19 C
Da Lat
Thứ Năm, 24 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 185

Bạn có yêu công việc của mình không?

Featured Image: Becca Heuer

 

Bạn có yêu công việc của mình không?

Công việc tôi đang nói ở đây là công việc kiếm cơm của bạn, là công việc mà hàng tháng bạn khao khát lương nhảy về tài khoản như sa mạc khô cằn chờ ngày mưa đến. Là công việc sáng đi tối về đều đặn 2 buổi trên một cung đường với 1 tuần 7 ngày, đến nỗi bạn có thể đếm được hết bao nhiêu quán bán đồ ăn sáng, bao nhiêu công viên và bao nhiêu góc đường sẽ có các anh áo vàng cầm còi huýt huýt mỗi khi có người đi lệch tuyến, vượt đèn đỏ, ngược chiều hoặc cái gì tương tự như thế.

7 ngày của bạn…

Cung đường của bạn…

Công ty của bạn, đồng nghiệp của bạn…

Công việc của bạn…

Nhưng… bạn có yêu nó không?

Bạn học Đại học. Bạn tốt nghiệp. Bạn ra trường. Rồi từ đây, bạn đâm đầu vào đời như một kẻ vừa tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm sau nhiều năm trời mê mải tìm kiếm, như một lữ hành kiệt sức vừa nhìn thấy suối nguồn và đất liền. Bạn mừng rỡ reo vang, phấn khởi, phấn chấn, bới móc tận con tim bao nhiêu nhiệt huyết, tuổi trẻ và sinh lực của bạn để đến với miền đất hứa đó.

Rồi bạn nhận ra đời không như mơ, không như những câu chuyện bạn vẽ ra hàng đêm trước khi đi ngủ để tự trấn an mình bằng những hình đẹp đẽ sau khi ra trường.

Cái thưở mới ra trường ấy, khi bạn vẫn còn rực cháy khao khát cống hiến và chứng tỏ bản thân, bạn nhận một công việc vì rất nhiều lý do:

  • Bạn muốn tích lũy thêm kinh nghiệm với một mức lương khiêm tốn và tự nhủ khi nào con chim đã đủ cánh thì việc tìm đến miền đất hứa để “vỗ béo” sẽ không phải là quá khó.
  • Bạn bị choáng ngợp bởi ánh hào quang của các công ty hàng đầu đất nước, thậm chí là các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu thế giới và nhận ra rằng đó là thiên đường cho bạn cả về tiền và tiếng. Bạn nháo nhào tìm kiếm và đặt nỗ lực để tham gia chương trình quản trị viên tập sự của họ. Hẳn đó sẽ một trải nghiệm tốt đối với một đứa mới tập tễnh bước vào đời như bạn.
  • Hoặc đơn giản là bạn thích công việc đó dù rằng nó chẳng hề liên quan gì đến 4 năm ngồi mài mông trên giảng đường Đại học.
  • Hoặc càng đơn giản hơn nữa, bạn nhận việc vì nó đúng là ngành bạn đã theo học.

Và có thể còn vài lý do khác nữa mà tôi chưa đủ tầm để phát hiện ra, hoặc giả những lý do này quá phổ biến cho một người vừa rời ghế nhà trường để đến với một môi trường hoàn toàn mới khi nhận công việc đầu tiên trong đời mình.

Nhưng rồi… 1 năm hoặc 2 năm sau, hãy cho tôi biết, bạn có yêu nó không?

Có thể, sau 2 năm, cái nhiệt huyết của một sinh viên vừa ra trường đã giảm đi rất nhiều “nhờ” cái sự đong đưa, đưa đẩy của cuộc đời, của công việc và của con người. Có thể sẽ có nước mắt, rồi có quyết tâm rồi có cả bức xúc, hoặc có thể có sự an nhàn, thoải mái hoặc thỏa mãn. Ai mà biết được.

Lúc này, hãy thử trung thực nhìn lại, sau khi đi qua quãng thời gian đầu tiên cho một công việc trong đời, cái lý do để bạn vẫn đang làm công việc hiện tại, vẫn đang đi trên con đường ấy hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm… thì nó còn muôn màu muôn vẻ hơn cả 2 năm trước:

  • Bạn nhận được một mức lương tương đối tốt, kiểu như “ngó lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống thì chẳng ai được như mình”, và bạn biết là phải nắm lấy công việc này, chủ yếu là vì con số hàng tháng nhảy nhót trong tài khoản của bạn có thể giúp bạn sống đủ và lo cho gia đình (trả nợ cho bố mẹ, cưới vợ, cưới chồng….) dù rằng bạn ớn tận cổ mỗi sáng phải đặt chân vào công ty và nhe răng cười như thể cuộc đời này tuyệt vời lắm khi bạn được đi làm ở đây.
  • Bạn hài lòng với công việc hiện tại: nhàn hạ, “áp lực” chỉ là 2 từ bạn đọc trên báo chí và nghe than thở từ những người khác, vắng sếp thì trốn đi ăn sáng, uống café hoặc về sớm, chỉ phải lo báo cáo khi sếp cần, không cần lo nghĩ đến kế hoạch, doanh số, deadline…
  • Bạn sợ phải thay đổi sang một môi trường mới, con người mới, công việc mới, con đường đi làm cũng mới nốt. Bạn thích cảm giác an toàn hơn, thích gặp những con người mà mấy năm trời bạn từng gắn bó, công việc của bạn cũng cứ đều đều như thế từ năm này qua năm khác.
  • Bạn hài lòng với chế độ công ty, môi trường của công ty nhưng bạn không hài lòng với công việc hiện tại.
  • Hoặc bạn chỉ đang làm việc cầm chừng để ấp ủ mở công ty riêng hoặc buôn bán nhỏ trong vài năm tới…

Nhưng… bạn có yêu công việc của mình không?

Việc yêu thích công việc của mình, theo tôi là không quá khó. Không phải bạn làm đúng ngành học hoặc có một mức lương khủng là có thể khẳng định bạn có yêu công việc của mình không. Bạn chỉ cần thích nó, luôn mỉm cười với nó, muốn sống chung với nó, không muốn rời xa nó. Tôi thấy tình yêu như thế là quá đủ rồi.

Lương thì quan trọng đấy nhưng cái khiến cho tinh thần bạn phấn chấn và giúp cho hiệu suất công việc của bạn tốt trong thời gian lâu dài thì chưa chắc đã là lương đâu.

Bạn có thể đã có một thời gian mất phương hướng, loay hoay và bế tắc trong công việc nhưng đến thời điểm bây giờ, khi tôi hỏi “bạn có yêu công việc của mình không?” và nhận được câu trả lời “có” của bạn, tôi cho là tôi vô cùng ngưỡng mộ bạn. Tôi ngưỡng mộ bất cứ ai khi đọc bài này và có câu trả lời “có”. Vì bạn biết rồi đấy, bạn chỉ có một cuộc đời, một lần sống nhưng bạn có nhiều lựa chọn, nhiều con đường và nhiều công việc. Hãy chọn cho đúng để bạn luôn cảm thấy cuộc đời này ngày nào cũng đáng sống, và con đường đi làm hàng ngày của bạn sẽ ngắn hơn, nhiều tiếng hát hơn (nếu bạn biết hát và huýt sáo) và nhiều niềm vui hơn.

 

Nhóc Con Bon Chen

Viết về quan niệm của người Việt: Sự tai hại của những đồng tiền khôn và suy nghĩ “trẻ con thì biết cái quái gì?”

Featured image: Evgenegve

Như đã nói ở bài trước, văn hóa là một đề tài vô cùng rộng và sâu. Để nói hết về văn hóa là điều không thể, nhưng để nói những điều bất cập cơ bản đang tồn tại trong xã hội, trong cuộc sống của chúng ta, lại chẳng khó khăn gì. Vì chúng đã tồn tại một cách khách quan quanh ta quá lâu rồi, tệ hơn là chúng còn ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người đến mức khó lòng mà gỡ ra được, dù ta biết chúng chẳng tốt đẹp gì đi chăng nữa. Sau đây là một vài quan niệm trong đời sống, văn hóa ứng xử có lẽ đã lỗi thời, lạc hậu hay sai lầm trong đời sống mà chúng ta có lẽ đã ít nhất một lần gặp phải.

Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn

Đây có được coi là một “nét văn hóa” của người Việt Nam chúng ta không? Nó cũng là kinh nghiệm được đúc kết, là hoạt động con người tạo ra, lưu giữ và truyền lại cho các thế hệ sau, như một hành động khôn ngoan, như một bước đi tắt giúp chúng ta đạt được điều mình muốn. Nghe thì có vẻ tốt, nhưng hãy nhìn xem “nét văn hóa” này đã làm cho cuộc sống chúng ta trở nên trì trệ và xấu xí như thế nào.

Khoan hãy nói đến khôn và dại, trước tiên là cụm từ “đồng tiền đi trước”, khá rõ ràng ý của câu nói là chúng ta nên nghĩ về cách sử dụng tiền bạc sao cho đúng thời điểm để đạt được điều ta mong muốn, tránh gây phiền phức về sau. Chúng ta đã nghe lời dạy cha ông và thực hành câu nói này khá tốt, tốt đến nỗi nó tạo nên một nét văn hóa đặc thù: văn hóa của những đồng tiền. Một nét văn hóa xấu xí tác động lên mọi ngóc ngách của cuộc sống, khiến cho một phần nhỏ xã hội thích thú vui mừng, còn một phần lớn còn lại ức chế, tức tối và đau lòng. Càng đau lòng hơn khi gần như không có cách nào ngăn nét văn hóa này lại được cả.

Ai cũng muốn khôn, thế nên ai cũng muốn cho đồng tiền đi trước. Người muốn cho đồng tiền đi trước một, thì người muốn nhận đồng tiền đi trước lại nhiều gấp mười. Tất cả mọi người, dù cho làm nghề nghiệp gì, dù cho tuổi tác và giới tính ra sao, dù cho ở địa phương nào, cũng đều mong muốn được nhận những đồng tiền này. Những đồng tiền sinh ra trước cả khi họ bỏ công sức, dù cho công sức làm việc đó là nghĩa vụ của chính họ. Thật vậy, càng ngày chúng ta lại càng phải trả tiền nhiều hơn cho những dịch vụ chính đáng ta cần, một cách vô lý.

Nghĩ xem, nhiệm vụ của giáo viên là gì? Có phải là dạy dỗ học sinh thật tốt? Nghĩa vụ của bác sĩ là gì? Có phải là chăm sóc bệnh nhân thật tốt? Nhiệm vụ của những người làm công việc hành chính – nhà nước là gì? Có phải là phục vụ người dân? Những công việc đó, là nghĩa vụ của họ, họ việc họ PHẢI làm. Họ đã được trả lương để làm điều đó rồi. Vậy tại sao ta lại phải trả cho họ thêm một khoản khác ngoài lương, chỉ để họ làm công việc đó cho chúng ta, với cùng một chất lượng? Tại sao lại phải thêm tiền cho giáo viên để họ dạy con mình tốt hơn, chăm con mình chu đáo hơn? Tại sao phải trả thêm tiền cho bác sĩ để họ chữa bệnh cho ta? Tại sao phải trả thêm tiền cho những người làm việc hành chính để họ làm cùng một việc chẳng tốt hơn chút nào?

Thật ra thì ai cũng biết, tất cả vì những thứ này không đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Chúng ta cần họ, quá nhiều người cần họ nên họ mới làm cao và yêu sách. Thời gian là vàng bạc, ta muốn mọi việc được giải quyết nhanh chóng thì buộc phải “xì” ra một ít tiền đi trước. Mọi người đều muốn được giải quyết nhanh nên ai cũng cố nhồi tiền vào tay những người làm dịch vụ và rồi, có gì phải ngạc nhiên, văn hóa “tiền khôn” ra đời. Biết trách ai đây khi người đưa thì tự nguyện đưa, người nhận thì tự nguyện nhận. Hai bên chẳng ai trách ai chỉ về nhà rồi thở dài trách văn hóa Việt Nam ngày càng xuống cấp, trách tiền bạc sao quá lên ngôi. Hậu quả là một nét văn hóa đặc thù xấu xí kinh dị nhưng không cách nào xóa được. Muốn giải quyết ư, người dân không thể chỉ đơn giản không lót tay là xong, điều này sẽ gây ra nhiều rắc rối. Người nhận tiền không thể từ chối là xong, như thế không công bằng với bản thân vì mình không nhận người khác cũng nhận, và vì không nhận lấy gì mà ăn cho ngon mặc cho đẹp với đồng lương như hiện tại?

Lại theo tôi, một trong những lý do để nét văn hóa xấu xí này tồn tại, vì cung dịch vụ không đủ cầu, vì tình trạng độc quyền và trạng thái không minh bạch, tất nhiên, cả vì sự đạo đức giả dối nữa. Tại sao nhà nước phải cố công duy trì một bộ máy cồng kềnh nặng nề khủng khiếp để mọi hoạt động trở nên nhởn nhơ ì ạch như một bà già mập phì thừa cân như thế? Nếu như bộ máy chính quyền của chúng ta có thể tinh giảm thật sự để trở nên gọn gàng linh động thì chắc chắn tiền lương của những người làm công trong đó sẽ được nâng lên, họ sẽ luôn dư đủ cái ăn cái mặc, không còn phải đi tìm mọi cách thu thêm khoản lợi mờ ám nào nữa. Chẳng thà cứ để cho lương của mấy ông lãnh đạo cao ngút để họ tận tâm hơn cho đất nước, còn hơn những con số lương nhỏ bé giả tạo đến vô nghĩa khiến họ dành toàn bộ thời gian đi kiếm thêm bên ngoài như hiện nay. Mặt khác phải gỡ bỏ ngay các thủ tục hành chính nhiêu khê phức tạp, không được để tình trạng một hồ sơ phải lấy chục con dấu ở chục nơi trong chục ngày như hiện nay. Điều này làm thất thoát của xã hội biết bao nhiêu thời gian, công sức và tiền bạc, thật là lãng phí. Tại sao lại đối xử với người dân như vậy? Còn nữa, để xóa bỏ tình trạng này, chúng ta cần phải thị trường hóa, cạnh tranh hóa những dịch vụ mà hiện nay một số tổ chức đang độc quyền phân phối. Tại sao rất nhiều những dịch vụ cần thiết nhất, như giáo dục, y tế, nhiên liệu, hàng không… đều không đủ nhiều hoặc không đủ tốt cho xã hội nhưng không mấy ai được quyền đứng lên cạnh tranh? Những điều này có lẽ lên tới tầm vĩ mô mất rồi và tôi không đủ hiểu biết để đi sâu thêm nữa. Chỉ đau đớn thừa nhận rằng, chính chúng ta đã tạo nên nét văn hóa xấu xí này, chúng ta đang phải oằn mình để chịu đựng nó nhưng chẳng có phương án nào triệt để để thay đổi nó cả.

Một xã hội trọng đồng tiền, tôn đồng tiền lên trước mọi giá trị cuộc sống là một xã hội tồi tệ. Xã hội tồi tệ bởi những nét văn hóa tồi tệ. Chính chúng ta là người tạo ra nó, thì hãy tìm cách thay đổi nó, hãy bớt than van đi. Chính tay ta dúi cho mấy ông cảnh sát vài trăm ngàn rồi về chửi bới họ làm tiền. Ta trách xã hội trọng đồng tiền nhưng chính ta cũng chẳng hề xem nhẹ nó. Ta đòi tăng lương khi bản thân chẳng làm được gì hơn những việc đã được kí kết thỏa thuận trong hợp đồng. Nói chung, ta quá quan trọng sức mạnh của đồng tiền đến nỗi quên đi những giá trị khác của cuộc sống, làm cho gía trị của đồng tiền trở nên sai lệch và đáng ghét. Trở nên thần tiên thay vì chỉ là công cụ, trở nên sức mạnh thay vì là giấy vô tri. Và nguy hiểm hơn, mỗi ngày dù vô tình hay cố ý, ta vẫn đang cố truyền lại những nét văn hóa xấu xí này cho các thế hệ sau. Làm sao để ngăn điều đó lại? Làm sao để dạy cho con cái ta rằng cuộc sống còn nhiều giá trị cao đẹp hơn những đồng tiền. Làm sao để cho chúng hiểu tiền bạc chỉ là một thứ công cụ, không phải mục đích, rằng con người nên tìm đến những giá trị nội tâm, hơn là giá trị bên ngoài? Làm sao để cho chúng có thể sử dụng đồng tiền một cách khôn ngoan và hữu ích?

Để có thể dạy được chúng điều gì, trước tiên, xin hãy làm gương! Bạn không thể dạy con mình xem thường đồng tiền, khi bạn xem trọng nó. Bạn không thể dạy con mình thanh liêm, khi bạn nhận tiền khôn từ người khác thường xuyên. Bạn không thể dạy con mình cố gắng khi bạn đem tiền ra cố gắng  giải quyết mọi chuyện. Chính bạn, chính chúng ta, đã tạo nên nét văn hóa xấu xí này, nếu như có cách nào để sửa đổi, hãy làm gương và giáo dục lại những nét văn hóa tốt đẹp khác (cả về tiền bạc) cho con cái của mình.

Điều này dẫn đến một nét văn hóa khá sai lầm tiếp theo của người Việt: Trẻ con thì biết cái gì?

Đúng vậy, sai lầm lần này, chính là văn hóa “xem thường trẻ em” của chúng ta. Chúng ta yêu thương chúng, chăm sóc chúng nhưng chẳng hề xem chúng như những con người thực sự. Phần lớn chúng ta xem con cái mình như những con búp bê thì đúng hơn. Và sai lầm nhất là luôn nghĩ chúng còn nhỏ, chẳng hiểu gì.

Không đâu, bạn sai rồi, bọn trẻ, dù rất nhỏ, chúng vẫn hiểu hết đấy. Hiểu về cuộc sống, hiểu về bạn và những việc bạn làm. Chính điều đó tạo nên nhân cách và hành vi của chúng sau này.

Trong khi bạn luôn mặc định rằng bọn trẻ thì chỉ biết ăn, biết chơi, bạn quên rằng chúng cũng biết suy nghĩ nữa. Thậm chí đôi khi chúng còn suy nghĩ và biết nhiều hơn cả những gì bạn nghĩ. Nếu như nhiệm vụ của các bậc cha mẹ là dạy dỗ bọn trẻ từ những việc thường ngày thì phần lớn chúng ta chọn cách lờ chúng đi. Nếu như nhiệm vụ của cha mẹ là giải thích cho chúng hiểu về cuộc sống, về thế giới này thì phần lớn chúng ta cũng chọn cách trả lời mọi câu hỏi của chúng bằng một câu ngắn gọn “con hỏi nhiều quá, hỏi hoài à”. Nếu như nhiệm vụ của cha mẹ là làm cho bọn trẻ có trách nhiệm với cuộc sống của chính mình thì phần lớn chúng ta cũng chọn cách giấu đi tất cả. Điều này thể hiện rõ trong vấn đề tiền bạc và chuyện về giới tính. Chúng ta luôn lấy lý do chúng còn nhỏ để lãng tránh nhiệm vụ dạy dỗ của mình.

Chúng ta thường hay cho rằng mình dạy bọn trẻ rất tốt, nhưng thật sự có bao nhiêu gia đình thực sự dạy dỗ bọn trẻ qua những bài học, qua những lời dặn dò hay tình huống thực tế? Phần lớn chúng ta để chúng tự học qua cách hành xử của chính mình. Và phần lớn chúng học được những điều ta không hề muốn chúng học, cũng từ tấm gương gia đình. Làm sao một đứa trẻ có thể tôn trọng người khác hoặc cảm nhận được tình yêu thương khi cha mẹ chúng suốt ngày chửi bới, sỉ vả lẫn nhau trước mặt chúng. Làm sao bọn trẻ có thể biết lời hứa là rất quan trọng khi cha mẹ chúng cứ hứa hết điều này điều kia rồi khiến chúng thất vọng. Những lời hứa như ăn hết cơm đi rồi mẹ mua đồ chơi cho, nín khóc đi rồi mai mẹ mua kem… Làm sao bọn trẻ biết được tiền bạc là đáng quý nếu cha mẹ luôn đáp ứng mọi thứ chúng yêu cầu? Làm sao bọn trẻ biết đến tình thương khi cha mẹ chúng bịt mũi đi qua những người ăn xin? Làm sao bọn trẻ biết hòa đồng khi chúng ta dặn con mình chỉ được chơi với bạn này không được chơi với bạn khác? Chúng ta muốn con mình học những điều hay lẽ phải, nhưng chính chúng ta lại làm gương xấu cho chúng mỗi ngày, dù vô tình vì một lý do rất đơn giản “Ôi dào, con nít ấy mà thì biết cái gì?”

Đó là một quan niệm sai lầm, và không tôn trọng trẻ em đúng mức cũng như quá bảo bọc chúng như kiểu những con búp bê là một nét văn hóa sai lầm cần thay đổi.

Ngày hôm qua tôi đọc được một bài văn của em học sinh tiểu học được chia sẻ trên mạng. Em miêu tả gia đình mình rằng bố làm hải quan thường xuyên mang hàng hóa như quần áo, mỹ phẩm, điện thoại về cho mẹ bán lại. Ông nội em phản đối hành vi ăn cắp này nên ông và bố thường cãi nhau vào bữa cơm tối mỗi ngày. Với những lời lẽ ngây ngô nhất, điều ước của em là bố hãy thôi lấy trộm đồ của người khác để ông và bố không cãi nhau nữa. Một bài văn hơi dễ thương nhưng quá sức đau lòng, hiện thực tham lam vô trách nhiệm của một số người làm hải quan lần đầu được nhìn thấy qua lăng kính vô tư của một cậu bé. Tôi không biết cha mẹ của cậu bé này sẽ nghĩ sao khi đọc được bài văn của con mình. Họ sẽ tức giận, hay xấu hổ, hay sợ hãi vì đã vô tình làm gương cho con họ một cách xấu xí như vậy? Khi ở nhà không biết họ có nghĩ là mình là những kẻ trộm cắp, trong mắt con cái mình là kẻ trộm cắp? Tôi nghĩ là không, tôi nghĩ là họ cũng như bao nhiêu gia đình khác. Nghĩ con mình còn nhỏ thì biết cái gì nên tha hồ làm những hành động xấu xí và hằn trong tâm khảm chúng những bài học tồi tệ. Nếu lỡ một ngày đứa trẻ này lớn lên và trở thành một kẻ trộm cướp, họ có ngạc nhiên không? Họ có thể dạy dỗ nó không khi nó trả lời “ngày xưa ba mẹ cũng ăn trộm thường xuyên thì lấy gì dạy tôi?”

Rồi sáng nay trong một quán ăn, tôi không khỏi thở dài ngán ngẩm khi nhìn một bà mẹ trẻ (cô này là giáo viên, tôi biết cô ấy tuy không học trực tiếp bao giờ) cúi gập người xuống sàn để xỏ giày cho cậu quý tử tầm 6-7 tuổi của mình. Chưa kể đến chuyện cô ấy là giáo viên, tôi ngạc nhiên tại sao chúng ta lại có thể biến con cái mình thành những đứa trẻ bù nhìn đến thế? Liệu sau này chúng có lớn lên với đầy đủ bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và độc lập một người đàn ông cần phải có? Đây không phải hành động cá biệt, chị gái tôi đến giờ vẫn phải đút cơm cho cậu nhóc 6 tuổi vì lý do “cho nhanh, nó tự ăn chậm lắm”. Tôi yêu quý cháu mình, tất nhiên, nhưng tôi không thể nào chấp nhận những cảnh tượng đó. Đúng là do tôi chưa có con, tôi không thể yêu đứa trẻ cho bằng ba mẹ nó. Nhưng yêu thương con cái nhất thiết là phải làm mọi việc cho chúng, từ đút ăn, thay quần áo, xỏ giày… kể cả khi chúng đã lớn như những thanh niên nhỏ thế sao? Chẳng lẽ các ông bố bà mẹ hiện đại đó không ai muốn con mình trở thành một người bản lĩnh, tự lập à? Nếu có, hẳn họ đã không làm như vậy.

Luôn cho rằng con mình còn nhỏ, thậm chí khi con cái lập gia đình, nhiều bậc cha mẹ vẫn coi con mình như một đứa trẻ. Đó là một nét văn hóa lỗi thời lạc hậu. Khi cho rằng con cái còn nhỏ, ta nghĩ chúng không thể làm được việc gì, hoặc làm không tốt, nên ta làm mọi thứ cho chúng. Khi cho rằng con cái còn nhỏ, chúng sẽ không biết, không hiểu gì sự đời nên ta trốn tránh việc dạy dỗ chúng, trốn tránh việc làm gương sáng cho chúng và tự an ủi mình bằng câu “lớn lên rồi nó sẽ hiểu”. Cha mẹ càng yêu con bằng tình yêu mù quáng thì hiển nhiên con cái càng chẳng có cơ hội lớn  khôn được.

Rồi thậm chí, khi những đứa con lớn lên, các bậc phụ huynh vẫn xem chúng như trẻ nhỏ, vẫn giữ quan niệm “trẻ con thì biết cái gì?” và rồi họ nghiễm nhiên tiếm lấy của con cái những quyền cơ bản: quyền được chọn ngành nghề mình thích, quyền theo đuổi đam mê, quyền yêu đương và lựa chọn bạn đời, thậm chí cả quyền nuôi dạy con cái của chính chúng ta nữa. Người lớn – họ luôn cho rằng con cái thì không hiểu gì, không biết mình thật sự cần gì hay thứ gì là quan trọng nhất. Tất cả những điều này, tạo nên một thế hệ những người trẻ lạc lõng, chán chường, sống như những cái bóng làm vui lòng người lớn. Vậy rốt cuộc cuộc sống còn ý nghĩa gì?

Tôi ngạc nhiên khi rất nhiều bậc cha mẹ còn lấy con cái ra làm bình phong, làm lý do cho sự hèn nhát của họ. Khi cuộc sống không hạnh phúc, họ cho rằng họ phải làm mọi thứ để cho con cái một gia đình đủ cha đủ mẹ. Họ cho rằng mình hi sinh hạnh phúc cá nhân vì cuộc sống của con. Vậy có bao giờ họ thực sự hỏi con mình rằng: “con có hạnh phúc không nếu mẹ làm vậy?” Phụ huynh thường ngộ nhận và nhầm lẫn trong việc con cái cần một gia đình đủ cha mẹ hay cần hạnh phúc hơn. Và tất nhiên, không phải khi nào gia đình đầy đủ cha mẹ cũng là hạnh phúc. Họ thường tự quyết điều đó thay cho con cái, thay vì thực sự hỏi chúng muốn gì. Tất nhiên đa phần đứa trẻ không bao giờ muốn cha mẹ mỗi người một nơi, nhưng cũng có những đứa trẻ thà để cho gia đình tan vỡ còn hơn phải chứng kiến những màn cãi nhau nảy lửa mỗi ngày, thậm chí những dối trá, khinh miệt nhau của bố và mẹ. Những hạnh phúc giả tạo, những trận khẩu chiến và cả động tay chân, không đứa trẻ nào hạnh phúc với điều đó cả. Nếu như đánh đổi những ngày bình yên với một gia đình đủ bố mẹ nhưng không bao giờ hạnh phúc. Đứa trẻ chọn gì bạn biết không? Muốn biết thì hãy hỏi nó, đừng đoán mò và rồi bắt chúng sống chung với sự lựa chọn sai lầm của mình. Những đứa trẻ sống trong một gia đình hỗn độn chiến tranh tâm lý sẽ lệch lạc, hoặc trở nên hung bạo hoặc trở nên sợ hãi yếu đuối. Nhưng một đứa trẻ sống trong một gia đình tan vỡ nhưng bố mẹ tôn trọng lẫn nhau và cùng dành cho chúng sự quan tâm cần thiết sẽ khác. Không hoàn toàn nhưng chúng vẫn còn có cơ hội để được hạnh phúc hơn. Kể cả những chuyện trọng đại này, bạn đã bao giờ hỏi ý kiến lũ trẻ chưa?

Nên, để thay đổi tư duy và nét văn hóa cũ kĩ này, xin hãy luôn nhớ rằng con bạn, ngoài ăn, chơi và ngủ, chúng còn có một cặp mắt quan sát nhạy bén, một bộ óc thông minh có thể suy nghĩ và hiểu rất nhiều vấn đề bạn không ngờ tới. Bạn cần phải tôn trọng và đối xử với con cái của mình như những cá thể đầy đủ nhận thức. Hãy tìm hiểu điều chúng hiểu, dạy những điều đúng và chỉnh lại những điều sai khi cần. Và dẹp ngay tư duy “trẻ con thì biết cái quái gì” đi nhé!

 

Phi Tuyết

 

 

Số phận một loài chim

Featured image: Anon

Giới thiệu

Tại sao tuổi trẻ Hong Kong đứng dậy mà tuổi trẻ Việt Nam lại không ? Bởi vì, ngoại trừ một số rất ít thoát ra được, nhận thức của đa số tuổi trẻ Việt Nam vẫn còn bị đầu độc bởi một hệ thống giáo dục ngu dân, lạc hậu, tẩy não. Nếu cần so sánh, nên so sánh tuổi trẻ Việt Nam với tuổi trẻ Bắc Hàn thay vì với tuổi trẻ Hong Kong. Hai cơ chế chính trị tại Bắc Hàn và Việt Nam ảnh hưởng đến đời sống của các em bé Bắc Hàn và Việt Nam về căn bản vẫn giống nhau. Cả hai cơ chế chính trị đều nhằm ngặn chặn mọi suy nghĩ độc lập và hủy diệt mọi khả năng phản kháng của con người. Bài viết dưới đây được viết đúng 10 năm trước, một lần nữa xin chia sẻ cùng các bạn.

***********

Cách đây không lâu. Anh chủ nhiệm của một tờ báo địa phương đến thăm và nghe các con tôi nói chúng thích nuôi thú vật kiểng (pet). Lần sau anh trở lại với một chiếc lồng và hai con chim nhỏ để tặng các cháu. Anh dặn kỹ: “Chim này chỉ nuôi trong nhà, đem ra ngoài gió chúng sẽ chết.”

Tôi thật không tin. Chim là phải bay nhảy chứ làm gì ngay cả gió cũng sợ. Tôi đến một tiệm bán chim hỏi lại. Bà chủ tiệm cũng đồng ý với anh chủ nhiệm: “Đây là loại chim được sản xuất theo lối công nghiệp chứ không phải chim sinh nở tự nhiên. Nếu đem ra ngoài trời, chúng sẽ chết vì không thích hợp với môi trường.” Tôi đành giữ kỹ chim trong nhà. Vài hôm sau, một người bạn cùng quê của tôi tới thăm. Anh nghiêm chỉnh khiển trách: “Mày là Phật tử mà bỏ tù sinh vật. Người ta chẳng ví cảnh tù đày như cá chậu chim lồng đó sao. Phải thả chúng bay đi.” Tôi thật khó xử, vừa cảm thấy việc “bỏ tù sinh vật” là không nên làm nhưng thả bay đi chúng sẽ chết. Tôi phân trần với anh: “Đây là chim công nghiệp, đem ra ngoài chúng sẽ chết, và thả bay đi chúng càng chết nhanh hơn.” Anh bạn Quảng Nam đáp: “Nếu chúng chết thì chúng sẽ trọn nghiệp vì biết đâu kiếp sau chúng sẽ là những con chim tự do.”

Tôi chưa hẳn đồng ý với cách cãi của anh ta nhưng phải công nhận việc tôn trọng tự do của mọi sinh vật là đúng, nên viết thư về Việt Nam hỏi ý một vị Đại Đức ở Hội An. Thầy trả lời theo lối “vạn sự do tâm”: “Chim công nghiệp vẫn là chim. Nếu môi trường xấu làm cho chúng xấu đi thì môi trường tốt sẽ làm cho chúng tốt trở lại. Hãy tập cho chúng quen dần, từng bước và khi chúng hoàn toàn quen thuộc với môi trường bên ngoài thì phóng sinh chúng đi.” Tôi cho đó là giải pháp hợp lý. Rất tiếc tôi lại quá bận để tập cho chim quen với thiên nhiên, bèn tặng chúng cho người em và dặn chú ấy tập cho chúng quen dần với đời sống bên ngoài, định bụng khi chúng hoàn toàn làm quen sẽ bàn với chú em làm lễ phóng sinh.

Tháng sau tôi trở lại nhà người em nhưng không thấy chim. Chưa kịp hỏi, chú em trả lời: “Chẳng giấu gì anh, ngày nào em cũng đem chim ra vườn tập. Chúng tiến bộ lắm. Chúng rất thích cảnh thiên nhiên. Vừa thấy cảnh cây lá sum sê là chúng kêu ríu rít lên ngay. Tuần trước, trong lúc em để chúng trên sân sau, chạy vào nhà trả lời điện thoại, khi trở ra thì chỉ còn mấy cái lông rơi rớt bên cạnh chiếc lồng vỡ nát và con mèo của hàng xóm đang nhảy sang bên kia hàng rào. Tôi an ủi chú em theo lý luận của anh bạn Quảng Nam: “Hai con chim đó đã trọn nghiệp trong kiếp này, hy vọng đời sống sau, chúng sẽ làm chim của núi rừng tự do thay vì làm kiếp chim công nghiệp.”

Mỗi khi nhớ đến câu chuyện hai con chim, tôi lại ngậm ngùi nghĩ đến số phận của các em bé Bắc Hàn. Cuộc đời của các em không khác gì những con chim công nghiệp kia. Ngay khi các em ra đời, các cơ chế chính trị và xã hội đã được chuẩn bị sẵn để các em sống, suy nghĩ và hành động một cách thích nghi.

Tương tự như môi trường dành cho loại chim công nghiệp, cơ chế chính trị Bắc Hàn được xây dựng và tồn tại bằng niềm tin tuyệt đối nơi lãnh tụ của họ. Trong cơ chế đó sự nhầm lẫn, hoài nghi dù hợp lý đều không được cho phép tồn tại.

Trong buổi phỏng vấn dành cho tuần báo Time, người cận vệ của Kim Chính Nhật đào thoát nhắc lại câu chuyện của một người lái xe vô tình chạy lạc vào khu vực dinh thự của Kim Chính Nhật. Sau khi thẩm vấn anh tài xế, đám cận vệ của Kim Chính Nhật đều đồng ý rằng anh ta thật sự đi lạc. Tuy nhiên cách giải quyết họ chọn trong trường hợp đó là bắn chết anh ta ngay tại chỗ. Gia đình anh tài xế được thông báo rằng anh đã “đền nợ nước” và thưởng công cho gia đình một cái tủ lạnh. Nhiều câu chuyện, đối với người sống bên ngoài bán đảo Bắc Hàn, có thể là chuyện hoang đường đến độ buồn cười, nhưng với người dân Bắc Hàn lại là chân lý, đúng như một nhà thơ Việt Nam có lần đã định nghĩa: “Chân lý là đường Đảng đã vạch ra và sự thật là gì Đảng đã dạy ta.”

Giờ sinh của Kim Chính Nhật, con trai Kim Nhật Thành và là đương kim lãnh tụ Bắc Hàn, được mô tả trong giáo trình tiểu học: “Lãnh Tụ Kính Yêu sinh ra trong một căn cứ quân sự bí mật bên rặng núi thánh Paektu-san (Bạch Đầu Sơn), lúc Người ra đời một có hai cầu vồng rực rỡ và một ngôi sao sáng hiện ra trên nền trời” (Người dân Bắc Hàn gọi Kim cha là Lãnh Tụ Vĩ Đại hay Lãnh Tụ Vĩnh Cửu và Kim con là Lãnh Tụ Kính Yêu). Thật ra làm gì có căn cứ quân sự nào, chẳng trên núi thánh nào và lại càng không có chuyện thần thoại như hai vòng cầu vồng ngũ sắc hiện ra trong giờ Kim Chính Nhật giáng trần.

Theo sử liệu của Sô-Viết cũ, anh chàng Kim Chính Nhật sinh ra trong một đồn lính nhỏ hẻo lánh ở Siberia vì cha anh ta làm lính cho Stalin sau khi trốn khỏi Mãn Châu. Một mẩu chuyện khác về Kim Chính Nhật: “Mặc dù trước kia chưa bao giờ chơi gôn (golf), khi cầm cây gôn lần đầu Lãnh Tụ Kính Yêu đã đánh trúng ngay 5 lỗ một lần.” Và nữa, “Một lần nọ, Lãnh Tụ Kính Yêu đến kiểm tra súng của một đơn vi quân đội và trước mặt binh sĩ Người đã rút súng bắn trúng ngay mắt trái của mười con bò rừng.”

Kim Chính Nhật không phải là người thường, trong ý thức của người dân Bắc Hàn, anh chàng là hiện thân của một thiên thần. Chàng ta tuy chưa bao giờ đi lính một ngày nhưng được gọi trong sách là “Tướng Trời”. Tại Bắc Hàn, ngay cả chiếc khăn để lau tấm ảnh của hai cha con họ Kim cũng không được phép dùng để lau các đồ vật khác trong nhà. Giống như những con chim công nghiệp, các em bé Bắc Hàn cũng líu lo mỗi sáng, nhưng nếu ai lắng tai nghe, bài hát các em hát trong giờ vào lớp luôn bắt đầu bằng câu: “Hoa nở nhờ có không khí và các em cười nhờ ơn của Kim Lãnh Tụ Vĩ Đại.”

Học sinh Bắc Hàn được dạy phải “yêu tổ quốc và yêu đồng bào” nhưng tổ quốc của em được mô tả trong sách vở không phải là một quốc gia nghèo đói, cô lập với thế giới bên ngoài mà một thiên đường trên trái đất dưới sự lãnh đạo anh minh của Kim Lãnh Tụ. Trong các ví dụ được dùng ở trường học, từ văn chương đến toán học, cuộc đời và sự nghiệp của hai cha con họ Kim luôn được dùng để ví những điều tốt đẹp và “đế quốc Mỹ xâm lược” luôn được dùng để ám chỉ những điều xấu xa tội lỗi nhất trên đời.

Sinh viên học sinh Bắc Hàn rất kiêu căng khi nói về lịch sử và dân tộc Triều Tiên vì một lý do đơn giản, ngoài những câu chuyện tuyên truyền được dạy ở trường, họ không biết gì về lịch sử loài người và cũng không biết đúng về lịch sử của tổ tiên họ. Và với một môi trường như thế, nhiều thế hệ người dân Bắc Hàn, hơn nửa thế kỷ qua đã tiếp tục sinh ra, lớn lên trong số phận một loài chim công nghiệp.

Mặc dù những mẩu chuyện trên có thể gợi lại trong ký ức của những người Việt lớn tuổi những hình ảnh, những tiếng thì thầm nghe rất quen quen, tuổi thơ Việt Nam ngày nay dù sao cũng may mắn hơn những người cùng tuổi với họ ở Bắc Hàn. Trong lúc nhiều nơi vẫn còn khó khăn, thiếu thốn, đa số tuổi thơ Việt Nam đang có một đời sống tinh thần dễ chịu hơn tuổi thơ Bắc Hàn. Bài học của thiếu nhi Việt Nam học hôm nay không đến nỗi hoang đường như của thiếu nhi Bắc Hàn và bài hát của các em bé Việt Nam hát không trơ trẽn khó nghe như những câu mà thiếu nhi Bắc Hàn dùng để ca tụng cha con họ Kim.

Hai mươi năm qua, ánh sáng bên ngoài đã theo những khe hở của “chính sách đổi mới” rọi vào căn nhà Việt Nam mang theo kiến thức mới lạ từ những phương trời khác. Qua những khe hở đó, chúng ta cũng được nghe nhiều tiếng nói chân thành vọng ra từ trong nước tương tự như chúng ta đang nghe những ưu tư trăn trở của những người Việt đang sống ở ngoài nước dù họ đã một thời lớn lên bên này hay bên kia sông Bến Hải.

Như vậy có gì giống nhau trong hoàn cảnh của hai em thiếu nhi Bắc Hàn và Việt Nam không?

Có chứ. Hai cơ chế chính trị ảnh hưởng đến đời sống của các em bé Bắc Hàn và Việt Nam về căn bản vẫn giống nhau. Hai con nước đều bắt nguồn từ thượng lưu sông Volga trong những thập niên năm đầu của thế kỷ 20 và vẫn còn đang chảy xiết. Cả hai cơ chế chính trị đều nhằm ngặn chặn mọi suy nghĩ độc lập và hủy diệt mọi khả năng phản kháng của con người. Quyền căn bản đầu tiên trong nghiên cứu khoa học là quyền đặt vấn đề, thế nhưng quyền đó không đươc tôn trọng trong hai xã hội Bắc Hàn và Việt Nam.

Hiện nay, nhiều quốc gia và hàng trăm tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, nhân đạo khắp thế giới đang tìm mọi cách để cứu giúp thiếu nhi Bắc Hàn, nhưng đồng thời, mọi người cũng đồng ý rằng, tất cả những gì họ đang làm chỉ là những biện pháp vá víu trong lúc chờ đợi một sự thay đổi toàn diện và căn bản.

Đúng vậy, sinh mệnh của một quốc gia không thể thay đổi bằng vài bao bột mì, hướng đi của một đất nước không thể được lót bằng dăm ba lon sữa và hạnh phúc của một dân tộc không bao giờ đến bằng sự vuốt ve an ủi từ những bàn tay thương xót bên ngoài.

Số phận của một dân tộc phải được quyết định bằng mồ hôi nước mắt, bằng những tấm lòng tận tụy với tương lai dân tộc, bằng đức tính kiên nhẫn làm việc vì đất nước của chính người dân nước đó. Và dù diễn ra dưới bất cứ hình thức nào, nhẹ nhàng hay cứng rắn, xói mòn hay cường tập, thay đổi cơ chế chính trị vẫn là mục tiêu quyết định của mọi cuộc cách mạng xã hội.

 

Trần Trung Đạo

 

 

Tại sao chúng ta đọc những quyển sách này?

Featured image: Paperback Castles

Nhìn danh sách những cuốn sách bán chạy được công bố, có bao giờ bạn tự hỏi: tại sao độc giả Việt Nam lại chọn đọc những cuốn sách này? Cơ chế nào đã hình thành lên những “best-seller” ở nước ta, hay rộng hơn là thói quen đọc đương đại? Rất dễ để trả lời, vì nó giống mọi thứ khác trong xã hội thôi, chính là cơ chế truyền miệng.

Những người đọc sách hẳn không ít người biết đến Publisher Weekly – Tuần báo xuất bản. Nó là tờ tạp chí nổi tiếng hàng đầu nước Mỹ về xuất bản, và chủ yếu tập trung vào điểm sách. Mỗi năm, nó điểm 7.000 đầu sách. Và chỉ việc tờ tạp chí này đã tồn tại liên tục trong… 142 năm, kể từ cuối thế kỷ 19, đã cho thấy giá trị của nó.

Có một điều thú vị là mục “Phê bình” (Reviews) của tờ tạp chí này – vốn chiếm tới 40 trang báo với cả trăm bài phê bình – trước đây được gọi là mục “Dự báo” (Forecast, từ hay được dùng trong dự báo thời tiết). Bởi vì đó chính là nơi các tác giả, những chuyên gia về sách và thị trường sách, dự đoán cũng như tự tin rằng họ có thể định hướng xu thế đọc của độc giả.

Những nền xuất bản lớn luôn có những kênh uy tín như thế để giúp định hướng người yêu sách. Ngoài Publisher Weekly, ở Mỹ, người ta có thể kể đến Library Journal, tờ tạp chí chuyên về ngành thư viện đã tồn tại 138 năm, với hàng trăm bài điểm sách mỗi tháng. Booklist, tạp chí của Hiệp hội thư viện Mỹ, ra đời từ năm 1905. Tất nhiên, cũng phải kể đến những mục điểm sách của các tờ báo uy tín, như “Sunday Book Review” của The New York Times.

Tất nhiên là không thể khẳng định rằng ai đọc sách giỏi hơn ai, ai có quyền “dạy” ai rằng quyển sách này hay hơn quyển khác. Nhưng những kênh điểm sách chuyên nghiệp có lợi thế của họ. Đơn giản là họ đọc nhiều hơn, có tầm quan sát rộng hơn (chưa bàn đến sâu hơn) và có thể giúp độc giả “nhận diện” được các cuốn sách bằng những bài phê bình của mình. Chúng ta, những độc giả thuần túy, chỉ có thể đi dọc những giá sách ngồn ngộn của các nhà sách, nhận diện chúng bằng gáy sách, giở ra một vài quyển để đọc lướt, trước khi quyết định. Một quá trình không hề hiệu quả. Những kênh điểm sách, vì thế, rất quan trọng, ít ra là trong việc cung cấp thông tin về thị trường.

Nhưng tiếc rằng ở Việt Nam, không tồn tại một kênh điểm sách đủ uy tín. Hoàn toàn không có. Bản thân chuyên mục điểm sách trên các tờ báo có uy tín cũng được làm với một thời lượng rất hạn chế. Và cách duy nhất để xu hướng đọc sách ở Việt Nam hình thành, là “truyền miệng” – hoặc chúng ta sẽ gọi một cách học thuật hơn, là chia sẻ ngang hàng.

Mạng ngang hàng (peer-to-peer) nổi lên trong thời đại của chúng ta như một phương thức thần diệu của việc chia sẻ các tập tin trên máy tính. Không cần có máy chủ, không cần một nhà phân phối, mỗi thành viên của cộng đồng tự chia sẻ với nhau các tập tin của mình. “BitTorrent” – giao thức chia sẻ ngang hàng nổi tiếng nhất, trở thành một từ vựng toàn năng mỗi khi người ta cần phần mềm, trò chơi, âm nhạc, phim ảnh.

Nhưng phương thức ấy không chỉ tồn tại trong mạng máy tính, mà tồn tại trong cả xã hội. Kiến thức cũng được chia sẻ và lan tỏa trong xã hội theo phương thức ngang hàng. Internet, và hẹp hơn là các mạng xã hội như facebook, tạo ra một môi trường hoàn hảo cho cơ chế này. Hãy tạm gọi nó là cơ chế truyền miệng. Những đầu sách hay được cộng đồng “buôn” với nhau, rồi trở nên nổi tiếng mà không cần đến một kênh truyền thông đại chúng nào đó quảng bá.

Tất nhiên là mô hình ấy có lợi. Sẽ có chuyện “hữu xạ tự nhiên hương” được tạo ra, sẽ có những quyển sách mà nhà xuất bản hay tác giả không có tiền để tiếp thị, được tôn vinh bởi cộng đồng nếu nó thực sự có chất lượng.

Nhưng cũng giống như rất nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống, cơ chế truyền miệng kiểu này có thể tồn tại mặt trái – khi mà những độc giả bình thường không thể có đầy đủ thông tin về thị trường xuất bản bằng những người ăn lương để theo dõi nó.

Hãy nghĩ rộng hơn về xã hội: cơ chế chia sẻ thông tin ngang hàng đã từng tạo ra những hậu quả xấu rồi. Ví dụ, người ta có thể phao tin về “trong nồi nước lèo hủ tíu có thịt chuột” hoặc “virus Ebola đã về Việt Nam”. Khởi sinh của vấn đề cũng là không có một kênh thông tin đủ uy tín. Người ta không tin vào công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm của nhà chức trách, không tin sự minh bạch về dịch bệnh của ngành y tế,… nên những thứ như thế có thể lan truyền.

Tất nhiên là một quyển sách dở không gây tác hại trực tiếp nghiêm trọng bằng một thông tin như “hủ tíu có thịt chuột” – vốn đã khiến nhiều người bán hủ tíu rong điêu đứng. Nhưng nếu có quá nhiều quyển sách tầm phào trở nên nổi tiếng thì điều đó có thể gây xấu đến thị hiếu đọc, và văn hóa trong một tương lai dài. Nếu những quyển sách giá trị không mảy may được biết đến (chứ đừng nói tới thừa nhận), thì liệu tác giả trong nước có thể thối chí không?

Có một đặc điểm nữa của cơ chế “truyền miệng” này, đó là nó tôn thờ các giá trị bình dân. Cái gì đại đa số hiểu và chia sẻ thì sẽ chiến thắng. Cũng không có gì xấu trong văn hóa bình dân, nhưng nó không thể là sự duy nhất. Trong truyền miệng, nó là duy nhất. Và đôi khi, những quyển sách không-bình-dân cũng xứng đáng được vài vạn người biết đến và tìm đọc (nếu như chúng ta có một vài ấn phẩm như tạp chí Publisher Weekly hay Library Journal).

Bạn có thể lập luận rằng một người đọc sách sẽ tự có cách tìm được những đầu sách hay cho bản thân – nếu ai đó đã tin rằng mình phù hợp với những quyển sách “có chất” thì tự họ sẽ tìm đến, đừng đổ lỗi cho thị hiếu.

Nhưng hãy nghĩ về những người trẻ, những người mới bắt đầu công cuộc tìm hiểu tri thức vĩ đại của mình, những người chưa có kinh nghiệm đọc. Và họ sẽ bắt đầu tìm đọc sách theo cơ chế truyền miệng, sẽ hướng tới những quyển bình dân, dễ hiểu và được nhiều người thừa nhận. Người thanh niên ấy có thể, rất có thể, không-bao-giờ tìm được quyển sách có giá trị cho anh ta bởi đơn giản anh còn chẳng biết đến sự tồn tại của nó.

Đức Hoàng

Tháng 9 – Mùa thu – Tình yêu – Hy vọng!

Featured image: Sweaters-tea-and-leaves

Tháng 9

Tháng 9, cái nắng đã dịu hơn, cái gió cũng đã se lạnh, hoa sữa đang thơm nồng góc phố… Đất trời đang chuyển mình vào thu – lòng người rộn rã ngóng đợi thu về.

Lang thang trên những con đường quen thuộc, bước chân thật chậm như để níu giữ thời gian, níu giữ một thoáng bình yên của tháng năm tuổi trẻ dần hư hao… Tự tạo cho mình những phút giây tĩnh lặng để lắng nghe những thanh âm của cuộc sống, để cảm nhận rõ hơn hơi thở của mùa thu.

Vứt bỏ ngoài tai tiếng còi chen lấn, mặc kệ những ồn ào tấp lập. Bỗng giật mình bởi tiếng lá lăn xào xạc trên vỉa hè. Ngắm những chiếc lá phai màu, thấy cả những đổi thay của không gian và thời gian, thấy cách cảm nhận theo mỗi mùa cũng khác.

Tháng 9, thấy lòng rộn ràng hơn. Có chút nhớ thương, hy vọng. Suy nghĩ cũng như trẻ lại với những lãng mạn ngày nào. Như trẻ lại nhưng không hẳn là vui hơn, vì có những nỗi buồn từ năm tháng cũ giờ vẫn vậy. Qua dấu chân thời gian, giờ đây nhìn mọi thứ một cách bình lặng hơn, bản thân cũng trở nên trầm lắng hơn.

Nỗi buồn giờ không còn mang niềm tuyệt vọng, nó đơn giản chỉ là sự cô đơn. Những ưu tư giờ đã thành kỉ niệm, chẳng thể xóa nhòa vì không thể và cũng không muốn, cứ để nó hiện hữu một cách nhạt nhòa, mỏng mảnh làm nền cho một cái “tôi” hiện tại. Vì mình hơn, vì đam mê hơn, vì thời gian vẫn cứ trôi đều đặn cũng khiến ta trưởng thành.

Mùa thu

Thu về, trong ai lại xốn xang cảm xúc. Thu dịu ngọt, trong trẻo gõ cửa trước dao động của cô gái đang tuổi xuân thì…!!

Mỗi mùa thu qua, cô lại xếp vào ngăn kí ức của mình những hình ảnh về mùa yêu dấu. Từ sự đổi thay thất thường của tiết trời đến sự biến đổi sắc màu trên những hàng cây. Từ những vỉa hè xào xạc lá bay đến những con đường ngạt ngào hương sữa. Từ những con người vốn đã thân quen nay bỗng xa lạ, khác thường.

Thu về cùng những làn gió heo may, có người lại thấy thu về trong chiếc lá vàng rơi bên thềm. Còn với cô, mùa thu về khi góc phố ngạt ngào hương hoa sữa, mùa thu về khi tình người trào dâng.

Nhớ ngày đầu biết đến hoa sữa là những chiều tan tầm đi học trên chiếc xe đạp thân quen, cô phải qua hết góc phố này đến ngõ hẻm kia. Người qua đường tránh né cái hương nồng, đậm vị để vội vã về nhà trong bóng chiều ập đến. Còn cô lại lãng đãng trước một mùi hương lạ lẫm. Cô muốn đi chậm lại để mùi hoa sữa len lỏi khắp tâm can, để phả hơi người vào hương hoa qua từng con gió, để níu kéo những phút giây tuyệt vời…

Thì ra thu là vậy, cũng kén người như hoa sữa. Hoa không có vị thơm nhẹ nhàng tinh khiết mà nồng nàn, đặc quánh nên có lẽ cũng chỉ dành cho những con tim đậm sâu, biết yêu và biết thưởng thức.

Mỗi mùa thu đến, nghe Minh Quân hát Mùa Thu Cho Em lòng cô lại đầy trăn trở. Mùa thu qua những ưu tư lại đến với cô nhiều hơn. Cô càng thấy mùa thu đẹp thì lòng cô lại càng buồn. Có lẽ vì vậy mà mùa thu trong cô lúc nào cũng có chút trầm buồn… Là thu đem nỗi buồn đến cho cô, hay cô đã nhuộm màu buồn vào thu?

Thu đến, thu đi, thu lại lại… Chẳng rõ cô yêu thu từ bao giờ nữa! Nhưng đó là một tình yêu đầy trắc trở, có lúc nỗi buồn đã làm cô không dám lang thang cảm nhận vẻ đẹp của mùa thu, làm cô không dám viết về mùa thu. Rồi cũng chẳng rõ vì đâu, vì cô đã quen với nỗi buồn, hay bởi không cầm lòng được trước sự quyến rũ của mùa thu, cô lại lang thang, lại ngắm, lại viết, lại lưu giữ những ẩn ức về thu.

Tình yêu

Cô vẫn thế, vẫn lang thang vô định trên con đường anh đi. Vẫn mải miết tìm anh – mùa thu của riêng mình. Năm tháng qua đi, vẫn chỉ có cái bóng làm bạn cùng cô.

Tình yêu không anh, thu không anh. Anh thật gần mà cũng thật xa. Tưởng như gần ngay trước mắt, chỉ cần cô bước thêm mấy bước là chạm được vào anh. Nhưng khi cô bước về phía anh thì hình bóng anh lại càng xa.

Mọi thứ cứ chênh chao, vô định giống như người bộ hành khát nước trên sa mạc, tưởng phía trước mình là hồ nước nhưng đến nơi rồi mới biết đó chỉ là ảo ảnh. Nhưng cô biết anh không là ảo ảnh, anh tồn tại. Có lẽ anh cũng như mùa thu, cô chỉ có thể đứng nhìn và cảm nhận như bao người khác, chứ chẳng thể có riêng mình một mùa thu.

Phải chăng, cô đang đợi cơn giông chiều ghé qua cho những ngày hè khô hạn, nứt nẻ. Cô đợi làn nước trong veo gọi gió thu về với lòng người dịu ngọt. Những bước chân vội vã trên phố, những dòng xe hối hả lướt qua, nhưng có mấy ai để ý đến xác lá, hoa rụng bên thềm. Cô – một kẻ trầm mặc – như tách mình ra khỏi sự ồn ào, đi tìm những thứ bị bỏ đi.

Những bông hoa rụng luôn đem đến cho cô một cảm xúc đặc biệt. Cô như nhìn thấy trong đó tâm trạng của mình. Bông hoa héo úa, tàn, tả tơi kia cũng như cô đang lẻ loi, buồn chán, có đôi lúc dường như là tuyệt vọng. Cô không thể suy nghĩ tích cực hơn! Mọi thứ cứ hư vô, lặng lẽ ẩn chứa trong nghĩ suy của cô gái trước tuổi xuân đang rượt đuổi.

Hoa rụng rồi sẽ lăn theo gió, rồi sẽ tàn tạ theo mưa. Không phải vì cô sợ gió, cũng chẳng vì sợ mưa. Có điều… đôi lúc… cô sợ… sự cô đơn…!!

Hy vọng

Nhiều khi muốn nói cho người ta biết tình cảm của mình mà chẳng đủ dũng cảm đối diện với tình yêu… Nhiều khi muốn chấp nhận một cuộc tình nhưng lòng chẳng đủ bao dung cho trái tim lạc lối… Nhiều khi muốn giải toả hết những suy nghĩ vẩn vơ mà chẳng biết ai đáng tin để gửi gắm niềm tâm sự…!!

Giữa ngổn ngang, bề bộn của cuộc sống này, có phút giây nào anh ngơi nghỉ và thoáng nghĩ về cô không? Có sáng nào thức dậy và bất chợt thôi anh thấy lòng mình cô đơn vì thiếu một điều gì đó đã quen thuộc nhưng giờ xa xôi quá, thiếu tin nhắn chúc ngày mới bình yên, thiếu câu chúc ngủ ngon mỗi tối.

Thu qua ngõ chầm chậm rồi mau mải như tình qua tay lúc hời hợt, nông sâu. Cô vẫn đợi anh, đợi chùm hoa sữa anh để trước thềm, đợi anh với câu nói: “Thu tới rồi, mình hẹn hò đi em, anh sẽ nắm tay em đi trên con đường đầy mùi hoa sữa, đưa tay cho anh nhé, tay em lạnh rồi kìa.”

Mùa thu, mùa của những đoạn kết, buồn hay vui là do mình. Nghĩ thế thôi mà cũng khó, đời người khó lắm…!! Đêm dài như mái tóc không đợi chờ một cái chạm tay…!!

Đêm, cô gửi niềm thương nhớ mùa thu của riêng mình.

 

27/09/2014

Khoảng Lặng!

Triết học đã chết?

Featured image: Stephanie Moonshine

 

Tôi không thích giới thiệu về bản thân mình, như là người như thế này thế kia, cũng không muốn tạo cảm giác cho bạn đọc rằng những điều tự tôi tìm ra cũng “bình dị, dễ hiểu”, như phần lớn các bài viết khác trên Triết Học Đường Phố.

Có thể thấy, các bài viết trên website thể hiện rất rõ những trăn trở và ưu tư của lớp người trẻ thông minh và tự do trong tư tưởng tại Việt Nam. Chúng ta đều đã có những phát triển về nhận thức, so với đại đa số những người khác phải chịu thiệt thòi hơn, trong hoàn cảnh sống và tiếp cận thông tin.

Tuy nhiên, là một bạn đọc đã lâu, tôi cảm thấy, triết học từ thưở ban đầu, các trường phái đã xuất hiện, cũng như phản ánh qua tư duy và bài viết trên website đều mang hương vị nào đó của sự lặp lại, nói theo, hoặc buồn tẻ, mơ hồ, hay đứt quãng và manh mún.

Rõ ràng, chúng ta cảm thấy rất nhiều điều, nhiều bất cập, nhiều câu hỏi… nhưng rõ ràng, những cái đầu tư duy phân tích tốt lại đi kèm với thiếu trải nghiệm và một sự đột phá mang tính nền tảng.

Con người cho tới nay, nhìn thế giới qua 3 lăng kính: khoa học, triết học và tôn giáo. Khoa học tìm hiểu thực tế bằng con mắt lý trí và tư duy khách quan, đi kèm với phương pháp nghiên cứu tỉ mỉ và rạch ròi. Triết học thuần túy đứng trên góc nhìn chủ quan và từ đó, đưa ra các câu hỏi, các giả thuyết và giải quyết bằng lý luận.

Riêng tôn giáo, cho tới nay, xin lỗi là… lợi bất cấp hại. Dĩ nhiên, thâm tâm tôi hiểu, rằng tôn giáo chân thực vẫn tồn tại ngầm và là nghệ thuật cao nhất: nghệ thuật biến đổi hoàn toàn một cá nhân, cả thể chất, tâm lý và nhận thức. Nhưng để viết về điều này, cũng không khác gì thầy bói xem voi.

Quan điểm của tôi rất rõ ràng, rằng bất cứ thứ gì đều phải đem lại tác dụng, đó là cuộc sống hạnh phúc, tự do và những hiểu biết khiến bạn có thể sống và chết một cách mãn nguyện. Bất cứ thứ gì khác hơn, dù một li, đều phải xem nhẹ.

Khi làm một việc gì đó mà không đem lại kết quả mong muốn. Bạn hoặc có thể an ủi mình, có ý thức hoặc không ý thức, rằng mình cần thời gian, cần thay đổi. Hoặc, bạn phải nhận ra, là thay đổi hoàn toàn nhận thức. Hiểu rõ một vấn đề, rồi tìm ra cách giải quyết hợp lý, cũng giống như việc đặt câu hỏi đúng.

Mọi vấn đề của triết học, từ những trăn trở đời thường, tới nhận thức về thế giới xung quanh đều xuất phát từ việc… đặt những câu hỏi sai.

Tôi sẽ không nói tiếp về điều này. Nếu bạn đọc nào cùng chia sẻ ý kiến này với tôi, đây là bài viết cho bạn.

Triết học là một con đường dài và đến thế kỷ 20, một số các triết gia và tư tưởng lớn, những người có chung hoàn cảnh sống với lớp trẻ hiện nay đều đã thừa nhận, mặc dù không được công nhận: rằng triết học đã chết. Hay nói đơn giản, nó đã làm xong phần việc của mình.

Vậy luồng tư tưởng không đại chúng này để lại gì? Khi mà chính những bộ não trái siêu việt như vậy, đều cảm thấy triết học không mang lại lợi ích cơ bản cho cuộc sống của chính họ. Vậy, chúng ta có nên đi theo hay phải dứt khoát tìm ra một lối đi khác?

Trong bài Noubliez Jamais, Joe Cocker đã nói, “Thế hệ nào cũng cần phải bất tuân.”

Là một con người, đứng trước biển cả, tôi nhận ra thế giới là vô tận, và tôi thì hữu hạn và nhỏ bé thế. Cái nỗ lực cố hiểu thế giới này, xét cho cùng, mới bạo lực và ngu dốt làm sao? Tự nhiên này là một điệu nhảy, mà tôi cũng như một nhành cỏ, hoặc cũng ngang như mặt trời, đều là những vũ công cùng tham gia vào điệu nhảy ấy.

Vậy thì, việc đứng bên ngoài, để quan sát và cố gắng thâu tóm điệu nhảy… thật ngớ ngẩn như việc đứng trên bờ để học bơi.

Nhà khoa học thì nghĩ rằng, khoa học có thể đem lại mọi thứ. Nhà tư tưởng, nghệ sỹ và triết gia thì nghĩ rằng, triết học và nghệ thuật sẽ tạo ra điều khác biệt. Người tôn giáo, nhà hành giả thì cho rằng, tôn giáo mới là câu trả lời. Vậy tại sao, không phải là cả 3? Tôi muốn nói, tất cả đều là công cụ phục vụ cho cùng một mục đích mà thôi.

Để thay đổi nền tảng xảy ra với mỗi người, chúng ta không cần một kiến thức khoa học hay công nghệ đột phá, cũng không cần một triết học vượt trội, cũng không cần một tôn giáo siêu việt. Và thực ra, là nếu có đi nữa, nó cũng sẽ chỉ đem lại một cái tôi lớn hơn, một định kiến sâu hơn.

Cái chúng ta cần là trải nghiệm dẹp tan những gì đã biết. Cái mà mỗi người cần là một sự tái sinh, xóa bỏ những ranh giới vốn có của bản thân. Hay như Alan Watts viết trong The Taboo of knowing yourself, chúng ta chỉ có thể quay trở lại nhìn thế giới bằng con mắt ngây thơ, một vô sư trí, một chuyến tàu bước vào hiện thực, với trải nghiệm rằng cuộc sống này đầy bí ẩn và là một cuộc phiêu lưu kỳ thú không bao giờ kết thúc.

Tấm vé cho chuyến tàu đó nằm ngay trong bản thân chúng ta. Và chìa khóa để mở hộp, lấy tấm vé ấy là thiền định và thôi miên.

Và khoa học, triết học, tôn giáo… đều là sản phẩm phụ, thôi xin nhấn lại, là hệ quả của trải nghiệm đó. Không phải là như vậy bạn sẽ phải đi chứng minh lại mọi định lý từ đầu, mà rằng, trạng thái tinh khôi ấy sẽ khiến bạn không chỉ nắm rõ lý thuyết, mà còn có thể thực hành và ứng dụng các kiến thức hàn lâm ấy trong đời thường.

Phải nói thêm về bối cảnh mà chúng ta đang sống. Đây là quãng thời gian của khủng hoảng, khi mà mọi thứ xem như ngày càng phát triển, và càng tiến tới, mỗi người đều cảm thấy bế tắc và tụt lùi.

Dám cá rằng các bạn cứ triết lý, các bạn cứ tìm hiểu, thì cuộc sống mà mỗi chúng ta đang sống, đều chẳng phải là điều mà ai cũng khao khát và mãn nguyện thật sự.

Lý do là mỗi người không được sống với 100% tiềm năng, và không biết cái con người mà vũ trụ đã nhào nặn cho chúng ta. Chỉ khi, một người ý thức hoàn toàn được định mệnh của mình, hiểu rõ việc phải làm trong quãng thời gian ngắn ngủi tồn tại này, thì anh ta mới thực sự biết yêu cuộc sống này. Không thể khác.

Cho nên, tôi xin nói rõ, con đường triết học đã đi vào ngõ cụt. Khoa học vốn dĩ là vô tình đang bị sử dụng sai mục đích và tôn giáo thì bắt tay với chính trị gia để cai trị.

Lối thoát duy nhất là thiền định, với trợ giúp là thôi miên. Và dù tôi có giải thích và lập luận hay đến đâu đi chăng nữa, thì trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy bằng một nếm. Và những điều này tôi rút ra từ trải nghiệm cá nhân mình. Đó là lời gợi ý của một kẻ vô danh, một lời mời gọi của người đủ giàu để bán trà đá miễn phí.

Tôi cũng không cần nói thêm, bởi tất cả thông tin và kết nối các bạn cần đều đã sẵn có, trên internet, trong tại chính Việt Nam và những người xung quanh. Chỉ cần 2 từ khóa đó, mỗi người đều có đủ hành trang để khởi hành.

Các bạn trẻ lên Triết Học Đường Phố đều rất thông minh và sắc sảo, tôi tin rằng một cú nháy đèn pha rất ý tứ như vậy là đủ. Mọi loại bánh vẽ tiếp đều là thừa và dẫu sao đều không hợp lý.

Làm người không phải là trở thành một cá nhân của văn hóa và tri thức. Bạn chỉ có thể coi mình đã tiến hóa thành người khi nhận ra mình là Chúa, là Phật, là Logos, là bất cứ từ gì…

I am not a dreamer, I just have such vision, to share…

 

Dao Quang

Văn hóa Việt Nam: Những quan niệm lỗi thời và một góc nhìn khác

Featured image: Mr. Fayad

 
Văn hóa vốn là một đề tài nhạy cảm. Đụng đến nó giống như đụng đến một kho vũ khí, bất cứ ý kiến nào, dù hay dù dở tới đâu cũng sẽ luôn nhận được những ý kiến trái chiều “mãnh liệt”. Đôi khi gây ra những trận chiến kinh hoàng và sức sát thương khủng khiếp cho những người tham gia, dù chỉ qua lời viết trên màn hình. Chúng ta đều có những nhận thức riêng và những niềm tin không muốn ai thay đổi, không muốn người khác đụng đến như kiểu đó là một thế giới bất khả xâm phạm. Chính cái niềm tin, đôi khi mù quáng đó khiến chúng ta ghét sự thay đổi, luôn nghi ngờ những lối đi mới mẻ và đóng chặt tim mình trong vấn đề mở rộng nhận thức. Mà một khi nhận thức không thể thay đổi, thì cuộc đời chúng ta, tương lai chúng ta sẽ không bao giờ khác đi hay khá lên được.

Ai cũng biết về “văn hóa” nhưng để hiểu chính xác thế nào là “văn hóa” như một định nghĩa cụ thể, xin đừng đọc trong wikipedia, nhức đầu lắm. Tôi đã tìm giúp bạn một khái niệm tổng quát và dễ hiểu thế này: “Văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ trí óc đến chân tay), được chi phối bởi môi trường (tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng. Với cách hiểu này thì văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.”

Xin bổ sung thêm vài suy nghĩ của tôi, văn hóa là sản phẩm của con người, là tài sản chung cần được bảo vệ và phát triển. Con người tiến hóa thì văn hóa cũng phải tiến hóa. Chúng ta dường như quên mất chính chúng ta là người tạo ra nền văn hóa, chứ không chỉ sống và chấp nhận nó muôn đời. Cũng giống như việc người dân tạo ra chính quyền với mong muốn chính quyền làm đúng bổn phận giữ gìn cuộc sống và xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người dân cũng như làm cho đất nước phồn thịnh, giàu mạnh. Khi chính quyền đó không làm tốt nhiệm vụ, người dân có quyền tìm cách thay đổi nó cho phù hợp thời đại. Chứ không nhất thiết phải chịu đựng những sai trái đó trong im lặng rồi chờ cho nó tự biến mất. Một lần nữa, chúng ta quên mất rằng chính chúng ta tạo dựng nên chính quyền, chính chúng ta tạo dựng lên nền văn hóa. Chúng ta có thể thay đổi nó cho phù hợp với tình hình hiện đại.

Nền văn hóa Việt Nam vốn đầy bản sắc và giàu tính nhân văn. Điều này không ai có thể phủ nhận hay chối cãi, nhưng cùng với thời gian, rất nhiều những quan niệm, cách nghĩ trở nên sai lầm và không còn phù hợp với thời đại nữa. Học hỏi những nét văn hóa hay ho và không quên rời bỏ những nét văn hóa cũ kĩ. Chúng ta cần phải nghĩ về nó, để làm gì, để thay đổi, trước là cách nghĩ, sau là cách hành động và cuối cùng là thay đổi nếp sống hàng ngày ta đang chấp nhận như một cách bỏ phiếu cho một nền văn hóa tiến hóa tốt đẹp hơn.

Sau đây là một vài quan niệm văn hóa mà chúng ta đang hiểu sai, hiểu không đủ  hoặc không còn phù hợp với thực tế cuộc sống hiện tại, tất nhiên chỉ là góc nhìn cá nhân, các bạn đừng quá nặng nề chuyện đánh giá hoặc tiếp thu nó.

An cư lạc nghiệp – đừng hiểu sai hiểu thiếu

Ai nghe cũng hiểu câu này nhưng xin hãy đọc lời giải thích khá cụ thể hay ho tôi lấy được từ trang tudienthanhngu.com. Hãy đọc để nhìn lại xem chúng ta đã thường nghĩ về câu này theo hướng phiến diện thế nào.

  • Có người hiểu rằng: An Cư và Lạc Nghiệp chỉ là hai vế trong một câu, giống như câu “Mẹ tròn, con vuông” hay “Vợ đẹp, con khôn”. Cách sắp xếp thành ngữ của cha ông ta thường vẫn đối nhau như vậy. Nếu hiểu như thế, thì “An cư lạc nghiệp” chỉ mang ý nghĩa diễn tả cuộc sống thanh bình, người người vui với công việc của mình, như ý câu thơ:
    “ Thời thịnh trị an cư lạc nghiệp
    Khắp muôn nhà đều hát khúc hoan ca.”
  • Cách hiểu thứ hai hơi khác một chút, cho rằng: Có ‘an cư’ thì mới ‘lạc nghiệp’. Nghĩa là, có ổn định chỗ ăn chỗ ở thì mới an lòng mà lo công việc sinh kế hoặc phát triển thương mại.

Chúng ta thường nghe câu “an cư lạc nghiệp”, ý nói trước khi bắt tay vào một công việc làm ăn thì nên ổn định nơi ăn chốn ở. Đây là một lời nhắc nhở hay một kế hoạch để an tâm vì một khi đời sống gia đình ổn định thì tất cả thời gian và tâm huyết sẽ được dành cho công việc làm ăn. Từ “An cư” lâu nay vẫn thường chỉ nơi cư chú của thế xác là những ngôi nhà, mỗi người đều cần một ngôi nhà mới yên tâm. Khi đó ta mới ổn định và thoát khỏi cảnh nay đây mai đó. Điều này thấy rất rõ trong thời bao cấp, vào thời đó hộ khẩu cư trú là một mối lo quá lớn đối với mỗi người dân, nó là điều đầu tiên quan trọng và cần thiết để có cuộc sống ổn định. Khi đã “An cư” rồi thì cần “Lạc nghiệp”.

“Lạc nghiệp” muốn nói: có nghiệp thì mới lạc, mới sung sướng. Nhiều khi ta đi làm chỉ với mục tiêu duy nhất là kiếm tiền, chứ chưa phải xây dựng sự nghiệp cho mình. Không chỉ có vậy, nhiều người vì đồng tiền trước mắt, mà liên tục thay đổi công việc với những mức lương cao hơn và quên lo xây dựng sự nghiệp, quên những thú vui khi được làm việc. Họ không quan tâm tới năng khiếu bản thân, quên đi mất con người thật của mình và đánh mất bản thân lúc nào không biết, họ chỉ cần công việc đó cho họ thu nhập cao. Nhưng đó có phải thực sự là điều mà tất cả chúng ta đều mong muốn hay không. Ta có tiền để làm gì, có xe để làm gì, có nhà để làm gì….?

Tất cả những điều đó đều nhằm một mục đích cuối cùng là để an tâm và vui sướng. Nhưng ta không biết rằng cái vui sướng nhất là cái vui khi được làm việc đúng năng khiếu, đúng đam mê, đúng sứ mệnh của mình. Chỉ có điều đó mới giúp ta có cảm giác sung sướng lâu dài và bền vững. Tiền bạc mới chỉ là tạo tiền đề để sung sướng và thường đó chỉ là cảm xúc tức thời (nhậu, mua đồ vật….). Cái sướng tức thời không sung mãn, không kéo dài, nhiều khi còn để lại hậu quả xấu. Ta không thể sống với những sung sướng hạnh phúc tức thời như vậy mà cái ta luôn hướng đến là cảm giác sung sướng và hạnh phúc liên tục, lâu dài. Chính vì vậy, “An cư” ngoài ý nghĩa có một nơi cư trú cho thể xác còn cần một nơi cư trú cho tâm hồn mình. Nhiều khi cái xác đã có nơi cư trú nhưng cái tâm vẫn chưa được an vì chưa tìm ra cái mệnh của mình để mà trú ngụ, để mà phấn đấu suốt đời. An cư cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, đó là tìm được nơi cư trú cho linh hồn. Và nơi cư trú cho tâm hồn của chúng ta chính là “sứ mệnh” và “giá trị cốt lõi” của ta. Khi chúng ta tìm ra sứ mệnh của mình, tìm ra được ý nghĩa đích thực của bản thân, ta biết mình làm gì để gia tăng giá trị cho cuộc sống, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, cho xã hội, lúc ấy chúng ta mới thực sự tìm được nơi cư trú cho tâm hồn mình, điều đó giúp cho ta bình an. “An cư” cao nhất là an mệnh, tìm được sứ mệnh cho mình. Khi đó chúng ta sẽ an tâm làm việc, lúc ấy sự an vui mới là đích thực nhất ta mới có thể ổn định suốt đời và mãi mãi an vui.

“An cư – Lạc nghiệp” cũng như việc chúng ta khám phá ra sứ mệnh, tài năng của mình và khẳng định sự nghiệp của mình, khi đó ta sẽ đạt được hạnh phúc và thành công đích thực. Khi chúng ta “an cư lạc nghiệp” là ta có ngôi nhà vững chắc, an lành cho chính con người mình, chắc chắn ta sẽ lạc nghiệp làm ăn phát tài, thăng quan tiến chức, hạnh phúc và thành công.”

 

Ấy vậy mà, từ khi nào, chúng ta lại luôn chỉ dùng câu này để nói về một vấn đề duy nhất “phải sở hữu cho bằng được một ngôi nhà”. “An cư” nghĩa đen là một nơi ở ổn định từ khi nào lại biến thành “buộc phải có một mảnh đất cắm dùi”. Theo tôi, quan niệm này bắt nguồn từ ngày xưa, khi việc mỗi gia đình có một mảnh đất là vô cùng quan trọng, vì đó là miếng cơm manh áo, là nơi để mọi gia đình trồng trọt chăn nuôi. Mọi người muốn đủ ăn phải trồng cấy gì đó, điều này khiến cho đất đai trở nên tối quan trọng. Nhưng hiện nay, bạn biết đấy, ngay cả việc làm nông nghiệp cũng không quá quan trọng phải có đất đai. Bằng chứng là Israel có thể nuôi trồng nông sản ngay trong sa mạc, nhiều tỉ phú Việt Nam giàu có nhờ làm nông nghiệp trên đất đi… thuê. Vậy nếu như ngày nay nông nghiệp không làm cho đất trở nên quý thì do đâu? Không còn nghi ngờ gì chính là do tâm lý người dân khi nghĩ “người thì đẻ được nhưng đất thì không đẻ được, đất chỉ có lên giá chứ không xuống giá” khiến cho người ta ai ai cũng muốn có một mảnh đất để dành. Điều này là một mong muốn chính đáng nhưng vô tình lại làm đảo lộn mọi thứ, nó khiến cho đất đai trở nên đắt đỏ khủng khiếp, giá ngày một đội lên cao và quá ảo so với giá trị thực. Khiến cho người thực có nhu cầu không thể tiếp cận và rất nhiều người trở lên giàu có nhờ đầu cơ vào đất chứ không phải nhờ sản xuất hàng hóa. Một nền kinh tế ảo. Mọi thứ đều trở nên ảo. Câu nói “an cư lạc nghiệp” cũng trở nên ảo nốt. Nó đánh lạc hướng mọi người từ nhu cầu một chỗ ở ổn định sang nhu cầu sở hữu một miếng đất và từ đó làm đảo lộn mọi thứ.

Giờ bạn hãy tưởng tượng thế này. Khi mọi người chỉ cần một chỗ ở ổn định mà không cần phải sở hữu đất đai. Ắt hẳn người ta sẽ phải đi thuê nhà. Từ đó những khu chung cư, những căn nhà cho thuê sẽ mọc lên như nấm và chất lượng chắc chắn sẽ không ngừng nâng cao để thu hút người thuê. Người ta sẽ dễ dàng sở hữu và ở trong những ngôi nhà thuê vừa vặn với nhu cầu, tiền bạc có thể trích ra để trang trí nhà cửa cho xinh xắn hoặc làm những công việc khác theo sở thích. Khi người ta không cần phải mua một miếng đất thì chắc hẳn giá đất sẽ giảm xuống theo đúng giá trị thực. Một khi đất đai giảm đúng giá trị, bất cứ ai có nhu cầu thực và khả năng tài chính phù hợp đều có thể sở hữu một miếng đất như mong muốn. Tài nguyên đất đai lúc này được phân bổ đều và công bằng, điều này không phải quá tuyệt sao?

Nhiều chung cư và căn hộ cho thuê mọc lên thì đương nhiên dịch vụ cũng sẽ phải nâng cao cho phù hợp và thu hút người thuê. Chúng ta sẽ ở trong những căn nhà thuê một cách thoải mái và dễ chịu như chính nhà của mình. Tất cả áp lực về việc mua một căn nhà sẽ được san bằng ra. Thay vì bạn đi làm ngày đêm vất vả cực khổ kiếm tiền mua một căn nhà để dành cho con cháu, bạn có thể dùng thời gian đó để ở bên con mình nhiều hơn mà dạy dỗ chúng. Dạy cho con tính tự lập, dạy cho chúng cách để tự đứng trên đôi chân của chính mình. Chung quy là đừng quá đặt nặng vấn đề tích cóp cho con cái. Thay vì mong muốn mai sau chúng giàu có vật chất. Sao bạn không thử làm cho chúng giàu có về tinh thần và nghị lực phấn đấu. Bạn có thể dành bớt thời gian làm việc để dạy dỗ chúng tốt hơn, dạy chúng về tiền bạc, về kinh doanh, dạy chúng sáng tạo và tự lập. Nếu con bạn đủ tài giỏi và thông minh, chúng sẽ tự mua được mọi thứ chúng muốn, kể cả ngôi nhà, chúng sẽ không cần những gì bạn để lại. Nhưng nếu con bạn ngờ nghệch hoặc hư hỏng, bạn có để lại bao nhiêu chúng sẽ phá đi bấy nhiêu. Vì người ta thường không quý những gì mình không làm ra. Điều đó không phải thật uổng phí công sức cả đời của bạn sao?

Nên, hãy cho con cái bạn cần câu cơm, thay vì con cá. Hãy dạy dỗ chúng kiếm được điều chúng muốn, thay vì để lại cho chúng công sức cả cuộc đời mình mà không biết sẽ tới đâu. Và ngôi nhà, miếng đất, chính là một trong những con cá đó. Đừng quá áp lực việc phải có đất cắm dùi. Thay vì đó, chỉ cần đảm bảo con cái bạn có một chỗ ở ổn định, đẹp đẽ cho tới lúc chúng đủ lông cánh tự bay ra khỏi nhà tìm kiếm một cái tổ mới theo nhu cầu. Căn nhà và đất đai thường là áp lực lớn nhất của mọi người. Kể cả những cặp vợ chồng mới cưới, những chàng độc thân và cả những bậc cha mẹ sống vì con cái quá nhiều. Thay vào đó, hãy dành thời gian và tiền bạc bạn làm ra để sống một cuộc sống tốt hơn. Đi du lịch đây đó, trang hoàng bài trí nhà cửa như đó là nơi chốn thiên đàng sau ngày dài mỏi mệt và dành thời gian dạy dỗ con cái nhiều hơn nữa. Đặc biệt là, bạn có thể dành nguồn lực, thời gian và tiền bạc để sống một cuộc đời ý nghĩa và trọn vẹn. Làm những điều bạn ấp ủ, những thứ bạn đam mê.

Rất nhiều việc bạn có thể làm, nếu như cất được gánh nặng ngôi nhà. Và nếu như mọi người đều có thể cất đi gánh nặng mua nhà, giá đất hẳn sẽ giảm đúng giá trị thực cùng lúc với các dịch vụ cho thuê nhà đất, căn hộ sẽ không ngừng được nâng cao. Nỗi ám ảnh thuê nhà sẽ không còn tồn tại nữa và mọi người sẽ có điều kiện tập trung vào những điều khiến họ hạnh phúc. Quan trọng hơn cả, thế hệ con cái tương lai chúng ta thay vì tự hào “nhà mặt phố, bố làm to” sẽ phải tìm những con đường khác để mà tự hào, mà khoe với chúng bạn. Những con đường như là tự thân lập nghiệp, cố gắng tới cùng để đi tìm kiếm những gì chúng muốn có. Thế hệ đó hẳn sẽ năng động, dồi dào sinh lực và tự tin hơn rất nhiều so với thế hệ chúng ta. Nếu như xã hội có hai lớp người: những người nói “tôi có một căn nhà, tôi đã tự mua nó” và một lớp người “tôi cũng có một căn nhà, cha mẹ để lại cho tôi”. Bạn muốn con cái mình thuộc lớp nào hơn? (được cả 2 thì thật là tốt)

Vậy nên, có thể nói, chính quan niệm cố sống chết để sở hữu một miếng đất nhằm “an cư lạc nghiệp” đang khiến bạn tự áp lực lên cuộc sống của mình rất rất nhiều. Từ đó áp lực lên cả một xã hội, một đất nước với nền kinh tế ảo tưởng. Khiến cho mọi thứ hoặc mất dần đi giá trị hoặc giá trị không hề tương xứng với giá cả. Một mặt, hai bên áp lực qua lại lên nhau. Không thể nào ngừng lại. Mặt khác, khi tự áp lực lên xã hội và bản thân bao nhiêu, bạn lại gỡ bỏ chúng khỏi con cái bấy nhiêu. Điều này khiến cho các thế hệ trẻ ngày càng mất đi đề kháng và sự cố gắng cần thiết, mất đi sự tự lập cũng như cơ hội chứng thực khả năng của bản thân. Đó là điều không nên chút nào.

Đọc tới đây, ắt hẳn chúng ta đều đã có cách nhìn khác về câu “an cư lạc nghiệp”. Không còn đi theo lối mòn suy nghĩ về cái nghĩa “nhất định phải có một căn nhà, một miếng đất” nữa. Hay chính xác hơn, ai muốn có nhà có đất thì nên tự đi mà phấn đấu, cha mẹ không nên phấn đấu dùm cho con cái nữa. Đất đai nhà cửa chỉ nên là một phương tiện, không nên là đích đến. Câu nói “An cư lạc nghiệp” của cha ông thật hay và thật đúng, chỉ tiếc là chúng ta lại hiểu sai về nó và rồi mọi hành động của ta đều cố chứng minh điều sai ấy trở thành điều đúng đắn, điều buộc phải làm.

An cư không có nghĩa là mua được đất, được nhà mà là tìm được một nơi bình an và ổn định, không phải chỉ cho cơ thể mà còn phải cho tâm hồn.

Lạc nghiệp không chỉ là sự giàu có về sự nghiệp, mà còn là việc tìm ra được ý nghĩa và mục đích sống của bản thân. Tìm được niềm vui và lòng yêu thích trong mọi việc ta làm mỗi ngày. Đó mới là cái đích cao nhất của cuộc sống. Sống để tạo niềm vui, chứ không phải để mua nhà đâu nhé.

Dù sao, xin làm rõ đôi điều, ý tôi khi viết bài này, chỉ muốn khuyên mọi người đừng quá đặt áp lực nhà cửa lên vai mình. Nhất là các bậc phụ huynh đừng áp lực chuyện này lên bản thân mình thay cho con cái. Và những người con, chính các bạn mới là người cần tự đặt áp lực nhà cửa với bản thân mình. Tôi không nói việc mua nhà là không quan trọng, nhưng cần hiểu đúng tầm quan trọng của nó trong cuộc đời bạn. Việc tự mua được một căn nhà, một tài sản, là một cảm giác tuyệt vời. Tôi là con gái nhưng rất thích bất động sản và luôn nghĩ tới việc tự mua nhà, mua đất cho chính mình. Tôi thích ở nhà thuê một mình và không thích gọi nhà ba mẹ là nhà mình khi ai đó hỏi nhà bạn ở đâu. Hơi lạ nhưng cũng có đôi chút tự hào. Mua một bất động sản luôn là một trong những mục tiêu yêu thích của tôi cho tương lai. Nếu bạn là con trai, kể cả xin hãy bắt đầu suy nghĩ đến chuyện tự mình mua nhà mua đất, kể cả khi cha mẹ có sẵn nhà đất để lại cho bạn. Nếu bạn là con gái, cũng hãy bắt đầu suy nghĩ như thế, tại sao không chứ. Tự mua một căn nhà trước cả khi lấy chồng, bạn sẽ tự tin hơn, có thêm nguồn thu nhập hoặc đơn giản là một nơi khác để đi khi giận chồng. Nếu như bạn là một người con, hãy nhấc gánh nặng nhà cửa cho mình ra khỏi vai cha mẹ, để cho họ có thêm thời gian tận hưởng cuộc sống khi còn có thể. Và nếu như bạn là cha mẹ, hãy bắt đầu dạy con cái tự mình tìm kiếm những gì mình muốn, không chỉ bớt được gánh nặng cho bản thân, mà còn bớt được gánh nặng cho xã hội và giúp chúng có được một tương lai ổn định và vững chắc hơn rất nhiều.

 

Phi Tuyết

Ở đời, biết thế nào là sướng?

Featured image: Dark Paradise

 

Hôm qua có một anh bạn làm cùng công ty bỗng dưng nhìn tôi với ánh mắt vừa chân thành xen chút ghen tỵ: “Nhìn em thế mà sướng, không phải lo nghĩ gì cả.”

Tôi có chút bất ngờ trước lời nhận định của anh bởi không phải anh là người đầu tiên nhận xét tôi như thế. Trước đó có khá nhiều người thân, bạn bè từng nói vậy. Có điều lạ ở đây là tôi mới chỉ làm ở công ty vài tháng, thời gian tiếp xúc với anh ta chưa nhiều, chưa đủ để có thể nhận xét về nhau một cách thấu đáo. Tôi tự hỏi chả lẽ mình sướng vậy sao?

Tôi sinh ra trong một gia đình công chức. Ở quê với đa số người dân làm ruộng mà bố mẹ tôi lại có lương hàng tháng, tuy chẳng giàu có hơn ai nhưng cũng đủ để tôi sống một cuộc sống thoải mái, không phải vất vả như nhiều đứa bạn cùng trang lứa.

Bố mẹ làm nhà nước, tất nhiên nhà tôi không có ruộng. Mỗi mùa cấy hay gặt lúa tôi không phải còng lưng cấy đến rạp người hay hì hục gặt lúa, phơi thóc rồi có khi phải cong mông chạy thóc khi trời dở chứng muốn mưa. Tôi chỉ cảm nhận được sự vất vả của công việc làm ruộng thông qua những lời kêu than mệt mỏi, những giọt mồ hôi đầm đìa trên khuôn mặt và ướt đẫm lưng áo hay hình dáng đen sạm vì nắng cùng móng tay, móng chân ố vàng của ruộng đồng qua những người xung quanh tôi chứng kiến. Chợt nghĩ đến mình, đúng là tôi sướng thật.

Mẹ tôi làm giáo viên nên có thời gian ở nhà nhiều. Mẹ cùng giành làm hầu hết những công việc nhà lớn nhỏ không cho tôi động tay vào việc gì chỉ với yêu cầu là ngồi vào bàn học. Cuộc đời học sinh của tôi chỉ có hai việc chính là ăn và học, ngoài ra tôi không phải bận tâm vào bất cứ chuyện gì. Ngẫm nghĩ, đúng là tôi sướng thật.

Chia tay thời học sinh, thời sinh viên qua cũng chẳng mấy chốc. Hình như sự sung sướng đó nó vẫn gắn bó với tôi chẳng thể rời. Nhờ có mối quan hệ xã hội rộng bố đã xin cho tôi vào làm ở một công ty của người quen một cách dễ dàng với công việc nhàn hạ và mức lương ổn định. Xâu chuỗi lại sự việc từ nhỏ đến giờ. Đúng là tôi sướng thật.

Ừ thì tôi sướng. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhớ hồi học sinh trong khi các bạn phải làm phụ giúp bố mẹ đến mệt nhoài thì tôi chỉ việc ngồi vào bàn học, học để mong sao đạt kết quả cao nhất. Trẻ con thì có phải ai cũng thích học hơn chơi đâu. Nhìn lũ bạn đi cấy gặt tuy vất vả nhưng vừa làm bọn nó có thể tụ tập đi bắt cua, bắt cào cào hay diệt chuột lấy đuôi về treo lên gác bếp phơi khô hết vụ mùa đem đến hợp tác xã đổi lấy tiền mua kẹo. Tuy vất vả nhưng bọn bạn có niềm vui mà tôi không có.

Bố mẹ lo cho tương lai của tôi nên cũng hạn chế cho đi chơi. Nhiều lúc vừa học tôi vừa lén nhìn qua ô cửa sổ xem bọn cùng tuổi ở xóm chơi trốn tìm, ném cóng bơ, bắt ốc quanh ao… kèm theo những tràng cười sảng khoái, hồn nhiên vang xa khiến tôi không sao rời mắt được. Tôi thèm, thèm lắm được hòa nhập vào đó, được gác chuyện bài vở một bên để thoải mái chơi mà không phải lo lắng chuyện gì.

Việc học hành đâu phải lúc nào cũng suôn sẻ như mong đợi. Có khi điểm số không được như mong muốn, trong lúc tức giận mẹ tôi mắng: “Có mỗi việc ăn với học mà cũng không xong.” Dẫu biết rằng chỉ là câu nói không cố ý của mẹ trong lúc nóng giận nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn ghê gớm. Tôi buồn cho chính bản thân mình và có lỗi với sự kỳ vọng của bố mẹ. Càng học lên cao thì áp lực càng lớn. Có những khi tôi tự dằn vặt bản thân vì đã không làm hài lòng bố mẹ. Tuổi thơ của tôi trôi qua không hồn nhiên, đầy ắp tiếng cười và hình như tôi có suy nghĩ già trước tuổi thì phải.

Khi trở thành sinh viên tôi bắt đầu rời xa gia đình nhập học nơi thủ đô ồn ào, náo nhiệt. Nơi không chỉ đơn thuần là những con người thật thà, chất phát như dân quê mà người ở đây có phần gì đó chua ngoa hơn, toán tính hơn và tình cảm giữa người với người rời rạc, khô khốc.

Giường như người chỉ quen với cuộc sống được bao bọc của gia đình như tôi nay phải tự mình bắt đầu không khỏi thấy khó khăn. Tôi phải bắt đầu học từ những việc đơn giản nhất như nấu cơm, rửa bát, giặt quần áo… Giao tiếp của tôi không tốt nên tôi rất ngại khi tiếp xúc, nói chuyện với người xung quanh. Dần dần tôi càng hạn chế những mối quan hệ ngoài xã hội và trở lên khép kín hơn.

Không biết có phải là tôi may mắn hay không khi ngay từ hồi bé xíu tôi đã được bố mẹ quan tâm đặc biệt. Giờ học xa không được chăm sóc như trước nữa nên cứ hơi ra ngoài dính tí mưa hay nắng là về ốm ngay. Uống thuốc nhiều đến trơ lì không còn cảm giác gì nữa. Bệnh hắt hơi, sổ mũi nhức đầu quanh năm làm tôi khó chịu vô cùng.

Hiện giờ tôi đã có một công việc ổn định như mong muốn. Thời buổi kinh tế khó khăn có được việc làm như tôi quả là niềm mơ ước của nhiều người. Tôi cũng cảm thấy mình là một người may mắn. Thế nhưng, chính sự dễ dàng đó tôi bị người đời xì xào, bàn tán. Người mừng cho tôi cũng có nhưng kẻ dè bỉu, ghen ghét cũng không ít.

Bề ngoài nhìn tôi có vẻ mạnh mẽ, cứng rắn, không quan tâm gì đến chuyện xung quanh nhưng thật ra tôi cũng buồn lắm. Nhiều đêm nghĩ mà nước mắt cứ chảy trào đẫm gối. Trên đời này có gì khổ bằng khổ tâm. Người ta có thể thiếu hụt vật chất nhưng tình cảm luôn đong đầy thì chẳng khó để vượt qua được. Người đời chỉ nhìn vào những mặt tốt đẹp của người khác để đánh giá toàn diện mà có ai chịu tìm hiểu những mặt trái sau đó. Sống trên đời ai không có suy nghĩ? Nhiều khi tự động viên tinh thần mình phải phấn chấn lên, nghĩ nhiều về những điều tốt đẹp trước mắt. Nói là thế nhưng mấy ai làm được. Nỗi buồn nó luôn ẩn hiện đâu đó trong tâm hồn mỗi con người chỉ có điều cách thể hiện khác nhau.

Ở đời biết thế nào là sướng? Cái bình thường của người này có khi là sự thèm muốn, là mục tiêu phấn đấu của người khác. Vậy nên, biết đủ là đủ. Nên hài lòng với những gì mình đang có. Hạnh phúc đâu xa. Hạnh phúc luôn ở quanh mình. Lòng ghen ghét, đố kỵ chỉ làm hạ thấp giá trị bản thân mỗi người.

 

Trần Trang

Đất nước thời bình — Văn hóa thời loạn

Featured image: Idyllimonkeys

Văn hóa là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự tiến bộ, phát triển một xã hội, một dân tộc. Thế nhưng không khó để nhận ra những giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc đang dần bị mai một, xuống cấp. Tất cả như đập vào mắt chúng ta hàng ngày, mọi lúc mọi nơi, nếu chúng ta thấy điều đó ở ngoài đường, chúng ta cũng có thể thấy điều đó ở cơ quan, ở quán ăn, nơi vui chơi, trong nhà trường, và ở ngay tại gia đình… Vậy, đâu là nguyên nhân của sự xuống cấp này?

Về bản chất, văn hóa được lưu giữ, phát triển thông qua giáo dục. Và khi giáo dục không làm tốt được chức năng của mình thì văn hóa lập tức gánh hậu quả. Chúng ta sở hữu một nền giáo dục có quá nhiều vấn đề để nói.

Giáo dục hình thành bởi sự kết hợp giữa giáo dục tại gia đình và giáo dục trong nhà trường. Tại gia đình, nơi để những bậc làm cha làm mẹ là tấm gương mẫu mực cho con cái, dành thời gian quan tâm dạy dỗ con cái một cách có khoa học, có nền tảng. Tuy nhiên, những gia đình làm được như thế lại không nhiều, mà rất nhiều bậc cha mẹ coi đó là trách nhiệm của nhà trường, của xã hội; tệ hơn một số còn là “tấm gương”: nói tục, đổ lỗi, ích kỷ, cờ bạc, thuốc lá… và vô số tệ nạn xã hội khác cho con cái. Có lẽ chính họ cũng không ý thức được rằng chính những thói quen chết người ấy đang vô tình “hủy hoại” tâm hồn những đứa trẻ vốn chỉ như tờ giấy trắng. Nhìn vào những đứa trẻ hư hỏng, phạm tội, mà hầu hết chúng sinh ra trong những gia đình không hạnh phúc, thiếu thốn tình cảm từ gia đình… thì đủ thấy được gia đình quan trọng đến như thế nào tới sự phát triển nhân cách, lối sống của mỗi con người.

Song cùng với gia đình thì nhà trường cũng nắm một vai trò quan trọng trong việc định hướng, xây dựng nhân cách, hiểu biết và rèn giũa năng lực cho mỗi cá nhân. Tuy nhiên điều đáng nói là nền giáo dục của chúng ta đang phát triển một cách lệch lạc, lệch lạc từ thái độ đến phương pháp dạy. Tại bất cứ đất nước phát triển nào trên thế giới, nền giáo dục của họ đều phát triển dựa trên những tôn chỉ, triết lý riêng. Nếu giáo dục Mỹ dựa trên những triết lý thuyết phục, rõ ràng bao gồm: Thuyết bản chất (Essentialism), thuyết tiến bộ (Progressivism), thuyết trường tồn (Perennialism), thuyết cải tạo xã hội (Social reconstructionism) và thuyết hiện sinh (Existentialism)… đã xây dựng nên cường quốc phát triển bậc nhất trên thế giới, thì tại Singapore với triết lý “Trường tư duy, quốc gia học tập” và phương châm “dạy ít, học nhiều” thành công của họ không chỉ được khẳng định bằng nền giáo dục với chất lượng hàng đầu châu Á mà còn bằng một đất nước luôn nổi tiếng với sự văn minh, hiện đại..

Vậy, câu hỏi đặt ra là triết lý giáo dục Việt Nam là gì? Đặt câu hỏi này cho những người làm giáo dục nước nhà (ý tôi nói là những người làm công tác quản lý, định hướng giáo dục) liệu có bao nhiêu người trả lời được? Lại thử đặt câu hỏi tương tự dạng như “mục đích của việc học là gì?” cho giáo viên, học sinh thì chắc chắn không bất ngờ gì khi câu trả lời nhận được chỉ là sự ngỡ ngàng rồi im lặng từ cả người dạy và người học. Tại sao? Bởi triết lý giáo dục Việt Nam (nếu có) thì là “Tiên học lễ, hậu học văn”, hay “Học đi đôi với hành” chẳng hạn? Nhưng nếu chúng ta coi đó là những triết lý giáo dục thì cũng chỉ là sự giáo điều, sáo rỗng. Triết lý giáo dục? Hoặc không có hoặc có như không thì tựu chung lại cũng là không có.

Cũng vì thế chúng ta có mô hình giáo dục chẳng giống ai. Chúng ta tập trung nhân lực, cơ sở, những gì tốt nhất để đi xây cái “nóc nhà” giáo dục là Đại Học, trong khi việc này chẳng mang nhiều ý nghĩa khi mà trước đó “cái móng” lại chỉ được xây qua loa cho xong chuyện. Chúng ta xây những trường mầm non lớn, đầy đủ tiện nghi, từ nhà ăn đến sân chơi, nhưng lại chỉ sử dụng chỉ để… “trông trẻ”! Khi chính những giáo viên mầm non ấy cũng luôn “ý thức rõ ràng” rằng mình làm nghề “trông trẻ” thì liệu họ có thể dạy trẻ ý thức, trí tuệ, phát triển khả năng và quan trọng hơn là nhân cách? Câu trả lời như thế nào thì ai cũng rõ.

Đó là chưa kể sự sáo rỗng, lệch lạc ấy tiếp tục có đất diễn ở tiểu học, trung học và cả đại học. Hãy nhìn cái cách mà những học sinh cấp 2, cấp 3 ứng xử với bố mẹ, thầy cô, và người xung quanh. Hãy nhìn cách chúng ứng xử nơi công cộng, hãy nghe chúng nói tục, chửi bậy ngoài đường, trên facebook… Rồi nhìn tới những xóm trọ sinh viên xem họ sinh hoạt như thế nào? Hãy nhìn họ dùng thời gian bốn, năm trời sinh viên để chơi game, để tiêu tiền, để hưởng thụ như thế nào?

Trong khi chúng ta đang quanh quẩn với những vấn đề của giáo dục, chúng ta cải cách giáo dục, chúng ta đi tìm triết lý giáo dục… thì vấn đề của văn hóa Việt Nam đã vượt ra khỏi biên giới, “vươn ra tầm quốc tế” bằng một cách mà không ai muốn…

Đắng lòng khi người Việt ta đi đâu cũng bị săm soi, kỳ thị, chúng ta trở nên nổi bật một cách “đau đớn”. Người nước ngoài kỳ thị người Việt ta kỳ thị đủ thứ: từ trộm cắp vặt, ăn uống lãng phí trong tiệc buffet, đến trốn vé tàu, đánh nhau, vứt rác bừa bãi… thật xấu hổ! Phải chẳng khi đất nước đã thời bình thì văn hóa lại bắt đầu thời loạn?

 

Lê Thành Đạt

Những phân số cuộc đời – phần 2

Featured image: Yasmina

 Phân số 2/3: Bí kíp duy trì các mối quan hệ

Trước tiên, hãy cùng tôi đọc lại một đoạn trích trong cuốn Dạy Con Làm Giàu của Robert Kiyosaki khi người cha giàu dạy dỗ cậu bé Robert, bạn sẽ hiểu về phân số này.

“Robert, con hãy nhớ rằng, trên đời này, trong tất cả những mối quan hệ của con, những người mà con quen biết, sẽ luôn có:

  • 1/3 trong số họ luôn luôn yêu quý con và có cái nhìn thiện cảm về con bất kể con làm gì, dù tốt hay xấu, dù điên khùng hay ngốc nghếch.
  • 1/3 trong số đó sẽ luôn luôn ghét con bất kể con có đối xử tốt với họ đến đâu.
  • Và 1/3 còn lại chẳng quan tâm con là ai, con làm gì, tại sao con tồn tại trên đời này.

Việc của con, là hãy quan tâm và yêu quý những người yêu quý mình. Tìm cách thu hút sự chú ý và tình cảm tốt đẹp của nhóm 1/3 những người chưa quan tâm con, và quan trọng nhất là, mặc xác những kẻ không yêu quý con đi.”

Đó quả thực là một lời dạy chí lý khi chúng ta nhìn lại thực tế cuộc sống của mình. Như ai đó đã nói câu rất hay này: “Chúng ta đang tiêu những đồng tiền mình không làm ra, để mua những thứ ta không cần, nhằm gây ấn tượng với những người ta chẳng hề quen biết.” Thật ngớ ngẩn đúng không. Đau lòng ở chỗ câu nói này tuy ngớ ngẩn nhưng đó lại chính xác là những gì chúng ta đang làm. Hãy nghĩ lại đi nào, bạn có bao nhiêu thời gian và bao nhiêu nguồn lực để có thể làm vui lòng tất cả mọi người? Đặc biệt là những người chẳng ưa gì chúng ta?

Và bạn cũng biết, nhóm người yêu quý chúng ta hẳn là những người thân trong gia đình, bạn bè thân thiết và một vài người xung quanh như hàng xóm, đồng nghiệp, bạn học… Những người yêu quý chúng ta ta rất dễ nhận ra họ. Họ luôn ở đó khi ta cần, luôn lắng nghe và cùng ta vượt qua những trở ngại trong cuộc sống. Họ thật đáng quý, đáng trân trọng. Nhưng đáng tiếc, tất cả những gì chúng ta làm để đáp trả lại tấm chân tình đó, là làm lơ họ. Ta coi họ như thể việc đối xử tốt và yêu thương chúng ta là trách nhiệm, là bổn phận của họ vậy, nên chẳng có gì phải cảm ơn, phải ghi nhận hay đáp trả. Đã bao lâu rồi bạn không tỏ lòng biết ơn và tình cảm mến đến những người yêu thương bạn? Có thể với nhiều người cũng đã khá lâu rồi. Họ thà bỏ tiền ra thết đãi những người bạn ngàn năm mới gặp một lần, hơn là mua cho cha mẹ họ một món ngon, hơn là mua cho người bạn thân nhất của mình một món quà nhỏ. Đó là cách chúng ta vốn vẫn làm, và đang làm, từ giờ tới cuối đời.

Chuyển sang nhóm người luôn ghét ta dù ta chẳng làm ảnh hưởng gì đến họ. Đây là nhóm khó khăn nhất trong việc xác định họ là ai, ta ít khi biết được ai ghét mình nếu như họ không biểu lộ ra điều đó. Mà chẳng ai lại biểu lộ mình ghét người khác cả. Nghĩ tới đây tôi lại nhớ đến bộ phim Âu Mỹ tôi đang xem, ở đó sao mọi người bày tỏ quan điểm của mình thật dễ dàng. Dù cho là hai người bạn nói với nhau, dù cho đứa con tức giận cha mẹ, dù cho người vợ nói với chồng, người khách hàng với cô nhân viên, ai cũng dễ dàng nói ra câu “I hate you” sao mà đơn giản và dễ dàng đến thế. Sẽ thật tốt nếu như ai ghét ta cũng nói ra điều đó, lúc đó ta thật dễ đối phó, chỉ cần hóa giải hiểu lầm hoặc mặc kệ họ. Nhưng cuộc sống thực này vốn không đơn giản như thế. Nhiều người không ưa chúng ta lắm đấy, nhưng họ lại cứ im im. Hoặc tệ hơn, họ lại cố tình tỏ ra tốt với ta, yêu thương ta lắm. Tôi cảm thấy sợ những người này, chắc hẳn là họ có ý đồ gì đó, chứ không ai lại cố công đi đối thật tốt với người mình ghét làm gì đúng không?

Có rất nhiều nguyên nhân khiến ai đó ghét bạn, như là sự ghen tị, thù hằn, hiểu lầm, sợ hãi… Cho dù vì lý do gì, người ghét bạn cũng sẽ luôn ghét bạn nếu như không có biến cố nào xảy ra thay đổi điều đó. Và người ghét bạn, cho dù bạn làm gì, đối xử với họ tốt đến đâu, họ vẫn luôn ghét bạn. Có thể thấy rõ điều này qua lượng anti-fan của những người nổi tiếng. Rõ ràng một cô nàng nổi tiếng nào đó chẳng hạn, cô ta chẳng làm hại hay ảnh hưởng gì đến cuộc sống của một anti-fan, nhưng khi đã ghét rồi, thì cứ ghét thôi. Bất kể cho cô ta có làm việc thiện lành phúc đức tốt đẹp gì cũng đều sẽ bị các antifan coi là ngứa mắt và giả tạo. Nếu cô ta gặp chuyện buồn phiền và than thở, sẽ bị coi là nhu nhược, yếu hèn. Nếu cô ta mạnh mẽ, sẽ bị coi là ngứa mắt, đóng kịch… Vâng, dù có làm gì cũng không thể khiến cho một anti-fan thay đổi tâm tính đối với thứ họ mang ác cảm sẵn trong người. Và bạn nên biết rằng, tuy chúng ta không phải người nổi tiếng, nhưng chúng ta cũng luôn có đâu đó những anti-fan ở ngoài kia. Và tôi thật sự ước gì chúng ta có thể nhận diện họ một cách dễ dàng. Đây là việc của giác quan thứ sáu. Việc bạn làm, nếu như phát hiện ra ai đó không ưa mình. Nếu người đó là quan trọng và việc họ ghét bạn chỉ là hiểu lầm, hãy tìm cách hóa giải nó. Còn giả như, họ là người không quan trọng. Bạn hãy đứng dậy thôi, ném một ánh nhìn kiêu kì và quay lưng bước đi. Mặc cho họ sống mãi mới sự ghen tuông và đố kị. Họ mới là người phải mệt mỏi chứ không phải chúng ta. Dù sao đi nữa, nếu bạn may mắn nhận ra ai là người không ưa mình, hãy phớt lờ họ.

Nhóm cuối cùng, người không quan tâm đến ta. Nhóm này khá dễ nhận diện, vì họ thờ ơ. Họ chẳng hào hứng những việc ta làm, cũng không ghét bỏ. Tóm lại là họ bàng quan với cuộc sống của ta. Người cha giàu dạy ta nên quan tâm đến nhóm người này nhiều hơn. Tạo điều kiện hai bên tìm hiểu nhau và khiến họ thuộc về nhóm người luôn yêu quý ta. Về cách thức để khiến người khác trở nên yêu mến ta, Dale Carnegie đã nói một câu cực hay thế này “Chỉ trong vòng ba tháng thành thật quan tâm tới mọi người, tôi có nhiều bạn hơn gấp nhiều lần so với ba năm làm mọi thứ để khiến mọi người quan tâm đến tôi.” Nếu bạn muốn tìm cách thu hút sự yêu mến của những mối quan hệ nhạt nhòa, hãy tìm đọc cuốn Đắc Nhân Tâm của Dale Carnegie nhé.

Khó khăn lớn nhất đối với mỗi người, là làm sao để xác định ai là người ghét bỏ, ai là người yêu quý mình. Tôi cũng chưa biết được nhiều cách để giúp bạn làm rõ và nhận định họ. Vì ở khía cạnh này chúng ta chỉ có thể dùng đến trực giác của bản thân là chính.

Chuyện ở chỗ, xác định được những nhóm người này, bạn sẽ không còn quá áp lực cho bản thân phải khiến tất cả mọi người yêu quý mình, đó là điều không thể. Hãy tin rằng chuyện mình có người không ưa, là rất bình thường. Người ta ghét chủ yếu vì người ta ghen tị. Nếu ta khiến người ta ghen tị, chứng tỏ chúng ta có điểm gì đó hơn họ. Điều này đáng vui hơn là đáng buồn đúng không? Và quan trọng nhất là, xin bạn hãy dành nguồn lực của mình, bao gồm cả công sức, tài chính và tình cảm yêu thương cho những người xứng đáng, những người luôn yêu thương bạn vô điều kiện dù cho bạn có làm bất cứ điều gì xấu xí. Hãy dành cho họ nhiều tình cảm và sự quan tâm hơn. Nếu có thể, hãy bớt vài phút giây quan tâm những người xa lạ trên facebook, để chuyện trò, thăm hỏi những người xung quanh bạn, như bác hàng xóm cạnh nhà, cô bạn học ít nói hay cho mượn tập, anh chàng đồng nghiệp hay giúp bạn những việc vặt vãnh…

Và cách tốt nhất trong việc duy trì các mối quan hệ, bất kể ở nhóm phần ba nào. Là hãy luôn đối xử tử tế và chân thành với mọi người. Sự chân thành quan tâm của bạn có thể khiến những người không ưa bạn trở nên đỡ ác cảm về bạn hơn, và nhất là nó sẽ lôi kéo những người bàng quan trở nên yêu quý bạn. Bất kể người nào trên đời, nếu có thể quy tụ những người yêu quý luôn ở bên mình. Đó thực sự là người giàu có, giàu có về tình cảm.

Tóm lại ý nghĩa của phân số này, là khi bạn hiểu được nó, bạn sẽ không còn buồn nhiều khi có người ghét mình. Bạn sẽ muốn tìm cách thu hút những người bàng quan trở nên yêu mến bạn hơn, và nhất là, hãy thể hiện sự biết ơn và trân trọng đến những người luôn yêu quý và ủng hộ bạn nhiều hơn, nhiều hơn nữa.

Phân số 1/3: Bí kíp cho một cuộc đời vui vẻ

Mới đây tôi có chia sẻ status này lên fb, một câu nói không biết của ai nhưng đối với tôi, nó là chân lý, là lẽ sống ở đời đáng được đọc, học và thực hành mỗi ngày.

“Trên đời này chỉ có 3 loại việc: việc của bản thân, việc của người khác và việc của ông trời
Chúng ta thường buồn phiền là do:

  • không chịu làm việc của bản thân
  • thích xen vào việc của người khác
  • quá lo lắng về việc của ông trời

Muốn sống vui vẻ thật ra rất đơn giản, chỉ cần:

  • luôn làm tốt việc của bản thân
  • không xen vào việc của người khác
  • ngừng lo lắng về việc của ông trời.”

Thật đơn giản và dễ hiểu đúng không?

Việc của bản thân, có lẽ không cần nói nhiều, là danh sách việc làm của bạn mỗi ngày, là những ý định, những mục tiêu, những kế hoạch và công việc bạn vẫn thường làm để nuôi sống bản thân. Là những việc ảnh hưởng trực tiếp tới nồi cơm, tới tương lai của bạn và những người bạn yêu thương. Đó mới là điều bạn cần quan tâm và dốc toàn lực để hoàn thành và không ngừng phấn đấu.

Việc của người khác, là new-feeds với tràn ngập thông tin hình ảnh của những người xa lạ từ ăn chơi vui vẻ tới đau buồn thê lương. Biết những việc này cũng có cái tốt, khi nó là thông tin bạn cần biết hoặc là những điều đáng được học hỏi. Còn không, nó vô nghĩa. Việc của người khác, là những trang tin tức vô bổ ngập tràn tin rác. Những bài báo phiến diện quy chụp hoặc những bộ phim tẻ nhạt tốn thời gian.

Việc của người khác, là tất cả hành động của những người nổi tiếng. Những thông tin nhảm nhí vớ vẩn hôm nay họ làm gì, ngày mai họ đi đâu, ai chia tay chia chân, người nào lộ hàng, người nào ly dị. Những thông tin này, tin tôi đi, nếu như bạn không biết, chẳng ảnh hưởng gì đến thế giới cả. Còn nếu như bạn biết cho vui, nó cũng đã ngốn không ít thời gian quý báu của bạn. Còn nếu như bạn cuồng họ ư? Bạn sẽ ăn cùng họ, ngủ cùng họ qua những trang tin tức, bạn sẽ thèm khát được biết tin về họ mỗi ngày. Bạn làm mọi cách để được chụp cùng họ tấm hình. Bạn ca ngợi họ, cuồng tín họ, thần tượng họ như thể là một kiểu tôn giáo mới.

Thật tình xin lỗi nếu như tôi nói điều này khiến bạn cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng theo tôi, việc trở thành fan cuồng, thần tượng một người khi bạn chẳng học hỏi gì được từ họ, ngoài việc tôn sùng một ngoại hình đẹp đẽ, một tài năng thứ cấp và nhất là thần tượng một người chỉ qua những bức hình đẹp đã được chỉnh tới lui… Là việc làm vô nghĩa và lãng phí tài nguyên bản thân nhất trên đời.

Nghệ sĩ là người làm nghề giải trí, hãy để họ trở thành nguồn giải trí đơn thuần, đừng biến họ thành thần thánh để tôn sùng. Chính điều đó khiến họ ảo tưởng về sự thu hút cá nhân và càng ngày càng nghiện những chiêu trò lố bịch hòng mong được sự chú ý, thay vì trau dồi những kĩ năng nghề nghiệp. Mà thôi, nói tới đây thôi, vì chắc chắn ai cũng có thần tượng của mình, tôi nói nữa e rằng sẽ bị ném cho hàng ngàn ánh nhìn dao găm mất. Bạn có quyền chọn người để thần tượng, nhưng xin hãy chọn những người mang lại ảnh hưởng tích cực, những người giúp cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn ấy.

Tôi chẳng thần tượng một ai, dù xem các thể loại phim các nước, nghe đủ loại nhạc. Và thật sự tôi thấy đó là một điều may mắn. Tôi thích một vài người nổi tiếng nhưng không phải vì những gì họ được tung hô. Tôi thích gia đình Angielia Jolie – Prat Pitt vì cách họ dùng sự nổi tiếng của mình để gây ảnh hưởng tốt đẹp tới cả thế giới, cách họ thu nhận và chăm sóc những đứa trẻ không ruột rà với mình, những thông điệp yêu thương họ truyền tải. Tôi thích gia đình Victoria – Beckham vì cách họ bảo vệ, yêu thương gia đình của mình cũng như khâm phục tài năng của họ ở tất cả các lĩnh vực, cách họ cân bằng công việc-cuộc sống và gia đình. Tôi thích anh chàng MC quốc dân già cỗi, xí trai Yoo Jae Suk của đất nước Hàn Quốc vì sự hài hước, những hành động chân thành và luôn đối xử tốt với tất cả mọi người của anh ấy. Tôi thích chàng ca sĩ quá thời Kim Joong Kook vì sự nhẹ nhàng lịch thiệp sau một vóc dáng cường tráng, mạnh mẽ. Và cuối cùng, tôi thích cô ca sĩ Lee Hyori vì cách cô ấy sống, mộc mạc, tự do, chân tình và đơn giản. Tôi chỉ thích cô ấy từ khi cô cưới một chàng nhạc sĩ nghèo, xấu trai, tổ chức một đám cưới siêu đơn giản và sống một cuộc sống giản dị, ăn chay, nuôi thú vật bị bỏ rơi…

Những người này, họ nổi tiếng, tôi yêu mến họ hoàn toàn không vì tài năng gì cả, chỉ vì những giá trị sống họ mang lại, là đáng giá, đáng học hỏi. Mà nói cho cùng, dù sao, cũng may nhờ có những người hâm mộ như các bạn, mà người nghệ sĩ mới không bị chết đói. Và sống một cuộc sống thần tiên sung túc như hiện tại. Thiết nghĩ nếu ai cũng bàng quan với người nổi tiếng như tôi, thế giới này sẽ ra sao? Mà khoan lo đến chuyện của thế giới, chỉ biết rằng, khi tôi không quan tâm tới người nổi tiếng, tôi có nhiều thời gian để chăm lo cho cuộc sống của mình hơn rất nhiều, nhiều thời gian để thu nạp những thông tin, kiến thức hữu ích và nhất là thời gian để quan tâm tới những người xung quanh tôi, những người quan tâm và yêu mến tôi. (phần này có nên cho vào mục 1/3 những người không quan tâm ta thì hợp lý hơn không nhỉ?)

Theo tôi, tất cả những tin tức trên báo chí, đều là việc của người khác, chỉ cần đọc đề mục để biết thôi, không cần đi sâu làm gì, tốn thời gian, vô bổ, chuốc phiền não vào người. Cuộc sống này, không đâu trút lên người bạn nhiều phiền não cho bằng những trang tin tức: giết người, tham ô hối lộ, tai nạn, hiếp dâm, đâm chém, lừa gạt… Phần lớn cảm xúc tiêu cực của bạn đều từ báo chí mà ra, những câu chuyện của những người khác, hãy học cách làm lơ nó. Lơ báo chí, lơ newfeeds đi và tập trung cho việc của chính mình.

Việc của ông trời, là những việc như thời tiết, việc chiến tranh thế giới, những căn bệnh hiểm nghèo… Bạn không thể không biết về việc của ông trời, nhưng hãy tập đừng quá bận tâm về chúng, đó vốn dĩ không phải việc bạn có thể can thiệp hay tác động. Hãy đứng qua một bên và luôn trong tâm thế sẵn sàng đón nhân những điều có thể xảy đến.

Ý nghĩa của phân số này, là hãy thay đổi cách sống hiện tại của bạn, hãy dùng nguồn lực, năng lượng của mình để làm tốt những việc của bản thân thay vì đi lo lắng chuyện của những người bạn không hề quen biết và tệ hơn là lo thay chuyện của ông Trời bạn nhé.

 

Phi Tuyết