16 C
Da Lat
Thứ Năm, 25 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 207

Think-Outside-The-Box: Một thế giới không nhà tù, không trường học

Featured Image: LPHR Group

 

Think-outside-the-box

Chắc hẳn nhiều bạn đã nghe hoặc đã quá quen thuộc với kiểu tư duy này. Đó đơn giản là lời khuyên về việc khám phá sự khác biệt, bên ngoài cái tư duy cố hữu của mỗi người. Một cách nhìn khác, một góc độ khác và một chiều hướng khác… Có thể không ngoa khi nói rằng, chính kiểu tư duy “thoát khỏi cái hộp” đã giúp cho thế giới này phát triển không ngừng.

Đó là kiểu tư duy mà Thomas Edison đưa chúng ta vào một thế giới ngập tràn ánh sáng của những “chiếc đèn treo ngược không cần dầu”, là kiểu tư duy mà Henry Ford muốn làm cho thế giới này sang trang mới khi xe hơi trở nên phổ cập để mọi người đều có thể sở hữu. Đó là kiểu tư duy mà anh em nhà Wright đã cố gắng để đưa chúng ta bay trên bầu trời như những cánh chim. Và cũng là kiểu tư duy mà Bill Gate, Mark Zuckerberg làm cho mọi thứ mọi vật thế giới này xích lại gần nhau hơn bao giờ hết.

Có thể nói, tư duy “thoát hộp” cực kỳ quan trọng đối với chúng ta, hôm qua, hôm nay và cả tương lai nữa. Đó cũng là bước khởi đầu cho những ước mơ của bạn từ thời thơ bé, ước mơ thay đổi thế giới, ước mơ làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Tư duy này sẽ khiến cho ước mơ đó không còn là tưởng tượng hay lời nói xàm vô nghĩa nữa.

Một thế giới không nhà tù

Tư duy thoát hộp không chỉ ứng dụng trong công nghệ, kỹ thuật hay những thứ cao siêu. Mà nó có thể áp dụng trong hầu hết mọi sự việc, mọi vấn đề trên thế giới.

Hãy nghĩ về chuyện này: Làm cách nào để xóa bỏ hệ thống nhà tù trên toàn thế giới?

Đây là câu hỏi chủ đề thảo luận tôi đọc được trong cuốn sách nào đó, rất thú vị đúng không? Câu chuyện được kể thế này. Một vị chủ tọa đặt ra chủ đề thảo luận để cả lớp cùng nhau suy nghĩ và phản biện. Khi vị chủ tọa đặt vấn đề này với sinh viên trong lớp. Cả lớp đã nhao nhao lên phản đối, rằng làm sao mà thế giới lại không cần đến nhà tù chứ? Lấy chỗ nào để giam giữ những tên phạm nhân. Thế giới này sẽ loạn mất, cuộc sống rồi sẽ không còn an toàn, rằng đây là một ý tưởng điên rồ và không tưởng…

Vị chủ tọa lắng nghe, sau đó ông mỉm cười và giải thích với các bạn sinh viên rằng: Không gì là không thể cả, hãy tư duy ra ngoài chiếc hộp định kiến và thực tế, và hơn hết, đây chỉ là một bài tập, mọi người hãy cố gắng làm bài tập đó và đừng ngại đưa ra quan điểm của mình. Nên nhớ, đề bài là “làm thế nào để xóa bỏ nhà tù” chứ không phải “bỏ nhà tù thì tác hại thế nào”. Các bạn sinh viên, cũng như chúng ta thôi, bắt đầu ngồi lại và xem xét, dù sao cũng chỉ là bài tập chứ không phải thực tế mà, nghĩ gì nói đó thôi.

Và thế là họ bắt đầu nêu ý kiến của mình, ban đầu thì khá dè dặt và ấp úng, nhưng rồi như một làn sóng, mọi người bắt đầu nhao nhao lên tìm lý do và cách thức để xóa bỏ hệ thống nhà tù: Có lẽ chúng ta nên tạo ra nhiều trường học, trung tâm giáo dục và nơi ở hơn cho những người nghèo khổ, thất nghiệp và lang thang, vì họ chính là đối tượng dễ phạm tội nhất. Thay vì nhà tù chúng ta có thể tạo nên một kiểu trung tâm chức năng nhân văn hơn để giáo dục những phạm nhân. Chúng ta phải tạo nhiều công ăn việc làm hơn nữa và cả các trường dạy nghề cho người không có công việc và nghề nghiệp gì.

Cần các biện pháp khuyến khích người ta làm những việc như đọc sách, từ thiện. Có thể thay thế hình phạt giam giữ bằng những cách như lao động công ích, chăm trẻ mồ côi, chăm người bệnh tật và chăm người già trong viện dưỡng lão… để họ nhận thức được những nỗi đau của người khác, từ đó tâm họ sẽ thiện lành hơn. Cho các phạm nhân chuộc lại lỗi lầm bằng những việc làm thiết thực thay vì giam giữ họ lại. Phạm nhân là những con người, họ đã sai lầm thì cần phải học được từ sai lầm của mình, cần được đối xử như một con người và cần được cho cơ hội để làm lại tất cả…

Bắt đầu từ những cách để giảm thiểu những người phạm pháp, cho tới việc đối xử với những tù nhân hiện tại thế nào và các cách để thực hiện hình phạt cho những người phạm tội sau này ra sao để không cần đến nhà tù nữa. Đã có rất nhiều, rất nhiều những ý kiến và biện pháp khác nhau được đưa ra. Sau buổi thảo luận, tất cả các sinh viên trong lớp đều ngỡ ngàng khi nhìn nhận lại vấn đề. Họ đều nhất loạt cho rằng việc xóa bỏ nhà tù là điều hoàn toàn có thể làm được, chứ không chỉ là một ý tưởng nhảm nhí vớ vẩn như lúc ban đầu họ nghĩ. Họ đã thoát-hộp thành công.

Viết tới đây, tôi chợt nhớ ra mình đã đọc được đâu đó, từ rất lâu rồi, những chuyện thú vị lạ lùng đại loại thế này: Một anh chàng phạm luật về môi trường đã bị tuyên án bằng việc trồng 100 cây xanh và chăm sóc chúng trong 5 năm, rồi một ông chồng phạm tội ngoại tình bị phạt bằng cách rải 1000 tờ rơi xin lỗi vợ và phải tặng cho bà vợ 1000 bông hồng, mỗi ngày một bông, một bạn trẻ phạm tội gì đó đã bị phạt đọc 10 cuốn sách về chủ đề đó…

Đây hoàn toàn là chuyện có thật, tôi không nhớ là đã đọc chúng ở đâu, chỉ nhớ rằng tôi thấy chúng thú vị đến mức đã ghi chép lại vào một cuốn sổ tay những điều lạ lùng, tiếc là cuốn sổ đã bị mất. À tôi còn nhớ một điều thú vị khác nữa có ghi trong cuốn sổ, đó là việc bạn hoàn toàn có thể làm tăng kích thước “của quý” của mình bằng cách học theo một bộ lạc trong rừng sâu. Xưa nay đây vốn là điều mọi người cho rằng không thể làm được đúng không? Ồ, hãy ra ngoài chiếc hộp đi, hoàn toàn có thể đó. Bộ lạc đó, họ sử dụng một loại vỏ và lá cây bí mật để bọc “của quý” của mình, sau một thời gian ngắn, chúng sẽ phồng rộp và sưng to lên… Ok, đó không phải cách hay ho gì, nhưng cũng là một kiểu tư duy bên ngoài chiếc hộp đúng không? Thôi được rồi, không đùa nữa.

Hãy suy nghĩ về việc này, liệu chúng ta có thể thay thế những năm tháng giam giữ tù nhân bằng những hình phạt nhân văn hơn? Một người phạm tội trộm cắp hoặc gây rối thay vì 5 năm trong tù sẽ phải dùng 5 năm đó để chăm sóc các trẻ em mồ côi hoặc hoặc người bệnh liệt giường. Một người phạm tội phá rừng phải chịu trách nhiệm trồng lại một đồi cây hoặc chăm sóc một vườn hoa công cộng, một ông chồng ngoại tình sẽ phải làm việc nhà thay vợ trong một năm và đưa vợ con đi du lịch 2 lần trong năm… Những hình phạt này nghe có vẻ điên rồ đúng không? Tôi lại cảm thấy thật thú vị, tùy mỗi tội sẽ có những hình phạt nặng nhẹ khác nhau, nhưng chung quy, hãy bắt họ đền bù bằng những hành động thiết thực, chứ không đơn giản là ngồi trong một căn nhà đá có người bảo vệ và cơm ăn hàng ngày.

Thời gian là thứ quý báu, đừng lãng phí thời gian của bản thân và cũng không nên làm lãng phí thời gian của người khác. Hãy để cho hành động thiết thực bù đắp những lỗi lầm. Người phạm nhân sẽ phải làm những việc ý nghĩa cho cuộc sống, xã hội cũng sẽ đỡ gánh nặng và thậm chí là tuyệt vời hơn. Có khi, những hình phạt nghe chừng nhân văn như trên lại khiến cho phạm nhân nổi da gà hơn cả việc ngồi không trong tù ấy chứ. Và tôi tin xác suất khiến họ thay đổi theo chiều hướng tốt hơn sẽ cao hơn nhiều so với những hình phạt tài chính hay giam giữ hiện hành.

Một thế giới không trường học

Bây giờ, hãy thoát hộp trong một chủ đề khác. Hãy chuẩn bị tinh thần, tôi biết bạn có thể bạn sẽ không đồng tình, có thể bạn sẽ phản biện gay gắt, có thể bạn sẽ cho rằng đây là chủ đề khùng điên và đóng sập trang này mà quay đi. Ồ không sao cả, cũng như trên, hãy coi nó như là một bài tập, tôi muốn bạn cho ý kiến tìm giải pháp chứ không phải trốn tránh và chê trách. Đây chỉ là ý tưởng thôi chứ chưa phải là thực tế nên đừng hoang mang và hoảng sợ. Xin hãy cứ mạnh dạn nêu ý kiến của mình. Chủ đề mà tôi muốn chúng ta “thoát hộp” hôm nay, đó là: Hãy nghĩ cách để xóa bỏ hệ thống trường học hiện hành.

Bạn nghĩ sao? Chúng ta đều biết hệ thống giáo dục, cụ thể trường học hiện nay là bất ổn, đúng không? Việc dạy lý thuyết mà lãng quên thực hành, việc dạy nghe lời mà lãng quên sáng tạo, việc chú trọng toán học mà lãng quên các môn nghệ thuật căn bản, việc coi trọng bằng cấp… Quá nhiều điều bất cập, tại sao chúng ta không thể đập tan cái hệ thống giáo dục ấy? Tôi cũng thừa nhận chúng ta cần một nơi để “giữ trẻ” cho các bậc phụ huynh yên tâm đi làm, cho các bạn trẻ con đường hướng đến tương lai. Vậy sao không bám sát vào mục tiêu đó để mà thay đổi.

Khi nói chủ đề này, ý tôi khi nói xóa bỏ trường học, không có nghĩa đen như kiểu đập tan hết các trường học hiện hành, nhưng ý tôi là đập tan cái cách giáo dục hiện hành, thay vào đó là một môi trường giáo dục hợp lý và màu sắc hơn, tươi vui và thú vị, một nơi khuyến khích người ta tìm hiểu và khám phá, một nơi mà học sinh được chú trọng phát triển năng khiếu và tố chất của bản thân, một nơi mà người ta ham thích chứ không phải chán ngán và cảm thấy mất thời gian vô nghĩa. Một nơi mà chuyện mặc đồng phục y hệt nhau không còn quan trọng và việc phải giữ trật tự tuyệt đối không còn ý nghĩa. Đó là nơi mọi người thoải mái trao đổi với nhau những vấn đề trong cuộc sống. Nơi mà các giáo viên không áp đặt, mà chỉ đơn giản là hướng dẫn và định hướng mà thôi.

Đại loại như đưa ra các chủ đề cho cả lớp cùng thảo luận. Ví dụ như một lớp về chủ đề tìm hiểu lịch sử Việt Nam, làm thế nào để xóa bỏ những bất công trong xã hội, cách đương đầu với khó khăn trong cuộc sống, sức mạnh của tình yêu, tầm quan trọng của tình thân gia đình, lớp nghiên cứu thành công của những danh nhân thế giới, lớp học khám phá thế giới tự nhiên, giáo dục giới tính cởi mở… Một bạn trẻ càng được tiếp xúc với nhiều vấn đề thì sẽ càng làm tăng hiểu biết và vốn sống, rồi sẽ sớm tìm ra lĩnh vực mà bạn ấy quan tâm và rồi sẽ tìm cách cống hiến cho điều mà bạn ấy tin tưởng. Một thế giới mà ai cũng tìm cách cống hiến thì chẳng mấy chốc chúng ta sẽ tiếp cận được một nơi chỉ có trong truyền thuyết: “thiên đường”.

Này nhé, thay vì trường học như hiện nay, chúng ta có thể xây dựng nên những thứ đại loại như là “trung tâm định hướng” hoặc “học viện năng khiếu”. Đó là một nói mà các em nhỏ đương nhiên vẫn được dạy đọc, viết và làm toán, nhưng các em cũng được toàn quyền quyết định con đường mà mình sẽ theo, môn học mà mình thích, nơi mà các em sẽ được tiếp xúc với mọi vấn đề trong cuộc sống và nêu chính kiến của mình, các em sẽ được vui chơi và sáng tạo, được hướng dẫn để tìm ra năng khiếu và sở trường của mình. Một nơi mà ai thích toán sẽ học toán, ai thích múa sẽ được học múa, ai thích đàn thì sẽ học đàn. Một nơi mà nhân cách và tư duy được phát triển đồng bộ, cái gì cần thì chú trọng, cái gì không cần thì có thể đi lướt qua.

Một nơi mà thay vì học thuộc một bài thơ các em sẽ phải đọc sách, thật nhiều sách và thuyết trình về chúng, nơi mà những cuộc thi “tìm hiểu lịch sử Đảng” sẽ thay bằng “sáng tạo cho cuộc sống xung quanh”, nơi mà những công thức toán học lý học sẽ không phải học thuộc lòng, nơi mà thay vì làm văn về các bài văn cũ kỹ sẽ là ý kiến cá nhân về vấn đề xã hội mà bạn quan tâm… Nói chung là một môi trường thuần túy “giáo dục và định hướng” chứ không phải là “nhồi sọ và bắt ép” như hiện nay nữa.

Một thế giới không có trường học là một thế giới mà cả xã hội phải có trách nhiệm và quan tâm tới tuổi trẻ, cả xã hội phải giáo dục chúng, chứ trách nhiệm không chỉ thuộc về thầy cô hay cha mẹ. Xã phường tổ chức những cuộc cắm trại, tham quan cho thanh thiếu niên trong xã. Hội phụ huynh tổ chức những hoạt động vui chơi cho con mình. Nhà nước đề xuất các cuộc thi tài từ khoa học, công nghệ cho tới bảo vệ môi trường cho tất cả các bạn trẻ cùng tham gia. Các học viện năng khiếu thường xuyên tổ chức và ứng tuyển những tài năng trẻ. Mỗi địa phương sẽ có các câu lạc bộ khác nhau về văn hóa, nghệ thuật, kinh doanh và khuyến khích mọi người cùng tham gia. Các tổ chức kinh doanh cùng nhau quyên tiền trao thật nhiều học bổng, nhà nước xây thật nhiều thư viện và phòng thí nghiệm. Nơi mà giáo viên không đánh giá học sinh mà chính học sinh sẽ đánh giá giáo viên của mình, họ giảng bài có thú vị không, hấp dẫn không? chủ đề họ dạy có cần thiết không? bạn hài lòng về buổi học này chứ?…

Đập nát cái hộp

Những điều trên có lẽ bạn sẽ thấy thật ngớ ngẩn và lạ lùng, thậm chí không tưởng. Nhưng không phải mọi thứ trên đời này đều bắt nguồn từ những ý tưởng sao? Và không phải ý tưởng càng điên rồ thì thành công lại càng rực rỡ hay sao? Vốn dĩ tôi cũng không mong và không nghĩ chúng ta có thể làm được điều này, ít nhất vài trăm năm nữa. Nhưng từng bước một thì hoàn toàn có thể, như là cùng nhau góp sức xây dựng nên những thư viện công cộng, như là loan truyền những tư tưởng tốt đẹp, những vấn đề xã hội cho các bạn trẻ quan tâm hơn, hay đơn giản nhất là hãy trở thành những tấm gương sáng cho chính con cái của bạn. Muốn chúng đọc sách ư, bạn hãy đọc sách trước đã, muốn chúng làm nhiều việc thiện ư, chính bạn hãy làm nhiều việc thiện trước đã, muốn con cái bạn có thể làm gì đó thiết thực thay đổi thế giới ư, trước hết chính bạn, hãy tư duy ra ngoài chiếc hộp định kiến của mình.

Việc xóa bỏ nhà tù và trường học nghe khó khăn và xa vời quá, thật khó để mà hình dung chứ đừng nói đến thực hiện. Tuy nhiên tôi biết có một việc bạn hoàn toàn có thể làm được, ngay hôm nay, ngay lúc này. Đó là hãy đập tan cái hộp trong đầu bạn. Cái hộp định kiến, cái hộp tư duy, cái hộp bó buộc bạn trong những điều bạn biết, bạn tin và bạn nghĩ. Đừng nghĩ rằng vợ bạn chỉ cần bạn mang tiền về, đừng nghĩ rằng cha mẹ chỉ cần bạn mua cho thứ này thứ kia, đừng nghĩ rằng con bạn chỉ cần đến trường là đủ. Đừng nghĩ rằng những người giàu có đều là may mắn, đừng cho rằng những ai ngoại tình đều đáng khinh, đừng nghĩ rằng cuộc sống của bạn đang ổn nghĩa là nó sẽ luôn ổn… Hãy Thoát-hộp trong những chuyện nhỏ nhặt đó trước đã, khi đã quen, bạn hoàn toàn có thể nhận ra Thoát-hộp là một trong những cách đơn giản nhất làm cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn nhiều.

Nào giờ hãy thừa nhận đi, nếu có một môi trường giáo dục như trên, bạn có muốn được sống trong đó không? Hãy xem đây như một câu chuyện cổ tích hiện đại, cổ tích vì chúng hiện không có thật, nhưng hiện đại vì biết đâu chúng có thể trở thành sự thực thì sao. Bạn biết đấy, con người ngày càng tiến gần tới ngưỡng cửa của những vị thần rồi, nên việc kiến tạo một thế giới cổ tích là điều hoàn toàn có thể, dù không biết là khi nào. Tất cả những gì chúng ta cần làm trước tiên là hãy Think-Outside-The-Box…

 

Phi Tuyết

Bàn về chủ nghĩa cá nhân (bài cuối)

Featured Image: Redjayd2kx

 

Gần đây có người khẳng định rằng những người theo trường phái tự do (libertarians), tức những người tự do truyền thống (classical liberals) thực sự nghĩ là “con người cá nhân tự cảm thấy là đủ và những điều ưa thích mang tính giá trị của họ nằm trước và bên ngoài mọi xã hội”. Họ “phớt lờ bằng chứng xác đáng của khoa học xã hội về hậu quả xấu của sự cách ly” và, kinh khủng hơn nữa là họ “hăng hái chống lại khái niệm về ‘những giá trị được nhiều người chia sẻ” và ý tưởng về “lợi ích chung”. Đấy là tôi trích dẫn từ bài phát biểu của giáo sư Amitai Etzioni, chủ tịch Hội xã hội học Mỹ trước các thành viên của tổ chức này vào năm 1995 (được đăng trên tờ Tạp chí xã hội học Mỹ, số tháng 2 năm 1996). Là khách mời thường xuyên của các talk show và là biên tập viên tạp chí The Responsive Community, ông Etzioni trở thành người truyền bá nổi tiếng cho phong trào chính trị có tên là chủ nghĩa cộng đồng (communitarianism – xuất phát từ từ commmune nghĩa là cộng đồng hay công xã -ND).

Etzioni không phải là người duy nhất đưa ra những lời kết án như thế. Từ phái tả, bình luận viên tờ Washington Post, ông E. J. Dionne Jr. khẳng định trong cuốn Vì sao người Mỹ ghét chính trị (Why Americans Hate Politics) của ông ta rằng “càng ngày càng có nhiều người chia sẻ quan điểm của phái tự do cho phép giả định rằng nhiều người Mỹ thậm chí đã không còn tin vào nguyên tắc “lợi ích chung” nữa và tiểu luận gần đây trên tờ Washington Post Magazine tuyên bố rằng “nhấn mạnh tự do cá nhân không giới hạn, dường như những người theo phái tự do (libertarian) thừa nhận rằng các cá nhân xuất hiện trên đời như những người đã trưởng thành hòan tòan, những người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình ngay từ khi mới chào đời”.

Từ phía hữu, ông Russell Kirk, một người nay đã quá cố, trong một bài báo với giọng cay độc với đầu đề Những người theo phái tự do: Môn phái lắm lời tuyên bố rằng: “Những người theo phái tự do kiên định, giống như quỷ Satan, không chấp nhận bất kỳ quyền lực nào, cả thế tục lẫn tôn giáo.” Và rằng: “Người theo phái tự do không tôn trọng tín ngưỡng và phong tục truyền thống, không tôn trọng thế giới tự nhiên hay đất nước của anh ta, không tôn trọng ngọn lửa bất diệt trong con người.”

Thượng nghị sĩ Dan Coats (Đảng cộng hòa) và nhà báo David Brooks của tờ Weekly Standard bằng hình thức lịch sự hơn đã chỉ trích những người theo phái tự do là dường như họ coi thường giá trị của công đồng. Coats viết rằng dự luật của ông ta mang tính “bảo thủ vừa phải, chứ không phải là hoàn toàn tự do. Nó công nhận không chỉ các quyền cá nhân mà còn công nhận vai trò của các nhóm tiến hành việc tái xây dựng hạ tầng xã hội và đạo đức của những cộng đồng địa phương của họ”.

Những lời kết án như thế – càng ngày càng xuất hiện nhiều hơn từ phía những người phản đối các lý tưởng của chủ nghĩa tự do truyền thống – không bao giờ được chứng minh bằng các trích dẫn từ những bài viết của những người theo phái tự do truyền thống, cũng không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng những người ủng hộ tự do cá nhân và chính phủ hạn chế quả thật đã nghĩ như Etzioni và những người cùng hội cùng thuyền với ông ta lên án. Những lời kết án vô lý được nhắc đi nhắc lại và không bị bác bỏ có thể được người ta coi là chân lý, vì vậy mà cần phải buộc Etzioni và những người phê phán theo phái cộng đồng khác trả lời về những sự xuyên tạc của họ.

Chủ nghĩa cá nhân làm cho xã hội trở thành rời rạc?

Xin phân tích luận điểm cho rằng chủ nghĩa cá nhân làm cho xã hội trở thành rời rạc mà Etzioni, Dionne, Kirk và những người khác đã nêu ra. Cơ sở triết học của lời phê phán đó được những người phê bình chủ nghĩa cá nhân truyền thống như nhà triết học Charles Taylor và nhà chính trị học Michael Sandel theo thuyết cộng đồng xây dựng nên. Thí dụ, Taylor khẳng định rằng vì những người theo phái tự do tin vào quyền cá nhân và nguyên tắc trừu tượng của công lý cho nên họ cũng tin vào “con người tự cấp tự túc-đơn lẻ, hay nếu muốn, có thể gọi là cá nhân”. Đấy chỉ là phương án đã được hiện đại hóa của cuộc tấn công cũ vào chủ nghĩa cá nhân tự do truyền thống mà thôi, theo đó, dường như những người theo phái tự do coi “con người cá nhân trừu tượng” là cơ sở cho quan điểm về công lý của họ.

Khẳng định như thế là vô nghĩa. Không ai tin rằng có “những con người cá nhân trừu tượng” vì tất cả các cá nhân nhất định đều là những con người cụ thể. Cũng như không hề có bất kỳ cá nhân “tự cấp tự túc” nào, đấy là điều mà các độc giả của Tài sản của các dân tộc (Adam Smith – ND) đều biết.

Không những thế, những người theo phái tự do truyền thống khẳng định rằng hệ thống tư pháp phải tách ra khỏi tính cách cụ thể của các cá nhân. Nghĩa là khi một cá nhân đứng trước tòa thì trọng lượng, màu da, tài sản, địa vị xã hội và tôn giáo của anh ta không có liên quan gì tới vấn đề công lý. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa như thế, chứ nó không có nghĩa là không người nào có trọng lượng, màu da hay niềm tin tôn giáo cụ thể. Trừu tượng hóa là quá trình tư duy mà chúng ta sử dụng nhằm phân biệt bản chất hay khuôn khổ của vấn đề, chứ không đòi hỏi phải tin rằng con người là một cái gì đó trừu tượng.

Chính vì không có cá nhân hay nhóm nhỏ nào có thể hoàn toàn tự cấp tự túc cho nên con người cần phải hợp tác thì mới sống còn và thịnh vượng được. Và vì sự hợp tác diễn ta giữa muôn vàn cá nhân không quen biết nhau cho nên luật lệ điều chỉnh sự tương tác đó về bản chất là luật lệ trừu tượng. Luật lệ trừu tượng, tức là luật lệ xác định trước điều chúng ta có thể kỳ vọng ở người khác, làm cho sự hợp tác của nhiều người trở thành khả thi.

Không một người có lý trí nào lại tin rằng cá nhân được hình thành một cách trọn vẹn bên ngoài xã hội – trong tình trạng cách ly, nếu bạn muốn nói như thế. Điều đó có nghĩa là không có cha mẹ, họ hàng, bạn bè, thần tượng hay thậm chí là hàng xóm nữa. Rõ rang là tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh. Những người theo phái tự cho chỉ khẳng định rằng sự khác biệt giữa những người trưởng thành bình thường không đưa đến sự khác biệt về những quyền cơ bản của họ.

Nguồn gốc và giới hạn trách nhiệm

Tại căn để của nó, chủ nghĩa tự do không phải là lý thuyết siêu hình về tính ưu việt của cá nhân so với cái trừu tượng, lại càng không phải là lý thuyết trừu tượng về “cá nhân trừu tượng”. Nó cũng không phải sự chối bỏ sạch trơn truyền thống, như Kirk và một số nhân vật bảo thủ khác kết án. Trái lại, nó là lý thuyết nhằm đáp trả lại sự gia tăng quyền lực của nhà nước; sức mạnh của chủ nghĩa tự do là ở chỗ nó kết hợp lý thuyết có tính quy chuẩn về nguồn gốc đạo đức và chính trị cũng như giới hạn trách nhiệm với lý thuyết thực chứng giải thích nguồn gốc của trật tự xã hội. Mỗi người đều có quyền tự do và những con người tự do có thể tạo ra trật tự một cách tự phát, mà không cần bộ máy hành chính quan liêu ra lệnh cho họ.

Còn đặc điểm rõ ràng là vô lý mà Dionne gán cho chủ nghĩa tự do: “Các cá nhân xuất hiện trên đời như những người đã trưởng thành hoàn toàn, những người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình ngay từ khi mới chào đời.” Thì sao? Những người theo phái tự do công nhận có sự khác biệt giữa người trưởng thành và trẻ con, cũng như có sự khác biệt giữa người trưởng thành bình thường và người điên, người bị hạn chế hay kém phát triển về mặt trí não.

Trẻ con và người trưởng thành nhưng bất bình thường cần có người bảo hộ vì họ không thể thực hiện những lựa chọn có trách nhiệm cho chính mình. Nhưng không có lý do rõ ràng nào cho quan niệm cho rằng một số người trưởng thành bình thường được quyền lựa chọn cho những người bình thường khác, như những người có quan niệm gia trưởng cả phái tả lẫn phái hữu nghĩ. Người theo phái tự do khẳng định rằng không một người trưởng thành bình thường nào có quyền áp đặt lựa chọn cho những người trưởng thành bình thường khác, trừ những trường hợp ngọai lệ, thí dụ như khi thấy một người bất tỉnh và trợ giúp về mặt y tế hay gọi xe cấp cứu.

Sự khác biệt chủ yếu giữa chủ nghĩa tự do với những quan điểm khác về đạo đức chính trị là lý thuyết về những trách nhiệm buộc phải thực hiện. Một số trách nhiệm, thí dụ như trách nhiệm viết vài lời cảm ơn chủ nhân sau bữa tiệc thường là trách nhiệm không bị buộc phải thực hiện. Nhưng những trách nhiệm khác, thí dụ như không được phê phán thẳng cánh người khác hay phải trả tiền trước khi cầm đôi tất ra khỏi nhà hàng, là trách nhiệm buộc phải thi hành. Trách nhiệm có thể là phổ quát mà cũng có thể là cụ thể. Cá nhân, dù là ai, dù ở đâu (nghĩa là trừu tượng hóa khỏi những hòan cảnh cụ thể) cũng có trách nhiệm buộc phải thi hành với tất cả những người khác: không được xâm phạm đời sống, quyền tự do, sức khỏe và tài sản của họ.

Theo lời của John Locke thì: “Vốn là những người bình đẳng và tự chủ, không ai được xâm phạm đời sống, sức khỏe, quyền tự do hay tài sản của người khác.” Mọi người đều có quyền hưởng thụ những thứ đó mà không bị ai cản trở. Quyền và trách nhiệm liên quan với nhau, cả hai đều có tính phổ quát và “tiêu cực”; trong điều kiện bình thường mọi người đều có thể hưởng thụ cùng một lúc. Nền tảng của quan điểm tự do là luận điểm về tính phổ quát của quyền con người: không bị giết hại, không bị đánh đập, không bị cướp bóc và không cần phải là “con người cá nhận trừu tượng” mới khẳng định được tính phổ quát của những quyền đó. Chính là sự tôn trọng chứ không phải thái độ coi thường “ngọn lửa bất diệt trong con người” mà những người theo phái tự do đứng lên bảo vệ quyền con người.

Đấy là những trách nhiệm phổ quát. Còn trách nhiệm “cụ thể” thì sao? Tôi đang viết những dòng này trong một quán cà phê và vừa gọi một ly cà phê nữa. Tôi đã tự nguyện nhận trách nhiệm cụ thể là trả tiền ly cà phê: tôi đã chuyển quyền sở hữu tài sản là một số tiền cho người chủ quán cà phê, còn bà ta thì chuyển quyền sở hữu ly cà phê cho tôi. Ngược lại, những người theo phái tự do thường khẳng định rằng trách nhiệm cụ thể, ít nhất là trong những hòan cảnh bình thường, phải được hình thành theo lối đồng thuận, chứ không thể được áp đặt bởi một phía. Bình đẳng về quyền nghĩa là một số người không thể áp đặt trách nhiệm lên một số người khác, vì đấy là vi phạm đức hạnh và quyền của những người đó.

Nhưng những người theo phái cộng đồng lại khẳng định rằng tất cả chúng ta đều sinh ra với rất nhiều trách nhiệm cụ thể, như hy sinh cho tập thể – gọi là nhà nước hay một cách tù mù hơn là dân tộc, cộng đồng hay đồng bào – tiền bạc, sự tự chủ và thậm chí là cuộc sống nữa. Họ còn khẳng định rằng có thể dùng vũ lực nhằm ép buộc người ta thi hành những trách nhiệm đó. Những người theo phái cộng đồng như Taylor và Sandel cho rằng tôi là một con người không chỉ vì tôi được giáo dục và có những trải nghiệm của mình mà còn vì tôi có một lọat những trách nhiệm cụ thể mà tôi không được phép tự do lựa chọn.

Xin nhắc lại, những người theo phái cộng đồng khẳng định rằng chúng ta là những con người bởi vì chúng ta có những trách nhiệm cụ thể và vì vậy mà những trách nhiệm này không thể là vấn đề lựa chọn. Nhưng đấy chỉ là lời khẳng định, nó không thể thay cho luận cứ cho rằng một người phải có trách nhiệm với những người khác; nó cũng không phải là lời biện hộ cho việc sử dụng bạo lực. Người ta cũng có thể hỏi: Nếu một người được sinh ra với trách nhiệm tuân thủ thì ai là người được sinh ra với trách nhiệm chỉ huy? Muốn cho lý thuyết về trách nhiệm được chặt chẽ thì phải có một người nào đó – một cá nhân hay một nhóm người – có quyền buộc những người khác thực thi trách nhiệm.

Nếu tôi là một con người vì tôi có trách nhiệm tuân thủ thì ai là một con người vì anh ta có quyền buộc người khác tuân thủ? Lý thuyết về trách nhiệm như thế có thể là lý thuyết chặt chẽ trong thời của các Thiên tử, nhưng bây giờ nó đã lỗi thời rồi. Xin tóm tắt như sau: không một người có lý trí nào lại tin vào sự tồn tại của con người trừu tượng, cuộc tranh luận thực sự giữa những người theo phái tự do và những người theo phái cộng đồng không phải là chủ nghĩa cá nhân như nó vốn là mà là tranh luận về nguồn gốc của những trách nhiệm cụ thể – trách nhiệm bị áp đặt hay được lựa chọn một cách tự do?

Các nhóm và lợi ích chung

Lý thuyết về trách nhiệm nhắm vào cá nhân không có nghĩa là những người ủng hộ lý thuyết này không công nhận sự tồn tại của xã hội hay họ không nói đến các nhóm. Nói cho cùng, thấy cây không có nghĩa là chúng ta không thể nói đến rừng. Xã hội không chỉ là các cá nhân tụ tập lại với nhau, cũng không phải là cái gì đó “lớn hơn và tốt hơn” tách biệt khỏi những người đó. Cũng như tòa nhà không phải là đống gạch, mà là những viên gạch được gắn kết theo một trật tự nhất định, xã hội không phải là một người với những quyền của anh ta mà là nhiều cá nhân và mối quan hệ phức tạp giữa họ với nhau.

Chỉ cần suy nghĩ một chút cũng thấy rõ là lời tuyên bố cho rằng người theo phái tự do phủ nhận “những giá trị được mọi người chia sẻ” và “lợi ích chung” là nói nhảm. Nếu những người theo phái tự do chia sẻ giá trị của tự do (ít nhất là như thế) thì họ không thể “phản đối một cách quyết liệt khái niệm “giá trị được chia sẻ”, và nếu những người theo phái tự do tin rằng nếu được hưởng tự do thì tất cả chúng ta sẽ hạnh phúc hơn thì họ không thể “phủ nhận lợi ích chung”, vì điểm cốt lõi của những cố gắng của họ là khẳng định lợi ích chung là gì!

Để đáp lại lời tuyên bố của Kirk rằng những người theo phái tự do phủ nhận truyền thống, cho phép tôi nói rằng những người theo phái tự do bảo vệ truyền thống tự do, đấy chính là kết quả của hàng ngàn năm lịch sử của lòai người. Thêm nữa, truyền thống thuần túy là khái niệm không chặt chẽ vì một số truyền thống có thể mâu thuẫn với nhau và người ta không còn biết phải hành động như thế nào cho đúng. Nói chung, tuyên bố rằng người theo phái tự do “phủ nhận truyền thống” là vô nghĩa và vô lý. Người theo phái tự do giữ gìn truyền thống tôn giáo, truyền thống gia đình, truyền thống dân tộc và truyền thống xã hội, thí dụ như có thái độ lịch sự và tôn trọng người khác, đấy rõ ràng không phải là những truyền thống mà Kirk cho là cần phải giữ.

Lý do thực sự để những người theo phái tự do đấu tranh cho quyền tự do cá nhân – đã bị những người phê phán thuộc trường phái cộng đồng xuyên tạc – thật đơn giản và hợp lý. Rõ ràng là mỗi người khác nhau cần những thứ khác nhau để có thể sống cuộc sống tốt đẹp, mạnh khỏe và đức hạnh. Mặc dù bản chất là như nhau, nhưng người ta khác nhau về điều kiện vật chất, về chiều cao, cân năng..v.v.. và vì vậy mà nhu cầu của chúng ta cũng khác nhau. Vậy thì đâu là giới hạn của lợi ích chung?

Karl Marx, một trong những người đầu tiên phê phán chủ nghĩa tự do từ quan điểm của phái cộng đồng, lý luận của ông ta cũng rất sắc sảo và chua cay. Marx khẳng định rằng xã hội dân sự dựa trên “sự phân ly con người”, kết quả là “bản chất của anh ta không còn giống nhau mà là khác nhau”; ngược lại, trong chủ nghĩa xã hội con người sẽ thể hiện mình như là “cá thể của lòai”. Như vậy là, những người xã hội chủ nghĩa tin rằng biện pháp cung cấp tất cả mọi thứ theo lối tập thể là phù hợp, trong nhà nước xã hội chủ nghĩa chân chính tất cả chúng ta đều được hưởng những lợi ích chung giống nhau và xung đột đơn giản là không xảy ra nữa.

Những người theo phái cộng đồng thường tỏ ra thận trọng hơn; và mặc dù nói rất nhiều, nhưng ít khi họ nói rõ lợi ích chung của chúng ta là gì. Thí dụ, triết gia theo phái cộng đồng, ông Alasdair MacIntyre, trong tác phẩm mang tên Sau đức hạnh (After Virtue), khẳng định trong 219 trang sách rằng: “Đời sống tốt đẹp đối với con người” phải diễn ra trong cố gắng chung và sau đó thì kết luận một cách khập khiễng rằng “đời sống tốt đẹp cho con người là đời sống được dùng để tìm kiếm đời sống tốt đẹp cho con người.”

Một tuyên bố thường gặp là lương hưu do nhà nước cung cấp là một thành phần của lợi ích chung vì nó “làm cho tất cả chúng ta đoàn kết lại với nhau”. Nhưng ai là “tất cả chúng ta”? Số liệu thực sự cho thấy rằng đàn ông Mỹ gốc Phi, trong suốt cuộc đời làm việc của mình, đóng số tiền bảo hiểm giống như đàn ông da trắng, nhưng họ chỉ nhận lại được một nửa so với đàn ông da trắng mà thôi. Hơn nữa, đàn ông da đen thường chết trước khi nhận lương hưu, nghĩa là tất cả tiền nong của họ đã làm lợi cho những người khác và tất cả các khỏan “đầu tư” của họ chẳng mang lại lợi ích gì cho gia đình.

Nói cách khác, họ bị ăn cướp nhằm làm lợi cho những người về hưu da trắng. Những người đàn ông Mỹ gốc Phi có phải là một phần trong “tất cả chúng ta”, những người được hưởng lợi ích chung hay họ là nạn nhân cho “lợi ích chung” của những người khác? (Độc giả của tạp chí này phải biết rằng tất cả đều được lợi với hệ thống hưu bổng tư nhân, vì vậy mà những người theo phái tự do khẳng định rằng tự do lựa chọn giữa các hệ thống hưu bổng khác nhau là lợi ích chung). Thế mà những lời tuyên bố về “lợi ích chung” lại thường được dùng để che đậy những hành động ích kỉ nhằm giành lợi ích riêng cho mình, như nhà văn Áo theo trường phái tự do truyền thống, ông Robert Musil, từng viết trong tác phẩm Con người không phẩm chất (The Man without Qualities): “Ngày nay chỉ có bọn tội phạm mới dám làm hại người khác mà không cần triết lý mà thôi.”

Người theo phái tự do công nhận tính đa nguyên tất yếu của thế giới hiện đại và vì vậy mà họ khẳng định rằng tự do cá nhân ít nhất cũng là một phần của lợi ích chung. Họ còn hiểu rằng muốn đạt được mục đích thì hợp tác là nhu cầu thiết yếu, con người cô đơn không bao giờ có thể tự cấp tự túc được. Chính vì thế mà chúng ta phải có luật lệ – thí dụ như luật lệ về tài sản và họp đồng – để làm cho quá trình hợp tác một cách hòa bình trở thành khả thi và chúng ta thành lập chính phủ để buộc mọi người phải thi hành những luật lệ này.

Hệ thống pháp luật tạo điều kiện cho chúng ta sống trong hòa bình và hòa hợp là lợi ích chung, chứ không phải là lợi ích “cho tất cả mọi người” nhưng thực ra lại là lợi ích của một số người trong khi những người khác phải chịu thiệt thòi. (Thuật ngữ “tự lực cánh sinh” còn một nghĩa nữa mà người làm cha mẹ nào cũng hiểu. Cha mẹ thường muốn con mình có tính tự lập chứ không sống như những kẻ ăn cắp, vô công rồi nghề, lười biếng hoặc ăn bám. Đấy là điều kiện cần thiết cho lòng tự trọng, Taylor và những người phê phán chủ nghĩa tự do khác đã lẫn lộn tinh thần tự lực cánh sinh với việc không dựa vào hay không hợp tác với người khác, một việc không thể xảy ra trên đời).

Vấn đề lợi ích chung bao giờ cũng liên quan tới quan điểm của những người theo phái cộng đồng về tính cá nhân hay sự tồn tại riêng biệt của những nhóm người. Cả hai quan niệm đó đều là thành phần của một quan điểm hòan tòan phi khoa học và phi lý của đường lối chính trị có xu hướng cá nhân hóa các định chế và các nhóm người, như nhà nước, dân tộc hay xã hội. Luận điểm về cá nhân hóa không những không làm phong phú thêm khoa chính trị học và tránh được sự ngây thơ của chủ nghĩa cá nhân tự do – mà những người theo phái cộng đồng khẳng định – mà còn làm cho vấn đề thêm rối rắm và ngăn chặn, không cho chúng ta nêu ra những câu hỏi thú vị, công trình nghiên cứu khoa học nào cũng phải bắt đầu bằng những câu hỏi như thế. Không có ai đặt vấn đề một cách rõ ràng bằng ông Parker T. Moon, nhà nghiên cứu lịch sử theo phái tự do ở Columbia University. Trong công trình nghiên cứu về chủ nghĩa đế quốc châu Âu hồi thế kỉ XIX với nhan đề Chủ nghĩa đế quốc và nền chính trị thế giới (Imperialism and World Politics) ông viết như sau:

Ngôn từ thường che lấp sự thật. Ngôn từ che mắt chúng ta trước những sự kiện trong quan hệ quốc tế nhiều hơn là chúng ta thường nghĩ. Khi sử dụng từ “Pháp” chúng ta thường nghĩ đến nước Pháp như là một đơn vị, một thực thể vậy. Để tránh lặp lại, chúng ta thường dùng đại từ nhân xưng thay cho một nước – thí dụ chúng ta nói: “Pháp đã gửi các đơn vị quân đội của họ đi xâm lược Tunis” – là chúng ta không chỉ coi đấy là một thực thể thống nhất mà còn nhân cách hóa cả một đất nước nữa. Chính ngôn từ đã che dấu các sự kiện và biến quan hệ quốc tế thành một vở kịch đầy màu sắc, trong đó các dân tộc đã được nhân cách hóa là các diễn viên và quên mất rằng những con người bằng xương bằng thịt mới là diễn viên thực sự.

Mọi thứ sẽ thay đổi đáng kể nếu không có từ “Pháp”, và lúc đó chúng ta phải nói 38 triệu đàn ông, đàn bà và trẻ con với những quyền lợi và niềm tin khác nhau sống trên diện tích là 218 ngàn dặm vuông! Lúc đó chúng ta phải mô tả cuộc viễn chinh Tunis chính xác hơn, theo kiểu như sau: “Một vài người trong số 38 triệu người đó đã đưa 30 ngàn người đi xâm lược Tunis.” Trình bày sự kiện theo kiểu đó sẽ lập tức tạo ra câu hỏi, hay đúng hơn là một lọat câu hỏi. “Một vài” người đó là ai? Tại sao họ lại đưa 30 ngàn người tới Tunis? Và tại sao những người này lại tuân theo?

Nhân cách hóa các nhóm người chỉ làm rối chứ không soi sáng những vấn đề chính trị quan trọng. Không thể dùng quan điểm từ việc nhân cách hóa những nhóm người như thế để giải thích một số vấn đề liên quan tới những hiện tượng chính trị và trách nhiệm đạo đức phức tạp, nhân cách hóa làm cho hành động của các chính trị gia trở thành huyền bí và tạo điều kiện cho một số người lợi dụng “triết học” – mà thường là triết học huyền bí nhằm làm hại những người khác.

Những người theo phái tự do không đồng ý với những người theo phái cộng đồng về một lọat vấn đề quan trọng, đặc biệt là nhu cầu sử dụng vũ lực nhằm bảo vệ cộng đồng, tình bằng hữu, tình yêu, và những vấn đề khác, tức là những thứ làm cho cuộc đời là đáng sống và chỉ có thể được hưởng thụ cùng với những người khác. Không thể gạt bỏ những khác biệt này ngay từ đầu; xuyên tạc, nêu ra những đặc điểm vô lý hay dán nhãn cho chúng không thể giúp giải quyết được những khác biệt đó.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Tom G. Palmer – Những ngộ nhận về chủ nghĩa cá nhân

Now we are free!

Featured Image: Ahmed Emad Eldin

 

Đầu tiên, hãy nghe bài hát này:

Hôm qua bạn nói với tôi về việc bị bó cánh. Bạn bảo, đôi cánh của bạn bị bó buộc quá. Bó bởi đồng tiền, bởi trách nhiệm, bởi gia đình, và vô vàn cái nhân cách quy chuẩn khác trong xã hội. Tôi cười: “Ừ, mình sinh ra phận làm người mà.”

Tôi vẫn nghĩ tạo hóa vốn rất cân bằng và có lý do cho tất cả. Không phải tự dưng chỉ loài chim có cánh mà loài người lại không. Con người sinh ra, không có cánh như loài lông vũ, không trơn trượt như loài bò sát, răng không sắc như loài gặm nhấm, không khát máu như thú dữ… Nhưng con người sinh ra để chinh phục tất cả những loài trên. Đó là ở chỗ, cảnh giới loài người đều hơn vạn vật một vài bậc. Và trách nhiệm ràng buộc là điều kiện cần và đủ cho việc làm người.

Nói về chuyện bay, tôi lại nghĩ đến loài ong bắp cày. Trong giới tự nhiên, ong bắp cày là một động vật rất thú vị. Đã từng có rất nhiều nhà sinh vật học, nhà vật lý học, nhà xã hội hành vi học đã liên hợp lại để nghiên cứu sinh vật này.

Theo quan điểm của sinh vật học, tất cả những động vật biết bay, điều kiện tiên quyết là trạng thái cơ thể nhẹ nhàng, cánh phải rất rộng. Nhưng loài ong bắp cày lại trái ngược với lý thuyết này: Thân ong bắp cày thô nặng, còn cánh thì lại ngắn một cách kỳ lạ. Theo lý thuyết của sinh vật học thì ong bắp cày tuyệt đối không thể bay được. Còn lý thuyết của các nhà vật lý học thì tỷ lệ giữa thân thể và cánh của ong bắp cày, xét về khí động học cũng không có khả năng bay. Nói một cách đơn giản, ong bắp cày hoàn toàn không thể bay lên được.

Nhưng, trong thiên nhiên, không một con ong bắp cày bình thường nào không thể bay, thậm chí tốc độ bay của nó không thua kém bất kỳ loại động vật nào. Hiện tượng này hình như là một sự đùa cợt lớn đối với thiên nhiên và các nhà khoa học.

Về sau, các nhà xã hội hành vi học đã tìm thấy lời giải đáp cho vấn đề này, đáp án đơn giản là ong bắp cày không hiểu “sinh vật học” và “khí động học”. Mỗi con ong bắp cày đều biết rất rõ rằng, nó nhất định phải bay lên để kiếm ăn, nếu không sẽ chết đói! Đó chính là sự huyền bí khiến ong bắp cày có thể bay giỏi như thế.

Có thể suy xét từ một góc độ khác, nếu ong bắp cày được dạy, học được khái niệm cơ bản của sinh vật học, hiểu được khí động học, dựa vào những kiến thức đó nó biết rõ kết cấu cánh và thân của mình hoàn toàn không thích hợp với việc bay, như vậy, con ong bắp cày này sẽ bảo mình rằng “KHÔNG THỂ BAY ĐƯỢC”, liệu nó còn có thể bay lên hay không?

Bạn thấy không? Mọi chuyện tưởng chừng như không thể trên thế giới này, chỉ được giải thích bằng một câu ngắn gọn vậy thôi. Đơn giản là: “Nếu tao không làm, tao sẽ chết!” Vậy, bạn đã thèm khát được bay đến nỗi “fly or die” chưa?

Lúc trẻ, Napoleon Hill ôm mộng trở thành một nhà văn. Nhưng vì lúc nhỏ gia đình ông rất nghèo, việc học hành không được đến nơi đến chốn, vì thế những người bạn có thiện ý thường bảo ông rằng ước mơ của ông “không thể” thực hiện được. Chàng thanh niên Hill gom tiền mua một cuốn từ điển tốt nhất, đầy đủ nhất, đẹp nhất, mọi điều mà cậu cần đều ở trong cuốn từ điển này.

Nhưng cậu đã làm một việc lạ lùng: Tìm thấy từ “không thể” (impossible), cậu dùng kéo con cắt rời ra, sau đó vứt đi, thế là cậu có cuốn từ điển không có từ “không thể”. Về sau Hill xây dựng toàn bộ sự nghiệp của mình trên tiền đề này. Với một người muốn thành công, vượt qua người khác, không có bất cứ việc gì là không thể làm được.

Tôi không đề nghị bạn cắt bỏ từ “không thể” trong từ điển của bạn, mà là đề nghị bạn gạt bỏ quan niệm này từ trong ý nghĩ của bạn và dùng chữ “có thể” để thay thế nó.

“Thân thể tại ngục trung, Tinh thần tại ngục ngoại.” – Hồ Chí Minh

Tôi vẫn có tín niệm vào khả năng bay của chúng ta. Một khả năng vô thường ở một tầm cao đẳng cấp không tưởng.

Thế nên bạn tôi ạ, đừng than vãn tại sao mình không bay được. Khi chỉ “trẻ” là không đủ. Chúng ta đều có thể bay, thậm chí là bay cao và xa. Quan trọng là, bạn có đủ bền bỉ hay không? Có bay được dài không? Gặp bão bạn có sợ không? Gặp gió lớn có nản lòng không? Bạn đủ can đảm không? Bạn có tiếc nuối không?

Cuộc sống luôn có những điều bất trắc xảy ra và chỉ kẻ hèn kém mới luôn lo sợ về tương lai. Đừng sợ! Vì kẻ đến đích cuối cùng, sẽ là người chiến thắng. Vì Vì trách nhiệm nặng nề chả liên quan quái gì đến việc bay cả khi bạn đủ can đảm đối mặt.

Because: NOW WE ARE FREE!

 

Thiên Thiên

Phải chi mẹ đừng kể

Featured Image: Muhammed Muheisen

 

Phải chi mẹ,
Đừng kể cho con nghe câu chuyện cổ tích nhân văn,
Nó không giúp con hiểu về cuộc sống đầy nghiệt ngã
Hãy chỉ kể con nghe về những gì người đời đã trả,
Con đã không,
Đánh đổi cả tương lai, trả giá nửa cuộc đời...

18 tuổi con mất cha,
Mất đi cái nóc mà người đời thường bảo trong ca dao sách vở
18 tuổi con lạc lõng giữa dòng đời,
Lạc giữa những vòng tay mà con ngỡ sẽ vịn vào bám víu.

18 tuổi con ngỡ đó là một giấc mơ…
(Những suy nghĩ trẻ thơ khi gặp điều ác mộng)
Để rồi quỵ ngã khi con không thể về thực tại
Sau những giấc ngủ vùi vẫn chẳng thể đổi thay

Rồi con chấp nhận những bàn tay để kéo con vực dậy
(Những con người mà con biết có lúc sẽ buông tay…)

Gia đình
Con chứng kiến được những người gọi anh gọi em,
Dẫm đạp nhau, hại nhau bằng những điều hèn hạ
Chỉ để cốt thỏa mãn cho cái ngã tầm thường,

Bạn bè
Con đã cảm nhận được những người gọi con là bạn
Sau thất bại đầu đời, họ dang rộng vòng tay chia sẻ
Như đằng sau sự sẻ chia lại là những nụ cười…

Xã hội
Con thấy được một xã hội nghèo nàn
Nghèo nàn trong tư duy, bởi giáo dục nghèo nàn
Chính sách ngu dân hay “dân ngu hóa lợn”(TĐ)
Tương lai nào cho những trẻ thơ….

Phải chi….

 

Thich Nhat Tien
(Nhật Ký Trong Nhà)

Cách tân giáo dục, cuộc săn người lái “con tàu” lạc hướng

Featured Image: Be’mine

 

Nói thẳng. Là một kẻ chưa một ngày ngồi trên chiếc ghế giảng đường thì rõ ràng chẳng có tư cách gì để luận bàn về hai chữ giáo dục. Nhưng thói thường thì chính những kẻ vô học ấy mới hay săm soi luận bàn về những việc không phải là của mình, và thường “múa rìu trước mắt thợ” hay “cầm đèn chạy trước ô tô”. Hôm nay, khi đặt bút viết về chủ đề này là tôi đã tự biến mình thành kẻ vô lại nói trên.

Trong hai năm qua, tôi luôn theo dõi sát sao mọi thông tin xung quanh chủ đề cải cách giáo dục. Từ các thông tư, hội thảo, hội đàm của bộ ngành cho tới những kế sách và ý kiến của các học giả, chuyên gia, nhà hoạt động giáo dục. Đến giờ, tất cả những gì tôi thấy được, nghe được là một đống hỗn độn với mớ ý kiến trái chiều, những cuộc tranh cãi và những trận “chịu đòn” đau thương của các nhân vật đầu nghành. Nhìn vào bức tranh u ám đó, tôi chẳng biết đến bao giờ cuộc “cách mạng” mới đi vào hoạt động và bộ giáo dục mới tổ chức được những “trận đánh lớn” mang tính cách mạng thật sự.

Lục lại lịch sử phát triển nền giáo dục thế giới thì ta thấy, nền tảng tri thức trên “con tàu” giáo dục hiện đại được bắt đầu từ thế giới Hy Lạp, rồi dịch chuyển sang thế giới Muslim; từ Muslim sang Tây Âu, nội trong tây Âu; từ Ý sang Anh, đến Pháp rồi Đức; sau đó rời khỏi châu Âu đến Hoa Kỳ. Trong mỗi bước dịch chuyển nó đều ghi dấu một nhà cách mạng hoặc một nhóm nhà cách mạng của nước sở tại.

Trong quá trình “tiến hoá” từ College lên University thì Wilhelm được xem như là nhà cải tổ nền giáo dục nước Đức. Ông được ca tụng là cha đẻ của nền giáo dục hiện đại, và là “kiến trúc sư” của trường đại học Humboldt ở Berlin. Chính thành công vang dội của Wilhelm ở Humboldt đã châm ngòi cho cuộc “cách mạng” giáo dục ở Mỹ, ở đó Daneil Coit Gilman là người tiên phong. Sau thí nghiệm bất thành tại viện đại học California vì một bộ máy bảo thủ. Gilman chuyển sang đầu quân cho Johus Hopkins và xây dựng ngôi trường này thành biểu tượng của nước Mỹ lúc bấy giờ.

Hopkins chính là trường đại học hiện đại đầu tiên của Hoa Kỳ và Gilman chính là người hùng Vĩ đại. Thành công của ông đã tạo ảnh hưởng hứng khởi cho hàng loạt tên tuổi khác nối gót theo chân. Nhưng nổi bật nhất có lẽ là Clark Kerr, hiệu trưởng trường Berkeley – tác giả cuốn sách The uses of the university (các công dụng của đại học) một tác phẩm kinh điển vẽ lại bức tranh toàn cảnh về lịch sử phát triển nền giáo dục thế giới và nước Mỹ.

Tới giữa thế kỷ XIX làn sóng giáo dục hiện đại bắt đầu lan rộng sang châu Á. Nhật Bản là một trong những quốc gia đầu tiên đón nhận “làn sóng” này một cách nồng nhiệt nhất. Nhắc đến nền giáo dục ở đất nước mặt trời mọc thì cái tên Fukuzwa Yukichi sẽ là câu cửa miệng. Ông sống vào cuối thời Mạc Phủ đầu Minh Trị. Ông là nhà tư tưởng lớn, một nhà giáo xuất sắc, là tác giả của hàng chục cuốn sách nổi tiếng. (trong đó có cuốn “Khuyến Học” đã được dịch sang tiếng Việt). Ông viết lên một trang sử hào hùng cho nước Nhật, đến giờ hình ảnh ông đang được lưu giữ trên đồng 1000 yên.

Tôi điểm lại lịch sử như vậy để thấy rằng, trong mỗi cuộc “cách mạng” đều được tạo nên bởi những vị “Anh Hùng” – những nhà lãnh đạo kiệt xuất. Vì vậy, tôi nghĩ trong hành trình dịch chuyển NÓ về nước ta cũng cần có một “vị tướng” có tâm, đủ tầm và có khát vọng dấn thân để kiến tạo một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, có khả năng đua tranh với các nền giáo dục ở các xã hội Văn Minh. Như vậy, chúng ta mới hy vọng cứu vớt được “con tàu” lạc lái đang sắp chìm kia.

Trong kỷ nguyên của xã hội hiện đại và hội nhập sâu rộng. Để xây dựng nền kinh tế tri thức với một xã hội văn minh thì vai trò của giáo dục là quan trọng hơn tất cả. Để không bị tụt lại trong cuộc đua tranh khắc nghiệt ấy, giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ trồng người cho thời đại mới và tạo ra một nền văn hoá quốc gia mạnh mẽ với những con người có tư duy độc lập, tự chủ, nhân văn và khai phóng. Muốn cải cách một xã hội trong cảnh đỗ nát phải bắt đầu bằng cải cách con người, tinh thần con người, mà trước nhất là sự trỗi dậy và thăng tiến của nền giáo dục hiện đại.

Một dự đoán thú vị của các học giả hiện nay là, sau thành công tột bậc của nền giáo dục Mỹ thì bến đỗ của “con tàu tri thức” trong tương lai sẽ là nơi đâu? Câu hỏi này đã dần được “tiết lộ” khi nền giáo dục Phần Lan đã cho Mỹ “hít khói” trong thời gian gần đây. Chỉ trong 40 năm Phần Lan đã “lột xác” từ một nền kinh tế Lâm Nghiệp (phá rừng, xuất khẩu gỗ) thành một quốc gia đứng đầu thế giới về cải tiến, khởi nghiệp và sáng tạo. Được PISA xếp ở vị trí số 1 về chất lượng giáo dục. Một cú đại nhảy vọt làm thức tỉnh người Mỹ, khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ, trầm trồ và tìm cách sao chép.

Bí mật trong công cuộc “lột xác” của Phần Lan bắt nguồn từ tư duy của những người đứng đầu đất nước. Với cách nghĩ để có được học trò giỏi thì người thầy phải giỏi, để có được thầy giỏi thì thầy của thầy phải giỏi. Ở quốc gia này, để được đứng trên bục giảng thì người thầy ít nhất phải có bằng thạc sỹ, kể cả người dạy ở bậc tiểu học. Nghề giáo là nơi tập trung những tri thức tinh hoa của đất nước này, là một nghề không chỉ được tôn trọng mà còn được tôn sùng. Vì vậy, một người làm nghề giáo có thể mua được một chiếc xe hơi hạng ưu chỉ với hai tháng lương của giáo viên tiểu học.

Khi đọc những con số đó tôi không khỏi sửng sốt và chạnh lòng cho nghề giáo nước ta. Nghề được ca tụng là “cô giáo như mẹ Hiền” đã dần biến thái thành “con buôn bán chữ” trong một bộ phận không nhỏ mà đã được xã hội gọi nhầm là “người lái đò” tận tuỵ. Nhiều ngôi trường lập ra không phải để thực hiện sứ mệnh cao cả của người dẫn đường mà chỉ với mụch đích buôn chữ và bán bằng. Nói thẳng ra, bộ phận những con người ấy không xứng đáng với chữ “thầy” họ chẳng qua chỉ là những tên thợ dạy mà thôi. Nói vậy nhưng tôi cũng cảm thông và hiểu rằng, thu nhập bình quân trong nghề giáo ở Việt Nam chỉ đủ ăn quà vặt. Đó là một phần trong nguyên nhân gây ra sự biến thái và tha hoá nói trên.

Có thể nói, hiện tượng Phần Lan gần đây như một nhát dao đâm vào lòng tự ái của người Mỹ. Cả chính trường Mỹ và giới tri thức nơi đây đang đang phải sôi sục trong chiến dịch tái thiết hệ thống giáo dục. Một quốc gia được xem là “cái nôi của tri thức” đã tự thấy mình thua kém, phải sốt vó, cong đuôi với công cuộc cải tiến để đua tranh cho kịp thời đại. Trong khi ở cái xứ sở lạc hậu của chúng ta lại cứ “bình chân như vại” và vô cảm với những “bước chạy” thụt lui của chính mình.

Tôi không dám viễn vông rằng chúng ta sẽ bắt kịp Mỹ, hay Phần Lan trong đôi năm, ít tháng. Tôi chỉ hy vọng rằng thế hệ con em chúng ta không phải chui dưới “mái nhà” tri thức tụt hậu và giột nát như chúng ta lúc này. Để thoát ra được bối cảnh đó, thì Việt Nam nhất thiết phải cần có một cuộc dịch thuật vĩ đại như thời Trung cổ ở châu Âu hay thời Minh Trị ở Nhật Bản, để đưa tinh hoa văn hóa thế giới vào đất nước. Điều này đòi hỏi xã hội phải có một thái độ cởi mở, phải có văn hóa trọng đãi nhân tài, phải lấy giáo dục làm gốc. Vì gốc của văn minh, hiện đại là giáo dục, mà giáo dục là nơi “sản xuất” ra Khoa Học, Công Nghệ, Kinh Tế, Văn Hoá, Xã Hội… Đây đều là những mảng phát triển nhờ con người xây dựng. Mà xây dựng con người lại là giáo dục.

Với thực trạng nền giáo dục nước ta hiện nay thì xem như cái “gốc” ấy đang bị thối nát hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Thay vì đào tạo ra con người tự chủ, độc lập, khai phóng thì chúnh ta lại “sản xuất” ra các công cụ lao động và những “chiếc máy” chỉ biết vâng lời. Nếu không có bài thuốc nào chữa trị thì có hết cải tiến rồi lại lùi, đổi mới liên tục nhưng vụn vặt, chắp vá, đổi đi đổi lại chỉ thêm tốn kém tiền của, công sức của dân mà rốt cục lại quay về điểm xuất phát. Trong thế giới hiện đại, với xu thế toàn cầu hóa không thể đảo ngược được cái lý trên, nước nào không hội nhập, không thích nghi được tất sẽ bị cô lập, bị bỏ rơi, chết lâm sàng rồi từ từ bị đào thải, nếu không sớm tỉnh ngộ.

Rõ ràng, bản thân tôi không phải là học giả, lại càng không phải nhà hoạt động giáo dục. Những dòng trên đây chỉ đơn giản là của một kẻ ít học nhưng thèm học. Và chính nổi thèm khát được học đã dẫn đường cho cho tôi đi tìm câu hỏi: “Tại sao ta phải học?” Để tôi hiểu được giá trị của tri thức và sự nguy hiểm của thằng “giặc dốt”. Nói vậy, nhưng với sức yếu tài mọn của mình tôi ý thức rằng mình chẳng thể làm gì được với “con tàu” khổng lồ đang ì ạch mất phương hướng ấy.

Tôi chỉ mong rằng đất nước này sẽ ngày một ít đi những con người vô lại và ít học như tôi. Thay vào đó là một dân tộc hùng cường với nền kinh tế tri thức. Để hiện thực ước muốn ấy thì chúng ta phải có một “chiến sỹ tiên phong” lãnh đạo cuộc cách mạng trường kỳ dai dẳng này, khi đó ta mới hy vọng điều điều khiển được “con tàu” ấy đi đúng hướng và theo kịp với thời đại.

P/s: Dạo này tự nhiên có hứng viết. Đặc biệt về chủ đề giáo dục. Mỗi khi nhắc đến nó là lập tức muốn hạ bút hành văn. Nhưng có lẽ chỉ vì chút tự ti của một kẻ vô lại nên đành nuốt chữ vào trong. Tuần qua, đoàn giáo sư gồm những tên tuổi đang thỉnh giảng tại các đại học hàng đầu Hoa Kỳ đang về nước đối thoại và hội đàm với thủ tướng và bộ giáo dục. Nhưng đến nay, mọi giải pháp đang dừng lại ở mức khả thi và hướng đi vẫn còn mù mờ phía trước. Bất giác, một tên vô lại đã vượt qua nỗi sợ hãi để ghi lại nỗi lòng dồn nén bấy lâu.

 

Nguyễn Văn Thương

Chủ nghĩa tư bản vs. Chủ nghĩa xã hội

“Một xã hội lựa chọn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội thật ra không phải là đang lựa chọn giữa hai chế độ xã hội; mà nó đang lựa chọn giữa sự hợp tác xã hội và sự phân hủy xã hội. Chủ nghĩa xã hội không phải là một giải pháp thay thế cho chủ nghĩa tư bản; nó là một giải pháp thay thế cho bất kì chế độ nào mà trong đó con người có thể sống như một con người.”

Ludwig von Mises

Get Lost. Be found

Featured Image: 3594 Miles

 

Tính đến thời điểm tôi đang viết những dòng này, chúng tôi đã đi qua những cung đường nước Mỹ trên dưới 5 năm. Quãng thời gian ấy không hẳn là dài; nhưng tôi cho rằng khi ta dành tuổi trẻ của mình – đặt biệt là quãng đôi mươi – ở nơi nào, nơi đó sẽ trở nên thật sự quan trọng. Đó là nơi chúng tôi đã bước vào cuộc sống, đã học tập, đã cố gắng và đã yêu. Chúng tôi đã “get lost” không biết bao nhiêu lần, và đã vẫy vùng hoặc chờ đợi một ngày được “be found” chừng ấy bận. Sự chờ đợi có lúc kiên nhẫn, có lúc tuyệt vọng, có lúc thanh thản, mà cũng có những lần hoang mang tột cùng.

Chúng tôi chờ điều gì? Có khi đơn giản là một công việc trả lương không quá tệ, hay mong đến ngày tốt nghiệp, có khi là chờ được yêu, và được sống – sống hết mình với đam mê và mơ ước. Cũng có khi là tha thiết chờ mong một lúc quay về để nói một câu: “Mời cả nhà ăn cơm.”

Cuộc đời dài rộng, sau này chúng tôi sẽ trôi dạt về những vùng trời khác nhau nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ quên được tuổi 20 ở nước Mỹ. Nơi này đã cho chúng tôi biết mình là ai, ước mơ của mình là gì, và mình có thể làm được gì. Tất cả những trăn trở hồn nhiên, những trải nghiệm tươi trẻ, những âu lo vội vã trước cuộc sống nơi đây chưa một lần nào ngừng làm chúng tôi ngạc nhiên. “Get Lost. Be Found.” vì thế mà ra đời như một món quà ; trước là tri ân những người đã luôn ở bên cạnh 3594 Miles, sau là trao tặng cho chính chúng tôi, 20 năm nữa có thể hồi tưởng lại một thời mình đã sống như thế.

Trước khi chính thức bắt đầu dự án này, chúng tôi đã tự hứa với nhau: “Có chuyện gì thì viết thật hết, không giấu diếm, tráo đổi gì hết.”Sau này, khi chuyến đi được biết đến nhiều hơn, một vài anh chị – đại diện của các công ty xuất bản sách – đã ưu ái trao cho nhóm cơ hội được xuất bản “Get Lost. Be Found.” một cách rộng rãi ở Việt Nam. Rốt cuộc chúng tôi quyết định từ chối tất cả những lời mời, đành thất hẹn với những người đã mang cơ hội hiếm có đến cho ba đứa con gái không tiếng tăm gì. Hãy để “Get Lost. Be Found.” là quyển sách được kết tinh thuần túy từ đam mê, từ cảm nhận, từ tình bạn và tình yêu của Rio, Zi và Iris.

Trong bộ phim truyền hình yêu thích nhất của tôi, Doctor Who, có một câu nói thế này: “The soul’s made of stories, not atoms.”Những câu chuyện chúng tôi sắp kể có thể mang cái nhìn còn non trẻ, còn đôi phần lệch lạc, thiếu hoàn chỉnh, nhưng chúng là những kỷ niệm tinh tuyền đã không bị sửa đổi hay cắt bỏ vì bất kỳ tác động nào. Bạn đang nhìn thấu suốt tâm hồn 20 của chúng tôi . Những ngày ấy, Việt Nam là người thân mà nước Mỹ là người yêu.

 

Rio Lam

Link Download Ebook

6 năm học đại học và bài học trách nhiệm

Featured Image: Nathan Siemers

 

Xã hội chung quanh đem đến cho chúng ta rất nhiều kiểu mẫu đa dạng, thành công lẫn thất bại, ở những thái cực đối lập nhau (…) Cái gì cũng vậy, không chỉ là học, nếu làm không đến nơi đến chốn, thì ngay đến những việc nhỏ nhặt, tầm thường nhất, cũng có kết quả là thất bại.

Trong bầu không khí đầy cảm xúc của những vui, buồn, sung sướng và thất vọng sau kết quả của kỳ thi đại học, tôi cảm thấy mình cần góp thêm một góc nhìn cho những tân sinh viên cũng như “tân lập nghiệp”.

Tôi đã trải qua cảm giác đậu đại học và thất vọng với môi trường đại học sau một học kỳ. Tôi tiếp tục thi lại vào một trường khác và mất nhiều năm mới tốt nghiệp được. Quả là một hành trình gian nan mà tôi không dám quay trở lại.

Như bao sinh viên khác, sau 12 năm đèn sách “nhọc nhằn” (có lẽ do chúng ta nghĩ thế thôi), tôi tự cho mình thả cửa trong thời gian mới vào đại học. Một cuộc sống tự do xa gia đình, nhiều thú vui, cộng thêm những môn học đại cương nhàm chán khiến tôi rời xa giảng đường và dần dần không còn biết mình đi học làm gì. Tôi kết thúc đại học sau năm đầu tiên vì mất phương hướng hoàn toàn.

Mất một năm nữa để ôn thi lại khối khác mong có niềm cảm hứng mới, tôi lại đậu. Nhưng cảm hứng chỉ kéo dài hơn hai học kỳ, tôi lại tiếp tục thấy chán và nghỉ học triền miên. Tôi nhớ có một lần, tôi bước vào lớp, cả lớp đồng loạt vỗ tay rần rần. Ai cũng chắc mẩm là tôi đã bỏ học. Nếu các bạn muốn biết thời gian thì đó là một năm rưỡi. Tôi không biết tại sao mình không bị đình chỉ học. Có lẽ do tôi vẫn đóng học phí đầy đủ và đi thi cuối kỳ đều đặn (tất nhiên kết quả là toàn rớt).

Noi gương các bậc tiền bối thành công, tôi định bụng sẽ nghỉ học và đi làm. Để chắc chắn về quyết định này, tôi tham khảo ý kiến của hai người cố vấn mà tôi tin tưởng. Lời cố vấn đầu tiên ủng hộ tôi cứ hành động theo những điều mình cảm thấy đúng. Lời cố vấn thứ hai thì bảo tôi đừng bỏ đại học. Thực tình, tôi không nhớ là người thứ hai đã khuyên tôi cụ thể những gì nhưng kết quả thì tôi đã quyết định sẽ đi học lại.

Một năm rưỡi bỏ, một khối lượng môn học khá lớn phải theo kịp, tôi chắc các bạn có thể hình dung được. Mới quyết định chơi lại đã gặp ngay màn khó. Tôi quyết định xin học lùi khóa, một tiền lệ mà cũng chưa ai nói tới, tôi chỉ liều làm đơn xin như vậy. Mất rất nhiều công sức và giấy tờ thủ tục này nọ, cuối cùng, tôi cùng vào học với một lớp toàn những gương mặt mới toanh. Đây là màn khó thứ hai. Tuy nhiên, tính ra, tôi vẫn mất thua họ một học kỳ, cộng thêm khá nhiều môn bị nợ ở năm học đầu tiên. Đó là màn khó thứ ba.

Tôi không biết mà bằng cách nào đó, tôi đã xốc được tinh thần, lên lớp chăm chỉ, trả nợ môn đều đều qua các học kỳ và cuối cùng là tốt nghiệp. Ngày tôi nhận bằng, ông thầy dạy môn biên dịch trợn mặt bảo: “chú mày cũng ra trường được hả” (chả là tôi với thầy có vài kỷ niệm nho nhỏ, gần như là tôi bị thầy “đì” vì cái tội “lì”). Cùng hội ham chơi với tôi, một số bạn bè tôi đều bỏ học giữa chừng.

Tính ra tôi đã mất 6 năm cho trường đại học thứ hai. Không thể xem nó là thành công được. Mất quá nhiều thời gian và công sức mà kiến thức tích lũy được cũng không bao nhiêu. Vậy thì tôi kể câu chuyện này để làm gì?

Các bạn thân mến, cuộc đời chúng ta lúc lắm lúc sẽ định hình bằng những quyết định, rất quan trọng, vào những thời điểm khó khăn. Nhưng tôi tin rằng, chính những quyết định đó, sẽ làm nên con người của chính bạn.

Việc học đại học hay bỏ đại học để lập nghiệp phải dựa trên thiên hướng của chính bạn. Vì biết đâu, bạn sẽ cảm thấy chán nản giữa những năm đại học như chính tôi, hoặc cũng có thể tuyệt vọng trên con đường lập nghiệp chông gai, đầy va chạm. Ở những thời điểm khốn khổ đó, chúng ta thường hay ngước nhìn những gương mẫu đối lập để tìm lối thoát.

Tuy nhiên, điều đo lường mức độ trưởng thành của một con người chính là mức độ chịu trách nhiệm. Ít ra bạn cũng 18 tuổi rồi, độ tuổi của quyền công dân, vậy hãy tập cho mình thói quen chịu trách nhiệm. Bạn quyết định thế nào? Đeo đuổi việc học hay đam mê khởi khiệp. Bạn nên tự chọn lấy và chịu trách nhiệm hoàn toàn cho điều đó. Cá nhân tôi, mất 6 năm để lấy bằng đại học vì biết mình chả có ý tưởng nào cho việc khởi khiệp cả, đồng thời, việc học bê bối là từ chính bản thân tôi chứ không phải vì môi trường đại học.

Điều tôi học được trong những năm ở giảng đường chính là vấn đề chịu trách nhiệm. Tôi đã quyết định vào đại học, vậy thì tôi có trách nhiệm phải kết thúc nó, không bao biện, không đổ thừa. Những ngày tháng vô cùng khó khăn khi quay lại trường đi học với mấy đứa đàn em và vất vả đi học trả nợ môn đã cho tôi nhiều giá trị thấm thía. Đôi lúc buông bỏ và đổ thừa vì hoàn cảnh thì dễ, nhưng ở lại với một tinh thần trách nhiệm, chơi đến hết trận đầu thật gian vô cùng.

Xã hội chung quanh đem đến cho chúng ta rất nhiều kiểu mẫu đa dạng, thành công lẫn thất bại, ở những thái cực đối lập nhau. Học đại học ra trở thành những bác học danh tiếng cũng có mà thành những công chức rỗng tuếch cũng đầy. Khởi nghiệp rồi trở nên giàu có lẫy lừng hay phá sản, ăn bám vào tiền bố mẹ cũng không thiếu (và đôi khi, vì không cam chịu thất bại, nhiều người đã đi theo con đường làm ăn bất chính).

Như vậy, dù bạn chọn đại học hay khởi nghiệp, thì hãy tin tưởng vào quyết định của chính mình. Và quan trọng, hãy chịu trách nhiệm cho quyết định đó. Đừng là một nạn nhân của hoàn cảnh, cố gặp đi tìm một phao cứu sinh để thoát khỏi bế tắc. Bởi vì, một khi bạn đã quen với việc vô trách nhiệm, thì dù bạn đi học hay bạn ra đời, bạn sẽ dễ dàng trở thành kẻ vô giá trị.

Tôi muốn trích dẫn điều tiến sĩ Lý Khai Phục (phó tổng giám đốc Google Châu Á) từng chia sẻ:

“Tôi chưa từng bao giờ nghĩ bằng cấp là thứ quan trọng, thiên tài với danh nhân đâu phải từ lò luyện và trường lớp mà ra. Nhưng nếu bạn không học tới nơi tới chốn, thì dù có đi làm cửu vạn, ngay cả bao cát cũng sợ rằng chẳng biết cách mà vác.”

Cái gì cũng vậy, không chỉ là học, nếu làm không đến nơi đến chốn, thì ngay đến những việc nhỏ nhặt, tầm thường nhất, cũng có kết quả là thất bại.

 

AVKH

Nhãn hiệu, không nên dán cho con người!

Featured Image: L1g

 

Nước tương, nếu được đựng trong một chai có nhãn là “giấm”, dù cho người ta có nói với bạn đó là nước tương, bạn có thoáng thấy nó giống màu nước tương, ngửi thấy mùi nước tương rồi, bạn vẫn không tài nào ngăn được nỗi nghi ngờ của mình, phải đem nếm thử. Xác minh rõ ràng rồi, vẫn còn đặt dấu hỏi to đùng trong đầu: “Là nước tương sao lại ghi ‘giấm’ ?” hoặc: “Là chai giấm sao lại đựng nước tương?”

“Nhãn hiệu” có tác động rất lớn đối với nhận thức của con người. Bởi quá trình nhận thức của con người bắt đầu từ tri giác: Là nghe, nhìn, sờ, nếm, cảm nhận. Thông qua tri giác, con người sẽ có sự so sánh giữa biểu tượng được lưu trữ trong trí nhớ và biểu tượng đang tác động, từ  đó mới hình thành nên nhận thức của con người về sự vật hiện tượng. Ví dụ như ta đã quá quen với “chai ghi chữ giấm thì đựng giấm” (là biểu tượng có sẵn trong trí nhớ), khi nhìn thấy chai giấm (biểu tượng đang tác động) ta sẽ có nhận thức ngay về vật chứa trong đó, sẽ là loại chất lỏng màu trắng/ hoặc đỏ, có vị chua đặc trưng…Và khi có một kích thích đi ngược với vốn hiểu biết mà ta đã có, lập tức sẽ phát sinh nghi ngờ, đó là một hiện tượng rất tự nhiên.

Thông qua kinh nghiệm của mình, từ quá trình tri giác, ghi nhớ, tư duy… con người sẽ dần đúc kết cho mình những hiểu biết, nhận định chung về một “nhãn hiệu” nào đó. Nhãn hiệu cũng như tên gọi giúp con người có thể dễ dàng hình dung về sự vật hiện tượng đang được đề cập đến, ví dụ như thông qua kinh nghiệm mua sắm, khi nghe nhắc đến Gucci, ta sẽ biết ngay “À, món hàng đó giá trị lắm”, còn những sản phẩm không bao bì thì được qui định ngay là “giá trị không đáng là bao”. Nhưng cũng vì những hiểu biết mặc định đi liền với  “nhãn hiệu” như vậy, con người lại gây ra khó khăn cho mình. Có thể thấy chúng ta sẽ dễ dàng bị đánh lừa thế nào khi ta dán mác Gucci lên cho món hàng “không bao bì”, và ngược lại, một  chiếc túi Gucci không nhãn mác cũng rất tự nhiên, khiến người mua phải chần chừ, nghi ngờ về giá trị thực của nó.

Con người nhờ cách thức đặt tên và ghi nhớ dấu hiệu (nhãn hiệu) mà dần dần củng cố hiểu biết của mình đối với thế giới xung quanh. Và dần dần con người mang cả thói quen đó áp dụng vào chính con người, khi đó ta có từ DÁN NHÃN, trong ngoặc kép.

“Khi gặp cô ấy lần đầu tiên, tôi đã rất ấn tượng với vẻ ngoài ngây thơ trong sáng đó” và nhân vật “tôi” cứ đeo mang “ấn tượng” đó mãi về sau. “Cô ấy” đã được tôi “dán” cho cái nhãn “ngây thơ, trong sáng”. Chưa biết “cô ấy” đã “ngây thơ, trong sáng” đến thế nào trong khoảnh khắc “đầu tiên” ấy, chỉ có điều, lỡ như trong một hoàn cảnh khác, những nét khác của cô ấy bộc lộ ra, đôi khi là không thât sự ngây thơ trong sáng như mong đợi của “tôi”, thì chính “tôi” lại trở nên thất vọng với chính những nhận định tự xây đắp của mình, “cô ấy” hoàn toàn không hay biết, cũng không có cơ hội mà giải bày. Ai cũng có quyền cảm nhận chủ quan về người khác, mà đã là chủ quan thì chỉ mình ta biết, đúng hay sai thì chẳng ai xác minh được.

Tác giả Mike Georgetrong cuốn The 7 Myths about Love… Actually!: The Journey from Your Head to the Heart of Your Soul, đã đặt vấn đề: “Hãy hình dung ra một thế giới không có nhãn mác gắn trên bất cứ ai hay vật gì (…) Hãy hình dung ra một thế giới mà mọi hình thức dán nhãn đều biến mất khỏi tất cả các cuộc chuyện trò. Vậy, chúng ta sẽ nói nhiều hay nói ít đi? Nhiều hơn bao nhiêu hoặc ít đi bao nhiêu? Chúng ta sẽ dùng gì để lấp đầy “khoảng trống” ấy? (…) Bạn có thể tiếp tục cuộc trò chuyện không cần kể ra bất kỳ cái nhãn nào chứ? Nếu vậy, bạn sẽ nói về điều gì? Hãy thực tập ngay trong ngày hôm nay. Bạn sẽ nhận thức sâu sắc việc “gắn nhãn mác” đã choán hết nhận thức, suy nghĩ của bạn về bản thân, về người khác nhiều bao nhiêu”

Dán nhãn, theo suy nghĩ tích cực thì là tin tưởng, còn nghĩ tiêu cực thì sẽ là thành kiến, đều là những nhận định khó thay đổi về người khác. “Mày đang nói đến thằng A hả, tao biết nó, nó rất là có uy tín trong công việc nha, làm gì cũng rất là chu đáo và có trách nhiệm.” “Cô B này hả, chảnh chẹ lắm, không dễ gì tiếp cận được đâu, lúc nào cũng nhìn người ta có nửa con mắt thôi à.” Và từ tin tưởng sẽ kéo theo cảm giác quý mến, có thành kiến rồi thì cũng chẳng muốn đến gần. Khi bạn tin tưởng một ai đó, bạn đã cho họ (và cho chính mình) cơ hội đến gần nhau hơn. Và thành kiến càng sâu thì khoảng cách mà bạn vô tình (hay cố tình) xây nên sẽ ngày càng ngày càng xa, càng sâu, không dễ gì mà xóa bỏ được.

Dĩ nhiên, ngoại trừ ấn tượng đầu tiên thì những gì ta cảm nhận về người khác đều cần thông qua một khoảng thời gian tiếp xúc. Nhưng, con người vô cùng phức tạp, với hoàn cảnh riêng, cá tính riêng, quan điểm riêng. Bạn có công nhận hoàn cảnh sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng? Tâm trạng sẽ ảnh hưởng đến thái độ? Tình cảm lại càng ảnh hưởng đến thái độ nhiều hơn hết. Có chắc rằng bạn sẽ luôn tiếp xúc với một ai đó trong cùng một hoàn cảnh ngày này qua ngày khác, với tâm trạng của họ mỗi ngày đều như nhau và tình cảm họ dành cho bạn không có chút gì thay đổi? Vậy thì vì sao nhận định của bạn về một người nào đó cứ chắc chắn là đúng trong mọi trường hợp?

Nếu như nói: “Tôi hiểu tính người đó.” Thì càng không phải, chỉ là bạn nghĩ mình biết người đó có tính cách đó mà thôi. Chắc gì người đó cư xử với bạn thế này, với người khác,  họ cũng cư xử y như vậy. Hay họ đối đãi với bạn thế này trong hoàn cảnh này, trong hoàn cảnh khác họ cũng sẽ làm như thế? Tâm lý con người hoạt động vô cùng phức tạp, muốn hiểu trọn vẹn một con người, trừ khi bạn là chính người đó. Hãy thử tham gia một trò chơi nhỏ, người quản trò sẽ ghi vài nhận xét trái ngược về những người bạn của bạn rồi dán trước ngực họ (bạn không biết mình đang tham gia trò chơi), bạn được mời đến với tư cách là tham gia “ngày nói thật”, vậy thì bạn sẽ cảm thấy thế nào khi nhìn thấy bạn mình với những “cái nhãn”  nhận xét như thế? Như vậy mới thấy được, cảm nhận của chúng ta về người khác, dù là vô hình nhưng cũng có tác động mạnh mẽ y như những miếng dán hữu hình đó vậy.

Và một chai giấm còn có thể được dùng để đựng nước tương (nếu không phải có ai cố tình “chơi” bạn thì chắc là lúc đó hết chai rồi nên… hết cách!), vậy thì tại sao một người mà bạn luôn nghĩ rằng “thế này” không thể là “thế khác”? Và bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu như bị một người mà bạn luôn tin tưởng phản bội? Hay như một lúc nào đó nhận ra mình đã có thành kiến sai về người khác? Dù cảm thấy như thế nào thì chuyện cũng đã rồi. Bạn dù gì cũng đã bị tổn thương ( vì lòng tin bị mất) hoặc làm người khác tổn thương (vì hiểu lầm họ). Nỗi đau nào sẽ dễ xoa dịu hơn?

Giữ thành kiến về người khác là việc không nên, nhưng lẽ nào ta cũng không nên tin tưởng ai? Không phải vậy, ta có thể giữ cảm tình tốt về người này hay ấn tượng không hay về người khác. Chúng ta là con người mà, cũng phải có suy nghĩ và tình cảm riêng chứ. Chúng ta cũng có quyền sai lầm. Chỉ là ta nên hiểu rằng con người luôn thay đổi, hoặc như họ không thay đổi thì những điều “khác lạ” mà ta “phát hiện” thấy ở mỗi người, mỗi ngày đều là cá tính riêng của họ, bản chất của họ, là góc khuất con người họ mà ta chưa có dịp “nhìn thấy”. Thì cứ thế mà trải nghiệm thôi. Quá tin tưởng sẽ thành ra thất vọng, giữ thành kiến quá sâu sẽ lỡ mất cơ hội tìm hiểu về đối phương, và biết đâu bạn sẽ đánh mất cơ hội được nhìn thấy (hay tận hưởng) những điều tốt đẹp từ ai đó.

Quan hệ giữa người với người cần nhất là sư thông hiểu, là thông cảm và thấu hiểu. Cần phải thấu hiểu sự đời, để biết rằng vạn vật luôn thay đổi, “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, để biết rằng ta tin tưởng vì ta đã lựa chọn tin tưởng, không phải là người bất tín hay đáng tin, chỉ là người đã không như ta nghĩ, không cần phải thất vọng rồi tự chuốc khổ cho mình. Và cần phải thấu hiểu một ai đó để biết rằng con người không ai là toàn diện, có mặt tốt và cũng có mặt xấu, có lúc đúng và cũng có lúc sai, cần phải dùng sự thông cảm của mình mà đối đãi.

Nhãn hiệu, chỉ nên dán lên đồ vật để củng cố thêm cho hiểu biết của con người về thế giới xung quanh. Nhãn hiệu, đừng nên dán lên con người để củng cố cho những nhận định không biết là đúng hay sai, lúc nào đúng và lúc nào sai. Nhãn mác dán trên đồ vật khi tháo ra vẫn để lại dấu keo hay vết trầy trước, còn khi dán lên con người, dù có tháo ra được, “vết thương” dù là vô hình cũng khó lòng mà bôi xóa được.

 

 Little WormBed

Sự lựa chọn giữa cao đẳng và đại học

Featured Image: Fadelf Kuzins

 

Đứng trước ngưỡng cửa của sự lựa chọn giữa cao đẳng hay đại học, hiển nhiên ai cũng chọn đại học rồi, khỏi cần bàn. Vì “đại học ”bản thân hai từ ấy từ xửa từ xưa đã là niềm mơ ước của tất cả mọi người khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chưa kể các bậc cha mẹ, người thân trong gia đình kèm theo. Ở đây tôi chỉ đề cập đến ranh giới chơi vơi giữa trượt đại học và đỗ cao đẳng. Nếu bạn còn đang băn khoăn có nên đi học cao đẳng hay ở nhà ôn tiếp một năm nữa để thi đại học và phải đỗ bằng mọi giá mới thôi, thì tôi xin kể lại câu chuyện của chính mình cách đây 15 năm.

Khi ấy cũng như bạn bè cùng thời, tôi ấp ủ bao nhiêu ước mơ, hy vọng về một thế giới rộng lớn, tươi đẹp sau cánh cổng trường đại học. Trong đầu óc tôi chỉ đại học mới có được điều đó, đơn giản là vì chả thấy ai nói sau cánh cổng trường cao đẳng bao giờ. Thế là, với một tâm niệm duy nhất là đỗ đại học và chỉ đại học mà thôi nên năm đầu tiên làm hồ sơ dự thi, tôi tự tin, kiêu hãnh tuyên bố không thi cao đẳng, thà trượt một năm đại học còn hơn là đi học cao đẳng.

Chắc tuyên bố ấy “hoành tráng” quá, nên tôi “trượt cái oạch”. Thiếu nửa điểm thôi nhưng trượt vẫn là trượt, chẳng ai bảo cái đứa ấy trượt mà vẫn giỏi cả. Một năm đau khổ, oán hận đầy mình, đóng cửa học hành, không dám ngẩng mặt nhìn ai. Đến năm thứ hai thi đại học, bắt đầu biết “sợ”, thôi thì cứ thi thêm cao đẳng cho chắc, mặc dù chẳng mặn mà gì. Buồn thay lại trượt, tuy điểm năm sau có cao hơn năm trước tí ti. Ôi chao lúc này “sức đã cùng lực đã kiệt”, mơ ước duy nhất là đi học, đi học và chỉ đi học mà thôi. Đúng lúc ấy trường cao đẳng mà tôi luôn “hạ bệ” trong suy nghĩ có giấy gọi. Như chết đuối vớ được cọc, tôi vội vã làm thủ tục nhập học, không còn dám so đo hơn kém nữa.

Nhưng có một thực tế là suốt những năm học ở đó, tôi vẫn luôn mặc cảm với từ cao đẳng. Đi đâu, nhỡ có ai hỏi: “Cháu học trường gì?” Thôi thì cứ nói chung chung là sư phạm, ai biết đấy là đại học hay cao đẳng, chẳng may đôi lúc cũng có người truy tìm đến ngọn nguồn gốc rễ lại hỏi tiếp “Thế cháu học sư phạm ở đại học hay cao đẳng?” Trời ạ, nói dối thì hổ thẹn với lương tâm mà nói thật thì sao khó khăn thế, cứ lý nha lý nhí. Nào chỉ có thế, ngồi giữa một đám bạn cũ toàn đỗ đại học , bọn nó khoe trường tao thế này trường tao thế kia mà mình chẳng dám mở miệng khoe gì về trường mình. Thấy nó cứ ngài ngại làm sao ấy. Thậm chí tôi còn thấy cái mác sinh viên hơi cao xa quá so với mình.

Mặc dù thời gian học ở trường cao đẳng tôi luôn cố gắng nằm trong số những người nổi bật. So với các bạn học cùng lớp thì tôi có vẻ tự tin, năng nổ hơn một chút. Tôi dần khám phá ra mình có khả năng ăn nói lưu loát trước đám đông, nếu thời học sinh tôi luôn bị động, rụt rè, lo sợ khi bị gọi bất chợt thì bây giờ hoàn toàn ngược lại, bất kể lúc nào tôi cũng có thể trả lời lưu loát, rõ ràng những suy nghĩ của mình. Thậm chí tôi còn cho đó là cơ hội thể hiện bản thân, để khẳng định mình với mọi người. Thật lạ! Nhưng chẳng phải tôi bỗng dưng thông minh, tài giỏi hơn đâu, chẳng qua là tôi thấy mạnh dạn, tự tin hơn trong một môi trường vừa sức. Bỏ qua tất cả những yếu tố mà cao đẳng còn thua kém Đại học như trình độ giảng viên, cơ sở trang thiết bị, giáo trình… thì đây là điều mà tôi thấy may mắn vì đã học cao đẳng.

Điều hay ho thứ hai nữa là khi mấy đứa bạn thân của tôi thi đỗ đại học ngay năm đầu, ra trường thì tôi cũng ra trường vì đại học học những 4 năm, còn cao đẳng chỉ học có 3 năm thôi. Thế là tuy chậm hơn so với điểm xuất phát nhưng thời gian về đích là như nhau. Đến khi vác đơn xin việc, chúng tôi cùng đậu công chức như nhau. Bạn tôi dạy cấp 3, còn tôi dạy cấp 2, không sao đều là giáo viên cả mà,đều là ăn lương tập sự như nhau, và cũng chẳng ai hơi đâu đi so sánh khập khiễng kiểu như giáo viên cấp 3 chắc chắn phải giỏi hơn giáo viên cấp 2, vì mỗi cấp học có một đặc thù khác nhau. Đến lúc này, tôi mới phần nào vơi đi những mặc cảm giữa cao đẳng và đại học.

Trong thời gian đi làm tôi vẫn giữ vững phong độ thời sinh viên nghĩa là cố gắng để mình không đứng phía sau. Kết quả là công việc đã không phụ lại tâm huyết của tôi. Là giáo viên dạy giỏi, được học sinh yêu mến, đồng nghiệp nể trọng, như thế có thể tạm coi là một thành công nho nhỏ rồi.
Tôi viết bài này không nhằm mục đích đề cao cao đẳng mà chỉ dùng kinh nghiệm bản thân để khuyên một ai đó đừng vì cái sự “oai hão” mà để tuột mất cơ hội của bản thân. Cao đẳng hay Đại học không quan trọng mà quan trọng là bạn đã học được gì ,đã làm việc như thế nào sau khi ra trường. Chất lượng công việc mới là vấn đề mấu chốt quyết định sự thành bại của bạn chứ không đơn thuần là sự đánh giá về bằng cấp.

 

 Phương Liên