27 C
Nha Trang
Thứ tư, 6 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 184

Mười nghìn đồng và cái tát đầu tiên

Featured image: via Tumblr

Kiếm được mười nghìn đồng trong lúc khó khăn dĩ nhiên phải khác xa so với có được mười nghìn đồng trong lúc đầy đủ. Cùng mệnh giá ấy nhưng người sử dụng nó với mục đích khác nhau cũng cho ra những kết quả khác nhau: người nhân ái dùng mười nghìn đồng mua gói xôi, ổ bánh mì biếu cho người có hoàn cảnh khó khăn bằng tất cả sự trân trọng; thợ sửa xe không có lương tâm thì dùng nó mua ít đinh rải đường quốc lộ để tăng xác suất nâng cao thu nhập cá nhân hằng tháng của mình; người mong muốn đổi đời nhanh chóng thì cầm tiền lao đi tìm người bán vé số để đổi lấy tờ giấy xổ cố định vào mỗi buổi chiều; người lo xa và tiết kiệm thì cuộn hoặc gấp mười nghìn đồng lại rồi chọt vào cái khe, nhét vào cái lỗ trên vật thể được gọi là heo đất, v.v… Dù là hình thức nào thì kết quả cuối cùng là người sử dụng chịu trách nhiệm với chính hành động của họ, chúng ta không có quyền giật tờ mười nghìn đồng trên tay mà chưa có sự đồng ý của người khác để dạy họ cách tiêu tiền như chính mình được!

Lúc nhỏ tôi từng bị ăn tát khi lỡ tay làm hỏng một món đồ trị giá mười nghìn đồng của đứa bạn, trong khi nó có thể vứt nhiều tiền hơn thế vào trò chơi điện tử mà chẳng một chút tiếc nuối nào! Nhưng tôi không có quyền lên án điều đó, vì cơ bản tôi đã làm sai với nó trước. Sau lần đó, tôi thận trọng hơn trước khi mượn một món đồ cũng như dùng đồ của người khác. Khi lớn lên, tôi gọi đó là những cái tát đầy động lực, cũng như cái tát mà Gemma “tặng” cho Ruồi Trâu khiến anh quyết chí vượt biên sang Argentina xa xôi, dựng hiện trường tự tử giả, để rồi mười ba năm sau là sự trưởng thành nhận thức đến mức choáng váng; một vài tin tức về sự ra đi của nghệ sĩ Văn Hiệp mà tôi từng đọc được trên mạng cũng có nhắc đến cái tát “để đời” mà diễn viên Hòa Tâm dành cho ông khi thử diễn một cảnh khóc, đưa ông đến con đường nghệ thuật; và nếu đọc bộ manga (truyện tranh Nhật Bản) có tựa đề Glass Mask hoặc anime (phim hoạt hình Nhật Bản) có tựa đề Skip Beat trong lúc đang hụt hẫng, có thể bạn sẽ tự tát vào chính mặt mình khi nhìn vào nghị lực phi thường của Maya và Mogami Kyoko!

Cái tát đầu tiên làm tôi nhớ mãi, cho nên tôi suy nghĩ về cuộc sống này rộng ra hơn với khái niệm “lần đầu tiên”

Thứ nhất, thuyết phục lần-đầu-tiên là khó nhất, bởi vì những lần sau nếu người ta từ chối thì mình chỉ việc nói: tại sao hồi đó cho mà bây giờ lại không cho?!? Cái này không chỉ là nghiệm đúng của chuyện phòng the, giường chiếu mà còn dính dáng đến nhiều lĩnh vực khác nữa, ví dụ như tại sao lúc trước mấy chú cho dán áp phích, treo băng rôn mà bây giờ lại không cho dán, cho treo? Tại sao bữa nọ bác đồng ý vận chuyển vượt quá số lượng quy định mà bây giờ lại không chịu? Tại sao hồi đó bọn bây có gan làm khống số liệu mà bây giờ lại không dám làm nữa? Tại sao ngày xưa tao mua hàng có chiết khấu mà bây giờ lại không có? Tại sao v.v…

Thứ hai, lần-đầu-tiên thường để lại những tì vết. Khi đến liên hệ công việc với đối tác, nếu “vô tình” cho những người bảo vệ nơi ấy một-chút-vật-chất thì những lần sau bắt buộc phải xòe tiền, nếu không thì y như rằng bị hạnh họe, vặt vẹo đủ thứ. Vấn nạn đút lót cho cảnh sát giao thông, nhét tiền cho hộ lý trong bệnh viện, đưa phong bì cho hải quan cũng cùng chung khởi nguồn, vì lần-đầu-tiên-rất-thiêng-liêng-nào-đó người ta đã dùng tiền để giúp cho công việc được trôi chảy hơn, ít tốn thời gian hơn, kéo theo tư duy được lập trình quán tính bằng câu phát biểu xanh rờn, ngắn gọn và chắc chắn: tiền là công cụ bôi trơn hiệu quả nhất.

Thứ ba, lần-đầu-tiên bị che lấp bởi những lời đổ lỗi, lên án thiếu công bằng. Nếu có dịp đến Cần Giờ, nhiều người sẽ được khuyên là không nên mang theo thức ăn, mũ, máy ảnh, túi nylon, giỏ xách hay bất cứ thứ gì dùng để đựng khi vào khu vực đảo khỉ, bởi mấy con đó rất là “mấy dạy” và thích giựt đồ, có đánh đuổi cũng không chống lại được. Nhưng ít ai để ý rằng hành vi không đẹp của động vật bắt nguồn từ hành động xấu của con người: chính chúng ta đã chọc phá, ném cây, chọi đá, triệt nguồn thức ăn và đối xử thô bạo với chúng trước nên mới dẫn đến việc chống trả, khiêu khích, ngoan cố, chai lì và bất trị của chúng sau này. Nhưng hầu hết người ta đều viện lí lẽ: bọn khỉ như thế nên chúng tôi phải đối xử như thế, có gì sai?!?

Thứ tư, lần-đầu-tiên sinh ra bởi nhu cầu muốn đè bẹp người khác, đánh bóng vị thế bản thân bằng một giá trị khá ảo. Việc học sinh đi học thêm quá nhiều được đổ lỗi bởi: thầy cô dạy trên lớp quá nhanh, dạy không hiểu, làm bài điểm thấp, dẫn đến nhu cầu mở lớp dạy riêng. Từ đó phát sinh chuyện phàn nàn của những người không học thêm: thầy cô cho đề trên trường toàn là những bài mà họ đã cho học sinh tiếp xúc trước ở lớp do họ mở tại nhà, hoặc không học thêm thì sẽ bị đì sói trán. Vì vậy người ta phủ nhận sự nỗ lực của mình: có học cố xác thì điểm cũng thấp thôi, ít ai chịu nhìn nhận rằng họ chưa cố gắng đúng mức và không can đảm vượt qua sự tự ti, nhưng rồi sau đó chính họ cũng lon ton kéo nhau đến những lớp học thêm ấy, với nhu cầu đạt điểm cao hơn những đứa còn lại.

Tôi kể câu chuyện này không phải phê phán đức hạnh của người khác để khiến mình đức hạnh hơn, chẳng qua đó là cách nhìn nhận của tôi đối với cuộc sống, mà đã là quan điểm cá nhân thì chẳng có cái nào đúng hoàn toàn và cũng chẳng có cài nào sai tuyệt đối. Đều mang giá trị là mười ngàn đồng trong hệ thống lưu hành nhưng tờ tiền này khác với tờ tiền kia bởi số sê-ri, những đứa trẻ cùng được thụ hưởng một nền giáo dục hiện đại và nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhưng đến khi ra trường đứa thì làm việc đúng ngành, đứa thì làm việc trái ngành, vậy nên chúng ta đừng nên cố đồng nhất tất cả quan điểm lại với nhau, người cùng tư tưởng chưa chắc gì đã là bạn mình và người trái tư tưởng chưa chắc gì đã là kẻ thù của nhau.

 

Quách Dự Tây

Buông bỏ đi em

Featured image: Jonno

 

Em đã đau đủ chưa?
Hay em vẫn có thể chịu đựng nhiều hơn nữa
Em cứ như con thiêu thân lao đầu vào lửa
Em sẽ nhận lại điều gì?

Có những điều mà em phải quên đi
Phải buông tay thì em mới cảm thấy thanh thản
Một điều tưởng chừng như rất đơn giản
Nhưng sao em không làm được vậy em?

Hãy buông bỏ đi em
Em đừng tự giày vò mình như vậy
Em sẽ rất đau, rất đau đấy
Nhìn em như vậy, có nhiều người xót xa…

Em hãy buông bỏ ngày hôm qua
Giữ lại ngày hôm nay với bao nhiêu hi vọng
Nhìn về ngày mai luôn ngập tràn sức sống
Nhé em…!

Một Đời Quét Rác

8 bài học từ phim Mỹ

Featured image: Desperate Housewives

Phần lớn chúng ta đều thích xem phim, đó là một loại nghệ thuật, một hình thức giải trí phổ thông, đơn giản và dễ tiếp cận nhất. Tôi cũng rất thích xem phim. Tôi đã từng mê mẩn đến quên ăn quên ngủ khi theo dõi những bộ phim Hàn Quốc dài tập sướt mướt. Tôi cũng từng đắm say những bộ phim Thái thật dễ thương và tuổi thơ tôi cũng gắn liền với các thể loại viễn tưởng, kiếm hiệp Kim Dung. Nhưng khi lớn lên và hiểu biết nhiều hơn, tôi lại chỉ thích xem phim Mỹ, vì nó để lại cho tôi thật nhiều thứ để học hỏi và mở mang tầm nhìn.

Nếu phim Hàn gây ấn tượng tuyệt đối bởi dàn diễn viên xinh đẹp và nội dung phim ướt át cảm động, nhất là diễn xuất của các diễn viên trong phim quá tuyệt vời, xuất thần không chê vào đâu được. Họ có thể khiến khán giả khóc, khiến khán giả cười. Nhưng sau tất cả, những bài học mà phim Hàn mang lại cho tôi không nhiều, xem nhiều phim Hàn tôi rút ra được kết luận rằng, sống ở trên đời, chỉ cần xinh xắn, đáng yêu, hiền lành và một chút may mắn là kiểu gì tôi cũng gặp được hoàng tử bạch mã của mình. Đơn giản thật.

Còn phim Thái, phim Tàu thì thú thật là xem thì xem thôi, cười thì cười, cảm động thì cảm động, chứ chả rút ra được bài học gì hay ho bổ ích cả. Những bộ phim này theo tôi chung quy đều có một điểm chung duy nhất: “chỉ để giải trí vì quá dài dòng, ngốn thời gian và toàn những câu chuyện khó gặp ngoài đời”. Nhưng với những bộ phim Âu Mỹ thì khác. Nhất là bộ phim tôi đang theo dõi, bộ Những bà nội trợ kiểu Mỹ (tựa gốc tiếng Anh: Desperate Housewives). Một chủ đề nghe thật nhàm tai, tình huống cũng không xuất sắc nhưng nó miêu tả cuộc sống thực một cách rất thực tế, rất bình dị đời thường, những con người, tình huống ta có thể gặp mỗi ngày và nhất là nó khiến tôi phải suy nghĩ, chiêm nghiệm và học hỏi được vô vàn điều hay ho bổ ích. Dù công việc bận rộn, tôi vẫn luôn dành thời gian để xem phim mỗi tuần vài lần, hoặc mỗi ngày, đây không chỉ là thời gian giải trí mà còn thực sự là thời gian để tôi chiêm nghiệm về cuộc sống và học hỏi được rất nhiều điều. Đây là vài điều tôi rút ra từ rất nhiều bộ phim dài tập Âu Mỹ.

1. Quý trọng Thời gian

Không một bộ phim Mỹ nào bạn gặp được những cảnh thừa thãi tiêu tốn thời gian. Thời gian đối với họ sao mà quý giá, từng giây phút. Điều này thể hiện rõ trong từng nhịp sống thường ngày, mọi thứ đều nhanh chóng, gọn gàng, dứt khoát. Tôi đã ngạc nhiên quá thể. Họ chẳng nói chuyện dài dòng. Họ chẳng rào đón và chiêu trò phức tạp, thậm chí khi gặp người yêu hay đối tác, khách hàng, họ chỉ nói điều cần nói rồi đứng lên. Rất nhanh gọn, không màu mè, không hoa mỹ. Không biết ngoài đời họ có cư xử hành động theo cách dứt khoát, nhanh chóng như vậy hay không? Nhưng tôi thật sự nể cách họ tận dụng thời gian của mình vào mọi việc. Cách họ dứt khoát trong mỗi hành động việc làm thường ngày. Thật khó kiếm những cảnh chèo kéo, năn nỉ ỉ ôi, thật khó thấy những cảnh nhân vật ngồi hàng giờ suy ngẫm, thật khó kiếm những tình huống, những cảnh phim kéo dài lê thê bất tận như phim Việt hay những cung bậc cảm xúc biến đổi tuần tự miên man như phim Hàn. Mọi thứ đều gọn gàng, rất gọn gàng, mỗi phút giây đều quý giá và ý nghĩa.

2. Tôn trọng trẻ em và cách dạy con trẻ

Thật lạ lùng khi người ta trân quý trẻ em như bất cứ một người lớn nào, thậm chí còn hơn nữa. Khi cha mẹ cùng dạy con mà bất đồng quan điểm, khi cha mẹ nói những chuyện không hay hoặc không tốt, họ sẽ chủ động xin phép và đi ra chỗ khác nói hoặc kêu đứa trẻ tạm đi chỗ khác, khi trao đổi hoặc cãi nhau xong họ sẽ lại quay lại, tiếp tục dạy dỗ đứa trẻ.

Khi một đứa bé yêu cầu một cấn đề gì, họ thật sự xem xét yêu cầu đó, không như chúng ta chỉ cần phụ huynh muốn thì ý muốn của bọn trẻ chẳng có nghĩa lý gì. Tôi thích cái cách họ thông báo những tin tức quan trọng tới những đứa trẻ, cách họ bảo vệ con em mình khỏi những điều có thể gây hại. Tôi thích cái cách họ trả lời gần như mọi câu hỏi, thắc mắc của bọn trẻ kể cả khi đó là những câu hỏi tế nhị hoặc ngớ ngẩn. Những đứa trẻ trong phim Mỹ luôn được đối xử như người lớn với những quyền lợi và nghĩa vụ đặc biệt. Liệu đó có phải là lý do khiến chúng luôn cư xử như những người trưởng thành từ rất sớm?

Tôi đặc biệt thích những cảnh khi bọn trẻ xem phim và người cha hoặc mẹ nói không xem nữa, hãy đi học/đi ngủ hay làm gì đó, dù rất muốn xem, nhưng chúng vẫn phải tuên thủ mệnh lệnh, gần như tuyệt đối, có thể mang theo cảm xúc bực mình, tức giận, nuối tiếc, nhưng vẫn nghe lời. Đúng thế, bọn trẻ sao thật nghe lời, nói chúng đi ngủ, chúng sẽ lên giường. Nói chúng ăn, chúng sẽ ăn, dù thái độ không mấy vui vẻ. Nói bị cấm túc, chúng thở dài, kêu trời, nhưng không mấy phản kháng hay xin xỏ. Nói chúng không được đến bữa tiệc, dù đã sẵn sàng, chúng vẫn nghe theo. Rất tự giác. Lời nói của bậc cha mẹ trong phim Âu Mỹ sao trọng lượng đến vậy? Nhìn lại lời nói của phụ huynh Việt Nam, tôi không khỏi thở dài.

3. Cách sử dụng điện thoại

Nếu theo dõi một bộ phim Hàn bạn sẽ thường xuyên chứng kiến cảnh những diễn viên cầm trên tay những dòng điện thoại hiện đại nhất và thường xuyên sử dụng chúng, để nói chuyện, để nhắn tin, để chat, để đọc tin tức… Tôi không ngạc nhiên vì điều đó vì nó khá gần gũi với cuộc sống hiện thực của chúng ta. Còn có thể do phim thần tượng Hàn thường kết hợp làm quảng cáo cho các thương hiệu khá tốt. Nhưng khi xem phim Mỹ, tôi rất ngạc nhiên khi một đất nước hiện đại nhưng tần suất sử dụng điện thoại trong phim quá ít. Không biết ngoài đời thì thế nào, chứ trên phim thật hiếm khi thấy cảnh các nhân vật ôm chiếc điện thoại của mình để làm bất cứ gì, từ nhắn tin cho tới đọc tin tức. Ta thường chỉ thấy được hai cảnh sử dụng điện thoại trên phim Mỹ, hoặc là họ chụp hình thứ gì đó làm bằng chứng, hoặc là họ dùng nó để nghe gọi, thi thoảng nhắn tin. Vâng, chỉ thế thôi. Đó là điều tôi thấy qua các bộ phim. Họ sử dụng điện thoại cực ít và nội dung cuộc nói chuyện luôn luôn cô đọng, họ chỉ nói đúng những gì cần nói, không màu mè, không râu ria, không ề à. Ngắn gọn tới mức nếu cuộc gọi đó xuất hiện trong đời sống chúng ta, chúng ta sẽ bị nhìn như những dị nhân. Kiểu như “Xin chào, sáng nay tôi sẽ đến trễ 30 phút. Cảm ơn.”

Một đất nước hiện đại, mọi công nghệ hiện đại đều cập nhật đầu tiên, nhưng họ lại không quá phụ thuộc vào chúng như chúng ta. Rất nhiều cảnh trong phim tôi đã xem. Nếu họ muốn xin lỗi hay cảm ơn ai đó. Họ sẽ gặp mặt đối tượng để nói điều đó trực tiếp. Nếu họ muốn nói những điều quan trọng, họ cũng sẽ gặp nhau. Tin nhắn là thứ sau cùng họ chọn để giao tiếp và truyền đạt. Nếu như chúng ta, đôi khi mất chục tin nhắn qua lại để nói được điều cần nói thì họ chỉ cần nhấc điện thoại lên và nói luôn điều họ muốn. Thế là xong. Họ sử dụng điện thoại và công nghệ thật sự đúng với ý nghĩa của chúng: làm cho mọi việc thuận tiện, dễ dàng và tiết kiệm thời gian. Chúng ta thì hoàn toàn ngược lại. Chúng ta dùng điện thoại để giết thời gian, để kéo dài những việc đơn giản nhất, để trốn tránh và tỏ ra bận rộn.

4. Ai cũng có mặt tốt xấu

Một điểm tôi cực thích khi xem những bộ phim dài tập của Mỹ, đó là mọi nhân vật trong phim đều được khắc họa một cách thực tế, nghĩa là không thần tượng hóa nhân vật như các bộ phim khác: Hàn, Thái, Việt… Các bộ phim Hàn, Việt ta thường xem, thường chỉ có hai tuyến nhân vật: chính diện và phản diện, đại loại là thiện và ác, người thiện thì cứ gặp chuyện tồi tệ hoài cho tới cuối phim họ mới gặp được điều may mắn hoặc thành công mỹ mãn. Người ác từ đầu thường sung sướng sau đó sẽ thê thảm khi kết thúc. Đây là mô típ kinh điển nhưng thật là nhàm chán và phi thực tế. Chúng ta thừa biết trên đời này, ai cũng có mặt tốt mặt xấu, không thể có người nào tốt hết cả đời và càng không thể có ai sống xấu xa ác độc cả đời. Chẳng thể có những kết thúc có hậu kiểu cưới nhau về là xong, sẽ hạnh phúc mãi mãi như cách chúng ta làm kết cho các câu chuyện cổ tích. Những bộ phim Mỹ tôi xem, mọi nhân vật đều có những câu chuyện và lý do riêng cho mỗi hành động của họ. Khi xem phim, dù cho ai đó có hành động độc ác và xấu xa đến đâu, ta đều có thể thông cảm và thấu hiểu được. Mỗi người đều có mặt tốt và mặt xấu, chỉ là trong các trường hợp, mặt nào biểu hiện trội hơn mà thôi. Các tình tiết phim vì thế vô cùng logic, hợp lý và dễ chịu. Điều này có lẽ phim Việt Nam chúng ta nên học hỏi.

Nếu như trong bộ Trò chơi vương quyền, thật đau lòng khi các nhân vật anh hùng lần lượt chết cả, tôi rất bức xúc, nhưng đó cũng là điều hợp lý, ngoài đời liệu có bao nhiêu anh hùng thật sự sống từ đầu tới cuối thoát mọi hiểm nguy giống như phim ảnh? Và những gia tộc dù cho ác độc nhất, mỗi hành động của họ đáng nguyền rủa đến đâu cũng đều vì những lý do chính đáng, bảo vệ dòng tộc của họ. Điều mà chúng ta thường gặp ở ngoài đời, rất nhiều. Ngay cả trong đời sống thường ngày bộ Những bà nội trợ cũng vậy. Dù cho những nhân vật phản diện có tồi tệ đến đâu, bạn cũng không thể ghét họ, vì bạn thấy được những nỗi khổ tâm, những lý do và duyên cớ đẩy họ đến những hành động như thế. Mọi người đều có hai mặt, thiện và không thiện, phim Âu Mỹ khắc họa rõ nét hai mặt này, còn phim chúng ta thì không, người thiện chỉ có mặt thiện, người ác chỉ có mặt ác, điều này thật phi lý.

5. Sự độc lập

Tôi khâm phục sự độc lập của người Mỹ, từ những đứa trẻ vài ba tuổi tự mình mặc đồ, tự mình ăn uống, tự vui chơi một mình, cho đến những cô cậu thanh niên cứ 18 tuổi là sẽ rời xa gia đình. Không phải ép buộc mà chính họ thật sự khao khát điều đó. 18 tuổi, họ không còn sống dưới sự bảo hộ của cha mẹ, họ bắt đầu một cuộc sống riêng, tự kiếm nơi ở, kiếm việc làm, kiếm tiền đi học và duy trì cuộc sống. Chính nhờ sự tự lập này mà thế hệ trẻ của họ mới mạnh mẽ, kiên cường và tự chủ làm sao. 18 tuổi, họ tự quyết định mọi thứ trong cuộc sống của mình, chính thức chịu trách nhiệm hoàn toàn cho cuộc sống của mình, làm mọi điều mình muốn làm, đi mọi nơi mình muốn đi.

Sau đó là sự độc lập của những người vợ sau khi ly dị, mặc cho những nỗi đau nỗi hận, họ vẫn tự đứng lên, hiên ngang và vô cùng mạnh mẽ. Rồi tới  những ông bà già không cần ai chăm sóc, không cần con cái phải ở bên khi họ còn tự lo được cho mình. Có thể nói, độc lập là một nét văn hóa tuyệt vời chúng ta có thể học hỏi từ  các bộ phim Âu Mỹ.

6. Những giá trị văn hóa tốt đẹp

Xem phim bộ Mỹ, tôi như được trải nghiệm trong chính nền văn hóa của họ, và tôi mơ mình cũng được sống một cuộc sống như thế. Nơi mà người ta cư xử lịch thiệp với nhau, nơi mà người ta thường xuyên trao tặng nhau những món quà, vợ chồng, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp… Những món quà bé nhỏ ý nghĩa, thường là cái khung tranh, một chiếc tách, một món ăn, rất nhiều những bó hoa và thiệp chúc mừng. Tôi tưởng tượng những bữa tiệc ấm cúng, nơi người ta trưng bày đồ ăn thật đẹp, những ngọn nến, những bình hoa và những ly rượu vang. Ở đó, người ta mặc những bộ đồ thật đẹp, mang theo một chai rượu, cùng nhau ăn uống, trò chuyện, cụng ly và cười vang. Tôi mơ mỗi ngôi nhà của chúng ta mai sau cũng đều được xây cất đẹp đẽ hài hòa với những khóm hoa, bồn hoa rực rỡ. Những khu bếp đẹp tuyệt vời khiến bà nội trợ nào cũng muốn sà vào. Những đồ trang trí mang đậm dấu ấn chủ nhân và không gian riêng tư tuyệt đối của các thành viên trong nhà…

Tôi còn mơ về một cuộc sống, nơi luật pháp và văn hóa thật khác biệt, quá nhiều điểm hay ho. Nơi người ta có thể kiện nhau vì bất cứ lý do gì, đôi khi nhỏ như con kiến, điều này khiến người ta tuân thủ pháp luật hơn, một cuộc sống quy cũ hơn. Và đặc biệt, một cuộc xử án chỉ cần một thẩm phán (và hai luật sư nếu cần), thế là xong. Nhìn lại hệ thống luật pháp – tòa án của Việt Nam tôi không thể không ngán ngẩm, cả một hội đồng với hàng chục con người, cồng kềnh nặng nề thủ tục, cả buổi đọc những văn bản lê thê mệt mỏi và những lời lẽ nhiêu khê phức tạp rỗng tuếch chả để làm gì cả.

Là một người thích thể hiện tình cảm nên tôi cũng quá thích nền văn hóa đó, nơi mà người ta thoải mái thể hiện mọi tâm tư, tình cảm, ý nghĩ của mình. Tự do thông tin, tự do ngôn luận và cả tự do thể hiện tình yêu thương. Những hành động yêu thương là điều thật ngọt ngào và tốt đẹp (miễn không quá lố). Vậy tại sao chúng ta lại phải sợ hãi, ngại ngùng?

Tôi chết mê những hành động của những người yêu nhau trong phim. Họ tay trong tay đi bất cứ đâu, họ yêu nhau và không ngại thể hiện bằng những cái ôm, những nụ hôn, kể cả nơi công cộng. Vừa tình cảm nhưng cũng rất lịch sự, thật là thích.

7. Hài hước

Xem phim Âu Mỹ ta luôn cảm nhận được chất hài trong từng câu nói, từng điệu bộ ngôn ngữ cơ thể. Tất cả đều rất tinh tế và ý nghĩa. Không phải là những hành động quá lố, những kiểu cười chọt lét. Sự hài hước của phim Âu Mỹ đến từ từng câu đối thoại, vô cùng thông minh, vô cùng thâm sâu và vô cùng hài hước. Từ một đứa trẻ đến cậu thanh niên, bà nội trợ hay ông cảnh sát, vị bác sĩ hay một chính trị gia… Tất cả đều có tố chất hài hước tuyệt vời. Những câu nói, cười nhưng thật là thấm, thật là ý nghĩa. Bất cứ một tập phim Âu Mỹ nào coi xong tôi đều để dành được cho mình những câu đối thoại thông minh và hài hước, nếu chép tất cả chúng lại, có lẽ cũng đủ để tôi in thành sách mất. Và nếu có thể vận dụng được những tình huống hài hước đó vào thực tế, có lẽ tôi sẽ trở thành người hài hước đáng yêu nhất trên đời.

8. Quan niệm về hôn nhân

Quá khác biệt với quan điểm hôn nhân của chúng ta, nhưng bản thân tôi thấy nó có những điểm rất hay đáng được học hỏi. Sau khi kết hôn, nếu cảm thấy không thích hợp, không hạnh phúc, họ chia tay. Nhẹ nhàng và thanh thản. Mỗi người mỗi lối không ai can dự đến ai. Rất nhanh sau đó, họ lại tìm thấy tình yêu nơi một người khác, và cuộc đời lại đẹp như ban đầu. Không quá nhiều những giọt nước mắt, hận thù và đau đớn. Họ thật mạnh mẽ. Nhìn lại cuộc sống tại Việt Nam, tôi ngạc nhiên khi thấy biết bao nhiêu con người không còn yêu thương, không còn tình cảm với người bạn đời của mình, nhưng vẫn gò ép để sống trong một cuộc sống như địa ngục. Lý do thường gặp là vì con cái. Xin thưa chẳng con cái nào muốn chứng kiến cảnh cha mẹ mình như những cái xác không hồn, những trận cãi vã thậm chí những màn động tay động chân. Ngược lại tôi thấy cuộc sống của đứa trẻ khi ba mẹ ly dị như trong phim Mỹ thật thích. Chúng có hai nhà để về, hai gia đình chăm nom. Cuộc đời vẫn hạnh phúc bình thường. Bất cứ ai còn quan niệm rằng, hôn nhân là phải sống với sự lựa chọn của mình cho đến chết, kể cả khi nó là sai lầm khủng khiếp, người đó thật đáng thương.

Tôi yêu cái cách những ông chồng trong phim Âu Mỹ chăm sóc gia đình của họ. Cách họ chăm con, cách họ đưa con đi chơi mỗi cuối tuần. Cách họ nói chuyện, dạy dỗ con cái như những người bạn. Cách họ kiên quyết không chiều theo ý thích của con, cho tới cách họ phụ giúp người bạn đời của mình trong mọi việc. Cách họ khen ngợi người bạn đời và động viên tinh thần họ những lúc khó khăn. Xin minh họa với bạn bằng ba mẩu đối thoại ngắn tôi vừa xem trong một tập phim Những bà nội trợ kiểu Mỹ.

“1. – Tom này, tôi biết thời thế đã đổi thay nhưng đàn ông thì vẫn là đàn ông, vẫn là trụ cột gia đình, tôi nghĩ vợ a nên tôn trọng a hơn.
– Cô ấy luôn tôn trọng tôi, Roy à, nhưng có điều này ông cần biết về Lynett. Từ nhỏ cô ấy đã mồ côi cha, mẹ thì nghiện rượu thường xuyên. Cô ấy đã phải trở thành trụ cột trong gia đình từ khi còn rất trẻ. Chính vì thế sâu trong lòng cô ấy luôn cảm thấy bất an và sợ hãi. Cô ấy cần và muốn kiểm soát tất cả mọi thứ trong cuộc sống. Khi biết mình có thể kiểm soát mọi thứ, cô ấy mới thấy yên tâm. Nhưng ông biết đấy, chúng ta, không ai có thể kiểm soát mọi thứ được. Tôi biết điều đó, nên tôi đã cố tình để cho Lynett kiểm soát chính tôi. Ít nhất trong cuộc sống này, có một thứ cô ấy luôn kiểm soát được, là chính tôi. Đó là cách tôi thực hiện nghĩa vụ làm chồng của mình. Cô ấy sẽ luôn cảm thấy an toàn và yên tâm bên tôi. Tôi chỉ cần thế thôi.


2. – Lynett à, a k muốn e trở thành người hoàn hảo.
-Tại sao?
– Vì chính anh không phải là một người hoàn hảo. A k giàu, a chẳng tài giỏi gì và càng k đẹp trai bằng ai. Nếu như e hoàn hảo, mỗi sáng thức dậy bên e a sẽ luôn phải tự hỏi mình rằng: “Tại sao người phụ nữ này lại cưới tôi? Liệu tôi có xứng đáng với cô ấy?” Vậy nên, xin e đừng hoàn hảo.


3. – Calos, e thật là một người mẹ tồi, e bỏ mặc bọn trẻ hơn bất cứ bà mẹ nào khác. E thật tệ hại.
– Thôi nào Gaby, e k thấy sao, khi xảy ra chuyện, trong khi tất cả những đứa trẻ khác khóc lóc chạy về với mẹ thì con chúng ra, một đứa thì chạy liền vô nhà banh và đóng cửa lại, một đứa thì nằm giả chết. Chúng thật là thông minh, thật là nhanh nhẹn đúng k? Làm sao chúng có thể được như thế nếu như e cũng như những bà mẹ khác luôn luôn chạy theo từng bước chăm sóc chúng? Rồi đây con chúng ta sẽ trở thành những đứa trẻ mạnh mẽ và tự lập, không phải tất cả là nhờ sự dạy bảo của e sao? Đừng suy nghĩ nữa.”

Tuy có rất nhiều điều hay ho để học hỏi từ những bộ phim dài tập Âu Mỹ, nhưng tôi không thích hoàn toàn nền văn hóa của họ. Nơi mà những bậc phụ huynh quá tôn trọng con cái tới mức không dám dùng các biện pháp mạnh hơn để dạy dỗ chúng dù cho chúng hư quá là hư. Tôi không thích cuộc sống vợ chồng mặn nồng thắm thiết nhưng lại có thể ly dị quá dễ dàng đôi khi chỉ vì những lý do vớ vẩn, những mâu thuẫn thường ngày vụn vặt. Tôi không thích cảnh người ta tống cha mẹ già của họ vào viện dưỡng lão, cũng không thích một cuộc sống mà người ta quá dễ chết vì nhiều lý do, gần như bộ phim nào cũng có những người không còn cha hoặc mẹ… Tôi không thích rất nhiều điều trong nền văn hóa này. Nhưng nếu so với mọi nền văn hóa khác, như Hàn, như Thái, như Nhật… thì tôi thật sự muốn được học hỏi từ họ, từ nền văn minh của họ. Không chỉ xem phim và ngưỡng mộ, nhất định tôi sẽ học tập từ họ những nét đẹp văn hóa hay ho. Tôi sẽ giáo dục con cái mình thành những cá thể độc lập, mạnh mẽ. Tôi sẽ trân trọng thời gian và những giá trị của cuộc sống. Sau này khi có gia đình, tôi sẽ thường xuyên tổ chức những bữa tiệc ấm cúng, nấu những món ngon, trang hoàng bàn ăn rồi mời bạn bè, hàng xóm đến chung vui. Tôi sẽ tặng cho người thân của mình những món quà ý nghĩa. Và nhất là tôi sẽ không bao giờ bắt ép bản thân phải trói mình vào những cuộc hôn nhân tồi tệ. Tôi sẽ mạnh mẽ tìm lấy những hạnh phúc của chính mình. Tôi sẽ thấu hiểu người khác và những hành động của họ nhiều hơn, tôi sẽ tin yêu và tôn trọng con cái của mình… Cám ơn những bộ phim Âu Mỹ mà tôi đã xem.

Còn bạn? Bạn học được những gì từ bộ phim bạn đang xem?

Khi một đất nước đang phát triển

Photo: Pedro Alonso

 

Thời gian vài năm trở lại đây, khi mà các nhà báo dần dần đưa ra ánh sáng nhiều lỗi lầm hơn của cấp lãnh đạo Việt Nam, của giới kinh doanh vô đạo đức, của tình trạng bạo lực giết chóc, vô nhân tính tràn lan, của ô nhiễm môi trường trầm trọng, của diện tích rừng bị thu hẹp, của thú vật bị giết quá nhiều đe dọa tuyệt chủng thì mỗi chúng ta đều hốt hoảng nhận ra một sự thật rằng: Đất nước đang trong thời kỳ báo động đỏ. Có lẽ, từ xưa tới giờ mọi người vẫn biết đó thôi, nhưng đều cố gắng bơ đi để mà sống, vì chẳng biết làm gì hơn. Nhưng đã đến lúc, giấy đã không còn có thể gói được lửa, sự thật không thể mãi che dấu, mỗi chúng ta mới bàng hoàng nhận ra rằng, mọi thứ thật cấp bách với đất nước này.

Vậy từ đâu mà mọi thứ lại trở nên xấu xí quá đỗi đến vậy?

Có một điều khách quan mà trước hết, ta phải thừa nhận là, bất cứ một đất nước nào trong thời kỳ phát triển cũng phải đi qua một giai đoạn đầy khó khăn và bất cập cả. Bất cứ nước Âu Châu nào cũng từng bị ô nhiễm không khí rất nhiều trong thời kỳ quá độ, đơn cử là thủ đô Luân Đôn của Anh cũng đã từng bị ô nhiễm không khí khủng khiếp gây chết người năm 1873 để có thể được như ngày nay.

Không khí chỉ là một trong các vấn đề của một đất nước đang phát triển còn nhiều thứ phải lo toan, dĩ nhiên là không thể chu toàn hết tất cả ngay được. Một lý do mà chúng ta có thể tạm lấy để tự trấn an, lấy làm tấm bình phong, tha thứ cho mình được.

Lý do thứ hai dẫn đến tình trạng này, nói thẳng trắng trợn ra là những người lãnh đạo đất nước đã quá thiên lệch về xây dựng chế độ. Xây dựng chế độ và xây dựng đất nước không phải lúc nào cũng là một. Khi mà chúng ta bỏ công sức quá nhiều cho xây chế độ, dĩ nhiên ta không còn bao nhiêu khả năng để xây dựng kinh tế nữa – một vấn đề cốt yếu để tồn tại. Nói đến đây, tôi phải nhắc lại câu nói của cha ông ta: Phú quý sinh lễ nghĩa, bần hàn sinh đạo tặc. Câu nói đó đến nay vẫn toàn vẹn giá trị cho đến bây giờ. Rõ ràng, trộm cướp ngày nay bạo dạng, hung ác hơn xưa nhiều (vì áp lực và cách biệt giàu nghèo lớn quá). Xét theo khía cạnh đó, những nhà kinh doanh vô đạo đức cũng có thể được xem như một tên cướp cạn, trắng trợn giữa ban ngày, không quên cho thêm tí thuốc độc (ngành thực phẩm, hệ thống xử lý chất thải).

Trong việc đi kèm với xây dựng đường lối xã hội chủ nghĩa, nhiều kẻ đã bán đi nhân phẩm của mình để dễ dàng trục lợi hơn cho bản thân và gia đình họ. Tham quan làn tràn khắp mọi nơi, báo đài ngày nào cũng nói, thất thoát tiền bạc đóng thuế của dân và tiền cứu tế lẽ ra những con người khổ cực đã phải được nhận.

Với cái phong thái “xây dựng đất nước” đó, đất nước phát triển ỳ ạch như một con rùa bò. Mà càng phát triển chậm và kéo dài giai đoạn “quá độ” thì đất nước càng đứng ở giữa ngã ba đường, chịu nhiều bất cập thêm nữa. Mỗi ngày trôi qua, ngột ngạt vẫn hoàn ngột ngạt, xám xịt không thấy lối thoát.

Vì nhìn đâu cũng không thấy lối thoát, chẳng thấy động thái rõ rệt, quyết tâm gì của các cấp lãnh đạo, nên dẫn đến lý do thứ ba, là chúng ta!

Mỗi quốc gia phát triển phải có sự đóng góp của người dân. Kể cả ở Mỹ, người dân phải mỏi mồm mỏi miệng phát biểu và lên tiếng rất nhiều để cải thiện mọi thứ. Họ phải tự thân đấu tranh cho họ; kiểu: Muốn có cái gì thì tự đi mà giành lấy. Còn ở ta, mỗi người dân, hoặc là trông chờ vào nhà lãnh đạo, hoặc là không nhìn thấy tương lai. Do đó mà ở ta có phần mất niềm tin, từ đó chọn cách chúng ta hành xử là bơ đi mà sống. Phải, tôi đau xót phải nói rằng, phần lớn rất lớn chúng ta đã chọn cách im lặng, không nói gì cả; theo đúng kim chỉ nam có trong câu nói của người xưa – một tấm bình phong khác khá là chắc chắn (kiểu: nói có sách mách có chứng) mà ta có thể núp được: Đèn nhà ai nấy rạng, tuyết nhà ai nấy quét.

Tôi biết nhiều sự thật đằng sau cách mà người ta chọn phớt lờ. Không phải vì họ mất trí hay mất hẳn nhân tính. Trong những ánh mắt của người dân, tôi thấy người ta khao khát được sống hạnh phúc và quan tâm nhau hơn, nhiều người tỏ vẻ tiếc nuối, bất lực vì không giúp được người bị nạn, nhưng họ không dám chạm vào. Họ không dám giúp ai vì sợ liên lụy, phiền toái; họ không dám chạm vào việc phê bình ai đó trong bộ máy nhà nước, vì làm như thế là tự chuốc họa vào thân. Có lẽ, chẳng phải mình tôi biết điều đó, tất cả dân tộc này biết cái tình trạng mà đất nước đang vướng mắc. Trong mắt mọi người, họ nhìn nhau đầy cảm thông trước những tình trạng vô cảm.

Nhưng chúng ta đã nhầm, dù thông cảm với nhau cách mấy, trong tận sâu thẳm tâm hồn mình, chúng ta biết, ta vẫn không bao giờ có thể tha thứ cho mình hay cho người mà ta nhìn vào mắt vì những gì họ đã phớt lờ. Chúng ta không bao giờ có thể tha thứ cho mình vì đã nhìn đất nước ngày càng đi vào chỗ tồi tệ hơn.

Rất tiếc rằng, “riết rồi cũng quen”, một cụm từ quen thuộc với việc chúng ta bơ đi mà sống trước những thách thức thời đại mà không trước thì sau mỗi người phải đối mặt. Một câu khác cũng nghe xót lòng không kém: “Việt Nam mà!”. Không biết có ai đã từng nghe 2 cụm từ trên hay chưa, nhưng tôi thì nghe hoài. Nhưng chúng ta chấp nhận tất cả, kể cả đi xuống vực, vì hàng tá lý do mà chúng ta “có thể thông cảm được”.

Tôi đã thông cảm rất nhiều, chúng ta đã thông cảm cho nhau rất nhiều, về cách mà chúng ta đối xử với dân tộc mình. Những điều đó nghiễm nhiên trở thành thứ gọi là “luật bất thành văn”.

Vậy là chúng ta, nhìn cho đến tận cùng, nên thừa nhận rằng, người Việt là một dân tộc lười biếng. Dĩ nhiên là đa phần chứ không phải tất cả. Lười biếng đấu tranh, lười biếng lên tiếng, lười biếng giúp đỡ, lười biếng cải thiện, lười biếng đổi mới… Chúng ta hoạt động với những hệ thống cũ rích của giáo dục, của hành chính, cũng như trong cách nhìn nhận thế giới ngày nay về góc cạnh văn hóa, văn minh. Thử nhìn mà xem, bao nhiêu bài báo chê bai đàn ông Việt Nam nhậu nhẹt quá nhiều, cà phê cà pháo quá nhiều, ham chơi và hưởng thụ quá nhiều? Thậm chí chúng ta cũng lười đi bỏ rác vào thùng nếu không có sẵn thùng rác ở đó, và ở Sài Gòn, ngay sau công nhân vệ sinh làm việc buổi sáng, một số nơi đâu lại vào đấy, không chút văn minh, mặc dù giữ vệ sinh không khó, cũng chẳng tốn tiền, nó chỉ tốn chút công bé nhỏ.

Tạm bỏ qua những thói hư tật xấu và bất cập, bởi vì không kể sao chi hết. Giờ, hãy nghĩ đến góc nhìn khác.

Chúng ta bảo chúng ta “quen rồi”! Quen với bối cảnh đó rồi. Nhưng có thực sự như thế không nhỉ? Hay chúng ta nên biết, chúng ta sống trong một môi trường, cùng gắn kết với nhau. Rằng, khi thành phố ô nhiễm không khí, toàn dân phải hít bầu trời đó; khi nước ô nhiễm, hàng triệu người uống phải nó (1/3 dân số Sài Gòn sử dụng nguồn nước không đảm bảo an toàn); khi thức ăn độc hại, muôn vạn người cũng phải cố gắng nuốt nó vào bụng để tiếp tục sống. Nói một cách, có thể là hãi hùng hóa, chúng ta đang bị đe dọa đến quyền được sống, quyền thấp nhất của loài người. Không khí, nước, và thức ăn của chúng ta đã ô nhiễm mà khu chịu hậu quả nặng nề nhất là thành thị. Tôi tin không ai quen với ô nhiễm, không ai quen với sự đe dọa cho được cả, nhưng là vì, tự dối gạt mình, rằng nó không sao khi chưa thấy hậu quả.

Bởi vậy, không có chuyện một người làm bậy cho muôn vàn người khác chịu hậu quả, còn mình thì có thể bảo vệ được gia đình mình ; không có chuyện một người tẩm thuốc vào dưa leo hay bất cứ thực vật nào để trục lợi nhưng vẫn mua được dưa leo tốt cho chính mình, bởi vì người khác sẽ ganh đua, bắt chước và làm theo. Cứ xét tiếp theo cách đó, một người làm ô nhiễm môi trường, trước hết là anh ta sẽ chịu hậu quả, sau đó người khác sẽ làm theo, và hậu quả khôn lường cộng hưởng ngày một trương phình ra.

Còn một điều tồi tệ nữa đang xảy ra, đó là đất nước chúng ta đang ở thời kỳ dân số vàng, người trẻ trong độ tuổi lao động đang rất phơi phới. Nhưng thay vì chúng ta có thể phát triển thần kỳ như Nhật Bản thì bây giờ ta vẫn chưa sản xuất nỗi một con bu lông, ốc vít nào. Và đất nước sẽ lâm vào tình trạng như Hàn Quốc hiện nay, thậm chí tệ hơn là người già bị bỏ rơi phải đi ra công viên làm gái đối với các bà già 60; trong khi đó, Hàn Quốc đã rất mạnh về kinh tế nhé. Hãy tưởng tượng một viễn cảnh tệ hơn chút đi, vì với tốc độ phát triển ốc sên này, chúng ta không thể so với Hàn Quốc nỗi, khi mà lớp người trẻ này sẽ già sau một thế hệ hai mươi lăm năm nữa, gánh nặng sẽ trút lên đầu giới trẻ ít ỏi thời đó, rồi kết quả sẽ là chúng không gánh nỗi. Ngần ấy con người trong một đất nước với dân số không hề ít ỏi này sẽ đi về đâu?

Đất nước đang phát triển, như một người trẻ vừa mới lớn, như một thanh niên mới khởi nghiệp, còn muôn vàn thứ phải lo toan, chờ đợi phải giải quyết, phải đối mặt. Thách thức của thời đại đang treo lủng lẳng trước mặt, sau hai mươi lăm năm nữa, nếu chúng ta không tự lo cho bản thân mình, dân tộc ta sẽ trở thành một dân tộc ăn xin, nhờ vả ngoại quốc, xin trợ cấp và sự giúp đỡ mất thôi. Rồi điều mà ai cũng biết, không ai cho không ai cái gì, người ngoại quốc sẽ giúp đỡ kèm theo các điều kiện và có nhiều quyền hành hơn đến dân tộc này. Chả lẽ, phải đợi đến khi đó, chúng ta mới vỡ lẽ ra một điều muộn màng rằng: Đáng ra chúng ta nên thức tỉnh sớm hơn?

Tôi không cố tình dìm hàng đất nước hay coi thường dân tộc, ngược lại, tôi mong mỏi rất nhiều là đằng khác. Cứ mỗi một bài viết, tôi hi vọng sẽ có thêm dù chỉ là một người hiểu những gì tôi nói, và anh ta/cô ta sẽ bắt đầu lên tiếng hay bất cứ việc gì có thể để giúp đất nước mình không đi vào ngõ cụt.

Bạn hỏi tôi thế thì phải làm sao, tôi nghĩ bạn biết bạn phải làm sao. Thường thì khi một người hiểu điều gì đang xảy ra, họ sẽ biết phải làm sao với khả năng của họ. Và tôi đoán là bạn đã hiểu chuyện gì đang xảy ra rồi!

Có lẽ, điều quan trọng nhất để Việt Nam có một chỗ đứng của mình trên thế giới, trước hết là phải tạo lập một nền văn hóa có điểm nhấn riêng cho mình. Điều mà từ lâu tôi đã muốn nói, con đường đi tắt đón đầu của Việt Nam không còn là khoa học công nghệ hay kiếm tiền gì nữa, hơn trên cả thảy thứ đó, là lòng yêu thương, là lòng đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ có một dân tộc đại đoàn kết mới làm các quốc gia khác kính nể. Một khi dân tộc này đoàn kết lại, đừng nói là loài người, thần thánh cũng không thể phớt lờ chín mươi triệu con người đâu.

Hi vọng là chúng ta sẽ đoàn kết hơn, không chỉ hơn mà phải hơn nhiều thời gian mà chúng ta đã từng xao nhãng trước kia. Đoàn kết trong từng chuyện nhỏ hàng ngày, ứng xử với nhau lịch thiệp, quan tâm nhau những điều nhỏ nhoi thay vì ganh tị hay thù ghét, tôn trọng nhau hơn, không chửi lén sau lưng, không tìm những mưu mẹo vặt để qua mặt nhau vì đã có quá nhiều người nói người Việt ta khôn vặt rồi, hẳn bạn cũng không muốn nghe nữa. Từ những chuyện nhỏ nhặt, chúng ta hãy giúp đỡ nhau, chỉ có vậy mới mong tiến đến việc lớn hơn được.

Có thể bạn không tin, nhưng tôi và vài người khác đã nhìn thấy một cơn sóng đang bắt đầu vỗ mạnh hơn, trào dâng hơn trong lòng đất nước này. Trên đời này, cái gì có lên thì phải có xuống, khi cực suy là lúc khởi thịnh, và tôi nghĩ đó chắc chắn phải là lúc này, đất nước này phải đi lên và chỉ có từ lên cho tới lên thôi, ít nhất là trong vòng một thế hệ nữa. Ngần ấy thời gian có lẽ đủ để chúng ta làm nên những điều mà thần thánh cũng phải gật đầu.

Cuối cùng, hãy thôi cái điệp khúc so sánh tộc Việt với Nhật, Mỹ hay bất cứ nước nào. Thôi ngay cái trò vớ vẩn nghĩ rằng dân tộc ta thông minh hơn dân tộc kia hay kém sắc sảo bằng dân tộc nọ. Nghe này, chúng ta cũng như họ, đều là con người như nhau cả, như nhau cả thôi! Và nếu có gì đó làm ta đi nhanh hơn họ, là vì ta đã quyết không cưỡi ngựa xem hoa nữa. Vậy thôi!

Hãy nhớ, đừng chỉ dừng ở hi vọng, biến nó thành khát vọng đi!!!

 

Lục Phong

Begin Again, thứ hai lại là một tuần mới

Featured image: Cảnh trong phim

 

Chủ nhật tuần trước, tôi ngồi xem Begin Again. Nếu bạn hỏi tôi phim có hay không, tôi sẽ trả lời: “Keira xinh ở mọi góc nhìn, Adam bị dìm hàng tơi tả, nhạc phim tuyệt vời” và quan trọng hơn… “bộ phim chính là dành cho bạn, nếu bạn đang thất tình.”

Trước tiên hãy nói về thất tình

Thất tình có hai nghĩa nhé, một là bảy thứ cảm xúc của con người (trong thất tình lục dục), hai là mất đi tình cảm. Mất đi tình cảm thì có thể là: ai đó không còn dành tình cảm cho bạn hoặc bạn không còn tình cảm cho ai đó nữa – đá hoặc bị đá.

Nhưng thất tình cũng chẳng có gì to tát. Thất tình giống như bạn chạm vào cái bếp điện lúc nó đang nóng, sau đó bạn bị bỏng. Bị bỏng không có nghĩa là bạn sẽ vứt cái bếp đi, cũng không phải là bạn sẽ không bao giờ bước vào căn bếp lần nào nữa. Đơn giản, bạn biết cách sử dụng nó hợp lí, tránh cho mình bị bỏng lần nữa. Bạn sẽ thông minh hơn, kinh nghiệm hơn. Chắc chắn!

Tuy nhiên, không có nghĩa là muôn đời bạn sẽ an toàn với cái bếp đâu. Lần sau có thể vẫn gặp tai nạn đấy. Một lần thất tình, rồi hai, ba lần thất tình là chuyện bình thường. Nhưng có một điều chắc chắn, bạn sẽ không cùng lặp lại một sai lầm, có nhiều lí do khác nhau. Điều quan trọng không phải là thất tình hay bị bỏng, hay cái bếp dở hơi cám lợn đó. Mà là cái đam mê làm bếp của bạn ngày một lớn hơn, bạn vẫn vào bếp, được nấu ăn, nấu ra những món ăn ngon chính xác là điều bạn quan tâm.

Tin tôi đi, thất tình chẳng có gì to tát đâu. Nếu bạn cho nó là to tát thì còn lâu bạn mới bắt đầu cái gì mới được. Bạn sẽ mất niềm tin vào mình, vào người, vào tình yêu. Còn nếu coi thất tình như một tai nạn, bạn chẳng mất gì. Người người xung quanh vẫn ổn, bạn vẫn ổn và tình yêu vẫn là thứ làm bạn say mê. Hãy sống như một người bình thường, vì vốn dĩ cuộc sống vẫn tiếp diễn bình thường, bạn vẫn luôn bình thường, lành lặn và khỏe mạnh.

Begin Again: Đến thứ hai, một tuần lại bắt đầu

Thời gian lặp lại, không có ý là cuộc đời chúng ta lặp lại. Chúng ta khóc, rồi chúng ta cười. Người đến rồi người đi. Chúng ta lên rồi xuống (up và down). Chẳng có gì lặp lại ở đó. Chỉ có một quy luật chi phối tất cả: “Chuỗi bắt đầu – kết thúc sẽ lặp đi lặp lại.”

Tôi đã từng xem Once, bộ phim không làm tôi hào hứng lắm. Tôi thấy ngạc nhiên khi mọi người bảo Once là một bộ phim trong veo. Tình cảm không đi đến đâu, người người gặp rồi lại tan mà chẳng có kết luận nào được đưa ra. Nhưng đôi khi, cuộc sống là một cái nhìn mở như thế. Không ai ràng buộc ai, chúng ta có thể kì vọng, nhưng hãy xem người khác có đồng ý với kì vọng đó không, nếu như kì vọng ấy thật là có liên quan tới họ. Viết đến đây, tự dưng, tôi đã hài lòng với Once. Không còn lên tiếng chê bai nữa. Để tôi nói bạn nghe, nữ chính của Once rất xinh, cô có đôi mắt sáng, đôi mắt của người theo đuổi đúng đam mê. Tôi cho rằng, người nghệ sĩ luôn vui, khi diễn tấu niềm vui lẫn diễn tấu nỗi buồn. Niềm vui của họ không hệ tại trong bài hát đó, mà đến từ hạnh phúc được làm điều mình yêu thích: chơi nhạc.

Tôi nhớ lại một vài bức ảnh mình đã chụp được. Và tôi nhớ ra, chẳng có nỗi buồn nào trong đó, chỉ có niềm vui mà thôi. Niềm vui khi tôi và hình ảnh ấy được nối kết. Có thể là nối kết với một hạnh phúc, hoặc nối kết với nỗi buồn trong lúc tôi bấm máy. Đẹp và tươi như bài hát Bắt sóng cảm xúc.

Once là tác phẩm trước của đạo diễn Begin Again. Đến đây, một là bạn xem phim đi, hai là bạn nghe tiếp những điều vụn vặt của tôi, bỏ mặc những ngạc nhiên thú vị mà một bộ phim chưa từng xem có thể mang lại cho bạn.

Begin Again có những tình tiết giống Once, lại chuyện sản xuất một album, lại chuyện những người có một trái tim không khỏe tìm đến nhau và dùng âm nhạc để hàn gắn. Chuyện về những người ở sau ánh đèn sân khấu, hoặc làm nền trên sân khấu. Các nhạc sĩ viết nên những bài hát ở góc phòng, bàn làm việc, quán cà-phê hay trạm xe bus ven đường. Họ không viết nhạc trên sân khấu. Mở ngoặc thêm, Lê Cát Trọng Lý từng kể lại chuyện sáng tác bài Con đường lạ trong một show diễn. Mọi người cười khúc khích vì chia sẻ quá hồn nhiên, quá đáng yêu của chị. Hay bạn có thể xem TED talk của Elizabeth Gilbert: Con người thiên tài trong bạn, bạn sẽ hiểu hơn về sự “vớ vẩn” của dân sáng tạo là làm sao. Những nhạc công, nếu không solo thì họ sẽ cùng nhau làm thành một tập thể, hòa trộn âm thanh của nhau để tạo nên một âm thanh chung tuyệt vời hơn gọi là giai điệu. Bởi vậy, sự đồng điệu giữa họ với nhau rất lớn. Lớn hơn một ca sĩ và một nhạc sĩ, hay một ca sĩ và dàn nhạc. Begin Again, trước nhất đã là một sự bắt đầu lại với câu chuyện từ Once. Khi bạn đọc truyện của cùng một tác giả, bạn hay có cảm giác là nó chán nhàm, vì một mô-típ cũ ấy cứ được lặp đi lặp lại. Theo tôi, đó là một cách để một tác giả tạo dựng phong cách, họ không nhất thiết phải nghĩ ra một cái gì đó hoàn toàn mới, mà: làm mới cái cũ như thế nào, cân nhắc thời gian sáng tác ra sao để họ đủ năng lượng tái tạo – không đi theo lối mòn suy nghĩ. Mặt khác, thời gian cũng quan trọng với người tiếp nhận. Người tiếp nhận, cần thời gian vừa đủ để đọc, để xem và cần một thời gian vừa đủ sau khi xem để thấy một câu chuyện lại được kể, nhưng đây là một hoàn cảnh khác, một con người khác, không có gì thực sự lặp lại.

Once đã tạo ra được những phân cảnh âm nhạc thực sự gợi cảm hứng. Begin Again lại còn làm điều đó tốt hơn. Sự góp mặt của Adam, sự bất ngờ từ Keira, sự góp giọng của Ceelo quái không chịu được, sự hòa trộn âm thanh… tất cả tạo nên một bộ phim âm nhạc thực sự gợi hứng. Keira diễn rất nhập vai, cô thực sự là một nhạc sĩ. Hát bằng cảm xúc trong veo, cảm thụ âm nhạc bằng cái tôi riêng – chính cái tôi đã đâm chồi cho những tác phẩm của cô. Cô nhìn thấu cảm xúc của người khác như người nhạc sĩ nhìn thấu âm nhạc. Tôi lại mạn phép đan xen ý kiến cá nhân vào đây: những người làm nghề sáng tác, thực sự có khả năng thấu cảm và nhìn thấu người khác. Tôi muốn nói đến những: họa sĩ, nhạc sĩ, nhà văn, nhiếp ảnh gia hiện đại, đạo diễn… Họ là những người dùng chất liệu để sáng tạo, không phải sao chép, không phải chụp lại, không phải trình diễn lại những thứ từ người khác, từ xung quanh, như: nghệ sĩ vẽ chân dung, vẽ tranh thực cảnh, như ca sĩ, như nhiếp ảnh gia thông thường, nhạc công chỉ chuyên chơi lại sáng tác của người khác. Tôi không nói họ không sáng tạo, nhưng so với lớp người đầu tiên mà tôi kể, những người lớp sau này sáng tạo ít hơn. Họ có khả năng mô tả, đánh giá nhiều hơn là khả năng sáng tạo. Họ kiểm soát cảm xúc tốt hơn, dung hòa và ý nhị hơn, ít đề cao cái tôi, ít “tưng tưng”, ít “mong manh” như lớp đầu. Thậm chí là họ chuyên nghiệp hơn, sắc sảo và cứng cựa hơn…

Tôi thích cái cách Gretta (Keira) – nhạc sĩ, hát Like a fool, y nguyên cảm xúc của một cô gái thất tình, bộc trực, tự nhiên. Tôi thích cái cách Dave (Adam) hát rồi quên mình trong đám đông, để không phải Dave bộc lộ mà chính Gretta nhận ra, cô ở đâu trong trái tim của anh chàng ấy. Tôi thích sự tưởng tượng và máu phiêu lưu của Dan. Dân sáng tạo thực sự nghĩ bạo, mà không những nghĩ bạo còn làm bạo. Họ ít chính chắn lắm, họ sẵn sàng bước lên một ngọn sóng, để được nâng lên rồi vùi xuống. Lúc vùi xuống âu là hụt hẫng thật, nhưng rồi họ lại leo lên. Mà tôi nghĩ, họ có khi lại sợ sóng, họ chỉ thích nhìn đời như một ngọn sóng thôi, nghệ sĩ sáng tác không thích lắm mấy trò mạo hiểm.

Bộ phim làm tôi thích Keira hơn, cô đóng Gretta rất nhập vai nhưng không mất đi cá tính. Khi tôi xem tiếp một vài talk show của Keira, cô vẫn cười nhiều như thế, nói những điều ngạc nhiên như thế và có một đôi mắt sáng y vẹn. Không biết là nhân vật Gretta làm tôi thích Keira hơn hay ngược lại, nhờ Keira mà Gretta trở thành một trong những nữ nhân vật yêu thích nhất của tôi. Đầy cảm xúc, đầy lí trí. Tinh tế, thấu hiểu, biết sẻ chia, biết cầm lên và bỏ xuống. Biết nên kết thúc lúc nào và bắt đầu lúc nào. Cô không ôm Dan như ôm người đàn ông cô yêu. Hình ảnh đó là tôi nhớ đến những cái chạm tay của nữ bác sĩ tâm lí trong phim 50/50. Tâm lí học gọi đó là tạo sự cảm thông qua tiếp xúc, tạo điền kiện cho người đối diện cởi mở hơn trong tâm sự và điều trị. Gretta đúng là một bác sĩ trị liệu cho gia đình của Dan. Cô giúp đỡ con gái của Dan. Giúp Dan quay về với gia đình. Gretta có sự nhạy bén của một người phụ nữ, không phải cô mà Dan mới chính là người tưởng lầm mình có một cuộc tình mới. Một cô gái hay cười, đúng là thường có những nỗi đau ẩn sâu bên trong không ai biết. Nhưng cô ấy, chắc chắn, rất ít đau khổ, vì tâm sao thì diện vậy, nếu đau khổ nhiều chắc đã chẳng cười được nhiều như vậy. Sự lạc quan mới là nền tảng sống của những người hay cười. Tự dưng, tôi nhớ đến câu hát trong bài kết (ending song) của phim hoạt hình Jack và quả tim đồng hồ:

“Il était une fille tout en talon aiguille

Et le cœur de cactus…”

Tạm dịch:

Từng có một cô gái, hay đi giày cao gót

Và trái tim như giống cây xương rồng.

Gretta có một trái tim như giống cây xương rồng. Sự sống lấp lánh trên khuôn mặt của cô gái đạp xe thong dong trên phố, dẫu trái tim cô tưởng như đã thành biển đất điêu tàn. Những điều buồn rồi cũng qua, để chẳng còn gì đáng buồn nữa… và cô nở nụ cười lấp lánh.

Tôi nghĩ, Dave là hình ảnh được tái tạo, từ con mắt nhìn của người cũ Gretta. Nói hơi chợ búa một tí, nhưng chính là: «Phản bội tôi, rồi anh sẽ thấy mình khốn nạn thế nào!» Sau khi xem xong phim, nếu người muốn tôi review là fan của Adam, tôi khuyên họ ngay: «Đừng xem phim để khỏi mất hình tượng.» Adam trong phim lúc đẹp lúc xấu, là một thằng tồi, chạy theo thị hiếu và chạy theo đám đông, không có nổi một chốn dung mình yên lặng : anh ta sẽ mãi như thế, lao vào những chuyến lưu diễn, lao vào những cuộc tình một đêm chớp nhoáng, anh ta yêu đám đông, thích ngả mình vào vòng tay của đám đông, anh ta muốn làm hài lòng người khác vì một lí do khác tình cảm. Anh ta muốn là một hình tượng, muốn giành được sự chào đón khắp nơi. Dave làm mình hao dần sức sống, bởi bản thân anh chưa tìm ra cách tạo sức sống cho mình. Anh làm ra một thứ nhạc dở hơi ăn cám lợn, quác quác như vịt kêu. Dầu âm nhạc của anh được thu từ những phòng thu chất lượng nhất nước Mỹ. Anh để một bộ râu xồm xoàm như quân Hồi giáo cực đoan, xuất hiện trên màn hình với phông nền đỏ hoẻn như mấy cái parody MV (clip chế). Người ta thấy anh lửng lơ nhưng anh chẳng biết mình đang lơ lửng. Cho đến khi Gretta gọi anh, tát vào mặt anh bằng một câu hát dứt đầy tức tưởi. Nhưng anh chỉ được cái nói hay thôi, một cái van xin, một cái hứa hẹn thoảng như cơn gió. Tôi nghĩ Dave bị thiếu thốn tình cảm của mẹ, anh luôn tìm kiếm sự chở che, sự xoa dịu từ những người phụ nữ anh gặp… Còn Gretta, vẫn như bất kì cô gái nào, mạnh mẽ đến đâu, cũng cần một cánh tay rộng hơn có thể chở che cho mình. Gretta ra đi vì giữa cô và Dave, không phải là một khoảng trống giữa băng ghế trên công viên mà là điều gì trống trải hơn đó rất nhiều.

Thế chứ, rồi tôi lại phải có phản hồi mới : «Chỉ có Adam mới chấp nhận dìm hàng tơi tả vậy thôi. Phải xem Begin Again để yêu quý anh hơn, một người đầy tinh thần hi sinh và cống hiến đấy chứ!» 

Ending, no stopping: Kết không có nghĩa là dừng lại

Khi thoát được sự cứng nhắc của đời sống, thoát được áp lực làm xong và hoàn thành, tự dưng ta thấy những cái kết mở không còn chướng mắt nữa. Một cái kết mở hàm ý với một khởi đầu mới – begin again. Người ta nói, để vượt qua sự thất tình, chẳng có gì hơn niềm tin vào bản thân, niềm tin vào tình yêu – bao hàm cả sự yêu đời là thế. Ca khúc Lost Stars làm tôi nhớ đến một bộ phim khác, đó là The fault in our stars. Có điều, tôi hơi thiếu sự tinh ý. Lost là cái gì đó đã mất đi rồi, không cứu vãn được nữa. Fault là một lỗi, lỗi thì vẫn còn sửa được. Ca khúc tôi thích nhất trong phim thì phải là Tell me if you wanna go home. Lúc đầu, tôi tưởng đó là bài hát để gọi người yêu về, để tìm lại cái đã mất. Nhưng không, Gretta chẳng bao giờ hát lại cho Dave nghe ca khúc đó. Cô không chờ đợi sự trở về. Bài hát chỉ vang vang trong phim, như một ý nghĩ thường đến rồi chóng đi trong đầu nữ nhạc sĩ. Cuộc đời vẫn mở ra cho Dave và Gretta, đêm 30 chưa là Tết, bao lâu còn là người yêu thì người ta cũng chẳng trói buộc nhau được điều gì, giữa hai người luôn đầy tự do. Còn Dan và vợ mình thì khác, có lẽ nào đạo diễn muốn nói thêm ý đấy vào phim: Rằng hôn nhân là một quyết định, là một cuốn tiểu thuyết cần viết đến cùng. Hôn nhân là thời điểm người ta khẳng định có cùng nhau đi hết cuộc đời hay không.

Meg Jay nói trong TED talk: Tuổi 30 không phải là một tuổi 20 mới rằng: Thời điểm chọn một nửa phù hợp cho mình là trước hôn nhân. Khi người ta đã sẵn sàng cho hôn nhân, biết mình muốn gì và cần gì, thì người ta sẽ dễ dàng tìm ra nửa trọn vẹn ấy. Bởi vậy sau quá trình bắt đầu yêu rồi kết thúc bằng thất tình, phải chăng cái người ta thu được lớn nhất – là câu trả lời cho câu hỏi: “Bạn đã sẵn sàng tiến tới hôn nhân chưa?”

Tôi định chẳng viết gì cho thất tình. Chuyện gì qua thì cứ để nó qua. Tôi trù liệu mình sẽ không bao giờ hết khúc mắc vì sao: “Break up is so easy?” – tình đến rồi đi dễ dàng như thế? Tôi đã từng cân nhắc quá nhiều trước tình yêu, rồi giờ đây tôi cũng tự bảo mình:Love is so easy. It’s OK, that’s Love.” (lại tên một bộ phim nữa). Và tôi lại tin hơn vào trực giác của bản thân, tin tưởng vào những linh cảm của lần đầu gặp mặt, tin tưởng vào cảm giác của bản thân suốt dọc hành trình. Phải. Để tìm ra tình yêu cho mình, bạn cần một chút ích kỉ để đôi khi, không làm tổn thương những người xung quanh, bạn cần lắng nghe và hiểu hết cảm giác của chính bản thân. Hơn hết, tình yêu đơn giản hơn ta tưởng. Người ta gọi là một cú sét chứ thực ra tình yêu đến không mang theo chút căng thẳng, chút lo toan sợ hãi nào đâu. Bản thân tình trạng đó đã là dấu hiệu rõ ràng cho tình yêu sớm nở chóng tàn rồi.

Thôi thì trở lại Begin Again để kết thúc, tôi share nốt cho ai trót đọc đến đây, một clip TED talk khác, nguồn cảm hứng cho tôi chảy trôi hết những dòng chữ này.

https://www.youtube.com/watch?v=rbfw3RxuVcI

 

Broon

Chúng ta học được gì và cần những gì sau 12 năm học phổ thông?

Featured image: Hevals

Sau 12 năm học phổ thông, sau 12 năm tích lũy được kha khá kiến thức “cơ bản” về các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như: Toán, Ngữ văn, Hóa học, Vật lý, Sinh học, Lịch sử, Hóa học,… Tôi cầm tấm bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông và bước những bước chân đầu tiên vào xã hội rộng lớn và chợt nhận ra, chợt cảm thấy hụt hẫng vì những gì tôi được học có một khoảng cách khá lớn với yêu cầu thực tế của xã hội, tôi thấy mình dường như thiếu rất nhiều thứ, cần phải học rất nhiều thứ mà tôi hy vọng rằng 12 năm học vừa qua tôi đã được tìm hiểu để giờ đây mình có thể tự tin hơn, bản lĩnh hơn. Có lẽ sẽ có một vài ý kiến cho rằng tôi đang đổ lỗi cho nền giáo dục nhưng phải thừa nhận rằng nền giáo dục hiện nay đang có nhiều lỗ hổng trong cách tổ chức và thực hiện mà bạn có thể tìm đọc thông qua các trang báo. Và muốn thay đổi thực tế đó thì không phải là chuyện một sớm một chiều, cũng không phải là chuyện của một vài cá nhân, tổ chức mà cần sự thay đổi trong ý thức và tư duy của mỗi người. Để có một cuộc sống thành công, một việc làm ổn định hay bạn muốn làm những điều gì đó khác hơn. Tôi nghĩ rằng học thêm những kỹ năng, môn học sau sẽ hữu ích đối với cuộc đời bạn.

Học thêm một nghề? Sao lại không

Trước thị trường việc làm đang ngày một khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp ngày càng nhiều thì việc tìm kiếm cho mình một việc làm thích hợp lại càng khó khăn hơn. Nếu như sắp xếp được một khoảng thời gian hợp lý, sao bạn lại không học thêm một tay nghề, học nghề mà trước giờ bạn vẫn thích, vẫn luôn mong muốn tìm tòi? Học thêm một nghề mới là một cơ hội để bạn thử thách bản thân mình, có thể biết thêm nhiều điều mới, có thêm được một cơ hội việc làm trong thị trường lao động đang ngày càng khốc liệt. Vẫn biết “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” nhưng nếu có điều kiện bạn hãy thử xem, chắc chắn sẽ rất thú vị đấy.

Tiếng Anh – chìa khóa mở cánh cửa thế giới

Bên cạnh những kiến thức chuyên môn mà bạn đã được học. Việc học thêm tiếng Anh là rất quan trọng. Hiện nay, các quốc gia đều tiến tới sự hợp tác về nhiều mặt, đều thành lập những tổ chức, liên minh quốc tế. Từ đó, các cơ hội để bạn được học tập và làm việc ở nước ngoài hay các công ty trong nước rộng mở và nhiều hơn bao giờ hết. Tất nhiên có một điều kiện, đó là bạn phải biết tiếng Anh. Bạn cũng biết là hầu hết các trang mạng quốc tế, hay thậm chí các trang mạng trong nước, các quyển sách, các tài liệu tham khảo hầu hết đều được viết bằng tiếng Anh. Mọi người dù ở quốc gia nào nhưng khi tham gia vào cộng đồng quốc tế đều sử dụng tiếng Anh để giao tiếp. Các bộ phim hành động, hình sự, kinh dị, hoạt hình,… thú vị, các bài hát quốc tế hấp dẫn cũng hầu hết đều được diễn đạt bằng tiếng Anh. Nếu bạn đang có một vốn tiếng Anh không tốt, nếu tiếng Anh bạn đã vững và muốn trau dồi thêm hay bạn là một người ghét tiếng Anh, mỗi lần đụng đến tiếng Anh là chán nản, buồn ngủ,… thì hãy suy nghĩ lại những lợi ích khi hiểu biết và sử dụng tiếng Anh một cách thành thạo: Giao tiếp được với hầu hết mọi người trên thế giới, tiếp cận được kho tri thức phong phú của nhân loại, đọc hiểu những quyển sách mà trước giờ bạn rất thích nhưng không được dịch sang tiếng Việt, xem phim nước ngoài không cần phụ đề, hiểu toàn bộ cuộc đối thoại giữa các nhân vật trong phim, hiểu được thông điệp các bài hát quốc tế mà người biểu diễn truyền tải,… Bạn thấy đó, rất nhiều nhiều lợi ích khi bạn biết và sử dụng tiếng Anh phải không? Còn chờ gì nữa mà không lập một kế hoạch cụ thể để bắt tay vào học, sau vài năm kiên trì học tập tôi chắc chắn rằng trình độ tiếng Anh của bạn sẽ hoàn toàn khác hẳn và bạn sẽ cảm thấy rất vui sướng đấy.

Đọc sách – kho tri thức vô tận

Ngoài việc thu nhặt kiến thức thực tế từ cuộc sống, chuyên môn công việc thì đọc sách còn là một cơ hội để bạn thư giãn, tìm hiểu và thu về nhiều bài học, kiến thức cho riêng mình. Nếu như bạn thấy việc đọc sách là một việc tẻ nhạt thì sao bạn không thử tìm hiểu những lợi ích của việc đọc sách để nó trở nên hứng thú hơn. Ngoài việc cung cấp kiến thức cho bạn, sách còn kích thích óc tưởng tượng, còn động viên, khích lệ bạn trước những khó khăn của cuộc sống, đưa ra những lời khuyên thích hợp khi bạn gặp vấn đề. Không chỉ vậy, nó luôn đồng hành cùng bạn trong những lúc cô đơn, những lúc bạn cần tìm một người bạn để cùng đồng cảm, sẻ chia. Và sách thực hiện sứ mệnh đó thông qua từng trang giấy, từng con chữ, từng hình ảnh. Hãy thử đọc hết một quyển sách theo lời giới thiệu của bạn bè hay quyển sách mà bạn cho rằng hay. Đọc đi, rồi bạn sẽ khám phá ra được có rất nhiều thế giới đằng sau những trang sách, có rất nhiều điều thú vị đang chờ bạn khám phá. Và đọc sách mỗi ngày để duy trì như một thói quen, không cần nhiều, chỉ cần 30 phút mỗi ngày thôi và sau vài tháng, bạn sẽ thấy lượng kiến thức và những gì mình góp nhặt được thông qua sách sẽ rất nhiều. Và khi bắt đầu đọc sách, đôi khi bạn không biết quyển nào hay để đọc, bạn có thể tham khảo các bài viết giới thiệu sách trên trang Triết Học Đường Phố này.

Kỹ năng mềm – kỹ năng cho sự thành công của bạn

Làm thế nào để thu hút sự chú ý của người khác? Làm thế nào để sản phẩm bán ra đạt được doanh số cao nhất có thể? Làm thế nào để quản lý thời gian? Làm thế nào để giảm bớt áp lực trong công việc và cuộc sống? Làm thế nào để………? Có hàng loạt các câu hỏi được đặt ra để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Và để giải quyết được những vấn đề đó thì bạn phải rèn luyện những kỹ năng mềm cần thiết cho bản thân. Trường học chỉ dạy cho bạn kiến thức, còn kỹ năng mềm bạn phải tự học lấy, tự rút kinh nghiệm cho bản thân. Và việc học hỏi được nhiều kỹ năng mềm sẽ là một lợi thế cho bạn khi đi xin việc. Không thể phủ nhận một điều rằng, những con người thành công, ngoài việc có kiến thức chuyên môn vững vàng, họ còn tích lũy cho riêng mình những kỹ năng mềm mà từ đó khiến cho sự nghiệp của họ ngày một phát triển. Hãy chủ động tham gia các khóa đào tạo kỹ năng mềm có chất lượng, đọc dòng sách về phát triển kỹ năng bản thân (self-help) hay quan sát trong thực tế để tự hình thành nên các kỹ năng mềm cần thiết cho bản thân.

Chăm sóc bản thân – chìa khóa duy nhất để mở ra những cánh cổng khác

Việc chăm sóc cho bản thân mình là một việc cực kỳ quan trọng, bởi vì nếu chính bạn còn không chịu chăm chút cho bản thân thì đừng suy nghĩ đến những việc khác. Chăm sóc bản thân ở đây mà tôi muốn nói đến là hãy duy trì cho cơ thể luôn ở trong trạng thái khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng. Bởi vì “sức khỏe là vàng”, “có lực mới vực được đạo”, chỉ có một tinh thần sung mãn, một cơ thể khỏe khoắn bạn mới có thể làm việc và thực hiện những ý định của mình. Và một trong những cách đơn giản để duy trì sức khỏe là hãy tập thể dục hằng ngày mỗi sáng khi bạn thức dậy. Việc này sẽ lên dây cót cho cơ thể của bạn trong một ngày mới, khiến cho bạn cảm thấy minh mẫn, thoải mái hơn thay vì chỉ dậy rồi ăn sáng, làm việc. Bên cạnh đó, bạn cũng nên biết chiều chuộng bản thân, đừng để cơ thể phải chịu đựng quá nhiều áp lực. Hãy tự thưởng cho mình những giây phút thư giãn bằng cách làm những việc mình thích sau những ngày học tập, làm việc mệt mỏi như xem phim, nghe nhạc, đọc sách, đi du lịch,…

Mong rằng bài viết này hữu ích với bạn, giúp cho bạn thay đổi được cuộc sống của mình theo chiều hướng tích cực. Nào, hãy “bước đi và hành động”, bạn nhé!

Chúc cho cuộc đời bạn sẽ có nhiều phút giây rực rỡ.

 

Trương Thanh

Mơ hồ cả giấc mơ hoang

Featured image: William James Broadhurst

Có một con người không biết vui
Đêm đêm ngồi khóc bên lưng đồi
Ngã nắng ban chiều màu khói nhạt
Giật mình phút chốc thấy thương tôi…

Có một dòng sông trôi miên man
Dòng sông đội nắng dội màu trời
Lãng đãng bên bờ con thuyền nhỏ
Vô tình lạc bến biết về đâu.

Có những niềm vui đã lãng quên
Em đem giấu kín bên lưng đồi
Gió giông cuốn mất em tìm kiếm
Phút chốc mơ hồ thấy mông lung…

Em tìm trong gió tiếng ca êm
Trong veo ngày nắng hát thật hiền
Nụ cười chất chứa niềm ẩn uất
Mơ hồ cơn gió cuốn trôi đi…

Em về nước mắt tràn mi
Đôi chân run rẩy bước qua bậc thềm
Hàng cây xanh cũ héo vàng
Bờ tường vững chãi đã hòa rêu xanh…

Anh ơi!
Em về tìm anh trong cơn mê
Sau bức tường đầy rêu liệu có anh ở đó?
Em mơ hồ nhận ra anh tồn tại
Nhưng ngổn ngang lòng… chạm khẽ vỡ tan hoang!

Lê Khả Đạt

Có phải mức độ hạnh phúc tỉ lệ nghịch với tuổi tác?

Featured image: Weheartit

 

Lúc nhỏ mỗi khi theo cha ra ruộng lại hay ngước lên ngắm mây ngắm gió rồi tượng tượng ra đủ thứ hình dạng trên đời: có khi là núi, có khi là con này con nọ, thậm chí còn tưởng tượng hình ảnh bác Hồ đang bồng 1 đứa bé. Giờ thì, nhìn lên bầu trời chỉ để tìm lại chút bình yên… Vài hôm trước, cùng chị và đứa cháu 3 tuổi ra đồng, cũng ngồi ngắm mây ngắm gió. Nói với chị:

“Sao giờ nhìn mây em chẳng tưởng tượng ra được cái gì.”
Liền ngay sau đó, đứa cháu ngồi kế bên nói, “Cá mập kìa!”
“Đâu?” Chị mình chỉ, “Đó, cái mỏ nó đang há ra đó, rồi cái thân nữa.”
Cố gắng nhìn kỹ, à, thấy rồi…

Hình như càng lớn lên, trí tưởng tượng con người lại càng giảm xuống. Người ta có quá nhiều vấn đề để bận tâm và suy nghĩ, thậm chí còn không có thời gian để nhìn lên bầu trời, để nghỉ ngơi, thư giãn, đừng nói chi là giành ra cả giờ đồng hồ để mà tưởng tượng “vớ vẩn, linh tinh”. Thỉnh thoảng nhìn đứa cháu chơi với mấy đứa bạn lại ước gì có lại được cái đầu ngây thơ như nó. Cười đó, khóc đó, không hối tiếc quá khứ, không lo lắng tương lai, chỉ có hiện tại… Gần đây, nói chuyện với ai hồi lâu lại muốn hỏi 1 câu: “Có phải mức độ hạnh phúc của một người tỉ lệ nghịch với tuổi tác hay không?”

Và nếu họ trả lời là “Không” thì câu hỏi tiếp theo sẽ là “Làm cách nào?”

Câu hỏi đó cứ mãi xuất hiện trong tôi, mỗi khi tôi hối tiếc điều gì trong quá khứ, khi tôi nói “Giá như….” khi tôi nghe người lớn cứ than với nhau rằng: “Ngày xưa, lúc còn bé vui biết bao nhiêu, giờ thì…” khi tôi nghe người ta bảo rằng khi càng lớn tuổi, người ta lại càng muốn mình giống trẻ con hơn, chỉ toàn nhớ về những người đã khuất, nhưng người thân yêu khi họ còn trẻ, hay mỗi khi tôi bắt gặp những cụ già đến cuối đời mà vẫn phải vất vả kiếm sống, phải đau đớn vì bệnh tật. Để rồi mỗi khi ấy, tôi lại suy nghĩ rằng: “Con người sinh ra làm chi để phải chịu đau khổ thế này?”

Tôi cứ suy nghĩ, cứ tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Làm sao để khi tuổi tác lớn dần, người ta vẫn có thể sống hạnh phúc như khi còn trẻ nhỏ?”

Sống với hiện tại

Như tôi đã nói ở trên, khi càng lớn lên, quá khứ một người lại càng có nhiều ký ức, vui có, buồn có. Người ta nuối tiếc ký ức vui và hối tiếc những ký ức buồn. Người ta cứ luôn so sánh quá khứ và hiện tại, để rồi vào ngày mai, khi hôm nay đã là quá khứ, họ lại tiếp tục với lối mòn suy nghĩ đó. Và khi càng lớn, người ta lại càng có nhiều vấn đề để lo lắng hơn, sự nghiệp, gia đình, bệnh tật, và muôn vàn lo sợ vô hình khác….

Còn đối với trẻ nhỏ, nó chỉ đắm mình trong giờ phút hiện tại, vui thì cười, buồn thì khóc. Nó không thích ngủ trưa, vì nó không biết rằng nếu không ngủ thì nó sẽ bị mệt (đó là chuyện tương lai, và nó chẳng quan tâm), nó còn chơi đùa khi nào còn có thể, đến khi mệt nó chỉ lăn ra ngủ mà thôi. Nó cũng không có tâm trí để nhớ về chuyện đã xảy ra, bới có quá nhiều điều mới lạ, hấp dẫn đang cuốn nó về phía trước.

Bạn có thể sẽ nói rằng, ok, tôi có thể cố gắng quên đi quá khứ, nhưng làm sao tôi không lo lắng cho tương lai được chứ?

Tôi hoàn toàn đồng ý là nó không dễ làm tí nào, nhưng không có nghĩa là nó không làm được. Vẫn có khối người đang áp dụng cách này và đang hạnh phúc đấy thôi. Hãy thử một lần cố gắng hết sức thử xem bạn nhé. Sống hết mình cho hiện tại, chuyện tương lai, tự nó sẽ lo lấy…

 

Ly Libra

Thị trường và đạo đức (kỳ 8)

 

William L. Anderson

Những phẩm chất đáng quý của nền kinh tế tự do

Tôi tin là cuộc họp của Hội Mont Pelerin năm nay, 1982, tổ chức ở Tây Berlin là phù hợp vì đây là nơi mà thực tế và sự khôi hài của nền kinh tế tự do và chủ nghĩa tập thể đứng cạnh nhau như bóng tối và ánh sáng, y hệt như bức tường đán áp ô nhục bao quanh thành phố tự do này giữa lòng đại dương của chủ nghĩa toàn trị. Nếu chúng ta cần chỉ ra tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với với chủ nghĩa xã hội thì đây chính là vị trí khởi đầu thuận lợi hơn bất kì chỗ nào khác.

Nếu tôi là luật sư biện hộ cho tự do kinh tế thì tôi sẽ cố gắng sử dụng Berlin như một thí dụ. Nói cho cùng, ai chả thấy là người Tây Berlin phát đạt về mặt kinh tế, đặc biệt là so với người Đông Berlin, những người bị ngăn chặn, không được tiếp xúc với phần phía Tây thành phố bằng hàng rào bằng bê tông, hàng rào kẽm gai, mìn và súng máy trong suốt hơn hai mươi năm qua.

Ở phần Tây Berlin tự do, người dân có thể tự do đi khắp thành phố; trong khi ở vùng Đông Berlin cộng sản, cảnh sát có thể tự do quấy rối và đe dọa các công dân của mình. Thu nhập của người Tây Berlin cao hơn là thu nhập của người đồng bào của họ ở miền Đông, lương của người đông Berlin, cao nhất trong khối cộng sản, nhưng vẫn thấp hơn mức nghèo đói ở miền Tây. Không nghi ngờ gì rằng người Tây Berlin tự do hơn, giàu có hơn và hạnh phúc hơn đồng bào của họ ở miền Đông.

Trí thức ở phương Tây thường xuyên bôi nhọ chủ nghĩa tư bản

Nhưng trí óc con người ta lại thường lúng túng và lầm lẫn trước vấn đề tự do kinh tế. Trong suốt hai thế kỷ qua phương Tây đã là nơi thể hiện tính ưu việt của tự do kinh tế, nhưng như nhà thần học Michael Novak đã chỉ ra: “Trong lịch sử trí tuệ phương Tây, thóa mạ chủ nghĩa tư bản là một trong số ít đề tài được nhiều người thảo luận nhất.”[1] George Gilder, trong tác phẩm khá uyên bác: Wealth and Poverty (Giàu và nghèo), đã buồn bã nhận xét rằng nhiều người có tư tưởng ủng hộ tự do kinh doanh không phải là vì họ đồng ý với những đặc điểm của nó (họ cho rằng đấy là sự suy đồi về mặt đạo đức), mà đơn giản là vì lý do công lợi: nó tạo ra nhiều của cải hơn là chủ nghĩa tập thể có thể làm[2].

Nhưng, nếu chủ nghĩa tư bản tiếp tục là cái phần đầy sức sống của trật tự thế giới thì ngoài khả năng sản xuất vô cùng to lớn, nó còn phải được coi là có đức hạnh nữa. Những ai muốn coi tự do kinh tế là mục tiêu của sự tiến bộ của nhân loại, mục tiêu của công lý, của việc diệt trừ nạn đói trên thế giới, của bản thân nền tự do, thì họ phải coi chủ nghĩa tư bản không chỉ là nơi thể hiện lòng tham của con người mà chủ yếu là nơi thể hiện những hành vi mang tính đạo đức. Chủ nghĩa tư bản là cách sống không chỉ có thể giúp thúc đẩy sự thịnh vượng về mặt vật chất mà còn thúc đẩy sự thịnh vượng về mặt tinh thần nữa.

Tuy nhiên, hiện nay người ta – ngay cả nhiều người Tây Berlin – trong khi tìm kiếm những giá trị mà họ cho là xứng đáng lại đang từ bỏ con đường dẫn tới tự do kinh tế và thay vào đó, ủng hộ những biểu hiện của chủ nghĩa tập thể. Nhưng đấy là con đường, như Walter Lippmann từng viết: “Sẽ dẫn tới vực thẳm của chế độ chuyên chế, đói nghèo và chiến tranh triền miên.”[3] Mục đích của tiểu luận này là khảo sát sự ruồng bỏ chủ nghĩa tư bản ở phương Tây và chứng minh rằng nền kinh tế tự do – phương án thay thế cho chủ nghĩa tập thể – là lựa chọn đầy đức hạnh và xứng đáng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc.

Nghịch lý của tự do

Nền kinh tế tự do là một đối tượng đầy mâu thuẫn. Người ta chống lại nó trong những cuộc thăm dò dư luận và ủng hộ nó khi cầm một nắm tiền trong tay. Các chính phủ theo đường lối tập thể để nó đứng đầu danh sách những kẻ thù không đội trời chung nhưng lại quay sang nhờ nó cứu chữa những căn bệnh trong nền kinh tế của mình[4]. Giới tăng lữ bảo rằng tinh thần của chủ nghĩa tư bản là vô luân, nhưng chính nền tảng của thị trường tự do lại phụ thuộc vào cái mà Novak gọi là “việc áp dụng một số tiêu chí đạo đức”[5]. Thị trường tự do dường như đã trở thành một một con điếm xã hội: những người có mức thu nhập khác nhau, trình độ học vấn và văn hóa khác nhau cùng công khai lên án nó vì những tội lỗi mà họ quy kết cho nó đồng thời lại tìm kiếm nó khi có nhu cầu về mặt kinh tế.

Có thể đấy không phải là điều đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng thì nền tảng pháp lý và tri thức của chủ nghĩa tư bản: cá nhân là người tự do, có khả năng (và trách nhiệm) thực hiện những lựa chọn mang tính đạo đức và có một số quyền mà chính phủ không thể tước đoạt: quyền phản đối những giáo lý đã ăn sâu bén rễ vào tư duy mang tính tín tôn giáo truyền thống, tức là những giáo lý đã từng thống lĩnh tâm trí của con người kể từ ngày xuất hiện nền văn minh. Cốt lõi của tư duy truyền thống này – dù nó có được hay không được Plato, Khổng Tử, Rousseau, Castro hay Mao đưa ra thì cũng thế – là khẳng định rằng bản sắc của một người không phải bắt đầu từ chính anh ta mà bắt đầu từ cộng đồng, phường hội, bộ lạc, giai cấp xã hội, được xác định từ trước của anh ta, hay nói theo ngôn ngữ hiện đại là từ nhà nước của anh ta[6].

Trong khi đúng là Thiên chúa giáo (và đặc biệt là đạo Tin lành) đã làm suy yếu tư duy truyền thống – và đã tạo cảm hứng cho sự vùng lên của chủ nghĩa tư bản – thì trong thời Trung Cổ, hệ tư tưởng mang tính tôn giáo của cộng đồng nhấn mạnh “tính chất quý phái”, trật tự xã hội và những quyền và đặc quyền đặc lợi dành cho người thuộc các đẳng cấp khác nhau đã được chính thức hóa cùng với Thiên chúa giáo. Cuộc cải cách của đạo Tin lành cũng như những học thuyết mà nó tạo ra cũng không thay đổi được ngay lập tức quan niệm về “quý” và “tiện” đã tồn tại trong xã hội từ bao đời nay[7].

Quý là giới tăng lữ, giáo sư đại học, hoàng thân quốc thích, chính khách và sĩ quan cao cấp; còn tiện là nông nô, thương nhân (những người bị khinh khi nhất) và những thị dân không thuộc tầng lớp quý tộc. Người ta có thể tưởng tượng được rằng trật tự “đạo đức” như thế rất được những tầng lớp trên ưa chuộng, vì ngoài việc là những người thừa kế tự nhiên địa vị lãnh đạo đối với quần chúng, họ còn có quyền tự do áp đặt những giá trị “cao quý” của họ cho các thần dân và điều đó có nghĩa là áp đặt những đạo luật hạn chế chi tiêu và hàng ngàn điều luật chi phối hoạt động kinh doanh khác[8].

Nhà sử học Arthur M. Schlesinger Jr. chắc chắn là đã đồng cảm với trật tự tiền tư bản khi ông viết về nước Anh thời theo thuyết trọng thương[i] như sau: “Nắm quyền lực là để áp đặt trách nhiệm, bằng ý thức về nghĩa vụ đối với nhau mà tất cả các giai cấp đều được đưa vào một cộng đồng hài hòa.”[9] Tuy nhiên, như đã thấy, hàng loạt cuộc nổi dậy của nông dân thường xuyên đe dọa nền tảng của chế độ phong kiến, rõ ràng là quần chúng không chấp nhận quan điểm đầy hào hứng của Schlesinger về tình trạng khốn khó của họ. Họ cảm thấy bất mãn, số phận của họ thật là đáng thương. Các tầng lớp dưới lúc đó cũng nghèo xơ xác chẳng khác gì những người nhà quê nghèo khổ nhất trong các nước thuộc Thế Giới Thứ Ba cùng quẫn hiện nay.

Rất nhiều điều luật nhằm kiềm chế giá cả, ngăn chặn nguồn cung và quá trình sản xuất – mà trước hết là cản trở cạnh tranh – đã trở thành rào cản hữu hiệu trong việc ngăn chặn sự phát triển về mặt kinh tế. Chỉ có giới quý tộc mới có thể là những người giàu có; nói cho cùng thì tầng lớp thượng lưu tin rằng tài sản là cố định, chỉ có thể đem ra chia chứ không thể gia tăng được. Người ở tầng lớp hạ lưu không thể nào tưởng tượng được là anh ta có thể có của cải. Cho nên trong thế giới cũ, “thế giới trần tục”, như Lippman viết, muốn giàu có thì “phải cướp bóc”[10]. Hàng xóm cướp của hàng xóm, thành phố này cướp của thành phố kia, còn các dân tộc thì thường xuyên cướp bóc lẫn nhau.

Chẳng có gì lạ là các giai cấp thượng lưu quý tộc trong giai đoạn hậu-trọng-thương ở châu Âu không những không đánh giá được mà còn không hiểu được cuộc cách mạng xã hội và cách mạng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nói cho cùng thì khi đọc tác phẩm Tài sản của các quốc gia (The Wealth of Nations) người ta hiểu rằng Adam Smith phát triển quan niệm của Quyền tự do Tự nhiên là để làm lợi cho người nghèo chứ không phải làm lợi cho người giầu.

Giới quý tộc, như Lippmann viết, không hiểu được sự kiện là “Nguyên tắc vàng là nguyên tắc có cơ sở vững chắc về mặt kinh tế”[11]. Họ không tưởng tượng được lợi ích mà thương nhân tạo ra khi họ được tự do phục vụ những người khác, họ cũng không chấp nhận việc thương nhân không chỉ làm giàu mà còn có cả địa vị xã hội nữa. Trên thực tế, Cách mạng Công nghiệp là cuộc cách mạng của người bình dân, còn những người có thời từng có tiếng nói quyết định ở chốn công cộng thì nay, trong chủ nghĩa tư bản dân chủ, lại bị tụt lại phía sau.

Và mặc cho sự gia tăng khủng khiếp về mặt tài sản và sức mạnh mà chủ nghĩa tư bản đã đem lại cho thế giới phương Tây, mặc cho những bước tiến vĩ đại trong việc xóa bỏ cảnh nghèo đói từng là hiện tượng phổ biến trong các nước đã công nghiệp hóa, thị trường tự do vẫn bị nhiều người bên ngoài lĩnh vực kinh doanh nguyền rủa – họ là giai cấp mới, đấy là nói theo lời của Kristol, là những người đang tìm cách quyết định “chương trình nghị sự xã hội”. Đấy là những người có thái độ thù địch đối với việc kinh doanh, nhưng theo tôi, lý do của lòng thù hận lại ít liên quan tới những bất bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội hiện đang tồn tại trong xã hội chúng ta.

Nói cho cùng, những xã hội truyền thống mà nhiều người phê phán chủ nghĩa tư bản có cảm tình lại thường là những xã hội nghèo xác xơ, còn bất bình đẳng là chuyện bình thường. Như Kristol đã nói, họ ghét thị trường tự do là vì chế độ tư bản tự do, cá nhân chủ nghĩa, không cho họ nhiều quyền lực chính trị và xã hội[12]. Trong xã hội mà thị trường tự do có thể tồn tại được, quyền lực nằm ngay tại thị trường, và “được phân tán trong rất nhiều người dân chứ không chỉ tập trung trong tay tầng lớp tinh hoa nắm quyền”[13].

Novak, trong khi bình luận về lòng căm thù chủ nghĩa tư bản mà dường như giới tăng lữ đang nuôi trong lòng, đã viết:

“Trong những xã hội truyền thống, người đứng đầu nhà thờ (dù ở Rome hay ở Geneva thì cũng thế) có quyền áp đặt những giá trị của họ lên toàn thể xã hội dân sự. Trong một xã hội đã phân hóa, người đứng đầu nhà thờ khó mà có thể đóng được vai trò như thế. Vì vậy mà ta mới thường thấy sự thèm khát bí mật, thấy lòng hoài cổ còn rơi rớt lại về một xã hội được kế hoạch hóa, tức là cái xã hội lại cho phép những người đứng đầu nhà thờ liên kết với những người lãnh đạo dân sự nhằm buộc toàn bộ xã hội phải chấp nhận những giá trị của họ. Quan điểm của ông vua La Mã thế kỷ thứ IV[ii] lại tái xuất với tên gọi là chủ nghĩa xã hội và nhà nước tập quyền trong nền kinh tế hỗn hợp[14].”

Chế độ dân chủ trên thương trường

Những người phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những người có những thành kiến mang tính gia trưởng của giai cấp mới mà Kristol nói tới, đơn giản là không thích chế độ dân chủ vốn là một thành phần cố hữu trong hệ thống thị trường. Giới quý tộc không bao giờ tin các định chế dân chủ, đặc biệt là trong thời kỳ tiền tư bản; hậu duệ của họ – mặc dù có thể phải chấp nhận niềm tin vào quyền bình đẳng trong chế độ dân chủ – giống như cha ông họ, cũng không mấy tin tưởng vào quyền tự do lựa chọn. Vì vậy, khi họ nói về quyền bình đẳng thì họ không nói về sự bình đẳng trước pháp luật mà nói về sự bình đẳng do pháp luật tạo ra. Tôn giáo của họ đòi hỏi rằng bình đẳng là do giới tinh hoa cầm quyền ban phát.

Quan điểm như thế về pháp luật – ngăn chặn một số người và thả lỏng một số người khác – không phải xuất phát từ tinh thần bình đẳng được chủ nghĩa tự do thế kỷ XIX tuyên xưng mà là xuất phát từ não trạng chuyên chế của tinh thần bộ lạc cổ xưa. Vì vậy mà kết quả của hệ thống pháp luật bình đẳng do dùi cui tạo ra – trong đó có thuế lũy tiến, tái phân phối thu nhập, trợ cấp nhà ở, tem phiếu lương thực thực phẩm và những chương trình phúc lợi xã hội khác hay kết quả khủng khiếp của chủ nghĩa tập thể mà ta chứng kiến trong suốt 50 năm qua ở Liên Xô và ở châu Á – phản ánh không phải là lòng từ bi xã hội hiện đại mà là cú nhảy giật lùi trở về thời đại của những ông vua tự cho mình là đang cai trị bằng luật lệ của Chúa trời[15].

Cần phải nhấn mạnh rằng não trạng như thế đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa tự do về quyền bình đẳng trước pháp luật rồi. Vì ở đâu mà bất bình đẳng trước pháp luật trở thành hiện tượng phổ biến thì ở đó bóng ma của chế độ chuyên chế, của bạo ngược, nghèo đói, và mất tự do cá nhân sẽ trở thành phổ biến.

Henry Hazlitt, Gilder, Kristol và những người khác đã khẳng định một cách đầy trí tuệ rằng những chương trình chống nghèo đói của chính phủ dựa trên sự bất bình đẳng hợp pháp thực ra là rào cản trước những lợi ích kinh tế tiềm tàng mà người nghèo có thể nhận. Nhưng họ vẫn chưa chỉ ra được mối liên hệ giữa sự tập trung vào tay nhà nước và tinh thần gia trưởng của thời cổ đại.

Đây chính là điều mà các nước có thể học được từ quá khứ vì sự kiện lịch sử rõ ràng là bất bình đẳng trước pháp luật, tình trạng cô lập ép buộc về kinh tế (gọi là tự cấp tự túc) và điều tiết thị trường đã dẫn đến không phải là những mục tiêu đáng mong ước mà ngược lại. Chỉ có phân công lao động một cách tự do, thị trường tự do và bình đẳng trước pháp luật mới có thể dẫn người ta tới tự do và phát triển kinh tế mà thôi. Con người truyền thống đã phải đấu tranh rất lâu trước việc lựa chọn giữa tự do và bánh mì, nhưng trải nghiệm tự do đã cho thấy điều ngược lại. Tự do làm cho người ta có nhiều bánh mì hơn và có nhiều thứ khác nữa.

Cuối cùng, cả tự do lẫn thịnh vượng, tức là những tính chất cố hữu của chế độ dân chủ tư sản đã làm cho những người vẫn bám vào những lý tưởng xưa cũ của xã hội không tin vào thị trường tự do. Vì tự do trong chế độ này tạo điều kiện cho những người đã từng phải làm việc dưới quyền của những bạo chúa được tự cai quản lấy mình, còn thịnh vượng do thị trường tự do mang lại thì tạo điều kiện cho những người đã từng là những người khố rách áo ôm tự nuôi sống được mình và không còn phụ thuộc vào thói đỏng đảnh mang tính gia trưởng của tầng lớp quý tộc nữa. Lippmann nhận xét về những người đang đi tìm trật tự cũ như sau:

“. . công cụ thúc đẩy tiến bộ duy nhất mà họ tin tưởng là những biện pháp cưỡng bức của chính phủ. Họ không thể tưởng tượng nổi một cái gì khác hơn, họ cũng không thể nhớ được rằng rất nhiều điều mà họ coi là tiến bộ lại là kết quả của sự giải phóng khỏi quyền lực chính trị, của sự giới hạn quyền lực, của việc giải phóng năng lực cá nhân khỏi uy quyền và sự cưỡng bức mang tính tập thể[16].”

Và Frederic Bastiat đã tiên đoán một cách đầy thuyết phục kết quả sẽ đến với những người tìm kiếm cưỡng bức dưới chiêu bài tự do:

“Đồng vốn – dưới tác động của học thuyết đó – sẽ ẩn nấp, chốn tránh và bị phá hủy. Còn người công nhân, những người làm việc cho những kẻ thề nguyền là yêu thương họ một các chân thành và sâu sắc nhưng vô minh đó, sẽ như thế nào? Họ có được ăn uống tốt hơn khi sản xuất nông nghiệp ngưng trệ hay không? Họ có được mặc tốt hơn khi không còn ai nghĩ đến việc xây nhà máy nữa hay không? Họ có nhiều công ăn việc làm hơn khi đồng vốn không còn hay không?[17]”

Cho và nhận

Người cho bao giờ cũng được tôn trọng hơn là người nhận,và quan điểm truyền thống bao trùm thời đại là chủ nghĩa tư bản đơn giản là nền kinh tế nhận, nghĩa là người nghèo thì làm còn người giàu thì nhận. Do đó quan điểm của ông John C. Bennett, chủ tịch danh dự của Trường thần học, là nền kinh tế tự do, nếu không được chính phủ cải tạo, là “không thể chấp nhận được về mặt đạo đức”[18]

Tự do kinh tế, như đã được chứng minh suốt hai thế kỷ qua, đã đưa đến sự phát triển chưa từng có về mặt tài chính, đã mang tới cho các dân tộc thực hành nó số tài sản vượt xa ngay cả những vương triều giàu có nhất thời cổ đại. Nhưng những người chỉ trích vẫn coi tinh thần của tự do kinh tế là “lòng tham kiếm lời vô giới hạn của các doanh nhân”[19]. Schlesinger, một người ủng hộ nổi tiếng cho nền kinh tế kế hoạch hóa, coi triết lý tự do kinh doanh là tín điều vô chính phủ: “mọi người phải tự lo và khôn sống mống chết”[20]. Còn Ronald J. Sider, tác giả cuốn Về những người Thiên chúa giáo giầu có trong thời đại đói nghèo(of Rich Christians in an Age of Hunger), thì cho rằng sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đơn giản chỉ là sản phẩm của lòng tham mà thôi:

“Người ta không thể đọc câu chuyện ngụ ngôn về một người ngu ngốc giàu có [trong Kinh Tân Ước] mà không nghĩ tới xã hội của chúng ta. Chúng ta hăm hở làm ra thật nhiều món đồ tinh xảo, xây những ngôi nhà cao hơn và to hơn, chế ra những phương tiện vận tải nhanh hơn không phải vì những đồ vật đó làm cho cuộc sống của chúng ta phong phú hơn mà vì chúng ta bị ám ảnh là phải sở hữu ngày một nhiều hơn. Lòng tham – phấn đấu để càng ngày càng có nhiều đồ vật hơn – đã trở thành thói xấu chủ yếu của nền văn minh phương Tây.[21]”

Những lời kết án như thế – nhiều lời kết án đến nỗi người ta buộc phải đặt ra những câu hỏi hiển nhiên như sau: Sự cải thiện to lớn về mặt vật chất, những loại thuốc cứu người, nền giáo dục đại chúng, không còn nạn đói, việc xóa bỏ những cơ cấu đã từng nô dịch những người nghèo khổ và quan niệm về quyền tự do cá nhân, đều xuất phát từ lòng tham, từ sự thèm muốn, từ ước muốn làm hại những người đồng bào của mình hay sao? Phải chăng lợi ích kinh tế do hậu duệ của những người đã từng là nô lệ thu được trong hai trăm năm qua chỉ là vết chàm về mặt đạo đức?

Xin để cho độc giả tiểu luận này tự trả lời những câu hỏi đó. Nhưng quan điểm của tôi là: Chủ nghĩa tư bản đã mang lại những cải thiện kinh tế to lớn cho những dân tộc thực hành nó, đấy là điều không thể tranh cãi. Nhưng, nếu nhiều người – đặc biệt là những người có quyền đưa ra chương trình nghị sự cho xã hội – coi thị trường là môn bài của lòng tham, là sự đồi bại và phá sản về mặt đạo đức, thì các dân tộc sẽ tiếp tục lao vào chủ nghĩa tập thể và sự can thiệp của nhà nước và thị trường tự do sẽ thoái hóa thành lừa đảo, hối lộ và tham nhũng, đấy là chợ đen[22].

Trong khi thiết lập những tiêu chí đánh giá chủ nghĩa tư bản, tôi tin rằng thị trường tự do phải vượt qua được hai cuộc kiểm nghiệm. Thứ nhất, nó phải phù hợp với Nguyên tắc Vàng được vinh danh từ thời cổ đại; thứ hai, xã hội tạo ra hệ thống tư bản chủ nghĩa phải là xã hội đức hạnh đáp ứng được một số nguyên tắc đạo đức nhất định.

Sống với Nguyên tắc Vàng

Trong nền kinh tế cướp bóc, khó mà thực hiện được Nguyên tắc Vàng: “Cái mình không muốn, chớ làm cho người[iii]”. Nếu chỉ có thể giành được tài sản bằng cách moi của người khác thì rõ ràng là người ta không thể trở thành giàu có mà vẫn có thể sống theo Nguyên tắc Vàng được. Người ta hoặc là phải ăn cắp (mặc dù không ai muốn bị gọi là kẻ cắp) hoặc là phải sống trong cảnh nghèo nàn (đấy là lý do vì sao nghèo lại được tư tưởng tôn giáo truyền thống coi trọng đến như thế). Tư duy truyền thống tuyên bố rằng xã hội được chi phối bởi Nguyên tắc Vàng phải là xã hội nghèo nàn; và dễ hiểu vì sao một đầu óc bị chi phối bởi những tư tưởng như thế sẽ coi xã hội tư bản là xã hội cướp bóc.

Nhưng như Lippmann, Mises, Gilder và những người khác đã biện luận, sự thịnh vượng của thị trường tự do không phải là kết quả của trộm cắp mà là kết quả của sự hợp tác và lòng tin giữa các cá nhân với nhau. Luận điểm của Lippmann về xã hội tốt đẹp là xã hội đức hạnh, xã hội hợp tác, một xã hội chỉ có thể trở thành hiện thực khi thực hành những nguyên tắc của thị trường tự do. Ông viết như sau:

“Tất cả chuyện này [sự thịnh vượng của phương Tây] không phải là do sự khai sáng tự phát hay cơn bốc đồng của lòng tốt. Bản tính của con người không thể thay đổi một cách đột ngột được. . . . . Đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người con người tìm được biện pháp làm giàu, trong đó vận may của của tha nhân lại làm gia tăng vận may của chính họ. Khi David Hume có thể nói (1742) … “Tôi xin đánh bạo mà nói rằng, không chỉ như một người bình thường mà như một thần dân của nước Anh, tôi cầu nguyện cho nền thương mại thịnh vượng của nước Đức, nước Tây Ban Nha, nước Italy và thậm chí của chính nước Pháp nữa” thì đấy là thời khắc vĩ đại trong lịch sử chinh phục, cướp bóc và áp bức kéo dài. Trước khi Nguyên tắc Vàng trở thành hợp lý về mặt kinh tế, nhiều người đã không nghĩ như thế[23].”

Muốn làm giàu trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, như Gilder nhận xét, trước tiên người ta phải cho chứ không phải là nhận. “Quà tặng của chủ nghĩa tư bản tiến tiến trong nền kinh tế tiền tệ được gọi là đầu tư… Món quà đó sẽ chỉ thành công trong chừng mực nó mang tính vị tha và xuất phát từ việc nhận thức được nhu cầu của tha nhân.”[24] Mises viết:

“Phục vụ người tiêu dùng là cách làm giàu duy nhất. Nếu không đầu tư vào những dây chuyển có thể phục vụ tốt nhất nhu cầu của xã hội thì nhà tư sản sẽ đánh mất vốn liếng ngay lập tức[25].”

Trong hệ thống tự do như thế, người ta chỉ nhận được thù lao khi người bên cạnh cũng nhận được thù lao. “A” được chỉ lợi — đấy là nói khi tự do lựa chọn thắng thế – bằng cách cung cấp cho “B” sản phẩm hoặc dịch vụ mà “B” cảm thấy là đáp ứng được nhu cầu hay sở thích của mình[26]. Nếu tương tác này không còn thì mạng lưới hợp tác phức tạp làm nhiệm vụ củng cố hệ thống tư bản cũng sụp đổ ngay lập tức. Nếu không tin vào nhà sản xuất thì người bán sẽ không bán, nếu không tin vào sản phẩm hoặc dịch vụ hiện có thì người tiêu dùng sẽ không mua. Không thể đầu tư nếu những người có thể tiết kiệm và đầu tư không còn tin, cũng như chẳng còn quan tâm tới tương lai nữa.

Như Leonard Read đã chứng minh trong bài báo: Tôi, một chiếc bút chì, công bố hồi năm 1958 – rằng ngay cả những sản phẩm sơ đẳng được sản xuất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa cũng là kết quả của sự hợp tác của hàng ngàn người, thậm chí kể cả những người do tín ngưỡng hoặc chỉ nhìn thấy thôi mà có thể ghét nhau rồi. Đấy là sức mạnh của thị trường tự do. Không phải ngẫu nhiên mà, như Hans Sennholz đã chỉ rõ, thế kỷ XIX, một thế kỷ từng bị những người phê phán coi là một trăm năm bóc lột lại là thế kỷ hòa bình nhất trong lịch sử loài người[27].

Nền tảng của đạo đức

Vào năm 1776, khi Adam Smith trình bày luận điểm của ông trong tác phẩm Tài sản của các quốc gia (The Wealth of Nations), ông đã nhận ra rằng trật tự thị trường tự do không xuất phát từ những người hám lợi, tham lam và ác ý mà xuất phát từ xã hội, trong đó những giá trị đạo đức được coi là quan trọng, xuất phát từ xã hội, nơi óc sáng tạo, sự đồng cảm, tính tiết kiệm và trì hoãn thỏa mãn trong hiện tại để được tưởng thưởng trong tương lai, được mọi người coi là đức hạnh. Trật tự như thế đã được hình thành ở New England theo Thanh giáo, đấy là nơi mà đức hạnh – có vai trò sống còn đối với sự hình thành thị trường tự do – đã trở thành nền tảng cho khu vực tạo ra tinh thần Tự lực cánh sinh của Mĩ[iv].

Thanh giáo ban phước lành cho việc theo đuổi những lợi ích như thế (làm việc, tiết kiệm và kinh doanh) và chỉ rõ rằng ý Chúa – thông qua việc làm hàng ngày của mỗi người – có thể có lợi cho xã hội nói chung… Đấy là do người Thanh giáo… sẵn sàng trì hoãn sự thỏa mãn mà tư bản mới được tích lũy còn đầu tư thì tạo ra những sản phẩm mới[28].

Ngược lại, người ta có thể nói rằng những xã hội chỉ muốn trục lợi và có ít những phẩm chất đạo đức được mô ta bên trên cũng là những xã hội có ít, thậm chí không có tương lai kinh tế nào. Vì như Novak đã tuyên bố một cách đầy thuyết phục rằng chủ nghĩa tư bản không phải là kết quả chung cuộc cuộc của chủ nghĩa duy vật. Mà chủ nghĩa duy vật là khát khao vô độ, muốn được thỏa mãn ngay lập tức – trái ngược với thị trường tự do. Ông viết như sau:

“Phát triển kinh tế một cách bền vững không chỉ là sự dư thừa về mặt vật chất; nó xuất phát từ và tiếp tục đòi hỏi người ta phải có một số phẩm hạnh. Nếu những phẩm hạnh như thế không còn thì phát triển bền vững cũng sẽ tiêu ma. Nền văn hóa hưởng lạc, chỉ nghĩ đến mình, có vẻ như sẽ không đầu tư cho tương lai của chính nó hoặc không chịu thực hiện những hi sinh cần thiết cho sự thịnh vượng của chính nó[29].”

Phát triển kinh tế là kết quả của tự do

Mặc dù tốc độ phát triển kinh tế ngoạn mục đã xảy ra cách đây hơn 200 năm, nhưng nếu đặt hai thế kỷ đó trong dòng chảy hàng nhàn năm của lịch sử nhân loại thì đấy cũng chỉ như là một chớp mắt mà thôi. Mức sống của những con người mà số phận là phải sống trong đói nghèo và áp bức đã gia tăng nhanh chóng, có thể là quá nhanh đối với phần đông những người đã tham gia hay bị lôi kéo vào trật tự tư bản chủ nghĩa. Tự do kinh tế mang đến cho người ta nhiều lợi ích, nhưng ít người hiểu được vì sao sự thịnh vượng lại gia tăng một cách bất ngờ đến như thế. Những người sẵn sàng đi theo những triết lý truyền thống, đã bám chặt vào đầu óc của họ, dễ dàng trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ rao bán chủ nghĩa tập thể và ép buộc, coi đấy là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp hơn.

Nhưng bóng ma của tự do đã thoát ra rồi và con người, ngay cả khi không hiểu rõ làm sao mà tự do lại tạo cho họ cơ hội kinh tế, cũng đã được nếm hoa thơm trái ngọt của nó. Vì từng cá nhân đã được tự do, gông xiềng – từng một thời trói buộc người nô lệ, và thậm chí trói buộc cả những ông vua chuyên chế của họ nữa – trong thời tiền tư bản ít nhất là đã tạm thời được tháo bỏ. Vì thế mà người ta có thể ước mơ về một đời sống tốt đẹp hơn ở ngay chính nơi mà tổ tiên của họ từng phải chấp nhận tình cảnh nghèo khổ.

Kinh nghiệm của nền kinh tế tự do làm cho người ta vừa lạc quan lại vừa bi quan. Lạc quan là vì, như đã thấy trong suốt 200 năm qua, tự do mang đến cho tất cả mọi người một cuộc sống tốt đẹp hơn, và không còn thế lực có thể làm người ta phải sợ hãi. Nhưng người ta cũng bi quan vì có quá nhiều người không hiểu được những đức tính tốt đẹp của nền kinh tế tự do và vì vậy mà họ quay sang chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa quốc gia với hi vọng rằng áp chế sẽ giúp họ thực hiện được những giấc mơ của mình.

Nền kinh tế tự do tạo điều kiện cho người ta trở thành những người đức hạnh, tạo điều kiện cho người ta thể hiện tinh thần trách nhiệm và lòng trung thực và được tưởng thưởng vì có những đức tính tốt đó, làm cho những người đồng bào của mình có một đời sống tốt đẹp, giúp cho thế giới thoát khỏi dịch bệnh, đói nghèo và những tai họa khác đang săn đuổi những kẻ yếu đuối nhất trong chúng ta. Nó thúc đẩy hợp tác chứ không phải là xung đột, nó khuyến khích hòa bình chứ không phải là chiến tranh.

Khi Lippmann hô hào những đồng sự của mình quay lưng lại với cuộc vận động trở về với chủ nghĩa quốc gia trong những năm 1930 thì ông đã bị nhiều bạn bè, thuộc phái “tự do” chế giễu và tuyên bố là “tên phản động”. Nhưng hóa ra nhiều quan điểm thấu triệt của ông lại là đúng đắn và nhiều dự đoán của ông về cuộc chiến tranh sắp tới là chính xác. Hiện nay cũng vẫn còn đúng.

Thông điệp của Lippmann và cũng là thông điệp mà 200 năm tự do từng tuyên bố là: Xã hội tốt, một xã hội trong đó người dân có thể đấu tranh cho công lý, đức hạnh và một đời sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người chỉ có thể trở thành hiện thực khi người ta hành động nhằm “bảo vệ và đấu tranh nhằm hoàn thiện sự tự do của thị trường”[30].

Đấy không phải là một giấc mơ không tưởng vì những người tin vào không tưởng thì cũng là những người tin rằng có thể ép buộc con người để họ trở thành hoàn thiện hơn. Tôi không thể chấp nhận ý tưởng cho rằng vì một lý do nào đó con người sống trong cái thế giới mà chúng ta đang thấy sẽ không còn muốn phạm tội nữa. Nhưng thị trường tự do sẽ giúp đỡ con người – với tất cả những bất toàn của họ – xây dựng được một thế giới thịnh vượng hơn, dễ chịu hơn, công bằng hơn và đức hạnh hơn.

[themify_box style=”purple rounded” ]William Anderson là phó giáo sư kinh tế học tại Frostburg State University.[/themify_box]

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: The Virtues of the Free Economy


[1] Michael Novak, “The Economic System: The Evangelical Basis of a Social Market Economy,” The Review of Politics, Vol. 43 (July, 1981), p. 355.
[2] George Gilder, Wealth and Poverty (New York, 1981), p. 4.
[3] Walter Lippmann, The Good Society (Boston, 1937), p. 204.
[4] Chính sách Kinh tế mới của Lenin năm 1923, việc Stalin áp dụng mức lương khác nhau và những cách làm khác của “chủ nghĩa tư bản vào năm 1931 và việc khuyến khích các công ty tư nhân nhỏ bé ở nước Trung Hoa cộng sản hiện nay là những thí dụ dễ thấy của việc các chính phủ độc tài, theo đường lối tập thể, tìm kiếm sự trợ giúp của thị trường tự do.
[5] Novak, p. 365.
[6] J. Kautz thể hiện lý tưởng truyền thống trong tác phẩm Die geschichtliche Entwickelung tier Nationökonomik xuất bản năm 1860, khi ông mô tả những quan điểm phiếm thần của Hindu giáo. “Trước hết”, Kautz viết, “nền tảng của toàn bộ lý thuyết kinh tế và xã hội của Ấn Độ là sự tự chế và hi sinh, thừa nhận vô điều kiện và đề cao chế độ chuyên chế tuyệt đối, sự phủ nhận giá trị của chính con người…”
[7] Tác phẩm của phái Calvin Westminster Confession of Faith, được viết từ năm 1643 đến năm1648, bàn về Lời răn thứ 5 (Kính trọng cha mẹ) đã tìm cách mở rộng khái niệm cha mẹ để đưa vào đó cả “những người đứng đầu” xã hội nữa.
[8] Thí dụ trong chế độ quân chủ Pháp từ năm 1666 đến năm 1730 ngành công nghiệp dệt Pháp phải đương đầu với một núi luật lệ chứa trong 4 tập sách dày 2.200 trang và 3 cuốn phụ lục nữa.
[9] Arthur M. Schlesinger, Jr., “Neo-Conservatism and the Class Struggle,” The Wall Street Journal, June 2, 1981, p. 30.
[10] Lippmann, p. 194.
[11] Tác phẩm đã dẫn.
[12] Irving Kristol, Two Cheers for Capitalism (New York, 1978), p. 28.
[13] Robert Heilbroner, quoted from Time, April 21, 1980, “Is Capitalism Working?” Heilbroner là người ủng hộ xã hội kế hoạch hóa.
[14] Novak, Toward a Theology of the Corporation (Washington, D.C., 1981), pp. 11-12.
[15] Xem: “Inside North Korea, Marxism’s First ‘Monarchy,’” Reader’s Digest,Feb., 1982.
[16] Lippmann, p. 5.
[17] Trích theo William H. Peterson, “Creating a ‘Negative-Sum’ Society,”Business Week, November 16, 1981, p. 32.
[18] John C. Bennett, “Reaganethics,” Christianity and Crisis, December 14, 1981, p. 339.
[19] “The New Deal in Review, 1936-1940,” The New Republic, 102 (May 20, 1940), p. 707.
[20] Schlesinger, p. 30.
[21] Ronald J. Sider, Rich Christians in an Age of Hunger (Downers Grove, Illinois, 1977), p. 123.
[22] Muốn tìm hiểu kỹ về nền kinh tế bị nhà nước bóp nghẹt sinh ra thị trường chợ đen như thế nào, xin đọc Antonio Martino, “Measuring Italy’s Underground Economy,” Policy Review (Spring, 1981), và mô tả của Ken Adelman về thị trường chợ đen ở nước Tanzania xã hội chủ nghĩa trong “The Great Black Hope,” Harper’s, July, 1981.
[23] Lippmann, pp. 193-194.
[24] Gilder, pp. 24, 27.
[25] Ludwig von Mises, The Anti-Capitalistic Mentality (South Holland, Illinois, 1972), p. 2.
[26] Trong xã hội kế hoạch hóa, tức là xã hội mà chính phủ thực hiện việc chọn lựa về mặt kinh tế cho các công dân của họ thì người dân phải “chọn” bất cứ thứ gì chính phủ cho họ. Nhưng trong những điều kiện như thế sản phẩm và dịch vụ thường không đáp ứng được ước muốn và kết quả là người tiêu dùng bị chèn ép, bất mãn.
[27] . Hans Sennholz, “Welfare States at War,” The Freeman (January, 1981).
[28] James T. Laney, “The Other Adam Smith,” Economic Review, October, 1981, p. 28.
[29] Novak, “The Evangelical Basis of a Social Market Economy,” pp. 365-366.
[30] . Lippmann, p. 207.

[i] Mercantilist, Mercantilism – Thuyết theo đó nhà nước phải hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu để giữ trong kho càng nhiều kim loại quý thì càng tốt.
[ii] Dịch thoát ý từ Constantinianism
[iii] Dịch thoát ý câu “Do not that to another, which thou wuoldest not have tothy selfe”. Tại phương Đông trước đó cả hai ngàn năm Khổng tử đã nói: Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, nghĩa là cái mình không muốn, chớ làm cho người.
[iv] Dịch thoát ý thuật ngữ Yankee Ingennuity

Tại sao phải tìm để hiểu chính mình

Featured Image: Cameron Gardner 

 

Đó là một câu hỏi khá hay về triết học trong kỳ thi cấp 3 của ban kinh tế xã hội của nước Pháp năm 2014. Hôm nay tôi xem như là thí sinh.

Tôi có nghe một câu nói đại loại như thế này trong một bộ phim: “Nếu xã hội là một cỗ máy, thì mỗi người đều là một linh kiện trong chính cỗ máy đó.” Vậy tại sao chúng ta không tìm hiểu mình là linh kiện gì trong cỗ máy đó và bằng cách nào? Chỉ có một thứ duy nhất là “sự vận động” để bạn tìm hiểu mình là ai, hay nói ví von hơn đó là “phải tìm để tìm hiểu chính mình”.

Vậy bạn đặt câu hỏi, tôi vẫn đang sống, tôi vẫn đang vận động đấy? Nhưng câu hỏi tôi đặt cho bạn: Liệu bạn đang chết từ tuổi 30, 25, 20 , 10 hay khi bạn bắt đầu biết nhận thức. Bạn vẫn đang nuối tiếc cái thể xác này?

Đúng vậy, ngay từ lúc bạn nhận thức, nhà trường, xã hội, gia đình, bạn bè, trường học đã giáo dục bạn rằng: Bạn phải làm cái này, phải làm cái kia mới đúng, mới được chấp nhận. Vì vậy, bạn hành động theo đám đông, để được đám đông chấp nhận bạn, một vài cá nhân được tung hô lên vì sự vượt trội mà dựa trên các tiêu chuẩn của đám đông đó còn một vài cá nhân khác thì bị xem là thất bại và phần lớn thì lập lờ và vô tình, bạn đánh mất bản sắc tự nhiên của chính bạn, đánh mất sự khác biệt trong chính bạn. Bạn tự chôn vùi lấy chính mình trong đám đông. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ bạn nên đi tìm để hiểu chính mình.

Vậy đi như thế nào và bằng cách nào mới đúng

Tôi muỗn bạn suy nghĩ thêm của câu này từ Osho:

“Con tim luôn sẵn sàng mạo hiểm, con tim là kẻ nghiện cờ bạc. Trí óc là một thương gia. Trí óc luôn tính toán – nó gian xảo, xảo trá. Con tim không biết đến sự tính toán.”

Tôi cũng không biết đi thế nào là đúng, nó quá mông lung để khái quát hoặc tôi chưa đủ giỏi để khái quát, nhưng nếu bạn tập trung vào điều bạn muốn, lắng nghe từ con tim, tôn trọng con tim thì tôi tin bạn sẽ tự tìm thấy điêu khác biệt của chính bạn, chỉ bạn mới có. Và tôi chắc chắn rằng bạn phải vận động, vận động không có nghĩa là chỉ di chuyển, đứng yên cũng là một trạng thái của vận động nhưng bạn sẽ phải vận động cơ não nhiều hơn để tìm điều bạn muốn.

Nhưng vẫn động như thế nào? Tại sao chúng ta dùng cặp từ “tìm-để ” đó là sự vận động một cách chủ động, có thể bạn đi sai đường, nhưng đó là cách bạn khám phá chính mình, để thay đổi chính mình, để không bị cuộc sống chôn vùi sự khác biệt của chính bạn. Tôi nghĩ rằng nếu bạn không chủ động thay đổi, cuộc sống sẽ thay đổi bạn. Và chỉ có sự thay đổi liên tục, bạn mới thực sự tìm thấy chính mình ở đâu trong thế giới luôn thay đổi này.

Bạn sẽ được gì từ việc đó, có quá nhiều rủi ro? Bạn nghĩ vậy!

Tôi xin trả lời rằng: Bạn có rất nhiều lý do để làm việc đó.

Đầu tiên, đó là việc giúp bạn cảm thấy tự tin, tôn trọng người khác. Nếu bạn nghĩ rằng, người đứng đầu trong một đám đông cảm thấy luôn tự tin thì bạn hoàn toàn sai lầm. Họ luôn luôn sợ hãi, khi đứng trên một đỉnh núi mà phía dưới có hàng trăm người cùng leo lên, nỗi sợ của bạn càng lớn, sợ bị người khác lôi bạn xuống và bạn lại bị đánh giá là thua cuộc, khi bạn đạt được điều mà mọi người cũng mơ ước, bạn dễ bị kiêu ngạo.

Nhưng nếu bạn chỉ leo một ngọn núi của riêng mình, bạn sẽ chỉ nhìn về phía trước còn bao xa. Vì bạn không thể so sánh với ai khác, và bạn cũng biết không ai có thể so sánh với bạn nên bạn luôn cảm thấy tự tin với ai đó vì bạn đang làm việc của bạn và bạn thấy chẳng giỏi hơn người khác, vì bạn biết bạn đang làm việc của bạn mà thôi.

Tiếp theo, bạn sẽ bao dung, thấu hiểu, chia sẻ hơn so với người khác. Cũng chính vì bạn leo đỉnh núi của chính bạn, thử thách đó dành cho bạn, phần thưởng đó cũng chỉ dành cho bạn. Bạn thấy cảm thông với nỗi thống khổ của người khác, bạn muốn giúp đỡ mọi người cùng hoàn thành công việc của họ, vì lý do đơn giản nhất mà bạn biết : mọi người cùng thắng.

Tiếp theo nữa, bạn thực sự mạnh mẽ. Mỗi người đều mang sự khác biệt, hiểu chính mình, Bạn biết không một ai có thể so sánh với bạn, vì nó rất khập khiễng, bạn sẽ tìm thấy sự khác biệt trong chính bạn, đó là điểm mạnh và cũng là sở thích của bạn, sở thích một cách tự nhiên như một bông hoa, ngọn cỏ, ánh mặt trời. Bạn không cần gượng ép sở thích, nó được phát triển trên bản năng và cuộc sống. Và vì đó là việc bạn chủ động chọn, bạn sẽ luôn có trách nhiệm cao cho việc bạn làm, trách nhiệm với cuộc sống của bạn.

Và lý do quan trọng nhất mà tôi muốn trình bày, đó là việc bạn thực sự đang sống trong thế giới của bạn tạo ra. Hiểu chính mình, bạn sẽ có mục tiêu của cuộc đời mình, làm công việc mình thích, sống một cuộc sống có ích, hoàn thành sứ mệnh của cuộc sống.

Bạn cảm thấy thế nào? Tôi hoàn toàn tôn trọng suy nghĩ của bạn. Tôi cũng không biết bạn có đủ kiên nhẫn đọc đến cuối cùng hay không, và hãy để nhưng suy nghĩ va đập với cuộc sống của bạn, khi đó, bạn hãy lẵng nghe tiếng nói từ con tim và mạnh mẽ lên. Không bao giờ là quá muộn để đi tìm chính mình vì đó là cuộc sống.

Gửi một người bạn!

 

Phan Công Thiết