Featured Image: Noah Weiner
Giới thiệu: Tuổi trẻ Việt Nam chậm tiến về nhận thức chính trị hơn các tuổi trẻ các nước khác. Đó là sự thật. Nhưng không phải tại các em. Nhận thức của các em sinh ra là những tờ giấy trắng, xã hội Việt Nam (trong trường hợp này là cơ chế CS) qua các phương tiện tẩy não đã viết lên đó một màu đen lạc hậu. Bài viết dưới đây, viết 9 năm trước, để phân tích bệnh “nói trễ và nói dối” tại Việt Nam. Phần sau của bài viết tôi dành phê bình các chi tiết sai của nhà văn Lê Lựu khi viết về thành phố Boston, nơi tôi đang sống, trong tác phẩm Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ của ông.
Tác phẩm Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ đã được đăng báo nhiều kỳ và xuất bản nhiều lần tại Việt Nam. Ngày nay, sở dĩ đa số tuổi trẻ Việt Nam còn “hát như vẹt”, sống như “chim công nghiệp” cũng tại vì những cây bút “chống Mỹ cứu nước” như thế này. Những “nhà văn” “nhà thơ” này là dầu, nhớt, mỡ của bộ máy độc tài toàn trị CS. Một khi họ trở thành cặn bã, bị cơ chế đào thải, bỏ rơi, lại có một lớp khác lên thay tiếp tục là nô bộc cho chế độ. Nhân việc so sánh tuổi trẻ Hong Kong và tuổi trẻ Việt Nam, xin chia sẻ bài viết với các bạn để thấy tai họa của cây bút vô trách nhiệm, thiếu tư cách đạo đức, đang sống trong thời đại toàn cầu hóa nhưng tư duy vẫn còn ở trong rừng:
Hai căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam: nói trễ và nói dối
Sinh viên, học sinh Việt Nam vẫn nghĩ khẩu hiệu: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.” Là câu nói bất hủ của ông Hồ. Thật ra, câu nói đó lấy ý từ câu: “Nhất niên chi kế, mạc như thọ cốc, thập niên chi kế, mạc như thọ mộc, bách niên chi kế, mạc như thọ nhân.” Nghĩa là: “Kế hoạch cho một năm, không gì bằng trồng lúa, kế hoạch cho mười năm, không gì bằng trồng cây, kế hoạch cho trăm năm, không gì bằng trồng người.” Trong văn học Trung Quốc.
Dù sao, sau hơn nửa thế kỷ trồng người, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, ngoài việc sinh ra các tình trạng mà Giáo sư Hoàng Tụy gọi là “nguy kịch” như chạy theo bằng cấp, bằng giả, học giả, làm luận án thuê v.v.., còn gây ra hai căn bệnh rất phổ biến trong xã hội Việt Nam, theo tôi, còn trầm trọng và khó chữa trị hơn nhiều, đó là bệnh nói trễ và nói dối.
Trẻ con trung bình vào khoảng hai, ba tuổi là bắt đầu tập nói. Nếu đến bốn tuổi mà chưa nói được, đứa bé sẽ bị xem như mắc triệu chứng nói trễ. Theo các tài liệu y khoa, đây không phải là căn bệnh làm chết người nhưng vẫn là một mối lo canh cánh bên lòng các bậc cha mẹ khi nghĩ đến việc con mình không biết nói. Chúng ta không hiểu được nỗi lòng của các em bé, nhưng chắc các em cũng khổ tâm ghê lắm khi không nói được một cách bình thường như những đứa trẻ khác.
Tôi không biết Việt Nam có bao nhiêu em bé bị mắc phải triệu chứng nói trễ, tuy nhiên, phát biểu trễ, trong đó tính chung cả nói và viết, thì rất đông. Ðông đến nỗi, khi có một em phát biểu được những gì em suy nghĩ, ai nấy đều xem đó như một hiện tượng lạ, không những cha mẹ em mừng, anh chị của em mừng, bà con em mừng, mà tám chục triệu đồng bào trong nước và cả hai triệu người Việt ở hải ngoại cũng mừng theo.
Ðó là trường hợp của em Nguyễn Phi Thanh, học sinh lớp 11A18 trường THPT Việt Ðức, Hà Nội. Trong lúc Autism Spectrum Disorders là do sự phát triển chậm của khu vực nói trong hệ thần kinh trẻ em, bệnh nói trễ ở Việt Nam là do nền giáo dục xã hội chủ nghĩa gây ra và tồn tại không chỉ trong trẻ em mà cả trong nhiều người lớn tuổi.
Nhận xét của em Phi Thanh về đề thi “Giới thiệu vẻ đẹp của tác phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc” đã được báo chí trong và ngoài nước đăng tải khá nhiều, tôi chỉ trích một đoạn ngắn:
“Em nghĩ, đứng trước một tác phẩm văn học bao giờ cũng có ý kiến trái ngược khen–chê, hay-dở nhưng dường như học sinh bọn em chỉ có quyền thích, chỉ có quyền khen hay mà không có quyền nói lên chính kiến của mình, và việc phê bình văn học hình như chỉ là việc của các nhà phê bình. Phải chăng vì tư tưởng bảo thủ này mà suốt 63 năm qua, văn thơ của chúng ta chưa được “mới”? Nhìn ra, chỉ ra cái hay của một tác phẩm văn học đã khó, nhưng chỉ ra cái hạn chế, thiếu sót của tác phẩm ấy còn khó hơn nữa, vậy mà chưa bao giờ bọn em được tỏ rõ chính kiến của mình trong một bài thi cả, tất cả chỉ vì áp lực điểm số.”
Sự đồng tình của nhiều người, nhiều giới, trong đó có một số người đang làm công tác giáo dục, về bài viết của em Phi Thanh, chứng tỏ sự khát khao, chờ đợi của người dân dành cho một tiếng nói trung thực, một phản ứng tích cực thay vì rập khuôn một cách thụ động theo dấu chân của đảng trên con đường mòn giáo dục xã hội chủ nghĩa như năm chục năm qua.
Nền giáo dục vẹt tồn tại trong xã hội Việt Nam từ bao nhiêu năm qua đã giết chết mọi mầm mống sáng tạo tự nhiên trong con người. Không một giáo án, giáo trình, diễn văn, tham luận, tuyên ngôn, tuyên cáo nào mà không trích dẫn vài “lời dạy” của các lãnh tụ cộng sản. Sự nô lệ trí thức như là một loại vi trùng sinh sôi và lan rộng trong từng con người, qua nhiều thế hệ, xói mòn và tàn phá tính khai phóng, làm thui chột tính sáng tạo trong con người.
Trong lúc bệnh nói trễ dù sao cũng tùy trường hợp mỗi người, bệnh nói dối là cả một hệ thống, dối có chủ trương, dối có sách vở, dối có tổ chức. Ðó chính là một hậu quả tai hại khác của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung.
Vì hoàn cảnh, con người phải lừa dối nhau để tồn tại. Ðiều đó đôi khi còn có thể thông cảm. Thế nhưng một tác phẩm văn học xây dựng trên sự lừa dối và nhằm mục đích lừa dối người khác là một điều không thể chấp nhận được. Rất tiếc, việc hình thành một đội ngũ của những người viết dối để phục vụ cho chế độ, cũng là một trong những đặc điểm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Ðể chứng minh cho tính nói dối trong văn học Việt Nam, tôi xin giới thiệu đến độc giả một đoạn văn của nhà văn Lê Lựu viết về thành phố Boston, nơi tôi đang sống, trích trong tác phẩm Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ của ông, do nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản năm 2000.
Trước khi đánh máy lại đoạn văn của nhà văn Lê Lựu, tôi xin giới thiệu vài dòng về Boston, để độc giả chưa đến hay chưa biết nhiều về thành phố lịch sử này của nước Mỹ, có một khái niệm tổng quát về thành phố. Boston là trung tâm lịch sử và một trong những thành phố trù phú nhất của liên bang Hoa Kỳ. Nơi đây, từ bốn trăm năm trước đã có những di dân đầu tiên trên chiếc tàu Mayflower giong buồm tiến vào vịnh Provincetown, Cape Cod. Tên tuổi và địa danh của những quận như Concord, Lexington, Bunker Hill đã đi vào lịch sử vẻ vang của cuộc chiến tranh giành độc lập từ tay đế quốc Anh.
Boston cũng là thành phố kỹ thuật lớn, với hàng trăm công ty kỹ thuật cao cấp nằm hai bên các xa lộ chung quanh thành phố, và là trung tâm giáo dục hàng đầu thế giới với Đại học Harvard, Học viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT), Đại học Boston, Đại học Massachusetts và hàng chục trường đại học tên tuổi khác.
Theo thống kê năm 1990 (thời gian nhà văn Lê Lựu đến thăm), Boston có dân số là 574.282 người, với lợi tức trung bình của một gia đình Boston khoảng 40 ngàn Mỹ kim một năm. Giống như các thành phố lớn khác của Mỹ trong xã hội tư bản, bên cạnh sự thịnh vượng của thành phố, Boston cũng có những người không nhà. Hai lý do chính của tình trạng không có nơi ở (homelessness) là lợi tức tăng chậm hơn tiền mướn nhà và giá nhà ở tại Boston quá cao. Mỗi năm, Thị trưởng Boston công bố một thống kê chính thức về tình trạng không nhà của người dân Boston và các biện pháp ngăn ngừa. Năm 1992, Boston có 4411 người không có nơi riêng để ở và phải ở trong các khu nhà tạm trú (shelter) do chính phủ cung cấp với điều kiện sống chật chội và thiếu tiện nghi hơn ở nhà riêng.
Và sau đây là đoạn văn tả thành phố Boston của nhà văn Lê Lựu sau chuyến viếng thăm Boston của nhà văn vào năm 1989:
“Boston, thủ đô của nền văn hóa sang trọng, lịch lãm nhất nước Mỹ. Nhìn về Boston, người Mỹ có thể vênh vang ngửa mặt ra bốn phương mà kiêu ngạo, mà tự tin chỉ cần mặc chiếc quần soóc, chiếc áo may ô, bất kể đàn ông hay đàn bà có thể nghênh ngang đi khắp trái đất, không thèm nhìn ai. Vậy mà giữa bão tuyết của đêm mùa đông ngoài trời có hơn 130 ngàn người không cửa, không nhà.
Chị Liliên (bạn của nhà văn và là người làm việc ở trung tâm cứu trợ người nghèo) nói: Con số này tự tôi và đồng nghiệp của tôi đã đi đếm suốt đêm. Bằng mọi cách phản đối, kiến nghị lên chính phủ địa phương, chính phủ liên bang và kêu gọi lòng từ thiện của nhân dân, đến nay mới kiếm được chỗ ở cho 54 ngàn người, còn 77.600 người vẫn đêm đêm nằm lại vườn hoa và hè phố. Nhưng trong thực tế sẽ lớn hơn nhiều so với 77.600 vì mùa đông năm ngoái chúng tôi chưa đếm lại.”
Và trong đoạn sau, nhà văn Lê Lựu so sánh Boston và Hà Nội:
“Ở đất nước ta nghèo túng là thế, ở thủ đô có số dân bằng số dân Boston, mà đã ai trông thấy, đã ai đếm được con số một nghìn người đêm đêm lăn lóc ở lề đường, trong các vườn hoa Hà Nội! Sự giàu sang ở Hà Nội không thể đem so sánh với Boston. Ai làm công việc đó được coi như kẻ mắc bệnh tâm thần, kẻ dở hơi. Nhưng sự vất vưởng của con người Boston đem so sánh với Hà Nội cũng là giữa trời và vực.”
Nếu những dữ kiện của nhà văn Lê Lựu viết ra là đúng thì Boston, thành phố đầy kiêu hãnh của nước Mỹ, trong mùa đông đã có gần một phần tư dân số phải chịu cảnh màn trời chiếu đất.
Số người do chị Liliên nào đó và các bạn chị đếm cao hơn con số do Thị trưởng Boston công bố gấp 30 lần! Con số của chị Liliên chỉ cần đúng một nửa thôi, chẳng những Thị trưởng Boston mất chức, Thống đốc bang Massachusetts mất chức, mà cả Tổng thống Mỹ cũng phải từ chức vì nạn đói năm Ất Dậu ở Việt Nam hình như đang tái diễn ngay tại quốc gia cường thịnh nhất thế giới này. Chị Liliên (tạm cho là một nhân vật có thật), trong tư cách là người làm việc cho một cơ quan xã hội và hẳn nhiên am tường tình trạng không nhà, đào đâu ra con số vô cùng khủng khiếp và phi lý đến thế?
Hình ảnh 130 ngàn người lay lắt trong một thành phố với diện tích 125 cây số vuông như Boston, ngay cả đạo diễn các phim chiến tranh thế giới, chắc cũng không nghĩ ra. Boston, nếu quả thật như vậy, không còn là thành phố cảng tuyệt vời và là quê hương của John F. Kennedy, George Herbert Walker Bush, Quincy Adams, John Quincy Adams, Henry Wadsworth Longfellow, Ralph Waldo Emerson, Emily Dickinson mà là Rwanda, Bangladesh, Ethiopia.
Và cho dù chị Liliên là người có thật và thích bịa chuyện đi nữa, trong tư cách một nhà văn đã viết nhiều tác phẩm, không phải lần đầu tiên viếng thăm Mỹ, nhà văn Lê Lựu cũng nên có một thái độ nghi ngờ dữ kiện cần thiết, một lý trí trưởng thành để cân nhắc và đánh giá những gì nhà văn nghe, nhà văn thấy, trước khi cầm bút viết lại câu chuyện và in thành sách.
Và “một thời lầm lỡ” in thành sách rồi, khi tái bản vào năm 2000, nhà văn cũng nên xét lại những đoạn viết dối quá lố lăng để khỏi làm trò cười cho độc giả, nhất là các em du học sinh đang theo học tại Boston. Nhưng không, nhà văn vẫn nghĩ rằng những dữ kiện lạ lùng đó là sự thật và in lại mà không cần cắt bỏ. Nếu tác phẩm hay đoạn văn đó được dịch sang tiếng Anh, độc giả Mỹ sẽ nghĩ sao về tư cách và trình độ kiến thức phổ thông của một nhà văn Việt Nam?
Chắc chắn họ sẽ vô cùng thất vọng
Người Mỹ bỏ tiền mua vé máy bay cho nhà văn, lo chỗ ăn chỗ ở, đưa đón, hướng dẫn tham quan, tiếp xúc, thảo luận, không phải để nhà văn ca ngợi nước Mỹ hay chửi cha mắng mẹ họ, nhưng chính là để nhà văn được thấy sự thật và mang về lại Việt Nam sự thật của đời sống Mỹ, con người nước Mỹ, và qua trung gian nhà văn, các thế hệ trẻ Việt Nam có cơ hội hội nhập vào thế giới trong tinh thần cảm thông và đối thoại.
Nhà văn may mắn được đi tham quan nước ngoài, lẽ ra nên mang về lại nhà những tin tức khách quan, những cái mới, cái hay cái đẹp đang xảy ra phía bên kia ô cửa của ngôi trường nhỏ hẹp, để giúp cho sinh viên học sinh cơ hội được nhìn xa hơn, rộng hơn đến những chân trời văn minh của nhân loại. Nếu không được như Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, thì nhà văn cũng không nên đào sâu thêm hận thù, ganh ghét trong lòng người dân hai nước.
Ðọc xong tác phẩm Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ, các em học sinh Việt Nam có thể nghĩ rằng không chỉ Việt Nam nghèo nàn, mà ngay cả một siêu cường cỡ Mỹ cũng đang khốn đốn vì miếng cơm manh áo; không phải chỉ Việt Nam có những kẻ khố rách áo ôm, mà nước Mỹ cũng đầy những cảnh đầu đường xó chợ.
Thưa nhà văn, thời đại của “trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ, đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ” đã qua xa rồi. Hãy để cho các em có cơ hội được thấy những đổi thay bên ngoài đất nước. Không có sự so sánh thì làm sao các em biết nỗ lực để vươn lên.
Nhà văn cũng không cần phải bôi đen thành phố lịch sử Boston của Mỹ chỉ để chứng minh cho cái nghèo nhưng sạch, rách nhưng thơm của Hà Nội như là “giữa trời và vực”. Kỹ thuật tự khen mình bằng cách bêu xấu đối phương không phải tư cách của một người lương thiện, và tương tự, hạ thấp giá trị của thành phố nhà văn đang thăm viếng chỉ để biện hộ cho cái mặc cảm nghèo nàn của một thành phố Việt Nam không phải là cách viết của một nhà văn trưởng thành và thái độ của một con người lịch sự.
Hà Nội không cần nhà văn ca ngợi hay binh vực bằng phương cách đó. Trong trái tim của mỗi người Việt Nam, dù trong nước hay ngoài nước, Hà Nội tuy nghèo, Hà Nội tuy xưa, Hà Nội tuy cũ, nhưng Hà Nội vẫn uy nghi như một trung tâm văn hóa lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Nếu ai nói khác hay khinh thường Hà Nội, không đợi đến nhà văn đứng ra bảo vệ mà tám chục triệu người, trong đó có kẻ viết bài này, sẽ làm công việc đó. Ca ngợi Hà Nội như cách của nhà văn chẳng khác gì trét bùn lên một bức tranh tuyệt mỹ.
Ðộc giả sẽ thắc mắc, làm thế nào một nhà văn như đại tá Lê Lựu lại có thể viết những chuyện xa vời thực tế như thế. Câu trả lời chắc sẽ dành cho nhà văn mặc dù những tham luận, bút ký có khả năng giết người vẫn nhan nhản trong xã hội cộng sản, sá chi là chuyện vài con số tuyên truyền. Với tôi, câu trả lời rơi vào một trong hai trường hợp, nếu chị Liliên không nói thì chính nhà văn đã viết dối và nếu chị Liliên không biết đếm thì nhà văn là người không có khả năng phân biệt sự khác nhau giữa giả dối và thành thật.
Chúng ta thường lo âu về những tình trạng chậm tiến về khoa học kỹ thuật, nghèo nàn lạc hậu về kinh tế, nhưng nghĩ cho cùng, cái nghèo đói trí thức, nghèo đói tinh thần, nghèo đói đạo đức tại Việt Nam còn trầm trọng và thúc bách hơn nhiều.
Với óc cần cù, thông minh của người Việt và cơ hội học hỏi khắp năm châu, chúng ta không phải quá lo lắng về một nền khoa học hiện đại, một nền kỹ thuật hiện đại. Ðiều đáng lo lắng nhất vẫn là làm thế nào để có những con người Việt Nam biết sống lương thiện và thành thật, làm thế nào có được một nền giáo dục biết đặt cơ sở trên tinh thần nhân bản, dân tộc và khai phóng thật sự làm nền tảng cho một xã hội dân chủ pháp trị tiên tiến trong tương lai. Ðó là một cuộc cách mạng tư duy và tâm thức lâu dài.
Mới chỉ năm mươi năm thôi mà các giá trị luân lý, đạo đức Việt Nam đã suy đồi và băng hoại đến thế này, nếu đợi đúng “một trăm năm trồng người” xong thì đất nước sẽ ra sao?