19.5 C
Da Lat
Thứ Sáu, 25 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 184

Gửi Việt Nam và Hong Kong, Dân Chủ không phải là cái chúng ta cần đấu tranh

Featured image: Một câu trích dẫn nổi tiếng của Emma Goldman, dịch tạm: Nếu bầu cử có thể thay đổi được gì, họ sẽ khiến cho nó trở nên phi pháp.

 

Báo chí, truyền thông, Facebook khắp thế giới những ngày gần đây đang sục sôi với sự kiện hàng chục ngàn người tại Hong Kong xuống đường biểu tình đòi hỏi dân chủ. Tuy nhiên bài viết này sẽ không bàn về sự kiện đó như hầu hết những gì mọi người đang được cho biết, mà sẽ bàn về hai chữ “dân chủ”.

“Thượng nhân bàn về ý tưởng
Thường nhân bàn về sự kiện
Phàm nhân bàn về con người.”

– Eleanor Roosevelt (Phu nhân cố Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt)

Để có thể nói cho tường tận, đầy đủ về dân chủ thì tôi cần phải viết cả một quyển sách, như có nhiều tác giả đã viết, nhưng hiện tại thì vẫn chưa có mạnh thường quân nào tài trợ để tôi thực hiện được việc đó, nên trong khuôn khổ một bài viết dành riêng cho Triết Học Đường Phố tôi sẽ cố gắng tập trung vào những điểm trọng tâm, vì thế tất nhiên sẽ có những điểm bị lược bỏ, thiếu sót. Nội dung chính của bài viết này tôi đoán trước được rằng sẽ trái ngược với quan điểm của 99% độc giả, nên chắc chắn sẽ có người phản biện; nhưng tôi xin được phép nói trước là có thể mình sẽ không trả lời những phản biện đó. Lý do? Có thể kiến thức chính trị tôi còn nông cạn nên không đối đáp được; hoặc cũng có thể tôi trả lời được nhưng đơn giản là không có thời gian, những ai biết tôi đều biết tôi hiếm khi nào có thời gian. Mọi người hãy xem đây như một bài tham khảo. Tất cả những hiểu biết tôi đều học được từ những người giỏi hơn mình; ai thật sự muốn tranh luận thì tôi có gợi ý là không nên tranh luận với tôi mà nên tranh luận với những người giỏi hơn tôi. Forum tụ họp của nhóm học giả này – trang tôi đọc mỗi ngày – sẽ được kèm theo ở cuối bài [2] (họ nói tiếng Anh).

Dân chủ là gì?

Thật sự thì dân chủ là cái gì mà tôi thấy người người hô hò dân chủ, nhà nhà hô hò dân chủ, thậm chí cả thế giới cũng hô hò dân chủ, các blogger hô hò dân chủ, các nhà hoạt động chính trị ai ai cũng hô hò dân chủ? Tôi có cảm giác rằng người ta chẳng biết mình đang hô hào cho cái gì; phải chăng nhiều khi nghe hai chữ dân chủ có vẻ hay hay và thấy người khác hô hào thì họ cũng hô hào theo nhưng sự thật thì chưa bao giờ suy ngẫm về nó hơn một giây (tất nhiên con số một giây này chỉ là một nghệ thuật thậm xưng). Dân chủ có phải chỉ đơn giản là một xã hội do nhân dân làm chủ? Tất nhiên là không đơn giản như vậy; chúng ta phải tập suy nghĩ sâu xa hơn. Cách thức để có được một xã hội do nhân dân làm chủ như vậy thì người ta phải làm gì? Bạn đã trả lời đúng: Bầu cử. Vấn đề của dân chủ không phải là nó do dân làm chủ hay vua làm chủ; vấn đề mấu chốt nằm ở việc bầu cử.

1. Dân chủ là đa số thắng thiểu số

Bất kỳ một người có lý trí nào cũng sẽ đồng ý rằng thành phần những người có tài năng, trí thức, thông minh, trí tuệ, học rộng hiểu nhiều, kiến thức phong phú,… đều không bao giờ thuộc về thành phần đa số. Ludwig von Mises có một câu nói từng được đăng trên THĐP, nhưng đây là lúc nó cần được nhắc lại:

“Tất cả những tiến bộ mà nhân loại đã đạt được là thành quả có được từ động lực của một nhóm thiểu số nhỏ bé, những người đầu tiên xa rời tư tưởng và tập quán của đa số, sau đó nhóm đa số mới chấp nhận sáng kiến của họ. Đưa cho nhóm đa số quyền áp đặt nhóm thiểu số phải nghĩ gì, đọc gì, và làm gì cũng đồng nghĩa với việc đặt dấu chấm hết, một lần và vĩnh viễn cho sự tiến bộ.”

– Ludwig von Mises, Liberalism

Dân chủ nếu được cường điệu lên đúng mức thì nó không khác gì một chủ nghĩa bầy đàn xuất phát từ tâm lý bầy đàn. Dân chủ là một sự ngụy biện argumentum ad populum khổng lồ, một sự ngụy biện cho rằng cái gì nhiều người nói đúng thì nó là đúng; không có gì sai lầm hơn sự ngụy biện này. Tiếng Hán có câu “Tam nhân thành hổ” cũng là vì lẽ đó.

2. Dân chủ là 51% được quyền đưa ra quyết định cho 49% những người còn lại

Ngay cả khi khoảng cách giữa đa số và thiểu số chỉ cách nhau 2% chúng ta có thể thấy dân chủ đặt ra giới hạn và giết chết những khả năng như thế nào. Việt Nam hiện nay có hơn 93 triệu người, giả sử tổng số người bầu cử kỳ này là 50 triệu, bạn thuộc nhóm 24 triệu, lá phiếu của bạn và lá phiếu của 24 triệu người kia coi như vô ích. Toàn bộ nhóm 24 triệu người vừa bị nhóm 26 triệu áp đặt ý định. Nếu bạn biết tư tưởng và quan điểm của mình thuộc về nhóm thiểu số thì việc bầu cử là hoàn toàn vô ích. Ảnh hưởng của lá phiếu của bạn là 0%. Nếu biết lá phiếu của bạn là vô ích thì bạn có đi bầu không?

3. Dân chủ giới hạn những khả năng, tiềm năng, giới hạn sự lựa chọn

Trong một thị trường tự do, không một ai bị lãng quên, không có nhu cầu thiểu số nào là quá nhỏ đến nỗi không có người đứng ra cung cấp. Thị trường tự do là một sự một sự phân trung, phi tập trung. Trong khi dân chủ hay nhà nước thì trái lại, nó là một sự tập trung, tại một điểm single point of failure, một mô hình “đa cấp”, kim tự tháp, từ trên xuống dưới; trong khi phân trung là một mô hình mạng lưới, mạng nhện, không có điểm thất bại duy nhất. Torrent hoạt động dựa trên mô hình này; Bitcoin cũng hoạt động dựa trên mô hình này. Tôi không biết nói rằng nó là một mô hình bất khả chiến bại có phải là nói quá không, nhưng tôi cho rằng đây sẽ là mô hình của tương lai.

Trong một thị trường tự do, có cầu thì sẽ có cung, không phải chỉ nhu cầu của đa số, không phải chỉ nhu cầu của thiểu số, nhưng bất cứ nhu cầu nào miễn nó hợp luân lý thì nó sẽ có một cái giá. Trong khi với dân chủ, bạn không thể một cách hợp pháp có được dịch vụ bảo vệ bởi một nhóm người không dùng tiền của bạn đi giết người nơi xứ khác, để mua biệt thự, xế khủng, đất đai, địa ốc… Tôi cũng nghĩ rằng dự đoán của Jim Bell sẽ trở thành sự thật, một khi cryptocurrency và cryptography trở nên phổ biến, đại trà. Nếu nó thật sự là một điều không thể tránh khỏi như Jim Bell nói, chiến tranh diện rộng chỉ còn là cái có trong lịch sử. Tới đây thì Google is your friend, hãy làm quen với Google đi vì tôi sẽ không tiếp tục đi sâu vào hang thỏ này bởi nó không nằm trong chủ đề chính của bài viết.

 

Hãy thử hình dung ra viễn cảnh một xã hội tương lai, nơi luật pháp được cạnh tranh, anh ninh được cạnh tranh, khu phố này cạnh tranh với khu phố khác… Cạnh tranh không có nghĩa là chiến tranh, bạo loạn – những sự kiện này không hề miễn phí mà ngược lại, phải tốn kém, rủi ro rất nhiều, đã làm ăn kinh doanh thì phải hạn chế tốn kém, rủi ro tối đa. Thêm vào đó, tấn công luôn tốn kém gấp nhiều lần phòng thủ – mà là cạnh tranh dưới nguyên tắc NAP (Non-Aggression Principle, tạm dịch Nguyên tắc Không Xâm Phạm, một trong những nguyên tắc cốt lõi của chủ nghĩa tự do, libertarianism). Pierre-Joseph Proudhon, một triết gia chính trị nổi tiếng người Pháp sinh năm 1809, người đã theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa thậm chí còn phát biểu rằng:

“Tự do là mẹ của trật tự, không phải là con.”

Hay Gustave de Molinari, một chính trị gia, kinh tế gia người Bỉ sinh năm 1819 đã từng nhận ra:

“Chiến tranh là hệ quả tự nhiên của sự độc quyền; hòa bình là hệ quả tự nhiên của tự do.”

Bạn không thích cần sa, không thích đồng tính, không thích người khác sở hữu súng, không thích Bitcoin, không thích tư hữu, không thích polygamy, không thích phá thai,… Không hề chi, bạn cứ sống ở khu phố Cộng Sản 75 với những người có cùng tư tưởng. Có tới vô số khu phố với những luật lệ khác nhau cho bạn lựa chọn. Nghe có vẻ viễn vông nhưng thực tế thì với các công nghệ sea-steading [3], cryptography và 3D printing càng ngày càng phát triển thì tôi tin rằng đây chính là tương lai mà loài người đang đi tới.

Một xã hội tự do cho phép chủ nghĩa xã hội tồn tại bên trong nó. Nhưng một xã hội chủ nghĩa thì không cho phép tự do tồn tại bên trong nó. Chủ nghĩa tự do có thể bao trùm chủ nghĩa xã hội; nhưng không có sự ngược lại. Đây là một sự khác biệt quan trọng thể hiện đẳng cấp.

4. “Tại sao anh không đi chỗ khác đi?”

Đây chỉ là một câu hỏi, không phải là một lý lẽ logic có thể dùng để phản biện. Đi hay không đi không liên quan gì tới vấn đề. Và vấn đề ở đây chính là khi một luật lệ được bầu ra một cách dân chủ, nếu nó xâm phạm vào nguyên tắc NAP thì căn bản là nó đã sai trước. Tại sao một người phải ra đi khi luật lệ kia mới là cái sai? Bảo người đó đi chỗ khác cũng giống như bảo một người đang sống trong một khu phố an ninh từ trước tới giờ đi chỗ khác khi bỗng nhiên có một tên côn đồ mới dọn về. Tên côn đồ mới là người phải đi chỗ khác.

Trớ trêu thay, nếu bạn muốn người ta đi chỗ khác chỉ vì họ không đồng ý với luật lệ bạn ủng hộ hay những người bạn bầu lên thì bạn đã được toại nguyện với não trạng chảy máu chất xám tại Việt Nam hiện nay, nhân tài đã bỏ nước ra đi hết, nếu vẫn chưa ra đi thì họ cũng đang tìm cách ra đi. Một đất nước không có nhân tài cũng giống như một thân xác không có linh hồn. Như Milton Friedman từng nhận xét về việc di cư giữa biên giới Hong Kong và Trung Quốc, “Hãy nhìn người ta bầu cử bằng chân của họ.” Xem người Trung Quốc muốn qua Hong Kong – một trong những có nền kinh tế tự do nhất thế giới – hay ngược lại? Giải pháp không phải là bảo người ta đi chỗ khác; giải pháp chính là phải cải cách, thay đổi hệ thống vận hành. Thay đổi thì tất nhiên đau đớn, nhưng nó phải diễn ra nếu chúng ta muốn trưởng thành. Chừng nào mà chúng ta còn chưa sẵn sàng để thay đổi tư duy, đột phá tư tưởng thì chừng đó chúng ta vẫn còn đang lê bước với tốc độ của một con rùa, trong khi bầu trời chính là giới hạn và nó đòi hỏi một sự cất cánh trong nhận thức.

5. Bản chất của dân chủ là những tầm nhìn ngắn hạn

Các chính trị gia khi muốn có được số phiếu của đám đông thiếu kiến thức về kinh tế, chính trị, chỉ thấy được những gì trước mắt, bề nổi, thì tất nhiên họ phải hứa hẹn những điều nghe hấp dẫn, mà hy sinh những lợi ích lâu dài, đổi lấy những lợi ích ngắn hạn. Giống như một người nghiện thuốc phiện lên cơn thì phải được thỏa mãn ngay lúc đó, trong khi giải pháp cần phải làm không gì khác hơn là cai nghiện. Tiến sĩ Hans-Hermann Hoppe đã lý luận trong cuốn Democracy: The God That Failed (tạm dịch: Dân chủ: Vị thần đã thất bại) của mình rằng chế độ dân chủ thật ra còn tệ hơn chế độ quân chủ. Một hệ thống mà phải trông chờ người tốt lên nắm quyền là một hệ thống yếu kém. Nếu bạn biết quan sát thì bạn sẽ thấy quyền lực rất nhiều khi còn làm tha hóa cả một người tốt.

6. Định lý Arrow’s impossibility

Định lý này được chứng minh bởi Tiến sĩ kinh tế Kenneth Arrow trong luận án tiến sĩ của mình và sau đó năm 1951 đã được in thành sách Social Choice and Individual Values. Diễn giải một cách đơn giản thì định lý này phát biểu rằng: Không thể có một cơ chế bầu cử nào có thể thỏa mãn 3 tiêu chí công bằng sau:

  1. Nếu mọi người đều ưu tiên X thay vì Y thì cả nhóm muốn X hơn Y.
  2. Nếu ưu tiên giữa X và Y không thay đổi (các nhóm khác có thể thay đổi, vd: X—Z, Y—Z, hay Z—W, thì ưu tiên của cả nhóm chọn X hơn Y vẫn không thay đổi.
  3. Không có “lá phiếu quyết định”, không người nào được quyết định khi có trường hợp hòa.

7. Bầu cử là trái với luân thường đạo đức, là phi logic

 

“Không có sự tàn bạo nào tệ hơn là bắt buộc một người phải trả tiền cho những thứ hắn không muốn chỉ vì bạn nghĩ là nó sẽ tốt cho hắn.”

– Robert Heinlein, The Moon is a Harsh Mistress

Hãy trả lời câu hỏi này: Bạn có quyền tấn công, sử dụng bạo lực với người khác–trừ các trường hợp tự vệ–không? Câu trả lời rõ ràng là không. Nhưng khi bạn bầu cử có nghĩa là bạn đang trao cho chính phủ một quyền bạn không hề có để chính phủ thực hiện những hành động bạo lực đó đối với người khác; bạn không thể trao cho người khác cái bạn không có. Nền tảng của mọi chính phủ chính là bạo lực; không có nó thì không một chính phủ nào có thể tồn tại. Một xã hội chưa trưởng thành là một xã hội sử dụng bạo lực để giải quyết những vấn đề của nó. Một xã hội trưởng thành là một xã hội không cần dùng đến bạo lực, thay vào đó, Tự Do được đưa lên ngôi. Tự do mới là cái chúng ta cần phải đấu tranh, không phải dân chủ.

Tạm kết

Không biết từ khi nào mà hầu như tất cả mọi người ai cũng đặt tự do và dân chủ ngang hàng, song song nhau. Người ta không biết rằng cái giá phải trả cho dân chủ chính là tự do. Nói cách khác, không thể có dân chủ và tự do cùng một lúc. Sự khác biệt giữa dân chủ và tự do là gì? Dân chủ áp đặt quan điểm của người này lên người khác; tự do thì không. Bạn có tự do làm những gì mình muốn miễn nó không xâm phạm đến người khác, không xâm phạm vào nguyên tắc NAP. Một khi đã hiểu rõ về dân chủ, bạn sẽ không còn cổ động nó một cách vô minh như trước, thậm chí bạn có thể sẽ còn thấy khó chịu với thực trạng ai ai cũng đang ra sức cổ động nó như những con robot của văn hóa, “một thực tại ảo đã được phê chuẩn” theo cách dùng từ của Terence McKenna, và đó cũng là lý do khiến tôi phải viết bài này, vì nếu tôi không viết thì ai sẽ viết đây khi tôi vẫn chưa phát hiện được một đồng chí người Việt nào có cùng tư tưởng trong radar của mình. E là còn phải chờ đợi mỏi mòn.

Nguyễn Hoàng Huy

Tham khảo

  1. 8 trích dẫn phản đối dân chủ
  2. Reddit’s Anarcho Capitalism sub
  3. Why Seastead?

Vì sao trợ cấp không giúp gì được cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo [Team Freenamese Vietsub]

 

Lão Tử cách đây hơn 2500 năm cũng đã từng viết: “Càng có nhiều lệnh cấm, dân càng thiếu đức hạnh. Càng có nhiều vũ khí, dân càng thiếu an toàn. Càng có nhiều trợ cấp, thì dân càng lệ thuộc.”

Vietsub được thực hiện bởi Team Freenamese của Triết Học Đường Phố. Mục đích của team này là muốn mang đến mọi người những kiến thức nền tảng về kinh tế và xã hội.

 

Béo phì trí thức?

Featured Image: Pixabay

 

“Đọc sách mà không áp dụng cũng giống như ăn cơm mà không tiêu hóa.” – Edmund Burke

Béo phì là một dạng cơ thể phình to ra, tích lũy thành mỡ sau khi đã ăn quá nhiều thức ăn, trong số đó gồm có các loại thức ăn nhanh, thức ăn nhiều đường, thức ăn nhiều đạm.

Hôm nay trong bài viết này tôi muốn mượn hai từ này – “béo phì” kết hợp với “ trí thức” để có một góc nhìn về cuộc sống hiện tại.Vậy béo phì trí thức là gì?

Trong ăn uống hàng ngày chúng ta tiếp xúc và dùng khá nhiều món ăn từ rất nhiều kênh khác nhau. Khi thì đi ăn vặt với bạn bè, khi đi ăn tiệc với đồng nghiệp, hoặc qua các bữa ăn gia đình. Có quá nhiều cách để chúng ta bắt gặp và nạp thức ăn vào cơ thể. Qua thời gian chúng ta cứ lặp đi lặp lại tiến trình này, vì vậy nó sẽ tích trữ ở cơ thể chúng ta dưới dạng các chất khác như đạm chẳng hạn hay mỡ, đường, dần dần cơ thể chúng ta mất kiểm soát với chúng. Chỉ vì cách nạp năng lượng vào cơ thể theo cách mà chúng ta thích, chúng ta không tiết chế được dẫn đến các căn bệnh khủng khiếp mà y học phương tây hiện tại cho chúng là nan y và bất trị tận gốc.

Chúng ta tiếp nhận kiến thức, tiếp nhận thông tin không khác gì so với việc ăn uống hằng ngày. Từ các kênh truyền thông mạng xã hội chúng ta không phải đọc báo, có tìn tức gì mới, kiến thức gì lạ thì cũng ta đề được mời gọi ghé thăm và tiếp nhận. Chúng ta không cần phải đi học ở Mỹ, ở châu Âu để có thể tiếp nhận các kiến thức mới của nhân loại, chỉ một cái kích chuột chúng ta có hàng khối thứ có thể tìm thấy trên internet. Hoặc một kênh khá hấp dẫn đối với mọi người đó là Tedx một trong những kênh trí thức, hội tụ rất nhiều diễn giả hay và thông qua các chia sẻ của họ thì chúng ta có thể hấp thu rất nhiều điều mới lạ.

Còn ở xứ sở chúng ta thì sao, có hay không những điều như vậy. Vô cùng nhiều, chúng ta có thể tham gia những trang chia sẻ những thông tin tích cực, mới lạ, góc nhìn khác biệt ở Tony Buổi Sáng hay Triết Học Đường Phố. Mỗi ngày một bài viết với một góc nhìn của một con người về những điều trong cuộc sống thì qua năm này tháng nọ chúng ta đã tích lũy thêm một lượng kiến thức vô cùng lớn, dần dần kiến thức đó sẽ béo hẳn ra.

Đấy chỉ là các kênh online thế thì còn các kênh offline thì sao, ở mỗi một nơi chúng ta sẽ có cách để tiếp nhận kiến thức khác nhau. Chúng ta đi đến trường học để được đào tạo, chúng ta tiếp xúc với những người giỏi và lắng nghe họ và ghi nhớ những điều họ nói. Chúng ta tự đọc sách hoặc tham gia các nhóm sinh hoạt offline như Spread Out Academic Club hoặc các câu lạc bộ sinh hoạt về sách. Ở các môi trường như vậy các bạn sẽ tiếp nhận lượng thông tin và kiến thức vô cùng lớn trong một thời gian ngắn. Khi đó các bạn trở thành những con người vô cùng thông thái, tài năng và thật “nguy hiểm”.

Tôi nói là nguy hiểm các bạn có ý kiến gì không?

Tại sao tiếp thu kiến thức nhiều sẽ làm cho chúng ta trở nên nguy hiểm. Có rất nhiều lý do để nói như vậy. Một trong các lý do đó là khi chúng ta bị béo phì trí thức chúng ta sẽ dễ trở thành những người “lưu manh trí thức”. Cũng dễ hiểu thôi, chúng ta biết nhiều, chúng ta ngộ ra nhiều điều khi đó chúng ta sẽ tỏ ra xem thường những người tầm thường khác. Chúng ta sẽ đặt vị trí của chúng ta là những người đứng trên người, và vai trò của những người đứng trên người là thúc đẩy tạo nên những cộng đồng tốt. Nhưng không chúng ta xem thường họ, chúng ta phê phán họ, chúng ta mặc định cho rằng chúng ta cái gì cũng biết, cái gì cũng đúng thì những tên lưu manh trí thức này còn nguy hiểm hơn cả những tên lưu manh bình thường khác.

Lưu manh trí thức nói cái gì cũng biết, hỏi cái gì cũng am tường về phương diện lý thuyết. Chúng ta sở hữu một lượng lớn các kiến thức từ kinh tế, văn hóa, khoa học, vũ trụ, kỹ thuật, kinh doanh hay y học sức khỏe,… nhưng chỉ dừng lại ở chỗ nắm rõ lý thuyết còn vận dụng những kiến thức này vào thực tế thì không mấy người làm được. Có người cả đời đọc, nghiên cứu rất nhiều về thương mại. Nếu bảo họ lặp một kế hoạch cho một dự án kinh doanh hay quản lý dự án, trên giấy họ làm rất giỏi nhưng mấy ai bắt tay vào thực hiện nó thành công. Có mấy ai vận dụng điều mình học để sử dụng chúng ngoài cuộc đời thực một cách mỹ mãn.

Khi chúng ta tiếp cận quá nhiều thông tin như vậy và chúng rất hay bị vướn các lỗi lý luận đại loại như thế này. Chúng ta nhận các thông tin từ môi trường là internet và thường xem đó là chân lý. Có lần mình trao đổi với bạn mình về một vấn đề thì bạn mình bảo và khẳng định chắt nịch với mình thông tin đó là đúng. Vì mới vừa đọc trên trang xyz.com nó nói thế. Hoặc một câu chuyện vui thế này:

Nobita: Nobita yêu Suka

Jaian: Jaian cũng yêu Suka nữa.

Nobita: Hay là mình yêu nhau đi Jaian.

Thế là họ nắm tay dắt tay nhau đi.

Đây là một câu chuyện thư giãn nhưng nó thể hiện được một lỗi lý luận trong câu chuyện này. Chúng ta những người tiếp nhận quá nhiều thông tin, kiến thức hằng ngày. Kiến thức nó không xấu, thông tin cũng không xấu. Biết nhiều kiến thức là điều mà mỗi chúng ta cần phải phấn đấu và nên làm. Vấn đề ở đây chúng ta sở hữu kiến thức thật nhiều thì hãy vận dụng nó vào cuộc sống của mỗi chúng ta, đừng nên khi có một bụng kiến thức rồi lại dùng nó để thách thức những người xung quanh, tỏ ra ta đây hơn người, tỏ vẻ chúng ta là thuộc tầng lớp trí thức để rồi xem thường những người khác. Đấy là béo phì trí thức và lưu manh trí thức, đừng cố gắng trở nên như vậy nhé tôi và các bạn.

 

Mr Lias

Đừng sợ hãi những biến cố cuộc đời: tai nạn và tàn tật

Featured Image: Danielle Nelson

 

Cuộc đời chúng ta nhất định sẽ có lúc xảy ra những biến cố lớn hoặc nhỏ. Đó là điều không ai mong muốn, trông đợi hay thậm chí chỉ là nghĩ tới cả. Nhắc đến biến cố, trong ta chắc hẳn toàn dâng lên cảm giác sợ hãi, lo lắng và bất an khủng khiếp. Thay vì ngồi cầu nguyện biến cố đừng xảy ra, chúng ta hãy thử ngồi lại và nhìn thẳng vào chúng, như một bước chuẩn bị sẵn sàng để nếu chúng có xảy ra thật, ta sẽ không sợ hãi, ta sẽ không trốn tránh và than thở, mà sẽ đối mặt và đạp lên chúng để tiếp tục xây dựng một cuộc sống mới ngập tràn hy vọng.

Giống như câu chuyện, nếu tôi đưa bạn một tờ giấy bị nhỏ một giọt mực lên, và hỏi bạn thấy gì? Phần lớn mọi người sẽ trả lời, thấy giọt mực. Chỉ một số ít trả lời rằng họ thấy một giọt mực nhỏ trên tờ giấy trắng. Và càng ít hơn, người có thể thấy được bức tranh toàn cảnh: “Ồ, tôi thấy còn khá nhiều chỗ trống để sử dụng tờ giấy.” Đúng vậy, đó mới là câu trả lời chính xác và cần thiết đối với cuộc sống của chúng ta. Hãy tập trung vào những việc bạn có thể, thay vì không thể. Hãy để những biến cố cuộc đời trở thành những giọt mực nhỏ, trên một tờ giấy to, nó có thể không đẹp, nhưng chẳng ảnh hưởng gì mấy đến tác dụng của cả tờ giấy. Nếu như bạn cũng có thể đối xử với những biến cố cuộc đời như thế, bạn sẽ nhận ra, biến cố cũng không có gì quá đáng sợ

Có lẽ không ai muốn đọc điều này, nhưng, nếu như, chỉ nếu như một ngày, bạn trở thành một kẻ tàn tật, cơ thể không còn nguyên vẹn như lúc ban đầu. Hãy như anh chàng trong câu chuyện sau đây tôi từng được đọc.

Jack, một chàng thanh niên đẹp trai khỏe mạnh đã trở thành người tàn tật sau một tai nạn giao thông, anh không còn điều khiển hai chân của mình được nữa. Quá chán đời và thất vọng, anh giam mình trong bốn bức tường nhiều tháng trời. Đôi khi anh chỉ muốn chết đi cho xong. Lo sợ việc không hay xảy đến với con trai, mẹ anh đã đưa anh đến sinh hoạt tại một câu lạc bộ dành cho người khuyết tật. Tại đây, Jack đã gặp một người đàn ông trung niên, anh ta cũng như Jack, phải ngồi xe lăn suốt phần đời còn lại. Nhưng khác Jack ở chỗ, người đàn ông trung niên này trông tràn đầy sức sống và vô cùng tự tin.

Jack lấy làm lạ liền đến bên anh ta và hỏi: “Bị tàn tật thì có gì vui mà anh lại có thể vui vẻ như vậy?” Người đàn ông trung niên trả lời: “Này chàng trai, trước đây tôi cũng từng đau khổ và chán chường như cậu, thậm chí còn cố chết vài lần, nhưng ơn trời, tôi chỉ bị chết hụt.”- Anh ta cười lớn và nói tiếp – “Nhưng sau đó tôi đã nhận ra rằng, trước khi bị tai nạn, tôi có điều kiện và khả năng để làm 1000 việc, sau tai nạn, tôi chỉ còn khả năng làm 700 việc nữa thôi. Vậy nên, thay vì ngồi đó tiếc thương cho 300 việc không còn làm được nữa, tôi chọn cách làm hết 700 việc còn lại. Và giờ anh thấy đấy, tôi có thể chơi thể thao, tôi có thể kinh doanh tại nhà, tôi có thể ở bên và chăm sóc con cái nhiều hơn, thậm chí tôi còn viết sách nữa. Nói chung là tôi có thể làm rất rất nhiều những việc khác mà khi lành lặn tôi thậm chí còn không nghĩ tới.”

Nếu bạn là chàng Jack kia, khi nghe người đàn ông này chia sẻ như vậy, bạn có còn muốn ngồi một chỗ tiếc thương cho cuộc đời mình? Hay bạn sẽ bắt đầu suy nghĩ lại về cuộc đời và lên kế hoạch cho mọi việc bạn có thể làm mà không cần một đôi chân?

Tôi không nói đây là việc dễ dàng, nhưng chắc chắn nó là việc xứng đáng. Bạn cần có một nghị lực và bản lĩnh lớn lao. Bạn cần có trách nhiệm với chính cuộc đời mình thay vì bắt người khác phải ở bên hầu hạ. Bạn cần làm cho cuộc sống của bạn trở nên đáng giá. Một vài gợi ý thế này, bạn có thể trở thành giáo viên, bạn có thể viết sách hay tập trung nghiên cứu về lĩnh vực bạn yêu quý. Bạn có thể sáng tạo phát minh ra những thiết bị giúp ích cho mình và cho những người cùng cảnh ngộ như bạn. Và thậm chí, bạn có trăm ngàn công việc kinh doanh hấp dẫn khác để làm nữa. Như là nấu ăn, như là học ngoại ngữ và làm công việc dịch thuật, như là giữ trẻ hoặc làm về may vá, thiết kế thời trang. Thậm chí, khi bạn làm được điều này, bạn có thể mở những trung tâm dạy nghề khác cho người khuyết tật.

Hoặc chẳng may, một ngày đẹp trời, bạn phát hiện mình vô sinh. Không được làm cha mẹ là một thiệt thòi to lớn đối với bất cứ ai. Nhưng nếu bạn bình tĩnh nhìn theo một khía cạnh khác. Bạn sẽ nhận ra cuộc đời mình không thể vì thế mà kết thúc. Rằng bạn có thể làm những gì đối với biến cố này? Có thể bạn sẽ muốn yêu và cưới một người đàn ông/đàn bà đã có con riêng. Chắc hẳn bạn sẽ dành tình yêu thương cho nó thay vì mang lại nỗi sợ hãi “bánh đúc có xương” vào cuộc sống gia đình.

Có thể bạn sẽ muốn làm việc nhiều hơn tại các tổ chức từ thiện, trại trẻ mồ côi. Có thể bạn sẽ mang bản năng làm cha mẹ cùng tình thương của mình đến những mảnh đời bất hạnh ngoài xã hội đang cần đến nó. Có thể bạn sẽ muốn thành lập một chức phi lợi nhuận chuyên quyên góp hiện vật và tình yêu thương cho các bé mồ côi hoặc kêu gọi thành lập hội những người bảo vệ quyền trẻ em cũng là một việc không tồi đúng không?

Cuộc đời bạn sẽ rẽ theo hướng khác, tuy không tuyệt vời như khi bạn lành lặn, nhưng có thể, ý nghĩa hơn nhiều. Sống một cuộc đời ý nghĩa, ai lại không muốn chứ?

Thất nghiệp, thất tình, ngoại hình không nổi bật, tàn tật… là điều không ai muốn được trải nghiệm. Vì nó chỉ toàn gây ra những cảm giác tiêu cực, những phản ứng xấu xí. Vậy nên, nếu bạn có thể mở lòng mình ra và nhìn vào một bức tranh toàn cảnh, tôi tin bạn sẽ không còn sợ hãi chúng nữa. Bạn sẽ sẵn sàng đón nhận chúng theo cách người bình thường khó có thể làm được. Đó cũng chính là khi bạn vượt qua được giới hạn “bình thường” của bản thân để tiến lên một con người mới: mạnh mẽ, tươi mới và đầy lạc quan trước mọi biến cố cuộc đời.

Một tờ giấy bị cắt một góc, thay vì ngồi tiếc thương cho góc giấy bị cắt, bạn hãy tìm cách để sử dụng chỗ giấy còn lại một cách tối ưu. Một ly nước bị đổ phân nửa hãy nhớ rằng mình vẫn còn phân nửa để cám ơn. Một người tàn tật có thể không làm được 1/3 những việc anh ta có thể làm khi lành lặn. Nhưng thay vì tập trung vào 1/3 việc anh ta không thể làm nữa, điều tốt nhất là anh ta nên tập trung làm tất cả 2/3 có thể còn lại. Với niềm tin sắt đá, bản lĩnh và sự lạc quan không giới hạn, trong mắt nhiều người, anh ấy không còn là kẻ tàn tật nữa.

Bạn cũng vậy, nếu biết tập trung khi xảy ra những biến cố không mong muốn trong cuộc đời. Bạn sẽ nhận ra mình có thể làm được nhiều việc thế nào nếu có thể thay đổi cách nhìn nhận sự việc và tận dụng những ưu thế của những biến cố đó. Nếu như bạn có thể để không một giây phút nào trong đời dùng cho việc đau buồn, tiếc thương, trách móc… Thì cuộc sống của bạn, là một cuộc sống tuyệt vời. Mai này khi già cả và hồi tưởng về nó, bạn hẳn sẽ tự hào.

 

Phi Tuyết

Hai căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam: nói trễ và nói dối

Featured Image: Noah Weiner

 

Giới thiệu: Tuổi trẻ Việt Nam chậm tiến về nhận thức chính trị hơn các tuổi trẻ các nước khác. Đó là sự thật. Nhưng không phải tại các em. Nhận thức của các em sinh ra là những tờ giấy trắng, xã hội Việt Nam (trong trường hợp này là cơ chế CS) qua các phương tiện tẩy não đã viết lên đó một màu đen lạc hậu. Bài viết dưới đây, viết 9 năm trước, để phân tích bệnh “nói trễ và nói dối” tại Việt Nam. Phần sau của bài viết tôi dành phê bình các chi tiết sai của nhà văn Lê Lựu khi viết về thành phố Boston, nơi tôi đang sống, trong tác phẩm Một thời lầm lỗiTrở lại nước Mỹ của ông.

Tác phẩm Một thời lầm lỗi Trở lại nước Mỹ đã được đăng báo nhiều kỳ và xuất bản nhiều lần tại Việt Nam. Ngày nay, sở dĩ đa số tuổi trẻ Việt Nam còn “hát như vẹt”, sống như “chim công nghiệp” cũng tại vì những cây bút “chống Mỹ cứu nước” như thế này. Những “nhà văn” “nhà thơ” này là dầu, nhớt, mỡ của bộ máy độc tài toàn trị CS. Một khi họ trở thành cặn bã, bị cơ chế đào thải, bỏ rơi, lại có một lớp khác lên thay tiếp tục là nô bộc cho chế độ. Nhân việc so sánh tuổi trẻ Hong Kong và tuổi trẻ Việt Nam, xin chia sẻ bài viết với các bạn để thấy tai họa của cây bút vô trách nhiệm, thiếu tư cách đạo đức, đang sống trong thời đại toàn cầu hóa nhưng tư duy vẫn còn ở trong rừng:

Hai căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam: nói trễ và nói dối

Sinh viên, học sinh Việt Nam vẫn nghĩ khẩu hiệu: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.” Là câu nói bất hủ của ông Hồ. Thật ra, câu nói đó lấy ý từ câu: “Nhất niên chi kế, mạc như thọ cốc, thập niên chi kế, mạc như thọ mộc, bách niên chi kế, mạc như thọ nhân.” Nghĩa là: “Kế hoạch cho một năm, không gì bằng trồng lúa, kế hoạch cho mười năm, không gì bằng trồng cây, kế hoạch cho trăm năm, không gì bằng trồng người.” Trong văn học Trung Quốc.

Dù sao, sau hơn nửa thế kỷ trồng người, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, ngoài việc sinh ra các tình trạng mà Giáo sư Hoàng Tụy gọi là “nguy kịch” như chạy theo bằng cấp, bằng giả, học giả, làm luận án thuê v.v.., còn gây ra hai căn bệnh rất phổ biến trong xã hội Việt Nam, theo tôi, còn trầm trọng và khó chữa trị hơn nhiều, đó là bệnh nói trễ và nói dối.

Trẻ con trung bình vào khoảng hai, ba tuổi là bắt đầu tập nói. Nếu đến bốn tuổi mà chưa nói được, đứa bé sẽ bị xem như mắc triệu chứng nói trễ. Theo các tài liệu y khoa, đây không phải là căn bệnh làm chết người nhưng vẫn là một mối lo canh cánh bên lòng các bậc cha mẹ khi nghĩ đến việc con mình không biết nói. Chúng ta không hiểu được nỗi lòng của các em bé, nhưng chắc các em cũng khổ tâm ghê lắm khi không nói được một cách bình thường như những đứa trẻ khác.

Tôi không biết Việt Nam có bao nhiêu em bé bị mắc phải triệu chứng nói trễ, tuy nhiên, phát biểu trễ, trong đó tính chung cả nói và viết, thì rất đông. Ðông đến nỗi, khi có một em phát biểu được những gì em suy nghĩ, ai nấy đều xem đó như một hiện tượng lạ, không những cha mẹ em mừng, anh chị của em mừng, bà con em mừng, mà tám chục triệu đồng bào trong nước và cả hai triệu người Việt ở hải ngoại cũng mừng theo.

Ðó là trường hợp của em Nguyễn Phi Thanh, học sinh lớp 11A18 trường THPT Việt Ðức, Hà Nội. Trong lúc Autism Spectrum Disorders là do sự phát triển chậm của khu vực nói trong hệ thần kinh trẻ em, bệnh nói trễ ở Việt Nam là do nền giáo dục xã hội chủ nghĩa gây ra và tồn tại không chỉ trong trẻ em mà cả trong nhiều người lớn tuổi.

Nhận xét của em Phi Thanh về đề thi “Giới thiệu vẻ đẹp của tác phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc” đã được báo chí trong và ngoài nước đăng tải khá nhiều, tôi chỉ trích một đoạn ngắn:

“Em nghĩ, đứng trước một tác phẩm văn học bao giờ cũng có ý kiến trái ngược khen–chê, hay-dở nhưng dường như học sinh bọn em chỉ có quyền thích, chỉ có quyền khen hay mà không có quyền nói lên chính kiến của mình, và việc phê bình văn học hình như chỉ là việc của các nhà phê bình. Phải chăng vì tư tưởng bảo thủ này mà suốt 63 năm qua, văn thơ của chúng ta chưa được “mới”? Nhìn ra, chỉ ra cái hay của một tác phẩm văn học đã khó, nhưng chỉ ra cái hạn chế, thiếu sót của tác phẩm ấy còn khó hơn nữa, vậy mà chưa bao giờ bọn em được tỏ rõ chính kiến của mình trong một bài thi cả, tất cả chỉ vì áp lực điểm số.”

Sự đồng tình của nhiều người, nhiều giới, trong đó có một số người đang làm công tác giáo dục, về bài viết của em Phi Thanh, chứng tỏ sự khát khao, chờ đợi của người dân dành cho một tiếng nói trung thực, một phản ứng tích cực thay vì rập khuôn một cách thụ động theo dấu chân của đảng trên con đường mòn giáo dục xã hội chủ nghĩa như năm chục năm qua.

Nền giáo dục vẹt tồn tại trong xã hội Việt Nam từ bao nhiêu năm qua đã giết chết mọi mầm mống sáng tạo tự nhiên trong con người. Không một giáo án, giáo trình, diễn văn, tham luận, tuyên ngôn, tuyên cáo nào mà không trích dẫn vài “lời dạy” của các lãnh tụ cộng sản. Sự nô lệ trí thức như là một loại vi trùng sinh sôi và lan rộng trong từng con người, qua nhiều thế hệ, xói mòn và tàn phá tính khai phóng, làm thui chột tính sáng tạo trong con người.

Trong lúc bệnh nói trễ dù sao cũng tùy trường hợp mỗi người, bệnh nói dối là cả một hệ thống, dối có chủ trương, dối có sách vở, dối có tổ chức. Ðó chính là một hậu quả tai hại khác của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung.

Vì hoàn cảnh, con người phải lừa dối nhau để tồn tại. Ðiều đó đôi khi còn có thể thông cảm. Thế nhưng một tác phẩm văn học xây dựng trên sự lừa dối và nhằm mục đích lừa dối người khác là một điều không thể chấp nhận được. Rất tiếc, việc hình thành một đội ngũ của những người viết dối để phục vụ cho chế độ, cũng là một trong những đặc điểm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Ðể chứng minh cho tính nói dối trong văn học Việt Nam, tôi xin giới thiệu đến độc giả một đoạn văn của nhà văn Lê Lựu viết về thành phố Boston, nơi tôi đang sống, trích trong tác phẩm Một thời lầm lỗiTrở lại nước Mỹ của ông, do nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản năm 2000.

Trước khi đánh máy lại đoạn văn của nhà văn Lê Lựu, tôi xin giới thiệu vài dòng về Boston, để độc giả chưa đến hay chưa biết nhiều về thành phố lịch sử này của nước Mỹ, có một khái niệm tổng quát về thành phố. Boston là trung tâm lịch sử và một trong những thành phố trù phú nhất của liên bang Hoa Kỳ. Nơi đây, từ bốn trăm năm trước đã có những di dân đầu tiên trên chiếc tàu Mayflower giong buồm tiến vào vịnh Provincetown, Cape Cod. Tên tuổi và địa danh của những quận như Concord, Lexington, Bunker Hill đã đi vào lịch sử vẻ vang của cuộc chiến tranh giành độc lập từ tay đế quốc Anh.

Boston cũng là thành phố kỹ thuật lớn, với hàng trăm công ty kỹ thuật cao cấp nằm hai bên các xa lộ chung quanh thành phố, và là trung tâm giáo dục hàng đầu thế giới với Đại học Harvard, Học viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT), Đại học Boston, Đại học Massachusetts và hàng chục trường đại học tên tuổi khác.

Theo thống kê năm 1990 (thời gian nhà văn Lê Lựu đến thăm), Boston có dân số là 574.282 người, với lợi tức trung bình của một gia đình Boston khoảng 40 ngàn Mỹ kim một năm. Giống như các thành phố lớn khác của Mỹ trong xã hội tư bản, bên cạnh sự thịnh vượng của thành phố, Boston cũng có những người không nhà. Hai lý do chính của tình trạng không có nơi ở (homelessness) là lợi tức tăng chậm hơn tiền mướn nhà và giá nhà ở tại Boston quá cao. Mỗi năm, Thị trưởng Boston công bố một thống kê chính thức về tình trạng không nhà của người dân Boston và các biện pháp ngăn ngừa. Năm 1992, Boston có 4411 người không có nơi riêng để ở và phải ở trong các khu nhà tạm trú (shelter) do chính phủ cung cấp với điều kiện sống chật chội và thiếu tiện nghi hơn ở nhà riêng.

Và sau đây là đoạn văn tả thành phố Boston của nhà văn Lê Lựu sau chuyến viếng thăm Boston của nhà văn vào năm 1989:

“Boston, thủ đô của nền văn hóa sang trọng, lịch lãm nhất nước Mỹ. Nhìn về Boston, người Mỹ có thể vênh vang ngửa mặt ra bốn phương mà kiêu ngạo, mà tự tin chỉ cần mặc chiếc quần soóc, chiếc áo may ô, bất kể đàn ông hay đàn bà có thể nghênh ngang đi khắp trái đất, không thèm nhìn ai. Vậy mà giữa bão tuyết của đêm mùa đông ngoài trời có hơn 130 ngàn người không cửa, không nhà.

Chị Liliên (bạn của nhà văn và là người làm việc ở trung tâm cứu trợ người nghèo) nói: Con số này tự tôi và đồng nghiệp của tôi đã đi đếm suốt đêm. Bằng mọi cách phản đối, kiến nghị lên chính phủ địa phương, chính phủ liên bang và kêu gọi lòng từ thiện của nhân dân, đến nay mới kiếm được chỗ ở cho 54 ngàn người, còn 77.600 người vẫn đêm đêm nằm lại vườn hoa và hè phố. Nhưng trong thực tế sẽ lớn hơn nhiều so với 77.600 vì mùa đông năm ngoái chúng tôi chưa đếm lại.”

Và trong đoạn sau, nhà văn Lê Lựu so sánh Boston và Hà Nội:

“Ở đất nước ta nghèo túng là thế, ở thủ đô có số dân bằng số dân Boston, mà đã ai trông thấy, đã ai đếm được con số một nghìn người đêm đêm lăn lóc ở lề đường, trong các vườn hoa Hà Nội! Sự giàu sang ở Hà Nội không thể đem so sánh với Boston. Ai làm công việc đó được coi như kẻ mắc bệnh tâm thần, kẻ dở hơi. Nhưng sự vất vưởng của con người Boston đem so sánh với Hà Nội cũng là giữa trời và vực.”

Nếu những dữ kiện của nhà văn Lê Lựu viết ra là đúng thì Boston, thành phố đầy kiêu hãnh của nước Mỹ, trong mùa đông đã có gần một phần tư dân số phải chịu cảnh màn trời chiếu đất.

Số người do chị Liliên nào đó và các bạn chị đếm cao hơn con số do Thị trưởng Boston công bố gấp 30 lần! Con số của chị Liliên chỉ cần đúng một nửa thôi, chẳng những Thị trưởng Boston mất chức, Thống đốc bang Massachusetts mất chức, mà cả Tổng thống Mỹ cũng phải từ chức vì nạn đói năm Ất Dậu ở Việt Nam hình như đang tái diễn ngay tại quốc gia cường thịnh nhất thế giới này. Chị Liliên (tạm cho là một nhân vật có thật), trong tư cách là người làm việc cho một cơ quan xã hội và hẳn nhiên am tường tình trạng không nhà, đào đâu ra con số vô cùng khủng khiếp và phi lý đến thế?

Hình ảnh 130 ngàn người lay lắt trong một thành phố với diện tích 125 cây số vuông như Boston, ngay cả đạo diễn các phim chiến tranh thế giới, chắc cũng không nghĩ ra. Boston, nếu quả thật như vậy, không còn là thành phố cảng tuyệt vời và là quê hương của John F. Kennedy, George Herbert Walker Bush, Quincy Adams, John Quincy Adams, Henry Wadsworth Longfellow, Ralph Waldo Emerson, Emily Dickinson mà là Rwanda, Bangladesh, Ethiopia.

Và cho dù chị Liliên là người có thật và thích bịa chuyện đi nữa, trong tư cách một nhà văn đã viết nhiều tác phẩm, không phải lần đầu tiên viếng thăm Mỹ, nhà văn Lê Lựu cũng nên có một thái độ nghi ngờ dữ kiện cần thiết, một lý trí trưởng thành để cân nhắc và đánh giá những gì nhà văn nghe, nhà văn thấy, trước khi cầm bút viết lại câu chuyện và in thành sách.

Và “một thời lầm lỡ” in thành sách rồi, khi tái bản vào năm 2000, nhà văn cũng nên xét lại những đoạn viết dối quá lố lăng để khỏi làm trò cười cho độc giả, nhất là các em du học sinh đang theo học tại Boston. Nhưng không, nhà văn vẫn nghĩ rằng những dữ kiện lạ lùng đó là sự thật và in lại mà không cần cắt bỏ. Nếu tác phẩm hay đoạn văn đó được dịch sang tiếng Anh, độc giả Mỹ sẽ nghĩ sao về tư cách và trình độ kiến thức phổ thông của một nhà văn Việt Nam?

Chắc chắn họ sẽ vô cùng thất vọng

Người Mỹ bỏ tiền mua vé máy bay cho nhà văn, lo chỗ ăn chỗ ở, đưa đón, hướng dẫn tham quan, tiếp xúc, thảo luận, không phải để nhà văn ca ngợi nước Mỹ hay chửi cha mắng mẹ họ, nhưng chính là để nhà văn được thấy sự thật và mang về lại Việt Nam sự thật của đời sống Mỹ, con người nước Mỹ, và qua trung gian nhà văn, các thế hệ trẻ Việt Nam có cơ hội hội nhập vào thế giới trong tinh thần cảm thông và đối thoại.

Nhà văn may mắn được đi tham quan nước ngoài, lẽ ra nên mang về lại nhà những tin tức khách quan, những cái mới, cái hay cái đẹp đang xảy ra phía bên kia ô cửa của ngôi trường nhỏ hẹp, để giúp cho sinh viên học sinh cơ hội được nhìn xa hơn, rộng hơn đến những chân trời văn minh của nhân loại. Nếu không được như Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, thì nhà văn cũng không nên đào sâu thêm hận thù, ganh ghét trong lòng người dân hai nước.

Ðọc xong tác phẩm Một thời lầm lỗiTrở lại nước Mỹ, các em học sinh Việt Nam có thể nghĩ rằng không chỉ Việt Nam nghèo nàn, mà ngay cả một siêu cường cỡ Mỹ cũng đang khốn đốn vì miếng cơm manh áo; không phải chỉ Việt Nam có những kẻ khố rách áo ôm, mà nước Mỹ cũng đầy những cảnh đầu đường xó chợ.

Thưa nhà văn, thời đại của “trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ, đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ” đã qua xa rồi. Hãy để cho các em có cơ hội được thấy những đổi thay bên ngoài đất nước. Không có sự so sánh thì làm sao các em biết nỗ lực để vươn lên.

Nhà văn cũng không cần phải bôi đen thành phố lịch sử Boston của Mỹ chỉ để chứng minh cho cái nghèo nhưng sạch, rách nhưng thơm của Hà Nội như là “giữa trời và vực”. Kỹ thuật tự khen mình bằng cách bêu xấu đối phương không phải tư cách của một người lương thiện, và tương tự, hạ thấp giá trị của thành phố nhà văn đang thăm viếng chỉ để biện hộ cho cái mặc cảm nghèo nàn của một thành phố Việt Nam không phải là cách viết của một nhà văn trưởng thành và thái độ của một con người lịch sự.

Hà Nội không cần nhà văn ca ngợi hay binh vực bằng phương cách đó. Trong trái tim của mỗi người Việt Nam, dù trong nước hay ngoài nước, Hà Nội tuy nghèo, Hà Nội tuy xưa, Hà Nội tuy cũ, nhưng Hà Nội vẫn uy nghi như một trung tâm văn hóa lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Nếu ai nói khác hay khinh thường Hà Nội, không đợi đến nhà văn đứng ra bảo vệ mà tám chục triệu người, trong đó có kẻ viết bài này, sẽ làm công việc đó. Ca ngợi Hà Nội như cách của nhà văn chẳng khác gì trét bùn lên một bức tranh tuyệt mỹ.

Ðộc giả sẽ thắc mắc, làm thế nào một nhà văn như đại tá Lê Lựu lại có thể viết những chuyện xa vời thực tế như thế. Câu trả lời chắc sẽ dành cho nhà văn mặc dù những tham luận, bút ký có khả năng giết người vẫn nhan nhản trong xã hội cộng sản, sá chi là chuyện vài con số tuyên truyền. Với tôi, câu trả lời rơi vào một trong hai trường hợp, nếu chị Liliên không nói thì chính nhà văn đã viết dối và nếu chị Liliên không biết đếm thì nhà văn là người không có khả năng phân biệt sự khác nhau giữa giả dối và thành thật.

Chúng ta thường lo âu về những tình trạng chậm tiến về khoa học kỹ thuật, nghèo nàn lạc hậu về kinh tế, nhưng nghĩ cho cùng, cái nghèo đói trí thức, nghèo đói tinh thần, nghèo đói đạo đức tại Việt Nam còn trầm trọng và thúc bách hơn nhiều.

Với óc cần cù, thông minh của người Việt và cơ hội học hỏi khắp năm châu, chúng ta không phải quá lo lắng về một nền khoa học hiện đại, một nền kỹ thuật hiện đại. Ðiều đáng lo lắng nhất vẫn là làm thế nào để có những con người Việt Nam biết sống lương thiện và thành thật, làm thế nào có được một nền giáo dục biết đặt cơ sở trên tinh thần nhân bản, dân tộc và khai phóng thật sự làm nền tảng cho một xã hội dân chủ pháp trị tiên tiến trong tương lai. Ðó là một cuộc cách mạng tư duy và tâm thức lâu dài.

Mới chỉ năm mươi năm thôi mà các giá trị luân lý, đạo đức Việt Nam đã suy đồi và băng hoại đến thế này, nếu đợi đúng “một trăm năm trồng người” xong thì đất nước sẽ ra sao?

 

Trần Trung Đạo

Hố sâu kề bên vườn xoan nhà chú ếch con

Featured Image: Lora-Zombie

 

Nhân tình cờ đọc bài “Biến trẻ thành cụ non”[1] của cô Hoàng Xuân, một bài viết được chia sẻ khá nhiều trên mạng xã hội gần đây. Nói một cách tóm lược, theo như cô Hoàng Xuân, thứ nhất là trẻ con “trong trẻo, hồn nhiên”, thứ hai là chúng ta không thiếu bài hát hay cho thiếu nhi, nên đừng bắt trẻ con phải gắng gượng hát những bài ca của người lớn. Về phần mình, tôi cũng muốn chia sẻ một số ý kiến cá nhân, với những ví dụ minh họa gần gũi nhất có thể với tất cả mọi người, đồng thời phù hợp với bối cảnh xã hội hiện đại.

Thế nào là trong sáng?

Ta thường nói những đứa trẻ sơ sinh là hiện thân của sự thánh thiện, bởi ở chúng không có bất cứ suy nghĩ xấu xa nào. Đúng hơn, chúng chưa có bất kỳ suy nghĩ nào. Và ta gọi đó là sự trong sáng. Vậy khi lớn dần lên, chúng va vấp nhiều với cuộc sống, thấy những điều bất công, tâm trạng thường xuyên ưu tư, trí óc nhiều khi trăn trở, như thế là không còn trong sáng? Dù cho chúng vẫn là người lương thiện hết mực?

Tôi quan niệm “trong sáng” ở thời đại này theo cách khác. Cái trong sáng của trẻ sơ sinh, ấy là bởi chúng chưa biết gì. Quan niệm trong sáng của tôi ở đây là biết tất cả, nhưng không làm điều xấu.

Thứ nhất, bởi ngày nay thông tin đã được truyền tải và cập nhật đến từng nhà, từng người, một cách “quá nhanh, quá nguy hiểm”, thì một đứa trẻ năm tuổi cũng đã được tiếp xúc rất nhiều thông tin. Làm thế nào trong tình cảnh đó, chúng ta có thể ép chúng phải trong sáng theo kiểu “chưa biết gì”? Điều đó là bất khả.

Thứ hai, với một khối óc không có nhiều hiểu biết sớm về thế giới bên ngoài, liệu khi lớn lên chúng có đủ khả năng để đối phó và tự bảo vệ mình trước những hiểm họa của cuộc sống bên ngoài? Tội phạm ở độ tuổi trẻ em ngày càng gia tăng, nếu không có hiểu biết, chúng làm sao tránh được sa ngã?

Ai đã xem bộ truyện tranh “Bảy viên ngọc rồng” đều biết đến đám mây “cân đẩu vân”, nó chỉ cho những ai có tâm hồn trong sáng ngồi lên. Và Songoku đã ngồi lên nó từ khi còn là cậu bé ba tuổi đến năm sáu mươi. Một người đã làm ông nội, chiến đấu chống bao kẻ âm mưu làm bá chủ thế giới, thâu tóm vũ trụ, chẳng lẽ lại không biết đến điều xấu? Ông biết rõ cái xấu, nhưng tránh xa cái xấu, đấu tranh tiêu diệt cái xấu, và “cân đẩu vân” mãi luôn chào đón ông.

Nhà khoa học máy tính Lý Khai Phục cũng đã từng chia sẻ trong bài “Đàn ông, nếu đã hai mươi, nếu chưa hai lăm” rằng: “Em không có quyền ngồi trong cái tháp ngà của trường học, rồi bảo em yêu thế giới này tươi đẹp. Tôi muốn em phải nhìn thấy cái đen tối của thế giới, sự bẩn thỉu của cuộc đời, sự xấu xa của con người, sau đó mới nói rằng em vẫn yêu thế giới này, em vẫn yêu cuộc sống và em sống.”[2] Theo thiển ý của tôi, câu này dành cho mọi lứa tuổi.

Thiết nghĩ, đó mới là cái trong sáng tối thượng.

Cái hố sâu làm gì trong vườn nhà chú ếch con?

Tuy nhiên, hầu hết mọi bậc phụ huynh đều muốn ngăn chặn con cái tiếp xúc với cái xấu. Nhân cô Hoàng Xuân nói về các bài hát thiếu nhi, tôi cũng muốn kể một chuyện, chuyện thằng em hàng xóm hay qua nhà tôi chơi, lúc nó còn nhỏ xíu, độ hơn bốn tuổi. Có lần đang nghe bài hát “Chú ếch con” của nhạc sĩ Phan Nhân, nó đột ngột hỏi tôi: “Sao mẹ nói với em là con còn nhỏ phải đi học, mà chú ếch lớn rồi, làm chú rồi, mà vẫn còn phải ngồi học bài vậy anh? Mà sao kế bên vườn xoan lại có cái hố sâu kỳ vậy anh?”

Câu đầu làm tôi phì cười, nhưng câu sau tôi hơi thấy lạ. Tua lại cuốn băng, tôi nghe thấy đúng là cô bé trong băng đang hát: “Chú ngồi học bài một mình bên hố sâu kề vườn xoan.” Ngày xưa khi tôi học hát bài này thì phần lời đó là “hố bom kề vườn xoan”. Bài hát được viết trước 75, thời mà hố bom nhà nào cũng có. Tôi không thể giải thích cho một thằng bé bốn tuổi về sự hãi hùng của chiến tranh, nhưng bom thì nó biết, là cái “đụng là nổ cái bùm, chết liền”, nên nó có thể hiểu vì sao lại có hố bom.

Đây chỉ là một ví dụ, có thể bài hát sau khi truyền miệng thì trở thành một dị bản vô tình. Nhưng trên thực tế, chuyện những bài hát thiếu nhi bị sửa lời không hiếm (ví dụ như bài “Khăn quàng thắp sáng bình minh” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người ta vẫn ghi “Nhạc và lời: Trịnh Công Sơn”, nhưng bao nhiêu phần còn lại trong đó thực sự là bút tích của Trịnh?), đa phần là vì quan niệm: “Những cái đó, để trẻ con biết sớm làm gì?” Cái tâm lý né tránh đó chẳng đưa đến đâu cả, nó chỉ kéo dài cái quãng thời gian “không biết gì”, và “không có phương pháp phòng vệ” của trẻ em. Điều đó rất nguy hiểm. Nếu chúng không biết thế nào là tốt xấu, làm sao chúng tránh xa những đứa bạn xấu ở trường? Nhất là trong bối cảnh trẻ con thời nay lớn rất sớm, tiếp xúc rất nhiều thông tin. Cha mẹ cấm cản thì chúng thỏa trí tò mò ở bạn bè, và không hề phòng vệ.

Vẽ đường cho hươu chạy, có gì sai?

Ngày nay cha mẹ không có nhiều thời gian bên con cái, nhất là đối với những gia đình ở thành phố. Chúng đa phần được đưa đến nhà trẻ, hoặc do những cô giúp việc chăm nom. Chúng bắt gặp rất nhiều khái niệm mới từ nhỏ. Và hiểu theo cách riêng của mình. Chúng học hỏi theo cách ấy: thu thập những ý niệm, hình dung về nó, và đến khi lớn lên, một ngày đẹp trời chúng sẽ thốt lên: “À, thì ra chính xác nó là như thế.”

Còn về nhạc, chúng sẽ được nghe nhiều lắm. Hàng xóm bật loa to ầm ầm, các cửa hàng buôn bán ngoài đường, thậm chí các xe bán kem hay kẹo kéo dạo vẫn mở băng “cho cả xóm cùng thưởng thức”. Chúng nghe nhiều như vậy, hằng ngày như vậy, bắt chúng đừng nhập tâm, suốt ngày phải “hổng dám đâu”, là vô lý!

Chúng ta không cho chúng hát những bài hát của người lớn, nhưng chúng ta vẫn kể chuyện cổ tích cho chúng nghe. Chúng đã nghe chuyện “Hòn Vọng Phu”, thì chúng sao lại không thể hát “Đá trông chồng”? Chúng không biết những cảm giác yêu đương “gặp nhau là say, say ngất say ngây”, nhưng chúng biết rằng tình cảm gia đình, bố mẹ yêu thương nhau là có thật. Chúng không biết thế nào là chiến tranh, nhưng chúng biết rằng nó đáng sợ lắm, ghê gớm lắm, và cầu trời đừng để nó diễn ra. Còn về chi tiết hơn, lớn lên chúng sẽ nghiệm ra.

Thứ đến, chúng nghe nhạc người lớn, đâu có nghĩa là chúng không nghe nhạc thiếu nhi? Chúng nghêu ngao về tình yêu thì đâu phải là chiều chiều chúng không còn thơi thả diều? Cứ để chúng thấy tất cả và tự do lựa chọn cho mình.

Hơn nữa, chúng ta là người lớn, đều từng qua thời trẻ con, đều từng thấm thía một điều rằng: những cái thuộc về thế giới người lớn, những điều người lớn vẫn bảo “tụi con còn nhỏ lắm, lớn lên rồi ba mẹ nói”, đối với trẻ còn luôn hấp dẫn khôn cùng. Ta càng cấm cản, chúng càng tìm mọi cách để biết. Lấy gì đảm bảo chúng sẽ không hiểu sai, lệch lạc vấn đề?

Ông cụ non hay “mãi mãi tuổi sơ sinh”?

Trẻ con hát nhạc tình yêu người lớn không xấu, tôi chỉ phản đối nếu chúng say mê những bài hát ủy mỵ, trầm cảm, chán đời, nói khái quát là những loại tình cảm tiêu cực. Để chúng có ý niệm rằng tình yêu thật đẹp, có vui có buồn, có yêu thương, có chia tay, có hết thảy mọi cung bậc, thậm chí đễn nỗi đau chia ly do tình yêu đem lại cũng đẹp khôn cùng, để rồi khi lớn lên chúng tự trải nghiệm và cảm nhận, vẫn hơn là để chúng coi tình yêu luôn là điều gì đó ướt át, và thất tình thì thật là sầu đời, mọi thứ chẳng còn nghĩa lý gì cả.

Các nền giáo dục tiên tiến luôn cố gắng tập cho trẻ tiếp xúc với thực tế sớm. Lớp học vốn dĩ là xã hội thu nhỏ đủ mọi tính cách tốt xấu. Những đội hướng đạo sinh được lập ra với mục đích trang bị cho trẻ những biện pháp đối đầu với mọi tình huống trong cuộc sống. Chúng ta thì ngược lại, muốn trẻ em “chỉ biết học thôi, chẳng biết gì”. Vậy việc học còn có ích gì mấy? Mỗi lần cãi nhau với bạn, chúng không thể tự mình tìm cách xử lý tranh chấp, mà luôn kết thúc bằng câu “mày chờ đó, tao về méc má”, không phải là điều hay. Chúng ta quan sát để can thiệp kịp thời, nhưng nếu chưa có gì nghiêm trọng, thì cứ để trẻ con tự xử lý với nhau, rồi sau mỗi mâu thuẫn, chúng lại trưởng thành hơn. Đó là giáo dục thời hiện đại.

Trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, để trẻ con làm ông cụ non thì an toàn và vững vàng hơn nhiều so với việc để chúng “mãi mãi tuổi sơ sinh”, và kết thúc bằng việc “chết vì thiếu hiểu biết”.

Thà chúng ta tìm cách để bầy hươu đừng chạy sai đường, còn hơn để chúng tự mò mẫm rồi lạc lối, vô phương cứu vãn. Nếu không thì có khi chúng lại thắc mắc: “Cái hố sâu đào bên vườn xoan đó để làm gì? Chuẩn bị ngâm rượu ếch à?”

 

Trần Sơn Huy

Tham khảo:

Phận làm dâu

Featured Image: Carly Brown

 

Được tin ông anh hàng xóm cạnh nhà tôi chuẩn bị lấy vợ. Nghe tin đó tôi cũng mừng thay cho anh. Tuổi đã ngoài “băm”, bố mẹ, họ hàng giục lấy vợ suốt mà đâu chịu lấy. Cứ tưởng “ế”. Mãi gần đây tình yêu mới “vẫy gọi”. Thế nhưng tôi lại nghe đồn gia đình chồng có vẻ không thích con dâu tương lai cho lắm.

Thứ nhất chê về ngoại hình. Nào gò má hơi cao có tướng sát chồng, người gầy đét thế kia đẻ kiểu gì, thua anh có ba tuổi cũng xếp vào hàng “hết đát” đến nơi rồi. Mà cũng không thấy đả động đến công việc hiện tại, gia đình nhà chị. Có lẽ vấn đề này không có gì chê được nên không đề cập đến.

Ừ thì đúng là ngoại hình chị ý không được đẹp cho lắm, cũng không có gì là sai trong cách mô tả kể trên. Ai chả thích cái đẹp nên xấu thì phải chấp nhận “bị chê” như một lẽ đương nhiên.

Nếu chỉ đến đây thì không có gì phải bàn. Thế nhưng gia đình anh chê cả chị không biết nấu ăn. Rau thì xào lúc mặn lúc nhạt, món nấu hầm nhừ quá, đồ kho không đủ vị… Vậy xin hỏi lấy cái gì ra làm chuẩn cho sự ngon lành của món ăn? Chị sống trong môi trường hoàn toàn khác, phong cách ăn uống cũng không thể nào giống gia đình anh được. Món này hợp khẩu vị với nhà này nhưng chắc gì đã đúng ý với gia đình nhà khác.

Trong một bữa cỗ có vài ba mâm gia đình họ hàng, nội ngoại hai bên nhà anh. Mỗi người có thể là đại diện cho gia đình nhỏ khác. Mỗi người một ý cũng không thể chiều lòng được tất cả mọi người. Đương nhiên sẽ có người chê. Thiết nghĩ ngay cả những nhà hàng sang trọng bậc nhất chắc gì đã làm hài lòng được tất cả mọi người. Mà chung quy cũng toàn đàn bà, con gái “soi” nhau là chính. Đàn ông họa hoằn lắm mới có người để ý.

Nói đi cũng phải nói lại, cũng không thể trách được phụ nữ vì ai chả mong con/cháu dâu mình hoàn hảo, nội trợ tươm tất, biết thu vén gia đình. Người ta chả chả có câu “đường đến trái tim đàn ông luôn đi qua cái dạ dày” đấy thôi.

Có được người chồng tâm lý hiểu được ý vợ sắp cưới thì không sao. Chẳng may vô tình chồng không để ý hoặc vô tư quá thì cô ấy sẽ tủi thân vô cùng và tự nhiên có một rào cản vô hình ngăn cách giữa con dâu và nhà chồng. Tạo những ấn tượng không tốt về nhau và tình cảm sau này ảnh hưởng đáng kể.

Về làm dâu họ đã chịu bao nhiêu áp lực, đơn giản nhất như: nhớ tên và thứ tự vai vế của tất cả thành viên trong gia đình có đến mấy chục con người, có nhà đông phải đến hàng trăm chứ chẳng chơi. Tập thích nghi với môi trường mới không tránh được cảm giác cô đơn, tủi thân khi phải sống trong gia đình toàn người lạ và cảm giác nhớ nhà không tránh được. Họ phải cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người trong khi đó tất cả mọi người lại chỉ nhìn vào mình họ. Có phải là quá chênh lệch lắm không? Chưa kể nhiều con dâu mới trầm tính, ít nói việc run rẩy, ngại ngùng trước đám đông là điều không tránh được.

Vậy nên các bà/mẹ/cô/dì hãy thông cảm, vị tha, bao dung và kiên nhẫn với các con/cháu dâu của mình. Có thể những việc trước mắt do chưa quen nên làm chưa tốt nhưng lâu dần nhờ sự dạy dỗ, chỉ bảo với lòng yêu thương coi con/cháu dâu như con/cháu đẻ thì tôi nghĩ chẳng nàng dâu nào lại cố chấp, ngang ngạnh không chịu thay đổi đâu. Nếu gia đình nhà trai tự tin con/cháu trai mình là một người hoàn hảo không chê vào đâu được thì tôi nghĩ rằng anh ta đủ thông minh để lựa chọn một người vợ tương xứng với mình.

Phụ nữ bao giờ cũng vất vả và chịu nhiều đau khổ hơn so với nửa thế giới còn lại. Vậy nên các bà/mẹ/dì/cô cũng đã từng làm dâu mong rằng sẽ là người hiểu hơn ai hết. Chỉ có hiểu nhau, đồng cảm, yêu thương nhau thì nền tảng gia đình mới giữ vững và gắn bó bền chặt lâu dài được.

 

Trần Trang

Thị trường và đạo đức (kỳ 9)

 

Mao Vu Thức – Nghịch lý của đức hạnh

Trong tiểu luận này, Mao Vu Thức (茅于轼), một nhà kinh tế học và đồng thời cũng là một doanh nhân người Trung Quốc, trình bày kiến giải của mình về vai trò của thị trường trong việc tạo lập sự hài hòa và hợp tác. Ông làm nổi bật lợi ích của việc tìm cách hạ giá thành và kiếm lời do những người tham gia vào quá trình trao đổi thực hiện bằng cách so sánh hành vi “tự tư tự lợi” với những huyền thoại mà những người phê phán chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Ông đưa ra các thí dụ từ di sản văn học Trung Quốc cũng như từ kinh nghiệm của mình (cũng là kinh nghiệm của hàng triệu người Trung Quốc trong cuộc thí nghiệm bài trừ chủ nghĩa tư bản kinh hoàng ở nước này).

Mao Vu Thức là người sáng lập, đồng thời là giám đốc Viện nghiên cứu Unirule có trụ sở tại Bắc Kinh. Ông là tác giả của mấy cuốn sách và nhiều bài báo dành cho giới học giả cũng như dân chúng. Ông từng giảng dạy kinh tế học tại nhiều trường đại học và là người sáng lâp một số quỹ cứu tế và tổ chức tự lực phi chính phủ đầu tiên ở Trung Quốc và là một người tranh đấu cho tự do dũng cảm nổi tiếng.

Trong những năm 1950 ông từng bị trừng phạt bằng lao động khổ sai, lưu đầy, “cải tạo” và suýt chết đói chỉ vì nói: “Nếu không mua ở đâu được thìa dĩa thì giá thìa dĩa sẽ tăng.” và “Nếu Mao chủ tịch muốn gặp một nhà khoa học thì ai phải đến thăm ai?” Và năm 2011, ngay trước khi cuốn sách này được đưa đi in, ở tuổi 82, ông đã viết một luận văn được đăng trên mạng của tờ Caixin với nhan đề: “Đưa Mao Trạch Đông trở về với hình thức nhân văn”. Bài tiểu luận này đã mang đến cho ông những lời đe dọa chết người và làm cho ông càng nổi tiếng hơn vì đấy chính là tiếng nói của lòng trung thực và công lý. Mao Vu Thức là một trong những nhân vật theo tư tưởng tự do kiệt xuất trong thế giới đương đại và là một người làm việc không mệt mỏi nhằm đưa những tư tưởng tự do và trải nghiệm tự do đến với nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân thế giới.


Xung đột quyền lợi trong Vùng đất của những người quân tử

Khoảng giữa thế kỷ XVIII và XIX một nhà văn Trung Quốc tên là Li Ruzhen đã viết một cuốn tiểu thuyết với nhan đề Hoa trong gương (Flowers in the Mirror). Cuốn sách kể về một người tên là Tang Ao vì bị thất bại trong công việc làm ăn cho nên đã theo người anh rể xuất ngoại. Trong cuộc du hành này, anh ta đã đi qua nhiều nước có phong cảnh rất kỳ thú. Nước đầu tiên họ đến thăm có tên là Vùng đất của những người quân tử (The Land of Gentlemen).

Tất cả những người ở Vùng đất của những người quân tử đều cố tình chịu đau khổ để chắc chắn là họ sẽ được những người khác giúp đỡ. Chương 11 kể về một người cảnh sát (Li Ruzhen cố tình sử dụng nhân vật mà người Trung Quốc xưa từng quan niệm, lúc đó cảnh sát có nhiều đặc quyền đặc lợi và hay bắt nạt dân chúng) đi mua hàng:

Sau khi đã xem xét một số hàng hóa, anh cảnh sát này bảo người bán hàng: “Bạn ơi, hàng của bạn tốt quá mà giá lại rẻ quá. Làm sao tôi có thể an tâm khi bạn tỏ ra hào phóng đến như thế? Nếu bạn không nâng giá lên thì chúng tôi đành không mua nữa vậy.”

Người bán hàng đáp: “Có ông đến là chúng tôi mừng rồi. Người ta thường nói người bán thì đẩy giá lên trời còn người mua thì hạ xuống sát đất. Giá của tôi đã cao ngất trời rồi mà ông còn muốn tôi tăng nữa. Tôi khó mà đồng ý được. Xin ông đến cửa hàng khác mà mua vậy.”

Sau khi nghe người bán nói như thế, anh cảnh sát bảo: “Ông đã ra giá thấp cho những món hàng chất lượng cao thế này. Thế có phải là ông bị thiệt không? Chúng ta không được lừa dối và phải bình tĩnh. Không phải là mỗi chúng ta đều biết tính toán cả hay sao”. Sau một hồi tranh cãi mà người bán vẫn khăng khăng không chịu nâng giá, còn anh cảnh sát thì phát bực và chỉ mua một nửa số hàng đã chọn mà thôi. Nhưng người bán hàng cản đường không cho anh ta đi ra. Đúng lúc đó thì có một ông lão đi ngang qua. Sau khi cân nhắc tình hình, ông già này giải quyết bằng cách buộc anh cảnh sát phải mua 80% số hàng mà anh ta đã chọn.

Tiếp theo là câu chuyện mua bán giữa khách hàng cho rằng giá quá thấp mà chất lượng lại cao, trong khi người bán khẳng định rằng hàng không còn tươi cho nên chỉ được coi là chất lượng bình thường. Cuối cùng người mua chọn những món hàng có chất lượng xấu nhất. Đám đông đứng gần đó kết án người này là “chơi không đẹp”, anh ta đành phải lấy một nửa hàng có chất lượng cao và một nửa chất lượng thấp. Trong vụ giao dịch thứ ba thì hai bên cãi nhau về trọng lượng và chất lượng bạc được đem ra thanh toán. Bên trả nợ khẳng định rằng bạc của anh ta vừa kém về chất lượng vừa không đủ cân lạng, trong khi bên được trả nợ lại nói rằng bạc có chất lượng rất cao và đủ trọng lượng. Khi bên trả nợ đi rồi thì bên được trả nợ thấy rằng anh ta có trách nhiệm tặng số bạc mà anh ta cho là dư cho một người ăn xin đến từ vùng đất xa xôi.

Cuốn truyện này đặt ra hai vấn đề cần phải nghiên cứu.

Thứ nhất, khi hai bên đều từ chối phần lợi nhuận mà họ được chia hay đều khẳng định rằng lợi nhuận của họ là quá cao thì sẽ có tranh cãi. Đa số những cuộc tranh cãi mà chúng ta gặp trong đời sống là do chúng ta theo đuổi quyền lợi của chính mình. Kết quả là chúng ta thường mắc sai lầm khi cho rằng nếu chúng ta chấp nhận quyền lợi của phía bên kia thì sẽ không còn tranh cãi. Nhưng như đã thấy, trong Vùng đất của những người quân tử thì coi quyền lợi của phía bên kia làm cơ sở cho quyết định cũng dẫn tới xung đột và như vậy là chúng ta phải tìm cho ra cơ sở mang tính logic cho xã hội hài hòa và hợp tác.

Tiến thêm một bước nữa trong công việc nghiên cứu, chúng ta phải công nhận rằng trong công việc kinh doanh của thế giới hiện thực cả hai bên đều tìm kiếm lợi ích của riêng mình và thông qua thương lượng về các điều khoản (trong đó có giá cả và chất lượng), hai bên có thể đạt được thỏa thuận. Ngược lại, trong Vùng đất của những người quân tử thỏa thuận như thế là bất khả thi. Trong cuốn truyện, tác giả phải đưa vào một ông già và một người hành khất, thậm chí phải viện dẫn đến những biện pháp ép buộc mới có thể giải quyết được xung đột[1]. Ở đây chúng ta gặp một chân lý quan trọng và sâu sắc: những cuộc đàm phán, trong đó hai bên đều tìm kiếm lợi ích cá nhân của mình có thể đạt đến điểm cân bằng, trong khi nếu cả hai bên đều tìm kiếm lợi ích cho phía bên kia thì họ không bao giờ đạt được đồng thuận.

Hơn thế nữa, điều đó sẽ tạo ra một xã hội suốt ngày tranh cãi với chính mình. Sự kiện này trái ngược hẳn với kỳ vọng của đa số người. Vì Vùng đất của những người quân tử không thể thiết lập được sự cân bằng trong quan hệ của những cư dân của nó cho nên cuối cùng nó đã biến thành Vùng đất của những kẻ trục lợi và thô lỗ. Vì Vùng đất của những người quân tử hướng tới quyền lợi của người khác cho nên nó sinh ra những kẻ đồi bại. Trong khi những người quân tử không thể tiến hành trao đổi được thì những kẻ trục lợi và thô lỗ lại có thể giành được lợi thế bằng cách lạm dụng sự kiện là những người quân tử kiếm lời bằng cách hy sinh quyền lợi của mình. Nếu cứ tiếp tục như thế mãi thì người quân tử sẽ chết hết và sẽ chỉ còn lại bọn trục lợi và thô lỗ mà thôi.

Từ đó ta có thể thấy rằng con người chỉ có thể hợp tác khi họ tìm kiếm lợi ích của chính mình. Đấy là nền tảng an toàn, chỉ có dựa vào nền tảng như thế nhân loại mới có thể đấu tranh cho một thế giới lý tưởng. Nếu nhân loại chỉ tìm kiếm lợi ích cho người khác thì không lý tưởng nào có thể trở thành hiện thực được.

Dĩ nhiên là trong khi coi thực tế là xuất phát điểm của mình, muốn giảm xung đột, chúng ta phải quan tâm tới những người xung quanh và phải tìm cách ngăn chặn những ước muốn ích kỷ của mình. Nhưng nếu chú ý đến quyền lợi của người khác trở thành mục tiêu của mọi hành vi của chúng ta thì nó sẽ tạo ra xung đột giống như Li Ruzhen mô tả trong tác phầm Vùng đất của những người quân tử.

Có thể có người nói rằng những tình tiết tức cười trong đời sống ở Vùng đất của những người quân tử không thể nào xảy ra trong thế giới hiện thực được, nhưng, như cuốn sách này dần dần làm rõ, những sự kiện trong thế giới thực và những sự kiện ở Vùng đất của những người quân từ đều có những nguyên do giống nhau. Nói cách khác, cả thế giới hiện thực lẫn Vùng đất của những người quân tử đều không có nguyên lý rõ ràng về cách thức tìm kiếm lợi ích riêng.

Động cơ của cư dân Vùng đất của những người quân tử là gì? Trước hết chúng ta phải hỏi: “Tại sao người ta lại muốn trao đổi?” Dù là hàng đổi hàng sơ khai hay việc trao đổi hàng-tiền trong xã hội hiện đại thì động cơ đằng sau nó vẫn là cải thiện hoàn cảnh của người ta, làm cho đời sống của người ta thuận lợi hơn và tiện nghi hơn. Không có động cơ như thế, người ta trao đổi những thứ tự mình phải khó nhọc mới làm ra được để làm gì? Tất cả những thú vui vật chất mà chúng ta nhận được, từ cái kim sợi chỉ cho đến tủ lạnh và TV màu đều do trao đổi mà ra.

Nếu người ta không trao đổi thì mỗi người chỉ có thể trồng được thóc và bông trên những mảnh ruộng ở nhà quê, chỉ có thể sử dụng gạch bằng đất để xây nhà và chiến đấu với đất đai để giành lấy tất cả những thứ cần thiết để tồn tại mà thôi. Với cách làm việc như thế, con người chỉ có thể kéo lê đời sống như tổ tiên ta đã sống hàng chục ngàn năm trước. Chắc chắn là chúng ta không được thưởng thức bất kỳ lợi ích nào của nền văn minh hiện đại ngày nay.

Vùng đất của những người quân tử đã có nhà nước và thị trường, điều đó chứng tỏ rằng người dân ở đấy đã rời bỏ nền kinh tế tự cấp tự túc và đã chọn con đường trao đổi nhằm cải thiện hoàn cảnh kinh tế của mình. Thế thì tại sao họ lại không nghĩ đến quyền lợi của mình khi tham gia trao đổi kinh tế? Dĩ nhiên là, nếu ngay từ đầu trao đổi là để làm giảm lợi thế của mình và tăng lợi thế của người khác thì hành vi “quân tử” là có thể xảy ra. Nhưng mọi người tham gia trao đổi hay có kinh nghiệm về trao đổi đều biết rằng hai bên tham gia trao đổi đều tham gia vì lợi ích của mình, còn người nào hành động ngược lại với quyền lợi của mình trong quá trình trao đổi là người có động cơ sai lầm.

Có thể thiết lập được xã hội trên cơ sở các bên cùng có lợi mà không cần thương thảo về giá cả hay không?

Trong giai đoạn khi mà cuộc đời và sự nghiệp của Lôi Phong[2] còn được đề cao ở Trung Quốc người ta thường thấy trên màn ảnh truyền hình một người tốt bụng và tận tụy như Lôi Phong đang chữa nồi niêu xoong chảo cho đám đông. Người xem có thể thấy một hàng người trước mặt anh ta, mỗi người đều cầm những món đồ cũ cần phải sửa chữa. Những hình ảnh này là nhằm động viên mọi người làm theo người môn đệ đầy lòng từ tâm của Lôi Phong và làm cho quần chúng chú ý đến anh ta. Nếu hàng không dài thì bộ máy tuyên truyền không đủ sức thuyết phục. Chúng ta cũng cần ghi nhận rằng những người xếp hàng với nồi niêu xoong chảo cần phải chữa ở đó không phải là để học Lôi Phong mà ngược lại, để tìm kiếm lợi ích của mình trong khi người khác bị thiệt.

Trong khi chính sách tuyên truyền như thế có thể dạy được một số người làm việc tốt cho những người khác thì đồng thời nó thậm chí còn dạy cho nhiều người cách tìm kiếm lợi ích từ những người khác. Trong quá khứ người ta từng nghĩ rằng tuyên truyền kêu gọi dân chúng làm việc nhằm phục vụ người khác mà không đòi hỏi thù lao có thể cải thiện được đạo đức xã hội. Nhưng đây chắc chắn là một sự lầm lẫn lớn vì những người học cách giành giật lợi ích cá nhân sẽ nhiều hơn nhiều lần số người học cách làm việc nhằm phục vụ những người khác. Từ quan điểm lợi ích kinh tế, việc mọi người đều có trách nhiệm phục vụ người khác là việc làm vô nghĩa.

Những người mang đồ đạc đến chữa miễn phí có thể mang cả những thứ không đáng chữa, thậm chí có thể mang cả những thứ nhặt được từ thùng rác nữa. Nhưng vì giá chữa những thứ đó là bằng không, thì giờ vàng ngọc dành để chữa chúng sẽ gia tăng cũng như sẽ gia tăng vật tư quí hiếm dùng cho việc sửa chữa những món đồ đó. Đấy là do gánh nặng của việc sửa chữa những đồ đặc đó được đặt lên vai người khác, chi phí cho việc sửa chữa miễn phí của chủ nhân món hàng chỉ là thời gian chờ đợi mà thôi.

Nếu xét theo quan điểm lợi ích của toàn xã hội thì toàn bộ thời gian, công sức và vật tư dùng để sửa chữa những món đồ đó chỉ mang lại những chiếc nồi niêu xoong chảo chẳng có lợi ích bao nhiêu. Nếu thời gian và vật tư đó được dùng cho những hoạt động có năng suất cao hơn thì chắc chắn là có thể tạo ra những giá trị lớn hơn cho xã hội. Từ quan điểm hiệu quả kinh tế và thịnh vượng của cả cá nhân lẫn xã hội thì trách nhiệm và quá trình sửa chữa không được trả công như thế có hại nhiều hơn là lợi.

Hơn thế nữa, nếu những đồ đệ tốt bụng của Lôi Phong lại còn xếp hàng hộ những người đang cầm xoong chảo đợi chữa thì việc giải thoát cho những người nghèo đó khỏi cả công việc xếp hàng chán ngắt như thế có thể thậm chí làm cho hàng còn dài ra hơn. Đấy thật là một cảnh tượng vô lý, một nhóm thì đứng xếp hàng để cho nhóm người kia không phải làm như thế. Hệ thống trách nhiệm kiểu đó giả định rằng có một nhóm người muốn được phục vụ như là điều kiện tiên quyết. Cái đạo đức vị tha như thế không thể là đạo đức mang tính phổ quát được. Rõ ràng là những người ca ngợi tính ưu việt của hệ thống mình vì mọi người mà không cần viện dẫn đến giá cả như thế đã không suy nghĩ vấn đề một cách thấu đáo.

Trách nhiệm sửa chữa đồ dùng cho người khác còn tạo ra hậu quả phụ mà ít ai ngờ tới. Đấy là nếu những người từng tham gia vào việc sửa chữa bị các đồ đệ của Lôi Phong đẩy ra khỏi thương trường thì họ sẽ mất việc và sẽ gặp nhiều khó khăn.

Tôi không bao giờ phản đối việc học theo tấm gương của Lôi Phong trong việc giúp đỡ những người gặp khó khăn, đấy là công việc có ích, thậm chí là cần thiết đối với xã hội. Nhưng nếu coi việc trợ giúp người khác là trách nhiệm phải làm thì nó sẽ tạo ra sự rối rắm, hỗn loạn và xuyên tạc tinh thần tự nguyện của Lôi Phong.

Trong xã hội của chúng ta có những người rất yếm thế và những người căm thù cái xã hội mà theo họ là coi đồng tiền là tất cả. Họ nghĩ rằng những người có tiền là những kẻ không thể chịu đựng nổi và người giàu tự coi là mục hạ vô nhân, còn người nghèo là những người lo lắng cho quyền lợi của nhân loại. Họ tin rằng tiền làm méo mó quan hệ bình thường giữa người với người. Kết quả là họ muốn xây dựng một xã hội dựa trên tinh thần tương trợ lẫn nhau, không cần nói đến tiền và giá cả. Đấy là xã hội, nơi người nông dân trồng cấy mà không hề nghĩ đến công xá, nơi người công nhân dệt vải cho tất cả mọi người, cũng không cần công xá, nơi người thợ cắt tóc làm việc miễn phí ..v. v.. Xã hội lý tưởng như thế có thể tồn tại được hay không?

Muốn trả lời chúng ta phải quay trở lại với lý thuyết kinh tế về sự phân bố nguồn lực, mà như thế thì sẽ lạc đề và hơi dài. Để đơn giản, xin bắt đầu bằng một thí nghiệm tưởng tượng như sau. Hãy lấy trường hợp anh thợ cạo. Hiện nay đàn ông thường cắt tóc ba hay bốn tuần một lần, nhưng nếu có người cắt miễn phí thì họ có thể đi cắt mỗi tuần một lần. Tiền công cắt tóc sẽ làm cho lao động của người thợ cạo được sử dụng một cách hữu hiệu hơn.

Trên thị trường, tiền công cắt tóc phụ thuộc tỉ lệ lao động xã hội làm trong ngành này. Nếu nhà nước giữ giá cắt tóc thấp thì số người muốn cắt tóc gia tăng, số thợ cạo cũng gia tăng tương ứng và như vậy là số người làm trong những ngành khác phải giảm, đấy là nói trong trường hợp lực lượng lao động không thay đổi. Cái gì đúng trong trường hợp thợ cạo thì cũng đúng cho những ngành nghề khác.

Trong nhiều khu vực nông thôn ở Trung Quốc giúp đỡ miễn phí là việc bình thường. Nếu một người nào đó muốn dựng nhà thì tất cả họ hàng và bạn bè đều đến giúp. Thường là không phải trả tiền, chỉ phải chi phí thức ăn cho những người đến phụ giúp mà thôi. Lần sau, khi bạn của người đã được giúp đỡ xây nhà thì anh ta cũng sẽ đến giúp miễn phí. Thợ điện cũng thường sửa đồ điện miễn phí, chỉ cần tặng quà nhân dịp tết nhất là được. Những vụ trao đổi phi tiền tệ như vậy không thể là đơn vị đo lường chính xác lao động đã bỏ ra. Hậu quả là giá trị lao động không được khai thác một cách có hiệu quả và sự phân công lao động trong xã hội cũng không được khuyến khích.

Tiền và giá có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Không được để cho đồng tiền chiếm chỗ của những tình cảm như tình bạn và tình yêu. Nhưng như thế cũng không có nghĩa là tình bạn và tình yêu có thể thay thế được đồng tiền. Chúng ta không thể loại bỏ được đồng tiền chỉ vì sợ rằng nó sẽ ăn mòn những mối ràng buộc trong quan hệ của con người với nhau. Trên thực tế, giá cả bằng tiền là phương pháp hiện có duy nhất để ta có thể phân bố nguồn lực sao cho chúng có thể được sử dụng một cách hữu hiệu nhất. Nếu chúng ta duy trì cả giá trị bằng tiền lẫn tình cảm và những giá trị cao quí khác của chúng ta thì chúng ta có thể hy vọng xây dựng được một xã hội vừa hiệu quả lại vừa nhân ái.

Sự cân bằng quyền lợi cá nhân

Giả sử A và B phải chia hai quả táo trước khi ăn. A chạy trước và nhặt được quả to hơn. B cáu kỉnh hỏi: “Sao anh lại có thể ích kỷ thế nhỉ?” A vặn lại: “Thế nếu anh nhặt trước thì anh chọn quả nào?” B đáp: “Tôi sẽ nhặt quả nhỏ hơn.” A vừa cười vừa nói: “Tôi chả làm đúng như anh muốn là gì?”

Trong câu chuyện trên A đã được lợi hơn B, trong khi B theo nguyên tắc “đặt quyền lợi của người khác lên trên quyền lợi của mình” mà A thì không. Nếu chỉ một bộ phận trong xã hội tuân theo nguyên tắc này còn những bộ phận khác không theo thì bộ phận theo sẽ bị thiệt trong khi những bộ phận không theo sẽ được lợi. Nếu hiện tượng này không được ngăn chặn thì nhất định sẽ dẫn tới xung đột. Rõ ràng là, nếu chỉ có một số người đặt quyền lợi của người khác lên trên quyền lợi của mình thì cuối cùng hệ thống này nhất định sẽ dẫn tới xung đột và hỗn loạn.

Nếu cả A và B đều quan tâm đến quyền lợi của phía bên kia thì vấn đề chia hai quả táo bên trên sẽ không thể nào giải quyết được. Nếu cả hai đều tìm cách ăn quả táo nhỏ hơn thì sẽ xuất hiện vấn đề mới, như ta đã từng thấy trong Vùng đất của những người quân tử. Cái gì đúng với A và B thì cũng đúng với tất cả những người khác. Nếu toàn bộ xã hội đều tuân theo nguyên tắc làm lợi cho người khác, chỉ có một người không, thì cả xã hội sẽ phục vụ cho người đó; xã hội như thế có thể tồn tại được, đấy là về lý thuyết.

Nhưng nếu cả người này cũng quay ra theo nguyên tắc trên thì xã hội – như một hệ thống của sự hợp tác – sẽ không thể tồn tại được nữa. Nguyên tắc mình vì người khác nói chung chỉ khả thi với điều kiện là những người khác sẽ quan tâm tới quyền lợi của toàn xã hội, còn mình thì không. Nhưng trên bình diện toàn cầu thì đấy là điều bất khả thi, đấy là nói trừ phi ta có thể buộc mặt trăng phải quan tâm đến quyền lợi của dân chúng trên trái đất.

Lý do của sự rắc rối như thế là vì xét một cách tổng quát thì trong xã hội không có sự phân biệt giữa “ta” và “người”. Dĩ nhiên là đối với một anh chàng John hoặc Jane Doe cụ thể nào đó thì “ta” là ta, còn người là “người”, “ta’ không thể lẫn lộn với “người” được. Nhưng từ quan điểm của xã hội thì mỗi người đều vừa là “ta” vừa là “người”. Khi nguyên tắc “vì người trước khi vì mình” được đem ra áp dụng cho anh A thì trước hết anh A phải suy nghĩ về sự thiệt hơn của những người khác. Nhưng khi nguyên tắc này được anh B áp dụng thì quyền lợi của anh A lại nằm ở vị trí quan trọng nhất.

Đối với các thành viên trong cùng xã hội đó thì câu hỏi là liệu họ phải nghĩ đến người khác trước hay những người khác phải nghĩ đến họ trước sẽ dẫn đến rối loạn và mâu thuẫn. Vì vậy mà, trong bối cảnh này nguyên tắc vị tha là không phù hợp và mâu thuẫn, và cũng vì vậy mà không thể dùng để giải quyết nhiều vấn đề xuất hiện trong quan hệ giữa người với người. Nhưng dĩ nhiên điều đó cũng không có nghĩa là tinh thần cỗ vũ cho nó không đáng được ca ngợi hay những hành động vì người khác là không đáng ca ngợi, nhưng nó không thể tạo ra cơ sở mang tính phổ quát để các thành viên trong xã hội theo trong khi tìm cách bảo vệ quyền lợi của cả hai bên.

Những người đã trải qua cuộc Đại cách mạng văn hóa vô sản hẳn còn nhớ rằng khi khẩu hiệu “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và phê phán chủ nghĩa xét lại” vang lên khắp đất nước thì cũng là lúc mà những kẻ lắm mưu mô và nhiều tham vọng lên như diều gặp gió. Thời gian đó đa số người dân Trung Quốc có thể thực sự tin rằng cuộc “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và phê phán chủ nghĩa xét lại” có thể trở thành tiêu chuẩn xã hội và kết quả là họ đã tìm mọi cách để chỉ trích chủ nghĩa cá nhân.

Cũng trong thời gian đó những kẻ cơ hội đã lợi dụng khẩu hiệu này nhằm thu lợi riêng. Chúng lợi dụng chiến dịch bài trừ bóc lột nhằm biện hộ cho việc lục soát nhà của người khác và cướp đoạt tài sản của họ. Chúng kêu gọi người khác bài trừ chủ nghĩa cá nhân và vì lợi ích của cách mạng mà thừa nhận là những kẻ phản bội, gián điệp hay phản cách mạng và bằng cách đó ghi thêm cho họ những tội lỗi mới.

Không cần suy nghĩ, những kẻ cơ hội chủ nghĩa đã đẩy tha nhân vào hoàn cảnh đầy nguy hiểm cho cuộc sống của họ, mà tất cả chỉ nhằm giành một chức vụ nào đó trong chính quyền mà thôi. Như vậy là, chúng ta đã phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến nguyên tắc “mình vì mọi người”, nhưng Cách mạng văn hóa còn cho thấy mâu thuẫn của nguyên tắc này khi nó được đem ra áp dụng vào thực tế.

Trong ký ức, Cách mạng văn hóa đã phai mờ dần, nhưng chúng ta phải nhớ rằng lúc đó tất cả các khẩu hiệu đều bị đem ra phê phán và kiểm soát một cách kỹ lưỡng. Nhưng hiện nay thì không thế nữa, vì khi câu hỏi đặt ra là phải dùng nguyên tắc nào để xử lý những vấn đề xã hội thì dường như người ta đã không còn kỹ lưỡng nữa. Chúng ta vẫn sử dụng những biện pháp tuyên truyền cũ nhằm động viên người dân giải quyết những cuộc tranh luận, thậm chí ngay cả tại tòa án những phương pháp lỗi thời vẫn có ảnh hưởng khá lớn.

Những độc giả đã quen lật đi lật lại vấn đề chắc chắn sẽ có một vài câu để hỏi về vấn đề chia một cách hợp lý nhất hai quả táo vừa nói. Nếu chúng ta đồng ý rằng “mình vì mọi người” không thể là nguyên tắc giải quyết tốt nhất vấn đề chia hai quả táo thì có phải là không có cách nào tốt hơn hay không? Xin nhớ rằng ở đây có một quả táo to và một quả táo nhỏ và chỉ có hai người tham gia chia mà thôi. Có thể là ngay cả những những vị thần bất tử huyền thoại của Trung Quốc cũng thấy khó mà tìm được giải pháp thỏa đáng?

Nhưng trong xã hội thị trường câu hỏi hóc búa vừa nói thực ra là có thể giải quyết được. Hai người đó có thể thảo luận xem phải giải quyết như thế nào. Thí dụ A lấy quả to hơn với thỏa thuận là lần sau B sẽ được lấy quả to hơn hoặc nếu A lấy quả to hơn thì B sẽ được đền bù một khoản nào đó. Món tiền do A trả sẽ giúp giải quyết vấn đề khó khăn này. Trong nền kinh tế có sử dụng tiền tệ thì chắc chắn là hai bên sẽ áp dụng biện pháp này. Bắt đầu bằng khoản đền bù nhỏ (thí dụ, 1 xu), số tiền sẽ được nâng dần lên cho đến khi một bên đồng ý lấy quả táo nhỏ cùng với món tiền đền bù.

Nếu số tiền ban đầu quá nhỏ thì ta có thể cho rằng cả hai bên đều muốn lấy quả to và trả khoản đền bù nhỏ bé kia. Nhưng khi số tiền đền bù được nâng lên thì sẽ đến một lúc một trong hai bên đồng ý lấy quả táo nhỏ cùng với tiền đền bù. Chúng ta có thể nói một cách chắc chắn rằng nếu hai bên đều đánh giá vấn đề một cách hữu lý thì họ sẽ tìm ra được biện pháp giải quyết cuộc tranh luận. Và đấy cũng là biện pháp giải quyết một cách hòa bình khi quyền lợi của các bên xung đột nhau.

Ba mươi năm sau khi Trung Quốc cải cách và mở cửa, một lần nữa vấn đề giàu nghèo lại được gióng lên, lòng thù hận với những người giàu có đang ngày một tăng lên. Trong giai đoạn khi mà người ta tập trung vào cuộc đấu tranh giai cấp – khởi đầu của mọi phong trào quần chúng – thì những đau khổ của quá khứ lại được đem ra so sánh với hạnh phúc của ngày hôm nay. Xã hội cũ bị phủ nhận và sự bóc lột trước đó được sử dụng như là hạt giống nhằm kích động lòng hận thù của dân chúng.

Khi cuộc Cách mạng văn hóa được khởi động vào năm 1966 (một phong trào nhằm quét sạch những hiện tượng xấu xa của hệ thống giai cấp cũ), tại nhiều khu vực con cháu của giai cấp địa chủ đã bị chôn sống, mặc dù đa số địa chủ đã chết từ trước rồi. Không ai thoát: cả già lẫn trẻ, thậm chí phụ nữ và trẻ con cũng không thoát. Dân chúng nói rằng phải có lý do thì người ta mới yêu cho nên cũng phải có lý do thì người ta mới ghét. Lòng căm thù con em của giai cấp địa chủ xuất phát từ đâu?

Nó xuất phát từ lòng tin tưởng nhiệt thành rằng hậu duệ của giai cấp địa chủ tìm cách bóc lột để tạo dựng địa vị của chúng. Hiện nay khoảng cách giàu nghèo còn nổi bật hơn nữa. Và trong khi thừa nhận có những người sử dụng các phương tiện phi pháp để làm giàu thì trong bất kỳ xã hội nào khoảng cách giàu nghèo cũng là hiện tượng không thể tránh được. Ngay cả trong các nước đã phát triển, nơi những cách làm giàu phi pháp bị ngăn chặn một cách quyết liệt thì khoảng cách giàu nghèo vẫn là hiện tượng thường thấy.

Lý lẽ chống lưng cho lòng căm thù những người có của là lý lẽ sai ngay từ căn cốt. Nếu một người nào đó căm hận người giàu vì anh ta chưa giàu thì chiến lược tốt nhất mà anh ta có thể áp dụng là trước hết hãy lật độ người giàu và đợi một thời gian khi đã giàu rồi thì mới ủng hộ việc bảo vệ quyền của người giàu. Đối với một số nhóm người thì đây là biện pháp hợp lý nhất. Nhưng đối với toàn xã hội thì không có cách nào phối hợp tiến trình để cho tất cả mọi người trong xã hội cùng giàu lên với tốc độ như nhau được. Một số người sẽ giàu trước, còn nếu ta đợi để mọi người cùng giàu với tốc độ như nhau thì sẽ chẳng có ai giàu hết.

Chống lại người giàu là vô lý vì người nghèo chỉ có thể trở thành giàu có nếu mọi người và bất kỳ người nào cũng được bảo đảm có quyền làm giàu, nếu thành quả lao động không bị xâm phạm, và nếu quyền sở hữu được tôn trọng. Một xã hội mà trong đó càng ngày càng có nhiều người có tài sản và đồng ý rằng “làm giàu là vinh quang” thì trên thực tế có thể làm được một cái gì đó.

Nhà khoa học Li Ming của Trung Quốc đã viết rằng chia nhân dân thành hai nhóm “giàu” và “nghèo” là cách phân biệt không đúng giữa hai nhóm người này. Đúng ra là phải chia thành nhóm những người có quyền và nhóm những người không có quyền. Ý ông muốn nói là trong xã hội hiện đại, vấn đề giàu nghèo thực chất là vấn đề quyền. Người giàu trở thành giàu là vì họ có quyền, còn người nghèo thì không. Quyền mà ông nói tới là quyền con người chứ không phải là đặc quyền đặc lợi. Không thể có chuyện là tất cả các công dân đều có đặc quyền đặc lợi được. Chỉ có một nhóm thiểu số có thể tiếp xúc với đặc quyền đặc lợi mà thôi. Nếu chúng ta muốn giải quyết vấn đề giàu nghèo thì trước hết chúng ta phải thiết lập nhân quyền ngang nhau cho tất cả mọi người. Phân tích của Li Minh là sâu sắc và thấu đáo.

Bản dịch tiếng Anh của Jude Blanchette, Phạm Nguyên Trường dịch từ Anh ngữ
Nguồn: The Morality of Capitalism


[1] Người ăn mày may mắn là người ngoài, vì nếu ông ta cũng là người sống trong Vùng đất của những người quân tử thì cuộc cãi vã sẽ chẳng bao giờ kết thúc được.
[2] Lôi Phong (18/12/1040-15/08/1962) là một chiến sỹ Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trở thành anh hùng dân tộc sau khi chết vào năm 1961 trong một tai nạn giao thông. Phong trào “Học tập đồng chí Lôi Phong” diễn ra trong toàn quốc được khởi động vào năm 1963, phong trào này kêu gọi nhân dân Trung Quốc theo gương phấn đấu hy sinh của anh trong việc phục vụ Đảng cộng sản Trung Quốc và chủ nghĩa xã hội.

Thương con

Featured Image: navelless

 

Thế là con đã vào lớp hai được một tháng. Năm học mới đồng nghĩa với những ước mơ, hy vọng, những háo hức, đợi chờ về thành tích học tập mới của con nhưng năm học mới cũng khiến mẹ lo lắng hơn, thương con nhiều hơn.

Thương vì nỗi trường lớp chật chội, các con đều lớn lên mà bàn ghế chẳng “nở” ra. Năm, sáu mươi học sinh trong một căn phòng mấy chục mét vuông, bàn ghế thiết kế cho hai người ngồi mà toàn phải nhồi nhét thêm một bạn ở giữa. Cặp sách chẳng có chỗ mà treo, đồ dùng chẳng có chỗ mà cất, nếu không để sau lưng thì phải vứt luôn xuống đất. Sân trường cũng bé tí tẹo, hơn một nghìn học sinh trong khuôn viên mấy trăm mét vuông.

Thử hình dung giờ ra chơi tất cả cùng ùa ra sân một lúc thì sẽ thế nào, với tốc độ chạy nhảy chóng mặt của trẻ con không cẩn thận là “chết như chơi”. Hồi năm ngoái đấy thôi, nghe lời mẹ “động viên”, con vừa “mon men” xuống sân đùa nghịch cùng các bạn đã bị ngã chảy máu đầu, làm cả nhà được một phen khiếp vía… Chẳng hiểu sao chung cư, siêu thị mọc lên như nấm mà trường học mãi không xây thêm được cái nào. Buồn quá, vô lý quá!

Thương con vì thêm một lớp là phải gánh thêm một ít sách vở, nhìn cái cặp sách to quá khổ của con kìa. Năm ngoái cái cặp bé hơn đã chẳng đeo vừa, năm nay lại còn to hơn thì đeo sao nổi. Kiến thức học có bao nhiêu đâu mà sao lại đẻ ra lắm sách vở đến thế, người ta có biết một đứa trẻ như nặng 17 cân như con mà phải cõng cái cặp sách nặng đến 7 cân không. Mỗi lần soạn sách vở hộ con hoặc thử nhấc cái cặp sách lên giúp con là mẹ lại xuýt xoa kêu trời. Các con bé bỏng, chiều cao còn hạn chế vậy mà phải xách cái cặp ấy hàng ngày thì lớn làm sao nổi, không gù lưng đi là tốt rồi. Thảo nào, bây giờ chẳng có bậc cha mẹ nào dám để con tự đi bộ đến trường như ngày xưa.

Nếu không có những lo lắng về các tệ nạn luôn rình rập con ngoài xã hội thì cha mẹ cũng chẳng nỡ lòng để con vác cái cặp như muốn đổ sập xuống người ấy. Mẹ không nhớ rõ cái thời đi học của mẹ cách đây ba chục năm, có tất cả bao nhiêu sách vở, mẹ chỉ biết rằng chưa bao giờ có ấn tượng là nó nặng, dù mẹ cũng chẳng to khỏe gì. Hàng ngày tung tăng nhảy múa với cái cặp sách từ nhà đến trường trên đoạn đường vài ba cây số, bất luận mưa nắng thế nào cũng thấy rất bình thường. Chắc hẳn nó phải nhẹ, rất nhẹ. Thế mà cái thời của mẹ có dốt nát gì đâu, bạn mẹ bây giờ khối người là kỹ sư, tiến sĩ , du học nước trong nước ngoài. Bản thân mẹ xếp vào hạng bét mà cũng nằm trong lứa “thế hệ vàng của ngành sư phạm Việt Nam” đấy.

Mẹ chả hiểu nổi người ta vẫn nói đến phương pháp tích hợp trong dạy học, rồi xu hướng chung của thế giới là liên kết các phân môn lại với nhau thành một mối quan hệ gắn bó, thế sao sách vở của con lại cứ đẻ ra hết quyển này đến quyển khác thế? Gộp tất cả chúng lại thành một hai môn thôi không được à? Đỡ tốn tiền in sách, đỡ mất công dạy đi dạy lại. Ví như khi dạy tiếng Việt về chủ đề gia đình thì lồng luôn vào đó những bài học đạo đức, truyện kể, âm nhạc cùng chủ đề; vở tập viết với vở chính tả cho vào một “rọ” có được không. Vì mẹ không rành cái này lắm nên chỉ dám trộm nghĩ thế thôi, lỡ mà nói sai mọi người lại cười chết.

Nhưng cái “vụ” này thì mẹ tin chắc mình không nói sai này, ấy là mấy quyển vở ghi bài của con, đã có sách giáo khoa phục vụ cho buổi học chính, sách bài tập phục vụ cho buổi học phụ rồi cô lại còn yêu cầu thêm 1 quyển vở toán cho buổi sáng, 1 quyển toán cho buổi chiều, 1 quyển vở tiếng Việt cho buổi sáng, 1 quyển tiếng Việt nữa cho buổi chiều, rồi lại vở bài tập về nhà. Trời ơi cứ gói tất cả lại làm một, có rơi vãi đi ít chữ nào không, dùng hết quyển này thì chuyển sang quyển khác như thế có phải gọn nhẹ biết bao. Mẹ thấy con nhớ hết được “mặt mũi” các quyển vở cũng tài.

Không thương sao được vì biết chẳng mấy con lại cận thị đến nơi. Cái dáng ngồi xiêu vẹo, cái đầu nghiêng nghiêng, cái mặt cúi gằm xuống trang vở, nắn nót theo từng con chữ. Ôi chao, lúc chưa đi học thì ngồi thẳng lưng thế, ngẩng đầu cao thế mà lúc đi học lại như thấp hẳn xuống. Mẹ mắng con thì con lý sự là ở lớp con bạn nào cũng thế, có bạn còn nằm bò ra bàn viết, bạn thì tì cằm lên tay để viết cho đỡ mỏi. À hóa ra chỉ cần chăm chăm viết chữ sao cho đẹp là được, còn ngồi thế nào không quan trọng. Hèn gì học sinh bây giờ cận lắm thế! Đứa nào không cận mới là lạ.

Chẳng bù cho cái thời của mẹ, phải cố gắng lắm mới tìm ra một bạn “bốn mắt”. Thời nay, trẻ con có ham học, ham đọc sách gì cho cam, cận thị “trăm sự” chỉ tại cái tội ngồi học không đúng tư thế, mà lại học những hai buổi một ngày, ngày nào cũng như vậy, chẳng mấy chốc thành quen. Về nhà, bố mẹ có chỉnh sửa cũng chẳng ăn thua gì. Hỏi rằng ở lớp cô giáo không uốn nắn à, chắc là có nhưng học sinh đông như thế, cô sức đâu mà uốn nắn mãi được, thôi kệ, đứa nào nghe thì tốt cho đứa ấy, không thì thôi, hậu quả đâu nó chịu, bố mẹ nó chịu và xã hội chịu. Lớp lớp các em thơ… cận thị cứ thế nối tiếp nhau ra đời.

Không biết thế giới họ sao chứ, ở Việt Nam tỷ lệ cận thị là… nhiều đến mức bố mẹ cũng tặc lưỡi cho qua: “Ôi dào, chuyện thường ở huyện, con người ta thế, con mình cũng vậy, có gì khác nhau đâu mà lo.” Thế nên mẹ xác định trước tư tưởng rồi, chẳng chóng thì chầy con cũng sẽ bị cận thôi, chỉ có điều kéo dài thêm ngày nào thì hay ngày ấy, kính mỏng đỡ chừng nào thì tốt chừng ấy.

Thương con còn bởi một nỗi sáng học, chiều học, tối lại học. Mở mắt ra, ăn vội ăn vàng để còn đi học, buổi trưa  ăn nhanh chóng, ngủ khẩn trương để còn kịp giờ vào lớp, buổi chiều đi học về, vừa ăn vừa tranh thủ xem phim hoạt hình để tối còn học sớm mà đi ngủ sớm, sáng mai dậy lại tiếp tục cái guồng quay như người lớn ấy. Chẳng có tí thời gian nào hở ra cho con chơi cả. Ấy là con còn “may mắn” có bà mẹ “hơi tiến bộ” một chút vì không bắt đi học thêm học nếm gì cả. Thứ bẩy, chủ nhật được xả hơi đến tối mới phải ngồi vào bàn.

Thương con vì bé tí đã biết thế nào là áp lực điểm số. Mỗi chiều đi học về, cả nhà xúm xít hỏi hôm nay con được mấy điểm. Nếu điểm cao thì cả nhà vui vẻ, mãn nguyện, điểm thấp thì ai nấy đều buồn so, có khi mẹ cũng bị mắng lây vì không biết dạy con. Đôi khi nhìn con vừa về đến cổng đã khoanh tay, xin lỗi mẹ vì hôm nay con chỉ được điểm 8, thương quá chừng. Nào mẹ có nói gì đâu, chỉ là tự con đã cảm thấy cái trách nhiệm lớn lao của mình là phải học thật giỏi để không phụ lòng trông đợi của mẹ. Con học thế nào, tự mẹ biết hơn ai hết, nhưng phần lớn mọi người đều phải nhìn vào điểm số để đánh giá sức học của con. Và mẹ nhiều lúc cũng không thoát khỏi cái “định kiến” lạc hậu ấy.

Bộ giáo dục dẫu có thay đổi cách chấm điểm bằng hình thức dán vào vở hình mặt cười, mặt mếu, hoa xanh, hoa đỏ hoặc xếp loại A,B,C gì thì cũng như nhau cả thôi, bình mới nhưng rượu vẫn là cũ. Có bậc cha mẹ nào nhìn cái “mặt mếu” mà không mắng con, không ngầm hiểu là “thằng này học ngu hơn các bạn”. Chỉ khi nào tiêu chí học tập của xã hội thay đổi thì mới mong không còn nỗi lo điểm số.

Chừng đấy lý do khiến năm học mới mà lòng mẹ chẳng bước sang trang mới. Thương con mà đâu giúp gì được con vì toàn những việc nằm ngoài tầm với của mẹ.

 

Phương Liên

Nghĩ về Đấng Sinh Thành

Featured Image: James Kendall

 

“Nhân ngày Quốc tế người cao tuổi nghĩ về Đấng Sinh Thành”
Hay
“Đem lại ý nghĩa cho bữa tiệc sinh nhật”

Trước khi viết lên những suy nghĩ của mình tôi xin được hỏi bạn một câu: Sau này bạn có già không?

Thường vào dịp sinh nhật ta hay tụ tập bè bạn, đó là chuyện tất lẽ dĩ ngẫu, nhỏ thì quà bánh thổi nến, nhỏ thì nhảy nhót hát ca, lớn nữa thì rượu bia ăn uống… hoặc những cuộc vui tương tự, tất nhiên là rất hay rồi, vì đây là dịp để bạn bè gặp gỡ nhau chia sẻ vui buồn sướng khổ, những dịp như thế nên lắm chứ! Và rất đáng để ta duy trì.

Tuy nhiên, có mấy ai những lúc đó tự hỏi, cái ngày này năm xưa của mình thế nào nhỉ?! cái này nên hỏi mẹ hỏi cha! Cái ngày ta được sinh ra trên đời ta nào đâu có biết, nhưng cái ngày đó – cảm giác được làm cha làm mẹ của Đấng Sinh Thành thật không thể nào tả xiết, có biết bao nhiêu là cảm xúc, biết bao nhiêu cung bậc của tình cảm và tình yêu thương tràn về trong cái ngày trọng đại đó, mà có thể lại rất bình thường đối với những người khác, và rồi ta cũng chỉ biết đến cảm xúc đó vào cái ngày ta được làm cha làm mẹ, cái ngày con cái ta ra đời mà chính chúng cũng nào đâu có hay?!

Cuộc đời là vậy đó, những vòng xoay không bao giờ nối được điểm bắt đầu và điểm kết thúc, điều này là không thể, tuy nhiên có một điều mà bất cứ ai đều cũng có thể làm được, và nên làm cho bằng được, bằng cách này hay cách khác, và nó phải nên diễn ra ở cái giờ phút trọng đại nhất trong bữa tiệc sinh nhật, là nói nên lời cảm ơn Đấng Sinh Thành đã cho ta sự sống.

Và hàng năm, vào đúng ngày này năm xưa…

Nếu là sinh nhật của ta, ta sẽ nói điều đó với cha mẹ, ông bà nội ngoại của ta. Nếu mà Người đã khuất ta sẽ thắp nén hương lên để gửi về nơi Chín Suối lời cảm tạ sinh thành, nếu mà Người vẫn còn tự tại ta sẽ dành miếng bánh sinh nhật đầu tiên đến Người với cái ôm nồng ấm nhất… Cảm ơn Mẹ, cảm ơn Cha, cảm ơn Ông, cảm ơn Bà đã cho con sự sống!

Nếu là sinh nhật của các con ta, ta sẽ dạy cho các con biết làm những điều này đối với chính ông bà và cha mẹ chúng, điều này cũng nên làm lắm chứ, và lâu dần nó sẽ thành nếp nhà, truyền thống gia phong, đó mới là điều ý nghĩa nhất của bữa tiệc sinh nhật.

Người già cũng chỉ cần có vậy

Tôi viết lên đây những cảm xúc của mình để chia sẻ với những ai đang làm cha làm mẹ, và cả những ai là con của những người cha người mẹ, và cả với những ai muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho những đứa con yêu của mình. Hãy làm điều gì đó, ngay ngày hôm nay, cho những người già xung quanh ta, không cần phải chờ đến ngày 1/10 hàng năm. Nếu mỗi người đều làm như vậy trong ngày sinh nhật của mình và con cái mình thì trên đất nước này, trên trái đất này, ngày nào đều cũng là ngày hạnh phúc của người già rồi đó.

 

Ngải Tướng Quân