâm trên giảng đường và những kinh nghiệm trong môi trường công sở của bạn. Và tôi cũng tin rằng, sẽ chẳng có một nhà tuyển dụng nào có thể từ chối một cậu sinh viên với kết quả học tập khá ổn kèm theo những thành tích hoạt đồng xã hội và trải nghiệp phong phú như vậy đâu.

Thật sự, mỗi chúng ta sinh ra có thể khác nhau ở hoàn cảnh, nhưng xuất phát điểm thì đều như nhau ở số vốn thời gian nắm giữ. Hãy sống và khát khao khám phá như chưa bao giờ được sống, làm sao để thu được nhiều thứ quý giá nhất với số vốn thời gian mà tạo hóa đã ban tặng.

Sống sao cho sôi động, sống sao cho hạnh phúc!

 

Patrick

Những lẽ nghịch đời: Đến lúc phụ huynh cũng nên được… định hướng lại

Featured Image: Daniel Ong

 

Lẽ nghịch đời…

Có những chuyện thực tế đang xảy ra, mà chúng ta cảm thấy thật lạ lùng và… ngớ ngẩn. Sự mâu thuẫn kinh điển giữa lý thuyết và thực tế cũng không khủng khiếp cho bằng sự mâu thuẫn giữa lời nói và hành động. Đáng tiếc hơn, những mâu thuẫn, nghịch lý đó vẫn xảy ra hàng ngày, ở khắp mọi nơi và trong mọi lĩnh vực. Riết rồi chúng ta không thể biết mình đang sống trong một xã hội như thế nào, khi mọi thứ cứ rối tung lên, nhập nhằng và bất định. Từ lịch sử, chính trị, kinh tế cho đến những việc rất nhỏ hàng ngày. Có quá nhiều những điều nghịch lý đang tồn tại, chẳng hạn như là:

Định hướng cho phụ huynh ư?

Vâng, tất nhiên không phải định hướng nghề nghiệp cho các bậc phụ huynh để họ chọn nghề cho họ, mà là giúp họ có đủ thông tin và kiến thức để hướng dẫn và hỗ trợ con cái mình làm theo điều đúng đắn. Cho họ những lý do để họ tiếp sức cho con cái mình trên con đường mà chúng đã chọn, hơn là con đường mà chính họ chọn cho con cái. Các bạn cũng biết tiếng nói của các bậc phụ huynh Việt Nam nặng thế nào rồi đấy. Một khi cha mẹ đã quyết, mấy ai dám cãi lời?

Nhưng nhiều sự lựa chọn của phụ huynh ngày nay không còn phù hợp nữa. Nhưng các bậc làm con, chẳng thể nào mà cãi lại, hay không đủ sức mà phản đối những con đường vẽ sẵn. Thế rồi chúng ta không phản kháng, chúng ta làm theo, như con rối, rồi sau đó có thể dùng cả cuộc đời để sống trong tiếc nuối và dằn vặt. Thế thì, ngoài học sinh – sinh viên cần định hướng nghề nghiệp, có lẽ đã đến lúc chúng ta cần định hướng cho cả các bậc phụ huynh nữa chăng?

Xin được phép bắt đầu bằng cái số liệu “giật gân” khiến bao người thở dài khi được nhắc đến gần đây:

Theo số liệu thống kê năm 2012 của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) thì cả nước hiện có hơn 9. 000 Giáo Sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học. Còn theo GS Nguyễn Minh Thuyết – nguyên Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa giáo dục thanh niên thiếu niên và nhi đồng thì (2010), mỗi năm cả nước chỉ cần từ 13.000 – 15.000 cử nhân. Nhưng ngay tại thời điểm đó, mỗi năm các trường ĐH và CĐ cả nước đã cho ra trường trên 200.000 người – gấp hơn 10 lần so với nhu cầu, và con số đó hiện nay là 400.000 người.

Đánh giá về con số 72.000 thạc sĩ, cử nhân thất nghiệp trên cả nước mà Bộ LĐTBXH công bố, nhiều người am hiểu tình hình cho rằng, thực tế con số này còn cao hơn nhiều, đó là chưa kể số cử nhân, thạc sĩ làm trái ngành nghề, làm những công việc không cần bằng cấp, trình độ. Có nghĩa là người thất nghiệp ngày càng nhiều, càng đông đảo và chắc dư sức lập ra một Đảng riêng. Và cũng đồng nghĩa với việc, bằng cấp mà họ theo đuổi và giành giật chẳng còn giá trị gì ngoài việc trưng trong tủ kiếng. Đó là một sự thật khủng khiếp và đau lòng, xã hội biết điều đó, nhà trường không biết điều đó, sinh viên biết nhưng phần lớn đều né tránh điều này, còn phụ huynh, một đối tượng quan trọng, họ có biết không?

Hình như là không, bởi vì họ đang quá bận rộn, bận rộn cơm áo gạo tiền, bận rộn đổ mồ hôi sôi nước mắt chắt bóp từng đồng cho con em mình được đi học. Và rồi tự hào hãnh diện khi chúng đậu trường này trường kia. Rồi sau đó thì sao? Các bậc phụ huynh nghèo khổ sẽ lại quay về vòng xoáy gạo tiền cơm áo quần quật. Để làm gì? Để bao nuôi những đứa con sinh viên vàng bạc của mình. Nếu họ biết khi con cái mình ra trường sẽ có nguy cơ lớn là thất nghiệp, họ có còn muốn cố gắng? Hay họ nghĩ rằng con cái họ sẽ khác, sẽ giỏi giang, sẽ thành công, không như phần lớn những cử nhân ngoài kia? Nếu như họ biết nền kinh tế suy giảm người kiếm việc gấp ngàn lần công việc sẵn có, liệu họ có sẵn sàng cho con cái mình lựa chọn một con đường khác?

Theo cá nhân tôi, việc các bạn trẻ có muốn đi học, muốn làm sinh viên hay muốn trải nghiệm cuộc sống, tự lập và lập nghiệp không hẳn thuộc về quyền quyết định của họ, mà phần lớn là của ba mẹ, những người đã quá trông đợi vào nền kinh tế và kỳ vọng vào con em mình quá nhiều. Các bậc phụ huynh vô tình đặt lên vai các em một áp lực quá lớn, khiến các em không còn tâm sức và thì giờ để nghĩ cho chính mình, cho những gì mình mong muốn và yêu mến.

Thiết nghĩ, chừng nào các bậc phụ huynh còn tự hào vì mình nghèo khổ nhưng vẫn quyết tâm cho con cái đi học, học, học bằng mọi giá. Thì chừng đó các em sinh viên vẫn còn quay cuồng với bằng cấp và với nỗi thất vọng về nghề nghiệp, về cuộc sống và tương lai dài dài. Vậy nên, thay vì làm công tác tư tưởng chuyện học vấn với các bạn học sinh, sinh viên thì chúng ta cần làm công tác tư tưởng cho chính các bậc phụ huynh nữa. Có ai quan tâm và từng nghĩ đến điều này không?

Tôi từng trải qua kỳ thi tuyển sinh đại học và cũng từng được chứng kiến cuộc thi đó mỗi năm trên báo đài. Vẫn một hình ảnh đó hiện ra, những bậc phụ huynh khắc khổ, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, khuôn mặt lo lắng bồn chồn, đứng, ngồi, nằm la liệt trước các cổng trường để đợi con em mình thi thố. Các bạn thí sinh nhìn thấy ba mẹ mình như vậy có vui nổi không? Có còn tâm trạng mà làm bài thi cho tốt không? Có lẽ các bậc phụ huynh đang nghĩ rằng họ làm vậy là yêu thương con cái, là quan tâm con cái, là đang cho con sự động viên cần thiết trước một bước ngoặt lớn của cuộc đời? Tôi thì không nghĩ vậy. Nhìn những cảnh tượng đó tôi thật sự đau lòng, thậm chí nhiều lần cố gắng lướt qua mà không dô xem cho hết các bài viết đó, sợ một cảm xúc không phải là nghẹn ngào, mà đúng hơn là buồn và cả tức giận đối với các bậc phụ huynh.

Họ khổ cực như vậy để làm gì? Con họ sẽ thi tốt hơn sao? Sẽ chứng minh là mình yêu con nhiều hơn sao? Tuổi trẻ ngày nay đi học dường như đa phần không phải vì họ thật sự thích học hay muốn học, mà chỉ là đang cố gắng học để giúp ba mẹ mình hoàn thành giấc mộng học vấn giang dở từ lâu của họ. Rồi việc học, đi học có phải là được dạy mọi thứ đâu, có phải đi học là được hướng dẫn, được quan tâm đâu. Người ta chả quan tâm học sinh sinh viên cần có những kiến thức gì, người ta chỉ dạy cho chúng ta những thứ mà họ muốn chúng ta biết, muốn chúng ta tin, muốn chúng ta tuân lệnh. Từ đó nảy sinh biết bao con người bất mãn, uất ức và thất vọng.

Một ngành giáo dục mà người ta không dạy những thứ cần thiết và đối tượng tiếp thu cũng không mặn mà những kiến thức được biết. Thì nền giáo dục đó là vô dụng cũng không có gì lạ. Cử nhân tốt nghiệp đó rồi cũng là những người vô dụng, vô dụng vì không thể dùng được kiến thức đã học, vì không thể tự hành động theo chính kiến của mình, vô dụng vì cả một con người chỉ cần một mảnh giấy nhỏ đại diện cho toàn bộ khả năng của họ.

Buồn thay cái quan niệm, không có tấm bằng chẳng có tương lai. Một nền giáo dục đào tạo ra những người vô dụng thì nó có vô dụng không? Tất nhiên tôi hoàn toàn không phản đối việc học, giáo dục là cần thiết, nhưng dạy cái gì, nội dung gì mới là quan trọng. Kiến thức là quan trọng nhưng thực hành còn quan trọng gấp bội phần nữa mà sao chúng ta chẳng chịu nhận ra mà thay đổi? Buồn làm sao, chúng  ta đang được ở trong một nền giáo dục mà ngoài lý thuyết ra, còn có lý thuyết, và… lý thuyết nữa. Chỉ toàn là lý thuyết.

Mỗi năm lại có hàng ngàn người thất nghiệp gia nhập đội quân. Tôi băn khoăn không biết lực lượng cử nhân thất nghiệp hùng hậu đó hiện nay đang làm gì? Xin trích một đoạn tâm sự từ góc nhìn của Tony Buổi Sáng:

“Đáng nói hơn là lượng thạc sĩ thất nghiệp ngày càng lớn. Cử nhân ra trường có thể chấp nhận đi làm việc chân tay, nhưng thạc sĩ có mấy ai chấp nhận điều này? Ngoài ra, nhiều cử nhân ra trường, do loay hoay không xin được việc nên đành tiếp tục học luôn cao học cho… được việc, sau đó tính tiếp. Lượng thạc sĩ ngày càng dư thừa, là điều chẳng có gì khó hiểu.

Sao không đi xa xa chút mà mần, về quê tổ chức sản xuất kinh doanh. Sợ gì mà không đi? Hay làm biếng? Chả có gì nhàn hạ mà kiếm nhiều tiền cả. Như dượng nè, cũng có học hòm học vị chứ không phải không có, nhưng vẫn bỏ đi trồng nấm trồng hoa, vì thấy thị trường lớn. Nếu giờ dượng đi bán rau ngoài chợ vẫn làm, chả sợ ai. Gương mặt thanh tú và đôi tay búp măng ấy sẽ gói rau thoăn thoát, nụ cười sáng bừng cả góc chợ. Ai khinh kệ mẹ nó. Việc mình mình làm, hơi đâu để ý. Mình có ăn cắp tiền hay ăn bám của ai đâu. Đứa nào nó khinh. Vẽ vời chi mấy cái viển vông dự án, cổ phiếu cổ đông gì đó rồi người ta lao vô thì úp sọt hết. Nền kinh tế gì cứ ở chung cư, biệt thự nghỉ dưỡng và mua qua bán lại cổ phiếu vậy?

Phải sản xuất và sản xuất, chưa đủ trình làm ra smartphone như Hàn Quốc thì phải đủ gà vịt để ăn. Chứ 70% dân số nghề nông mà gà cũng nhập, bò cũng nhập, heo cũng nhập, tăm xỉa răng cũng nhập? Lê Quý Đôn nói: “Phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phí trí bất hưng, phi nông bất ổn.” Tức nếu muốn giàu có, phải làm công nghiệp. Nếu muốn ổn định, phải đầu tư nông nghiệp. Muốn hưng thịnh đất nước, phải đầu tư giáo dục. Và muốn xã hội nó nhộn nhịp, người dân lanh lợi..thì phải có giao thương.”

Câu nói kia sao mà đúng và đau lòng quá: Dân số 70% nghề nông mà gà cũng nhập, bò cũng nhập, heo cũng nhập, cây ăn trái nhập, gạo nhập, đường nhập, gia vị nhập, lương thực thực phẩm, nhu yếu phẩm, cái gì cũng nhập. Thậm chí đến rác cũng nhập được nữa, Thì thử hỏi có đau lòng không? Có tổn thương lòng tự trọng không? Người ta nhập là nhập những thứ ngon thứ đẹp, mình nhập là nhập quần áo sida, nhập hàng thải, nhập hàng thừa, nhập hàng phế liệu, trái cây độc, chân gà thối, lòng lợn ôi, nội tạng phân hủy… Chán ngán làm sao!

Lại đôi khi, không phải là do các bạn trẻ không muốn lăn xả vào nông nghiệp, vào sản xuất, mà lại là vì một lực cản khác, ngoại lực, nhưng tương đối mạnh, đó là sự ngăn cản đến từ các… bậc phụ huynh.

Có bao nhiêu bậc phụ huynh sẵn sàng ủng hộ con cái mình khi chúng có những quyết định “không giống số đông”? Hình như là không nhiều lắm, phần lớn những ý tưởng hay khuynh hướng tự lập đều gặp phải sự phản đối dữ dội của các bậc cha mẹ. Đương nhiên bậc phụ huynh nào cũng muốn điều tốt nhất cho con em mình, nhưng điều tốt nhất mà họ nghĩ, không hẳn phù hợp với thời đại này và với mong muốn của chúng ta. Kiếm một công việc ổn định, lương cao thời buổi này không phải là việc dễ dàng và gần như không tồn tại nữa.

Thế nào là ổn định? Ổn định là được công ty lo cho từ chuyện ăn ở tới chuyến du lịch hàng năm tới khi về hưu ư? Không, nhìn vào thực tế hiện nay thì thấy, ổn định không thể nào là việc chán ngán đi làm mỗi ngày, ổn định không thể nào là việc sợ hãi mỗi khi công ty cắt giảm nhân sự, nỗi lo nơm nớp về việc mình có thể bị tống ra khỏi công ty bất cứ lúc nào. Kiếm việc đã khó, đi làm rồi cũng chẳng dễ dàng gì, công việc ổn định thì lương không đủ ăn, công việc lương cao thì đi kèm nó là trách nhiệm và áp lực cực khủng khiếp. Đi đêm về sáng, ăn suy nghĩ ngủ cũng suy nghĩ, chẳng còn thời gian đâu mà dành cho gia đình và bản thân.

Rõ ràng đó không phải loại công việc ổn định chúng ta mong muốn. Nhưng các bậc phụ huynh không hiểu. Họ thường chỉ thấy được một mặt của vấn đề mà thôi. Và chừng nào còn nhiều bậc phụ huynh tự hào “con tôi làm cơ quan này, con tôi làm ngân hàng nọ” thì chừng đó, tuổi trẻ đừng mơ việc sống theo đam mê và sở thích một cách dễ dàng.

Có lẽ, hơn cả việc lo cho tương lai con em, phụ huynh còn sợ “mất mặt” nữa. Mất mặt với người quen, họ hàng, hàng xóm… vì con mình không giỏi như con người ta. Con mình học ngu thì xấu hổ, con mình không có việc tốt thì xấu hổ, con mình mà đòi nghỉ học về làm nông dân bố mẹ nào không tức điên. Bởi con hàng xóm đang làm này làm nọ làm kia cơ mà. Con mình không thua con người ta được. Hay là mình không thua thằng hàng xóm được?

Ai cũng có lý do riêng khi định hướng nghề nghiệp cho con cái, nhưng chừng nào xã hội này, các bạn trẻ còn phải học cho cha mẹ, đi làm công việc theo ý ba mẹ, thì chừng đó xã hội còn khó mà phát triển. Nhưng các bậc phụ huynh lại chưa có được nhận thức đúng đắn về tình hình xã hội và khuynh hướng kinh tế hiện hành. Thì làm sao họ biết điều gì là nên và không nên làm với con em mình. Sao họ biết là nên hướng nó theo guồng quay học hành – kiếm việc – về hưu, hay giúp nó trải nghiệm – sống vì đam mê – làm điều mình mong muốn. Sao họ biết được cái quy trình nào thì tốt cho con cái và xã hội, quy trình nào cản trở sự hoàn thiện bản thân và phát triển xã hội. Không, họ không thể biết được, nếu như truyền thông chỉ chăm chăm khuyến khích chuyện học hơn chuyện làm, khuyến khích bắt chước hơn trải nghiệm, tránh né những vấn đề nhức nhối của nền kinh tế hoặc chỉ nói qua loa đại khái.

Phụ huynh chúng ta không có điều kiện để nghiên cứu nhu cầu thực tế của xã hội và thực tế cũng chả có hoạt động nào giúp họ hiểu biết hơn, nên việc định hướng nghề nghiệp cho phụ huynh thường do chính con cái họ đảm nhiệm. Khó khăn làm sao, nan giải làm sao! Đó luôn là cửa ải khó khăn nhất khi các bạn muốn thực hiện đam mê của mình. Vậy nên, thiết nghĩ, có lẽ đã đến lúc chúng ta nên “định hướng nghề nghiệp” cho các bậc phụ huynh, song song với định hướng cho các bạn học sinh-sinh viên nữa. Nếu như các bậc phụ huynh luôn sẵn lòng ủng hộ con cái mình đi theo đam mê thì hẳn chỉ số hạnh phúc của Việt Nam sẽ tăng đáng kể. Và đất nước sẽ tốt đẹp hơn biết bao nhiêu? Biết đâu đấy?

 

Phi Tuyết

Thay đổi đi em…

Featured Image: Richard Gaston

 

Thay đổi đi em, vì em cần phải thể
Vì cuộc đời vẫn thay đổi từng phút giây
Vì thế giới vẫn thay đổi từng ngày
Và vì em đang sống ở cuộc đời, em ạ…

Em có nhớ bà vẫn kể rẳng ngày xưa bà khổ quá
Vất vả cả đời, chẳng kiếm đủ miếng ăn?
Em bây giờ nằm nệm ấm giường êm
Khác ngày xưa, bà phải quấn rơm nằm để đủ ấm?

Em hãy thay đổi con người em, em nhé…
Nghĩ khác đi một chút, chỉ một chút thôi em
Em sẽ thấy tất cả đều sẽ tốt đẹp hơn
“Cuộc sống được tạo nên bởi suy nghĩ...

Chỉ sống được một lần, nên em đừng rầu rĩ
Bởi cuộc sống có nhiều lựa chọn lắm em ơi
Ngẩng đầu lên, nhìn về phía mặt trời
Em sẽ thấy nụ cười em thật đẹp…

Thay đổi đi em, một chút thôi em nhé
Đủ để em thấy cuộc đời này đẹp hơn
Đủ để em quên đi những nỗi buồn
Đủ để em thêm yêu cuộc sống…

Thay đổi đi em, một chút thôi, em nhé
Nhưng xin em, em đừng đổi thay…

 

Một Đời Quét Rác

Phút chợt nhận ra

Featured Image: Bùi Phương Linh

 

Có những lúc thảnh thơi ngắm mặt trời

Thênh thang ngắm đời giữa chơi vơi

Sắc đỏ, sắc vàng quyện xanh mới

Cảnh vẫn đẹp, vẫn đậm, vẫn bình yên

Ấy vậy nhưng…

Xao xuyến bên trong một cảm giác mơ hồ

Muốn sáng tỏ, nổ tung và thật rõ

Cảm xúc ư hay viển vông bỏ ngỏ?

Tự huyễn hoặc hay lý trí mang đi

Nghĩ tỉ ti…

Để nhìn lại cho kỹ

Yêu thôi đấy chỉ dành cho riêng mình

Thêm chút tình nhẹ nhàng để tô vẽ

Người cũ, vật cổ giữ lại trong nỗi nhớ

Đừng chờ nhé vô vọng vẫn hoài công

Sống thôi…

Đơn giản cùng vòng xoáy những bộn bề

Xê đi dịch lại vẫn chỉ cùng một tâm

Ầm ầm cuốn dòng chảy của tuổi trẻ

Sáng tạo đi, mạnh mẽ chọn bước chân

Cuộc đời mà

Đâu phải chỉ…

Lối mòn những con đường vạch sẵn

Lớn hơn rồi hiểu hơn về ngã rẽ

Là lựa chọn sẽ buộc phải đưa ra

Lưỡng lự, phân vân rồi dừng lại chút nhé

Lao một đường rồi dũng cảm tin đi

Lại yêu, để sống trọn giá trị

Làm nên phút giây của những “điều kỳ vĩ”!

 

Bùi Phương Linh

Dân chủ không phải là tự do – Một số trích dẫn phản đối dân chủ (democracy)

Featured image: Romuva
  • “Dân chủ không có liên quan gì tới tự do. Dân chủ là một mức độ nhẹ của chủ nghĩa cộng sản.” — Tiến sĩ Hans-Hermann Hoppe
  • “Dân chủ? Tôi chả muốn một cái hệ thống vận hành dựa trên tiền đề rằng các quyền của tôi không tồn tại đơn giản chỉ vì tôi là thiểu số.” — R. Lee Wrights
  • “Người ta ngu tới nỗi không thể quản lý được chính họ, nhưng bỗng nhiên có đủ thông minh để bầu ra một nhóm người để cai trị tất cả.” – Khuyết danh
  • “Đa số bị áp bức cũng chẳng khác gì nhiều thiểu số bị áp bức.” – Khuyết danh
  • “Lý lẽ thuyết phục nhất để phản đối dân chủ chính là 5 phút nói chuyện với một cử tri bình thường.” – Winston Churchill (cố thủ tướng Anh)
  • “Dân chủ là một niềm tin đáng thương hại vào trí tuệ tập thể của sự vô minh cá thể. Không ai trên đời này, theo như tôi biết–và tôi đã tra cứu rất nhiều tài liệu trong nhiều năm trời, thậm chí còn thuê thêm người giúp mình–từng mất tiền chỉ vì đánh giá thấp trí thông minh của đám đông.” – Henry Louis “H. L.” Mencken
  • “Dân chủ không phải là tự do. Dân chủ là hai con sói và một con cừu bầu xem trưa nay ăn gì. Tự do đến từ việc nhận thức được rằng có một số quyền không thể bị tước đi, thậm chí là với 99% phiếu bầu.”  ― Marvin Simkin
  • “Dân chủ chỉ đơn giản là ‘the bludgeoning’ (sự bị đập bằng dùi cui) của nhân dân, bởi nhân dân, và vì nhân dân.” – Oscar Wilde

(Nguyễn Hoàng Huy dịch)

Cộng đồng và hội đồng

Featured Image: Stephen McGrath

 

Cứ nhắc tới Việt Nam là nhắc tới hai từ cộng đồng, với ý nói đến sự đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Và văn hóa Việt Nam là văn hóa cộng đồng. Điều đó được nhắc đến như một nét đẹp mà người Việt tự hào với thế giới.

Thế nhưng, thời gian gần đây cụm từ “cộng đồng” đang hẹp dần đất sống, khi mà một cụm từ khác, cũng na ná khi phát âm như nghe đắng hơn bao giờ hết: Hội đồng.

“Hội đồng” của tôi muốn đề cập bắt đầu từ những trang báo:

Trộm chó tại XYZ bị đánh hội đồng đến chết, người dân cả xã “hội đồng” đốt xe máy, rồi “hội đồng” ký vào biên bản nhận đã đánh chết.

Và mới đây, khi đang gõ những dòng này là tít bài báo “nam thanh niên trộm xe máy bị lột truồng, đánh hội đồng”. Theo đó, Liên quan tới vụ việc, trước đó ngày 31.7, một nam thanh niên đang thực hiện hành vi trộm xe máy tại khu vực xã Hà Vỹ thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, thì bị người dân bắt quả tang.

Vì quá bực tức, nhiều người đã vây nam thanh niên này rồi lột hết quần áo, đánh hội đồng đến trọng thương. Được biết, người dân sau khi lột truồng, đánh hội đồng nam thanh niên trộm xe đến trọng thương, đã dùng điện thoại ghi lại hình ảnh này và tung lên mạng.(Theo Báo Thanh Niên ngày 1.8.2014)

Chữ “hội đồng” ở đây sao mà xót xa thế! Cũng “cộng đồng người” đó thôi nhưng khi đứng trước một thách thức họ bỗng biến thành “hội đồng” – tức là làm một cách vô thức, hùa theo, đối xử chính với thành viên của “cộng đồng lớn” một cách nhẫn tâm.

Tôi chắc chắn rằng, nếu chỉ một người khi bắt được tên trộm kia (dù là trộm gì) thì không nghĩ tới việc đánh chết, lột truồng đâu. Mà khi có cả một đám đông hỗn loạn (giờ không còn là cộng đồng đúng nghĩa nữa) thì một người mười ý, một ý nếu ra được tung hô, rồi mỗi người một cú đá, một cú đấm đã biến “cộng đồng” thành “hội đồng” tàn nhẫn.

Chắc chắn sẽ có người cho rằng những tên trộm kia đáng bị đối xử như thế. Và cảm giác tức giận, căm phẫn là điều tất yêu. Rồi bạn lại quay lại với câu chuyện 3 thanh niên phải bỏ mạng khi truy đuổi những tên trộm chó. Và tụi trộm đáng chết, đáng bị đánh hội đồng. Tất nhiên, trong “hội đồng” đó có những kẻ “nổi bật”, có những kẻ chỉ hô to mà không làm, chỉ tội những người “sân si” và hùa theo những người khác để diễn lại những trò kiểu tra tấn thời trung cổ. Vô tình mang tội ác vào mình!

Chúng ta đã quên chúng ta là một cộng đồng người! Một cộng đồng cần đoàn kết chứ không phải kết bè. Một cộng đồng tương trợ nhau làm ăn, sinh sống chưa không phải hỗ trợ nhau đánh chết một thành viên trong cộng đồng của mình!

“Mạng người và mạng chó”- “Mạng người và cái xe”, tôi không thể để hai khái niệm đó ngang hàng nhau được. Chắc chắn mạng người sẽ quý hơn bất kỳ thứ nào khác, chúng ta biết trân trọng tấm thân mình vậy thì xin hãy chừa cho sinh mạng người khác một con đường sống!

Bởi thế, nên mỗi lần đọc báo tôi lại cứ ngờ ngợ sợ hai từ “hội đồng”. Tôi cứ sợ sau hai từ ấy là cả một bè phái đầy sân si, chỉ biết trút giận dữ vào một cá thể.

Người ta đang hướng tới việc sẽ có luật cho trộm chó, tôi nghĩ là cần thiết. Trộm là xấu, cần có luật mới xử tội được. Nhưng, cũng rất cần một luật cho “hội đồng” kia. Khi mà giờ đây, cái suy nghĩ “đánh hội đồng” sẽ không xử phạt được đang dần dần ăn sâu vào nhiều người. Sẽ quá nguy hiểm nếu mỗi lần bắt trộm, “suy nghĩ hội đồng” kia lại “phát huy”, khi đó cộng đồng mà người Việt tự hào sẽ chẳng còn nữa!

 

 

Những người hoàn hảo và những kẻ thất bại?

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Chào bạn. Điều gì đã khiến bạn click và vào đây và đọc bài viết này của tôi. Tôi không thể biết được điều đó. Nhưng nếu bạn là một người thành công, đang sống rất vui vẻ và hạnh phúc thì tôi khuyên bạn hãy đưa con trỏ chuột vào dấu X và click ngay. Tôi không muốn làm mất thời gian của bạn. Còn nếu bạn là một người đang gặp thất bại và đang muốn tìm phương pháp để trở thành một người thành công, thì bạn cũng nên tìm cái dấu đỏ mà ấn ngay trước khi tôi làm bạn thất vọng.

Ở bài viết này tôi chỉ muốn chia sẻ với bạn về sự giống và khác nhau giữa những người thành công và kẻ thất bại là như thế nào. Và vì sao, một số bộ phận trong chúng ta luôn luôn cảm thấy không bằng lòng với cuộc sống. Rất có thể sau khi đọc xong bài viết này, bạn sẽ tìm thấy sự đồng cảm và thoải mái hơn với chính mình.

Có thể bạn không xa lạ gì với những cuốn sách “Hạt Giống Tâm Hồn”, những câu chuyện mang tính truyền cảm hứng. Họ có thể là những doanh nhân, những nhà chính trị, những nhà khoa học, hay những người gặp phải hoàn cảnh khó khăn như Nick Vujicic. Tất cả bọn họ đều là những người đã thành công trong cuộc sống, lời nói của họ giá cả ngàn vàng, đáng để mọi người lắng nghe, suy ngẫm và học hỏi. Nhưng còn tôi, tôi là ai mà muốn làm mất thì giờ của bạn? Có lẽ tôi nên giới thiệu sơ lược về bản thân, để bạn quyết định là có đọc nó hay không, vì bài viết này sẽ tương đối dài.

Tôi là một người sinh ra và lớn lên tại một nơi mà xung quanh là màu xanh của lá, phía xa xa là đường trải nhựa và vài ba ngôi nhà cao tầng. Và đặc biệt là tất cả những nhà vệ sinh công cộng khi tôi bước vào đều phải nín thở và ngửa mặt lên trời, nhưng như thế là vẫn còn may khi chưa phải nhịn cho tới khi về nhà. Và có lẽ cũng chính vì thế nên tôi có sở thích là “ấy bậy”. Vâng! Tôi là người Việt Nam. Một người Việt Nam bình thường nhất.

Rất cảm ơn nếu như bạn đã đọc đến đây. Và nếu bạn vẫn tò mò thì ta tiếp tục chứ? Ok! Tôi xin bắt đầu. Sẽ thú vị đấy. Để bắt đầu, tôi xin kể cho các bạn nghe một câu chuyện “xuýt” có thật. Bởi nó chỉ có thể xảy ra trong trí tưởng tượng của những kẻ mộng mơ. Và câu chuyện mang tên “Người Hoàn Hảo”

Mẫu truyện ngắn: Người hoàn hảo

Có một cô gái, từ khi sinh ra đã luôn mong muốn có cho mình được một cuộc sống tốt đẹp nhất. Cô muốn sau này sẽ có một công việc ổn định, một ngôi nhà thật đẹp, một người chồng lý tưởng, và những đứa con thật ngoan. Và thời gian cứ thế lặng lẽ trôi đi trong sự cố gắng không ngừng nghỉ. Cuối cùng cô cũng nhận được sự đền đáp xứng đáng. Cô sống trong một ngôi nhà tiện nghi với người bạn đời mà cô yêu thương cùng hai thiên thần bé nhỏ. Nhưng có một điều dường như quá mâu thuẫn xảy đến với cô, là sau tất cả những điều tuyệt vời đó, vào mỗi sáng thức dậy, điều chào đón cô đầu tiên lại là những lo toan. Liệu có phải vì những đứa con hay người bạn đời vẫn đôi khi làm cô thấy buồn, hay vì vẫn có những ngày tồi tệ xảy đến với cô trong công việc. Không biết nữa, nhưng chưa bao giờ cô cảm thấy thật sự an tâm với cuộc sống mà cô đang mang, mọi thứ với cô dường như quá mong manh, để cô có thể đặt niềm tin vào những gì mà cô đang có.

Và rồi bỗng nhiên điều kỳ diệu xảy đến với cô như một phép màu. Mọi thứ đã thay đổi chỉ sau một đêm. Cô tỉnh dậy, bước xuống lầu và thấy bàn ăn đã tỏa khói nghi ngút chờ đón, cô cảm thấy hết sức kỳ lạ, hơn là sự bất ngờ trong vui sướng. Cô vội vàng bước sang phòng khách, lúc này cô không còn tin vào mắt mình nữa. Mọi thứ đều sang bóng và mới tinh. Một bộ salong kiểu Pháp, một chiếc tivi thật lớn, rèm cửa mới và chùm đèn trần lộng lẫy. Tất cả mọi thứ mà cô vẫn mong muốn có được đều hiện hữu trước mắt. Bỗng dưng, một người đàn ông to lớn, khôi ngô bước tới và gọi tên cô thân mật như đôi khi chồng cô vẫn gọi, nhưng đó không phải là chồng cô, mà là một người hoàn toàn xa lạ. Cô hốt hoảng bỏ chạy xuống cửa sau vì nghĩ mình đang thực sự gặp nguy hiểm.

Và trong cái tình cảnh dở khóc, dở cười đó, đột nhiên xuất hiện hai đứa trẻ xa lạ chạy tới ôm chầm lấy cô và nói: “Chào buổi sáng mẹ yêu.” Lúc này cô thật sự cảm thấy mình như đang phát điên lên và tự hỏi, liệu đây có phải là một cơn ác mộng hay không, xin hãy cho tôi được tỉnh lại. Nhưng không! Cô chưa kịp hiểu điều gì đang diễn ra thì “BÙM” cô biến mất và một người phụ nữ hoàn toàn mới thay thế cô trong vai diễn cuộc đời. Và đương nhiên người đó giống như những gì mà cô chờ mong, một người hoàn hảo. Chỉ có điều người đó không phải là cô mà thôi. Nhưng từ lúc này, cô sẽ chẳng phải lo toan điều gì nữa.

Bạn đã cảm thấy bằng lòng với cuộc sống của mình chưa?

Câu chuyện vừa rồi liệu có khiến bạn cảm thấy thú vị không? Tôi mong rằng là có. Thực ra thì câu chuyện đó tôi lấy cảm hứng từ tập 13, trong bộ phim truyền hình Mỹ “Miền Ảo Ảnh – The Twilight Zone” bạn có thể xem nó nếu như bạn thấy tò mò, tôi thấy bộ phim đó thực sự rất thú vị và mang nhiều ý nghĩa. Qua câu chuyện vừa kể trên, tôi muốn đề cập tới một khía cạnh của con người rằng:

Có đôi khi, ta luôn cảm thấy không bằng lòng với bản thân mình và rồi quay sang không bằng lòng cả với những người khác. Từ đó, ta luôn tìm cách áp đặt lối suy nghĩ của mình lên người khác và cho rằng đó là chân lý, hay ít nhất thì đó là sự lựa chọn tốt nhất có thể. Và rồi, ta lao vào một cuộc phân bua tranh giành đúng sai mà dường như chẳng có hồi kết, bởi bên nào cũng có những luận điểm rất đáng để suy xét và rồi họ phải kết thúc mọi thứ bằng một cuộc chiến để xem ai là kẻ mạnh.

Làm thế nào để ta có thể sống vui tươi, yêu chính bản thân mình và làm bạn với mọi người? Đây là điều mà tôi muốn chia sẻ trong bài viết này. Mong rằng nó sẽ mang đến cho bạn một quan điểm thú vị, một quan điểm sống không mới lạ, nhưng tôi sẽ thể hiện lại nó bằng ngòi bút của tôi. Tôi sẽ bắt đầu phần hai của bài viết với một câu chuyện của chính mình. Và nếu như câu chuyện trước, tôi đã không làm mất lòng bạn. Thì ở câu chuyện này, tôi sẽ làm bạn phải thất vọng rồi. Vì nó viết về cuộc đời của tôi, một cuộc đời nhàm chán và chẳng có gì thú vị. Nhưng bạn yên tâm tôi sẽ kết thúc nó nhanh nhất có thể.

Chuyện đời tôi

Có lẽ tôi cũng giống như bạn. Nếu biết tự an ủi, thì phải nói là tôi còn rất trẻ. Mọi điều tốt đẹp đều đang chờ đón tôi ở phía trước, nếu như tôi biết cố gắng ở hiện tại. Nhưng cứ mỗi khi nghĩ về quá khứ, thì tôi chẳng có chút tự tin nào, vì ở đó chẳng có gì ngoài những thất bại. Nhưng với bản năng của một thằng đàn ông, tôi không cho phép mình chịu bỏ cuộc như vậy. Tôi cố gắng thay đổi bản thân với suy nghĩ ta có thể làm được mọi chuyện nếu có quyết tâm cao.

Và rồi thì thành quả cũng tới, từ một thằng chán đời, bỏ bê chuyện học, suốt ngày chỉ đú đởn mấy trò vớ vẩn. Tôi cũng dần trở nên bớt ngu đi một tí. Và đương nhiên điều đó là quá ít để khiến tôi thỏa mãn, tôi muốn mình phải xóa sạch đi con người trước kia và hoàn toàn là một con người mới. Tôi tìm tới những cuốn sách hạt giống tâm hồn, và thật tuyệt vời, sau khi đọc nó, tôi có cảm giác như mình được bơm vào một liều doping, nó khiến tôi cảm thấy sung mãn và tràn đầy sinh khí, như có thể vô địch “tua đờ phăng” 7 lần vậy.

Nhưng mà hơi xui, thực sự thì nó chỉ khiến tôi bị ảo tưởng sức mạnh thôi. Tôi vẫn sống trong cái vòng tròn đó mà chẳng thể nào thoát ra. Cứ thất bại rồi lại quyết tâm, thất bại rồi lại quyết tâm với niềm tin vào câu chuyện “Thomas Edison thành công sau 2000 lần thử nghiệm”. Chưa bao giờ tôi thấy mình được thỏa mãn. Và sau 2 năm ròng rã cố gắng, tôi vẫn đang ở vạch xuất phát, mặc dù vào mỗi sáng tôi vẫn cố gắng nhớ đến mục tiêu và động lực của mình để ngủ thêm ít phút. Và từng ngày trôi qua, công việc mà tôi yêu thích là gạch chéo vào tờ lịch mà tôi tự lập ra, để biết mình vừa vượt qua một ngày dài, cuộc sống nội tâm của tôi giống như một kẻ đang nằm sau song sắt với công việc hằng ngày là bóc lịch và gặm nhấm những sai lầm để sống.

Và bây giờ thì cũng đã tới ngày mãn hạn. Từ giờ tôi được tự do để thẳng thắn trả lời với mình là vì sao tôi cứ mãi thất bại như vậy, thay vì câu trả lời “tôi chưa đủ kiên trì và quyết tâm”. Hai thứ đó tôi hoàn toàn có ở một mức độ nào đó, ví dụ như việc tôi bắt đầu buổi tập chạy đầu tiên với một vòng hồ gần khu tôi sống là khoảng 1,7 cây số, và sau khi chạy xong tôi thấy mình như đứt hơi, hoa mắt, chóng mắt, cái cái cảm như chuẩn bị đi chết được, nhưng vượt qua nó tôi lại thấy vui, và sau đó 3 tháng tôi chạy được 5 vòng tức bằng khoảng 8 cây số liên tục trong 53 phút mà thấy vẫn chưa xi nhê như lần đầu tiên. Đó là một thành công nho nhỏ với một thằng nghiện thuốc lá 7 năm và lười vận động như tôi. Còn một số thứ nữa, nhưng mà cũng toàn là những thứ vớ vẩn thôi, tôi chẳng muốn chém thêm làm gì, như thế là mát lắm rồi cho một ngày hè nóng bức. Quay trở lại với câu hỏi vì sao tôi thất bại?

I: Vì sao tôi thất bại?

Vì sao tôi thất bại? Bạn có muốn cho những kẻ thất bại có quyền sống?

Có 2 nguyên nhân khiến tôi không thể thành công, đây cũng là hai đặc tính cơ bản của những người thất bại trong cuộc sống. Tôi sẽ đưa ra đặc tính của cả hai loại thành công và thất bại để tiện cho việc so sánh về sau.

– Đặc tính của kẻ thất bại:

  1. Lười
  2. Chỉ làm việc bằng lòng quyết tâm và ý chí

– Đặc tính của nguời thành công:

  1. Chăm chỉ
  2. Luôn làm việc bằng sự ham thích (đam mê) và lòng quyết tâm.

Cách để kẻ thất bại trở thành người thành công

Chắc hẳn khi đọc tới đây, bạn sẽ có những khúc mắc và bắt đầu cảm thấy không đồng tình với tôi. Nhưng bạn cứ bình tĩnh và nhấp một tách trà, từ từ tôi sẽ giải thích kỹ thêm.

Việc kẻ thất bại có thể khắc phục để trở thành người thành công là không thể. Nhưng tại sao tiêu đề nhỏ kia mà tôi đề ra lại hứa hẹn đến vậy à? Vì ở trong kẻ thất bại cũng có 2 thể dạng chứ không chỉ đơn thuần là 1. Vậy tôi sẽ đưa ra 2 dạng này để bạn trắc nghiệm xem mình thuộc dạng nào nhé. Nhưng khi chọn được cho mình loại thích hợp mà kết quả vẫn không được khả quan thì bạn cũng đừng vội buồn nhé. Vì bài viết vẫn chưa đến hồi ngã ngũ ngay đâu.

Trước khi đi tới 2 dạng người luôn gặp thất bại, thì tôi muốn xác định xem như thế nào thì mới được coi là người thành công. Tôi sẽ đưa ra 5 cấp độ mà xã hội hiện thời công nhận.

Năm cấp độ giảm dần từ thành công xuống thất bại

  • Bậc thần đồng: Bậc này thì cực hiếm, họ sẽ tạo ra sự đột phá cho thế giới trong cuộc đời họ, khoảng trăm năm mới có 1 người thôi.
  • Bậc đại nhân: Bậc này cũng cực hiếm, cũng sẽ là người đứng đầu nhưng nếu cùng thời với thần đồng thì sẽ có thể là người phò tá hoặc là kẻ thù của thần đồng.
  • Bậc kẻ sĩ: Bậc này thì thời nào cũng có, thường thì họ sẽ giữ những chức quan to, tướng mạo đầy đặn, tai to mặt lớn.
  • Bậc thảo dân: Họ là những người hiền lành, chất phác, họ cũng có thể kiếm cho mình một chức quan be bé cấp xã cấp, phường nếu biết căn cơ tiểu tiết.
  • Bậc cặn bã: Loại bậc này thì bạn cứ dành cái gì tồi tệ nhất cho nó đều được, đây chính là cấp độ thất bại toàn phần luôn đấy.

Hai loại của dạng người thất bại

  1. Loại không thể cải tạo: Loại này thì đơn giản là họ chỉ có một đặc tính duy nhất là lười, còn đặc tính làm việc bằng quyết tâm và ý chí thì họ không có. Họ là những kẻ lười nhác một cách thuần khiết. Vậy nên họ không thể cải tạo. Và sẽ rơi vào bậc 5.
  2. Loại có thể cải tạo: Loại này thì do họ không có một mục đích sống rõ ràng, cùng với việc họ chỉ đơn thuần là làm công việc mà họ cần làm để duy trì cuộc sống. Loại này hoàn toàn có thể cải tạo, thường thì thể dạng này nếu “thiên thời địa lợi nhân hòa” thì có thể sẽ vươn lên được vị trí số 3 trong bảng xếp hạng top Zing đấy.

Tôi xin kết thúc trò bói toán và xem tướng số, mong là bạn cảm thấy thú vị và chọn ra được loại thích hợp với mình.

Quay trở lại với sự khác và giống nhau giữa người thành công và kẻ thất bại. Về người thành công, thì chắc tạm thời bạn không còn khúc mắc gì nữa đúng không, nhưng những kẻ thất bại thì tôi xin phân tích sâu hơn.

Vì bài viết đã tương đối dài nên tôi sẽ đi ngắn gọn. Vì vậy tôi sẽ không thể tránh được sự phân tích theo lối chụp mũ, mong các thính giả nghe đài góp ý thêm nếu bạn cảm thấy như vậy.

Hai đặc tính của kẻ thất bại

  1. Lười: Thứ nhất là từ bé những người này đã quen với việc học vì được bảo phải học và phải được sự kèm cặp của người lớn mới chịu học, nên khả năng tự học kém. Nên việc ngồi vào bàn học là thấy buồn ngủ nó đã trở thành phản xạ gần như tự nhiên, do được hình thành từ rất sớm. Việc cố gắng để ngồi vào bàn học đôi khi nó khó khăn như việc chuẩn bị thắt cổ tự tử vậy. Học giống như một việc nguy hiểm khiến bản năng sinh tồn chống lại nó bằng mọi giá, và cơn buồn ngủ là phương pháp hữu hiệu. Việc bản năng này được hình thành từ cả 2 thuộc tính “Tiên thiên” và “Ngoại lực” tác động, nên chỉ có thể cạo đầu bôi vôi, đắc đạo thành “Phật” thì mới có thể trừ giải được nạn kiếp, còn không thì nếu biết cố gắng và nỗ lực thì vẫn có thể giảm bớt được nó một chút ít trên đầu móng tay.
  2. Làm việc chỉ bằng ý chí và sự quyết tâm: Sự quyết tâm và ý chí là một thể dạng của cảm xúc, nó không cố định và sẽ dao động liên tục theo đồ thị hình “Sin” hay “Cos”. Bởi thế bạn sẽ không thể duy trì được nó trong thời gian dài. Nghe đến đây chắc bạn sẽ phản đối, nhưng hãy quay sang câu chuyện của người thành công để hiểu rõ vấn đề. Những người thành công chỉ thi thoảng họ mới sử dụng tới ý chí của mình khi họ thực sự gặp khó khăn, đa phần khi làm việc họ hầu hết dựa vào sự ham thích. Vậy nếu bạn cũng giống như tôi, bạn sẽ mãi mãi ở trong vòng tròn đó khi làm việc. Hãy cố gắng chấp nhận và cân bằng nó theo cách của bạn. Không còn cách nào khác để thay đổi toàn diện đâu, trừ khi 7 viên ngọc rồng là có thật.

Đam mê? Bạn có đam mê không?

Điều duy nhất có thể thay đổi hoàn toàn đặc tính của người lười là họ được làm việc trong sự đam mê, khi làm việc trong sự đam mê, thì họ sẽ bị không chịu tác động bởi yêu tố thời gian. Khi đó họ thấy rất thoải mái dù cho việc họ làm chẳng hề khiến họ được ấm cái bụng và họ cũng chẳng cần quan tâm tới thất bại hay thành công từ việc làm đó. Nó cũng giống như việc tôi đang ngồi hoàn thành bài viết này vậy, tôi cứ thoải mái chém gió xuyên đêm cho tới sáng thôi. Nhưng mà đam mê thì lại có hai vấn đề rất chi là lớn:

Một là không phải ai cũng có đam mê, không phải ai cũng sống trong sự may mắn. Hai là không phải ai cũng tìm thấy đam mê vào những thời điểm thích hợp, để họ có thể dùng đam mê thỏa mãn cả vật chất lẫn tinh thần. Trường hợp này thì giống như tôi, tôi yêu thích nghệ thuật, nói chung là làm bất cứ thứ gì dùng để diễn tả được cảm xúc của tôi ra bên ngoài thì tôi đều ham thích, nhưng có điều trước kia tôi lười nhác, ham chơi nên giờ tôi phải đứng giữa ngã ba đường, không thể trách được, bởi đam mê nó tìm tới tôi vào buổi xế chiều của tuổi trẻ, tôi còn phải ăn và báo hiếu đấng sinh thành.

II: Bạn có muốn cho những kẻ thất bại được sống?

Vật chất quyết định ý thức hay ý thức quyết định vật chất?

Vài ngày trước tôi có đọc bài viết của một bạn với tựa đề “Bạn có cho phép xã hội nuốt mất cái tôi của bạn?” Thực sự thì đó là một bài viết hay, tác giả là người có cá tính cao, nhưng tôi thấy nó chưa có tính thực tiễn với tất cả mọi người. Tác giả bài viết đó theo tôi, là một đại diện cho những người có lối quan điểm “ý thức quyết định vật chất”. Và chắc chắn anh ta sẽ bị phản pháo lại bởi những người có lối tư duy “vật chất quyết định ý thức”. Nếu như người bạn của anh ta khéo léo hơn trong việc ăn nói, thì anh ta đã trả lời tác giả bài viết đó rằng: “Tôi có ước muốn được trở thành một vị giám đốc để tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người lao động nghèo.” Vậy giữa “vật chất” và “ý thức” thì điều gì mới là chân lý ở đây? Để trả lời điều này tôi xin kể cho bạn nghe một câu chuyện như sau. Câu chuyện mang tên “Xã hội của những người không hoàn hảo“:

Câu chuyện nói về một xã hội có 10 người không hoàn hảo, hay nói cách khác là ai cũng có những khuyết điểm riêng. Nhưng 10 người này muốn tạo ra một xã hội công bằng và tốt đẹp nhất. Điều đó bắt buộc cả 10 người này phải đưa ra một quyết định chung và đúng đắn nhất, để điều hành xã hội đó. Nhưng sau một hồi phân bua mà không có ai dành phần thắng. Vậy là họ tiến hành bỏ phiếu và lựa chọn ra một thủ lĩnh đứng đầu. Nhưng thực sự thì quan điểm được ủng hộ nhiều nhất đó, vẫn không thể hoàn hảo, vì nó được tạo ra bởi những người không hoàn hảo. Vì thế nên dần dần nó bộc lộ những khuyết điểm và lại có một thủ lĩnh mới lên thay thế, bằng một quan điểm khác để bảo đảm tính dân chủ và công bằng cho xã hội đó.

Qua câu chuyện đó thì câu trả lời của bạn là gì? Bạn có muốn cho những kẻ thất bại có quyền sống không? Còn tôi thì thấy thế giới này không chỉ để dành cho những người thành công, một nửa của thế giới là những người thất bại, tôi cũng chỉ là con ếch và đang sống trong cái giếng của mình. Điều mà tôi thực sự quan tâm trong lúc này là làm sao để sống vui vẻ và hòa đồng.

Làm thế nào để bạn sống vui vẻ và hòa đồng?

Để bạn có thể vui vẻ và hòa đồng trong cuộc sống thì theo tôi bạn cần trải qua 2 bước:

1/ Xác định bạn là ai? Bạn có thể và không thể làm được những gì?

Đừng bao giờ lấy người khác ra làm thước đo, đó là một sự xúc phạm bản thân.

Bạn đừng nhìn vào những người thành công và nghĩ rằng bạn cũng có thể trở thành như họ, điều duy nhất bạn nên làm với cuộc đời của những người ấy, là dùng nó để duy trì ý chí của mình. Bạn có biết họ giống và khác bạn như thế nào không? Để tôi ví von và trả lời giúp bạn nhé.

Thực ra thì họ cũng giống như bạn thôi, đều là con người cả. Nhưng tại sao họ lại có thể đi xa và nhanh đến vậy trong cuộc đời họ à? Bởi vì họ khác bạn ở chỗ, cuộc đời của họ là một chiếc siêu xe, có thể tăng tốc từ 1-100Km/h chỉ trong 2,5s. Còn cuộc đời bạn chỉ là chiếc Wave α, có cố gắng hết sức thì bạn cũng chỉ có thể chạy tới 100 cho đến 110 là cùng thôi, với điều kiện là chiếc xe đó phải là chiếc xe tốt nhất và bạn phải được những cơn gió ủng hộ. Còn nếu không thì chỉ có thể lên được tới 90-95Km/h thôi, nhưng như thế là đảm bảo chất lượng cho một chiếc Wave rồi. Còn nếu hoàn cảnh của bạn là những đoạn đường gập ghềnh thì cứ số 2 số 3 mà đi thôi, cứ thoải mái mà tận hưởng trò đưa đẩy, làm sao mà Lamborghini đi được những đoạn đường như thế, lúc đấy họ gặp bạn, có khi lại phải xin bạn cho đi nhờ ấy chứ. Thế nên là bạn cứ tự hào với bản thân mình đi. Thời thế tạo anh hùng. Biết được mèo nào cắn mỉu nào.

2/ Bằng lòng và tin yêu bản thân

Kẻ thù lớn nhất và người bạn thân nhất là chính mình.

Khi sinh ra không ai có thể chọn cho mình một cuộc đời tốt đẹp nhất cả, bạn cũng không thể vứt bỏ nó, vì nó gắn liền khúc ruột với bạn, kể cả phương tiện đó chỉ là chiếc dép tổ ong 100 lỗ hay đôi chân trần, thì nó cũng đang giúp đỡ bạn rất nhiều. Bạn không thể chọn việc bạn sinh ra đã là một người thông minh và tài năng. Bạn chỉ có thể là kẻ chiến thắng hay thất bại với chính mình mà thôi. Khi nào bạn cân bằng được giữa “cánh tả” và “cánh hữu” bên trong bạn, thì khi đó tôi cho rằng bạn đã thành công trong cuộc sống, còn niết bàn xa xôi tôi không dám bàn tới.

Cuộc đời là phương tiện, còn ta là người lái

Bạn đừng nhìn thấy những chiếc Lamborghini đã đi mất hút mà bạn vội nản chí rồi đi có 50Km/h, trong khi bạn có thể vít tới 100, bạn không phải sợ khi phóng nhanh thì sẽ chết đâu, vì đường đời khác với đường của loài người tạo ra là nó không có vật cản, mọi vật cản chỉ là do chính bạn tạo ra, bạn có đi chậm thì bạn cũng cứ chết thôi. Nếu bạn muốn có cho mình một cuộc đời mới tốt đẹp hơn, thì bạn cứ sống hết khả năng trong cuộc đời này đã, biết đâu đến một ngày bạn đủ điểm kinh nghiệm để mua cho mình một cuộc đời khác tốt hơn thì sao, đừng để đời sau bạn mua được có mỗi con nòng nọc thôi nhé. Có vẻ mình chém hơi quá đà rồi, nhưng ai mà biết được chết có phải là hết, chỉ cần biết đã sống thì phải vui, “Làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu”.

Phải làm gì với những người thường làm bạn khó chịu?

Nếu có thể thì cứ từ từ góp ý cho họ và làm bạn với họ, đừng mắng chửi gì họ mà mang khẩu nghiệp. Còn nếu không thể làm bạn với họ thì cứ mặc kệ họ. Họ có làm ta khó chịu mà họ vẫn sống vui thì ta cứ mừng cho họ và tôn trọng họ, ta sống còn chưa vui thì sao có thể trách mắng rồi giết chết họ cho bõ ghét được, góp ý đàng hoàng là thể hiện văn hóa rồi, còn đời ta, ta cứ sống vui tươi, đến lúc cần đấu tranh ta sẽ tranh đấu, công việc ta để tay phải, đam mê ta để tay trái, cứ từ từ mà hưởng thụ nếu như đó là điều duy nhất ta có thể làm. Những gì ta đang có, là những gì ta xứng đáng với nó. Những điều ta chưa có, là những điều chưa xứng đáng để dành cho ta.

Hãy sống và luôn là chính mình

Nếu tôi ví cuộc sống giống như một bản nhạc và mỗi con người là những phím đàn, thì tôi chẳng cần điều gì khác hơn, từ một phím đàn ngoài việc nó là chính nó. Nhưng để làm chính mình thì dây đàn không được quá trùng hay quá căng. Căng quá thì đứt, mà trùng quá thì không ra tiếng.

Tôi đã dành tất cả tâm huyết của mình cho bài viết này. Nếu sau khi đọc và nó khiến các bạn cảm thấy thất vọng, tôi mong rằng sẽ nhận được những lời góp ý chân thành nhất. Tôi xin kết thúc bài viết này tại đây, cảm ơn vì bạn đã dành thời gian cho tôi. Chúc các bạn sống vui vẻ và yêu đời.

“Khi ta thấy không thích bản thân mình, ta thường cắt đứt với những thứ bên cạnh mình, và tìm tới những điều mới lạ. Một khi ta yêu bản thân mình thì cuộc sống cũ sẽ bắt đầu mới lại và sẽ tốt đẹp hơn.” (Trích trong phim Tiếng Anh Là Chuyện Nhỏ)

 

Phan Trẫm

Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 6

Featured Image: Werner Schnell

 

Một trong những vấn đề mà những người ủng hộ quan điểm về chính phủ hạn chế và nhỏ hơn, ủng hộ quyền tư hữu tài sản và trao đổi tự do đang phải đối mặt là tên gọi của chính mình. Về mặt lịch sử từ “người tự do” là đáp án và nó vẫn được sử dụng tại nhiều khu vực ở châu Âu lục địa. Nhưng trong những nước nói tiếng Anh, đặc biệt là ở Mỹ, hiện nay từ này được dùng để chỉ những người ủng hộ vai trò can thiệp của chính phủ và nói chung là cách tiếp cận của chủ nghĩa tập thể đối với chính trị và văn hóa – hầu như trái ngược hoàn toàn với nghĩa ban đầu của nó.

Những người tự coi mình là “những người tự do kiểu cũ” đã từng có những cố gắng nhằm phục hồi lại thuật ngữ này nhưng không thành công. Trước tình hình đó, những người ủng hộ quan điểm tự do nguyên bản đã vận dụng nhiều thủ thuật về mặt ngôn ngữ học. Có một thời gian nhiều người đã sử dụng nhãn hiệu “bảo thủ”, là nhãn hiệu trước đây được gán cho những đối thủ kiên cường nhất của họ. Danh hiệu này, mặc dù được sử dụng rộng rãi ở Mỹ, nhưng không được những nơi khác chấp nhận và cũng không đứng vững được ở đây. Một phần là do nhiều người tự do kiểu cũ không chịu sử dụng và những người mà chúng ta có thể gọi là bảo thủ kiểu cũ hay bảo thủ “truyền thống” kiên quyết không thừa nhận, họ đòi quyền sử dụng thuật ngữ này.

Gần đây hơn, những người tán thành chính phủ thật sự hạn chế quyết định sử dụng thuật ngữ “người tự do” (libertarian), trong khi những người khác thích sử dụng thuật ngữ nghe có vẻ học thức hơn: “người tự do cổ điển” (classical liberal).” (Tôi từng sử dụng cả hai thuật ngữ này).
Nhưng những lựa chọn đó cũng đặt ra nhiều vấn đề và được cho là chưa thỏa mãn. Như F. A. Hayek đã chỉ rõ, thuật ngữ “bảo thủ” (conservative) không những ám chỉ truyền thống tư tưởng cho rằng đấy không phải là “người tự do” (liberal) theo nghĩa cũ mà còn ngụ ý sự nghi ngờ về lý do và thái độ hoài nghi đối với sự thay đổi cộng với thái độ hòai cổ và cảm tình đối với những thứ như truyền thống, thang bậc, uy quyền, mà đấy không phải là những thành phần chủ chốt của truyền thống tự do trong lịch sử, một truyền thống nhấn mạnh quyền tự do cá nhân, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân.

Thuật ngữ “người tự do truyền thống” (classical liberal) phù hợp hơn nhiều, nhưng lại nặng nề và rõ ràng là ngụ ý những ý tưởng của truyền thống bảo thủ chứ không phải là những tư tưởng đang phát triển. Từ “người tự do” (Libertarian) thông dụng hơn (xuất hiện cả trên Facebook!) nhưng có cũng có một số nhược điểm. Vốn là một từ xấu, những người biết lịch sử của từ này dễ nghĩ rằng kẻ dùng nó như một nhãn hiệu là một người vô chính phủ. Trong đa số trường hợp điều đó là không đúng và tạo ra lầm lẫn.

Nghiêm trọng hơn, thuật ngữ người tự do (libertarian) lại hướng sự chú ý đến chỉ một phần của triết lý rộng rãi hơn: Chống lại chính phủ và quyền lực chính trị có phạm vi quá rộng. Đấy quả thực là phần trung tâm của triết lý, nhưng không phải là tất cả và sử dụng thuật ngữ này có thể làm cho những thành tố khác bị coi nhẹ hay lờ đi.

Đây có phải thực sự là vấn đề không? Nếu có, thì đã nghiêm trọng đến mức phải khẳng định bất kỳ ý nghĩa nào? Rõ ràng đây không phải là khó khăn nghiêm trọng nhất, nhưng lịch sử và kinh nghiệm chính trị cho thấy rằng nó nghiêm trọng hơn là người ta có thể nghĩ. Tất cả những từ, đặc biệt là những nhãn hiệu chính trị, đều có tất cả các cung bậc liên tưởng về lịch sử và văn hóa, và những nghĩa phụ, tức là những thứ có ảnh hưởng đáng kể đối với cách thức phản ứng của người ta đối với các cá nhân và tư tưởng gắn kết với những người đó. Một số nhãn hiệu có một loạt liên tưởng tiêu cực đến mức không thể sử dụng để định danh lý lẽ của bạn, đấy là nói nếu bạn muốn thuyết phục người khác.

Ví dụ như ở Mỹ, bất cứ lý lẽ nào nhằm ủng hộ cho việc phi tập trung hóa và bớt tập quyền hóa mà gắn với thuật ngữ “quyền của bang” đều sẽ chết yểu vì thuật ngữ này tạo ra liên tưởng về đặc quyền sắc tộc và chia tách sắc tộc. Những từ khác tạo ra một lọat những liên tưởng tích cực và điều đó làm cho những người có thái độ trung lập có cảm tình hơn với những lý lẽ gắn kết với chúng. Điều đó đã từng xảy ra với từ “người tự do” (liberal), đấy cũng là lý do vì sao người ta lại cố gắng chiếm đoạt từ này.

Hiện có một thuật ngữ ít được sử dụng, nhưng đã có thời nó từng giữ thế thượng phong và được coi là nhãn hiệu của một lọat tư tương liên quan đến quyền tự do và trách nhiệm cá nhân. Đấy là từ “chủ nghĩa cá nhân” (individualism) hay đúng hơn “chủ nghĩa Cá Nhân” (Individualism). Trước năm 1850, từ “chủ nghĩa cá nhân” ít được dùng và nếu dùng thì thường có nghĩa xấu, hàm ý tính ích kỷ và thói vô trách nhiệm. Nhưng từ khoảng năm 1850 trở đi, hàng lọat người cầm bút ở cả hai bờ Đại Tây Dương (chứ không chỉ những nước nói tiếng Anh) bắt đầu sử dụng từ này và liên kết những điều như “cá tính” theo lối tích cực. Từ năm 1870 trở đi nó trở thành danh từ viết hoa và được sử dụng như một nhãn hiệu chính trị.

Trong giai đoạn giữa năm 1880 và 1912 ở Anh, Mỹ và Pháp đã diễn ra cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai phe tri thức được xác định một cách rạch ròi và được tổ chức một cách cẩn thận, đấy là những phe phái tự nhận là những người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa và những người theo thuyết tập thể chủ nghĩa. Nhóm thứ hai gồm những người xã hội chủ nghĩa Fabian, những người tự nhận là tiến bộ (Progressives) ở Mỹ (tức là những người chiếm được từ “liberal”), nhưng còn bao gồm cả những người theo phái đế quốc chủ nghĩa bảo thủ, những người ủng hộ chính sách ưu tiên người bản địa và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, cũng như của đảng Cộng hòa do những người như Theodore Roosevelt làm đại diện. (Nhiều người xã hội chủ nghĩa và tiến bộ “tả khuynh” còn là những người ủng hộ chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và những chính sách thí dụ như ưu sinh – nay chẳng còn ai nhớ).

Những người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa là những người ủng hộ chính phủ tối thiểu và phản đối đế quốc và thực ra là phản đối tất cả những hình thức của chủ nghĩa tập thể, dù đấy có là chủ nghĩa tập thể mang mầu sắc sắc tộc hay dân tộc thì cũng thế. Họ còn liên kết với nhiều phong trào khác, mà trên hết là phong trào nữ quyền, nhiều người lãnh đạo của phong trào này thời đó tự coi mình là những người theo thuyết Cá Nhân chủ nghĩa. Trung tâm của luận cứ là liệu chính phủ có trách nhiệm thúc đẩy sự thịnh vượng chung của tập thể, tức là sự thịnh vượng được coi là đứng trên và bên ngòai sự theo đuổi hạnh phúc cá nhân và liệu có một bản sắc tập thể lấn át yêu cầu của những con người cụ thể hay không.

Thuật ngữ biến mất

Cho đến những năm 1930 sự bất đồng giữa chủ nghĩa Cá Nhân và chủ nghĩa Tập Thể được hiểu là một trong những bất đồng căn bản nhất trong nền chính trị hiện đại. Cho mãi đến những năm 1930 sự chống đối Kế họach Kinh tế Mới (New Deal) chủ yếu xuất phát từ những người tự coi mình là theo thuyết cá nhân chủ nghĩa và thuộc về một truyền thống tri thức cho đến lúc đó đã có nền tảng vững chắc. Sau đó, trong những năm 1940 và 1950 thuật ngữ, như một nhãn hiệu chính trị, đã không còn được sử dụng nữa và trở thành chữ viết thường. Tại sao? Đấy là một bí ẩn, nhưng rõ ràng một phần là do sự tái chuyển hướng của “cánh hữu” diễn ra đồng thời với Chiến tranh Lạnh.

Ngoài những tổ chức mang tính lịch sử hiện đã bị lãng quên nhưng đã đến lúc chín muồi cho sự phục hồi, thuật ngữ chủ nghĩa Cá Nhân có một loạt ưu điểm so với những thuật ngữ khác trong thế giới đương đại. Thuật ngữ này có ý nghĩa tích cực đối với nhiều người, nhưng nó còn phân biệt những người có phản ứng tích cực với những người phản ứng không dứt khóat và rõ ràng. Như vậy là nó gửi đi một thông điệp rõ ràng. Nó có nhiều ý nghĩa và liên tưởng, bên cạnh quan điểm rõ ràng về chính phủ và vai trò của nó, nó còn hàm ý thái độ của người ta đối với văn hóa, triết học, và cuộc sống xã hội nói chung. Nó không có nghĩa là nếu bạn tự coi mình là như thế thì bạn là người ủng hộ nguyên trạng (bạn có thể là người như thế, nhưng đấy không phải là hàm ý của từ này).

Nhưng trước hết, nó liên quan tới cuộc tranh luận đang gia tăng trong xã hội hiện đại. Sau khi bức tường Berlin và Liên Xô sụp đổ, chúng ta đã quay trở lại với cuộc tranh luận diễn ra trong giai đọan 1880 và 1914, tức là cuộc tranh luận giữa những người theo thuyết Tập Thể thuộc mọi xu hướng một bên và bên kia là những người bảo vệ sự tự chủ của cá nhân và lựa chọn tự nguyện. Chúng ta có thể nói, mà không có ý mỉa mai, “Những người Cá Nhân chủ nghĩa toàn thế giới liên hiệp lại!” Đã đến lúc lau chùi nhãn hiệu này và làm sống lại nó.

[themify_box style=”green rounded” ]Stephen Davies là giám đốc khoa học tại Institute of Economic Affairs ở London.[/themify_box]

 

Phạm Nguyên Truờng dịch
Nguồn: Stephen Davies – Đã đến lúc phục hồi chủ nghĩa cá nhân hay chưa?