23 C
Da Lat
Thứ Tư, 23 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 187

Có phải mức độ hạnh phúc tỉ lệ nghịch với tuổi tác?

Featured image: Weheartit

 

Lúc nhỏ mỗi khi theo cha ra ruộng lại hay ngước lên ngắm mây ngắm gió rồi tượng tượng ra đủ thứ hình dạng trên đời: có khi là núi, có khi là con này con nọ, thậm chí còn tưởng tượng hình ảnh bác Hồ đang bồng 1 đứa bé. Giờ thì, nhìn lên bầu trời chỉ để tìm lại chút bình yên… Vài hôm trước, cùng chị và đứa cháu 3 tuổi ra đồng, cũng ngồi ngắm mây ngắm gió. Nói với chị:

“Sao giờ nhìn mây em chẳng tưởng tượng ra được cái gì.”
Liền ngay sau đó, đứa cháu ngồi kế bên nói, “Cá mập kìa!”
“Đâu?” Chị mình chỉ, “Đó, cái mỏ nó đang há ra đó, rồi cái thân nữa.”
Cố gắng nhìn kỹ, à, thấy rồi…

Hình như càng lớn lên, trí tưởng tượng con người lại càng giảm xuống. Người ta có quá nhiều vấn đề để bận tâm và suy nghĩ, thậm chí còn không có thời gian để nhìn lên bầu trời, để nghỉ ngơi, thư giãn, đừng nói chi là giành ra cả giờ đồng hồ để mà tưởng tượng “vớ vẩn, linh tinh”. Thỉnh thoảng nhìn đứa cháu chơi với mấy đứa bạn lại ước gì có lại được cái đầu ngây thơ như nó. Cười đó, khóc đó, không hối tiếc quá khứ, không lo lắng tương lai, chỉ có hiện tại… Gần đây, nói chuyện với ai hồi lâu lại muốn hỏi 1 câu: “Có phải mức độ hạnh phúc của một người tỉ lệ nghịch với tuổi tác hay không?”

Và nếu họ trả lời là “Không” thì câu hỏi tiếp theo sẽ là “Làm cách nào?”

Câu hỏi đó cứ mãi xuất hiện trong tôi, mỗi khi tôi hối tiếc điều gì trong quá khứ, khi tôi nói “Giá như….” khi tôi nghe người lớn cứ than với nhau rằng: “Ngày xưa, lúc còn bé vui biết bao nhiêu, giờ thì…” khi tôi nghe người ta bảo rằng khi càng lớn tuổi, người ta lại càng muốn mình giống trẻ con hơn, chỉ toàn nhớ về những người đã khuất, nhưng người thân yêu khi họ còn trẻ, hay mỗi khi tôi bắt gặp những cụ già đến cuối đời mà vẫn phải vất vả kiếm sống, phải đau đớn vì bệnh tật. Để rồi mỗi khi ấy, tôi lại suy nghĩ rằng: “Con người sinh ra làm chi để phải chịu đau khổ thế này?”

Tôi cứ suy nghĩ, cứ tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Làm sao để khi tuổi tác lớn dần, người ta vẫn có thể sống hạnh phúc như khi còn trẻ nhỏ?”

Sống với hiện tại

Như tôi đã nói ở trên, khi càng lớn lên, quá khứ một người lại càng có nhiều ký ức, vui có, buồn có. Người ta nuối tiếc ký ức vui và hối tiếc những ký ức buồn. Người ta cứ luôn so sánh quá khứ và hiện tại, để rồi vào ngày mai, khi hôm nay đã là quá khứ, họ lại tiếp tục với lối mòn suy nghĩ đó. Và khi càng lớn, người ta lại càng có nhiều vấn đề để lo lắng hơn, sự nghiệp, gia đình, bệnh tật, và muôn vàn lo sợ vô hình khác….

Còn đối với trẻ nhỏ, nó chỉ đắm mình trong giờ phút hiện tại, vui thì cười, buồn thì khóc. Nó không thích ngủ trưa, vì nó không biết rằng nếu không ngủ thì nó sẽ bị mệt (đó là chuyện tương lai, và nó chẳng quan tâm), nó còn chơi đùa khi nào còn có thể, đến khi mệt nó chỉ lăn ra ngủ mà thôi. Nó cũng không có tâm trí để nhớ về chuyện đã xảy ra, bới có quá nhiều điều mới lạ, hấp dẫn đang cuốn nó về phía trước.

Bạn có thể sẽ nói rằng, ok, tôi có thể cố gắng quên đi quá khứ, nhưng làm sao tôi không lo lắng cho tương lai được chứ?

Tôi hoàn toàn đồng ý là nó không dễ làm tí nào, nhưng không có nghĩa là nó không làm được. Vẫn có khối người đang áp dụng cách này và đang hạnh phúc đấy thôi. Hãy thử một lần cố gắng hết sức thử xem bạn nhé. Sống hết mình cho hiện tại, chuyện tương lai, tự nó sẽ lo lấy…

 

Ly Libra

Thị trường và đạo đức (kỳ 8)

 

William L. Anderson

Những phẩm chất đáng quý của nền kinh tế tự do

Tôi tin là cuộc họp của Hội Mont Pelerin năm nay, 1982, tổ chức ở Tây Berlin là phù hợp vì đây là nơi mà thực tế và sự khôi hài của nền kinh tế tự do và chủ nghĩa tập thể đứng cạnh nhau như bóng tối và ánh sáng, y hệt như bức tường đán áp ô nhục bao quanh thành phố tự do này giữa lòng đại dương của chủ nghĩa toàn trị. Nếu chúng ta cần chỉ ra tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với với chủ nghĩa xã hội thì đây chính là vị trí khởi đầu thuận lợi hơn bất kì chỗ nào khác.

Nếu tôi là luật sư biện hộ cho tự do kinh tế thì tôi sẽ cố gắng sử dụng Berlin như một thí dụ. Nói cho cùng, ai chả thấy là người Tây Berlin phát đạt về mặt kinh tế, đặc biệt là so với người Đông Berlin, những người bị ngăn chặn, không được tiếp xúc với phần phía Tây thành phố bằng hàng rào bằng bê tông, hàng rào kẽm gai, mìn và súng máy trong suốt hơn hai mươi năm qua.

Ở phần Tây Berlin tự do, người dân có thể tự do đi khắp thành phố; trong khi ở vùng Đông Berlin cộng sản, cảnh sát có thể tự do quấy rối và đe dọa các công dân của mình. Thu nhập của người Tây Berlin cao hơn là thu nhập của người đồng bào của họ ở miền Đông, lương của người đông Berlin, cao nhất trong khối cộng sản, nhưng vẫn thấp hơn mức nghèo đói ở miền Tây. Không nghi ngờ gì rằng người Tây Berlin tự do hơn, giàu có hơn và hạnh phúc hơn đồng bào của họ ở miền Đông.

Trí thức ở phương Tây thường xuyên bôi nhọ chủ nghĩa tư bản

Nhưng trí óc con người ta lại thường lúng túng và lầm lẫn trước vấn đề tự do kinh tế. Trong suốt hai thế kỷ qua phương Tây đã là nơi thể hiện tính ưu việt của tự do kinh tế, nhưng như nhà thần học Michael Novak đã chỉ ra: “Trong lịch sử trí tuệ phương Tây, thóa mạ chủ nghĩa tư bản là một trong số ít đề tài được nhiều người thảo luận nhất.”[1] George Gilder, trong tác phẩm khá uyên bác: Wealth and Poverty (Giàu và nghèo), đã buồn bã nhận xét rằng nhiều người có tư tưởng ủng hộ tự do kinh doanh không phải là vì họ đồng ý với những đặc điểm của nó (họ cho rằng đấy là sự suy đồi về mặt đạo đức), mà đơn giản là vì lý do công lợi: nó tạo ra nhiều của cải hơn là chủ nghĩa tập thể có thể làm[2].

Nhưng, nếu chủ nghĩa tư bản tiếp tục là cái phần đầy sức sống của trật tự thế giới thì ngoài khả năng sản xuất vô cùng to lớn, nó còn phải được coi là có đức hạnh nữa. Những ai muốn coi tự do kinh tế là mục tiêu của sự tiến bộ của nhân loại, mục tiêu của công lý, của việc diệt trừ nạn đói trên thế giới, của bản thân nền tự do, thì họ phải coi chủ nghĩa tư bản không chỉ là nơi thể hiện lòng tham của con người mà chủ yếu là nơi thể hiện những hành vi mang tính đạo đức. Chủ nghĩa tư bản là cách sống không chỉ có thể giúp thúc đẩy sự thịnh vượng về mặt vật chất mà còn thúc đẩy sự thịnh vượng về mặt tinh thần nữa.

Tuy nhiên, hiện nay người ta – ngay cả nhiều người Tây Berlin – trong khi tìm kiếm những giá trị mà họ cho là xứng đáng lại đang từ bỏ con đường dẫn tới tự do kinh tế và thay vào đó, ủng hộ những biểu hiện của chủ nghĩa tập thể. Nhưng đấy là con đường, như Walter Lippmann từng viết: “Sẽ dẫn tới vực thẳm của chế độ chuyên chế, đói nghèo và chiến tranh triền miên.”[3] Mục đích của tiểu luận này là khảo sát sự ruồng bỏ chủ nghĩa tư bản ở phương Tây và chứng minh rằng nền kinh tế tự do – phương án thay thế cho chủ nghĩa tập thể – là lựa chọn đầy đức hạnh và xứng đáng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc.

Nghịch lý của tự do

Nền kinh tế tự do là một đối tượng đầy mâu thuẫn. Người ta chống lại nó trong những cuộc thăm dò dư luận và ủng hộ nó khi cầm một nắm tiền trong tay. Các chính phủ theo đường lối tập thể để nó đứng đầu danh sách những kẻ thù không đội trời chung nhưng lại quay sang nhờ nó cứu chữa những căn bệnh trong nền kinh tế của mình[4]. Giới tăng lữ bảo rằng tinh thần của chủ nghĩa tư bản là vô luân, nhưng chính nền tảng của thị trường tự do lại phụ thuộc vào cái mà Novak gọi là “việc áp dụng một số tiêu chí đạo đức”[5]. Thị trường tự do dường như đã trở thành một một con điếm xã hội: những người có mức thu nhập khác nhau, trình độ học vấn và văn hóa khác nhau cùng công khai lên án nó vì những tội lỗi mà họ quy kết cho nó đồng thời lại tìm kiếm nó khi có nhu cầu về mặt kinh tế.

Có thể đấy không phải là điều đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng thì nền tảng pháp lý và tri thức của chủ nghĩa tư bản: cá nhân là người tự do, có khả năng (và trách nhiệm) thực hiện những lựa chọn mang tính đạo đức và có một số quyền mà chính phủ không thể tước đoạt: quyền phản đối những giáo lý đã ăn sâu bén rễ vào tư duy mang tính tín tôn giáo truyền thống, tức là những giáo lý đã từng thống lĩnh tâm trí của con người kể từ ngày xuất hiện nền văn minh. Cốt lõi của tư duy truyền thống này – dù nó có được hay không được Plato, Khổng Tử, Rousseau, Castro hay Mao đưa ra thì cũng thế – là khẳng định rằng bản sắc của một người không phải bắt đầu từ chính anh ta mà bắt đầu từ cộng đồng, phường hội, bộ lạc, giai cấp xã hội, được xác định từ trước của anh ta, hay nói theo ngôn ngữ hiện đại là từ nhà nước của anh ta[6].

Trong khi đúng là Thiên chúa giáo (và đặc biệt là đạo Tin lành) đã làm suy yếu tư duy truyền thống – và đã tạo cảm hứng cho sự vùng lên của chủ nghĩa tư bản – thì trong thời Trung Cổ, hệ tư tưởng mang tính tôn giáo của cộng đồng nhấn mạnh “tính chất quý phái”, trật tự xã hội và những quyền và đặc quyền đặc lợi dành cho người thuộc các đẳng cấp khác nhau đã được chính thức hóa cùng với Thiên chúa giáo. Cuộc cải cách của đạo Tin lành cũng như những học thuyết mà nó tạo ra cũng không thay đổi được ngay lập tức quan niệm về “quý” và “tiện” đã tồn tại trong xã hội từ bao đời nay[7].

Quý là giới tăng lữ, giáo sư đại học, hoàng thân quốc thích, chính khách và sĩ quan cao cấp; còn tiện là nông nô, thương nhân (những người bị khinh khi nhất) và những thị dân không thuộc tầng lớp quý tộc. Người ta có thể tưởng tượng được rằng trật tự “đạo đức” như thế rất được những tầng lớp trên ưa chuộng, vì ngoài việc là những người thừa kế tự nhiên địa vị lãnh đạo đối với quần chúng, họ còn có quyền tự do áp đặt những giá trị “cao quý” của họ cho các thần dân và điều đó có nghĩa là áp đặt những đạo luật hạn chế chi tiêu và hàng ngàn điều luật chi phối hoạt động kinh doanh khác[8].

Nhà sử học Arthur M. Schlesinger Jr. chắc chắn là đã đồng cảm với trật tự tiền tư bản khi ông viết về nước Anh thời theo thuyết trọng thương[i] như sau: “Nắm quyền lực là để áp đặt trách nhiệm, bằng ý thức về nghĩa vụ đối với nhau mà tất cả các giai cấp đều được đưa vào một cộng đồng hài hòa.”[9] Tuy nhiên, như đã thấy, hàng loạt cuộc nổi dậy của nông dân thường xuyên đe dọa nền tảng của chế độ phong kiến, rõ ràng là quần chúng không chấp nhận quan điểm đầy hào hứng của Schlesinger về tình trạng khốn khó của họ. Họ cảm thấy bất mãn, số phận của họ thật là đáng thương. Các tầng lớp dưới lúc đó cũng nghèo xơ xác chẳng khác gì những người nhà quê nghèo khổ nhất trong các nước thuộc Thế Giới Thứ Ba cùng quẫn hiện nay.

Rất nhiều điều luật nhằm kiềm chế giá cả, ngăn chặn nguồn cung và quá trình sản xuất – mà trước hết là cản trở cạnh tranh – đã trở thành rào cản hữu hiệu trong việc ngăn chặn sự phát triển về mặt kinh tế. Chỉ có giới quý tộc mới có thể là những người giàu có; nói cho cùng thì tầng lớp thượng lưu tin rằng tài sản là cố định, chỉ có thể đem ra chia chứ không thể gia tăng được. Người ở tầng lớp hạ lưu không thể nào tưởng tượng được là anh ta có thể có của cải. Cho nên trong thế giới cũ, “thế giới trần tục”, như Lippman viết, muốn giàu có thì “phải cướp bóc”[10]. Hàng xóm cướp của hàng xóm, thành phố này cướp của thành phố kia, còn các dân tộc thì thường xuyên cướp bóc lẫn nhau.

Chẳng có gì lạ là các giai cấp thượng lưu quý tộc trong giai đoạn hậu-trọng-thương ở châu Âu không những không đánh giá được mà còn không hiểu được cuộc cách mạng xã hội và cách mạng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nói cho cùng thì khi đọc tác phẩm Tài sản của các quốc gia (The Wealth of Nations) người ta hiểu rằng Adam Smith phát triển quan niệm của Quyền tự do Tự nhiên là để làm lợi cho người nghèo chứ không phải làm lợi cho người giầu.

Giới quý tộc, như Lippmann viết, không hiểu được sự kiện là “Nguyên tắc vàng là nguyên tắc có cơ sở vững chắc về mặt kinh tế”[11]. Họ không tưởng tượng được lợi ích mà thương nhân tạo ra khi họ được tự do phục vụ những người khác, họ cũng không chấp nhận việc thương nhân không chỉ làm giàu mà còn có cả địa vị xã hội nữa. Trên thực tế, Cách mạng Công nghiệp là cuộc cách mạng của người bình dân, còn những người có thời từng có tiếng nói quyết định ở chốn công cộng thì nay, trong chủ nghĩa tư bản dân chủ, lại bị tụt lại phía sau.

Và mặc cho sự gia tăng khủng khiếp về mặt tài sản và sức mạnh mà chủ nghĩa tư bản đã đem lại cho thế giới phương Tây, mặc cho những bước tiến vĩ đại trong việc xóa bỏ cảnh nghèo đói từng là hiện tượng phổ biến trong các nước đã công nghiệp hóa, thị trường tự do vẫn bị nhiều người bên ngoài lĩnh vực kinh doanh nguyền rủa – họ là giai cấp mới, đấy là nói theo lời của Kristol, là những người đang tìm cách quyết định “chương trình nghị sự xã hội”. Đấy là những người có thái độ thù địch đối với việc kinh doanh, nhưng theo tôi, lý do của lòng thù hận lại ít liên quan tới những bất bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội hiện đang tồn tại trong xã hội chúng ta.

Nói cho cùng, những xã hội truyền thống mà nhiều người phê phán chủ nghĩa tư bản có cảm tình lại thường là những xã hội nghèo xác xơ, còn bất bình đẳng là chuyện bình thường. Như Kristol đã nói, họ ghét thị trường tự do là vì chế độ tư bản tự do, cá nhân chủ nghĩa, không cho họ nhiều quyền lực chính trị và xã hội[12]. Trong xã hội mà thị trường tự do có thể tồn tại được, quyền lực nằm ngay tại thị trường, và “được phân tán trong rất nhiều người dân chứ không chỉ tập trung trong tay tầng lớp tinh hoa nắm quyền”[13].

Novak, trong khi bình luận về lòng căm thù chủ nghĩa tư bản mà dường như giới tăng lữ đang nuôi trong lòng, đã viết:

“Trong những xã hội truyền thống, người đứng đầu nhà thờ (dù ở Rome hay ở Geneva thì cũng thế) có quyền áp đặt những giá trị của họ lên toàn thể xã hội dân sự. Trong một xã hội đã phân hóa, người đứng đầu nhà thờ khó mà có thể đóng được vai trò như thế. Vì vậy mà ta mới thường thấy sự thèm khát bí mật, thấy lòng hoài cổ còn rơi rớt lại về một xã hội được kế hoạch hóa, tức là cái xã hội lại cho phép những người đứng đầu nhà thờ liên kết với những người lãnh đạo dân sự nhằm buộc toàn bộ xã hội phải chấp nhận những giá trị của họ. Quan điểm của ông vua La Mã thế kỷ thứ IV[ii] lại tái xuất với tên gọi là chủ nghĩa xã hội và nhà nước tập quyền trong nền kinh tế hỗn hợp[14].”

Chế độ dân chủ trên thương trường

Những người phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những người có những thành kiến mang tính gia trưởng của giai cấp mới mà Kristol nói tới, đơn giản là không thích chế độ dân chủ vốn là một thành phần cố hữu trong hệ thống thị trường. Giới quý tộc không bao giờ tin các định chế dân chủ, đặc biệt là trong thời kỳ tiền tư bản; hậu duệ của họ – mặc dù có thể phải chấp nhận niềm tin vào quyền bình đẳng trong chế độ dân chủ – giống như cha ông họ, cũng không mấy tin tưởng vào quyền tự do lựa chọn. Vì vậy, khi họ nói về quyền bình đẳng thì họ không nói về sự bình đẳng trước pháp luật mà nói về sự bình đẳng do pháp luật tạo ra. Tôn giáo của họ đòi hỏi rằng bình đẳng là do giới tinh hoa cầm quyền ban phát.

Quan điểm như thế về pháp luật – ngăn chặn một số người và thả lỏng một số người khác – không phải xuất phát từ tinh thần bình đẳng được chủ nghĩa tự do thế kỷ XIX tuyên xưng mà là xuất phát từ não trạng chuyên chế của tinh thần bộ lạc cổ xưa. Vì vậy mà kết quả của hệ thống pháp luật bình đẳng do dùi cui tạo ra – trong đó có thuế lũy tiến, tái phân phối thu nhập, trợ cấp nhà ở, tem phiếu lương thực thực phẩm và những chương trình phúc lợi xã hội khác hay kết quả khủng khiếp của chủ nghĩa tập thể mà ta chứng kiến trong suốt 50 năm qua ở Liên Xô và ở châu Á – phản ánh không phải là lòng từ bi xã hội hiện đại mà là cú nhảy giật lùi trở về thời đại của những ông vua tự cho mình là đang cai trị bằng luật lệ của Chúa trời[15].

Cần phải nhấn mạnh rằng não trạng như thế đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa tự do về quyền bình đẳng trước pháp luật rồi. Vì ở đâu mà bất bình đẳng trước pháp luật trở thành hiện tượng phổ biến thì ở đó bóng ma của chế độ chuyên chế, của bạo ngược, nghèo đói, và mất tự do cá nhân sẽ trở thành phổ biến.

Henry Hazlitt, Gilder, Kristol và những người khác đã khẳng định một cách đầy trí tuệ rằng những chương trình chống nghèo đói của chính phủ dựa trên sự bất bình đẳng hợp pháp thực ra là rào cản trước những lợi ích kinh tế tiềm tàng mà người nghèo có thể nhận. Nhưng họ vẫn chưa chỉ ra được mối liên hệ giữa sự tập trung vào tay nhà nước và tinh thần gia trưởng của thời cổ đại.

Đây chính là điều mà các nước có thể học được từ quá khứ vì sự kiện lịch sử rõ ràng là bất bình đẳng trước pháp luật, tình trạng cô lập ép buộc về kinh tế (gọi là tự cấp tự túc) và điều tiết thị trường đã dẫn đến không phải là những mục tiêu đáng mong ước mà ngược lại. Chỉ có phân công lao động một cách tự do, thị trường tự do và bình đẳng trước pháp luật mới có thể dẫn người ta tới tự do và phát triển kinh tế mà thôi. Con người truyền thống đã phải đấu tranh rất lâu trước việc lựa chọn giữa tự do và bánh mì, nhưng trải nghiệm tự do đã cho thấy điều ngược lại. Tự do làm cho người ta có nhiều bánh mì hơn và có nhiều thứ khác nữa.

Cuối cùng, cả tự do lẫn thịnh vượng, tức là những tính chất cố hữu của chế độ dân chủ tư sản đã làm cho những người vẫn bám vào những lý tưởng xưa cũ của xã hội không tin vào thị trường tự do. Vì tự do trong chế độ này tạo điều kiện cho những người đã từng phải làm việc dưới quyền của những bạo chúa được tự cai quản lấy mình, còn thịnh vượng do thị trường tự do mang lại thì tạo điều kiện cho những người đã từng là những người khố rách áo ôm tự nuôi sống được mình và không còn phụ thuộc vào thói đỏng đảnh mang tính gia trưởng của tầng lớp quý tộc nữa. Lippmann nhận xét về những người đang đi tìm trật tự cũ như sau:

“. . công cụ thúc đẩy tiến bộ duy nhất mà họ tin tưởng là những biện pháp cưỡng bức của chính phủ. Họ không thể tưởng tượng nổi một cái gì khác hơn, họ cũng không thể nhớ được rằng rất nhiều điều mà họ coi là tiến bộ lại là kết quả của sự giải phóng khỏi quyền lực chính trị, của sự giới hạn quyền lực, của việc giải phóng năng lực cá nhân khỏi uy quyền và sự cưỡng bức mang tính tập thể[16].”

Và Frederic Bastiat đã tiên đoán một cách đầy thuyết phục kết quả sẽ đến với những người tìm kiếm cưỡng bức dưới chiêu bài tự do:

“Đồng vốn – dưới tác động của học thuyết đó – sẽ ẩn nấp, chốn tránh và bị phá hủy. Còn người công nhân, những người làm việc cho những kẻ thề nguyền là yêu thương họ một các chân thành và sâu sắc nhưng vô minh đó, sẽ như thế nào? Họ có được ăn uống tốt hơn khi sản xuất nông nghiệp ngưng trệ hay không? Họ có được mặc tốt hơn khi không còn ai nghĩ đến việc xây nhà máy nữa hay không? Họ có nhiều công ăn việc làm hơn khi đồng vốn không còn hay không?[17]”

Cho và nhận

Người cho bao giờ cũng được tôn trọng hơn là người nhận,và quan điểm truyền thống bao trùm thời đại là chủ nghĩa tư bản đơn giản là nền kinh tế nhận, nghĩa là người nghèo thì làm còn người giàu thì nhận. Do đó quan điểm của ông John C. Bennett, chủ tịch danh dự của Trường thần học, là nền kinh tế tự do, nếu không được chính phủ cải tạo, là “không thể chấp nhận được về mặt đạo đức”[18]

Tự do kinh tế, như đã được chứng minh suốt hai thế kỷ qua, đã đưa đến sự phát triển chưa từng có về mặt tài chính, đã mang tới cho các dân tộc thực hành nó số tài sản vượt xa ngay cả những vương triều giàu có nhất thời cổ đại. Nhưng những người chỉ trích vẫn coi tinh thần của tự do kinh tế là “lòng tham kiếm lời vô giới hạn của các doanh nhân”[19]. Schlesinger, một người ủng hộ nổi tiếng cho nền kinh tế kế hoạch hóa, coi triết lý tự do kinh doanh là tín điều vô chính phủ: “mọi người phải tự lo và khôn sống mống chết”[20]. Còn Ronald J. Sider, tác giả cuốn Về những người Thiên chúa giáo giầu có trong thời đại đói nghèo(of Rich Christians in an Age of Hunger), thì cho rằng sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đơn giản chỉ là sản phẩm của lòng tham mà thôi:

“Người ta không thể đọc câu chuyện ngụ ngôn về một người ngu ngốc giàu có [trong Kinh Tân Ước] mà không nghĩ tới xã hội của chúng ta. Chúng ta hăm hở làm ra thật nhiều món đồ tinh xảo, xây những ngôi nhà cao hơn và to hơn, chế ra những phương tiện vận tải nhanh hơn không phải vì những đồ vật đó làm cho cuộc sống của chúng ta phong phú hơn mà vì chúng ta bị ám ảnh là phải sở hữu ngày một nhiều hơn. Lòng tham – phấn đấu để càng ngày càng có nhiều đồ vật hơn – đã trở thành thói xấu chủ yếu của nền văn minh phương Tây.[21]”

Những lời kết án như thế – nhiều lời kết án đến nỗi người ta buộc phải đặt ra những câu hỏi hiển nhiên như sau: Sự cải thiện to lớn về mặt vật chất, những loại thuốc cứu người, nền giáo dục đại chúng, không còn nạn đói, việc xóa bỏ những cơ cấu đã từng nô dịch những người nghèo khổ và quan niệm về quyền tự do cá nhân, đều xuất phát từ lòng tham, từ sự thèm muốn, từ ước muốn làm hại những người đồng bào của mình hay sao? Phải chăng lợi ích kinh tế do hậu duệ của những người đã từng là nô lệ thu được trong hai trăm năm qua chỉ là vết chàm về mặt đạo đức?

Xin để cho độc giả tiểu luận này tự trả lời những câu hỏi đó. Nhưng quan điểm của tôi là: Chủ nghĩa tư bản đã mang lại những cải thiện kinh tế to lớn cho những dân tộc thực hành nó, đấy là điều không thể tranh cãi. Nhưng, nếu nhiều người – đặc biệt là những người có quyền đưa ra chương trình nghị sự cho xã hội – coi thị trường là môn bài của lòng tham, là sự đồi bại và phá sản về mặt đạo đức, thì các dân tộc sẽ tiếp tục lao vào chủ nghĩa tập thể và sự can thiệp của nhà nước và thị trường tự do sẽ thoái hóa thành lừa đảo, hối lộ và tham nhũng, đấy là chợ đen[22].

Trong khi thiết lập những tiêu chí đánh giá chủ nghĩa tư bản, tôi tin rằng thị trường tự do phải vượt qua được hai cuộc kiểm nghiệm. Thứ nhất, nó phải phù hợp với Nguyên tắc Vàng được vinh danh từ thời cổ đại; thứ hai, xã hội tạo ra hệ thống tư bản chủ nghĩa phải là xã hội đức hạnh đáp ứng được một số nguyên tắc đạo đức nhất định.

Sống với Nguyên tắc Vàng

Trong nền kinh tế cướp bóc, khó mà thực hiện được Nguyên tắc Vàng: “Cái mình không muốn, chớ làm cho người[iii]”. Nếu chỉ có thể giành được tài sản bằng cách moi của người khác thì rõ ràng là người ta không thể trở thành giàu có mà vẫn có thể sống theo Nguyên tắc Vàng được. Người ta hoặc là phải ăn cắp (mặc dù không ai muốn bị gọi là kẻ cắp) hoặc là phải sống trong cảnh nghèo nàn (đấy là lý do vì sao nghèo lại được tư tưởng tôn giáo truyền thống coi trọng đến như thế). Tư duy truyền thống tuyên bố rằng xã hội được chi phối bởi Nguyên tắc Vàng phải là xã hội nghèo nàn; và dễ hiểu vì sao một đầu óc bị chi phối bởi những tư tưởng như thế sẽ coi xã hội tư bản là xã hội cướp bóc.

Nhưng như Lippmann, Mises, Gilder và những người khác đã biện luận, sự thịnh vượng của thị trường tự do không phải là kết quả của trộm cắp mà là kết quả của sự hợp tác và lòng tin giữa các cá nhân với nhau. Luận điểm của Lippmann về xã hội tốt đẹp là xã hội đức hạnh, xã hội hợp tác, một xã hội chỉ có thể trở thành hiện thực khi thực hành những nguyên tắc của thị trường tự do. Ông viết như sau:

“Tất cả chuyện này [sự thịnh vượng của phương Tây] không phải là do sự khai sáng tự phát hay cơn bốc đồng của lòng tốt. Bản tính của con người không thể thay đổi một cách đột ngột được. . . . . Đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người con người tìm được biện pháp làm giàu, trong đó vận may của của tha nhân lại làm gia tăng vận may của chính họ. Khi David Hume có thể nói (1742) … “Tôi xin đánh bạo mà nói rằng, không chỉ như một người bình thường mà như một thần dân của nước Anh, tôi cầu nguyện cho nền thương mại thịnh vượng của nước Đức, nước Tây Ban Nha, nước Italy và thậm chí của chính nước Pháp nữa” thì đấy là thời khắc vĩ đại trong lịch sử chinh phục, cướp bóc và áp bức kéo dài. Trước khi Nguyên tắc Vàng trở thành hợp lý về mặt kinh tế, nhiều người đã không nghĩ như thế[23].”

Muốn làm giàu trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, như Gilder nhận xét, trước tiên người ta phải cho chứ không phải là nhận. “Quà tặng của chủ nghĩa tư bản tiến tiến trong nền kinh tế tiền tệ được gọi là đầu tư… Món quà đó sẽ chỉ thành công trong chừng mực nó mang tính vị tha và xuất phát từ việc nhận thức được nhu cầu của tha nhân.”[24] Mises viết:

“Phục vụ người tiêu dùng là cách làm giàu duy nhất. Nếu không đầu tư vào những dây chuyển có thể phục vụ tốt nhất nhu cầu của xã hội thì nhà tư sản sẽ đánh mất vốn liếng ngay lập tức[25].”

Trong hệ thống tự do như thế, người ta chỉ nhận được thù lao khi người bên cạnh cũng nhận được thù lao. “A” được chỉ lợi — đấy là nói khi tự do lựa chọn thắng thế – bằng cách cung cấp cho “B” sản phẩm hoặc dịch vụ mà “B” cảm thấy là đáp ứng được nhu cầu hay sở thích của mình[26]. Nếu tương tác này không còn thì mạng lưới hợp tác phức tạp làm nhiệm vụ củng cố hệ thống tư bản cũng sụp đổ ngay lập tức. Nếu không tin vào nhà sản xuất thì người bán sẽ không bán, nếu không tin vào sản phẩm hoặc dịch vụ hiện có thì người tiêu dùng sẽ không mua. Không thể đầu tư nếu những người có thể tiết kiệm và đầu tư không còn tin, cũng như chẳng còn quan tâm tới tương lai nữa.

Như Leonard Read đã chứng minh trong bài báo: Tôi, một chiếc bút chì, công bố hồi năm 1958 – rằng ngay cả những sản phẩm sơ đẳng được sản xuất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa cũng là kết quả của sự hợp tác của hàng ngàn người, thậm chí kể cả những người do tín ngưỡng hoặc chỉ nhìn thấy thôi mà có thể ghét nhau rồi. Đấy là sức mạnh của thị trường tự do. Không phải ngẫu nhiên mà, như Hans Sennholz đã chỉ rõ, thế kỷ XIX, một thế kỷ từng bị những người phê phán coi là một trăm năm bóc lột lại là thế kỷ hòa bình nhất trong lịch sử loài người[27].

Nền tảng của đạo đức

Vào năm 1776, khi Adam Smith trình bày luận điểm của ông trong tác phẩm Tài sản của các quốc gia (The Wealth of Nations), ông đã nhận ra rằng trật tự thị trường tự do không xuất phát từ những người hám lợi, tham lam và ác ý mà xuất phát từ xã hội, trong đó những giá trị đạo đức được coi là quan trọng, xuất phát từ xã hội, nơi óc sáng tạo, sự đồng cảm, tính tiết kiệm và trì hoãn thỏa mãn trong hiện tại để được tưởng thưởng trong tương lai, được mọi người coi là đức hạnh. Trật tự như thế đã được hình thành ở New England theo Thanh giáo, đấy là nơi mà đức hạnh – có vai trò sống còn đối với sự hình thành thị trường tự do – đã trở thành nền tảng cho khu vực tạo ra tinh thần Tự lực cánh sinh của Mĩ[iv].

Thanh giáo ban phước lành cho việc theo đuổi những lợi ích như thế (làm việc, tiết kiệm và kinh doanh) và chỉ rõ rằng ý Chúa – thông qua việc làm hàng ngày của mỗi người – có thể có lợi cho xã hội nói chung… Đấy là do người Thanh giáo… sẵn sàng trì hoãn sự thỏa mãn mà tư bản mới được tích lũy còn đầu tư thì tạo ra những sản phẩm mới[28].

Ngược lại, người ta có thể nói rằng những xã hội chỉ muốn trục lợi và có ít những phẩm chất đạo đức được mô ta bên trên cũng là những xã hội có ít, thậm chí không có tương lai kinh tế nào. Vì như Novak đã tuyên bố một cách đầy thuyết phục rằng chủ nghĩa tư bản không phải là kết quả chung cuộc cuộc của chủ nghĩa duy vật. Mà chủ nghĩa duy vật là khát khao vô độ, muốn được thỏa mãn ngay lập tức – trái ngược với thị trường tự do. Ông viết như sau:

“Phát triển kinh tế một cách bền vững không chỉ là sự dư thừa về mặt vật chất; nó xuất phát từ và tiếp tục đòi hỏi người ta phải có một số phẩm hạnh. Nếu những phẩm hạnh như thế không còn thì phát triển bền vững cũng sẽ tiêu ma. Nền văn hóa hưởng lạc, chỉ nghĩ đến mình, có vẻ như sẽ không đầu tư cho tương lai của chính nó hoặc không chịu thực hiện những hi sinh cần thiết cho sự thịnh vượng của chính nó[29].”

Phát triển kinh tế là kết quả của tự do

Mặc dù tốc độ phát triển kinh tế ngoạn mục đã xảy ra cách đây hơn 200 năm, nhưng nếu đặt hai thế kỷ đó trong dòng chảy hàng nhàn năm của lịch sử nhân loại thì đấy cũng chỉ như là một chớp mắt mà thôi. Mức sống của những con người mà số phận là phải sống trong đói nghèo và áp bức đã gia tăng nhanh chóng, có thể là quá nhanh đối với phần đông những người đã tham gia hay bị lôi kéo vào trật tự tư bản chủ nghĩa. Tự do kinh tế mang đến cho người ta nhiều lợi ích, nhưng ít người hiểu được vì sao sự thịnh vượng lại gia tăng một cách bất ngờ đến như thế. Những người sẵn sàng đi theo những triết lý truyền thống, đã bám chặt vào đầu óc của họ, dễ dàng trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ rao bán chủ nghĩa tập thể và ép buộc, coi đấy là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp hơn.

Nhưng bóng ma của tự do đã thoát ra rồi và con người, ngay cả khi không hiểu rõ làm sao mà tự do lại tạo cho họ cơ hội kinh tế, cũng đã được nếm hoa thơm trái ngọt của nó. Vì từng cá nhân đã được tự do, gông xiềng – từng một thời trói buộc người nô lệ, và thậm chí trói buộc cả những ông vua chuyên chế của họ nữa – trong thời tiền tư bản ít nhất là đã tạm thời được tháo bỏ. Vì thế mà người ta có thể ước mơ về một đời sống tốt đẹp hơn ở ngay chính nơi mà tổ tiên của họ từng phải chấp nhận tình cảnh nghèo khổ.

Kinh nghiệm của nền kinh tế tự do làm cho người ta vừa lạc quan lại vừa bi quan. Lạc quan là vì, như đã thấy trong suốt 200 năm qua, tự do mang đến cho tất cả mọi người một cuộc sống tốt đẹp hơn, và không còn thế lực có thể làm người ta phải sợ hãi. Nhưng người ta cũng bi quan vì có quá nhiều người không hiểu được những đức tính tốt đẹp của nền kinh tế tự do và vì vậy mà họ quay sang chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa quốc gia với hi vọng rằng áp chế sẽ giúp họ thực hiện được những giấc mơ của mình.

Nền kinh tế tự do tạo điều kiện cho người ta trở thành những người đức hạnh, tạo điều kiện cho người ta thể hiện tinh thần trách nhiệm và lòng trung thực và được tưởng thưởng vì có những đức tính tốt đó, làm cho những người đồng bào của mình có một đời sống tốt đẹp, giúp cho thế giới thoát khỏi dịch bệnh, đói nghèo và những tai họa khác đang săn đuổi những kẻ yếu đuối nhất trong chúng ta. Nó thúc đẩy hợp tác chứ không phải là xung đột, nó khuyến khích hòa bình chứ không phải là chiến tranh.

Khi Lippmann hô hào những đồng sự của mình quay lưng lại với cuộc vận động trở về với chủ nghĩa quốc gia trong những năm 1930 thì ông đã bị nhiều bạn bè, thuộc phái “tự do” chế giễu và tuyên bố là “tên phản động”. Nhưng hóa ra nhiều quan điểm thấu triệt của ông lại là đúng đắn và nhiều dự đoán của ông về cuộc chiến tranh sắp tới là chính xác. Hiện nay cũng vẫn còn đúng.

Thông điệp của Lippmann và cũng là thông điệp mà 200 năm tự do từng tuyên bố là: Xã hội tốt, một xã hội trong đó người dân có thể đấu tranh cho công lý, đức hạnh và một đời sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người chỉ có thể trở thành hiện thực khi người ta hành động nhằm “bảo vệ và đấu tranh nhằm hoàn thiện sự tự do của thị trường”[30].

Đấy không phải là một giấc mơ không tưởng vì những người tin vào không tưởng thì cũng là những người tin rằng có thể ép buộc con người để họ trở thành hoàn thiện hơn. Tôi không thể chấp nhận ý tưởng cho rằng vì một lý do nào đó con người sống trong cái thế giới mà chúng ta đang thấy sẽ không còn muốn phạm tội nữa. Nhưng thị trường tự do sẽ giúp đỡ con người – với tất cả những bất toàn của họ – xây dựng được một thế giới thịnh vượng hơn, dễ chịu hơn, công bằng hơn và đức hạnh hơn.

[themify_box style=”purple rounded” ]William Anderson là phó giáo sư kinh tế học tại Frostburg State University.[/themify_box]

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: The Virtues of the Free Economy


[1] Michael Novak, “The Economic System: The Evangelical Basis of a Social Market Economy,” The Review of Politics, Vol. 43 (July, 1981), p. 355.
[2] George Gilder, Wealth and Poverty (New York, 1981), p. 4.
[3] Walter Lippmann, The Good Society (Boston, 1937), p. 204.
[4] Chính sách Kinh tế mới của Lenin năm 1923, việc Stalin áp dụng mức lương khác nhau và những cách làm khác của “chủ nghĩa tư bản vào năm 1931 và việc khuyến khích các công ty tư nhân nhỏ bé ở nước Trung Hoa cộng sản hiện nay là những thí dụ dễ thấy của việc các chính phủ độc tài, theo đường lối tập thể, tìm kiếm sự trợ giúp của thị trường tự do.
[5] Novak, p. 365.
[6] J. Kautz thể hiện lý tưởng truyền thống trong tác phẩm Die geschichtliche Entwickelung tier Nationökonomik xuất bản năm 1860, khi ông mô tả những quan điểm phiếm thần của Hindu giáo. “Trước hết”, Kautz viết, “nền tảng của toàn bộ lý thuyết kinh tế và xã hội của Ấn Độ là sự tự chế và hi sinh, thừa nhận vô điều kiện và đề cao chế độ chuyên chế tuyệt đối, sự phủ nhận giá trị của chính con người…”
[7] Tác phẩm của phái Calvin Westminster Confession of Faith, được viết từ năm 1643 đến năm1648, bàn về Lời răn thứ 5 (Kính trọng cha mẹ) đã tìm cách mở rộng khái niệm cha mẹ để đưa vào đó cả “những người đứng đầu” xã hội nữa.
[8] Thí dụ trong chế độ quân chủ Pháp từ năm 1666 đến năm 1730 ngành công nghiệp dệt Pháp phải đương đầu với một núi luật lệ chứa trong 4 tập sách dày 2.200 trang và 3 cuốn phụ lục nữa.
[9] Arthur M. Schlesinger, Jr., “Neo-Conservatism and the Class Struggle,” The Wall Street Journal, June 2, 1981, p. 30.
[10] Lippmann, p. 194.
[11] Tác phẩm đã dẫn.
[12] Irving Kristol, Two Cheers for Capitalism (New York, 1978), p. 28.
[13] Robert Heilbroner, quoted from Time, April 21, 1980, “Is Capitalism Working?” Heilbroner là người ủng hộ xã hội kế hoạch hóa.
[14] Novak, Toward a Theology of the Corporation (Washington, D.C., 1981), pp. 11-12.
[15] Xem: “Inside North Korea, Marxism’s First ‘Monarchy,’” Reader’s Digest,Feb., 1982.
[16] Lippmann, p. 5.
[17] Trích theo William H. Peterson, “Creating a ‘Negative-Sum’ Society,”Business Week, November 16, 1981, p. 32.
[18] John C. Bennett, “Reaganethics,” Christianity and Crisis, December 14, 1981, p. 339.
[19] “The New Deal in Review, 1936-1940,” The New Republic, 102 (May 20, 1940), p. 707.
[20] Schlesinger, p. 30.
[21] Ronald J. Sider, Rich Christians in an Age of Hunger (Downers Grove, Illinois, 1977), p. 123.
[22] Muốn tìm hiểu kỹ về nền kinh tế bị nhà nước bóp nghẹt sinh ra thị trường chợ đen như thế nào, xin đọc Antonio Martino, “Measuring Italy’s Underground Economy,” Policy Review (Spring, 1981), và mô tả của Ken Adelman về thị trường chợ đen ở nước Tanzania xã hội chủ nghĩa trong “The Great Black Hope,” Harper’s, July, 1981.
[23] Lippmann, pp. 193-194.
[24] Gilder, pp. 24, 27.
[25] Ludwig von Mises, The Anti-Capitalistic Mentality (South Holland, Illinois, 1972), p. 2.
[26] Trong xã hội kế hoạch hóa, tức là xã hội mà chính phủ thực hiện việc chọn lựa về mặt kinh tế cho các công dân của họ thì người dân phải “chọn” bất cứ thứ gì chính phủ cho họ. Nhưng trong những điều kiện như thế sản phẩm và dịch vụ thường không đáp ứng được ước muốn và kết quả là người tiêu dùng bị chèn ép, bất mãn.
[27] . Hans Sennholz, “Welfare States at War,” The Freeman (January, 1981).
[28] James T. Laney, “The Other Adam Smith,” Economic Review, October, 1981, p. 28.
[29] Novak, “The Evangelical Basis of a Social Market Economy,” pp. 365-366.
[30] . Lippmann, p. 207.

[i] Mercantilist, Mercantilism – Thuyết theo đó nhà nước phải hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu để giữ trong kho càng nhiều kim loại quý thì càng tốt.
[ii] Dịch thoát ý từ Constantinianism
[iii] Dịch thoát ý câu “Do not that to another, which thou wuoldest not have tothy selfe”. Tại phương Đông trước đó cả hai ngàn năm Khổng tử đã nói: Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, nghĩa là cái mình không muốn, chớ làm cho người.
[iv] Dịch thoát ý thuật ngữ Yankee Ingennuity

Tại sao phải tìm để hiểu chính mình

Featured Image: Cameron Gardner 

 

Đó là một câu hỏi khá hay về triết học trong kỳ thi cấp 3 của ban kinh tế xã hội của nước Pháp năm 2014. Hôm nay tôi xem như là thí sinh.

Tôi có nghe một câu nói đại loại như thế này trong một bộ phim: “Nếu xã hội là một cỗ máy, thì mỗi người đều là một linh kiện trong chính cỗ máy đó.” Vậy tại sao chúng ta không tìm hiểu mình là linh kiện gì trong cỗ máy đó và bằng cách nào? Chỉ có một thứ duy nhất là “sự vận động” để bạn tìm hiểu mình là ai, hay nói ví von hơn đó là “phải tìm để tìm hiểu chính mình”.

Vậy bạn đặt câu hỏi, tôi vẫn đang sống, tôi vẫn đang vận động đấy? Nhưng câu hỏi tôi đặt cho bạn: Liệu bạn đang chết từ tuổi 30, 25, 20 , 10 hay khi bạn bắt đầu biết nhận thức. Bạn vẫn đang nuối tiếc cái thể xác này?

Đúng vậy, ngay từ lúc bạn nhận thức, nhà trường, xã hội, gia đình, bạn bè, trường học đã giáo dục bạn rằng: Bạn phải làm cái này, phải làm cái kia mới đúng, mới được chấp nhận. Vì vậy, bạn hành động theo đám đông, để được đám đông chấp nhận bạn, một vài cá nhân được tung hô lên vì sự vượt trội mà dựa trên các tiêu chuẩn của đám đông đó còn một vài cá nhân khác thì bị xem là thất bại và phần lớn thì lập lờ và vô tình, bạn đánh mất bản sắc tự nhiên của chính bạn, đánh mất sự khác biệt trong chính bạn. Bạn tự chôn vùi lấy chính mình trong đám đông. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ bạn nên đi tìm để hiểu chính mình.

Vậy đi như thế nào và bằng cách nào mới đúng

Tôi muỗn bạn suy nghĩ thêm của câu này từ Osho:

“Con tim luôn sẵn sàng mạo hiểm, con tim là kẻ nghiện cờ bạc. Trí óc là một thương gia. Trí óc luôn tính toán – nó gian xảo, xảo trá. Con tim không biết đến sự tính toán.”

Tôi cũng không biết đi thế nào là đúng, nó quá mông lung để khái quát hoặc tôi chưa đủ giỏi để khái quát, nhưng nếu bạn tập trung vào điều bạn muốn, lắng nghe từ con tim, tôn trọng con tim thì tôi tin bạn sẽ tự tìm thấy điêu khác biệt của chính bạn, chỉ bạn mới có. Và tôi chắc chắn rằng bạn phải vận động, vận động không có nghĩa là chỉ di chuyển, đứng yên cũng là một trạng thái của vận động nhưng bạn sẽ phải vận động cơ não nhiều hơn để tìm điều bạn muốn.

Nhưng vẫn động như thế nào? Tại sao chúng ta dùng cặp từ “tìm-để ” đó là sự vận động một cách chủ động, có thể bạn đi sai đường, nhưng đó là cách bạn khám phá chính mình, để thay đổi chính mình, để không bị cuộc sống chôn vùi sự khác biệt của chính bạn. Tôi nghĩ rằng nếu bạn không chủ động thay đổi, cuộc sống sẽ thay đổi bạn. Và chỉ có sự thay đổi liên tục, bạn mới thực sự tìm thấy chính mình ở đâu trong thế giới luôn thay đổi này.

Bạn sẽ được gì từ việc đó, có quá nhiều rủi ro? Bạn nghĩ vậy!

Tôi xin trả lời rằng: Bạn có rất nhiều lý do để làm việc đó.

Đầu tiên, đó là việc giúp bạn cảm thấy tự tin, tôn trọng người khác. Nếu bạn nghĩ rằng, người đứng đầu trong một đám đông cảm thấy luôn tự tin thì bạn hoàn toàn sai lầm. Họ luôn luôn sợ hãi, khi đứng trên một đỉnh núi mà phía dưới có hàng trăm người cùng leo lên, nỗi sợ của bạn càng lớn, sợ bị người khác lôi bạn xuống và bạn lại bị đánh giá là thua cuộc, khi bạn đạt được điều mà mọi người cũng mơ ước, bạn dễ bị kiêu ngạo.

Nhưng nếu bạn chỉ leo một ngọn núi của riêng mình, bạn sẽ chỉ nhìn về phía trước còn bao xa. Vì bạn không thể so sánh với ai khác, và bạn cũng biết không ai có thể so sánh với bạn nên bạn luôn cảm thấy tự tin với ai đó vì bạn đang làm việc của bạn và bạn thấy chẳng giỏi hơn người khác, vì bạn biết bạn đang làm việc của bạn mà thôi.

Tiếp theo, bạn sẽ bao dung, thấu hiểu, chia sẻ hơn so với người khác. Cũng chính vì bạn leo đỉnh núi của chính bạn, thử thách đó dành cho bạn, phần thưởng đó cũng chỉ dành cho bạn. Bạn thấy cảm thông với nỗi thống khổ của người khác, bạn muốn giúp đỡ mọi người cùng hoàn thành công việc của họ, vì lý do đơn giản nhất mà bạn biết : mọi người cùng thắng.

Tiếp theo nữa, bạn thực sự mạnh mẽ. Mỗi người đều mang sự khác biệt, hiểu chính mình, Bạn biết không một ai có thể so sánh với bạn, vì nó rất khập khiễng, bạn sẽ tìm thấy sự khác biệt trong chính bạn, đó là điểm mạnh và cũng là sở thích của bạn, sở thích một cách tự nhiên như một bông hoa, ngọn cỏ, ánh mặt trời. Bạn không cần gượng ép sở thích, nó được phát triển trên bản năng và cuộc sống. Và vì đó là việc bạn chủ động chọn, bạn sẽ luôn có trách nhiệm cao cho việc bạn làm, trách nhiệm với cuộc sống của bạn.

Và lý do quan trọng nhất mà tôi muốn trình bày, đó là việc bạn thực sự đang sống trong thế giới của bạn tạo ra. Hiểu chính mình, bạn sẽ có mục tiêu của cuộc đời mình, làm công việc mình thích, sống một cuộc sống có ích, hoàn thành sứ mệnh của cuộc sống.

Bạn cảm thấy thế nào? Tôi hoàn toàn tôn trọng suy nghĩ của bạn. Tôi cũng không biết bạn có đủ kiên nhẫn đọc đến cuối cùng hay không, và hãy để nhưng suy nghĩ va đập với cuộc sống của bạn, khi đó, bạn hãy lẵng nghe tiếng nói từ con tim và mạnh mẽ lên. Không bao giờ là quá muộn để đi tìm chính mình vì đó là cuộc sống.

Gửi một người bạn!

 

Phan Công Thiết

Bạn đã thử điều khiển cuộc sống của mình theo cách này chưa?

Bạn thân mến, cuộc sống của chúng ta, của tôi và của bạn, của bất kỳ ai đi chăng nữa đều bị chi phối bởi rất nhiều thứ, trong đó có hai điều chính yếu nhất. Hai điều này vốn dĩ là của chính chúng ta, từ chúng ta, nó chi phối ta nhưng ta lại không nhận ra rằng mình hoàn toàn có thể điều khiển nó. Nắm giữ được cách chi phối và sử dụng tốt hai thứ này, ta sẽ thành công và làm chủ cuộc sống của mình.

Tạo thói quen, tạo cuộc đời

Có lẽ bạn đã phát chán những bài viết dài dòng của tôi, nên xin vào đề luôn bằng đoạn giới thiệu khá hay ho của Sean Covey về điều chính yếu đầu tiên: Lời bộc bạch của những thói quen, hãy ngẫm nghĩ kỹ những lời thói quen đang nói với bạn:

“Tôi ở đâu ư? Tôi luôn đồng hành cùng với bạn, trong bạn. Tôi có thể trở thành người trợ giúp đắc lực cho bạn nhưng cũng có thể là sự cản trở, là gánh nặng nhất của bạn. Tôi sẽ nâng bạn đến thành công hoặc biến bạn thành kẻ thất bại. Tôi sẽ luôn bên bạn và làm theo ý muốn của bạn.

Điều khiến tôi là một việc dễ dàng, nhưng bạn phải kiên quyết với tôi. Cho tôi biết thật chính xác bạn muốn ứng phó một vấn đề nào đó ra sao, rồi sau một vài lần thực hiện, tôi sẽ thực hiện đúng như vậy. Tôi là bạn của những bậc anh hùng vĩ nhân, và cả của những người ti tiện, đớn hèn. Ở những người vĩ đại, tôi cũng họ tạo nên những điều vĩ đại. Ở những ai chủ bại, tôi ra tay đẩy họ đến đường cùng, mà chính họ không hề biết.

Tôi không phải là một cái máy, dù vậy, tôi hoạt động với độ chính xác cao hơn một cái máy, cộng thêm trí thông minh của chính bạn. Bạn có thể sử dụng tôi để đạt tới thành công hoặc để tự hủy hoại mình. Vì với tôi hai điều đó không có gì khác biệt, chẳng có gì quan trọng.

Hãy nắm lấy tôi, huấn luyện tôi, kiên quyết với tôi. Rồi tôi sẽ đặt cả thế gian dưới chân bạn. Hoặc hãy dễ dãi nuông chiều tôi. Rồi tôi sẽ tiêu diệt bạn. Đầu tiên, tôi chỉ là một suy nghĩ hoặc là một hành động tình cờ của bạn. Rồi tôi trở thành THÓI QUEN của bạn. Và cuối cùng, tôi là người điều khiển bạn!”

Vâng, chỉ ngắn gọn thế thôi, hẳn bạn cũng đã hình dung ra thói quen có sức mạnh như thế nào và cuộc đời bạn sẽ bị tác động nhiều đến ra sao bởi những thói quen tốt hay tốt. Tôi đã từng gợi ý cho bạn một vài thói quen đơn giản nhưng tuyệt vời như là đọc sách, như là giữ bên mình một cuốn sổ tay để viết vào đó danh sách việc làm và những ý tưởng, như là luôn đặt mục tiêu và lên kế hoạch cho cuộc đời, như là tìm hiểu thông tin về các chủ đề trong cuộc sống, như là tập thể thao giữ gìn sức khỏe và cơ thể đẹp, như là tập nêu chính kiến của mình sau các bài viết và mọi cuộc tranh luận, như là hãy cố gắng đem niềm vui đến cho mọi người bằng những món quà nhỏ…

Kể cả khuyên bạn rời xa những thói quen xấu xí như hãy dừng việc đọc tin tức vớ vẩn, đừng lãng phí thời sinh viên hay đừng hâm mộ một người nổi tiếng… Tất cả những bài viết trước đây, đều có thể quy về việc tôi đang cố khuyên bạn hình thành những thói quen có lợi. Tạo và duy trì được những thói quen đó, cuộc đời bạn sẽ thay đổi. Bạn sẽ khác biệt, bạn sẽ không còn tầm thường, không còn làng nhàng và chịu chung một cảnh của những người bị động mặc cho cuộc đời xô đẩy hay chèn ép.

Hãy cố gắng duy trì những thói quen đó. Đó là điều cần làm, nên làm và phải làm, không phải ngày mai, mà ngay hôm nay, ngay lúc này nè, hãy lên danh sách những thói quen bạn cần có để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Còn bây giờ, tôi xin nói về một thứ khác nữa. Một thứ không kém phần quan trọng giúp thay đổi cuộc đời bạn đang sống, tất nhiên theo chiều hướng tích cực hơn. Tôi thích những thứ tích cực, tôi khao khát tạo ra những điều tích cực trong cuộc sống và tôi sẽ làm mọi thứ để duy trì sở thích của mình, và để giúp các bạn, nếu có thể.

Kiểm soát cảm xúc – kiểm soát cuộc đời

Ngoài thói quen, có thể bạn đã biết rằng, thứ chi phối cuộc sống và hành động của bạn nhiều nhất, chính là cảm xúc. Dạ vâng, chính là cảm xúc. Tất cả mọi thứ trong cuộc sống của bạn đều bị thứ bùa mê này toàn quyền kiểm soát. Bạn ở bên ai đó, người yêu, người nhà hay bè bạn nhiều hay ít, vì cảm xúc họ mang lại cho bạn, bạn ngồi trong một quán cafe yêu thích vì cảm xúc của bạn khi ở đó. Bạn mua một món đồ đôi khi biết không hợp với mình nhưng cảm tình với cô nhân viên khiến bạn không thể dừng lại. Bạn phản ứng quá mạnh trong những tình huống nhỏ bé vì không thể dừng lại cảm xúc.

Đã bao lần bạn có những quyết định sai lầm chỉ vì nghe theo những cảm xúc nhất thời. Đã bao lần bạn cố hình dung về một cảm xúc trong quá khứ mà mình đã đánh mất chỉ mong được trải nghiệm nó thêm một lần nữa. Đã bao lần bạn cảm thấy tâm hồn ngập tràn ánh nắng trong khi tiết trời âm u mưa gió, và đã bao lần bạn cảm thấy đất trời như không còn chút sinh khí chỉ vì chính tâm hồn bạn không còn chút sinh khí… Không thể kể ra hết những gì cảm xúc tác động tới bạn và cuộc sống của bạn đâu. Nó là điều bình thường thôi nhưng lại quá quan trọng, nó nhỏ bé thôi, nhưng tác động lại quá khủng khiếp. Cảm xúc chi phối mọi hành động, mọi con người, dù là bất kỳ ai trên đời, miễn bạn không phải là robot.

Một khi biết được cảm xúc ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của chúng ta thế nào, ta sẽ biết ngay việc cần làm, cũng như đối với thói quen, chính là tạo ra những cảm xúc tốt đẹp, duy trì nó và tránh xa những cảm xúc xấu xí. Đó là bước đầu để bạn kiểm soát cảm xúc của mình. Một khi kiểm soát được cảm xúc bạn sẽ không còn gặp nhiều khó khăn thường gặp trên đời nữa.

Tất nhiên nhiều người sẽ cho rằng chúng ta không thể kiềm chế được cảm xúc. Tôi cũng khá đồng ý với ý kiến này, nhưng mà nghe này, chúng ta không thể kiềm chế PHẦN LỚN cảm xúc, không có nghĩa là chúng ta không thể kiềm chế TẤT CẢ, và quan trọng hơn nữa, điều quan trọng nhất luôn mà bạn cần tin tưởng, đó là: Không có gì là không thể…

Là một người nhiều cảm xúc và hay bị nó chi phối, tôi có xu hướng nuông chiều và hay tự tạo ra những cảm xúc mình mong muốn. Bạn cũng có thể làm theo tôi trong một số trường hợp thế này.

Hãy tự tạo ra và duy trì những cảm xúc tốt đẹp

Tại sao chúng ta cứ luôn phải chờ đợi những điều tốt đẹp từ người khác, như một kiểu nhận ơn bố thí. Tại sao chúng ta không tự tạo ra nó? Tin tôi đi, bạn hoàn toàn có thể. Nếu như bạn thèm một món ăn, bạn sẽ đi tìm mua và ăn nó. Nếu như bạn thích cảm giác yên bình của một quán cafe quen, khi cần có cảm giác yên bình, bạn sẽ tìm đến nó. Nếu như bạn thích cảm giác ở bên một người, tại sao không tìm đến họ?

Tôi đọc nhiều sách nhưng thích nhất cuốn “Đắc Nhân Tâm“, vì đó là cuốn sách mà tôi yêu thích và tâm đắc nhất. Tôi thường xuyên nói về nó, nếu có ai hỏi xin ý kiến về sách, tôi sẽ giới thiệu nó ngay. Nếu như ai đó cần lời khuyên về giao tiếp, tôi cũng sẽ giới thiệu không chút ngại ngần. Tôi nói tới nó nhiều tới mức, giờ đây, cứ nhắc đến cụm từ “đắc nhân tâm” là tự nhiên tôi khựng lại, tất cả kiến thức trong sách như sống dậy, thôi thúc tôi hành động theo nó, thôi thúc tôi cư xử tử tế như sách yêu cầu.

Nó như là một liều thuốc hiệu quả tức thời vậy. Thế nên mỗi khi tôi nóng giận hay gặp những tình huống không như ý, tự động tâm trí tôi lặp đi lặp lại cụm từ “đắc nhân tâm”. Thế rồi tôi kìm nén cảm xúc lại, khi nhớ ra rằng cảm xúc nóng giận tức thời luôn là cảm giác tiêu cực nhất. Vì vậy, mỗi khi cần nhắc mình tử tế và hòa nhã, tôi lại tự đọc thần chú Đắc Nhân Tâm trong đầu và trong phần lớn tình huống, tôi xử lý êm xuôi. Mỗi khi tôi tức giận, thất vọng hay muốn phát điên lên, tôi lại nghĩ đến nó, như một liều thuốc an thần xoa dịu cảm xúc hiệu quả vô cùng. Đó là cách tôi kiểm soát cảm xúc hàng ngày của mình.

Bạn cũng vậy, nếu như có một cuốn sách nào khiến bạn tràn đầy năng lượng và quyết tâm, hãy đọc đi đọc lại nó, nhất là những lúc cần đến những cảm giác đó. Nếu như có một bản nhạc khiến lòng bạn thanh thản, khiến bạn yêu đời yêu cuộc sống, hãy nghe nó mỗi khi cảm thấy buồn. Nếu như việc nói chuyện với một người nào đó khiến bạn vui vẻ, hãy nói với người đó nhiều hơn. Đừng đợi người ta chủ động, mà chính bạn hãy chủ động bắt chuyện với họ, cùng nhau nói những điều vui vẻ, bạn sẽ thấy tìm niềm vui trong cuộc sống không phải là điều quá khó khăn.

Tôi thích cảm giác ghi danh sách công việc, hoàn thành nó rồi gạch bỏ nó đi, càng được gạch nhiều tôi càng vui. Nên đôi khi ngoài những công việc chính thống trong ngày, tôi hay viết thêm những việc nhỏ nhỏ mà mình chắc chắn làm được, những việc như là: “Nhắn tin chúc mẹ ngày mới, sắp xếp bàn làm việc, viết một status câu nói ý nghĩa nào đó, bấm móng tay, uống sữa, ăn trưa…”

Đây là những việc nhỏ bé tôi hoàn toàn có thể làm một cách dễ dàng, tôi ghi chúng ra, bịa thêm những việc nhỏ nhỏ tương tự cho đầy tràn một danh sách. Rồi tôi làm ngay để được gạch nó đi. Đúng vậy đó, có những việc tôi cố tình viết ra dù chẳng đáng, như việc uống sữa (tôi ghét sữa). Tôi cố tình viết nó ra để được gạch nó đi. Cảm giác sau đó thật tuyệt. Nhìn danh sách việc dài ngoằng được gạch đi dù phần lớn toàn việc vớ vẩn, tôi vẫn thấy mình làm được thật nhiều việc, tôi thấy mình thật giỏi giang, cảm giác khoan khoái vô cùng.

Có những loại cảm giác đúng đắn và tuyệt vời hơn mà bạn có thể thử nghiệm ngay. Chẳng hạn một ngày kia tâm trạng bạn rất vui, bạn cười với mọi người và thấy mọi người đều cười lại với bạn, thật đáng yêu. Một ngày khác tâm trạng bạn không tốt nữa, bạn vẫn có thể lập lại cảm giác lần trước bằng cách cứ tiếp tục mỉm cười với mọi người xem sao.

Nếu như một lời khen của ai đó khiến bạn thích thú và yêu đời. Hãy nhân cảm giác đó lên, bằng cách thỉnh thoảng lại đọc lại những lời khen đó, nhất là khi buồn. Bạn cũng có thể ghi chép chúng vào cuốn sổ tay tập hợp những lời khen người khác dành cho mình. Và mỗi sáng thức dậy, hãy nhìn và đọc nó, đảm bảo ngày mới của bạn sẽ luôn vui tươi. Cách này nghe có vẻ hơi vớ vẩn con nít hả. Nhưng tin tôi đi, nó rất hiệu quả đấy.

Thật ra công thức đơn giản nhất để tạo cảm xúc, chỉ là “tìm ra loại cảm xúc mà bạn mong muốn, hành động nào khiến bạn có được cảm xúc đó. Rồi thì nhân nó lên, lặp lại liên tục”. Bạn sẽ thấy tạo cảm xúc tích cực không hề khó khăn như bạn nghĩ đâu.

Tôi thích tặng quà bất ngờ cho người khác vì tôi thích cái cảm giác họ bất ngờ, ngạc nhiên và bối rối, tất nhiên cả thích thú nữa. Tôi thích cảm giác đó nên tôi nhân nó lên nhiều lần bằng cách tặng quà cho nhiều người hơn. Được nghe cám ơn hoài nên tôi vui hoài là vậy. Tôi thích viết những bài viết có thể khiến cho ai đó thay đổi, từ suy nghĩ rồi sau đó có động lực để hành động.

Mỗi khi một ai đó thay đổi hay có động lực để hành động tích cực, họ thường không quên cám ơn tôi. Cảm giác mình có ích, cảm giác mình làm được việc gì đó tốt cho ai đó, nhỏ thôi, nhưng tuyệt vời vô cùng. Nó khiến tôi không muốn dừng lại, nó khiến tôi cứ muốn mãi được cám ơn như thế, muốn mãi được giúp đỡ mọi người, muốn mãi là người có ích. Nhờ đó, phần lớn tâm trạng trong mỗi ngày của tôi luôn rất vui vẻ và lạc quan. Rồi tôi lại dùng chính thứ cảm xúc đó để nhân nó lên lan truyền tới mọi người theo cách này cách khác.

Bạn cũng có thể làm như vậy, giúp đỡ ai đó, cha mẹ, bạn bè, nghe lời cảm ơn từ họ. Bạn sẽ muốn giúp họ nhiều hơn, nhiều nữa, nhiều tới mức họ sẽ yêu quý bạn vô cùng. Trong tất cả các loại cảm xúc, có gì tuyệt hơn được mọi người yêu quý?

Chắc hẳn bạn đã biết cảm giác xúc động bồi hồi nếu bạn từng đi làm các công tác từ thiện, đến những trại trẻ mồ côi, viện dưỡng lão hay các trung tâm y tế… Đến những nơi đó đi, bạn sẽ nhận ra mình là người thật sự may mắn đến mức nào. Rồi bạn sẽ biết thông cảm, biết yêu thương và biết trân trọng cuộc sống này hơn. Mỗi khi cần cảm giác đó, hãy lại đến những nơi đó, bạn vừa tìm được thứ mình muốn, những người cần giúp đỡ lại có thêm người giúp đỡ. Hai bên cùng có lợi và nhất định xã hội sẽ tốt đẹp hơn nếu bạn có thể nhân cảm giác đó, hành động đó lên nhiều lần, với nhiều người hơn nữa. Hoặc khi bạn giúp đỡ một cô lao công, một người bán vé số điều gì nhỏ nhặt. Nhìn sự biết ơn ánh lên trong đôi mắt, tôi dám cá bạn sẽ muốn nhìn thấy ánh mắt đó thêm thật nhiều lần nữa cho coi.

Việc tạo cảm xúc hoàn toàn có thể áp dụng trong cả các mối quan hệ như tình bạn hay thậm chí cả tính yêu nữa. Nếu một người bạn chỉ toàn nói với bạn những điều tiêu cực, chỉ toàn chê bai, sỉa sói hay nói xấu những người khác. Nếu người bạn đó chẳng bao giờ làm gì khiến cho cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn, hãy mạnh dạn rời xa họ. Nhưng nếu một người bạn luôn động viên, khuyến khích mọi việc bạn làm, luôn lắng nghe và làm bạn cười. Hãy ở bên người đó nhiều hơn nữa.

Hãy hạn chế thậm chí chặn đứng ngay những cảm xúc tiêu cực mỗi ngày

Tôi không thích giờ ăn cơm, trưa hay tối, vì một số lý do hàng ngày tôi đều phải ăn cơm hàng và toàn phải ăn một mình (dù đã đọc cuốn “đừng bao giờ đi ăn một mình” nhưng vô ích :(). Nhưng không thể không ăn đúng không, nên tôi phải tìm cách biến giờ ăn cho thật hứng thú, bằng cách để dành bộ phim yêu thích chỉ được coi lúc ăn cơm. Mỗi ngày, bữa cơm từ việc nhàm chán nhất trở thành việc vô cùng được mong đợi và hứng thú. Cái này hơi trẻ con ạ? Giống như dỗ con nít ăn cơm?

Thôi được rồi, ví dụ khác vậy. Tôi ghét phải chờ đợi, ghét phải lãng phí thời gian, nhưng dù sắp xếp tới đâu cũng vẫn luôn phí những khoảng thời gian trống vô nghĩa, như buổi hẹn cafe phải chờ đợi, như lúc đợi xe mỗi khi đi công việc, như lúc xe bị hư phải sửa… Trước đây tôi thường mang theo một cuốn sách, nhưng việc đọc sách không hứng thú bằng việc mang theo một cuốn sổ, mỗi lúc rảnh hay thời gian vô nghĩa tôi đọc lại những gì mình đã viết hoặc viết thêm vào đó những ý tưởng mới, nghĩ danh sách việc phải làm… Thế là chẳng bao giờ còn phải nuối tiếc thời gian cả. Việc này lại hứng thú vô cùng. Tôi thậm chí muốn có nhiều thời gian hơn ở bên cuốn sổ của mình. Nếu như trong buổi hẹn bạn trễ giờ, với cuốn sổ hay cuốn sách của mình, tôi sẽ không giận bạn đâu, chỉ có bạn phải xấu hổ vì trễ hẹn thôi.

Tôi cũng có những cách rất hay để hạn chế cảm xúc tiêu cực từ những nguồn cơ bản, như những người bạn. Bạn biết đấy, thông tin từ bạn bè của chúng ta phần lớn đến từ facebook, có những người chẳng bao giờ chia sẻ được điều gì hay ho bổ ích trên news feed cả. Tất cả những gì họ làm chỉ là khoe khoang hoặc xỉa xói, nói xấu, mỉa mai người khác.

Thậm chí có những người gần như chỉ dùng facebook để than thở mọi điều về cuộc sống hay quảng cáo loại mặt hàng mà tôi ghét, tôi không quan tâm hay đang cạnh tranh với tôi. Những người này thường làm tôi bực mình, thế nên, tôi chẳng ngại ngần chặn hoặc hủy bạn bè hoặc bấm nút ngừng theo dõi với họ ngay. Những người toàn tạo cảm giác xấu xí, dù thân mấy, tôi không cần. Tôi có thể vẫn làm bạn với họ ngoài đời, nhưng trên facebook, nơi tôi kiểm soát được, thì không. Bất cứ thứ gì mang lại cảm xúc tiêu cực. Tôi tìm cách chặn chúng lại ngay. Sao phải chần chừ, sao phải băn khoăn?

Facebook khiến cho chúng ta dễ dàng và thường xuyên ghen tỵ với người khác, biến chúng ta trở nên xấu tính, thích đi xăm soi, chỉ trích rất nhiều. Thế nên hãy kiểm soát nó, biến nó thành một nơi chốn tốt đẹp, bạn sẽ cảm thấy yêu đời hơn. Đừng để facebook kiểm soát cuộc đời bạn, nhưng chính bạn hãy kiểm soát nó.

Tôi và có lẽ tất cả chúng ta đều rất ghét cảm giác thèm thuồng. Thế nên tôi xử lý nó bằng cách cố gắng không để mình thèm bất cứ thứ gì cả. Thèm măng cụt ư, tôi sẽ mua nó và ăn trong nhiều ngày tới khi chán, tới khi măng cụt chẳng còn hấp dẫn tôi nữa. Thèm bít tết ư, tôi sẽ đi ăn nó mỗi sáng cho tới khi hoàn toàn không chút cảm xúc khi nhắc về nó. Thèm ở bên ai đó ư, tôi sẽ tìm mọi cách hoặc tạo mọi điều kiện để được ở bên họ.

Tôi không muốn đợi đến dịp nào cả, tôi ghét chờ đợi, tôi ghét bị động. Nên tôi sẽ chủ động sắp xếp mọi thứ sao cho ổn thỏa để tìm kiếm cảm giác mình mong muốn. Tôi ghét những cửa hàng cạnh tranh với tôi nên tôi hạn chế đi ngang qua nó. Tôi không bao giờ và không thích nghe người ta kể về nó, tôi chặn tất cả, để khỏi so sánh, khỏi bi quan, khỏi bức xúc, chỉ tập trung làm tốt công việc của mình thôi. Những điều này nghe có vẻ không hay ho gì lắm đúng không? Chẳng sao cả, mọi người có thể đánh giá về bạn không tốt? Chẳng sao cả. Thật tình mà nói, chẳng ai quan tâm đến bạn nhiều như chính bạn đâu. Nên thay vì đợi người khác mang lại cảm giác mà bạn mong muốn, hãy tự tạo ra nó.

Về tình yêu, tôi có cách này khá hay có thể giúp các bạn hoặc hạnh phúc hơn với sự lựa chọn của mình, hoặc sẽ bớt đau khổ hơn khi kết thúc một chuyện tình. Nếu như bạn thích ai đó hoặc đang yêu ai đó, hãy thử cầm giấy bút, viết ra những lý do vì sao hai người nên yêu nhau, những điểm tương đồng và những điều bạn yêu mến ở họ. Viết ra được những điều này, hoặc bạn sẽ có thêm can đảm để tỏ tình với người ta, hoặc là sẽ thêm quyết tâm ở bên người ấy cả đời, khiến cho tình yêu thêm bền chặt. Thật ra ý này chỉ là phụ thôi, vì khi người ta yêu và được yêu, là hạnh phúc quá rồi, ai mà cần làm những thứ này chứ.

Nhưng bạn đừng vội xem thường sức mạnh của hành động này, đặc biệt khi bạn vừa chia tay, dù vì bất cứ lý do nào. Việc làm này sẽ khiến bạn bớt dần đi sự đau khổ nuối tiếc một cách nhanh chóng. Đừng chỉ suy nghĩ, hãy viết nó ra, ra giấy trắng mực đen hẳn hoi nhé. Bạn hãy viết về những điểm khác biệt giữa hai người, từ tính cách, hoàn cảnh gia đình, tôn giáo, quan điểm sống… Rồi viết ra những lý do tại sao mối quan hệ này nên chấm dứt từ lâu. Viết ra những điều bạn không hài lòng, không thích hay thậm chí là rất ghét của người đó mà trước giờ bạn bị tình yêu làm cho mù mắt, lãng tai, miệng dính lại… viết cả những lỗi lầm của họ mà bạn từng bỏ qua hay chưa bỏ qua được.

Đặc biệt nhất, cũng trên chính trang giấy này. Hãy tưởng tượng và vẽ ra một viễn cảnh tương lai tươi đẹp, về tất cả những gì bạn có được và có thể làm, đạt được khi chia tay con người đó. Đó là một thế giới mới, bạn sẽ xinh đẹp hơn, sẽ có nhiều mối quan hệ thú vị, sẽ tìm được người cùng sở thích du lịch, một người khác mạnh mẽ hơn, một ai đó bảnh bao hay xinh xắn hơn người cũ thật nhiều. Một người mà mai này anh ta có nhìn thấy sẽ phải tiếc nuối và ghen tỵ… Đúng rồi, hãy viết ra những điều đó, tất cả những điều đó.

Đầu tiên, khi viết ra những lý do việc chia tay là đúng đắn bạn sẽ bớt đau khổ hơn khi trí óc bắt đầu kiềm chế được những cảm xúc vụn vỡ nơi trái tim. Sau đó, viết tiếp những điều tệ hại ở anh ta khiến bạn ghét cay ghét đắng hoặc không ưa nổi. Bạn lại tiếp thêm cho lý trí của mình sức mạnh, đồng thời như một thông điệp ngầm cho thấy trái tim bạn đang yếu đuối ngu si tới mức nào. Sau cùng khi nghĩ về một tương lai tươi sáng với một người nào đó tuyệt vời hơn, xứng đáng hơn với những cơ hội mà bạn có thể có được trong tương lai.

Trí óc bạn lúc này hoàn toàn mạnh mẽ và chiếm được phần lớn ưu thế trong việc kiểm soát cảm xúc của mình. Không những thế, trái tim của bạn sẽ lại bắt đầu lành lặn, bắt đầu khỏe mạnh và sẵn sàng cho những điều mới mẻ bạn đã hứa. Hãy viết ra những điều này và nếu cần thiết, hãy đọc đi đọc lại nó như một kiểu tiếp nhiên liệu cho tâm trí và trái tim của bạn vậy. Mọi việc đều rõ ràng mạch lạc, giấy trắng mực đen. Bạn thậm chí có thể không tin được mình lại mạnh mẽ như thế nào đâu. Và lúc này, bạn có thể hoàn toàn kiểm soát suy nghĩ và cảm xúc của mình khi nghĩ về người đó. Không còn đau khổ khóc lóc, không còn sợ hãi lo âu.

Mọi thứ lại đâu vào đó. Trái tim lành lặn lại được dịp phục hồi để những lần yêu sau thêm ngọt ngào. Đây chính là một trong những hành động tác dụng mạnh nhất giúp tôi quên đi một chuyện tình yêu đau khổ. Thật sự chính tôi và tất cả bạn bè đều không thể ngờ được tôi chỉ mất một tuần để lại vui vẻ, tươi mới, lãng quên mọi chuyện như nó chưa hề xảy ra, lãng quên một con người như hề họ chưa từng tồn tại. Một tình yêu ngọt ngào 3 năm và tôi chỉ mất một tuần để cất nó đi như cất một món đồ chơi cũ kỹ nhàm chán. Đây là một trong những điều khiến tôi tự hào về bản thân mình. Đừng hòng mà kiểm soát được tôi, nhưng chính tôi, sẽ kiểm soát chính mình.

Dù vậy, tôi thật tâm hi vọng không quá nhiều người phải dùng đến cách này. Tình yêu là một thứ đẹp đẽ, là nguồn thực phẩm giàu năng lượng nhất cho cuộc sống của chúng ta. Sẽ thật tốt khi người ta yêu nhau mà chẳng có chia tay chia chân gì cả. Nhưng đời không nói được điều gì. Một người tuyệt vời hôm trước lại đột ngột thay đổi đến khủng khiếp ngay hôm sau. Hãy luôn chuẩn bị tinh thần cho mọi thứ. Bạn sẽ kiểm soát được cảm xúc của mình, kiểm soát được cuộc đời mình.

Lên kế hoạch trước cho mọi việc, cũng chính là cách bạn bồi thêm sự tự tin cho bản thân, và giảm thiểu cảm giác hoang mang, lo sợ lẫn thất vọng. Tôi hay lên kế hoạch cho mọi thứ, luôn sẵn sàng cho cả những việc tệ hại, nên bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy tôi chẳng bao giờ quá thất vọng về bất cứ thứ gì. Khi lên kế hoạch cho một công việc mới, tôi thường có các phương án A-B-C-D khác nhau để dự phòng. Nếu không mở được cái này sẽ mở cái khác, cái khác không được sẽ làm cái khác nữa, cái khác nữa không xong lại chuyển hướng sang cái khác khác khác. Tôi luôn có các kế hoạch dự phòng nên khi mọi việc không xảy ra theo ý mình muốn, dù có buồn, tôi vẫn không thất vọng. Tôi xác định trước ranh giới cho các mối quan hệ, chỉ là xác định thôi, còn sau đó tất nhiên vẫn tùy theo tình hình thực tế. Nếu như tôi muốn ở bên một người vì cảm giác bình an mà anh ấy mang lại, tôi sẽ tìm cách được ở bên họ nhiều hơn, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó, tôi sẽ dừng lại. Đôi khi cảm giác tiếc nuối làm tim tôi đau nhói, nhưng vì đã chuẩn bị tinh thần, nó thường hồi phục rất nhanh, và tôi lại thêm tin tưởng chính mình.

Mất kiểm soát bất cứ lĩnh vực nào: tình cảm, công việc, gia đình, các mối quan hệ, tiền bạc… đều khủng khiếp và tệ hại như nhau. Nên để không rơi vào trạng thái đó, tôi thật sự khuyên bạn hãy lên kế hoạch cho mọi thứ và xác định các ranh giới. Làm được điều này, bạn sẽ luôn kiểm soát được mọi thứ, tất nhiên sẽ rất nhiều chuyện ngoài lề đáng ghét xảy đến. Nhưng quan trọng nhất, bạn kiểm soát được cảm xúc của mình, luôn tràn đầy tự tin vì chủ động kiểm soát mọi thứ, không bao giờ quá thất vọng hay đau lòng nữa vì bạn đã có những kế hoạch dự phòng khác rồi cơ mà.

Trong khi phần lớn mọi người thường chỉ sống qua ngày và chờ đợi mọi thứ xảy đến, rồi bị kiểm soát hoàn toàn bởi các thể loại cảm xúc khác nhau, đa phần là cảm xúc không mong muốn. Thì chính bạn, hãy đứng lên, tự tìm kiếm cho mình những cảm xúc bạn mong muốn, vui vẻ ư, hạnh phúc ư, hài lòng ư, tất cả đều có thể kiếm được. Và quan trọng không kém là hãy hành động để chặn đứng ngay những loại cảm xúc tiêu cực đang bủa vây bạn. Chặn ngay nó lại và tìm thêm những cách để hạn chế những điều không mong muốn có thể xảy ra. Hãy lên kế hoạch, hãy xác định ranh giới và chuẩn bị tinh thần cho mọi vấn đề. Có điều này, bạn nhất định không được quên, rằng bạn, chính bạn, chứ không phải ai khác, chính bạn mới là và phải là người kiểm soát kiểm soát cuộc đời mình, và kiểm soát cảm xúc chính là một phần quan trọng trong đó, không xem thường được đâu.

Tác giả: Phi Tuyết

Con là nợ!

Featured Image: Susan Sermoneta

 

Sáng nay vào Facebook, gặp tâm sự của anh bạn:

“Tối qua tui mới đi đám tang con gái lớn của đứa bạn cùng lớp N3 LQĐ. Cháu cũng học LQĐ, đang là lớp trưởng một lớp 10. Cháu rất ngoan, học giỏi nhưng bỗng dưng quyết định chấm dứt cuộc sống của mình ở tuổi 15 vào chiều ngày chủ nhật. Cả nhà không ai hiểu vì sao, bạn bè thầy cô cũng không ai hiểu vì sao?

Được kể lại rằng hôm thứ sáu tuần rồi cháu vẫn đứng ra cùng các bạn tổ chức sinh nhật cho thầy chủ nhiệm, vẫn vui vẻ hòa đồng với các bạn trong lớp. Đến sáng chủ nhật ba cháu vẫn chở cháu đi học võ tại trường, trưa đón về nhà ăn cơm bình thường nhưng đến chiều thì xảy ra chuyện. Nhiều người nói có thể cháu bị áp lực học hành, bị một cú sốc nào đó về điểm số… (đối với cháu này thì nguyên nhân yêu đương được loại trừ).

Một sự mất mát không thể bù đắp cho gia đình, một nỗi đau quá lớn và tất cả bạn bè thân quyến. Vì sao? Vì sao nên nỗi? Rất nhiều câu hỏi vì sao không lời giải đáp! Phải chăng có một sự khiếm khuyết nào đó trong nền giáo dục hiện tại?“  (Trích từ Hội Huỳnh)

Một câu chuyện quá buồn, quá đau xót nhưng không phải là quá hiếm!

Năm 2000 đọc được cuốn “Rich Dad, Poor Dad” của Robert Kiyosaki , trong đó chủ yếu hướng dẫn về cách làm giàu từ bất động sản (điều này cần phải xem lại). Tuy nhiên có một quan điểm về giáo dục, tôi cho là đúng và đã áp dụng đến giờ.

Robert Kiyosaki cho rằng, để giáo dục một đứa trẻ sau này trở thành một người thành công thì phụ huynh cần phải làm 4 việc sau:

  • Giáo dục kiến thức nghề nghiệp.
  • Giáo dục về thể chất.
  • Giáo dục về kiến thức tài chính.
  • Giáo dục về kiến thức xã hội.

Kiến thức nghề nghiệp:

Giai đoạn phổ thông chỉ trang bị kiến thức chung và là giai đoạn chính để một đứa trẻ chọn nghề nghiệp trong tương lai. Học giỏi ở trường phổ thông không quyết định sẽ giỏi ở bậc đại học và càng không quyết định sẽ giỏi trong lĩnh vực nghề nghiệp trong tương lai. Nếu xuất sắc tất cả các môn học ở trường phổ thông thì sẽ rất khó khăn khi chọn nghề.

Nghề nghiệp phải được xác định rõ ràng trước khi học về nó. Lâu nay, công thức là lấy cái bằng, làm việc theo cái bằng, làm riết rồi thành cái nghề.

Kiến thức nghề nghiệp hoàn toàn không phải là bằng cấp, chỉ có kiến thức nghề nghiệp được học từ trường lớp mới có bằng cấp, các kiến thức do tự học (là chính), từ bạn bè, từ xã hội, từ internet… thì hoàn toàn không có bằng cấp. Thậm chí có những kiến thức về nghề nghiệp không dạy ở bất cứ trường lớp nào  (không tin cứ hỏi anh Tuấn, chủ của Kềm Nghĩa).

Nhìn xã hội Việt Nam xem, thiên hạ đang đua nhau ép con phải học thật giỏi kiến thức cơ bản chỉ để khoe nhau khi trà chanh chém gió hoặc chụp hình học bạ khoe lên Facebook, chả ai cùng thảo luận về nghề nghiệp tương lai của con. Con vào được trường điểm hoặc đại học là coi như hoàn thành nhiệm vụ, mặc dù khi là cử nhân hoặc thạc sỹ xong vẫn phải nuôi, nhưng… không sao!

Giáo dục về thể chất:

Chỉ có ở những nước phát triển, thể thao học đường mới được chú trọng. Ở Việt Nam phụ huynh phải làm việc này. Một đứa trẻ, ngay từ lớp 1 đã phải bắt buộc phải “gắn” với 1 môn thể thao nào đấy, nên nhớ là “gắn” chứ không phải “chơi”. Mỗi ngày đều phải tập hoặc 3 buổi/tuần. Bơi lội và võ thuật là lựa chọn hàng đầu. Không có sức khỏe thì không học nổi những gì cần học, không làm nổi những gì muốn làm và không hưởng được những gì đáng hưởng. Đơn giản thế thôi!

Giáo dục về tài chính:

Trẻ con phải được giáo dục về tài chính từ nhỏ, tiền bạc chả có gì xấu xa, nếu xấu thì bố mẹ nó và cả xã hội đang còng lưng ra để kiếm cái gì đấy? Cây bút chì là một văn phòng phẩm rất quen thuộc, nhưng đâm vào mắt thì mù đấy. Những việc rất đơn giản như tiêu xài phải ít hơn số kiếm được, tại sao phải mua cái này? Lợi ích của tiết kiệm? Đầu tư? Vay mượn… tất cả những vấn đề này đều phải được rèn luyện và giải thích hằng ngày.

Giáo dục về kiến thức xã hội:

Cách ứng xử trong gia đình, ngoài xã hội. Kỹ năng thích nghi. Kỹ năng hòa nhập. Kỹ năng giải quyết vấn đề. Các giá trị căn bản của cuộc sống là gì? Phân biệt đúng sai thiện ác? Làm sao để đứng dậy sau khi vấp ngã?… Những việc này rất tốn thời gian và công sức của phụ huynh vì kiến thức xã hội chủ yếu được cung cấp cho trẻ qua các nguồn sau: Sách, các khóa kỹ năng mềm, nói chuyện với con. Phụ huynh chả bao giờ đọc một cuốn sách thì làm sao giới thiệu cho con? Suốt ngày bắt nó đi học thêm thì lấy đâu ra thời gian để học các lớp kỹ năng mềm? Nói chuyện với con mới 2 câu là sử dụng quyền lực, quát mắng, ra lệnh… thì làm sao mà chuyện trò?

Một người dù cầm trong tay một mảnh bằng danh giá, nhưng không thích thú với nghề nghiệp của mình thì làm sao tiến xa đến đỉnh cao của sự nghiệp? Làm sao có một cuộc sống hạnh phúc?

Một người chọn đúng ngành nghề mình yêu thích nhưng không đủ sức khỏe để theo đuổi cống hiến hoặc ngay cả để sống một cách bình thường thì giỏi để làm gì?

Một người khỏe mạnh, giỏi giang trong nghề nghiệp nhưng mù tịt về tài chính (các nhà bác học thường gặp tình trạng này) thì bản thân có thể ổn nhưng trách nhiệm đối với gia đình, người thân có vẻ không ổn lắm.

Một người khỏe mạnh, giỏi giang cả về nghề nghiệp lẫn tài chính, lỡ bị bồ đá một phát hoặc lỡ kinh doanh bị thất bại, tự tử chết mất béng, để lại bao tiếc nuối cho những người còn sống.

Một đứa trẻ bước vào đời trở thành một con người chỉ cần như vậy thôi: Tinh thông trong nghề nghiệp nó ưa thích, có sức khỏe và thể trạng tốt, biết cách kiếm tiền và sử dụng đồng tiền, khéo léo trong ứng xử và thích nghi được mọi hoàn cảnh.

Trong 4 nhiệm vụ giáo dục kể trên thì 3 điều phụ huynh phải tự làm (thể chất, tài chính, xã hội), và với tình trạng giáo dục của Việt Nam, các phụ huynh còn phải làm thêm ít nhất 50% phần giáo dục về kiến thức nghề nghiệp. Lo cho con cơm ăn áo mặc, chạy cho con vào trường điểm, chúng ta chỉ mới làm được 1/8 nhiệm vụ trồng NGƯỜI!

Người xưa nói “con là nợ”, mà nợ thì phải trả, nếu chúng ta không trả đủ, món nợ sẽ quay về trong tương lai và dĩ nhiên, kèm thêm lãi suất!

Có thật sự kiểm soát súng là để bảo vệ bạn?

Featured Image: Jonathan Morris

 

Nhiều người Việt Nam ngày nay vẫn tin tưởng một cách ngây thơ rằng chính phủ kiểm soát không cho người dân sở hữu và sử dụng súng là để bảo vệ họ, là để bảo vệ xã hội khỏi bạo lực do việc sở hữu súng của những kẻ tội phạm. Sự thật có phải đúng là như vậy?

Trên thực tế khi bạn hay tôi đối mặt với bọn tội phạm, chúng ta ngay lập tức trở thành những người ở tuyến đầu phòng vệ. Lúc đó quá trễ để gọi sự trợ giúp của một ai đó. Những công dân tuân thủ luật pháp luôn là những người ở tuyến đầu đối mặt với tội phạm để bảo vệ bản thân và gia đình mình.

Trong khi đó, những chính trị gia lại nói với chúng ta rằng họ muốn bảo vệ chúng ta khỏi tội phạm có vũ trang bằng cách tước đi quyền sở hữu và sử dụng vũ khí của cá nhân để tự vệ. Đây là lời nói dối lớn nhất của tất cả bọn họ.

“Thế giới này tràn ngập bạo lực bởi vì bọn tội phạm có súng. Chúng ta, những công dân tử tế tuân thủ luật pháp, cũng nên có súng. Nếu không thì chúng sẽ thắng và những người tử tế sẽ thua” – James Earl Jones

Những cuộc tranh luận xung quanh vấn đề kiểm soát súng thường gắn liền với những cảm xúc mạnh mẽ của cả hai phía. Bên cạnh đó việc lạm dụng khai thác đề tài này đã ít nhiều tầm thường hoá vấn đề kiểm soát súng. Nó cực kỳ nguy hiểm vì quyền được trang bị vũ khí để tự bảo vệ không phải là vấn đề tầm phào. Và quyết định không nên được đưa ra dưới bất cứ áp lực của sự sợ hãi hay hoảng hốt nào.

Kiểm soát súng đi ngay vào trái tim của khái niện mà chúng tôi gọi là Tự do và do đó nó cần được xem xét một cách tổng thể và thận trọng.

Vậy kiểm soát súng chính xác là gì? Nó là kiểm soát dòng chảy của súng trong nước. Nhiều người suy nghĩ đơn giản hơn thì cho rằng kiểm soát súng là tịch thu súng của tất cả mọi người. Kiểm soát súng không hề có nghĩa là tịch thu súng. Điều này là không khả thi bởi vì các phần tử tội phạm trong xã hội sẽ không bao giờ giao nộp súng của chúng, lực lượng quân đội và cảnh sát cũng không.

Câu hỏi đầu tiên khi đó trở nên rõ ràng: Ai là người kiểm soát súng? Câu trả lời là chính phủ mà ở đây chúng ta sẽ gọi là những Người Làm Luật.

Câu hỏi tiếp theo chúng ta cần phải hỏi là: Súng của ai bị kiểm soát? Câu trả lời là nhân dân, những người đã giao nộp súng của họ. Họ là những công dân tuân thủ luật pháp mà chúng ta sẽ gọi là những Người Tuân Luật

Câu hỏi cuối cùng, súng của ai sẽ không bị kiểm soát? Chúng ta có thể giả thiết là bọn tội phạm sẽ không giao nộp súng của chúng và chúng ta sẽ gọi là những Người Phạm Luật

Và như vậy bạn đã có bức tranh tổng thể. Khi nói về kiểm soát súng, chúng ta dễ dàng phân chia xã hội thành ba nhóm có thể nhận diện dễ dàng: Người Làm Luật, Người Tuân Luật và Người Phạm Luật.

Có một sự tranh cãi dai dẳng rằng: Có thật kiểm soát súng, bằng cách nào đó, sẽ làm suy yếu nhóm Người Phạm Luật? Làm thế nào có thể như vậy được? Bạn có tin rằng những tên tội phạm sẽ giao nộp vũ khí của chúng trong khi chúng lại phụ thuộc vũ khí đó để thực hiện tội ác? Ngay cả khi có lệnh kiểm soát súng đi vào hiệu lực thì những vũ khí này vẫn đang lưu thông và những kẻ tội phạm vẫn đang sở hữu súng.

Thomass Jefferson nói về kiểm soát súng:

“Họ tước vũ khí chỉ của những ai không có chiều hướng hoặc đã xác định không phạm tội. Những luật như vầy chỉ làm tình hình trở nên tồi tệ hơn cho người bị tấn công và tốt hơn cho kẻ tấn công.”

Biện pháp kiểm soát súng cũng không chứng minh được đã tạo được rào cản đáng kể nào cho những kẻ tội phạm đang muốn sở hữu súng. Bất cứ ai với một số vật liệu đơn giản và có truy cập internet là đã có thể tìm thấy hướng dẫn cách và tự mình chế tạo súng. Trên thực tế điều sẽ xảy ra chỉ là súng sẽ được mua bán chợ đen. Hệ luỵ của nó là việc củng cố quyền lực của, hoặc sinh ra các tổ chức mafia nắm quyền kiểm soát việc kinh doanh này.

Như vậy, liệu luật kiểm soát súng có nên được áp dụng lên những công dân tuân thủ luật pháp như là biện pháp để bảo vệ họ, những công dân tuân thủ luật pháp, khỏi bọn tội phạm không để luật đó ràng buộc chúng?

Do nhóm tội phạm không bị ảnh hưởng bởi luật kiểm soát súng. Trên thực tế nhóm này là những ngưởi ủng hộ mạnh mẽ việc kiểm soát súng bởi vì nó giải trừ một cách hiệu quả vũ trang của những người mà chúng muốn làm hại.

Theo bản khảo sát Tội Phạm Quốc Gia Mỹ: “Nếu nạn nhân của vụ cướp không tự vệ, thì những kẻ cướp sẽ thành công trong 88% các trường hợp và nạn nhân sẽ bị thương trong 25% các trường hợp. Nếu nạn nhân chống cự lại với súng, tỷ lệ “thành công” của vụ cướp rơi xuống chỉ còn rơi xuống chỉ còn 30% và tỷ lệ nạn nhân bị thương giảm xuống còn 17%.”

Vậy cái gì là lợi ích của việc kiểm soát súng đối với những Người Tuân Luật. Phải chăng là sự giảm đi của tội phạm? Điều đó là không thể. Các số liệu thực tế từ các quốc gia gần đây ban hành luật kiểm soát súng chứng thực điều này. Hãy lấy ví dụ của Úc. Úc thiết lập kiểm soát súng năm 1996 và chính phủ đã thu giữ và tiêu huỷ 640, 381 vũ khí cá nhân, chương trình này cũng tiêu tốn của người đóng thuế Úc hơn 500,000 dollar và kết quả thu được sau 12 tháng là: tội phạm giết người tăng 32%. trên toàn nước Úc, các vụ tấn công tăng 86%.. Trên toàn nước Úc, các vụ cướp có vũ trang tăng 44%.

Chỉ riêng trong tiểu bang Victoria, tỷ lệ giết người có vũ trang tăng 300%. Cần lưu ý rằng trên thực tế trong khi những công dân tuân thủ luật pháp giao nộp súng, thì những kẻ tội phạm không, chúng vẫn sở hữu súng. Trong khi số liệu của 25 năm trước cho thấy tốc độ giảm đều đặn tỷ lệ cướp có vũ trang thì điều này đã thay đổi hoàn toàn sau 12 tháng thực thi luật kiểm soát súng tại đây, do giờ đây tội phạm được đảm bảo rằng các mục tiêu của chúng không được tự vệ.

Cảnh sát Úc đã thất bại trong việc giải thích tại sao an ninh công cộng lại giảm sút sau khi chính phủ đã tiêu tốn hàng đống tiền của và nhân lực cho chương trình quét sạch súng khỏi xã hội Úc. “Tự vệ không phải là lý do để sở hữu súng” – John Howard, Thủ tướng Úc, phát biểu. Và đó là một trong những lời nói dối vĩ đại của các chính trị gia.

Giả sử nếu chúng ta cũng tin vào luật kiểm soát súng, ai sẽ là người chúng ta sẽ trông cậy khi đó. Chỉ có một nhóm cuối cùng: Nhóm Làm Luật, hay là chính phủ. Chính phủ sử dụng các lực lượng công an, cảnh sát để bảo vệ chúng ta.

Chúng ta có một quyền được ban tặng bởi Tạo hoá là quyền tự bảo vệ bản thân. Từ đâu mà công an lấy quyền bảo vệ chúng ta? Thật vô nghĩa khi để cho công an bảo vệ mạng sống của chúng ta trong khi chúng ta là một cá nhân thì lại bị từ chối quyền đó.

“Khi cảnh sát nổ súng, thì việc họ bắn nhầm người vô tội gấp khoảng 55 lần hơn là thường dân bắn nhầm.” – David Kople

Những người Tuân Luật cần phải được sở hữu súng không chỉ để bảo vệ họ khỏi nhứng kẻ Phạm Luật mà quan trọng hơn khỏi những Người Làm Luật. Các nhà lập quốc Hoa Kỳ thậm chí đã đảm bảo quyền sở hữu súng của dân chúng bằng cách đưa nó vào ngay trong Hiến Pháp Mỹ. Tu chính án số 2 viết: “Quyền của mọi người được trang bị và giữ súng, sẽ không bị xâm pham.”

“Những dự định tốt sẽ luôn được dùng để biện hộ cho các giả thuyết của nhà cầm quyền. Hiến Pháp được xây dựng để bảo vệ chống lại sự nguy hiểm của các dự định tốt đó.” – Noah Webster

Đây là lý do tại sao bước đầu tiên diễn ra trong một xã hội độc tài là tịch thu vũ khí của tất cả người dân. Nhìn lại lịch sử số lượng người vô tội bị giết nhiều nhất không phải do những Kẻ Phạm Luật, mà luôn bởi những Người Làm Luật.

  • Năm 1929, Liên bang Sô Viết thiết lập kiểm soát súng. Từ 1929 tới 1953, khoảng 20 triệu những người bất đồng chính kiến, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
  • Năm 1911 Thổ Nhĩ Kỳ thiết lập kiểm soát súng. Từ 1915 đến 1917, 15. triệu người Armenia, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
  • Đức quốc xã thiết lập kiểm soát súng năm 1938 và từ 1939 đến 1945, tổng cộng 13 triệu người Do Thái và người khác, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
  • Trung Quốc thiết lập kiểm soát súng năm 1935. Từ 1948 đến 1952, 20 triệu người bất đồng chính kiến, kkông thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
  • Uganda thiết lập kiểm soát súng năm 1970. Từ 1971 đến 1979, 300,000 người theo đạo Thiên Chúa Giáo, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
  • Campuchia thiết lập kiểm soát súng năm 1956, từ 1975 đến 1977, 1 triệu “trí thuc”+’ , không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.

Kiểm soát súng dựa trên một câu hỏi hết sức cơ bản: Bạn tin tưởng ai hơn: chính phủ hay người dân?

“Trong số nhiều hành động sai trái dưới sự cai trị của Anh Quốc tại Ấn độ, lịch sử sẽ nhìn vào luật tước đi vũ khí của người dân trên toàn quốc như là một trong những luật đen tối nhất.” – Mohandas K Gandhi

Nhưng hãy quên tất cả lý thuyết và quên tất cả con số thống kê, bởi vì kiểm soát súng thực sự không phải là về kiểm soát súng, mà là một thứ lớn hơn rất nhiều. Đó là về kiểm soát quyền, nó là về quyền của mỗi chúng ta để bảo vệ tính mạng, tài sản của bản thân và gia đình khi bị đe doạ. Nó là về việc một người sở hữu súng không có nghĩa anh ta là tội phạm hay có tội. Và trên hết thảy nó là về TỰ DO.

“Giài giáp nhân dân là cách hiệu quả nhất để nô lệ hoá họ.” – George Mason (Phỏng theo Ron Ownby Frisco)

Tại Việt Nam vụ án Lê Văn Luyện giết người cướp tiệm vàng đã có thể có kết cục không bi thảm đến thế nếu gia đình người chủ tiệm vàng được phép sở hữu và sử dụng súng để tự bảo vệ mình. Rõ ràng tên cướp khoẻ mạnh sẽ bất lợi hơn khi đối mặt với hai vợ chồng già nhưng có súng để tự vệ. Hãy hỏi những người chủ tiệm vàng rằng họ có muốn mọi người được phép sở hữu súng hay không?

Một ví dụ khác, nếu những người nông dân được phép sở hữu và sử dụng súng để bảo vệ mảnh đất của mình, có thể sự việc đã không tồi tệ đến thế khi ông Vươn dùng súng chống trả lại lực lượng cưỡng chế ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Những ông chủ tịch Huyện sẽ phải làm việc tôn trọng pháp luật hơn, sẽ phải nghiệm túc đàm phám với người dân, hơn là có thiên hướng sử dụng sức mạnh để trấn áp những người dân trong các giao dịch còn đang tranh cãi. Nếu người dân được phép sở hữu súng, sẽ có ít khiếu kiện đông người tranh chấp đất đai hơn, vì luật lệ khi đó sẽ được tôn trọng hơn do các ông chủ tịch xã hiểu được hậu quả khi người dân bị dồn vào bước đường cùng sẽ đứng lên và phản kháng với vũ khí của họ là như thế nào.

Nếu bạn nghĩ kiểm soát súng là để bảo vệ bạn, hãy suy nghĩ lại.

Quyền sở hữu và sử dụng súng để tự vệ là quyền cơ bản để bảo vệ tự do của chúng ta.

 

Thánh Ca Tự Do

Thị trường và đạo đức (kỳ 7)

 

Robert A. Sirico

Văn hóa của đức hạnh, Văn hóa của thương trường

Dẫn nhập

Tôi chọn Văn hóa của đức hạnh, Văn hóa của thương trường làm chủ đề cho bài viết này vì quan hệ giữa chúng là tâm điểm của Viện Acton. Người ta thường coi văn hóa của thương trường và văn hóa của đức hạnh là những tập hợp giá trị “mềm” đối chọi nhau và đã lỗi thời và có lý do xác đáng để làm như thế. Những người tuyên xưng nền văn hóa của đức hạnh thường phê phán thị trường tự do vì nó hạ thấp đời sống của con người và biến con người thành Con người kinh tế [Homo economicus], nó chỉ có giá trị vì khả năng kiềm tiền hoặc khả năng sản xuất mà thôi.

Tôi cho rằng quan điểm phê phán như thế – rất thịnh hành trong giới hàn lâm và tăng lữ – là thiển cận, mặc dù nó xuất phát từ thực tiễn và là mối quan tâm chính đáng đối với phẩm giá của đời sống và ước muốn nâng cao nền văn hóa nhằm bảo vệ cá nhân con người trong tất cả những biểu hiện phức tạp của anh ta. Nó là thiển cận vì không đưa ra được những điểm khác biệt chủ yếu và quan trọng – mà tôi sẽ lần lượt thảo luận – và như vậy là nó loại bỏ cái có thể trở thành công cụ đầy sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng nền văn minh hướng vào sự bất tử và hướng vào tiềm năng của mỗi cá nhân con người.

Thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại không tôn trọng phẩm giá của con người. Nhưng nếu ta coi những người có thể trở thành đồng minh của chúng ta trong cuộc đấu tranh chống lại những lực lượng làm băng hoại phẩm giá của con người khi họ gặp khó khăn là do họ đã hiểu sai nền kinh tế thị trường thì đấy là một đại họa. Tôi tin rằng có thể sử dụng sự năng động của nền kinh tế thị trường nhằm củng cố văn hóa của đức hạnh. Sự tương tác, mâu thuẫn và sự hài hòa chung cuộc giữa văn hóa của thương trường và văn hóa của đức hạnh là những đề tài cần được tìm hiểu một cách căn cơ hơn.

Văn hóa của đức hạnh

Trước hết phải là rõ các định nghĩa. Văn hóa của đức hạnh là sự công nhận rằng đời sống của con người trên mặt đất không phải là thực tại tối hậu mà là thực tại áp chót (Evangelium Vitae, ch. 2)[1], và cuộc sống trên trần gian của chúng ta có mục đích vượt xa chính nó, mục đích là cuộc sống vĩnh hằng của chúng ta. Cuộc đời này chỉ là giả tạm, chỉ là giai đoạn chuyển tiếp đến cuộc sống vĩnh hằng, sao cho những gì có trong ta sẽ trở thành hạt giống cho sự sống đời đời. C. S. Lewis đã thể hiện một cách đầy thơ mộng như sau:

“Không có ai là người bình thường. Bạn chưa bao giờ nói chuyện với một người hữu sinh hữu tử. Quốc gia, nền văn hóa, nền văn minh – tất cả đều là sinh tử; so với cuộc sống của chúng ta, chúng chỉ là phù du. Nhưng những người mà bạn chơi bời cùng, làm việc cùng, sống cùng, những người bạn khinh thường và bóc lột – tất cả đều là những nỗi kinh hoàng không bao giờ mất hay là sự tráng lệ bất tử… Kẻ đứng cạnh Thánh thể, hàng xóm của bạn là báu vật thiêng liêng nhất dành cho bạn[2].”

Cuộc sống là món quà mà Thượng Đế đã ban cho chúng ta. Chúng ta phải giữ gìn cuộc sống với một trách nhiệm và sự cẩn trọng tối đa. Vì cuộc sống là quà tặng của Tạo Hóa cho nên nó mang theo giá trị linh thiêng ngay từ lúc còn trong bụng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, và mỗi người đều có quyền có một đời sống được tôn trọng ở mức cao nhất, có thể. Vì vậy mà chúng ta phải chống lại những tôn giáo không thể hiện phẩm giá của con người vì chúng đe dọa ngay chính cơ sở của nền văn minh, chúng chống lại tự nhiên và phá hoại chính bối cảnh, mà trong đó người ta được hưởng những quyền của mình.

Bất kỳ quy tắc đạo đức nào mà cho phép, thí dụ như: giết người, diệt chủng, kể cả diệt chủng nhiễm sắc thể (chromosonal genocide) và những trò hề kinh tởm của bác sỹ Kevorkian ở Mĩ, đều là trái với nền văn hóa của đức hạnh. Bất kỳ quy định đạo đức nào mà cho phép sự xúc phạm đối với phẩm giá của con người, như chế độ nô lệ, cầm tù một cách bất công và làm điếm cũng đều là trái với nền văn hóa của đức hạnh. Ta có thể nói tương tự như thế về những hệ thống chỉ coi con người là phương tiện cho những mục đích cao hơn chứ không phải là những con người tự do với phẩm giá vốn có của mình (Evangelium Vitae, ch. 2).

Nền văn hóa của đức hạnh đấu tranh nhằm bảo vệ cá nhân con người, kể cả những người yếu đuối nhất và không có khả năng tự vệ nhất. Đấy là nền văn hóa của sự bảo bọc, của lòng khoan dung và hòa bình. Nó là câu trả lời “Có” cho câu hỏi của Kinh Thánh: “Tôi có phải là người bảo vệ của người anh em của tôi hay không?” Nền đạo đức này quan tâm trước hết đến khía cạnh tinh thần, đồng thời còn chú ý đến cả chất lượng sống của con người nữa. Nó phải đấu tranh nhằm làm nhẹ bớt những nỗi khổ đau của con người và quan tâm đến việc phân bố một cách rộng rãi nhất, có thể, những nguồn lực của trái đất.

Văn hóa của đức hạnh và trật tự xã hội

Chỉ có trật tự xã hội đức hạnh – quy tắc hành xử của nó giữ cho xã hội không rơi vào hỗn loạn – mới có thể bảo vệ được phẩm giá của đời sống. Trật tự xã hội, như Russell Kirk nói[3], lớn hơn là luật pháp, mặc dù luật pháp được sinh ra từ đấy. Trật tự xã hội còn bao gồm cả phong tục, tập quán và đức tin của xã hội nữa. Muốn hiểu đúng nó thì chúng ta phải công nhận rằng xã hội dân sự gắn bó một cách không thể tách rời với tính cách của các cá nhân làm nên xã hội đó. Nếu xảy ra hiện tượng xuống cấp đạo đức, nghĩa là sự hỗn loạn trong tâm hồn của các cá nhân nằm trong xã hội đó, thì trật tự xã hội sẽ bị xấu đi.

Chúng ta có thể nung nấu trong lòng ước muốn cháy bỏng là phẩm giá của con người phải được thể hiện một cách rõ ràng trong các điều luật, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Đôi khi tôi sợ rằng những cố gắng chính đáng của chúng ta nhằm bảo đảm rằng những điều luật khuyến khích nền văn hóa nhằm củng cố và tăng cường phẩm giá của con người được thông qua, thì sự chú ý của chúng ta đã bị đi chệch hướng, đã không hướng vào trách nhiệm căn bản hơn nhằm đảm bảo rằng tự thân nền văn hóa của chúng ta (bao gồm cả các quy tắc xã hội và những định chế trung gian) – là bối cảnh cho sự hình thành luật pháp – góp phần củng cố phẩm giá của đời sống của con người.

Thương trường khuyến khích nền hòa bình giữa người với người

Liệu những người tôn trọng đạo đức có được tự do lựa chọn một trong những hệ thống kinh tế hiện hữu nhằm thúc đẩy những giá trị của họ hay không? Tôi không tin là như thế. Thí dụ, ta hãy xem xét xem chủ nghĩa xã hội quan niệm về con người như thế nào. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mọi người và mọi tài sản đều là sở hữu của nhà nước, mọi hoạt động kinh tế đều nằm dưới quyền kiểm soát của tập thể. Điều này đã dẫn tới những hậu quả khủng khiếp.

Thí dụ, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhà nước coi trẻ con như chúng vốn là trên thực tế: tiêu tốn nguồn lực của xã hội. Ludwig von Mises từng viết: “Không thể tưởng tượng được cộng đồng xã hội chủ nghĩa mà lại không có sự điều tiết một cách cưỡng bức sự phát triển dân số… ngay cả nếu cộng đồng xã hội chủ nghĩa có thể cho người ta “tự do luyến ái” thì nó cũng không thể nào cho người ta tự do sinh đẻ được.[4]”

Và ông đã nói đúng: mọi cuộc thí nghiệm xã hội chủ nghĩa đều dẫn đến những vụ cưỡng bức phá thai và hạn chế số nhân khẩu trong từng gia đình. Theo tôi, ưu việt lớn nhất của kinh doanh tự do là tính năng động đủ sức đáp ứng cho sự gia tăng một cách nhanh chóng dân số mà không bị nạn đói đe dọa. Chỉ có nền kinh tế tự do và sự gia tăng của cải mà nó mang lại mới có thể làm cho điều này trở thành khả thi mà thôi. Chủ nghĩa xã hội không thể nào làm được như thế.

Đặc điểm của thời đại ngày nay, xét về mặt kinh tế, là thu nhập gia tăng, niềm tin của người sản xuất và tiêu dùng tăng lên, cơ hội kinh doanh tăng, và sự phát triển đến kinh ngạc của công nghệ. Mặc dù các đảng phái đang tranh nhau xem ai là người đáng được khen vì những giai đoạn bùng nổ kinh tế như thế, nhưng thực ra lời khen đang hiện diện khắp nơi. Nguồn gốc của sự thịnh vượng hiện nay cũng như mãi mãi vẫn là nền kinh tế thị trường.

Thị trường không chỉ là khái niệm trừu tượng hay hệ thống sản xuất và phân phối. Thị trường còn là người dân, những người thực hành tiết kiệm và đầu tư, gánh chịu rủi ro, hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng, quan sát thương trường và thực hiện những giấc mơ của mình. Trong hoạt động kinh tế, họ là những nhà sản xuất, những người công nhân và người tiêu dùng đang cùng nhau hợp tác trong một mạng lưới trao đổi quốc tế rộng lớn, trong đó những người sống cách xa họ nửa vòng trái đất, mà họ chẳng bao giờ gặp, mua sản phẩm của họ và làm ra những sản phẩm mà họ sử dụng.

Trong một thời gian dài, các nhà triết học đã tìm cách trả lời cho câu hỏi chủ yếu của lý thuyết xã hội: xây dựng xã hội như thế nào để có thể có một nền hòa bình giữa các dân tộc, dù họ là những người khác nhau? Sự thành công của nền kinh tế thị trường cung cấp cho ta một câu trả lời: họ trao đổi. Từ những vụ trao đổi đơn giản nhất cho đến những vụ trao đổi phức tạp nhất trên thương trường người ta đều làm một việc giống nhau: những người tự nguyện trao đổi với nhau – đây chính là bản chất của thị trường – nghĩa là họ đang làm công việc nhằm làm cho ai cũng đều được thỏa mãn.

Đấy được gọi là “sự kỳ diệu của thương trường”. Không thể nào tưởng tượng nổi là hàng tỷ và hàng ngàn tỷ dollar trong quá trình trao đổi lại có thể đi khắp thế giới và đấy chính là nguồn gốc của sự thịnh vượng của gia đình chúng ta, vậy mà chúng ta chẳng cần để ý đến hoạt động của hệ thống này. Không có gì ngạc nhiên là cuối cùng thế giới đã nhận ra điều kỳ diệu của hệ thống hợp tác kinh tế toàn cầu. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy ý tưởng cho rằng nước nghèo sẽ càng nghèo hơn, còn nước giàu sẽ giàu thêm là sai.

Sự thật là trừ những nước còn tiếp tục tiến hành thí nghiệm với nền kinh tế kế hoạch hóa như Cuba và Bắc Triều Tiên, các nước nghèo đang giàu lên (thí dụ như Argentina và Trung Quốc) trong khi một số nước giàu – do việc bành trướng các kế hoạch do trung ương lập ra – mà đã gặp khó khăn (thí dụ như Đức và Pháp). David Dollar và Aart Krasy, trong một báo cáo gần đây do Ngân hàng Thế giới xuất bản, đã chứng minh rằng kinh tế phát triển làm cho thu nhập của người nghèo gia tăng theo cùng tỷ lệ với tất cả những người khác[5].

Nhưng thương trường không hoạt động một cách tự động, thị trường không được gắn la bàn đạo đức để người ta theo, văn hóa thương trường cần phải có điều kiện tiên quyết về mặt đạo đức, đấy là công nhận một số giá trị nền tảng. Những người tôn trọng thị trường cũng cần phải tôn trọng tính thiêng liêng của mỗi con người, tôn trọng sự phân phối một cách rộng rãi nhất tài sản, tôn trọng cơ hội rộng rãi nhất cho tính sáng tạo trong hoạt động kinh tế và vị trí cho mỗi người trong nền sản xuất của xã hội.

Điều đó có nghĩa là phải đặc biệt quan tâm tới định chế cực kỳ quan trọng là sở hữu tư nhân, tự do ký kết hợp đồng, cạnh tranh và sáng kiến trong kinh doanh; cũng cần phải hiểu rằng những định chế này không phải là mục đích tự thân mà là những công cụ được sử dụng nhằm vinh danh đấng Hóa Công, nhằm theo đuổi đức hạnh và lợi ích chung, nghĩa là sử dụng những cơ hội rộng rãi và thuận lợi trong khuôn khổ an toàn, tự do và tinh thần công dân.

Thị trường là định chế mạnh mẽ nhất mà ta có thể tưởng tượng được nhằm làm cho sự thịnh vượng và tính hiệu quả trở thành khả thi, nhằm thực hiện việc tính toán và phối hợp các nguồn lực trong xã hội, và đương nhiên là những điều kiện tiên quyết này là yếu tố cần thiết trong việc giúp đỡ người nghèo vì hiệu quả là điều kiện tiên quyết của quá trình phân phối. Nhưng tính hiệu quả phải được gắn vào trong khuôn khổ xã hội vì nó không chỉ là lời và lỗ. Xã hội tự do đòi hỏi những nền tảng đạo đức ngay từ nguyên tắc căn bản của chúng: sự cống hiến, lòng nhân từ, tinh thần trách nhiệm, hướng tới tương lai và tinh thần hy sinh.

Trái ngược với những khuôn mẫu do các phương tiện thông tin đại chúng dựng lên, người doanh nhân thành đạt hiểu rõ tất cả những tiêu chuẩn đó. Thành công trên thương trường xuất phát từ ước muốn phục vụ người khác, cả người tiêu dùng lẫn cổ đông; lợi nhuận bằng tiền có thể là động cơ hành động, nhưng tự bản thân, nó không thể là nền tảng của thắng lợi về mặt tài chính. Thị trường cạnh tranh buộc các doanh nhân lúc nào cũng phải nhìn ra bên ngoài và sẵn sàng phục vụ, nếu không họ sẽ mất thị phần.

Việc hướng ra bên ngoài như thế sẽ hình thành nên quan điểm xã hội của những doanh nhân thành đạt nhất; không phải ngẫu nhiên mà lĩnh vực từ thiện to lớn ở Mĩ lại do những người giàu có nhất trong xã hội tạo ra bằng cách hiến tặng tài sản của mình. Việc đóng góp cho quỹ từ thiện cũng gia tăng trong những giai đoạn kinh tế phát đạt. Đóng góp cho quỹ từ thiện là khẳng định rằng ích kỷ là không tốt, và cuối cùng thì tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm đáp ứng những nhu cầu rộng lớn hơn của con người chứ không chỉ những thứ chúng ta bắt gặp trên thương trường.

Điều đặc biệt cần nhớ là mỗi người tham gia thị trường đều không phải là do áp lực mà là hành động một cách tự nguyện. Khi hành động của chúng ta mang lại lợi ích cho người khác thì mỗi người đều được lợi. Và ngược lại, nếu thị trường tỏ ra tàn nhẫn với bất kỳ một người nào đó thì nó cũng sẽ tàn nhẫn với kẻ coi thường nhu cầu và giá trị của cộng đồng và chỉ theo đuổi tư lợi một cách mù quáng. Như vậy là, thị trường và lòng vị tha là những thực thể gắn bó với nhau và có tác dụng tăng cường lẫn nhau, nhưng không phải là chỉ cho các ông chủ tư bản mà sự liên kết còn mở rộng phạm ảnh hưởng lên toàn bộ hệ thống lao động và trao đổi nữa.

Văn hóa của thương trường giúp chúng ta làm trọn ý Chúa

Văn hóa của đức hạnh buộc chúng ta phải ước mong rằng tất cả những người có thiên hướng hoạt động đều được phép làm như thế. Trong Sáng Thế Ký, Chúa đã kêu gọi gia đình nhân loại đến với điều có thể được gọi là thiên hướng kinh doanh – Hãy sinh sản, thêm nhiều, làm cho đầy rẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng (Sáng Thế Ký, 1: 28, Kinh Thánh, Cựu Ước và Tân Ước, United Bibble Societies, bản in năm 1992 – ND) – một lời răn rõ ràng là phải làm việc và sáng tạo.

Thị trường cung cấp cơ hội tốt nhất cho người ta sử dụng khả năng sáng tạo trời cho của họ và trở thành người tham gia vào công việc xã hội một cách trọn vẹn. Những rào cản về mặt pháp lý và những sáng kiến trái khoáy do chính phủ dựng lên đẩy người dân ra khỏi nơi làm việc; ngăn cản nhiều người, không cho họ hoàn tiện khả năng của mình và không thể trở thành một phần sống động của quá trình phân công lao động của xã hội.

Văn hóa của thương trường còn có thể củng cố văn hóa của đức hạnh bằng một con đường khác nữa. Thị trường tự do – sự hợp tác một cách có kỷ luật và tự phát giữa hàng triệu triệu tác nhân riêng lẻ – tạo ra sự cải thiện điều kiện vật chất của nhân loại. Nó đã tạo ra nền y khoa hiện đại, cung cấp điện năng, nước sạch và bây giờ là khả năng tiếp cận thông tin đến những thành phần dân cư rộng rãi nhất trên thế giới.

Văn hóa thương trường thường được người ta mô tả như là “khả năng sống sót của những người phù hợp nhất”, trong đó đa số người hoặc là phải làm ra nhiều của cải hoặc là sẽ bị thương trường loại bỏ và trở thành thân tàn ma dại. Những người theo tư tưởng tập thể sẽ thuyết phục chúng ta rằng trên thực tế thị trường rất có hại đối với người nghèo. Nhưng sự thật là, nền kinh tế không bị chính trị nhúng mũi vào là phương tiện hiệu quả nhất trong việc sử dụng các nguồn lực và đáp ứng các nhu cầu của con người .

Để minh họa, tôi xin được trích dẫn một vài đoạn trong bài báo cuối cùng[6] của ông Julian Simon – một người bạn đã quá cố của tôi. Ông viết rằng mình đã tham dự một đám cưới và quan sát những người tham dự, từ những giám đốc các doanh nghiệp giàu có đến những người ăn mặc bình thường nhất. Ông nghĩ rằng cách đây hai trăm năm tổ tiên của mười chín trong số hai mươi người có mặt tại đó là những kẻ “vắt mũi chỉ đủ bỏ miệng”. Từ năm 1750 tất cả các chỉ số về điều kiện sống của người dân trong phần lớn các khu vực trên thế giới đã được cải thiện một cách đáng kể. Thí dụ như ở Anh, tuổi thọ trung bình lúc đó là khoảng 35, năm 1985 đa số dân Anh, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều sống đến khoảng 70 tuổi.

Simon chỉ ra rằng thị trường không chỉ mang đến cho chúng ta các công cụ và những món đồ tinh xảo, rằng sự phồn vinh là biểu tượng của sức mạnh chinh phục thiên nhiên nhằm mang lại lợi ích cho chúng ta. Nó còn – thông qua những ngành công nghệ do trời phú cho – cho phép chúng ta cải thiện và kéo dài cuộc sống nữa. Những khám phá làm người ta sửng sốt trong lĩnh vực y khoa rõ ràng là nhằm phục vụ con người.

Do sự gia tăng của những định chế thị trường mà những tiến bộ về mặt vật chất như thế không chỉ dành cho những dân tộc hiện đang giàu có. Theo tính toán của nhà kinh tế học Richard Easterlin[7], trong thập kỷ tới, thu nhập bình quân của các nước gọi là Thế Giới Thứ Ba sẽ bằng khoảng 80% thu nhập trung bình trên đầu người của Mĩ vào năm 1990. Còn trong xã hội của chúng ta, những người sống dưới mức nghèo khổ cũng có khẩu phần ăn khá hơn là tầng lớp quý tộc châu Âu thế kỷ XVIII. Trong suốt 100.000 năm nhân loại chỉ tìm được cách ăn đủ no, còn bây giờ vấn đế đối với đa số lại là làm sao ăn ít đi[8].

Sự phát triển của trao đổi tương đối tự do còn làm cho xã hội trở thành vô cùng năng động. Mô hình trước đây của phải tả – trong đó mỗi tác nhân kinh tế đều hoặc là người làm thuê, người chủ hay người nghèo – đã không đưa ra được bức tranh kinh tế chính xác nữa. Cách đây hai mươi năm, chỉ những người giàu có nhất mới đầu tư vào thị trường chứng khoán, còn hiện nay, một nửa giới trung lưu tham gia vào lĩnh vực này. Càng ngày càng có nhiều người có quyền sở hữu hơn. Nghĩa là lợi nhuận của công ty đã được dân chủ hóa. Hy vọng rằng nền kinh tế đang phát triển nhanh hơn bao giờ hết sẽ lôi cuốn càng ngày càng đông người tham gia hơn.

Những vấn đề của thị trường

Nhưng thị trường cũng có một số vấn đề.

Thật bất hạnh và cực kỳ nguy hiểm là nhiều người lớn tiếng ủng hộ nhất cho thị trường đã không nhìn thấy nền tảng đức hạnh của tự do. Chúng ta phải gửi tới những người cho rằng xã hội có thể coi tài khoản ngân hàng là mối bận tâm chủ yếu thông điệp mạnh mẽ sau đây: trong nền kinh tế thị trường cũng còn cả những động cơ xấu xa nữa. Mục sư, Tiến sĩ Edmund Opitz nói như sau: “Thị trường còn cho thấy những người thiếu đạo đức, thể hiện trong suy nghĩ và hành động của họ – vì theo nghĩa rộng nhất của từ này – nó vẫn chỉ là thị trường mà thôi.[9]” Không phải tất cả các phương tiện kiếm tiền đều là đức hạnh cả, còn có những giá trị lớn hơn là lợi nhuận và sự thành công trên thương trường. Trong đó giá trị của cuộc sống phải giữ vị trí hàng đầu.

Như tôi đã nói, sự bùng nổ của các ngành công nghệ trong lĩnh vực y học góp phần nâng cao phẩm giá của con người. Chúng ta có những loại thuốc làm cho người ta sống lâu hơn, chúng ta có những biện pháp phẫu thuật có thể giúp cả những đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ, chúng ta có những loại thuốc có thể làm dịu những cơn đau không thể nào chịu đựng nổi. Thị trường làm cho tất cả những tiến bộ như thế trở thành khả thi, tất cả đều nhằm nâng cao đời sống của con người.

Xin xem xét một trường hợp: Giáo sư Stephen Hawking. Cách đây ba mươi năm có thể ông đã phải nằm trong khu điều trị của bệnh viện của nhà nước, nhưng nhờ có công nghệ tiên tiến mà ông có thể trình bày trí tuệ và hiểu biết của mình (xin nói thêm là không phải tôi tán thành tất cả những điều ông nói) cho cử tọa rộng rãi trên toàn thế giới.

Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ của công nghệ cũng lại xuất hiện những phương tiện có thể đe dọa chính cuộc sống. Khả năng tạo ra người bằng nhân bản vô tính là một trường hợp. Việc công nghệ có thể làm được một cái gì không có nghĩa là chúng ta phải làm cái đó, Acton từng nói: “Tự do mà chúng ta đang nói tới không phải là tự do muốn làm gì thì làm mà là tự do làm điều chúng ta nên làm.” Cho nên tất cả những cố gắng của chúng ta đều cần phải được hướng dẫn bởi chữ “nên” huyền bí.

Mục đích và tính chính đáng của công nghệ là nó phục vụ cộng đồng nhân loại. Nhưng nếu nhân bản vô tính con người đi quá xa ý nghĩa của nó đến mức là nhân loại có thể không còn là cha mẹ của những đứa con của mình nữa mà họ sẽ tạo ra chúng, và tất cả những gì chúng ta làm ra hay tạo ra đều là của chúng ta thì điều đó sẽ hạ thấp phẩm giá đời sống của con người và dẫm đạp lên quan niệm về tính bất khả xúc phạm nhân quyền và phẩm giá của con người.

Thị trường phải dựa trên cơ sở đạo đức của đời sống hay đạo đức của tôn giáo. Và trong khi những câu hỏi mang tính đạo đức về cuộc sống và sự chết chắc chắn không phải bao giờ cũng dễ hiểu, nhưng những câu hỏi này không xuất hiện trong chân không đạo đức vì nhiều người còn phải sống và chết với những nguồn lực giới hạn. Đức hạnh trong ngành y và công nghệ y học là những vấn đề khác nhau, và đạo đức phải thâm nhập vào công nghệ.

Sự tiến bộ của công nghệ không chứa đứng trong nó nguyên lý đạo đức nội tại làm kim chỉ nam cho chính nó. Nếu đúng là nó cải thiện điều kiện sống của nhân loại thì nó phù hợp với đạo đức của cuộc đời, nó phải có tiêu chuẩn đạo đức khách quan làm kim chỉ nam.

Chủ nghĩa tiêu thụ

Chủ nghĩa tiêu thụ – được nhiều người coi là nền văn hóa do thị trường tạo ra – thì sao? Đây đúng là vấn đề nhức nhối. Nó phát sinh khi mục đích của cuộc đời là gom góp tài sản và những thú vui vật chất. Theo nghĩa này thì nó đúng là hình thức mới của lời báng bổ thánh thần xưa cũ. Nhưng xin nhớ rằng khi nói về chủ nghĩa tiêu thụ và sự sùng bái vật chất là chúng ta đang nói về những vấn đề của văn hóa chứ không phải những vấn đề của kinh tế học.

Nói cho ngay, trong khi thị trường tạo ra nhiều sự cám dỗ thì nó cũng cung cấp cho chúng ta những biện pháp giúp khắc phục được chúng. Nó cung cấp cho chúng ta những phương tiện cụ thể nhằm giúp chúng ta hướng đến một đời sống vượt lên trên những mối lo lắng tại đây và lúc này.

Thí dụ như cuộc cách mạng thông tin đưa đến cho chúng ta những cơi hội mới nhằm củng cố đức tin của chúng ta: qua mạng. Cũng cần nhớ rằng sáng kiến đã giúp chúng ta đọc Kinh thánh nữa: trước đây chỉ trong nhà thờ mới có những cuốn sách đắt tiền và đa số người trên 40 hay 50 tuổi không thể nào đọc được. Bây giờ đèn điện cho phép ta đọc ngay cả khi trời tối. Xin hãy suy nghĩ về sự kiện sau đây: đọc sách trước khi đi ngủ, một cái thú mà phần lớn ông bà tổ tiên của chúng ta không được hưởng vì không có điện và không có những cuốn sách hợp túi tiền.

Quảng cáo

Xin được nói đôi lời về quảng cáo như một chức năng của thị trường. Quảng cáo có thể được coi là một công cụ giáo dục, một phương tiện cạnh tranh hợp pháp và một phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu. Nó đáng được bảo vệ. Nhưng người sử dụng cũng phải có tinh thần trách nhiệm.

Thí dụ, không được khuyến khích người tiêu dùng coi tha nhân chỉ là những đối tượng. Xu hướng gợi dục thường được sử dụng trong lĩnh vực quảng cáo là một vấn đề. Nó khuyến khích người xem, thường là đàn ông, coi người đàn bà ăn mặc hở hang như là đối tượng – chỉ có thể xác mà không có linh hồn, coi thường nhân phẩm của người đó – mà không cần biết người phụ nữ ấy là ai.

Đây có thể là nhận thức mới đối với chân lý trong giới quảng cáo! Xếp sang một bên sự kiện là đã có nhiều vụ kiện tụng về thuốc lá ở Mĩ, tôi cho rằng có lý do để lo lắng về những chiến dịch quảng cáo nhằm tung ra thị trường những sản phẩm có hại cho sức khỏe của thanh niên.

Một hai năm trước nhiều người đã lên tiếng phê phán gay gắt ngành công nghiệp thời trang dị hợm gọi là: “heroin look” [tạm dịch: Vẻ ngoài ma cô – ND]. Đấy là sử dụng một cách vô trách nhiệm quảng cáo nhằm lôi kéo người ta vào những con đường có hại cho chính cuộc sống. Thông tin là một chuyện, còn lôi kéo người ta vào những việc xấu xa lại là chuyện khác.

Cũng cần phải nói rằng thị trường không chỉ là mua và bán. Nó còn là thuyết phục về mặt đạo đức, là sự xúc phạm đối với xã hội, sự tẩy chay và bảo vệ nữa. Tất cả những điều đó đều có chức năng xã hội. Thí dụ, những người theo tôn giáo truyền thống tẩy chay những người quảng cáo khi họ tung ra những hình ảnh bất công về tôn giao là hoàn toàn hợp pháp và đúng đắn. Nói cho ngay, ta phải có trách nhiệm – và rất cần – sử dụng tiếng nói của họ trong xã hội tự do.

Và những vụ phản đối chống lại những nhà quảng cáo sử dụng những kỹ thuật thiếu đạo đức đã làm cho ngành công nghệ thay đổi đột ngột cách tiếp cận của họ, bất ngờ tạo ra cái mà họ gọi là: “the happy look” [tạm dịch: Vẻ ngoài hạnh phúc]. Chỉ cần áp lực xã hội là ngành công nghiệp này, trong đa số trường hợp, đã từ bỏ những kỹ thuật hào nhoáng bề ngoài nhưng vô tích sự và tiếp thu cách tiếp cận thị trường gần gũi với cuộc đời hơn.

Tổng thống Mĩ, ông Bill Clinton, là một trong những người phê phán kiểu quần áo “vẻ ngoài ma cô”, điều thú vị là lúc đó ông đã đưa ra những nhận xét rất thích hợp và rất có sức thuyết phục. Nền tảng triết lý của những nhận xét đó là gì? Cơ sở của nó là triết lý cộng đồng luận, một phong trào trí thức xuất hiện đúng vào giai đoạn cầm quyền của Clinton. Phong trào này – thu phục được cả những người tân tự do lẫn tân bảo thủ – khẳng định rằng hiện nay chúng ta thảo luận quá nhiều về quyền nhưng lại ít thảo luận về trách nhiệm. Chúng ta nghe nói về “xã hội phải có trách nhiệm gì với tôi”, nhưng không nghe thấy nói về trách nhiệm của chúng ta đối với xã hội.

Phong trào này đã cung cấp cho đất nước biện pháp chỉnh lý hữu ích đúng vào lúc nó phải suy nghĩ về sự kết hợp kỳ quặc giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chúng ta cũng phải thận trọng đối với những giải pháp của triết lý cộng đồng luận. Nếu quan niệm đạo đức của họ đối với xã hội thúc giục chúng ta quan tâm hơn nữa đến lợi ích chung và ít đòi hỏi chính phủ phải làm cho cá nhân chúng ta hơn thì đấy là phong trào tốt.

Nhưng nếu nó chỉ được sử dụng nhằm bao che cho sự can thiệp vào công việc kinh doanh của chúng ta, can thiệp vào đời sống cộng đồng và đời sống của gia đình chúng ta thì đấy là một phong trào nguy hiểm. Nhưng cần ghi nhận rằng đa số những vấn đề mà những người theo phái cộng đồng luận nêu ra đều là do sự can thiệp quá đáng của chính phủ vào hoạt động của xã hội vì chính phủ thường có xu hướng chia rẽ chứ không gắn kết con người lại với nhau.

Kết luận

Mặc dù chủ nghĩa xã hội – như một hệ thống kinh tế – đã thất bại, chúng ta vẫn thường nghe thấy người ta chê bai chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường vì những thất bại của chúng trong việc phục vụ quyền lợi của cộng đồng nhân loại. Một số thành tích của thị trường bị mang ra phê phán. Hệ thống lời và lỗ không phải là toàn bộ cộng đồng nhân loại, nhưng một số người ủng hộ thị trường lại nghĩ như thế.

Thiếu ý thức văn hóa về những giá trị cao hơn là sự thịnh vượng về kinh tế thì văn hóa không thể phát triển trong dài hạn được. Muốn cho sự thịnh vượng về vật chất có ý nghĩa nào đó thì những giá trị như tính trung thực, lương thiện và lòng nhân hậu ngay từ khởi thủy phải xuất phát từ nền tảng đạo đức.

Điều thường bị người ta đánh giá thấp – vì phải suy nghĩ nghiêm túc thì mới hiểu được quan hệ nhân quả của nó – đấy là quan hệ trực tiếp giữa thành công trong lĩnh vực kinh doanh, sự thịnh vượng ngày càng gia tăng và những bước tiến đầy ấn tượng trong việc nâng cao sức khỏe và hạnh phúc của con người.

Văn hóa của thương trường có thể củng cố văn hóa của đức hạnh. Thông điệp này cần được đem ra thảo luận công khai. Những người theo trường phái tự do cấp tiến phủ nhận điều này là đang làm những việc không có lợi cho nguyên tắc tự do kinh tế.

Đồng thời, chúng ta cũng phải giúp những trợ thủ của chúng ta, những người đang cổ vũ cho văn hóa của đức hạnh để họ hiểu rằng chúng ta không cỗ vũ cho chủ nghĩa tư bản chỉ biết đến lợi nhuận, tức là chủ nghĩa tư bản phó mặc con người cho những lực lượng kinh tế mù quáng và không ăn sâu bén rễ vào đạo đức nền tảng của cuộc đời, của con người và tài sản.

Điều chúng ta đề nghị là một nền kinh tế tự do, tức là nền kinh tế đặt con người vào chính trung tâm của những hoạt động kinh tế đơn giản là vì con người là nguồn gốc của mọi sáng kiến kinh tế. Cho phép tôi được nói một cách dứt khoát rằng thị trường thấm đẫm những giá trị của tự do và đức hạnh là người trợ thủ cực kỳ cần thiết của trật tự xã hội tôn trọng phẩm giá của con người.

Tôi xin kết thúc ở đây với một vài trích dẫn của Alexis de Tocqueville và Lord Acton.

Tocqueville viết: “Chế độ chuyên chế có thể cai trị mà không cần đức tin, nhưng tự do thì không…. Trong chế độ cộng hòa, tôn giáo còn cần thiết hơn các chế độ khác. Nếu những liên kết đạo đức không được củng cố khi những mối liên kết chính trị được buông lỏng ta thì làm sao xã hội không bị hủy diệt cho được?[10]”

Còn Lord Acton thì tuyên bố: “Không có tôn giáo thì không nước nào có thể được tự do. Tôn giáo tạo ra và củng cố khái niệm về nghĩa vụ. Nếu không dùng nghĩa vụ thì phải dùng sự sợ hãi để kiềm chế người ta. Mà càng bị kiềm chế bằng sợ hãi thì càng ít tự do. Tinh thần trách nhiệm càng cao thì càng nhiều tự do hơn.[11]”

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Capitalism, Morality and Markets


[1] Pope John Paul II, Evangelium Vitae, 25 March 1995, no.39.
[2] C. S. Lewis, The Weight of Glory and Other Addresses, Collier Books/Macmillan
Publishing Co., 1980, p. 19.
[3] Russell Kirk, The Conservative Mind, Regnery Publishing, Inc., Washington, 1995, p. 68.
[4] Ludwig von Mises, Socialism, Liberty Classics, Indianapolis, 1989, p. 175.
[5] David Dollar and Aart Kraay, ÔGrowth Is Good for the PoorÕ, World Bank, March
2000 .
[6] Julian Simon, “Simon Said: Good News! There Are Fewer Constraints With Each New Generation”, Washington Post, 22 February 1998, p. CO1
[7] Richard A. Easterlin, Growth Triumphant: The Twenty-first Century in Historical Perspective, The University of Michigan Press, Ann Arbor, MI, 1996.
[8] Simon, op cit.
[9] Edmund Opitz, Religion and Capitalism: Allies, Not Enemies, Foundation for Economic Education, Irvington-on-Hudson, NY, 1992, p. 80.
[10] Alexis de Tocqueville, Democracy in America. trans. George Lawrence, ed. J.P.
Mayer, Harper Perennial, New York, 1988, p. 294.
[11] Lord Acton, Essays in Religion, Politics and Morality: Selected Writings of Lord Acton,
ed. J. Rufus Fears, Liberty Classics, Indianapolis, 1988, p. 650.

Joe Rogan — Lựu đạn bạn là một con NGƯỜI [THĐP Vietsub]

 

“Bạn ràng buộc bản thân và tâm trí vào một ý thức hệ nào đó thì bạn sẽ đi theo một con đường, và con đường đó có thể hoặc không thể dẫn bạn đi theo một phương hướng tốt nhưng bạn sẽ vẫn phải đi trên con đường chết tiệt đó nếu bạn dính mắc vào một hệ tư tưởng, và nó có thể là một con đường tồi tệ. Nó có thể là một con đường dẫn tới sự cắt bỏ âm vật của con gái bạn bởi vì đó là một truyền thống chết tiệt, giống như việc mấy bà điên ở Châu Phi cắt một lỗ trên môi, kéo dãn nó ra để nhét dĩa vào đó. Tại sao thế? Bởi vì họ đang đi trên một con đường chết tiệt.”

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=3OGa1guw9f8?rel=0]

Nói đi em…

Featured Image: Emily Soto

 

Em hãy nói đi em
Đừng chôn tất cả trong cõi lòng như vậy
Em sẽ mệt mỏi lắm đấy
Nên em hãy nói ra, nói với bất kỳ ai…

Em đừng để trái tim em mệt nhoài
Khi em cứ lặng im với bao nhiêu mỏi mệt
Em hãy nói với những người thân thiết
Và nếu không thể, em hãy nói với một người dưng…

Em vẫn trách cuộc đời chẳng ai hiểu em, có đúng không?
Em nhìn lại mình đi, em chẳng chịu mở lòng với ai hết cả
Tâm hồn em, em đã đóng lại với trăm nghìn chiếc khóa
Ai sẽ là người mở ra đây?

Xin em hãy dang rộng đôi tay
Hãy mở lòng mình ra, dù cuộc đời có bao nhiêu cay nghiệt
Có một điều mà em cần phải biết
Đó là…

Nếu như em không chịu nói ra
Thì em đừng trách là không ai nghe em nói
Em đừng trách tôi, bởi vì tôi cũng rất mệt mỏi
Mệt mỏi với chính sự im lặng của em…

Nào, bây giờ em hãy nói đi em…

 

Một Đời Quét Rác

Khi lòng đã tắt

Featured Image: Raffaele Camardella

 

Tôi đang thắc mắc những người tham nhũng, những người hủy hoại thế hệ đi sau, những người đạp lên đầu người khác giành sự tồn tại liệu có giật mình thức dậy lúc nửa đêm để thở hồng hộc với mồ hôi toát đầm đìa?

Nghĩ cũng ngộ, đất nước này chịu quá nhiều tổn thương trong suốt chiều dài lịch sử rồi (trong số những “vết thương” đó có tuyến đường sắt mà tới giờ không có cái thứ 2 thay thế trong trường hợp xấu nhất xảy ra, có những cây cầu già cỗi nhưng chưa có dấu hiệu thấm nứt như hầm chìm dưới sông hay nham nhở như đường cao tốc nào đó v.v..), hà cớ gì lại tiếp tục đóng cửa ẩu đả nhau để tự làm đau chính mình và người khác?

Nếu không làm việc gì xấu, nếu mình minh bạch thì mọi thế lực dù mạnh đến cỡ nào cũng không thể quật ngã. Vậy tại sao thỉnh thoảng lại chặn blog này blog kia, web này web nọ?

Tôi được coi là “chủ”, nhưng có cảm giác như tôi đang là “vật chủ” để bọn ký sinh trùng sống bám và hút triệt để đến giọt máu cuối cùng. Tôi kêu gào, tôi dùng dao thẻo từng thớ thịt để moi cho bằng được đám sinh vật vô lại ấy ra, nhưng chính hành động cầm dao của tôi lại bị quy chụp là có âm mưu sát hại đồng loại. Tôi mong chờ ngày được sang cái làng bên chữa vết thương, và khi tôi trở về, đừng gọi tôi là thằng phản bội làng quê nơi tôi sinh ra và lớn lên, bởi vì nơi đây không có nổi một bác sĩ giỏi để cho tôi một liều thuốc an thần chứ đừng nói chi là trị dứt căn bệnh trầm kha mà bọn tôi – công dân có chỉ số hạnh phúc cao ngất ngưỡng theo đánh giá vớ vẩn nào đó – đang dính hàng loạt. Liệu có nên cảm ơn “những người dẫn đường thông thái”?

Nên đọc truyện cổ tích Việt Nam nhiều hơn nữa, Mai An Tiêm từng nói: “Của biếu là của lo, của cho là của nợ.” Chẳng lẽ ai cho cái gì mình cũng hí hửng nhận sao? Ví dụ: dân làng bán máu, bán mồ hôi và nước mắt để góp tiền mua siêu xe Bugatti Veyron và tin tưởng giao cho bạn để bạn lèo lái họ đi khai phá một mảnh đất mới – nơi chất lượng giáo dục và đào tạo sánh ngang tầm với thành thị, nơi người lao động không phải chật vật mưu sinh, nơi trẻ em, phụ nữ, người già được bảo vệ an toàn, nơi động vật hoang dã không phải kêu gào cùng những cánh rừng đang dần ngã quỵ, nơi khoáng sản sâu trong lòng đất có được giấc ngủ yên lành, nơi dân làng cùng báo chí có thể trải lòng ra một cách vẹn nguyên mà không bị kết tội phản bội, v.v..

Dù cho nó có bị gọi là “Utopia” đi chăng nữa – nhưng bản thân bạn không biết lái xe thì bạn cũng nhận sao? Bạn từng ngồi trên xe không có nghĩa là bạn biết lái xe, mà giả sử bạn biết lái xe chưa chắc gì bạn đã biết lái đến đúng chỗ mà dân làng muốn đến, bởi vì bạn cứ nghĩ lợi ích cho bạn thôi, bạn nghĩ là chỗ đó mới hợp với gia đình của bạn, để dễ dàng thâu tóm những vị trí đẹp nhất, sang trọng và tiềm năng nhất, chứ không phải gia đình của họ, dù họ chỉ cần những chỗ để ngã lưng một cách vô tư lự mà không phải lo canh cánh bị cướp bóc, trộm cắp và hiếp dâm! Đây chẳng phải là một điều đáng hổ thẹn, cần xin lỗi và cần trả xe lại cho dân làng để họ giao cho người phù hợp hơn sao?

Tôi cảm thấy lòng mình đã tắt với nơi đây rồi!

Khi lòng đã tắt, người ta không muốn hồi âm bất cứ cái thư gì của bất kỳ ai dù đã đọc đi đọc lại hàng chục lần (do ngày nào cũng check mail 5,6 lượt)…

Khi lòng đã tắt, người ta chỉ biết mỉm cười ban ngày với gia đình, bạn bè để rồi đêm về lúc chỉ còn một mình thì lại mếu máo như vừa mất đi thứ gì rất quý giá (giống Lão Hạc bán đi con chó Vàng).

Khi lòng đã tắt, người ta sẽ lắng nghe một cách quán tính những chia sẻ của người khác, lời nói đi vô lỗ tai này thì thoát ra lỗ tai bên kia, nếu cơn chán chường lên tới đỉnh điểm, người ta thậm chí còn hét toáng lên với người đang cố gắng kéo mình ra khỏi vũng lầy với bàn tay ấm áp và ánh mắt trìu mến nhất: “IM ĐI!”

Khi lòng đã tắt, người ta không còn chú trọng vào việc chăm chút cho bản thân nữa, người ta không còn sân si khi thấy người khác đang khoác những bộ cánh hàng hiệu, chạy con xe đắt tiền và xài điện thoại đời mới nhất nữa.

Khi lòng đã tắt, người ta coi chuyện tình cảm cũng chỉ là một liều thuốc an thần giống như một kẻ nghiện ngập đang tìm cách tái hiện cảm giác phê, đắm chìm trong thế giới màu sắc bay bổng bằng việc hút, hít, chích và cắn thuốc…

Khi lòng đã tắt, người ta lắc đầu trước những cơ hội việc làm, chỉ nằm bần thần ra đó hoặc đi ra đi vô như một bóng ma, lặng lẽ lướt trên đường phố và không nhận được sự quan tâm của bất kỳ ai.

Khi lòng đã tắt, người ta lao vào thế giới internet, ru ngủ mình bằng những lời khuyên sáo rỗng từ những fanpage hay status của bạn bè, nhanh chóng bấm like nhưng rồi cũng âm thầm bỏ đi.

Khi lòng đã tắt, người ta nghe nhạc với cường độ âm thanh lớn nhất nhưng giọng nói quá bé để có thể rên la như một con thú bị trúng bẫy, đang giẫy giụa từ ngày này sang ngày khác với luồng máu cạn dần.

Khi lòng đã tắt, người ta không còn tin nữa, không còn tin vào những phép màu nhiệm đã xảy đến trong quá khứ nữa. Người ta muốn tìm đến một tôn giáo để có thể trút bỏ những dối trá lọc lừa vô tình thu lượm được trong hành trình khổ đau kia.

Khi lòng đã tắt, người ta trở về đúng bản chất của mình, không còn đánh bóng vẻ hào nhoáng, không còn những xu nịnh, bon chen, không còn sự tự tin, năng động của một thời rực rỡ….

Và khi lòng đã tắt, nghĩa là người ta đã không còn mong chờ và đợi mong bất cứ điều gì nữa rồi…

 

Quách Dự Tây