14.2 C
Da Lat
Thứ Sáu, 26 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 202

Tư tưởng làm… thuê cho nhà nước

Featured Image: Alex Proimos

 

“Nó học xong thì nói cho tao biết, tao sẽ xin cho nó vô ngân hàng Nông nghiệp huyện mà làm. Ấm cả đời mày ơi, nhưng cũng phải chi ít tiền đấy nhe!” – Người bạn của ba tôi lên tiếng. “Vậy, khoảng bao nhiêu?” – bố tôi hỏi. “Tầm hai trăm gì đấy.” Trời ơi, hai trăm triệu đồng để vào làm cán bộ tín dụng của một ngân hàng ở huyện, trong khi tài sản cả nhà cộng lại không biết có đủ số tiền đó. Tôi tức giận lẫn chán ghét cái cơ chế đang hiện hữu, và thầm nghĩ chắc chỉ có huyện mình như thế.

Câu chuyện thấm thoắt đã hơn chục năm, mà tôi nhớ như ngày nào, ba tôi từng bảo: “Con cố học cho giỏi đi, rồi sau khi ra trường, ba gắng chạy cho con vào nhà nước mà làm. Con mà vào được biên chế thì ba không còn phải lo lắng gì nữa.”Thế đấy các bạn, tôi đã bị tiêm nhiễm tư tưởng làm… thuê cho nhà nước đến thời điểm bây giờ. Tư tưởng này dường như thấm nhuần vào phần lớn gia đình Việt Nam. Giờ đây, tôi đã là giảng viên khối ngành kinh tế thuộc một trường của nhà nước. Có thể bạn sẽ nghĩ, tôi đã mất bao nhiêu tiền cho vị trí đó? Xin trả lời, không một xu nào bỏ ra nếu bạn từ bỏ đi tư tưởng mà tôi từng bị tiêm nhiễm.

Trở lại câu chuyện, nếu tôi nghe theo sự sắp xếp và trở thành cán bộ tín dụng của một ngân hàng huyện thì diễn biến sự nghiệp sẽ như sau:

  • Mất hai trăm triệu để chung chi.
  • Bổ nhiệm vị trí cán bộ tín dụng.
  • Mất vài năm phấn đấu để vào biên chế.
  • Trong thời gian làm việc phải tìm cách để gia tăng thu nhập, đấy là cách gọi khác của cụm từ “lấy lại vốn”.
  • Mọi động lực để làm việc chỉ nằm ở 2 từ “tiến thân” lên vị trí cao hơn.

Nhưng đáng sợ hơn nữa, nếu ở đó, tôi sẽ trở thành tù nhân bị giam hãm bởi tư tưởng làm thuê cho nhà nước với một cuộc sống an nhàn. Và thế hệ tiếp theo lại tiếp tục bị gieo cấy hạt giống tư tưởng to lớn đó.

Không biết cái ghê gớm của hệ tư tưởng đó như thế nào, nhưng đến hiện nay số lượng công viên chức làm việc ở cơ quan nhà nước đã lên đến 6 triệu người. Một con số rất lớn so với tổng dân số và cũng khá cồng kềnh so với các quốc gia khác trên thế giới. Còn tính hiệu quả ra sao chắc ai cũng biết.

Chính vì vậy, tôi muốn thay đổi, thay đổi từ chính bản thân rồi thay đổi suy nghĩ của những người xung quanh. Nên mỗi khi giảng bất kỳ lớp nào, tôi đều đặt câu hỏi: “Sau này ra trường bạn muốn làm gì?” Thật đáng buồn, hơn 95% đều trả lời: “Em cố gắng xin vào ngân hàng làm thầy ạ, nếu có thể sẽ xin vào ngân hàng của nhà nước.”Phải chăng các em cũng bị tiêm nhiễm thứ tư tưởng mà tôi xém trở thành nạn nhân.

Muốn nhanh thì phải từ từ, điều này luôn đúng cho sự thay đổi, đặc biệt là thay đổi ý thức hệ. Trước hết, tôi phải thay đổi hệ tư tưởng của chính mình. Có người từng hỏi: “Thầy có tính phấn đấu làm trưởng khoa hoặc cao hơn là hiệu trưởng không?” Tôi trả lời ngay: “Tại sao bạn không nghĩ, tôi sẽ mở trường và thuê bạn làm hiệu trưởng.” Và: “Thầy ơi, ước muốn trở thành giám đốc chi nhánh ngân hàng có lớn lao không?” Tôi nói: “Lỡ rồi, sao em không ước mình là chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng luôn.”

Đến đây, các bạn cũng biết tôi dần thay thế bằng hệ tư tưởng nào rồi, hệ tư tưởng làm chủ. Nhưng làm chủ cái gì? Đầu tiên, bạn hãy làm chủ bản thân, biết rõ mình cần gì ở cuộc sống và phát hiện niềm đam mê thông qua phát triển điểm mạnh của chính mình (điểm mạnh là công việc bạn càng làm càng cảm thấy mạnh mẽ, và càng làm càng thấy thời gian sao trôi qua nhanh quá hoặc bạn hạnh phúc khi làm xong công việc.). Sau đó, hãy làm chủ “thời gian“ của người khác. Bởi bạn nên nhớ, người nghèo thì luôn bán thời gian của mình, còn người giàu luôn tìm cách mua thời gian của người khác. Bạn muốn mua thời gian hay bán thời gian?

Cuối cùng, cái gì của Ceasar hãy trả lại cho Ceasar, cái gì của kinh tế thị trường sẽ trả về thị trường. Đã đến lúc, tư tưởng làm thuê cho nhà nước sẽ khó tồn tại trong thời đại siêu cạnh tranh ngày nay. Mà thay vào đó, hãy làm chủ bản thân lẫn mọi thứ xung quanh bạn và phát huy hết tiềm lực để phát triển sự nghiệp của chính mình. Thiết nghĩ, chỉ có tài mới ở địa vị cao, chỉ có đức mới hưởng bổng lộc nhiều và chỉ có làm chủ mới tạo dựng được sự thịnh vượng.

 

Châu Đình Linh

Ngày thơm đã trắng

Featured Image: Jay Spǝǝd

 

Ngày thơm đã trắng
gió chào nhau qua nốt radio vắng
hợp âm lãng quên trỗi biệt khúc không lời
nỗi cô đơn ngộ độc rũ áo trên vết đau của thời gian
nghe cơn mệt mỏi chơi vơi

Này em, đừng đi ngược triền gió
tóc xõa mùi hương em về ám giấc mơ tôi
dù chiều đã tắm gội
vẫn loang vết môi rời

Con sâu đo vẫn đo mải miết vòng phận số
vùng trời loang lổ giọt trăng
đêm bấu ngược vào trí nhớ thâm căn
nơi em đã chạm những ngón tay nõn nuột vào bờ môi bức phù điêu ký ức
trắng trợn cơn mất ngủ vực mùa

Anh ngồi biến âm cho một giấc mơ
ngày em về dậy thì tự tại
những vị thần đã ly tán khỏi đỉnh Olympus
nằm thu lu trên ghế bành trễ nải
nghe đêm rớt lạnh trong ly cà phê nóng vỉa hè
cô đơn lột da
hóa xác đam mê.

Này em, đừng mị ma mang chiếc áo màu hạnh phúc
em cứ suốt đời đi tìm một tận cùng không thật
để anh mải miết hẹn hò với cơn đau khổ bản nguyên
ngoài kia viên mãn vỡ bên thềm
anh đã khổ đau vì quá tin vào huyền ngôn của lời người con gái rạng ngời là em trong ức sâu tiềm thức
như đã từng tin vào những chiếc váy lóng lánh em mang để giữ màu cổ tích
mặc nụ hôn tháng Tám giận hờn lẩy bẩy bước đi nhanh
này em, hãy đặt ngón tay mình lên khóe mắt anh
vuốt nhẹ
chậm thôi
để nước mắt còn kịp làm bạn với đêm xanh sâu hút

 

Phương Uy
16.8.14

“Thịnh Vượng” (Thrive) – phim tài liệu của Foster Gamble và Kimberly Carter Gamble

Tại sao con người rất thông minh nhưng lại sống chung với sự nghèo khổ? Tại sao chúng ta cho phép một số ít người bóc lột số đông? Tiền bạc là gì và giai cấp thống trị đã sử dụng nó như thế nào để nô lệ hóa công dân Trái đất? Đây là những câu hỏi được nêu lên và giải đáp trong phim “Thịnh Vượng” (Thrive).

Bộ phim “Thịnh Vượng” liên kết nhiều chủ đề khác nhau để vạch ra một con đường cho công dân Trái đất từ bỏ các hình thức bóc lột của thế giới hiện nay và tiến tới một thế giới bình đẳng, nhân ái, và thịnh vượng cho tất cả mọi người. Trong phim này, chúng ta sẽ thấy rằng ngành Năng lượng Cũ – tức là năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch – đi chung với chế độ ngân hàng trung ương. Đây là chế độ đang nô lệ hóa công dân Trái đất bằng nợ nần và lạm phát để dần dần tiến tới một chế độ độc tài toàn cầu.

Phần cuối của bộ phim gợi ý một số giải pháp mà các cá nhân và tập thể có thể thực hiện để giúp thế giới chuyển hướng. Trong bộ giải pháp đó, một yếu tố thiết yếu là Năng lượng Mới – tức là năng lượng từ chân không lượng tử. Dù nó đã bị đàn áp suốt nửa cuối thế kỷ 20, nhưng đây là nguồn năng lượng cơ bản của Vũ trụ – một nguồn năng lượng sạch sẽ, vô tận, rẻ, và an toàn. Nó là nguồn năng lượng của các hạt electron khi chúng bay vòng quang hạt nhân. Nó là nguồn năng lượng của các hành tinh khi chúng bay trong quỹ đạo vòng quanh mặt trời. Và với cái chết của chế độ đàn áp, nó là nguồn năng lượng của thời đại mới.

Các chủ đề trong bộ phim “Thịnh Vượng”

Phần I: Khám phá quy luật của Vũ trụ

Hình xuyến (Torus)
Các vector cân bằng (The Vector Equilibrium)
Quy luật Vũ trụ trong các nền văn hóa cổ đại
Các “vị thần mặt trời” (hay người ngoài hành tinh?) chia sẻ kiến thức
Thông điệp trong các vòng tròn bí ẩn
Năng lượng miễn phí và sự đàn áp của nó
Mối quan hệ giữa hiện tượng UFO và năng lượng miễn phí

Phần II: Đi theo dòng tiền

Thực phẩm và cuộc Cách mạng Xanh
Giáo dục
Y tế
Sự đàn áp các phương pháp chưa bệnh
Kim tự tháp “Đi theo dòng tiền”
Tiền bạc từ hư vô
Trò lừa đảo “dự trữ phân đoạn”
Sự thành lập của Cục Dự trữ Liên bang
Củng cố tài sản và quyền lực
Dàn dựng các “chu kỳ của nền kinh tế”

Phần III: Lộ diện kế hoạch thiết lập chế độ độc tài toàn cầu

Thống trị thế giới từng bước một
Cơ cấu của giai cấp thống trị tinh hoa
Biểu tượng con mắt thần Horus
Trật tự Thế giới Mới
Từ bỏ lối tư duy của dân bị “ngu hóa”
Các tổ chức đang thiết lập chế độ độc tài toàn cầu
Một đế quốc toàn cầu bí mật
Giới thiệu chế độ chuyên chế từng bước một
Khủng hoảng – phản ứng – giải pháp
Các cuộc tấn công giả trang
Đàn áp người bất đồng ý kiến trong chế độ độc tài mới
Lý thuyết “ưu sinh” và kế hoạch giảm dân số thế giới
Đến một ngã 3 định mệnh

Phần IV: Tìm các giải pháp

Con người là gì? Chúng ta thật sự là ai?
Các tế bào mầm (Imaginal Cells)
Quay lưng với chế độ độc tài
Giới thiệu www.thrivemovement.com
Top 10 hành động cá nhân
Sự giải hòa giữa 2 băng đảng xã hội đen
Tiến tới một thế giới tự do
Nguyên tắc không-xâm-phạm
Triết lý Ludwig von Mises
Tạo công lý cho người Mỹ bản xứ (dân da đỏ)
3 bước để tiến tới tự do
Aikido
Đường lối không-xâm-phạm
Sự hướng dẫn từ bên trong
Chữa lành những vết thương của thế giới
Bài hát Thrive

Tải phụ đề Việt của bộ phim: http://lamthaison.com/1kDDk6e

 

Vietnam New Energy Group

Bạn là người sống hay người chết?

Featured Image: Ben Micek

 

Mình xin phép được vào đề luôn.

Theo định nghĩa của bản thân, “người chết” (không kể những người mà khoa học gọi là “tử vong” còn văn tế thì khóc rằng: “Đã về với cõi vĩnh hằng”) là những người tự nhận là mình vẫn còn sống nhưng lại không hề ý thức được mình ĐANG như thế.

Họ ăn cơm trưa và đầu óc lại để ở buổi hẹn hò mà 8 tiếng nữa mới (có thể) diễn ra, họ ngồi ôn thi nhưng thật ra lại đang bay lượn ở trên chín tầng mây khi mải mê tưởng tượng lại nụ hôn từ cái buổi hẹn hò đó. Họ nổi giận với nhau mà chẳng biết rằng mình đang giận chỉ vì họ quá bận rộn với chính cái việc giận ấy. Tóm lại, người hành động mà không có ý thức về những việc mình làm chính là một người chết đích thực.

Mình cam đoan là không có ai ngoài kia dám khẳng định rằng trong suốt cả cuộc đời, họ chưa từng một lần mất kiểm soát rồi đã hành động như một kẻ phát rồ, nếu như không nói rằng cả một đời sống mà không hề biết rằng mình đang sống, cứ lơ đễnh mọi thứ như một cái xác không hồn, trống rỗng như một ngôi nhà vô chủ. (Tất nhiên, họ không bao giờ tự nhận là mình lơ đễnh và trống rỗng cả, vì đơn giản chỉ có “người sống” mới nhận ra được điều đó. Mà “người sống” lại chẳng hề lơ đễnh và trống rỗng!)

Hiển nhiên, cuộc đời của một “người chết” sẽ bị lôi đi xềnh xệch vì họ chẳng có lúc nào ở trong hiện tại để mà chèo lái nó. Những người chết đó còn đang bận chuyện hôm qua với chuyện ngày mai, cái mà chẳng bao giờ ở trong tầm tay của họ cả. Thậm chí, khi ở hiện tại rồi họ cũng không biết đó là hiện tại của mình. Chính vì không ở trong vị trí “kẻ biết” nên họ sẽ phải nhận vai kẻ giận dữ, kẻ đố kỵ, kẻ tham lam, u mê, ngã mạn,… Hay thậm chí nhận tất tần tật những vai đó, và tệ hơn nữa là cùng một lúc.

Rồi họ vào vai kẻ yếu đuối một cách xuất sắc khi liên tục than trời thở đất, mất hết niềm tin sức mạnh, và cứ ở trong cái vòng xoáy điên đảo đó cho đến chết mặc dù họ đã thật sự đã chết từ lâu lắm rồi. Nhưng khốn một nỗi, trước khi “được” đi nằm vào trong quan tài và nghe bài văn tế nức lòng dành cho chính mình thì họ lại được “cứu sống”, khi quá nửa thế giới vác loa, thét vào tai họ rằng hãy ăn mặc cho thật bảnh giống người A kia kìa, hay đi cứu nhân độ thế giống người B ấy, hoặc là suy nghĩ tích cực như người C này cũng được, thế là “hồi sinh” lại ngay ấy mà. Nhưng thật sự họ lại được chết hoành tráng thêm một lần nữa.

Sinh ra được ở trên cõi đời là một điều may mắn nếu người đó thật sự sống, sống với một ý thức toàn vẹn về giây phút hiện tại của mình, dù trong giây phút đó họ có đang nghĩ về tương lai đi chăng nữa. Họ vẫn BIẾT rằng mình đang làm gì. Chỉ cần một cái BIẾT đó thì dù không làm gì cả thì họ vẫn sống, còn nếu không BIẾT thì dù có đang lấp trời vá bể thì họ vẫn là một cái xác biết đi và cùng lắm thì có thể biết khiêu vũ nữa.

Chính vì sống trong vô thức nên “người chết” nhìn cuộc đời như một mớ hỗn loạn, như một chậu cây vỡ trồng một con mèo bị bệnh lở mồm long móng. Đến Chúa chắc cũng không hiểu được cái cuộc đời khốn khổ đó vì bản thân người này vốn đã không hiểu được cuộc đời của chính mình. Mà khi họ càng cố hiểu thì con mèo đó lại càng mắc thêm những chứng bệnh nặng, còn chậu cây thì lại càng trông giống một cái bệ xí. Vì để sống được, họ cần “biết”. Mà cái “biết” đó lại không sinh ra để hiểu mà chỉ có thể được cảm nhận. Giống như khi có những chuyện khó tin đến mức điên rồ xảy ra trước mắt và bạn cần ai đó tát vào mặt mình một cái thật mạnh để xem đó có phải là giấc mơ không. Thì lúc bạn cảm nhận cái tát đó, bạn sống. Nếu không tin thì bạn cứ thử tặng mình một cái tát hồi sinh mà coi!

Và nếu cuộc đời đó không hỗn loạn thì nó sẽ là tẻ nhạt. Hoặc là cả hai. Để dễ dàng hình dung, bạn có thể mở MV “Wrecking Ball” của Miley Cyrus, tắt tiếng, tạm quên hết nội dung bài hát gốc đi và hãy tưởng tượng: Người không nhận diện được hiện tại, không chèo lái được cuộc đời mình giống như đang ngồi trên quả bóng kim loại đó và cứ để nó lao từ bên nọ sang bên kia, chính xác là từ cực “hỗn loạn” sang cực “tẻ nhạt” rồi lại quay về, và cứ như thế tiếp diễn. Còn ở dưới là đống gạch vụn do sức tàn phá của cuộc đời mất kiểm soát đó gây nên.

Phải nói đây là khung cảnh hỗn loạn, nhưng theo một cách tẻ nhạt (chưa kể ở là mỗi cực đó lại chia ra các cực nhỏ hơn nữa nên trông quả bóng lại càng chao đảo như vậy). Nếu muốn nó dừng lại thì kẻ ngồi trên đó làm ơn đừng truyền lực vào con lắc khổng lồ ấy nữa (!) Chắc chắn không ít người ngoài kia sau khi trải qua giai đoạn “sôi nổi, kịch tính” thì lại tuột trở về với trầm lặng, nhàm chán kèm theo một cảm giác thật hụt hẫng.

Một kẻ lớn lên, bị tiêm vào người những “chuẩn mực” của xã hội rằng cái này là đúng, cái kia là sai, cô này xinh, bà kia xấu, ông này là phàm, ngài kia là thánh… kết hợp với sự không ý thức về hiện tại của bản thân, người đó lại càng sa vào vũng lầy của sự phân cực đau khổ.

Thế đấy, khi đã nhìn đời như vậy thì “người chết” cư xử với bản thân và với cuộc sống xung quanh cũng theo một cách có tính chất tương đương. (Nhưng một sự thật mỉa mai đó là do tâm trí của họ không được an ổn nên cuộc đời của họ mới có trạng thái như vậy). Họ đánh răng và nghĩ về lời tỏ tình bị từ chối tối qua rồi nổi cơn khó chịu thọc bàn chải vào lợi chảy cả máu. Họ rán cá nhưng mắt mũi cứ mải dán vào cái màn hình điện thoại và rồi đến bữa có món cá đen thui. Họ vội vã đi thi cho khỏi trễ giờ và đến trường phát hiện ra mình để quên thẻ dự thi ở nhà. Họ kêu ca năm tháng tháng đơn điệu, còn họ thì chỉ như một cái máy được lập trình ăn, ngủ, học tập, làm việc ngày qua ngày. Họ thấy chán đời, nhưng thật nực cười là họ lại sợ chết.

Chỉ một hạt mầm không tĩnh lặng sẽ mọc ra cả một cái cây của sự hỗn loạn, cái cây sẽ đơm trái điên rồ, rồi rơi đôm đốp xuống đầu người đó, khiến họ lại càng nhảy choi choi lên cáu tiết. Khi những sự không như ý xảy đến dồn dập, người đó sẽ tự hào phong mình làm “Thánh Nhọ” trong một status facebook thảm hại (thôi thế cũng được an ủi phần nào vì số người like tăng hơn so với mọi ngày!). Nếu không thì họ sẽ biểu hiện sự tiêu cực qua những suy nghĩ, lời nói, hành động không lành mạnh khác, thậm chí theo một cách cực đoan, người đó có thể tự tử để chứng tỏ rằng họ vẫn nắm trong tay quyền kiểm soát với ít nhất một thứ trong đời mình, đó là mạng sống.

Còn bây giờ thì chỉ cần nhìn lại một lượt và hình dung một chút thôi là các bạn cũng thấy rõ cái vòng tròn luẩn quẩn úp lên đầu những “người chết” là như thế nào rồi. Riêng mình thì nhớ đến Tôn Ngộ Không trong phim Tây Du Ký, trên cái đầu ngó ngoáy của hắn là Vòng Kim Cô đang bị sư phụ Đường Tăng niệm chú. Trông vẻ mặt nhăn nhó như khỉ là người khác có thể thấy ngay sự khó chịu, đau đớn là như thế nào. Mãi cho đến khi lấy được chân kinh và được phong danh hiệu “Đấu chiến thắng Phật” (thật ra đây chỉ là phần thưởng đính kèm) thì cái vòng đó mới thật sự biến mất. Còn chúng ta, lúc nhận ra được giây phút hiện tại và được phong danh hiệu “người sống đích thực” thì cái vòng luẩn quẩn rối bời của mỗi người cũng sẽ tự tiêu tan.

Vậy bạn thật sự là người sống hay chết? Mỗi người ắt hẳn đã có câu trả lời cho riêng mình. Và điều cuối cùng mình muốn nói đó là: Chỉ người nào sống tỉnh thức thì mới có được những sự lựa chọn trong cuộc sống, còn “những người chết” thì không có sự lựa chọn nào cả. Cũng gần giống như: Một kẻ khôn ngoan thì có thể giả vờ ngu, còn một kẻ ngu thì cùng lắm chỉ có thể giả vờ khôn theo một cách ngu dốt mà thôi!

Xin cảm ơn!

 

Vũ Thanh Hòa

[BDTT8] Khi Lỗi Lầm Thuộc Về Những Vì Sao – John Green

Featured Image: Bìa sách “Khi Lỗi Lầm Thuộc Về Những Vì Sao” bản tiếng Anh

 

“Đôi khi bạn đọc được một cuốn sách và nó truyền cho bạn một thứ đức tin cuồng loạn, và bạn dần tin rằng thế giới đang bị chia cắt này sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được khi và chỉ khi toàn bộ nhân loại đọc được cuốn sách đó.”

Tôi có cảm giác là cuốn sách đó là của tôi, được viết ra để dành cho tôi. Cũng thật lạ, khi nó chẳng phải là cuốn sách viết bởi một cây đại thụ của nền văn học thế giới, hay được xếp vào giá dành cho những cuốn sách kinh điển, cũng chẳng phải cuốn sách được viết với một ngôn ngữ văn chương trác tuyệt nhất, nhưng, bạn biết đấy, có ai yêu mà biết được chính xác vì sao yêu, bằng một cách bí mật nào đó, cuốn sách nó chạm được vào tôi, trả lời cho những gì nhức nhối nhất trong tôi và dần dần biến thành một phần của tôi tự lúc nào. Hạnh phúc có được sẻ chia thì mới trở nên trọn vẹn và tròn đầy, tôi băn khoăn không biết làm thế nào cái thế giới bị chia cắt này có thể đọc được cuốn sách của tôi đây?

Tôi thích cái cảm giác được đắm mình sâu vào một cuốn sách, khóc cười cùng nhân vật, được trải nghiệm một thực tại khác, một không gian và thời gian khác. Nhưng tôi yêu cái cảm giác thấy chính mình lấp ló trong những trang sách, thấy thực tại của mình trong thế giới tưởng tượng của một nhà văn xa xôi phía bên kia bán cầu, cảm nhận tác giá đang đối thoại với mình, trả lời cho những gì mình đang tìm kiếm. Điều tuyệt vời của việc đọc không phải là việc khám phá ra những điều mới lạ, mà là bắt gặp chính mình, chính những suy tư và tình cảm của mình trong những câu chữ uyển chuyển giàu chất thơ, cảm giác thăng hoa giống như gặp tri kỉ của đời minh nhưng dưới hình hài của những trang sách thơm mùi giấy mới. Điều đó chính là phép màu của văn học, người ta đọc để thấy mình chẳng còn cô đơn. Tôi cũng không ngờ một cuốn sách “best seller” “Khi lỗi lầm thuộc về những vì sao” có thể làm điều đó với tôi (quả là từ trước đến nay tôi chẳng phải là fan của những best sellers cho lắm)

“Mọi lẽ nghi vấn đều khiến chúng ta trở về với câu hỏi liệu cuộc sống của con người có ý nghĩa gì và phải chăng tất cả đều mang một ý nghĩa nào đó.” Có lẽ không có ai mà chưa từng vật lộn trước những câu hỏi truy vấn về “ý nghĩa”. Liệu mọi thứ có “ý nghĩa” gì đó không khi cái hồi kết dường như là được viết trước cho tất cả mọi người, sự hiện sinh của mỗi cá nhân và cả nhân loại chỉ như ánh chớp ngắn ngủi giữa đêm trường thời gian vô tận, khi vĩnh hằng vốn là một khái niệm không chính xác, khi sự lãng quên là không thể tránh khỏi. “Sẽ có một lúc nào đó sẽ chẳng ai còn sống sót để nhớ về bất cứ người nào đã từng tồn tại hay nhớ xem loài người đã làm được những gì… Tất cả những gì chúng ta đã từng làm nên, gây dựng, viết ra, suy tưởng, khám phá sẽ bị lãng quên và tất cả mọi thứ rồi sẽ thành con số không tròn trĩnh.”

Nếu như bạn vẫn đang mắc kẹt câu hỏi mang tính chất hiện sinh đó thì tôi cũng mạo muội “trả lời” rằng: vốn làm gì có thứ “ý nghĩa” nào nằm ngoài đời sống của con người, “ý nghĩa” của đời sống là chính nó, là chính sự sống, là sống trọn vẹn và tròn đầy trong những khoảnh khắc hữu hạn mà bạn có. Những người độ tuổi 20, sức xuân đang phơi phới như bạn và tôi có thể nghĩ đời sống như vậy có vẻ đơn giản, nhạt nhẽo và chẳng có “ý nghĩa” gì cả, cũng khó trách được khi mà những điều giá trị nhất, cốt lõi nhất thường được nghiệm ra khi bạn buộc phải đứng trước những lằn ranh giữa sự sống và cái chết, nơi bạn có thể nhìn ra những điều mà bạn sẽ chẳng bao giờ chú ý đến khi lúc nào cũng “an toàn”, khi mà những chòm sao chiếu mệnh đầy lỗi lầm buộc bạn phải, giống như Hazel và Augustus, bị ung thư và sắp chết.

Hazel là một cô bé xinh đẹp, thích đọc sách, đọc thơ, mơ mộng và thích xem những show truyền hình siêu nhảm, còn Augustus thì hài hước, giỏi thế thao, thích chơi game và bị ám ảnh bởi những trò ẩn dụ thú vị. Những con người ở độ tuổi 17 ngọt ngào có thể có cuộc sống bình thường nếu như những căn bệnh ung thư không tước khỏi họ khỏi cái điều căn bản và giản dị đó. Có những nỗi đau mà tưởng chừng như chạm đến giới hạn của những nỗi đau, cả về thể xác lẫn tinh thần “phần lớn cuộc đời tôi dành để cố gắng không bật khóc trước những người tôi yêu thương.” Nhưng thiết nghĩ rằng buồn đau đâu thể làm thay đổi con người ta, nó chỉ làm bộc lộ con người ta mà thôi, khi phải đấu tranh những buồn đau để sống, họ càng khát sống hơn và sống cũng nhiều hơn. “Tôi cố gắng tự an ủi mình rằng, mọi thứ còn có thể tệ hơn, rằng thế giới này không phải là một nhà máy sản xuất điều ước, rằng tôi đang sống với căn bệnh ung thư chứ chưa chết bởi nó, rằng tôi không được cho phép nó giết chết mình trước khi nó có thể giết chết mình.”

Hazel Grace, cô gái ấy, luôn tìm cách làm đầy cuộc sống ngắn ngủi của mình, trong những phút yếu lòng trong sợ hãi và âu lo cô tự dặn mình “ những suy nghĩ như vậy sẽ làm phí phạm những khoảnh khắc của cái cuộc sống vốn được tạo nên bởi những khoảnh khắc hữu hạn như vậy.” Cô gái của tôi luôn đong đếm cuộc sống của mình bằng những khoảnh khắc hữu hạn và trân trọng, dè sẻn chúng như vậy trong khi chúng ta như những kẻ nhà giàu ngu ngốc và hợm hĩnh luôn sống mà không ý thức về điều đó và ba hoa về sự có “ý nghĩa” của nó.

Cách sống trọn vẹn nhất chẳng phải là sống  yêu hay sao? Cuốn sách trước hết viết về một câu chuyện tình, một thứ tình yêu đẹp đẽ và không tì vết kiểu như … tình yêu thật sự. “Tớ yêu cậu, dù biết rằng tình yêu chỉ như tiếng hét vào giữa khoảng không, biết rằng sự lãng quên là không thể nào tránh khỏi, biết rằng số phận bi thương của chúng ta đã được an bài, biết rằng sẽ có một ngày mọi nỗ lực của con người đều trở thành cát bụi, biết rằng cuối cùng mặt trời cũng sẽ nuốt chửng cái hành tinh mà hai chúng ta có, và sau tất cả những thứ đó anh vẫn yêu em.”

Chúng ta sống trong nỗi sợ cái chết và sự lãng quên, và, tình yêu là cái nỗ lực đẹp đẽ nhất chống lại cái chết và sự lãng quên đó. Hầu như tất cả loài người tham lam chúng ta đều mong muốn được nhớ tới một cách vẻ vang, ghi lại dấu ấn của mình như một nỗ lực đáng thương để “chiến thắng” cái chết. Hazel và Augustus chẳng để gì nhiều nhặn cho đời, nhưng có hề gì đâu khi “dấu ấn con người để lại thường là những vết sẹo” mà thôi, và bản thân yêu thương đã rất đầy đủ rồi. Họ đã có những phút giây ngắn ngủi nhưng vẫn là vĩnh viễn và vô tận mà họ không sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì cho những phút giây đó- nơi có sự hiện diện của một thứ còn bí hiểm hơn cả cái chết, cái đó gọi là Tình Yêu.

Tôi rất đồng ý với Hazel: “Có hai loại người trưởng thành. Loại người thứ nhất như Peter Van Houten, họ là những sinh vật khốn khổ luôn tìm sục sạo mọi nơi trên trái đất để tìm thứ gì đó để gây tổn thương. Và có những người giống như cha mẹ tôi, luôn đi loanh quanh như zoombi và làm nhiều thứ linh tinh cốt để được đi loanh quanh.” Cả tôi và Hazel đều không muốn sống một những cuộc sống như vậy. Xung quanh ta thiếu gì những người sống máy móc, quẩn quanh trong những khuôn thước may sẵn, những đám đông ồn ào mà thiếu sức sống, những con người tất tả chạy ngược xuôi với đầy rẫy lo toan cốt để cuối ngày dành buổi tối trước cái TV hay những thú vui nhạt nhẽo và giả tạo khác.

Tôi cũng chẳng tin vào những kẻ tuy tìm được lối ra khỏi đám đông kia nhưng lại rơi vào cái bẫy trong trò chơi của chính họ, luôn thích gặm nhấm nỗi buồn và sự cô đơn, luôn muốn lánh xa tất cả và kêu gào là họ đang sống là ‘chính mình’ và gọi phần còn lại của thế giới là điên cuồng, là thối nát. Chĩa mũi nhọn vào cuộc đời thì chính họ mới là người bị tổn thương. Cái nỗ lực thoát khỏi đời sống “mờ mờ nhân ảnh” khiến họ ôm khư khư cái tôi đầy sầu não của mình mà không biết rằng ‘cái tôi’ chính là trò ảo tưởng lớn nhất của loài người. Không, nếu trưởng thành mà là như vậy, tôi thà khước từ sự trưởng thành của mình còn hơn.

Tôi tin rằng nếu ai cũng ý thức thật sự được sự hiện sinh bản thân nó là quý giá vô ngần, rằng cuộc sống chỉ là tập hợp hữu hạn những khoảnh khắc, rằng yêu thương (theo nghĩa rộng) mới chính là triết lí sống tối cao nhất mà nhờ đó ta có thể biến những hữu hạn của ta thành mãi mãi, mọi thứ đã có thể rất rất khác.

Tôi thật sự thích cái cách tác giả nói về thật nhiều thứ trong giới hạn một cuốn sách nhỏ xinh ấy, thông qua một câu chuyện tình tưởng như là sến sẩm, trẻ con, qua chủ đề về nạn nhân ung thư tưởng chừng xưa như trái đất, viết bằng ngôn ngữ teen giản dị và hài hước mà vẫn giàu chất thơ. Cuộc sống thì nhiều điều bất ngờ và cuốn sách là một trong những điều đó.

 

 

Nancy


Cuộc thi hân hạnh được tài trợ bởi ThachPham.com (website hướng dẫn tạo blog), Phi Tuyết, hai thành viên giấu tên, Karmi Phuc (developer chính của THĐP)

Các bài viết dự thi tháng 8

Bảng điểm và nhận xét các bài thi

Cho ngày cơn gió không chạy trốn

Featured Image: Minh Chau Pham

Có nên viết bài thơ tình tháng Tám
khi lời yêu đã khản tiếng lâu rồi
từng con chữ trốn trong bờ mỏi mệt
niềm an nhiên thất lạc chẳng tăm hơi

Có nên viết rằng ngày thì rất cũ
những mơ hồ đã chạm đáy thung sâu
hài cốt đặt trên quách thời gian mục
những bài thơ là giả trá âu sầu

Có nên viết khúc bi ca màu gió
bởi giấc mơ vừa chạm đỉnh hoang đường
em hư ảo tất nhiên em không thật
tội lỗi gì tôi lạnh giữa đêm sương?

Bởi tháng tám nhớ bóng đêm hành khất
nên bao dung tôi lạc giữa chiêm bao
bởi cơn nhớ là lãng quên rất vội
nên đăm chiêu nhành cúc dại ven rào

 

Phương Uy

Nếu muốn tìm kiếm đam mê, việc đầu tiên phải làm là thức dậy

Featured Image: Rob Swatski

 

“Với tôi, hành trình tìm ra đam mê là một cuộc chiến. Nó vẫn chưa hề kết thúc. Nhưng tôi tin, trong 4 năm đó, mình chưa lãng phí phút giây nào trong đời.” (Chia sẻ của tác giả câu chuyện – Trần Thị Trà My, Marketing Executive, AYP).

Chương 1: Ngủ đông

Say sóng công việc “thời thượng”

Thời đại học, bạn bè kháo nhau “phải làm trong những công ty xịn, bự, gắn “mác” quốc tế, nhận lương tháng tính bằng đô thì mới gọi là thành đạt”. Tôi cũng “say sóng” theo trào lưu, tăm tia những công ty đa quốc gia từ năm 2. Đến đầu năm 4, khi chưa tốt nghiệp, tôi may mắn nhận công việc toàn thời gian tại một ngân hàng quốc tế – nơi làm việc “thời thượng” được nhiều sinh viên mơ ước. 21 tuổi, tôi đắm mình trong niềm tự hào mãnh liệt tại môi trường quốc tế tuyệt vời. Tôi lao vào làm việc hăng say, hòa nhập vào nhịp điệu chuyên nghiệp, lặn ngụp trong khối lượng công việc khổng lồ.

Nhưng sau 1 năm đi sớm về muộn, tôi phát hiện ra người hạnh phúc nhất khi tôi làm tại đây chính là… ba mẹ và anh trai tôi. Vốn theo nghề Y, họ luôn muốn tôi – một đứa con gái ương bướng, có một công việc “ổn định” “lương hấp dẫn”, thêm chút “sang chảnh” của ngân hàng là quá hoàn hảo.

Một buổi sáng, tôi cảm thấy mệt mỏi, không thể dậy được dù báo thức reo inh ỏi. Lăn qua lăn lại trong chăn, tôi hỏi mình: “Tại sao tôi lại ở đây? Tôi thích niềm vui, mê sự sáng tạo, năng động, vậy mà công việc này cứ lặp đi lặp lại mỗi ngày, với quá nhiều hệ thống cùng hàng tá quy trình thủ tục. Nếu có thay đổi, thì là tôi “được” phân chia lại danh mục khách hàng và… thêm khách hàng, thêm công việc tương tự.” Đây đúng là công việc nhà nhà thèm muốn, người người khát khao. Nhưng đây KHÔNG PHẢI là công việc tôi mơ ước. Tôi đâm chán nản và đã SẴN SÀNG BỎ CUỘC.

Sống theo lời người khác

Tôi đến gặp sếp để trình bày ý định nghỉ việc. Tôi cảm thấy mơ hồ, mông lung. Tôi biết mình không hợp với ngân hàng. Nhưng tôi hoàn toàn không biết mình công việc tương lai của mình là gì. Nếu nghỉ việc, có phải tôi đã mất cơ hội phát triển khổng lồ trong môi trường tuyệt vời này không?

Tôi bị ba mẹ và anh trai mắng vì cái tội “ngu, sướng mà không biết hưởng”, công việc tốt thế mà đòi bỏ. Bạn bè thì khuyên chung chung “thích thì làm, chán thì bỏ, còn trẻ, cứ nhảy việc, tìm được nơi mình thích thì tự nhiên sẽ gắn bó thôi”. Tôi vô tình tự dìm mình vào mớ bùi nhùi ý kiến của người khác. Tôi mệt mỏi với từng cuộc gọi của gia đìnhnói “không được nghỉ việc”. Tôi hoang mang với lời khuyên “phóng khoáng” của bạn bè. Biết đâu tôi chưa hiểu đủ sâu công việc ngân hàng…

Thôi thì, tôi ở lại, thử thách thêm 1 năm để tìm câu trả lời đúng cho mình.

Đến tận cùng giấc ngủ

Tiếp tục làm tại ngân hàng, tôi lao vào công việc còn quyết liệt hơn, thay vì tiếp tục thói quen nằm lỳ mỗi sáng, chửi bới tại sao mình phải đi làm và giải quyết hàng tá công việc mới được nhân bản vô tính từ việc cũ của ngày hôm qua. Khả năng và tốc độ xử lý công việc của tôi bây giờ tăng tốccao vọt, cho tôi của ngày xưa “hít khói”. Ngày cuối năm, từ một đứa chán việc, tôi trở thành nhân viên được đánh giá cao của team, được sự công nhận của Trưởng phòng.

Nhưng trong suốt 2 năm gồng mình lên hoàn thành trách nhiệm, tôi đã hiểu. Với tính chất ngành ngân hàng, với những mối quan hệ tôi đã có, tôi biết rằng, từ bản chất, tôi không hợp với ngân hàng.

Tôi nghĩ rằng bến đỗ của tôi thuộc về con thuyền marketing.

Chương 2: Thức dậy

Từ lúc đó, tôi nghiến ngấu thông tin về marketing, hỏi han bạn bè trong ngành, cực kỳ phấn khích vì nghĩ rằng: “Con đường cách mạng là đây!”

Tôi đến gặp sếp và chia sẻ ý định nghỉ việc để chuyển sang marketing. Với tất cả sự ngạc nhiên, sếp không bất ngờ, không băn khoăn mà chắc như đinh đóng cột: “Anh cũng nghĩ em hợp với các ngành năng động như marketing, event… Em cứ thử sức. Anh hoàn toàn ủng hộ.” Còn “sếp lớn” – Một người mà tôi rất trân trọng và kính nể, trong ngày cuối cùng tôi làm việc đã nói: “Em còn trẻ, cứ ra đi, trải nghiệm. Nhưng hãy nhớ, ngân hàng vẫn welcome em trở lại!” Tôi bồi hồi xúc động vì sự thẳng thắn, tình cảm mà họ dành cho mình. Tôi đã lo sợ mình bị liệt vào “danh sách đen” vì cái tội được đào tạo đủ lông đủ cánh rồi bay nhảy. Nhưng ngược lại, tôi nhận được sự ủng hộ tuyệt đối từ các sếp vì các anh chị cũng hiểu được tính cách và nguyện vọng của tôi.

Từ giấc ngủ đông 2 năm để sống theo công việc thời thượng, sống theo lời khuyên của người khác, tôi đã bắt đầu thức dậy. Để đi theo ý muốn của tôi, sống thực cuộc đời của chính tôi.

Tình cảm rạn nứt

Trái ngược với hai sếp, gia đình tôi phản đối gay gắt. Họ dùng đủ mọi biện pháp để ngăn ngừa “hành vi” (mà họ nghĩ là) sai trái của tôi. Ba mẹ ban đầu nói nhẹ nhàng, trìu mến: “Con ơi làm ngân hàng ngồi máy lạnh cho sướng, lương lại cao.” Rồi đến cứng rắn, đe dọa, dùng từ ngữ “mạnh”: “Mày không có đi đâu hết, ở đó mà làm việc, không thì về quê phụ bán với mẹ, không thì ba phóng xe máy lên Sài Gòn ngay bây giờ.” (ba mà phóng xe thì là cỡ 100km/giờ)

Ở bậc “cao cấp” hơn, anh trai tôi lắng nghe – chia sẻ đầy cảm thông, rồi bẻ suy nghĩ của tôi theo cách lập luận “tri thức” của anh: “Marketing cũng tốt, giúp em năng động, sáng tạo hơn, nhưng bị cái là nó không ổn định, em là con gái nữa, sau này có chồng rồi sao quán xuyến nổi? Công việc ngân hàng thích hợp với con gái hơn. Chưa kể công ty bé xíu đó chẳng biết ngày mai sống chết ra sao!”

Vốn cứng đầu, tôi đáp lại tấm “chân tình” của cả nhà là thái độ: “Con biết rồi, khổ lắm, ba mẹ nói mãi…” (tôi giấu đi phần còn lại của câu nói, đó là: “con không bao giờ nghe đâu”) “Cứ cho là con vẫn làm ở ngân hàng, khi nào có việc mới con báo, ba mẹ đừng hỏi nhiều” “Thôi em không muốn nói chuyện với anh nữa.”

Và suốt mấy tháng trời, tôi không thèm nghe điện thoại, trả lời tin nhắn của ba mẹ, hoặc nói chuyện nhát gừng hòng lảng tránh. Bắt đầu đi làm marketing tại công ty mới, tôi bắt đầu chuỗi ngày rời văn phòng lúc 9h, la cà quán xá đến 12 giờ mới vác xác về nhà, vì giờ đó anh trai đã đi ngủ. Khi không chạm mặt nhau, chúng tôi sẽ không phải đôi co.

Một tình yêu quan trọng trong cuộc đời tôi – gia đình – đã có phần rạn nứt.

Công việc vỡ vụn

Qua công ty mới, tôi chìm trong cô đơn vì công việc mới gặp nhiều khó khăn nhưng không được gia đình chia sẻ. Dân tay ngang, không chút kiến thức về marketing, ít kinh nghiệm quản lý đội nhóm như tôi lại được giao trọng trách khá cao. Không ai cầm tay chỉ việc tôi như ngày còn ở ngân hàng. Tôi vừa phải tự bơi, vừa gào thét nhờ các đàn anh giúp đỡ. Tôi đã nếm trải những thất bại đắng nghét mà tôi chưa bao giờ tưởng tượng được.

Tôi chịu trách nhiệm tổ chức những buổi hội thảo cho công ty với chỉ tiêu khoảng 80-100 sinh viên tham dự cho mỗi buổi. Và kỷ lục của tôi là một buổi có… 13 bạn đến tham dự, chưa kể nhiều lần không thể chạm được con số 80, nói gì đến 100. Phòng kinh doanh thì chửi bới vì marketing làm việc không hiệu quả để ảnh hưởng đến họ. Có lần trưởng phòng đã khóc thét trong cuộc họp công ty, làm tôi hoảng hốt khóc theo. 3, 4 tháng làm việc mà tôi có cảm giác tôi đã dành 2 năm để chạy những dự án liên tục của công ty. Vừa hao hơi, vừa tốn sức, vừa mang lại kết quả tệ hại. Đến mức tôi phải tự hỏi mình: “Tôi có hợp với nghề này hay không?”

Khó khăn sẽ giết tôi?

Từ những sai lầm trong công việc đó, tôi ý thức được một việc mà giúp tôi thay đổi rất nhiều về sau: Trước đây, công việc tôi làm, nêu sai sót thì tôi là người chịu trách nhiệm duy nhất, ít ảnh hưởng đến đồng nghiệp. Nhưng giờ đây, kết quả của tôi có ảnh hưởng rất lớn đến những người đồng đội còn lại. Việc này buộc tôi càng phải trách nhiệm hơn và làm việc quyết liệt hơn. Khó khăn có thể đến, nhưng sẽ không giết chết được tôi.

Khi kết quả công việc không tốt, tôi tự nhủ mình chưa đủ kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cho dù khó khăn có sắt đá cỡ nào, tôi vẫn kiên trì đập nát nó để đeo đuổi con đường mình đang đi. Vì tôi tin phải đi đủ sâu, đủ lâu tôi mới có thể khẳng định đây có phải là đam mê của mình hay không.

Có thể mọi người sẽ chửi tôi ngu ngốc, dốt nát, thiếu lý tưởng vì đi làm hơn 4 năm mà vẫn chưa biết mình đam mê điều gì. Nhưng đó là cuộc sống thật của tôi, không phóng đại, không tô vẽ.

Hành trình tìm kiếm đam mê của tôi không phải con đường trải hoa hồng. Mà đó là chuỗi ngày vật lộn với khó khăn. Có lúc, chuyện công việc làm tôi bật khóc. Có lúc, chuyện gia đình làm tôi muốn nghẹt thở. Nhưng tôi vẫn bảo mình phải đứng lên, để mạnh mẽ hơn, giỏi hơn ngày hôm qua. Công việc sẽ suôn sẻ nếu tôi đủ giỏi để đạt được mục tiêu. Gia đình sẽ ủng hộ nếu tôi đủ giỏi, đủ bản lĩnh và kiên nhẫn để chia sẻ chi tiết về công việc và định hướng tương lai. Cho dù hành trình của tôi vẫn chưa chạm đích – tôi vẫn chưa định hình rõ ràng đam mê của mình là gì, nhưng tôi tự tin, sau 4 năm chiến đấu không ngừng nghỉ, tôi đang đi đúng hướng.

Nỗ lực

Người ta nói hay nói: “Cần 99% nỗ lực và 1% may mắn để thành công.” Tôi nghĩ rằng mình hay gặp “xui”, nên tôi quyết định xăm vào tay hình cỏ ba lá – tượng trưng cho sự may mắn. Và tôi tự nhủ: “1% may mắn tôi đã nắm trong tay, nên nếu kết quả tồi tệ, là do tôi nỗ lực chưa đủ 99% còn lại.”

Tôi mong rằng những bạn trẻ kiên nhẫn đọc đến cuối cùng những chia sẻ này của tôi, đừng bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh như tôi ngày xưa, mà hãy nỗ lực đi lên bằng hết toàn vẹn sức lực của mình. Tôi nghĩ rằng, cho dù năm 1 hay năm 4, các bạn vẫn còn thời gian. Hoạt động nhiều lên. Khám phá nhiều lên. Nếu bạn nghĩ mình thích một ngành nào đó, hãy đâm đầu làm quyết liệt vào. Đừng chỉ thử 1, 2 lần rồi nản, đổ lỗi vì “xui”, vì “khó”, vì “mình năng động, muốn bay nhảy”, vì “không phải đam mê”. Đam mê không có tội, đừng lấy nó làm cái cớ để bao biện cho việc mình không đủ quyết tâm để vượt qua khó khăn.

Chương 3: Bạn có muốn gõ cửa đam mê?

  • Nếu bạn là một sinh viên có cuộc sống làng nhàng, “tạm tạm” “thoải mái” trong suốt 1, 2, 3, 4 năm đại học.
  • Nếu bạn là một sinh viên đang đi xin việc, tối tối về nhà bạn nằm vật ra nền gạch than thở: “Đi đâu cũng đòi kinh nghiệm. Mới ra trường lấy đâu kinh nghiệm?”
  • Nếu bạn là một nhân viên chán ghét công việc. Bạn thấy mệt mỏi và không muốn dậy đi làm vào mỗi sáng.
  • Nếu bạn đang tìm kiếm một “cú nổ Big Bang” trong cuộc sống của mình. Tại nơi đó, bạn vui vẻ, làm việc hăng say và đạt được thành công.
  • Nếu bạn muốn gõ được cửa đam mê và trở nên hạnh phúc.

…thì việc phải làm đầu tiên là THỨC DẬY. Bạn đã thức dậy chưa, hay vẫn đang chìm sâu trong giấc ngủ đông?

 

Đỗ Thanh Lam

 

Tản văn: Hẻm nhỏ trong thành phố lớn

Featured Image: Khánh Hmoong

 

Chiều Cần Thơ buông mình với những đám mây trắng như làn khói ngẩn ngơ, gió ùa qua mái tóc phất phơ thả bay trong gió… Tôi đứng bên hiên nhà ngắm mặt trời từ xa sắp ẩn mình sau cả ngày rọi nắng. Tâm tư nhẹ nhàng, nhưng lại thấy chơi vơi…

Tôi chợt nhớ ra điều gì đó. Rồi lại thèm thèm một thứ gì đóÀ, tôi nhớ cảm giác cái “bình yên”…!

Tôi chuyển lên sinh sống cùng gia đình ở thành phố phồn hoa này mới hai năm. Khoảng thời gian không dài nhưng cũng đủ để một đứa nội tâm như tôi quen với nhịp sống hối hả và rộn rã nơi đây. Bản tính vốn ham vui nhưng lại sợ cái gì quá náo nhiệt, tâm trạng thì rối bời nhưng lại thích làm thơ. Rõ ràng, một cái gì đó yên tĩnh và trầm tư hợp với con người tôi hơn, thế nên để sống chung với những tiếng nhạc xập xình hay tiếng cười nói vang vang trong mỗi tối quả là điều không dễ.

Mà bạn biết đấy, chúng ta ai cũng có khả năng thích nghi với từng hoàn cảnh môi trường. Tôi cũng không ngoại lệ. Cái nhịp sống vội vàng cả ngày ở đây buộc người ta phải quên đi những khoảng trống tâm hồn, mà lấp đầy nó bằng những thứ âm thanh hoa mỹ ngọt ngào.

Cứ thế, tôi dần quên đi thành phố nhỏ, con đường nhỏ, nhà nhỏ và cái xóm nhỏ xíu quê mình…

Hối hả giục mẹ chở con đi vài vòng thành phố chơi, tự nhiên sao hôm nay muốn đi đâu đó trong thành phố quá. Hai mẹ con chạy băng qua khắp các nẻo đường rộng lớn thênh thang. Đại lộ Hòa Bình hiện đại phồn hoa, đường 30/4 hàng quán đầy như kiến lửa, Nguyễn Việt Hồng rộn rã trà sữa rồi đồ ăn các thứ,… Rốt cuộc, tôi chẳng tìm được chút gì bình yên…

Thấy bên kia đường có cái bảng đề “bún mắm”, thèm quá nói mẹ vòng lại ăn. Ai dè cái bảng chỉ vào hẻm, hẻm nhỏ xíu và dài hun hút. Ngồi trong cái vách lá xập xệ và con hẻm lem nhem, húp nước ăn bún quả là thú vui tao nhã. Hẻm bé nhưng xe chạy ra chạy vào liên miên. Chợt nhận ra đa số họ là người lao động. Thấy xe này biển số 68, xe kia biển số 83, xe nọ với hai anh mặc bộ đồ xây dưng biển số 71. Chiều muộn thế này, chắc họ mới đi làm về,…

Ăn xong hai tô bún tính tiền hai mươi bốn ngàn đồng, trà đá hai ly miễn phí. Chị bán bún cười tươi cảm ơn rồi mau chóng dọn bàn chuẩn bị cho khách đến sau. Mẹ bảo không ngờ giữa cái chốn buôn bán đắt đỏ thế này mà lại có quán bún nhỏ bán với giá “nhỏ” như vậy. Con cười một cái thật tươi rồi chợt thấy ấm lòng, đâu đó trong thành phố còn những góc nhỏ yên vui đến thế…

Tiếp tục cùng mẹ rong chơi trong những con hẻm sâu nép bên những con đường rộng, tôi tìm kiếm một cái gì đó đã-thuộc-về-quá-khứ. Tôi giật thoáng mình khi chạy vào con hẻm giống y chang cái hẻm cũ nhà tôi ngày trước. Vẫn là hàng tạp hóa với đủ loại bánh kẹo, vẫn là cái lò nướng chuối nếp le lói lửa đỏ trong đêm. Và vẫn đó cái bãi đất trống với đủ thứ loại cỏ dại mọc um tùm, đám con nít quây quần chơi bắt trốn… Tôi lặng người nhiều phút, để mặc thời gian trôi đi vô tình. Thoáng nhìn vào cái nhà bên cạnh, cả nhà họ đang ngồi dưới mâm cơm với hương thơm ấm áp, cái tivi cũ rích đang phát chương trình thời sự lúc 19 giờ. Đâu đó tiếng em bé khóc thét, tiếng người lớn réo gọi con mình về ăn cơm, tiếng xe đạp của chị lấy cơm heo và tiếng lẹt phẹt mặt đường của anh quét rác…

19 giờ – 7 giờ tối

Vẫn đó khung giờ của những buổi cơm tụ họp, vẫn đó cái đèn đường vàng nhạt trong đêm.Hẻm nhỏ thu mình lại trước cảnh xe đông người chật ngoài kia. Rồi hẻm nhỏ lại vang lên những âm thanh thân thuộc tựa như khúc nhạc buồn miên man vào một ngày lặng gió. Tôi đứng nhìn cái góc phố rêu xanh bình dị hồi lâu, lòng dâng lên những nỗi niềm khó tả.

Vô-cùng-khó-tả!

Tôi nhớ nhà mình vào buổi tối bên mâm cơm, thời cách đây bốn năm có chiếu phim ‘Dù gió có thồi’ làm cả nhà tôi mê mẩn suốt một thời gian dài. Cơm nước xong xuôi, cha tôi hút thuốc, mẹ tôi pha trà, tôi leo tọt lên võng nằm đung đưa thoải mái. Chốc lát là tiếng réo gọi của tụi bạn ra đầu hẻm mua nước mía rồi qua bãi đất cạnh nhà ngồi kể chuyện ma. Cái khoảng thời gian ấy sao mà vui vậy, cái hẻm nhỏ xíu thế mà mỗi khi nhà đầu hẻm có chuyện là nhà cuối hẻm ra giúp một tay. Nhà ai có vợ chồng cãi lộn là cả xóm thức nguyên đêm hòa giải. Tôi nhớ xóm nhỏ những ngày cúp điện, cả chục căn nhà mở toang cửa rồi lấy ghế ra trước sân ngồi nói chuyện huyên thuyên. Con nít thì lấy đèn pin ra chơi trò tìm kho báu, người lớn ngồi cười rôm rả cả không gian…

Hẻm nhỏ là thế. Tôi chợt nghĩ về đường lớn, và những ngôi nhà mặt tiền

Hầu như những ngôi nhà ngoài đường chính không nhà nào là không kinh doanh, biển hiệu đèn led sáng trưng một góc trời. Bên lề xe đậu không đủ chỗ, trong nhà khách khứa tấp nập tận khuya. Nhìn vào họ tôi chỉ thấy sự bận rộn và hào nhoáng. Về những ngôi nhà bề thế nhưng thiếu vắng đi bữa cơm quay quần, về những buổi tối có biết xem phim uống trà là gì, chỉ thiết nghĩ đến chuyện kiếm đủ tiền rồi nghĩ sau này gửi vào ngân hàng đến già thì hưởng phước.

Nhưng người ơi, có bao nhiêu năm cuộc đời!?

Thì đó, sống vui ai mà không muốn. Sống mà không lo nghĩ ai mà không muốn. Nhưng cuộc sống này khắc nghiệt lắm, làm sao sức người có thể đi ngược với tạo hóa mà tự thưởng cho mình niềm vui khi tiền không có trong túi một đồng? Khi xã hội hiện đại này, họ coi vẻ bề ngoài vô cùng quan trọng. Thậm chí, chả cần nghĩ đến lương tâm?

Tôi nói nhiều quá rồi! Chắc cái vấn đề này nó hơi lớn so với thằng nhóc mới bước vào tuổi 16 ‘mộng mơ’ như tôi? Có lẽ vậy, vì tôi cảm thấy không yên bình khi nhắc đến từ khóa “tiền bạc” và “mưu sinh”. Nhưng thật ra tôi vẫn thấy được điều đó từ gia đình tôi, từ tất cả mọi người xung quanh tôi, để rồi ngộ nhận đó chính là mục đích có thể tồn tại trong cái xã hội này. Khi tình người và bữa cơm tối ngày xưa dần biến mất…

Quay về với hẻm nhỏ của tôi. Quay về với hẻm nhỏ của thành phố Cần Thơ. Tôi chợt nhận ra mình nhớ ngày xưa nhiều lắm. Hôm nay giật mình ngẫm lại mấy đứa bạn lớn lên cùng nhau giờ ở đâu hết rồi? Hay chúng tôi chỉ còn sống trong nhau bằng những hoài niệm đã cũ và nhạt màu thời gian?

Tôi không trả lời được. Vì tôi, luôn tự đặt ra những câu hỏi mà chính mình cũng không biết trả lời thế nào.

“Bạn bè dăm đứa hợp rồi tan
Đứa thành phân bón đứa làm quan
Đứa say ngất ngưởng cười nhân thế
Còn ta cầm bút viết hoang tàn.”  – Khuyết danh

Thôi, chốt lại, tôi chỉ muốn ghi chép theo dòng cảm xúc về những nơi còn chứa đầy bình yên giữa thành phố luôn có sự bất an. Tôi chỉ muốn nói về hẻm nhỏ với những kỷ niệm tuyệt vời của tuổi ấu thơ. Và những hẻm nhỏ tồn tại song song với con đường hiện đại, nhưng chưa bao giờ mất đi giá trị lớn lao của nó. Hẻm nhỏ lối xưa xóm cũ vẫn luôn còn đâu đó trong thành phố, nơi sinh sống của những con người lao động nghèo nhưng chân chất nụ cười hiền hòa miền đất khách. Nếu lúc nào đó thấy chênh vênh giữa phố thị nhiều màu hay lạc lõng giữa hàng quán đường to, hãy một lần tìm về nhưng con hẻm nhỏ với duy nhất một màu – xanh bình yên!

Hẻm nhỏ
Lối xưa
Thành phố lớn.

 

Lê Khả Đạt

Lại bàn về phương cách phát triển giáo dục bậc phổ thông ở nước ta

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Nói về nền giáo dục ở nước ta, thì có không biết bao nhiêu chuyện cần bàn, bao nhiêu việc cần làm. Nào là đổi mới phương pháp dạy học,chế độ thi cử, thay sách giáo khoa, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, nâng cao trình độ giáo viên…vv. Là người quan tâm đến nền giáo dục nước nhà, tôi thiết nghĩ 2 giải pháp quan trọng nhất, cần thực hiện trước tiên là:

1. Trả lương thật cao cho giáo viên

Xin lưu ý là thật cao, chứ không phải tăng nhỏ giọt theo kiểu lộ trình 5%, 10% lương cơ bản, hoặc cứ tà tà, xã hội phát triển đến đâu ta tăng đến đó. Cần có một bước đột phá trong cải cách tiền lương thì mới tạo ra sự nhảy vọt về chất.

Vì tôi là người trong cuộc nên hiểu rõ thực trạng lương giáo viên như thế nào. Giáo viên mới đậu công chức thì đừng có mơ vượt qua mức 3 triệu đồng một tháng, giáo viên có thâm niên mười năm trong nghề được khoảng 5 triệu, đến hiệu trưởng, hiệu phó “đầu tầu trách nhiệm” “chức cao vọng trọng” và sắp sửa nghỉ hưu mới dám chạm đến mốc chục triệu một tháng. Trong khi đó, ngay khu tập thể nơi tôi ở, chị bán hàng ăn sáng, anh xe ôm, ông sửa xe cũng có mức thu nhập tương tự như hiệu trưởng.

Chưa dám so sánh đến những đối tượng “cao xa” hơn như chủ tiệm may, chủ tiệm cắt tóc gội đầu, tiểu thương buôn bán ngoài chợ. Thật mỉa mai, nghề được coi là cao quý nhất trong những nghề cao quý, nghề được tôn vinh bằng đủ các mỹ từ đẹp đẽ lại có thu nhập không bằng lao động chân tay. Hãy khoan bàn đến chất lượng lao động vội, điều này tôi sẽ đề cập đến ở phần sau. Lương thấp, theo tôi đưa lại những hậu quả sau:

Thứ nhất: Lương thấp thì chất lượng daỵ học còn thấp

– Vì lương thấp thì chỉ daỵ thế thôi. Đó là câu cửa miệng của nhiều giáo viên khi nói chuyện với nhau. Điều này chẳng sai, ai hơi đâu tốn công, tốn sức, hao tâm tổn lực cho một ít tiền công rẻ mạt, không xứng đáng với sức lao động bỏ ra. Tại sao phụ huynh sẵn sàng trả giá cao cho gia sư daỵ một mình con mình, trong khi đó nhà nước lại trả một giá rất bèo cho giáo viên đứng lớp trước mấy chục học sinh. Thật nghịch lý! Phải chăng, ngay trong suy nghĩ người trả tiền đã quan niệm daỵ ít thì phải đến nơi đến chốn, còn daỵ nhiều thì “sống chết mặc bay”. Bởi vậy mà chất lượng daỵ học chung thấp là đúng rồi, còn kêu ca gì nữa.

Thực tế, để soạn được một giáo án chất lượng khi lên lớp khó hơn nhiều so với một giáo án tự biên tự diễn khi làm gia sư vì nó đòi hỏi người thầy phải tư duy sáng tạo để thiết kế bài giảng thích hợp với nhiều đối tượng học sinh, nhiều trình độ nhận thức khác nhau, phải sử dụng đồng thời nhiều kỹ năng: Nói,viết, trình chiếu máy tính, làm thí nghiệm nếu có, chưa kể lên lớp còn những tình huống sư pháp muốn khóc hơn muốn cười. Ngoài ra về nhà lại phải chấm bài, chữa bài, sổ sách hội họp, gặp gỡ trao đổi với phụ huynh.

– Vì lương thấp thì phải lo “chạy sô”. Những giáo viên dạy các môn chính thì sấp ngửa đi daỵ thêm hết ca này đến ca khác, những giáo viên daỵ môn phụ không có điều kiện daỵ thêm thì phải “tháo vát” tìm việc tay trái như làm thêm nghề may, mở cửa hàng bán tạp hóa, cho thuê nhà (nếu may mắn có tí đất mặt đường…) Đấy là ở thành phố, còn với những giáo viên ở nông thôn thì tranh thủ đồng áng hoặc làm nghề phụ. Cá biệt, có cô bạn tôi còn chăn nuôi gà, vịt, mỗi năm xuất chuồng mấy tấn, mấy tạ thịt, xây nhà, mua xe nhờ chăn nuôi chứ không phải nhờ dạy học (may mà cô ấy vẫn dạy tốt).

Thế thì thử hỏi thời gian đâu mà dành cho chuyên môn, nghề nghiệp nữa. Việc lên lớp đúng giờ, có giáo án đầy đủ là tốt lắm rồi. Nói gì đến tâm huyết nghề nghiệp, trau dồi, nâng cao kiến thức chuyên môn. Tất nhiên cũng có người vừa dạy tốt vừa làm kinh tế giỏi như cô bạn tôi nhưng hiếm lắm. Và tôi thầm nghĩ nếu họ được toàn tâm toàn ý cho giáo dục thì còn tốt đến đâu, học sinh được lợi đến mức nào.

Hậu quả thứ hai: Lương thấp thì không thể thu hút được nhân tài

Ngoài một phần nhỏ làm việc vì đam mê thì phần lớn làm việc vì cơm, áo, gạo, tiền. Tại sao các thí sinh thi Đại học thường né tránh sư phạm, nhất là các bạn có học lực thực sự giỏi. Đơn giản vì giáo viên nghèo có thu nhập khiếm tốn, trong khi làm cho các ngành tài chính, ngân hàng dễ kiếm tiền hơn nhiều. Mặc dù nhà nước có ưu ái đãi ngộ sinh viên sư phạm không phải nộp học phí, nhưng cũng chỉ được vài năm đầu là có vẻ thu hút được những cử nhân chất lượng cao. Song không có sự thay đổi đồng bộ về lương thưởng cho giáo viên nên bây giờ chẳng còn nhiều người mặn mà nữa, trừ một số bạn học giỏi, con nhà nghèo, mới đành phải chọn giải pháp học sư phạm.

Ngay đến trong ngành cũng không thu hút nổi giáo viên dạy giỏi. Vì người dạy giỏi và người dạy bình thường có được hơn gì nhau đâu. Ai tha thiết với nghề, ai muốn phấn đấu thì cứ việc phấn đấu, còn ai không tha thiết, không phấn đấu cũng chẳng sao. Vẫn lĩnh lương đều đều như nhau thôi. Nếu có sự phân biệt rõ ràng bằng lương thưởng thì chắc chắn sẽ không có chuyện mọi người đùn đẩy, hoặc “nhường nhau” đi thi giáo viên dạy giỏi, thậm chí còn dùng từ “ thoát” nếu không phải đi thi.

Hậu quả thứ 3: Lương thấp làm hạ mất giá trị nghề giáo trong xã hội

Bây giờ ra đường, người ta hỏi bạn làm gì, trả lời giáo viên. Thế là biết rồi, người này cũng chỉ thường thôi. Bản thân hai từ giáo viên chả có tội tình gì nhưng sao nghe nó “nhẹ bẫng” so với mấy từ “ngân hàng” “bưu điện” “bảo hiểm” bởi vì đằng sau nó không có sức nặng của “money” đấy mà. Chả thấy ai “ô’’ “a”, mắt tròn mắt dẹp nói: “Làm giáo viên à, thích thế, sướng thế.” Mà người ta thường hay chép miệng: “Giáo viên à, thôi cũng được.” Đau lòng chưa?

Nếu có ai thích lấy chồng hoặc lấy vợ làm giáo viên thì chỉ vì một trong hai lý do: Nhiều thời gian, sau này có điều kiện dạy con học. Chấm hết. Chả thấy ai nghĩ lấy được giáo viên là để mát mặt với thiên hạ, để có gì đấy mà tự hào, hỉ hả.

Hậu quả thứ tư: Lương thấp dễ dẫn đến những tiêu cực trong giáo dục

Vấn nạn dạy thêm học thêm, xin điểm, chạy điểm, thu nhiều loại phí trái quy định… cũng từ đấy mà ra. Nếu lương cao, giáo viên sẽ dễ dàng nói không với các loại phong bì từ phía phụ huynh học sinh. Không có chuyện, cứ đến ngày lễ tết là phụ huynh lại lo ngay ngáy cái khoản “đi thầy, đi cô”. Như thế là bớt đi một gánh nặng cho phụ huynh đồng thời làm trong sạch môi trường giáo dục.

Ngoài ra, còn nhiều những hậu quả khác nữa từ sự bất cập của chế độ tiền lương dành cho giáo viên đưa lại. Nhưng thiết nghĩ bao nhiêu đó cũng đủ là lý do để cải cách rồi. Nhìn ra các nước xung quanh, chẳng đâu xa lạ, ngay ở Trung Quốc, lương của giáo viên trung bình một năm là hơn 17.000 USD gấp 3, 5 lần thu nhập bình quân đầu người là 5.000 USD. So sánh một chút như vậy để thấy chính sách ưu tiên cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu ở nước ta mới chỉ mang tính khẩu hiệu mà chưa thực sự đi vào thực tế hoặc có đi vào thực tế nhưng chưa đủ mạnh, chưa đủ sức thuyết phục.

Nếu có ai cho rằng trả lương giáo viên cao quá so với mặt bằng công chức sẽ gây bất bình, xáo trộn trong xã hội. Xin thưa vì dạy học là một lao động đặc biệt (vừa chất xám, vừa chân tay), để tạo ra những sản phẩm đặc biệt (đó là con người), làm nên những giá trị đặc biệt cho xã hội (bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần). Ai ghen tỵ, thèm muốn thì cứ học cho giỏi mà thi vào sư phạm, mà làm giáo viên.

Nhân đây tôi lại liên tưởng đến nghề ca sĩ, sao chả thấy ai ghen tị với catsê “khủng” của họ, phải chăng lao động nghệ thuật là lao động đặc thù mang lại giá trị tinh thần to lớn cho cả xã hội, vậy nghề giáo thì sao, có kém cạnh gì đâu. Thế mà tôi chỉ thấy người ta đua nhau đi làm ca sĩ, hết cuộc thi này đến cuộc thi khác được mở ra để tìm kiếm nhân tài ca hát, chứ chả thấy ai đua nhau đi làm giáo viên, chả có cuộc thi nào mang tầm cỡ quốc gia để tìm kiếm nhân tài sư phạm. Giá mà đổi chỗ được cho nhau nhỉ?

Nhưng sẽ vô cùng sai lầm nếu như chỉ dừng lại ở đề xuất cải cách tiền lương không thôi. Đi đôi với hưởng thụ thì phải làm việc, hưởng thụ càng cao thì đương nhiên phải làm việc càng nhiều. Đó mới là lẽ công bình.

2. Yêu cầu thật gắt gao

Vì sao những người đi làm cho các công ty liên doanh với nước ngoài được trả lương cao thế. Vì họ phải làm việc cật lực, phải chịu một sức ép lớn từ công việc. Giáo viên cũng cần phải như vậy. Nếu ai không chịu được thì tự nguyện rút lui hoặc sẽ bị đào thải theo quy luật. Không nên duy trì mãi chế độ biên chế vĩnh viễn cho giáo viên, thay vào đó là các hợp đồng lao động kèm theo đóng bảo hiểm xã hội. Có như vậy giáo viên mới không dậm chân taị chỗ, “ung dung, tự tại” trong mớ kiến thức cũ kỹ, lạc hậu, hời hợt của mình.

Thế nào là yêu cầu cao? Thực ra không có gì mới cả, chỉ cần người giáo viên thực hiện đầy đủ 8 tiêu chuẩn dài dằng dặc của BGD&ĐT đề ra là tốt lắm rồi. Từ trước đến nay người ta vẫn dựa vào đấy để đánh giá xếp loại giáo viên đấy thôi. Nhưng sao trình độ giáo viên vẫn thấp kém, nền giáo dục vẫn ì ạch không phát triển được? Đấy là vì sự đánh giá chỉ mang tính hình thức, không đi vào thực chất, không thực sự cầu thị để giúp nhau cùng tiến bộ. Nó nhằm mục đích đối phó với yêu cầu của cấp trên nhiều hơn là nhu cầu thấy cần thiết phải làm như thế.

Gạt qua một bên các tiêu chí về quy chuẩn giáo viên mà nhiều khi chẳng đi đến đâu, ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến 2 yếu tố quan trọng nhất trong nghề giáo là: Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.

Trình độ chuyên môn bao gồm kiến thức, phương pháp dạy học, kỹ năng sử dụng ICT và các dụng cụ thí nghiệm trực quan.

– Về kiến thức: Phải phong phú sâu rộng, liên tục cập nhật cái mới. Chấm dứt tình trạng dạy bài nào biết bài ấy, sách giáo khoa có bao nhiêu chữ thì dạy lại bấy nhiêu chữ. Ví dụ với tác phẩm dài hơi như Truyện Kiều hay Lục Vân Tiên trong văn học, tôi tin chắc nếu khảo sát thực tế thì nhiều giáo viên chưa một lần đọc hết toàn bộ tác phẩm, nói gì đến việc am hiểu sâu sắc về tác phẩm. Do đó, khi dạy đoạn trích nào thì chỉ “loanh quanh” ở đoạn trích ấy thôi, không dám mở rộng, so sánh, liên hệ thêm. Thế mới có chuyện, thư viện trường có cũng như không, sách hay để bụi bẩn bám đầy không ai biết. Thời đại bùng nổ thông tin, muốn tìm hiểu gì, cứ vào Google là có hết, mà cũng chả mấy người thiết tha đến nó.

– Về phương pháp dạy học: Cần phải đa dạng, linh hoạt, sáng tạo phù hợp với đặc trưng bộ môn, với đối tượng học sinh. Theo tôi, đây là yếu tố quyết định nhất trong quá trình dạy học, nó phân biệt sự khác nhau giữa người này với người kia, giữa một giáo viên giỏi và một giáo viên chưa giỏi. Kiến thức chỉ có bấy nhiêu thôi nhưng cách truyền đạt nó cho học sinh hiểu và thích thì vô cùng, mỗi người một phương pháp. Chấm dứt vĩnh viễn tình trạng đọc chép, nhìn chép, ngồi yên… mà chép.

– Về trình độ công nghệ thông tin: Bắt buộc phải sử dụng thành thạo những phần mềm dành riêng cho dạy học và cho từng môn học. Tránh tình trạng giáo viên không tự thiết kế nổi một bài giảng điện tử như phần đông hiện nay. Nghèo về kiến thức, yếu về công nghệ nên đa số giáo viên biến mình thành cái máy photocopy những bài giảng, giáo án có sẵn trên mạng.

– Về kỹ năng sử dụng giáo cụ trực quan: Điều này không quá khó chủ yếu là khắc phục tâm lý ngại và lười đã ăn sâu vào suy nghĩ của giáo viên mỗi khi dạy bài có phần thực hành.

Nói đến đạo đức nghề nghiệp là nói đến cái tâm của người làm nghề. Với bất cứ nghề nào cũng cần có lương tâm và trách nhiệm, song làm nghề giáo thì càng cần hơn bao giờ hết.

– Trước tiên cần đề cao lòng tự trọng nghề: Nếu mỗi giáo viên luôn ý thức rằng mình là thầy là cô, là tấm gương sáng cho lớp lớp các thế hệ học sinh noi theo; nghề của mình cao quý, được xã hội tin tưởng, trọng vọng thì họ sẽ có những hành xử chuẩn mực, mô phạm, không tùy tiện quát mắng, sỉ vả học sinh, không buôn chữ bán điểm, không tiếp tay cho gian lận, không ăn rắp chất xám của người khác…vv.

– Yêu thương tôn trọng học sinh: Điều này được thể hiện ngay trong mỗi bài giảng, mỗi hành động, lời nói của thầy cô. Luôn đặt mình ở vị trí của học sinh, lắng nghe những băn khoăn, thắc mắc của học sinh, dành thời gian nghiên cứu, giải đáp, không trả lời qua loa, đại khái, không lấp liếm cái mình chưa biết.

Ngoài ra còn rất rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp khác cần có ở người thầy để nhân lên niềm tin yêu của học trò, của xã hội với nghề giáo. Trong khuôn khổ bài viết có hạn, tôi chỉ nhấn mạnh vào hai phẩm chất trên.

Cuối cùng là khâu kiểm tra, đánh giá cần trung thực, khách quan, cầu thị. Theo cách làm việc hiện nay, cả năm có hai học kỳ, mỗi học kỳ chỉ dự giờ thực tế được một tiết duy nhất với mỗi giáo viên mà tiết đó đã được lên lịch báo trước cả tuần cả tháng rồi thế thì còn đâu là thực chất nữa. Đến khi nhận xét, đánh giá tiết dạy, lại nể nang, ngại nói thẳng nói thật, sợ mất lòng. Kết quả ai cũng tốt cũng giỏi cả, chỉ có học sinh thì ngày càng… dốt đi.

Gần đây cả thế giới đang ca ngợi mô hình giáo dục của Phần Lan. Giáo viên nước họ không bao giờ bị thanh tra, giám sát gì cả, hoàn toàn tự chủ trong giờ lên lớp, đến cả hiệu trưởng cũng hiếm khi góp ý về cách dạy. Nhưng cá nhân tôi nghĩ, ở Việt Nam một trăm năm nữa chưa chắc đã thực hiện được điều đó vì ý thức tự giác của người Việt nhìn chung còn kém, ý thức tự trọng nghề của một bộ phận giáo viên còn thấp.

Thiết nghĩ nếu chưa làm được hai việc là trả lương thật cao cho giáo viên và yêu cầu thật gắt gao về năng lực, đạo đức nghề nghiệp thì mọi đổi mới đều thất bại, chỉ là phần ngọn, chứ chưa phải là gốc.

 

Phương Liên

Douglas Bandow – Quyền tự do bất khả phân: Tự do cá nhân, tự do chính trị, tự do kinh tế

Featured Image: Ken Teegardin

 

Hầu như ai cũng ủng hộ tự do. Ít nhất là họ nói rằng họ ủng hộ tự do. Các chính trị gia hùng hồn khi nói về những quyền tự do của nước Mỹ nói chung. Không khó tìm những người ủng hộ quyền tự do ngôn luận và tự do dân sự. Các chiến sĩ nhanh chóng đứng lên chống lại những mối đe dọa đối với quyền riêng tư. Và hầu hết mọi người đều cảm nhận được bằng trực giác rằng những quyết định riêng tư của cá nhân và gia đình là những quyết định không liên quan gì tới chính phủ hết.

Nhưng khi nói về quyền tự do kinh tế thì nhiều người lại thay đổi ngay giọng điệu. Cứ như thể tự do kinh tế không đáng quan tâm vậy. Thực vậy, khía cạnh này của tự do dường như bị loại ra, dễ bị nhà nước kiểm soát và điều tiết. Một số người nồng nhiệt tuyên bố trung thành với tự do lại ngậm miệng khi thấy quyền sở hữu, quyền kinh doanh và tự do kí kết hợp đồng bị tấn công.

Sống cuộc đời bạn bằng hầu bao của bạn

Hiện nay Quốc hội và các cơ quan lập pháp của nhà nước (Mỹ – ND) đang tìm mọi cách để điều kiển cuộc sống của chúng ta. Một số mệnh lệnh dân chủ đó nhắm vào cả công việc riêng tư lẫn hoạt động kinh tế của chúng ta. Thí dụ chương trình “cải cách” y tế trao quyền cho chính phủ để họ có thể tăng cường kiểm soát những quyết định về mặt bảo vệ sức khỏe của chúng ta cũng như chúng ta phải chi tiền cho việc này như thế nào.

Như vậy, công việc chính mà những nhà làm luật này làm là lèo lái nền kinh tế. Họ đưa ra những lý do cao thượng: tạo ra công ăn việc làm, đảm bảo công bằng, xóa đói giảm nghèo. Mấu chốt là gần như tất cả những gì họ làm đều đòi hỏi chính phủ phải vi phạm quyền tự do kinh tế.

Các nhà làm luật ít khi công nhận rằng họ đang hạn chế quyền tự do của bất kỳ ai. Họ thường tuyên bố rằng phải bảo vệ người tiêu dùng. Trên thực tế, giới tinh hoa chính trị đã tạo ra hai loại quyền tự do: Những quyền tự do quan trọng và tự do kinh tế. Nếu vấn đề là quyền tự do chỉ trích chính phủ, quan hệ tình dục, lựa chọn bạn đời hoặc bảo vệ cuộc sống cá nhân riêng tư thì ít nhất hầu hết các chính trị gia cũng đều nói rằng đây là những quyền tự do quan trọng, cần phải bảo vệ. Trong khi đó một số người ủng hộ một cách quyết liệt sự can thiệp vào kinh tế lại khẳng định rằng những quyền tự do cá nhân vừa nói là những quyền tự do căn bản, phải được tôn trọng.

Ngược lại, nếu bạn quyết định thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề, nơi làm việc, thu nhập bao nhiêu, thời gian làm việc, nơi đăng quảng cáo, sản xuất cái gì, thuê ai, và chi tiêu như thế nào – thì những người có quyền lại coi những quyền này là không quan trọng. Chính phủ không chỉ được phép điều tiết các hoạt động kinh doanh mà còn cần phải điều tiết nữa, họ nói như thế.

Mục tiêu cao cả hơn

Đối với đa số người, quyền phản kháng dường như là cao cả hơn quyền kinh doanh hay kiếm sống. Hoạt động kinh tế dường như là công việc trần tục. Lựa chọn bạn đời hay là làm tình có tính cá nhân hơn là mua một sản phẩm hay thuê người làm công. Và khả năng bảo vệ sự riêng tư đời sống cá nhân dường như trở thành cốt lõi của con người. Mua và bán trên thương trường bị nhiều người coi là việc bình thường.

Nhưng tự do kinh tế quan trọng hơn là người ta có thể tưởng. Chúng ta có thể phấn khích khi thấy người ta sử dụng quyền tự do cá nhân và tự do chính trị cho những mục đích “cao cả hơn”. Nhưng có thể không có gì quan trọng hơn là quyền tự do cải thiện cuộc sống của chúng ta, quyền chăm tự sóc mình và gia đình mình theo cách mà chúng ta cho là thích hợp.

Trong thế kỷ XX chúng ta đã có câu trả lời dứt khoát cho câu hỏi liệu tự do kinh tế có tạo ra thịnh vượng hay không. Nếu bạn muốn có một tương lai tốt đẹp hơn thì bạn cần phải có tự do kinh tế.

Nhưng tự do kinh tế còn mang đến cho ta nhiều hơn là mấy đồng tiền và mấy đồng xu. Phần lớn mọi người đều coi lao động là sản phẩm tự nhiên của chính họ. Thị trường tưởng thưởng cho tính trung thực, tinh thần lao động cần cù, sáng kiến, lòng nhiệt tình và những đức tính tốt khác nữa. Tự do kinh tế cũng là một cơ hội để thúc đẩy lòng tin của chúng ta, giúp chúng ta thành công, giúp chúng theo đuổi hạnh phúc và phát triển như một con người. Bạn có dùng những thành quả g lao động của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân, hỗ trợ những sự nghiệp tốt đẹp, hoặc tạo ra những khoản đầu tư vững chắc không?

Nói cho ngay, khi bạn ra trường thì quyền tự do quan trọng nhất có thể chính là quyền tự do làm việc để có thu nhập và tiết kiệm. Những quyền tự do khác – ví dụ như bầu cử hay phản đối – dĩ nhiên là quan trọng rồi. Nhưng quyền tự do cấp bách nhất bao gồm tự do chọn nghề hay ít nhất là tìm việc làm. Bạn sẽ kiếm sống bằng cách nào? Bạn dùng phần lớn cuộc đời mình cho cái gì? Bạn dùng phần lớn thời gian thức của mình ở đâu? Trong lĩnh vực kinh tế.

Tự do kinh tế còn có những hiệu ứng phụ quan trọng nữa. Quyền tự do trong lĩnh vực này sẽ khuyến khích quyền tự do trong những lĩnh vực khác. Ví dụ, đồng tiền mà bạn không kiếm được hay không giữ được thì bạn cũng không thể chi được cho sự nghiệp chính trị hay xã hội cao thượng.

Quyền tự do báo chí không chỉ là quyền nói mà còn là quyền mua phương tiện để nói nữa. Ở một số nước, chính phủ kiểm soát việc cung cấp giấy in và việc tiếp cận với sóng phát thanh. Tại những nước đó, tự do báo chí bị đe dọa. Cần gì phải kiểm duyệt khi mà người ta có thể dùng phương tiện kinh tế để bịt miệng những người chỉ trích? Nhưng sự phổ biến của máy tính, máy fax, điện thoại cầm tay và Internet làm cho những chính phủ độc tài, thí dụ như Trung Quốc, khó kiểm soát được số dân đang tăng lên của họ.

Hơn thế nữa, sự thịnh vượng kinh tế tăng lên sẽ khuyến khích người dân sử dụng quyền tự do chính trị. Nếu con bạn bị đói thì bạn sẽ phải lo cho chúng ăn. Nếu con bạn được ăn no và khỏe mạnh thì bạn sẽ có điều kiện lo lắng đến những việc khác – thí dụ như ủng hộ một sự nghiệp, một ứng cử viên hay chiến dịch tranh cử. Ở những nước có những người giàu hơn – tương tự như Mexico, Nam Hàn và Đài Loan – số người thuộc thành phần trung lưu đang gia tăng sẽ buộc giới tinh hoa chính trị phải lùi bước. Điều đó cuối cùng có thể cũng sẽ xảy ra ở Trung Quốc.

Tự do kinh tế có ý nghĩa lớn hơn là lời và lỗ. Tự do kinh tế phù hợp với xã hội tự do rộng lớn hơn, trong đó người ta có thể tự do tiếp cận với các nguồn lực dùng cho một loạt những mục tiêu khả dĩ khác nhau. Trong các nước đã phát triển, nhiều người từ bỏ công việc kinh doanh để có thời gian phục vụ cộng đồng hay suy tư, chiêm nghiệm. Bạn có thể làm việc cho tổ chức phi lợi nhuận, vào chủng viện, thành nghiên cứu sinh suốt đời hay đi tu. Và bất cứ người nào cũng có thể rút lui khỏi phần lớn các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Nếu bạn không thích sản phẩm hay dịch vụ mà doanh nghiệp đang bán, bạn có thể đơn giản là bỏ đi. Hay bạn có thể tìm ra một nhà cung cấp khác, thí dụ như hợp tác xã thương nghiệp địa phương. Xã hội càng giàu có thì những kiểu lựa chọn như thế sẽ càng nhiều hơn.

Bất khả phân

Cuối cùng, thành công về kinh tế tạo điều kiện cho người ta sử dụng một cách đầy đủ hơn lợi thế của những quyền tự do khác. Kiếm được một ít tiền rồi chu du khắp thế giới, đi làm nghiên cứu sinh, xuất bản một tờ báo, ủng hộ quỹ từ thiện, ủng hộ một chiến dịch hay một chính khách mà bạn chọn. Tạo ra mạng dịch vụ trực tuyến – như Twitter hay Facebook— và trao quyền lực chính trị vào tay những người đối lập và người phản kháng trên khắp thế giới. Hay dựa vào một tài khoản trong ngân hàng để chuyển nghề, dù đấy có là ngắm cái rốn của bạn hay giúp đỡ nhân loại thì cũng thế. Những người có ít quyền tự do kinh tế cũng sẽ có ít những lựa chọn tương tự như thế.

Điểm chính là gì? Quyền tự do là bất khả phân. Quyền tự do kinh tế cũng quan trọng như quyền tự do cá nhân và quyền tự do chính trị vì quyền tự do cá nhân, quyền tự do chính trị và quyền tự do kinh tế là những sợi làm nên cùng một cái dây: quyền tự do. Như vậy là, bảo vệ quyền tự do dưới mọi hình thức là con đường duy nhất đưa ta tới và giúp ta bảo vệ được xã hội tự do.

[themify_box style=”yellow rounded” ]Douglas Bandow là cộng tác viên cao cấp của Viện Cato, ông là tác giả của một loạt tác phẩm viết về kinh tế và chính trị.[/themify_box]

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Indivisible Liberty: Personal, Political, and Economic