17.2 C
Da Lat
Thứ Bảy, 26 Tháng 7, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 182

10 quyển sách phải đọc trước tuổi 30

Featured image: Thegoodvybe

 

Trong công việc và cuộc sống, tôi thường được nghe câu hỏi: “Đâu là quyển sách gối đầu giường của bạn?” Tôi mỉm cười và trả lời, tôi gối khá nhiều quyển vì ngày xưa không có tiền mua gối nên phải dùng sách để gối. Đây là câu trả lời vui nhưng nó là sự thật, bởi ngày trước tôi thường ngủ chung với sách và dùng nó gối đầu. Nhưng thời nay tôi thấy đa số các bạn trẻ không mấy ai còn mặn mà “ngủ” với sách nữa, thay vào đó là những chiếc Smartphone hay các thiết bị công nghệ.

Tôi nhớ, có lần Anh Nguyễn Cảnh Bình – CEO của Alpha Book đã từng bộc bạch: “Tôi luôn “dành được” cảm giác THƯƠNG HẠI và MUỐI MẶT khi phát biểu với những đồng nghiệp quốc tế rằng, ‘Những cuốn sách Best Seller ở đất nước chúng tôi có doanh số khoảng mười ngàn bản.’ Còn ở nước họ, Hàn, Nhật, Pháp… Thì con số từ một đến ba triệu bản là chuyện bình thường, trong khi dân số của ta chẳng thua kém nước bạn, thậm chí là còn áp đảo.”

Điều đó đã nói lên lý do tại sao nhiều nhà xuất bản và các đơn vị phát hành sách của chúng ta đang “sống” trong tình trạng thoi thóp, và cũng phần nào lý giải cho nguyên nhân vì sao đất nước ta đang là một xã hội dân trí thấp. Tất nhiên, một xã hội dân trí thấp vẫn sinh ra ai đó trở thành thủ tướng hoặc triệu phú, nhưng nhìn chung, khi phải đối chọi với thế giới, xã hội ấy sẽ có sức cạnh tranh kém. Nó sẽ rất khó vươn lên thành một xã hội tri thức, nơi con người đạt tới trình độ tổ chức và công nghệ cao, mà chủ yếu nó vẫn sống dựa vào đất đai, tài nguyên và nhân công giá rẻ. Xét về mặt nhân văn, một xã hội ít đọc sách cũng là một xã hội thô lậu, kém tinh tế, rất khó sinh ra các nhà tư tưởng, nhà văn hoặc nghệ sĩ lớn.

Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, những tên “mọt sách” chẳng qua chỉ giỏi hoa miệng, múa bút chứ đâu có làm được tích sự  gì. Trong một thế giới có tốc độ thay đổi được tính bằng giây thì những kiến thức cũ kỹ trong sách còn ai thèm dùng nữa. Tất nhiên bạn có quyền giữ quan điểm của riêng mình. Nhưng có một thực tế mà chắc chắn chúng ta không thể phủ nhận là hầu như những người thành đạt đều đọc rất nhiều sách. Và họ cũng rất coi trọng việc chọn trường và chọn sách cho con em họ.

Có thể bạn sẽ hơi ngạc nhiên khi biết mình đang đọc bài giới thiệu sách của một cậu bé có trình độ lớp 9. Đã mười năm nay tôi chưa một lần được ngồi trên ghế của một ngôi trường chính thống. Thường ngày, tôi vẫn luôn tự nhận mình là kẻ thất học. Nhưng kỳ thực, tôi vẫn luôn đều đặn “đi học” ở hai ngôi trường khác, đó là “trường đời” và những quyển sách. Đối với tôi, sách không chỉ là tệp giấy có in chữ, nó còn là người bạn, người thầy, người dẫn đường thông thái.

Tuy không được đến trường, nhưng tôi lại có may mắn khi đem lòng “yêu sách” ngay từ thuở thiếu thời. Cũng như các bạn, tôi có chút bối rối và khó khăn trong những ngày đầu bước chân vào “làng đọc”. Vừa mù mờ về kỹ năng đọc, vừa chẳng biết đọc gì cho hữu ích và mang lại nhiều giá trị nhất.

Là người ít học – cũng là người trẻ, tôi tự thấy chẳng có tư cách gì để lên lớp hay chỉ giáo cho bạn một điều gì cả. Tuy vậy, qua mười năm miệt mài trong “ngôi trường” rộng lớn ấy. Tôi chắt lọc lại và xin giới thiệu đến bạn những đầu sách dưới đây. Theo cảm nhận của cá nhân tôi đây là những quyển sách rất hay và nhiều giá trị mà những người trẻ chúng ta cần phải đọc. Tôi tin rằng, khi đọc nó bạn sẽ nhận thấy SÁCH là một “ngôi trường” tiện lợi nhất, thân thiện nhất, phí thấp nhất nhưng cung cấp cho ta một lượng kiến thức rất phong phú và bổ ích.

Chúc bạn sẽ có những giờ phút thư  thái và tìm thấy nhiều điều thú vị, hữu ích trong các tác phẩm dưới đây.

1. Thế giới phẳng – Thomas L. Friedman

Thể loại: Kinh tế – chính trị

Bằng những câu chuyện hứng thú và sinh động, Friedman đã mô tả quá trình giác ngộ của bản thân khi ông chạm trán với thế giới phẳng. Nhưng có lẽ điều làm nên giá trị đích thực của cuốn sách với khả năng diễn đạt kiểu “người thật việc thật”, tác giả đã kiến giải sự vận động chính trị – kinh tế thế giới một cách dễ hiểu và rất thuyết phục.

2. Trí thức tinh hoa Việt Nam đương đại – Hàm Châu

Thể loại: Bút ký – chân dung

Với bút pháp đầy cảm xúc khi kể về con người, lại chính xác, khoa học khi kể về những công trình, thành tựu. Hàm châu đã miêu tả vô cùng rõ nét và chân thực về con đường của cha ông, trí tuệ của cha anh. Tác phẩm là bức hoạ hoành tráng phản ánh về giai thoại lịch sử Việt Nam đương đại.

3. Những giấc mơ từ cha tôi – Barack Obama

Thể loại: Hồi ký

Những Giấc Mơ Từ Cha Tôi là một cuộc nghiên cứu nhạy cảm và tinh tế về chuyến hành trình của Barack Obama vào thế giới tuổi trưởng thành, cuộc tìm kiếm của ông về cộng đồng và vai trò của mình trong đó, một cuộc tìm kiếm sự cảm thông đối với cội nguồn, và sự khám phá của tác giả về chất thi vị của cuộc sống con người. Mẫn cảm và uyên thâm, đây là cuốn sách mà tất cả những người trẻ chúng ta nên đọc, để hiểu chân dung của một trong những vị chính khách có tầm vóc và có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay, không chỉ là ảnh hưởng về quyền lực mà còn cả về tư tưởng.

4. Rừng Na Uy – Murakami Haruki

Thể loại: Tiểu thuyết

Có thể nói Rừng Na Uy là một trong những tác phẩm hay nhất mà tôi từng đọc. Một quyển sách dành riêng cho thế hệ trẻ, xoay quanh các nhân vật ở độ tuổi sinh viên. Câu chuyện kể về những cuộc chơi bời vô độ, những khoảng trống vắng trong tâm hồn của những con người trẻ không thỏa hiệp được với cuộc sống, và sự dằn vặt trong sâu thẳm con người họ để tìm cho mình lối thoát. Họ tự “tầm thường hoá” bản thân bằng sự che giấu những khuyết điểm của mình, không mở lòng với nó, sống với nó, cũng như  sống với chính con người thật của họ. Đây là quyển sách cần phải đọc với bạn trẻ ở tuổi sinh viên, để tìm ra “bánh lái” cho chính cuộc đời mình và để cảm nhận tâm trạng của giới trẻ Nhật Bản khi nước này đang ở một giai đoạn phát triển khá giống với Việt Nam hiện nay.

5. Tôi là ai – Và nếu vậy thì bao nhiêu – Richard David Precht

Thể loại: Triết học, xã hội học

Richard David Precht đưa độc giả đi qua hành trình mấy nghìn năm triết học để loại bỏ những tư tưởng sai lầm và chắt lọc những tư tưởng vẫn còn được coi là đúng đắn hoặc vẫn được tiếp tục thảo luận. Đây là cuốn cẩm nang quan trọng để những người trẻ chúng ta hình dung ra quy mô các vấn đề trong xã hội hiện đại, để trả lời cho câu hỏi: Ta là ai? Ta đang sống ở thời đại nào? Ta nên làm gì?

6. Trăm năm cô đơn – Gabriel Gacía Marques

Thể loại: Tiểu thuyết

Trăm năm cô đơn là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất đã mang lại giải Nobel cho Gabriel Cacía Marques. Nó là sự kết hợp của thần thoại của thổ dân da đỏ với trí tuệ của văn minh hiện đại, sự pha trộn giữa các yếu tố hiện thực và hoang đường đã tạo ra một hệ thẩm mỹ đặc biệt mà các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học gọi là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, một sản phẩm đặc thù của Mỹ Latinh hiện đại, đã đưa tâm hồn xứ  sở này ảnh hưởng khắp thế giới.

7. Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh

Thể loại: Tiểu thuyết

Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết hay nhất về chiến tranh Việt Nam, gây tiếng vang lớn trên phạm vi quốc tế, được nhanh chóng dịch ra tiếng Anh và đã bán được trên 100.000 bản ở Mỹ, con số sách bán kỷ lục của một tác giả Việt Nam ở nước ngoài. Tác phẩm kể về một thế hệ thanh niên trong một cuộc chiến tàn khốc, hủy diệt, những con người để tuổi trẻ trôi đi trong bom đạn và những cơn mưa rừng, trong cô đơn và lãng quên, và trên hết là nỗi buồn. Ta không thấy trong Nỗi buồn chiến tranh tâm trạng “đường ra trận mùa này đẹp lắm” như ở các bài ca chống Mỹ, mà là một tâm trạng đau xót, mất mát, tiếc nuối của tuổi trẻ. Một tâm trạng chán ghét chiến tranh và khao khát hòa bình.

8. Dân chủ và giáo dục

Thể loại: Triết học, giáo dục.

Cuốn sách này là kết quả của một nỗ lực nhằm phát hiện và trình bày những quan niệm gắn liền với một xã hội dân chủ, và vận dụng các quan niệm đó vào những vấn đề của hoạt động giáo dục. Cuốn sách chỉ rõ những mục tiêu và phương pháp kiến tạo của nền giáo dục công lập xét từ quan điểm nói trên, và đưa ra đánh giá có tính phê phán các lý luận về nhận thức và sự phát triển đạo đức. Đồng thời nó cũng giúp ta trả lời cho ba câu hỏi. Bản chất của con người là gì? Chúng ta muốn trở thành con người như thế nào? Và làm thế nào để có được con người như ta muốn?

9. Quốc gia khởi nghiệp – Dan Senor & Saul Singer

Thể loại: Kinh tế, chính trị, kể chuyện

Pha trộn giữa một chút khám phá, một chút tranh cãi và những câu chuyện kỳ thú. Cuốn sách đã làm toát lên phẩm chất vượt trội của con người và đất nước Israel, một quốc gia nhỏ bé, một nền kinh tế thần kỳ. Thể hiện khát vọng to lớn về một dân tộc vĩ đại và tư duy toàn biên – toàn diện – toàn cầu. Đó cũng là lời nhắc nhở dành cho thế hệ trẻ Việt Nam chúng ta phải soi mình và tự vấn chính mình.

10. Trò chuyện triết học – Bùi Văn Nam Sơn

Thể loại: Tập hợp các bài viết về triết học.

Quyển sách không chỉ là “bữa tiệc triết học” hoành tráng để thưởng lãm, mà quan trọng hơn nó có tác dụng như  một thứ hoạt chất kích thích tư  duy nói chung, trong bối cảnh đình trệ tư  duy và tinh thần bế tắc của xã hội. Đọc “trò chuyện triết học” ta có cảm tưởng như đang bước lên những bậc thang ngày càng cao của “tháp ngà triết học”, nhưng không phải để tách rời khỏi xã hội, mà để nhìn qua các cửa sổ thấy được thế giới nhiều hơn, xa hơn, và để trở lại hiểu xã hội nhiều hơn.

Cuối cùng, đối với những bạn trẻ mới bắt đầu bước vào “làng đọc”, theo tôi trước hết nên đọc quyển “phương pháp đọc sách hiệu quả“, một cuốn sách hướng dẫn về kỹ năng đọc rất hay và nổi tiếng. Sự chuẩn bị ấy có ý nghĩa như việc chúng ta “mài rìu” trước khi vào rừng đốn củi vậy. Nó không những giúp ta đốn nhanh mà còn thu về rất nhiều “chiến lợi phẩm”.

 

Nguyễn Văn Thương

Thị trường và đạo đức (kỳ 12)

 

 

Tom G. Palmer – Adam Smith và huyền thoại về lòng tham

Trong tiểu luận này, tác giả kết liễu huyền thoại về một ông Adam Smith ngây thơ, một người tin rằng chỉ cần dựa vào “tính tư lợi” là có thể tạo ra được sự thịnh vượng. Những người nói như thế về Smith dường như chỉ mới đọc một vài trích đoạn từ các công trình của ông và không biết rằng ông đặc biệt chú ý nhấn mạnh vai trò của định chế và hậu quả tai hại của hành động tự tư tự lợi, được thực hiện thông qua những định chế cưỡng bức của nhà nước. Chế độ pháp quyền, quyền sở hữu, hợp đồng và trao đổi biến tính tư lợi thành lợi ích của cả hai bên, trong khi tình trạng vô luật pháp và không tôn trọng quyền tư hữu làm cho tính tư lợi trở thành hoàn toàn khác và rất có hại.

——————————————————————————————————————————–

Người ta thường nghe nói Adam Smith tin là dân chúng chỉ hành động vì tính ích kỷ của mình và mọi người sẽ thoải mái trong một thế giới mà “lòng tham làm cho thế giới chuyển động”. Dĩ nhiên là Smith không tin rằng chỉ dựa vào những động cơ ích kỷ ta có thể làm cho thế giới trở thành tốt đẹp hơn, ông cũng không khuyến khích hay cỗ vũ cho những hành động ích kỷ. Cuộc thảo luận sâu rộng vai trò của “người quan sát vô tư” trong tác phẩm Lý thuyết về cảm nhận đạo đức (The Theory of Moral Sentiments) phải đặt dấu chấm hết cho sự hiểu lầm như thế. Smith không phải là người biện hộ cho tính ích kỷ, mà ông cũng không ngây thơ đến mức tin rằng hết lòng vì hạnh phúc của người khác (hoặc bày tỏ thái độ như thế) có thể làm cho thế giới trở thành tốt đẹp hơn.

Như Steven Holmes đã nhận xét trong tiểu luận Bí ẩn của lịch sử về thói tư lợi (The Secret History of Self-Interest)[1] rằng Smith biết rất rõ hậu quả tai hại của những tình cảm “bất vụ lợi” như đố kỷ, ác ý, thù hằn, cuồng tín và những tình cảm tương tự như thế. Những kẻ cuồng tín bất vụ lợi của Tòa án dị giáo Tây Ban Nha làm những việc mà họ làm vì hy vọng rằng trong giây phút đau đớn tột cùng, những kẻ dị giáo có thể sẽ sám hối và được Chúa tha thứ. Người ta gọi đấy là cứu rỗi.

Trong huấn thị dành cho những quan tòa của toà án dị giáo, Humbert de Romans nhấn mạnh rằng họ được cộng đoàn cho phép áp dụng những hình phạt đối với những kẻ dị giáo vì: “Chúng tôi cầu xin Chúa và cầu xin các vị rằng các vị phải cùng với tôi cầu xin ngài rằng nhờ lòng từ bi của ngài mà ngài sẽ làm cho những kẻ bị trừng phạt nhẫn nại chịu đựng hình phạt mà chúng ta định thực hiện đối với họ (theo yêu cầu của công lý, nhưng đau đớn), những hình phạt có thể làm cho họ được cứu rỗi. Vì vậy mà chúng ta áp dụng những hình phạt như thế.”[2] Theo quan điểm của Smith thì người hết lòng vì hạnh phúc của người khác cũng chẳng phải là người đức hạnh hơn những thương nhân bị nghi ngờ là ích kỷ đang tìm cách làm giàu bằng cách bán bia và bán cá muối cho những người đang đói khát.

Nói chung, Smith không phải là người biện hộ cho những hành vi ích kỷ vì những động cơ như thế có dẫn tới – “như bởi một bàn tay vô hình” – sự gia tăng quyền lợi chung còn phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh của hành động, nhất là môi trường định chế. Đôi khi ước muốn hoàn toàn mang tính vị kỷ là được người khác yêu – buộc chúng ta phải nghĩ về hình ảnh của mình trong mắt những người khác – có thể làm ta chấp nhận một quan niệm đạo đức nào đó. Trong khung cảnh quan hệ cá nhân hạn hẹp, được mô tả trong Lý thuyết về cảm nhận đạo đức, động cơ như thế có thể góp phần tạo ra lợi ích chung vì “ước muốn trở thành những người được người khác yêu mến, trở thành người đáng yêu và đáng hâm mộ như những người mà chúng ta yêu quý và hâm mộ nhất” đòi hỏi chúng ta phải “trở thành người quan sát không thiên vị tính cách và đạo đức của mình”[3].

Ngay cả khi tính tư lợi rõ ràng là quá mức nhưng trong môi trường định chế đúng đắn thì vẫn có thể có lợi cho những người khác. Đấy là câu chuyện Smith kể về con một người đàn ông nghèo, tham vọng của anh ta đã buộc anh ta làm việc không biết mệt để rồi sau khi có một gia tài thì lại cảm thấy mình không hạnh phúc hơn một gã ăn mày đang nằm phơi nắng bên vệ đường. Việc theo đuổi tư lợi quá đáng của con trai người đàn ông nghèo kia đã mang lại lợi ích cho nhân quần vì anh ta đã sản xuất và tích cóp được tài sản làm cho nhiều người khác có thể sống được vì “nhờ lao động của con người mà đất đai màu mỡ hơn và có thể nuôi sống được nhiều người hơn”[4].

Còn trong bối cảnh kinh tế chính trị học rộng lớn hơn, được mô tả trong tác phẩm Tài sản của các quốc gia (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations), nhất là những bối cảnh liên quan đến các định chế của nhà nước thì việc theo đuổi tư lợi có vẻ như không tạo ra những kết quả tích cực như thế. Thí dụ như vì theo đuổi quyền lợi riêng tư mà thương nhân vận động nhà nước thành lập các tập đoàn độc quyền, thực hiện chủ nghĩa bảo hộ, thậm chí là gây chiến nữa: “Hy vọng rằng một lúc nào đó tự do thương mại sẽ được tái lập hoàn toàn ở Anh quốc là hy vọng hão huyền, chẳng khác gì hy vọng một ngày nào đó Xã hội không tưởng được thiết lập tại đây. Không chỉ các định kiến của xã hội mà quyền lợi riêng tư không thể nào chế ngự được của rất nhiều người cũng sẽ chống lại nó.”[5] Lợi ích vặt vãnh mà những người buôn bán thu được nhờ các doanh nghiệp độc quyền tạo ra gánh nặng khủng khiếp cho xã hội dưới hình thức các nhà nước đế quốc và chiến tranh:

Trong hệ thống luật pháp được thiết lập để quản lý các thuộc địa của chúng ta ở Mĩ và Tây Ấn, quyền lợi của người tiêu dùng chính quốc đã bị hy sinh cho lợi ích của những nhà sản xuất nhiều hơn là những quy định về thương mại khác của chúng ta. Một đế chế lớn hơn đã được thiết lập chỉ nhằm một mục đích duy nhất là tạo ra đất nước của những người tiêu dùng, những người buộc phải mua từ cửa hàng của những nhà sản xuất khác nhau tất cả các món hàng mà họ có thể cung cấp. Chỉ vì muốn giữ giá cao, tức là giá mà sự độc quyền có thể bảo đảm cho các nhà sản xuất của chúng ta, mà người tiêu cùng ở chính quốc phải gánh trên vai mình toàn bộ chi phí cho sự giữ gìn và bảo vệ đế chế đó.

Để thực hiện mục tiêu đó, và chỉ vì mục tiêu đó mà thôi, mà trong hai cuộc chiến tranh gần đây người ta chi tới hai trăm triệu đồng và ngoài tất cả những khoản chi cho cùng mục tiêu đó trong những cuộc chiến trước, đất nước còn mắc thêm một khoản nợ mới là hơn một trăm bảy mươi triệu đồng nữa. Tiền lãi của khoản nợ này không chỉ lớn hơn toàn bộ lợi nhuận do độc quyền buôn bán với thuộc địa mang lại mà còn lớn hơn toàn bộ giá trị của ngành thương mại này hay lớn hơn giá trị xuất khẩu trung bình hàng năm tới các thuộc địa đó[6].

Như vậy là, quan điểm của Smith, nếu thể hiện bằng ngôn từ của Gordon Gecko, một nhân vật trong bộ phim Wall Street của Oliver Stone “lòng tham là tốt” thì câu trả lời dứt “cũng có lúc tốt, cũng có lúc xấu” (với giả định rằng tất cả những hành vi tư lợi đều bị coi là “tham” hết). Khác nhau như thế là ở môi trường pháp lý.

Còn về quan điểm của nhiều người cho rằng thị trường cổ vũ cho những hành động ích kỷ, rằng tâm lý sinh ra trong quá trình trao đổi khuyến khích tính ích kỷ? Tôi chẳng thấy có lý do gì để nghĩ rằng thị trường khuyến khích thói ích kỷ hay lòng tham hết, theo nghĩa là tương tác trên thương trường làm cho người ta tham hơn hoặc làm người ta ích kỷ hơn, so với những xã hội do nhà nước bao cấp, tức là nhà nước đè nén hoặc ngăn chặn hay cản trở hoặc có những hành động quấy nhiễu thị trường. Trên thực tế, thị trường làm cho những hành động vị tha nhất cũng như ích kỷ nhất có cơ hội bộc lộ, nhằm thúc đẩy những mục tiêu của chúng một cách hòa bình.

Những người dành trọn đời mình cho việc giúp đỡ những người khác sử dụng thị trường để thúc đẩy những mục tiêu của họ cũng chẳng khác gì những người mà mục tiêu là gia tăng khối tài sản của họ. Một số người tìm cách tích tụ tài sản còn nhằm mục đích là làm cho họ có nhiều khả năng giúp đỡ người khác hơn. George Soros và Bill Gates là những thí dụ như thế, họ kiếm được hàng núi tiền, một phần là để gia tăng khả năng giúp đỡ tha nhân thông qua những hoạt động nhân đạo của họ. Kiếm được tài sản trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận làm cho họ trở thành những người hào phóng hơn.

Những người nhân đức hay các vị thánh thường thích sử dụng tài sản có sẵn để nuôi ăn, cung cấp quần áo mặc và ai ủi cho càng nhiều người càng tốt. Thị trường tạo điều kiện cho người ta tìm được những tấm chăn, thức ăn, thuốc chữa bệnh với giá thấp nhất để có thể chăm sóc cho những người cần giúp đỡ. Thị trường tạo điều kiện cho người ta tạo ra tài sản để có thể sử dụng vào việc giúp đỡ những người bất hạnh và tạo điều kiện cho những người từ tâm tăng đến mức tối đa khả năng giúp đỡ người khác của họ. Thị trường làm cho những người từ tâm có của mà bố thí.

Sai lầm của nhiều người là coi mục tiêu của người ta chỉ là “tư lợi”, rồi sau đó lại lẫn lộn tư lợi với “ích kỷ”. Mục tiêu của những người tham gia thị trường là mục tiêu của bản thân, nhưng như những con người sống có mục đích, chúng ta còn lo lắng đến quyền lợi và hạnh phúc của những người khác nữa – các thành viên trong gia đình, bạn bè, hàng xóm và thậm chí những người hoàn toàn xa lạ, những người chúng ta chẳng bao giờ gặp. Thực ra, thị trường tạo điều kiện cho người ta để ý tới nhu cầu của tha nhân, kể cả những người hoàn toàn xa lạ.

Philip Wicksteed đề nghị cách xử lý tế nhị hơn với động cơ trong mua bán trên thương trường. Thay vì sử dụng “tính ích kỷ” để mô tả động cơ trong việc tham gia vào thương trường (người ta có thể ra chợ để mua thức ăn cho người nghèo, thí dụ như thế) thì ông đặt ra thuật ngữ “không quan tâm tới quyền lợi của đối tác”[7]. Chúng ta có thể bán sản phẩm của mình lấy tiền để giúp bạn bè của chúng ta, thậm chí giúp những người hoàn toàn xa lạ, nhưng khi chúng ta mặc cả giá thấp nhất hoặc giá cao nhất thì chúng ta hiếm khi làm điều đó vì lo lắng cho hạnh phúc của đối tác mà chúng ta đang mặc cả. Nếu chúng ta làm như thế thì có nghĩa là chúng ta vừa trao đổi vừa tặng, điều đó sẽ làm rắc rối cho việc trao đổi. Người nào cố tình trả nhiều hơn số tiền cần phải trả thì khó mà trở thành doanh nhân thành đạt và như H.B. Acton nhận xét trong tác phẩm Đạo đức của thị trường (The Morals of the Markets[8]): kinh doanh lấy lỗ nói chung là cách trở thành người nhân từ ngốc nghếch, thậm chí là ngu xuẩn nữa.

Rất nên nhắc cho những người coi trọng việc làm quan hơn là sản xuất hoặc kinh doanh rằng quan chức có thể làm nhiều việc tai hại và chẳng mấy khi làm được những việc tốt. Voltaire, một người cầm bút trước Smith, đã nhìn thấy rõ sự khác biệt này. Trong tiểu luận Bàn về thương mại (On Trade) trong cuốn Những bức thư liên quan đến dân tộc Anh (Letters Concerning the English Nation), (do Voltaire viết bằng tiếng Anh, một ngôn ngữ mà ông khá thành thạo, rồi sau đó được ông viết lại bằng tiếng Pháp với đầu đề là Những bức thư triết học – Lettres Philosophiques), ông nhận xét như sau:

“Ở Pháp danh hiệu hầu tước được tặng miễn phí và những người từ vùng quê xa xăm có tiền rủng rỉnh trong túi, họ của những người này kết thúc bằng chữ “ac” hay “ille”, đến Paris đều có thể tự tin và gào lên: “Ta là người cao quý làm sao!” Và hắn ta có thể nhìn một nhà buôn với vẻ khinh miệt; trong khi nhà buôn kia – vì thường nghe nói là người ta coi thường nghề của mình – phải đỏ mặt lên vì chuyện đó. Nhưng tôi không thể nói rằng một quý ông quyền cao chức trọng, một quan chức trong văn phòng thủ tướng hay một thương nhân, người đang làm cho đất nước mình giàu lên, người đang gửi hàng từ công ty của mình tới Surat và Cairo và góp phần làm cho thế giới hạnh phúc hơn, thì ai là người có ích hơn.”[9]

Các thương nhân và các nhà tư bản không cần phải đỏ mặt khi các chính khách và những người có học đương thời nhìn họ bằng nửa con mắt, và khệnh khạng ca ngợi cái này, chê bai cái kia, trong khi lúc nào cũng đòi các thương nhân, các nhà tư bản, công nhân, nhà đầu tư, thợ thủ công, nông dân, nhà phát minh và những người sản xuất hữu ích khác phải làm ra của cải để các chính trị gia tịch thu và những người có học ghen tị nhưng lại thèm khát tiêu thụ ngay lập tức.

Tương tự như chính trị, thương trường không phụ thuộc vào và cũng không giả định trước rằng dân chúng là những người ích kỷ. Buôn bán trên thương trường cũng không khuyến khích những hành vi và động cơ ích kỷ. Nhưng khác với chính trị, tự do trao đổi giữa những người tham gia có thiện ý tạo ra của cải và hòa bình, thiện ý và hòa bình cũng là điều kiện cho lòng hào phóng, tình bạn và tình yêu đơm hoa kết trái. Đấy là một vài điều cần lên tiếng, Adam Smith hiểu rõ như thế.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: The Morality of Capitalism


[1] “The Secret History of Self-Interest,” in Stephen Holmes, Passions and Constraints: On the Theory of Liberal Democracy (Chicago: University of Chicago Press, 1995).
[2] Quoted in Christine Caldwell Ames, Righteous Persecution: Inquisition, Dominicans, and Christianity in the Middle Ages (Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 2008, p. 44.
[3] Adam Smith, The Theory of Moral Sentiments, ed. D.D. Raphael and A.L. Macfie, vol. I of the Glasgow Edition of the Works and Correspondence of Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund, 1982. Chapter: a chap ii: Of the
love of Praise, and of that of Praise–worthiness; and of the dread of Blame, and of that of Blame–worthiness; Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/192/20125) on 2011-05-30.
[4] Adam Smith, The Theory of Moral Sentiments, ed. D.D. Raphael and A.L. Macfie, vol. I of the Glasgow Edition of the Works and Correspondence of Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund, 1982. Chapter: b chap. i b: Of the
beauty which the appearance of Utility bestows upon all the productions of art, and of the extensive in9 uence of this species of Beauty; Accessed from http:// oll.libertyfund.org/title/192/20137 on 2011-05-30.
[5] Adam Smith, An Inquiry Into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, Vol. 1 ed. R.H. Campbell and A.S. Skinner, vol. II of the Glasgow Edition of the Works and Correspondence of Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund: 1981. Chapter: [IV.ii] CHAPTER II: Of Restraints upon the Importation from Foreign Countries of such Goods as can be Produced at Home. Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/220/217458/2313890 on 2010-08-23.
[6] Smith, An Inquiry Into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, Vol. 1 ed. R.H. Campbell and A.S. Skinner, vol. II of the Glasgow Edition of the Works and Correspondence of Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund: 1981. Chapter: [IV.viii] CHAPTER VIII: Conclusion of the Mercantile System. Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/200/217484/2316261 on 2010-08-23.
[7] “The specific characteristic of an economic relation is not its “egoism,” but its “non-tuism.” Philip H. Wicksteed, The Commonsense of Political Economy, including a Study of the Human Basis of Economic Law (London: Macmillan,
1910. Chapter: CHAPTER V: BUSINESS AND THE ECONOMIC NEXUS. Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/141538938/104356 on 2010-08-23.
[8] H.B. Acton, The Morals of Markets and Related Essays, ed. by David Gordon and Jeremy Shearmur (Indianapolis: Liberty Fund, 1993.
[9] Voltaire, Letters Concerning the English Nation, ed. Nicholas Cronk (Oxford: Oxford University Press,1999, p. 43.

Joshua Wong sẽ là một nhân viên tuyệt vời

Featured image: Wiki Commons

 

Joshua Steimle, CEO của công ty marketing MWI [1] ở Hong Kong, cho rằng Joshua Wong – (Hoàng Chi Phong), chàng trai 17 tuổi nổi bật trong những cuộc biểu tình làm rung chuyển Hong Kong – có những phẩm chất để là một nhân viên tuyệt vời đối với bất cứ người chủ lao động nào.

Vị CEO này đã có một bài viết chỉ ra những phẩm chất đó của Joshua Wong. Điều mà chúng ta có thể thấy là, dường như những đặc điểm ấy là chung cho cả người hoạt động xã hội, lẫn người muốn theo đuổi sự nghiệp kinh doanh, hoặc người chỉ có nhu cầu làm một nhân viên văn phòng bình thường: Sống có trách nhiệm, khiêm nhường, không háo danh, và quyết tâm theo đuổi ước mơ.

* * *

Tại sao Joshua Wong sẽ là một nhân viên tuyệt vời?

Ở tuổi 17, Joshua Wong [2] đã trở thành gương mặt nổi bật nhất trong các cuộc biểu tình đòi dân chủ gần như không ai lãnh đạo và làm rung chuyển Hong Kong tuần qua. Tôi không biết cậu có ước vọng nghề nghiệp gì. Tôi không tin cậu ta có những gì mà nhiều người sẽ coi là kinh nghiệm phù hợp và có liên quan trực tiếp tới lĩnh vực của công ty tôi. Điểm thi tuyển đầu vào đại học của cậu cũng xoàng so với tiêu chuẩn của Hong Kong. Nhưng bất chấp tất cả những cái đó, tôi vẫn sẽ nhanh chóng thuê cậu thanh niên này, không phải vì cậu ta nổi tiếng, mà vì cậu thể hiện nhiều đặc điểm mà tôi – với tư cách chủ lao động – luôn kiểm tra gắt gao ở nhân viên.

Tôi thuê nhân viên căn cứ vào năng lực, kinh nghiệm, và thái độ, trong đó cái thứ ba là quan trọng hơn cả trong hầu hết trường hợp. Tôi thấy, khi người ta thiếu khả năng và kinh nghiệm, cái đầu tiên còn có thể học được, cái thứ hai sẽ được tích lũy dần theo thời gian. Nhưng nếu thái độ không đúng, thì sẽ rất khó mà thay đổi. Dưới đây là đánh giá của tôi về Wong trên từng phương diện trong ba phương diện kể trên, nếu tôi thuê cậu ta.

Năng lực

Công ty tôi cung cấp dịch vụ marketing trên nền tảng số cho khách hàng. Thoạt nhìn thì có vẻ như Wong không có kỹ năng nào liên quan. Nhưng Scholarism – tổ chức mà Wong thành lập khi mới 15 tuổi – đã thu hút tới 277.000 người theo dõi trên Facebook, và đã sử dụng các kênh truyền thông xã hội để truyền tải thông điệp của họ. Wong hiểu sức mạnh của truyền thông xã hội và đã cho thấy rằng cậu biết cách dùng nó để tạo ra, không chỉ nhiều người theo dõi, mà còn những người thực sự tham gia. Wong cũng dùng chiêu thức marketing nội dung và PR để kích thích mọi người hành động. Cậu ta đã sản xuất ra những nội dung được lan truyền khắp Internet và xuất hiện trong gần như tất cả các tờ báo lớn.

Joshua Wong có thể không thành thạo kỹ thuật trong lĩnh vực truyền thông xã hội, có thể chưa bao giờ nghe nói đến marketing nội dung. Cậu ta cũng chẳng phải là một chuyên gia PR. Nhưng các kỹ năng về kỹ thuật dễ dạy hơn nhiều so với việc hiểu và thấy được có thể sử dụng các công cụ đó như thế nào để truyền bá ý tưởng. Tôi tin tưởng rằng tôi có thể trao cho Wong vai trò điều hành các chiến dịch marketing trên mạng xã hội, marketing nội dung, hoặc PR, và cậu ta có thể làm khá tốt bất kỳ việc nào trong số đó, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn.

Kinh nghiệm

Joshua Wong có thể có chút kỹ năng về kỹ thuật mà công ty của tôi đang tìm kiếm, nhưng với tôi, điều thú vị hơn cả là kinh nghiệm lãnh đạo của cậu. Khi cậu mới 15 tuổi, tổ chức Scholarism của cậu ta đã thành công trong việc đấu tranh với chính quyền Hong Kong và Trung Quốc, phản đối chương trình giáo dục nhằm mục đích nâng cao tình cảm yêu nước đối với Trung Hoa. Hàng chục nghìn người đã tuần hành phản đối, và kế hoạch của Bắc Kinh đã thất bại. Với thành công mới đây nhất của Wong, dễ thấy Wong có một quá trình tích lũy kinh nghiệm lãnh đạo – sẽ là một tài sản quý báu cho bất kỳ tổ chức nào.

Thêm vào đó, tổ chức một phong trào cũng rất giống làm một doanh nhân, và tôi thích thuê doanh nhân. Vâng, điều đó có thể là một sự mạo hiểm, bởi vì người làm doanh nhân có những ý tưởng, mục tiêu và tham vọng riêng, và chưa chắc những cái đó tương thích với người chủ lao động, nhưng khi hai bên ăn khớp với nhau thì sự mạo hiểm có thể được đền bù bằng thành công rất lớn.

Thái độ

Joshua Wong đã bày tỏ ngạc nhiên về thành công của mình. Điều ấy cho thấy tính khiêm nhường của cậu ta. Joshua đã nói cậu không phải là người làm chính trị và những phong trào này không phải là chuyện làm cậu thật sự thích thú. Joshua đã xuất hiện như một người vào cuộc gần như bất đắc dĩ, bị lôi cuốn phải hành động vì một thứ tình cảm giống như trách nhiệm hơn là tham vọng. Từ đây, tôi thấy cậu ta không phải người tham lam hay háo danh – những nhược điểm lớn cần phải tránh trong sinh hoạt đồng đội.

Bằng việc đứng lên trước một nhà cầm quyền có tiền sử giết hại sinh viên biểu tình, Wong cho thấy sự can đảm và lòng quyết tâm hy sinh vì một lợi ích cao cả hơn. Wong từng nói cậu không muốn làm gương mặt đại diện của phong trào biểu tình, và không muốn những cuộc biểu tình chỉ xoay quanh cậu. Điều này cho tôi thấy cậu ta luôn tập trung vào các mục tiêu của tổ chức chứ không phải sự nghiệp riêng của cá nhân mình. Có một nghịch lý, rằng đó lại chính là cách tốt nhất để tạo dựng sự nghiệp. Thế nhưng rất nhiều nhân viên chỉ tập trung vào cái ngắn hạn và vì thế họ đưa ra những quyết định sai lầm.

Tôi rất muốn thuê Joshua Wong và bất kỳ người trẻ tuổi nào giống như cậu. Tôi thà thuê một thanh niên 17 tuổi như Joshua trước khi tính chuyện thuê một người tốt nghiệp MBA ở Harvard với điểm số tốt nhất. Nhưng tôi nghĩ Joshua sẽ không muốn làm việc cho tôi. Tôi đồ rằng cậu sẽ muốn làm những việc lớn hơn là đi làm cho một công ty marketing.

Nếu Joshua muốn thay đổi thế giới, lời khuyên của tôi cho cậu ấy là nên bỏ học ở trường ngay lập tức và tự học. Joshua nên ghi danh tham gia chương trình Thiel Fellow [3] và chú trọng vào cái mà tác giả Dale Stephens [4] gọi là “hacking your education” (tự học). Với một thái độ như Joshua Wong đang có, cậu sẽ học hỏi nhiều hơn ở ngoài trường lớp hơn là ở trong đó. Và với kinh nghiệm của mình, Joshua cũng chẳng cần phải đem bằng cấp đại học ra chứng minh điều gì. Đi học đại học, tuy rất tốt, nhưng sẽ làm cậu ta mất tập trung khỏi những việc lớn.

Tôi có lời khuyên tương tự cho các bạn trẻ muốn làm việc lớn để thay đổi thế giới. Học là một điều tuyệt vời — đừng bao giờ ngừng học tập. Nhưng đừng để chương trình giáo dục ngăn cản bước đường học vấn của mình. Thay vì thế, hãy làm như Joshua Wong đã làm, và hãy mạo hiểm đi. Điều tệ nhất có thể xảy ra là… bạn sẽ có một cái gì đó rất tuyệt vời để bổ sung vào hồ sơ của mình. Đừng sợ ước mơ, và hãy hành động ngay đi. Thế giới đang phụ thuộc vào bạn.

 

Dịch: Chân Tuệ, Dân Luận

————–

Chú thích:

[1] MWI là một công ty marketing trực tuyến có văn phòng ở Mỹ và Hong Kong.

[2] Joshua Wong sinh ngày 13/10/1996, nên bước sang tuổi 18 từ ngày này.

[3] Thiel Fellowship là một chương trình học bổng tài trợ 100.000 USD trong hai năm cho những thanh niên dưới 20 tuổi, bỏ học để theo đuổi đam mê của mình trong các lĩnh vực: khoa học, kinh doanh, hoạt động xã hội.

[4] Dale J. Stephens là người sáng lập ra Uncollege.org, một phong trào xã hội nhằm làm thay đổi quan niệm “chỉ có vào đại học mới thành đạt”. Dale là một trong 24 người đầu tiên nhận học bổng Thiel Fellowship và là tác giả của cuốn sách Hacking Your Education [tự học] (2013).

Nếu một ngày nào đó bạn thất nghiệp

Featured image: Plaza Cleaners in Portland, Oregon

Những biến cố cuộc đời

Cuộc đời chúng ta nhất định sẽ có lúc xảy ra những biến cố lớn hoặc nhỏ. Đó là điều không ai mong muốn, trông đợi hay thậm chí chỉ là nghĩ tới cả. Nhắc đến biến cố, trong ta chắc hẳn toàn dâng lên cảm giác sợ hãi, lo lắng và bất an khủng khiếp. Thay vì ngồi cầu nguyện biến cố đừng xảy ra, chúng ta hãy thử ngồi lại và nhìn thẳng vào chúng, như một bước chuẩn bị sẵn sàng để nếu chúng có xảy ra thật, ta sẽ không sợ hãi, ta sẽ không trốn tránh và than thở, mà sẽ đối mặt và đạp lên chúng để tiếp tục xây dựng một cuộc sống mới ngập tràn hi vọng.

Giống như câu chuyện, nếu tôi đưa bạn một tờ giấy bị nhỏ một giọt mực lên, và hỏi bạn thấy gì? Phần lớn mọi người sẽ trả lời, thấy giọt mực. Chỉ một số ít trả lời rằng họ thấy một giọt mực nhỏ trên tờ giấy trắng. Và càng ít hơn, người có thể thấy được bức tranh toàn cảnh: “Ồ, tôi thấy còn khá nhiều chỗ trống để sử dụng tờ giấy.” Đúng vậy, đó mới là câu trả lời chính xác và cần thiết đối với cuộc sống của chúng ta. Hãy tập trung vào những việc bạn có thể, thay vì không thể. Hãy để những biến cố cuộc đời trở thành những giọt mực nhỏ, trên một tờ giấy to, nó có thể không đẹp, nhưng chẳng ảnh hưởng gì mấy đến tác dụng của cả tờ giấy. Nếu như bạn cũng có thể đối xử với những biến cố cuộc đời như thế, bạn sẽ nhận ra, biến cố cũng không có gì quá đáng sợ.

Bài trước chúng ta đã nói về biến cố tai nạn, tàn tật, tiếp theo hôm nay sẽ là:

Nếu một ngày nào đó bạn Thất Nghiệp

Đã từng có một bài viết khá hay trên Triết Học Đường Phố về đề tài này, bài viết của bạn Ngựa Hoang với tựa đề “Thất nghiệp – nguy hiểm hay cơ hội”. Đối với tôi, dù không thất nghiệp nhưng đó quả thực là một bài viết hay, những lời khuyên hữu ích và những gợi ý tuyệt vời. Thế nên thật sự tôi đã rất bất ngờ khi chỉ thấy người ta comment chê bai và phản biện bạn tác giả quá nhiều. Với trăm ngàn lý do được đưa ra từ hợp lý cho tới vô lý, tất cả đều chỉ để biện minh rằng họ không thể làm được. Tất cả chỉ là lý do thôi, lý do biện minh cho sự yếu kém, nhút nhát và lười biếng của bản thân. Sao các bạn cứ chỉ nhìn thấy mặt tối trong bức tranh thất nghiệp như vậy? Sao các bạn không tận dụng những lợi thế của việc thất nghiệp: lợi thế về thời gian, thời gian để tận hưởng và để trau dồi khả năng của bản thân sẵn sàng cho những công việc sắp tới? Vì bạn biết đấy, mọi việc đều có hai mặt cả.

Thất nghiệp là một tình trạng không ai mong muốn, đó là điều ngoài sự kiểm soát của mọi người và ảnh hưởng trực tiếp lẫn sâu sắc đến cuộc sống của mỗi người chúng ta. Có thể coi thất nghiệp là một biến cố không may trong đời. Trong khi những người khác ủ ê, đau khổ, lo sợ và hoang mang. Bạn hãy bình tĩnh lại và thử suy xét thêm vài điều. Hãy xem như nó là cơ hội, cơ hội để bạn nghỉ ngơi giữa một chặng đường, nhìn lại bản thân, tận hưởng hiện tại và chuẩn bị tốt hơn cho những bước đi kế tiếp. Hãy tận dụng cơ hội thất nghiệp, bạn có thể làm được những việc sau.

Đi du lịch

Với tôi, đây là điều hấp dẫn nhất, đừng nghĩ du lịch chỉ đơn thuần là đi xả stress hay vui chơi, đừng nghĩ du lịch thì phải có thật nhiều tiền. Hãy thử kiểu du lịch trải nghiệm, làm quen bạn mới, xin ngủ home-stay, làm những công việc part-time tại địa phương bạn đến, đói có thể ăn bánh mì, mì gói… miễn sao là được trải nghiệm, được học hỏi và được đi, đâu đó xa nơi bạn từng mọc rễ. Rất có thể sau những chuyến đi này, bạn sẽ học được những điều hay ho, nhận ra những cơ hội kinh doanh thú vị hoặc làm quen được nhiều người có thể giúp đỡ bạn sau này. Điều này hơi khó đối với những người đã lập gia đình với gánh nặng cơm áo gạo tiền, không sao, vì vẫn còn nhiều việc đáng làm hay ho khác.

Chắc chắn rất nhiều người sẽ phản đối việc làm này, với trăm ngàn lý do. Lý do nào cũng bắt đầu bằng câu “tôi không thể, vì…”. Bản thân từ “không thể” là một động từ mạnh, nó ngăn cản người ta suy nghĩ, nó hủy hoại những ý tưởng vừa mới nảy ra trong đầu, nó khẳng định bản thân là một kẻ kém cỏi, nó lờ đi mọi trường hợp người khác đã làm được, nó giúp bản thân được lười biếng, được bình thường. Từ “vì” cũng mạnh không kém. Nó chính là loại từ khiến chúng ta không thể làm được việc lớn. Những từ này, bạn nên bỏ ra khỏi đầu, càng sớm càng tốt, càng ít dùng tới nó càng tốt. Càng thoát khỏi nó bạn càng làm được nhiều việc hay ho và càng dễ tiến tới một cuộc sống ngập tràn tươi vui và ý nghĩa.

Muốn làm việc lớn hay đơn giản muốn thoát khỏi cái bóng nhàn nhạt của bản thân, chính bạn phải đủ sức bứt mình ra khỏi lũy tre làng, bứt ra khỏi cái nơi chốn bạn đã cắm rễ quá lâu. Lũy tre làng không chỉ nói về quê hương chôn rau cắt rốn, lũy tre hiện đại còn là cái nơi bạn đang sống, cái công việc bạn đang làm, và lũy tre trong tâm trí bạn nữa. Thoát khỏi lũy tre thế giới có ti tỉ việc thú vị chờ đợi bạn, cần đến bạn. Du lịch chính là bước đơn giản để thoát khỏi lũy tre. Những vùng đất mới, những người bạn mới, ý tưởng mới, tư duy mới.

Xin đừng hỏi “tại sao phải đi du lịch khi thất nghiệp” mà hãy hỏi “tại sao không?” Xin đừng nói “tôi không thể làm thế” mà hãy hỏi bản thân mình rằng “Tôi cần làm gì để có thể”. Rất rất nhiều người vẫn đang sử dụng thời gian thất nghiệp để đi du lịch, người nước ngoài là điển hình nhất. Bạn cho rằng ở Việt Nam thì thật khó khăn hay hoàn cảnh của bạn thì đặc biệt, đó hẳn là vì bạn chưa đọc, chưa nghe, chưa được kể nhiều về họ: Những người rong ruổi khăp bốn phương trời trong thời gian nhàn rỗi bị động này. Đi nhiều lên, biết đâu sau những tháng ngày du lịch, trải nghiệm, bạn có thể thành lập công ty chuyên tạo tour kết nối dành cho những người thất nghiệp thì sao. Chắc chắn sẽ nhiều người cần đến dịch vụ của bạn.

Kiếm việc trái ngành, việc tay chân làm part-time cũng được

Đừng ở nhà than thở, ăn mòn tiền tiết kiệm hoặc bám vào người thân. Không có việc gì là xấu hổ cả chưa kể đến trăm ngàn thứ bạn có thể học được từ những công việc không đúng chuyên ngành này. Biết đâu sau khi làm nhân viên phục vụ cho một nhà hàng tiệc cưới, bạn có thể trở thành người cung cấp một nhóm thực phẩm nào đó từ địa phương bạn cho họ. Biết đâu sau một thời gian làm phục vụ quán cafe, bạn biết tường tận mọi ngóc ngách để tự tin mở một quán cho riêng mình. Biết đâu trong thời gian làm tài xế cho một ông sếp, bạn trở thành thư ký của ông ta…

Việc làm part-time khi thất nghiệp, đó không phải khi nào cũng mang lại cơ hội, nhưng cũng đáng để trải nghiệm và nhất là cho bản thân được nỗ lực không ngừng, không bị thui chột ý chí hay để tay chân mốc meo vì thiếu vận động. Theo Ybox.vn, 75% cácchuyên gia trên lĩnh vực tuyển dụng khuyên người lao động làm các công việc tạm thời hay các hợp đồng ngắn hạn. Rõ ràng lợi ích trước mắt của các công việc part time là đem lại một nguồn thu thập đáng kể cho bạn. Đừng lo lắng vì nếu công việc không đúng chuyên ngành của bạn, những gì bạn nhận lại được là kinh nghiệm. Và những người có kinh nghiệm phong phú trong công việc chắc chắn sẽ nhận được sự quan tâm của các nhà tuyển dụng trong lần phỏng vấn kế tiếp.

Đi học

61% các giám đốc tuyển dụng cho rằng công nhân nên đi học trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Tham gia một khoá học trong lĩnh vực mà bạn đang theo đuổi cũng là một bằng chứng cho sự nghiêm túc với nghề và được các ông chủ đánh giá cao. Một thuận lợi nữa của việc đến các lớp học đó là bạn sẽ có cơ hội giao lưu, trao đổi với nhiều người khác. Kiếm thêm kiến thức từ những khóa học chuyên ngành ngay cả khi thất nghiệp. Đó chính là bạn đang tạo sự khác biệt với hàng ngàn người đang thất nghiệp ngoài kia. Mặt khác, bạn có thể tranh thủ khoảng thời gian nhàn rỗi này để học vô vàn thứ khác: học nấu ăn, học may, học lái xe, học khiêu vũ, tập luyện thể dục thể thao hoặc chuyên tâm học thêm một ngoại ngữ khác chẳng hạn. Biết đâu chính từ những khóa học này mà cuộc đời bạn sẽ rẽ sang một trang mới, một hướng đi hoàn toàn mới mẻ và thú vị mà chính bạn cũng không ngờ.

Tự kinh doanh thì sao?

Chắc chắn đây là một công việc khó khăn và tốn nhiều thời gian nhưng điều quan trọng là bạn có đủ dũng cảm để vạch cho mình lối đi riêng hay không? Dù hoài bão kinh doanh có không thành thì những cố gắng của bạn sẽ được các doanh nghiệp ghi nhận. Bởi trong thời kỳ nhàn rỗi, bạn vẫn làm việc bán thời gian hay toàn thời gian cố định để học hỏi các kỹ năng và tự phát triển mình. Nếu may mắn thì bạn sẽ không chỉ cứu chính mình mà còn mang lại công việc cho nhiều người cũng đang thất nghiệp khác. Và theo một điều tra cho thấy hầu hết các nhà tuyển dụng đều đánh giá cao những người đã tự mình khởi nghiệp dù quy mô nhỏ hoặc vừa, dù thất bại hay thành công bởi những bài học họ học hỏi được,những kinh nghiệm mà họ đã học được là vô giá.

Phần lớn chúng ta đều đam mê kinh doanh nhưng lại không đủ điều kiện hoặc sức mạnh để thực hiện đam mê đó. Lý do phần lớn là không có vốn hoặc không có thời gian, hoặc không có kinh nghiệm. Tin vui cho bạn rằng khi bạn tự sức kinh doanh, bạn không cần vốn lớn. Rất nhiều việc kinh doanh vừa sức với số vốn nhỏ đang đợi bạn thử sức. Còn kinh nghiệm ư? Bạn không bắt tay dô làm thì kinh nghiệm ở đâu chui ra bây giờ? Chỉ còn một thứ khiến bạn chưa hành động: không có thời gian. Khi bạn thất nghiệp, lý do này bị đập tan ngay lập tức.Thất nghiệp rồi, không bắt tay kinh doanh lúc này thì còn là khi nào?

Tham gia các hoạt động tình nguyện

Ngoài ra, bạn còn có thể tranh thủ khoảng thời gian này để: tham gia các hoạt động tình nguyện, xây dựng nét đẹp trong nhân cách bao gồm cả phát triển những kĩ năng của bản thân. Biến bạn thành một người sống vì cộng đồng và luôn là một cá thể năng động, hoạt bát… Đó cũng có thể trở thành một nét đẹp trong CV của bạn về sau đấy. Và qua những hoạt động này, giúp đỡ những con người khốn cùng nghèo khổ. Bạn sẽ nhận ra rằng bạn là một người may mắn, rằng bạn đã được cuộc đời ưu ái biết bao nhiêu mà chính bạn không nhận ra. Bạn sẽ biết rằng thất nghiệp hóa ra không phải là việc ghê gớm tồi tệ như bạn nghĩ. Người ta còn không có đủ các bộ phận trên cơ thể, người ta còn không có cơm ăn, không có áo mặc, không có một người thân thích nào, thì bạn, không có một công việc, thì có hề gì?

Nếu bạn là nam giới

Thời gian thất nghiệp, có thể bạn sẽ muốn giúp đỡ vợ mình trong những công việc nhà, quan tâm hơn đến gia đình lớn và người thân, chơi nhiều hơn với con cái, dạy chúng học và những giá trị của cuộc sống, dạy chúng lạc quan như bạn đang cố gắng và nhất là hãy liên lạc, trò chuyện với bạn bè nhiều hơn. Đó cũng chính là bạn đang mở rộng hoặc làm ấm lại các mối quan hệ cũ kĩ mờ nhạt. Mà biết đâu, chính họ sẽ giúp bạn đến những cơ hội việc làm khác nữa. Đừng ngại ngùng, hãy cho bạn bè biết bạn đang cần một công việc và may mắn thì có một vài ai đó trong số hàng trăm những người bạn kia sẽ giúp được bạn thì sao.

Tài chính khi thất nghiệp

Thất nghiệp – có nghĩa bạn đang mất khả năng chi trả những chi tiêu hàng ngày và có thể phải dựa dẫm vào khoản trợ cấp của gia đình hoặc những khoản tiết kiệm trước đó. Chắc chắn một kế hoạch tài chính hợp lý sẽ là bước đầu tiên giúp bạn đứng vững và để đủ sức mạnh chống trọi lại công cuộc xin việc trường kỳ trong tương lai. Đừng đợi tới khi thất nghiệp mới chuẩn bị thắt lưng buộc bụng.

Để không quá sợ hãi và lo lắng, cũng như để có đủ bình tâm mà đối phó với những biến cố cuộc đời, kiểu như thất nghiệp, hãy chuẩn bị ngay bây giờ. Có lẽ bạn sẽ muốn cắt giảm những chi tiêu không cần thiết. Có thể bạn sẽ muốn có một quỹ đen dự phòng đủ để nuôi sống bản thân một vài tuần (tháng) nếu chẳng may bị thất nghiệp. Bạn sẽ không muốn để cho ai gọi mình là kẻ ăn bám, đúng không? Vậy thì hãy nghĩ đến việc tiết kiệm và thành lập quỹ cứu tế tương lai ngay từ bây giờ cũng không muộn đâu.

Chơi thể thao

Thất nghiệp là thời gian tốt để bạn thực hiện những bài tập luyện thể chất, chơi thể thao nhằm giúp tinh thần được thoải mái và cơ thể khỏe mạnh. Tất cả những hoạt động tích cực này sẽ giúp bạn có hình ảnh đẹp trong mắt nhà tuyển dụng tương lai. Đừng để sức ì cản trở bạn, hãy đứng dậy và “vận động”ngay thôi. Chắc chắn bạn sẽ có một tinh thần thoải mái sau khi luyện tập thể thao và biết đâu đó lại đem lại cho bạn một tinh thần mới, suy nghĩ mới và cơ hội mới chắc chắn sẽ đến ngay thôi!

Hãy thử dành thời gian tìm và nuôi dưỡng cho đam mê bạn đang ấp ủ

Đừng chết vì đam mê, nhưng cũng đừng để đam mê bị chết mòn. Tôi đang thất nghiệp, nếu xét về ngành học chuyên môn. Tấm bằng cử nhân của tôi đang xếp xó và chẳng có công ty nào nhận tôi cả (có thể vì tôi không đi kiếm việc). Tôi đang làm một công việc trái ngành, tôi mở những việc kinh doanh nho nhỏ và điều hành chúng.

Một ngày kia, do quá nhiều thời gian rảnh, tôi bắt đầu viết. Và rồi viết viết viết, ban đầu chẳng ai bận tâm, nhưng sau đó tay bút của tôi được nâng cao, những điều tôi viết bắt đấu có giá trị. Công việc này đơn thuần vì thích chứ hoàn toàn không mang lại lợi nhuận gì cả. Tôi nhận thấy việc viết là việc rất dễ làm và là cách tận dụng thời gian vô cùng hiệu quả, cứ có thời gian hay có ý tưởng là tôi lại viết. Với tôi điều này mang lại rất nhiều niềm vui, nhưng điều tôi không ngờ là công việc tay trái này lại mang đến nhiều hơn thế nữa. Chúng mang đến cho tôi vô vàn cơ hội: cơ hội làm quen với những người bạn ở khắp mọi nơi, cơ hội gặp gỡ những người có cùng đam mê, sở thích và chí hướng, những cơ hội kinh doanh và tuyệt nhất là những cơ hội việc làm thú vị khác nữa.

Từ Sài Gòn rồi tới Hà Nội, tôi nhận được những lời đề nghị cộng tác rất tuyệt vời, những công việc tôi từng ao ước. Bạn thấy đó, đam mê có thể không mang tiền về cho bạn, nhưng nó mang đến rất nhiều những thứ còn giá trị hơn nữa. Hãy cố gắng tìm ra đam mê của mình và nuôi dưỡng nó. Mà thật ra, ai nói đam mê không mang lại tiền? Nếu hát hay, đàn giỏi bạn có thể đi xin đi biểu diễn, nếu thích nấu ăn, làm đồ thủ công bạn có thể làm thêm để kiếm tiền. Nếu thích đọc bạn có thể làm nguồn cung cấp sách. Nếu đam mê du lịch bạn có thể làm hướng dẫn viên…

Đam mê là thứ không chỉ có thể mang lại tiền mà còn mang đến nhiều niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống. Khi bạn thất nghiệp hãy thử nghĩ đến nó một lần đi. Nếu trải qua thời gian thất ngiệp mà bạn tìm được niềm đam mê cho mình thì tôi hứa khoảng thời gian thất nghiệp đó là đáng giá. Vì rất nhiều người mất rất nhiều năm mới tìm ra nó cơ.

Thất nghiệp là cú shock không nhỏ với bất kỳ ai, nhưng quan trong là bạn phải biết vượt lên chính mình để tìm thấy cơ hội tốt hơn trong tương lai. Đừng đứng một chỗ khi cả thế giới đang không ngừng chuyển động. Mong rằng từ bây giờ khi nghe đến từ “thất nghiệp”, bạn sẽ không còn quá sợ hãi nữa, không còn cảm thấy nó quá đáng ghét nữa.

Và cũng để chuẩn bị tốt nếu chẳng may trường hợp đó xảy ra, ngoài việc dành ra một khoản “chi phí dự phòng” bạn sẽ còn muốn kết thêm bạn mới ở những vùng đất khác. Những người bạn đủ thân để một ngày bạn có thời gian đi du lịch, họ sẽ sẵn lòng mời bạn đến nhà, sẵn lòng cho bạn một chỗ ngủ ké hoặc những bữa ăn đạm bạc. Đó cũng là một ý hay, hẳn có thể bạn sẽ muốn tiếp đón một người bạn mới nào đó ngay hôm nay khi họ đến thành phố của mình, rồi tương lai họ cũng sẽ giang tay chào đón bạn.

Có thể bạn sẽ muốn giữ mối quan hệ tốt với những người làm việc trong ngành nhân sự, những người làm việc trong các công ty đối thủ… để một ngày kia chính họ sẽ giúp bạn tìm được công việc dễ dàng hơn. Có thể bạn sẽ bắt đầu suy nghĩ nếu bạn có đủ điều kiện tự kinh doanh, bạn sẽ kinh doanh thứ gì? Và trên hết, điều nhất định bạn phải làm, để không bị thất nghiệp, là hãy làm thật tốt công việc của mình, tốt hơn cả yêu cầu. Hãy chứng tỏ mình là một người quan trọng và được việc trong công ty, thế thì chẳng có gì phải lo sợ cả.

Và cách tuyệt nhất để không còn sợ hãi việc thất nghiệp nữa. Đó là hãy luôn giữ cho mình một ý tưởng, một kế hoạch dự phòng để bạn luôn có thể sẵn sàng ứng phó nếu chẳng may nó  xảy ra thật. Trừ khi bạn đảm bảo, bạn cam đoan mình sẽ không bao giờ bị sa thải, bị thất nghiệp, thì rất tốt.

Hay một cách thiết thực hơn, hãy làm việc chăm chỉ, chứng tỏ bản thân mình là một người được việc, một nhân viên ưu tú, đừng than van hay nói xấu ông Sếp khó ưa mà hãy bắt tay dô làm nhiều việc hơn với thành quả tốt hơn, đừng ngồi văn phòng chat chít, tán gẫu, thay vào đó hãy làm việc thật sự là làm việc. Ai mà để cho những người như thế thất nghiệp cơ chứ.

 

Phi Tuyết

 

 

Việt Nam – Một dân tộc chưa trưởng thành

Featured Image: Guido Da Rozze

Khi nói về văn hóa là ta đang nói về mọi mặt đời sống tinh thần của một dân tộc. Chúng ta vẫn luôn tự hào có nền văn hiến 4000 năm nhưng theo tôi đó chỉ là cái ảo ảnh mà chúng ta tự vẽ lên để huyễn hoặc mình, nó không có thật, nó là cần thiết để gắn kết những cá thể của một dân tộc lại với nhau, cho chúng ta một niềm tin để vượt qua những khó khăn để tồn tại. Vì sao là huyễn hoặc? sự hình thành văn hóa của một dân tộc giống như quá trình phát triển của một con người từ sinh ra đến trưởng thành, già cỗi và tái sinh hoặc chết đi.

Một con người muốn trưởng thành phải trải qua sự học hỏi bởi những sóng gió trong đời và quan trọng là cần sự tiếp nối liên tục. 4000 năm chúng ta có được bao lâu là tự đứng trên đôi chân của mình? Cứ mỗi lần bị đô hộ là mỗi lần những thành quả mà chúng ta xây dựng bị tẩy sạch, và những quảng thời gian ấy chúng ta sống dựa vào nền văn hóa của “nước mẹ”, rồi sau đó khi dành lại độc lập, chúng ta lại bắt đầu lại từ đầu với những gì của mình và tiếp nối cái văn hóa từng là “nước mẹ” kia, nó giống như một đứa trẻ đang trong quá trình phát triển thì bỗng dưng bị mất trí, phải học lại những bài học đầu tiên, phải sống dựa vào sự hiểu biết của kẻ khác – mà sự hiểu biết này không phải là tinh túy vì nó chỉ do vay mượn mà có. Chính vì thế với tôi Việt Nam là một dân tộc chưa trưởng thành.

Dân tộc ta giống như một cậu thiếu niên chưa lớn, do thời gian bắc thuộc quá dài mà nền văn hóa phần lớn đều là vay mượn. trong văn hóa Việt Nam có bao nhiều phần trăm vay mượn từ Trung Quốc? Chí ít cũng 70-80%, sự ảnh hưởng sâu rộng đến nỗi kể cả ngôn ngữ cũng hao hao giống nhau. Theo tôi văn hóa chúng ta là thứ văn hóa bắt chước, cái gì chúng ta cũng bắc chước, hãy tìm trong những biểu hiện của nền văn hóa, bạn sẽ thấy rất rất nhiều, nó đều giống giống như của Trung Quốc. Nếu có sự khác biệt thì đó chính là ý chí kiên cường, tình đoàn kết đùm bọc lẫn nhau của… một kẻ yếu, vì nếu không có những đức tính đó thì dân tộc ta bị diệt vong từ rất lâu.

Cũng có thời chúng ta muốn thoát ly nền văn hóa vay mượn như việc bỏ chữ Hán dùng chữ Nôm, nhưng than ôi! Chúng ta có thể làm được sao? Khi mà những gì chúng ta được dạy được học và sống bằng những gì được vay mượn, đó có lẽ là nỗi đau của tiền nhân nước Việt. Chúng ta là một dân tộc yếu kém và lạc hậu thì lấy gì để tạo ra một con đường mới ưu việt hơn cái nền văn hóa vĩ đại ở kề bên?

Bằng sức của mình chúng ta tiến 1 thì kẻ kia đã tiến đến 4-5, đơn giản vì kẻ kia có một nền tảng vô cùng vững chắc, trong khi nền tảng của chúng ta là sự vay mượn. Khi con đường chúng ta tự tạo kém cỏi hơn thì không có cách nào khác ngoài sữ dụng những thành quả đã đạt được của kẻ kia. thế nên chúng ta cứ mãi đi sau, chúng ta sử dụng thành quả của nó nhưng lại không có nền tảng và tinh túy. Đó là nỗi đau của một dân tộc ở bên cạnh một dân tộc lớn.

Nhưng cuối cùng thời đại đã thay đổi, với sự phát triển của công nghệ thông tin, mọi nền văn minh được kéo lại gần nhau và hòa lẫn vào nhau. tất cả tinh hoa nhân loại đều phơi bày ra trước mắt ta, đó là cách tốt nhất để có thể thoát khỏi nền văn hóa to lớn bên cạnh. Đơn giản vì nền văn hóa đó so với các nền văn hóa vĩ đại khác thì vẫn còn kém vài bước. Một dân tộc thông minh là một dân tộc biết học hỏi những gì là tinh túy và biến thành của mình.

Nhật và Hàn là những ví dụ cụ thể. còn chúng ta thì thế nào? Chúng ta vẫn mãi dậm chân tại chỗ, không những thế nền văn hóa chúng ta ngày càng trở nên suy đồi hơn, chúng ta mãi là cậu thiếu niên chưa lớn, chỉ biết bắt chước, chỉ lười biếng học những gì có sẵn, chỉ ham muốn những hạnh phúc nhỏ nhoi do vật chất mang lại, chỉ nhìn thấy những gì trước mắt, chỉ thấy bản thân mình là lớn nhất vĩ đại nhất, chỉ biết đỗ lỗi cho hoàn cảnh, chỉ biết che dấu và biện hộ cho những sai trái của mình, chỉ biết bo bo giữ lấy những thành quả của mình trong khi đặt trên bình diện thế giới thì nó nhỏ nhoi vô cùng, chỉ biết sống trong một cái ao bé tẹo để được yên thân trong khi những kẻ khác đang cố gắng tìm ra biển lớn. Ôi! bao giờ dân tộc ta mới thật sự trưởng thành?

Nếu sự thay đổi của thời đại là một cơ hội cho chúng ta chuyển mình thì khi không biết nắm bắt cơ hội sẽ trở thành tiền đề cho sự diệt vong. bởi vì cái cơ hội đó không chỉ đến với riêng chúng ta. Ngày xưa để diệt một dân tộc thì người ta chỉ có một biện pháp là chiếm đóng bằng vũ lực rồi đồng hóa dần, để tự vệ chúng ta có thể đoàn kết giết giặc chống ngoại xâm. Nhưng ngày nay thì sao? Có vô số cách để đô hộ, dùng kinh tế, dùng chính trị, dùng văn hóa, dùng vũ lực… đó là sự xâm lăng một cách từ từ không đau đớn.

Chúng ta giống như một con ếch trong nồi nước nóng dần, con ếch vẫn cứ hồn nhiên bơi lội và khi nước sôi cũng là lúc nó chết, chết bởi sự hôn mê mà nó không biết. Hãy nhìn những gì diễn ra với Ukraine, một phần quốc gia mất đi với sự ủng hộ đa số của dân chúng nơi đó, sự phân hóa đã ngấm vào tận xương tủy dân tộc đó và nhiều dân tộc nhược tiểu khác. Than ôi chúng ta vẫn là một đứa trẻ tưởng mình đã lớn.

Không ít lần tôi đã khóc cho quê hương khi nhìn con đường mà chúng ta đang đi, tôi thấy mình bất lực, có lúc tôi đã cố gắng lên tiếng, nhưng sau đó tôi thấy tim mình chai đá. Trên đất nước này chúng ta tự hào mình là người Việt Nam, nhưng hãy hỏi những ai từng đi ra ngoài, hỏi họ xem khi đứng trước những dân tộc khác họ cảm thấy gì. Ước gì đứng trước Mỹ ta có thể vỗ ngực: “Kinh tế và giáo dục nước tôi không hề thua bạn”, đứng trước Nhật chúng ta tự hào: “Dân tộc tôi là một dân tộc chăm chỉ và có lòng tự trọng cao”, đứng trước Đức chúng ta mỉm cười và nói: “Nền triết học nước tôi đang tiến gần sát anh” và đứng trước Trung Quốc chúng ta có thể lớn tiếng bảo: “Hãy giao trả Hoàng Sa – Trường Sa, nếu không quân đội chúng tôi sẽ đè bẹp các người”. Nếu chúng ta có thể làm được những điều đó thì mới đáng để tự hào, còn lúc này? tự hào để làm chi khi nền dân trí thấp và đang sống trong nghèo nàn lạc hậu.

 

Mắt Đời
20:02 – 10/10/2014

Suy gẫm cuối tuần – Trí tuệ và lòng can đảm của tuổi trẻ

Featured Image: Unknown Artist

 

Mặc dù đã có rất nhiều người đã nhiều lần nhắc đến sức mạnh của tuổi trẻ, kể cả cá nhân tôi cũng đã nhắc nhiều lần trong những năm qua, nhưng vẫn chưa thấm vào đâu cả khi so với tiềm năng của tuổi trẻ Việt Nam và những gì đã và đang xảy ra ở Việt Nam mình.

Trong những ngày qua, chúng ta lại có thêm một số bài học từ tuổi trẻ, các bài học này có lẽ quý giá nhất trong lịch sử của thế giới trong cả 100 năm qua. Quý giá đến mức, theo tôi, cần phải được nêu ra và nhắc lại nhiều lần, nhất là với tuổi trẻ Việt Nam mình.

—–

Trước tiên, là bài học từ tuổi trẻ Hong Kong với hình ảnh của Joshua Wong

Chỉ 17 tuổi, Joshua và các bạn học sinh – sinh viên Hong Kong đã đánh thức cả xã hội Hong Kong. Nhưng những gì họ đã nhen nhúm để thành công đến mức này bắt đầu từ vài năm trước, mới chỉ vào lứa tuổi 14, 15. Họ tự đặt một tên mới “Scholarism” như là một trường phái, một định hướng nhằm đòi hỏi quyện tự chủ và sự mở rộng trong giáo dục cho tuổi trẻ Hong Kong.

Từ đó, kiến thức, nhận định của họ trưởng thành hơn xuyên qua những hoạt động cụ thể của họ, và họ nhận ra rằng thể chế chính trị quyết định chất lượng giáo dục của xã hội Hong Kong. Rồi từ đó, “Scholarism” đi đòi hỏi những điều mà “người lớn” – những tổ chức chính trị ở Hong Kong – đang đấu tranh.

Sự đòi hỏi của các bạn trẻ Hong Kong, vì không là một tổ chức chính trị nào hết, trở thành sự đòi hỏi hoàn toàn ở vị thế dân sự, cho nên họ được đại đa số bạn trẻ khác, phụ huynh, cũng như người dân Hong Kong hưởng ứng và hưởng ứng gấp bội so với những hoạt động của các đảng phái chính trị đối lập vói nhà cầm quyền Hong Kong hiện nay.

Không những các bạn trẻ tuổi chỉ từ 14 đến 22 này đã đánh thức xã hội Hong Kong, mà họ trở thành hình ảnh vĩ đại cho cả thế giới ngưỡng mộ trong nỗ lực đòi bình đẳng, tự chủ và quyền làm người.

Mặc dù có một số người Việt Nam mình sẽ cho rằng… “Vì xã hội Hong Kong đã có dân chủ từ trước nên các bạn trẻ này mói có cơ hội làm như vậy.” Tuy nhiên, có đưa ra bất kỳ lý do gì để giải thích về hiện tượng này đi nữa, thì không ai có thể phủ nhận được những điều quý giá của các bạn trẻ Hong Kong như sau:

Tuy còn rất trẻ, nhưng họ cực kỳ trưởng thành trong nhận thức; nhưng họ cực kỳ trật tự trong biểu tình với số lượng khổng lồ lên đến 200.000 người; nhưng họ cực kỳ tự chủ trong hậu cần và kết nối; và vô cùng khéo léo trong những tình huống phải đối phó với những trò dơ bẩn, khủng bố của nhà cầm quyền theo lệnh của CSTQ.

Hơn nữa, không phải “Vì xã hội Hong Kong đã có dân chủ từ trước nên…” nếu chúng ta tìm hiểu về bài học từ tuổi trẻ Pakistan trong vòng quản lý của bọn khủng bố Taliban như dưới đây.

Bài học từ Malala Yousafzai, bạn trẻ nữ 17 tuổi vừa nhận giải thưởng quý giá nhất thế giới, giải Nobel Hoà Bình 2014

Malala đã ý thức được Quyền Đi Học từ khi cô ta chỉ mới 11 tuổi, khi đó, Taliban bắt đầu cấm phụ nữ, con gái được đi học. Và những năm sau đó, bọn khủng bố Taliban đã liên tục đốt trường học nữ, khủng bố các gia đình gửi con gái đi học, v.v… nhưng Malala đã không chùn bước. Cô ta với những nỗ lực nhỏ nhoi và sự hỗ trợ của cha mình – một thi sĩ và thầy giáo – đã lên tiếng càng ngày càng mạnh mẽ, càng quyết liệt, để chống lại sự đàn áp, khủng bố của Taliban, cùng với cha cô, bất chấp hiểm nguy và bị đe doạ xử tử bởi bọn khủng bố này.

Đến tuổi 15, vào tháng /2012, Malala đã bị bọn khủng bố Taliban bắn 3 phát súng, trong đó 1 phát súng vào đầu cô ta, sau khi chúng chận chiếc xe bus chở học sinh và hỏi tên để xác định tên cô ta. Một hành động khủng bố – đối với một bé gái 15 tuổi không có một khả năng tự vệ gì hết – làm cho cả thế giới phẫn nộ.

May thay, Malala sống sót sau nhiều tháng trường hôn mê. Nhưng kinh nghiệm khủng khiếp đã không làm cho cô bé sợ hãi, mà ngược lại đã khiến cô bé còn can đảm hơn nữa.

Sau 9 tháng kể từ khi Malala bị bắn vào đầu, vào ngày sinh nhật thừ 16 của cô ta, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, Malala đã phát biểu kêu gọi quyền đi học cho toàn thế giới, và ngày sinh nhật của cô ta được Liện Hiệp Quốc chọn làm “Ngày Malala”. Trong bài phát biểu này, có lẽ câu ý nghĩa nhất thể hiện được hình ảnh của Malala là:

“The terrorists thought they would change my aims and stop my ambitions, but nothing changed in my life except this: weakness, fear and hopelessness died. Strength, power and courage was born … I am not against anyone, neither am I here to speak in terms of personal revenge against the Taliban or any other terrorist group. I’m here to speak up for the right of education for every child. I want education for the sons and daughters of the Taliban and all terrorists and extremists.”

Tạm dịch:

“Những kẻ khủng bố tưởng rằng họ sẽ thay đổi định hướng và hoài bão của tôi, nhưng chẳng có điều gì của cuộc đời tôi thay đổi cả ngoại trừ: sự mềm yếu, sợ hãi và tuyệt vọng đã mất đi. Sức mạnh, năng lực và sự can đảm được sinh ra… Tôi không chống ai hết, và tôi cũng chẳng đứng đây để nói lên sự trả thù cho cá nhân tôi đối với Taliban hay bất kỳ nhóm khủng bố nào hết. Tôi chỉ muốn lên tiếng về quyền được học cho mọi đứa trẻ. Tôi muốn giáo dục cho những đứa con trai, con gái của Taliban và tất cả những nhóm khủng bố và những nhóm cực đoan.”

Vậy đó, một bạn trẻ 17 tuổi, đã chiến đấu từ 11 tuổi trong một xã hội bị Taliban cai trị, một bọ khủng bố tàn độc bật nhất của loài người. Và cô ta, như hình ảnh của lứa trẻ đầy cam đảm, trí tuệ và dấn thân cho xã hội loài người.

—–

Từ đó, một lần nữa, tôi xin khẳng định rằng:

– Đừng bao giờ nghĩ tuổi trẻ là thiếu kiến thức, thiếu nhận định đúng đắng và thiếu trí tuệ. Vì họ có thể dạy cho những “người lớn” rất nhiều điều quý giá của trí tuệ.

– Đừng bao giờ nghĩ tuổi trẻ là yếu đuối, nhút nhát và dễ sợ hãi. Vì họ có thể dạy cho những “người lớn” rất nhiều điều về lòng can đảm, kiên trì và sức mạnh.

– Đừng bao giờ nghĩ tuổi trẻ là ích kỷ, vô tâm. Vì họ có thể dạy cho những “người lớn” rất nhiều điều về sự dấn thân cho sự tốt đẹp của cả xã hội.

—–

Thế thì tại sao tuổi trẻ Việt Nam đã bao nhiêu năm qua chưa hề chứng tỏ điều gì có giá trị một cách rõ ràng?

Theo tôi, chỉ vì họ còn bị CSVN ép phải ngủ mê mà thôi. Khi họ tỉnh dậy, hoặc được đánh thức dậy, thì họ sẽ là nguồn lực chính để thay đổi xã hội Việt Nam mình thôi.

Chỉ mong họ thức dậy sớm, vì cũng ngủ cũng đã 40 năm rồi! Khá lâu… quá lâu!

 

Ngoc Diep Hoang

Challenge the status quo

Featured Image: Lora-Zombie

 

Thưa cha và mẹ,

Đầu tiên, con muốn nói rằng, nếu con cám ơn hai người vì công sinh thành, thì con đang nói dối lòng mình. Con – gồm cơ thể và tâm trí này thuộc về tạo hóa. Cũng giống như cha và mẹ ạ. Nhưng nếu nói, con cám ơn vì cha mẹ đã nuối nấng và chăm bẵm cho con, thì vừa đúng vừa không. Mặc dù cha mẹ phải vất vả để nuôi ăn và cho con hưởng nền giáo dục, với tất cả mong muốn tốt đẹp nhất, sự thật là, cha mẹ cản trở và gây hại nhiều hơn.

Nói đến đây, chắc cha mẹ sẽ trách con vì nói những điều bất hiếu và nghịch đạo làm con – nếu xét theo ý thức hệ, truyền thống Á Đông cũng như bản ngã của người làm cha mẹ. Nhưng cha mẹ cũng nên lấy làm mừng, vì đã có một đứa con thông minh, tỉnh táo và chân thành để nhìn nhận mọi chuyện khách quan, dám nói thẳng, nói thật. Chứ con không giả tạo và giấu diếm.

Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, con hiểu rằng việc nói thật sẽ không được đón nhận, thậm chí còn bị trừng phạt ghê gớm. Dù với xã hội chúng ta từ trước đến nay, mọi người đều mong muốn sự chân thành. Nhưng thực tế thì, nói thật thì luôn bị ăn đòn nhiều hơn là phần thưởng.

Tuy phụ thuộc cha mẹ và gia đình về tài chính, nhưng về suy nghĩ và cảm nhận, con phải “chiến đấu” khá vất vả để có được sự độc lập tự chủ. Đây lại là một điểm nữa mà con nghĩ cha mẹ nên lấy làm mừng.

Vậy con viết lá thư này, là có ý gì đây?

Thưa mẹ, phải nói thật rằng, con cái hầu hết đều ghét cha mẹ. Và chừng nào, con cái được chấp nhận và sống với những gì tạo hóa ban cho, chừng nào nó có thể yêu bản thân mình và hiện thực hóa tình yêu ấy… Chừng ấy, tình cảm của chúng với cha mẹ mới thực chất và dạt dào. Cha mẹ có thể ép buộc: “Con cái phải yêu thương cha mẹ.” Được ạ, nếu cha mẹ thích hoa thật hơn là hoa giả.

Tuy vậy, nếu cha mẹ có thể kiên nhẫn để đọc và hiểu hết nỗi lòng của con, thì một tiếng cười lớn, sự nhẹ nhõm và bình yên của Trời Đất sẽ hạ xuống. Như thể, một vị thần vô hình đã trao cho cha mẹ một đóa hoa tươi thắm nhất. Ấy là phúc lạc của riêng những vị cha mẹ thông minh, và là ánh sáng dành cho tương lai của loài người.

Khi ấy, con và cha mẹ sẽ trở thành những người bạn tri kỷ, thật sự thoải mái và chân thành với nhau, chứ không hề giả dối, vụ lợi hay mù quáng. Cha mẹ lắng nghe con nhé…

Trước hết, khi 2 người làm tình với nhau và quyết định có con; cha mẹ đều còn rất trẻ, thiếu kiến thức khoa học và nhận thức về tâm lý, cũng như mù mịt về vận động thế giới xung quanh. Con trẻ không phải là “của” cha mẹ, mà là được ra đời “thông qua” cơ thể cha mẹ.

Một bộ máy tinh vi và kỳ diệu như con người, không thể chỉ có “nhấp nhấp” vài cái; treo chân lên trần, rồi trong suốt 9 tháng, tống vào người cơ man thức ăn thập cẩm mà có thể tạo ra. Hai con người, mà dù có là 2 nhà khoa học hàng đầu thế giới, với đầy đủ công nghệ tối tân nhất, cũng không thể tạo ra nổi một cặp mặt tuyệt đẹp như vậy. Thì nói, “chúng tao đẻ ra mày” là hoang tưởng.

Hơn nữa, nói “tao mang nặng đẻ đau”, để có ý trách móc khi con cái không làm đúng ý cha mẹ, là bạo lực với mình, và bạo lực với con nữa. Việc người mẹ chịu đau đớn khi sinh con, thực ra là do định kiến nhiều đời, chứ cơn đau ấy không có thật. Ở một thế giới mà con người sống tự nhiên, thuận với Đất Trời, thì sinh con đem lại khoái cảm và sung sướng tột cùng. Nói cách khác, người mẹ còn phải cảm thấy cám ơn, khi đứa con ra đời.

Trước khi quyết định sinh con, nếu cha mẹ là hai người mà chức năng suy nghĩ đã phát triển đầy đủ, hẳn sẽ phải tự hỏi nhau: “Chúng mình đã biết cách nuôi dạy một con người chưa nhỉ?” “Chúng mình đã hiểu về tâm lý con người chưa?” “Thế giới mà chúng mình đang sống, liệu có tốt nhất cho con cái lớn lên và sinh sống chưa?”

Đấy là vì sao, con nghĩ rằng, sinh con là một công việc vừa vất vả, lại vừa liều lĩnh nhất. Khi ấy, cha mẹ quả thật trẻ người non dạ.

Xuất phát từ chính suy nghĩ sai lầm, nhưng lại quá đỗi phổ biến, “con cái là của cha mẹ”… mà đủ loại bệnh dịch và tai ương bắt đầu hình thành. Cha mẹ kiểm soát, ra lệnh, cấm đoán, tác động… thậm chí là đánh đập con cái.

Con nhớ hồi con học lớp 8, vì thích một bạn gái trong lớp mà viết thư tỏ tình. Khi ấy, cha đã buộc con phải nói thật ai là người viết bức thư này. Để rồi khi nói ra, thì con bị ăn đòn. Một đứa ngu cũng hiểu rằng, nói thật là bị trừng phạt. Nếu từ gia đình đã vậy, con không nghĩ đứa trẻ khi lớn lên, sẽ trở thành một người chân thật và dũng cảm.

Vì nghĩ rằng, “con là của mình”, cha mẹ đã vô ý thức áp đặt mong muốn và nguyện vọng của mình lên con cái, chứ không mảy may một giây phút tự hỏi liệu ước mơ của con là gì. Bởi vậy, nếu không thông minh và bất tuân, cuộc đời của con sẽ chỉ là chuỗi kéo dài những mong muốn và khát khao mà cha mẹ không làm được. Đã biết bao ước mơ và tài năng thiên bẩm của con cái bị đè nén, rồi cụt quằn đến mất tích. Và hậu quả là con trẻ mất dần sự thông minh, tính tự chủ và quyết đoán.

Trớ trêu thay, khi lớn lên, cha mẹ lại mong muốn con cái mình có những đức tính như vậy. Quả thật là vừa vặn tay ga, vừa bóp phanh. Chẳng trách mà xã hội bây giờ đầy rẫy những con người tầm thường và không định hướng. Bởi tính nhân văn và cơ hội để khám phá tài năng thiên bẩm đã bị chính cha mẹ mình vô tình tiêu diệt từ trứng nước.

Cha mẹ hẳn có để ý vì sao khi con ở trong bụng mẹ, chân con đạp mạnh như vậy. Vì sao khi con ra đời, tiếng khóc của con đầy sức mạnh như thế? Vì sao tay con nắm vào như thế không? Bởi vì mỗi đứa trẻ đều được Tạo Hóa ban cho sự độc lập, khát khao sống hết mình và một tài năng độc nhất vô nhị đấy cha mẹ ạ.

Dĩ nhiên, con đủ thông minh để hiểu rằng cha mẹ nào cũng chỉ mong ước những gì tốt đẹp cho con thôi. Nhưng hiển nhiên, không thể lấy mục đích để bao biện cho cách làm sai. Và hơn nữa, cũng không thể trách cha mẹ được, bởi vì chính cha mẹ cũng bị áp đặt bởi ông bà, những thế hệ đi trước và văn hóa nữa. Nói cách khác, đây chính là căn bệnh truyền từ đời này sang đời khác. Con bất giấc nhớ tới ông Chế Lan Viên:

“Lũ chúng ta sống trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con.”

Người Á Đông chúng ta nổi tiếng với căn bệnh gia trưởng và coi thường phụ nữ. Quả thật vậy

Con vẫn nhớ những trận đòn kinh hoàng, khi mà cha vì “thương nên cho roi cho vọt” đã “hóa thú” thực sự. Thời ấy, người ta chưa phổ biến luật “Bạo hành gia đình”, cũng như không nhận thức được đầy đủ về khoa học tâm lý. Khi mà những câu chê bai, thậm chí là nhục mạ của cha mẹ đã làm tổn thương con cái như thế nào. Đủ hiểu rằng vì sao mà người Á Đông thường tự ti và yếu thế như vậy, thậm chí nói không quá là kém phát triển về mặt tâm lý.

Cha thì thường là vậy. Còn mẹ? Những người mẹ hoặc là cũng tham gia cùng cha, để cách giáo dục con cái cho “thống nhất và đồng bộ”… như chủ trương của Đảng. Hoặc là nếu thương con, cũng chỉ biết đừng nhìn, cho đến khi xót quá thì dùng nước mắt để can thiệp.

Gia đình như vậy, tâm lý học có từ là “dysfunctional” hay là “đảo lộn”. Nguy hiểm hơn, những đứa trẻ bị ngược đãi như vậy, khi lớn lên, lại vô thức chấp nhận bạo lực như thói thường. Nhẹ là trêu chọc, châm biếm, bôi xấu nhau. Nặng là ức hiếp, đánh đập. Cha mẹ không biết rằng, phải thông minh, nhạy cảm và kiên trì lắm, một người mới có thể chữa lành tất cả những vết thương như vậy.

Chỉ một số ít đã lành mọi vết thương. Chỉ một số nhỏ nhìn ra vấn đề. Và còn lại là mang bệnh, truyền bệnh ngược trở lại thế hệ sau trong vô thức

Xin thưa, nếu đọc từ lịch sử, thì gia đình loài người xuất phát điểm là mẫu hệ. Chỉ bởi vì dân số tăng lên chóng mặt, cộng với việc thức ăn và tài nguyên càng ngày càng khó kiếm, mà trụ cột gia đình chuyển qua tay người đàn ông. Mà dù có vậy, sự thật là mái ấm chỉ là mái ấm nếu có bàn tay của người mẹ. Chứ gà trống nuôi con thì trăm đường thiếu thốn, rồi sớm muộn, gà trống cũng phải tìm gà mái để cùng chăm con.

Con trách cha vì gia trưởng một cách ngu xuẩn. Con trách mẹ vì đánh giá quá thấp bản thân mình. Con thương cả cha lẫn mẹ vì vô thức và mù quáng bởi văn hóa và truyền thống. Viết đến đây, mẹ hiểu vì sao con phát sốt khi thấy ông bố bà mẹ nào mắng con, đánh con rồi chứ?

Trẻ em là những sinh linh thông minh và cực kỳ mỏng manh. Trớ trêu thay, chúng cũng là tầng lớp bị coi thường và đối xử tệ nhất trong xã hội. Chỉ vì một ý tưởng, người ta chẳng thèm kiểm chứng mà đem ngay trẻ con ra để thí nghiệm. Cha mẹ vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của đủ loại bệnh tật và ngu xuẩn.

Cha mẹ đâu có coi con cái như một con người đúng nghĩa đâu nhỉ? Đôi khi, con cảm thấy, cha mẹ coi con cái như thú cưng, nhiều hơn là con người. Cha mẹ có thể bỏ cả chục triệu để hối lộ cho sếp, chi cả trăm triệu để mua quan tài gỗ vàng tâm cho người chết. Nhưng lại con là chuyện bình thường nếu cho con đi ăn KFC và mỳ ăn liền qua bữa. Cha mẹ có thể là những chính trị gia đấu tranh vì tự do dân chủ, hay là nhà hoạt động xã hội nhiệt tình với công việc từ thiện, nhưng lại áp đặt và quân phiệt với con cái, và keo kiệt vì sợ con hư.

Thật kỳ lạ, khi một đứa trẻ hư, người ta sẵn sàng đổ tại nó, đổ tại cách giáo dục của cha mẹ nó rất tự động. Nhưng không ai đặt câu hỏi, vì sao những ông bố bà mẹ như vậy lại được phép sinh con? Ai là người nuôi nấng và dạy dỗ những bậc cha mẹ ấy?

Hay người ta có hỏi, nhưng không dám trả lời?

Nhìn những ông bố bà mẹ trẻ, con tự hỏi, liệu họ có biết rằng dân số đông là một vấn nạn của xã hội ngày nay hay không? Liệu họ có biết là ở thành phố lớn, môi trường cực kỳ ô nhiễm, đến không gian cho người cao tuổi tập thể dục, cơ sở vật chất cho thanh niên chơi thể thao còn thiếu… thì lấy đâu ra chỗ cho con trẻ phát triển thể chất?

Ai cũng kêu ca rằng phải cải cách giáo dục. Ai cũng phàn nàn rằng kinh tế đói kém. Ai cũng thấy là đời sống con người chưa tự do và văn minh. Vậy mà họ vẫn quyết định đẻ con? Nhiều cặp vợ chồng, đến kiếm tiền nuôi thân chưa đủ, vậy mà vẫn đẻ? Họ sẵn sàng tống con cái mình vào bất kỳ ngôi trường nào để rảnh tay kiếm cơm. Họ nhanh nhẩu, “vì con em chúng ta… đánh bỏ cha con em nhà chúng nó”, trong công việc, trong đời sống hàng ngày. Tất cả chỉ vì cái ý tưởng, “con cái là của mình”.

Dĩ nhiên, con không là ai để có quyền phán xét. Nhưng hẳn, những vị ấy rất thiếu thông tin và chẳng suy nghĩ thấu đáo. Cho nên, các nhà văn, nhà báo, người ta phải dùng bút danh, nghệ danh… để viết ra sự thật. Chứ không ai dại mà dùng tên thật.

Nhưng nếu chỉ một cá nhân như con mà đã có những suy nghĩ như vậy, thì theo quy luật đồng bộ của ông Carl Jung, hay như tiếng Việt có câu, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”; hẳn sẽ nhiều người cũng chia sẻ với con như vậy.

Những hoang tưởng của cha mẹ phải chấm dứt, và chắc chắn sẽ như vậy, chỉ là sớm hay muộn. Để thế hệ sau sẽ có một cuộc sống tốt hơn hẳn, một cách triệt để. Rằng chúng sẽ phải được tôn trọng như một công dân đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ ngay từ gia đình. Rằng những cái sai, cái thiển cận, cái hoang tưởng của truyền thống và văn hóa phải chấm dứt. Rằng trẻ con sẽ được quyền tự chủ quyết định, độc lập tư duy và được cha mẹ tạo cơ hội để phát triển tài năng thiên bẩm của mình, ngay từ khi còn trong bụng mẹ.

Cha mẹ à, những cái sai là của thời đại và văn hóa, nên hai người đừng rơi vào mặc cảm nhé. Sự đau đớn khi bị con cái chỉ trích sẽ qua nhanh, và nó chính là khởi đầu của tình cảm chân thật đấy. Muốn hiểu con trẻ dễ lắm, hãy ôm nó vào lòng, rồi nắm tay, nhìn vào mắt con, cha mẹ sẽ hiểu hết.

Cuộc sống đơn giản lắm, con cái không cần bất kỳ sự giáo dục nào hết. Chúng chỉ cần tình thương, tự do và sự thấu hiểu thôi. Trồng người như trồng cây vậy, cho chúng phân bón để xanh lá, cho chúng khoảng không để bắt rễ, cho chúng tự do được sống cùng nắng, cùng gió, cùng chim, ngày và đêm, những ngày đẹp trời và cả những ngày không đẹp, và chúng sẽ lớn.

Quan trọng nhất, để chúng có quyền được hỏi và quyền được nói thật, sống thật.

Con cám ơn cha mẹ.

 

Dao Quang

Qua vũng ngày xanh

 Featured Image: Noah Weiner

Ngày xanh còn tiếc tình chim sẻ
ngậm im bên góc phố già nua
ngậm im bên phiến chiều lịm lịm
hơi thở vòng xoay dấu cợt đùa

ngày xanh còn tiếc lời thoái hóa
băng hoại vòng ôm một vô hình
tinh khôi về trách thầm sợi bạc
triệu hồi cơn mất ngủ nguyên trinh

ngày xanh thay lá sau cửa sổ
lặng lặng rời tay cánh di thê
nghe rêu tê dại từng con chữ
ký vãng chiều nay chợt trổ về.

 

Phương Uy
11.10.14

Sài gòn về đêm

Featured Image: Pham Van Huong

 

Trong cuộc sống, có đôi khi những món quà thật ý nghĩa lại xuất phát từ một sự không may nào đó. Lịch trình nhạt nhẽo của một ngày như mọi ngày bị phá vỡ, nó đưa ta bước đi trên một con đường vô định, nó bắt ta phải dừng lại để suy nghĩ “mình phải làm gì tiếp theo?”. Đó là những gì mà tôi gặp phải trong một ngày rất bình thường gần đây.

Sẽ phải làm gì ở ngoài lúc 1 giờ đêm khi những kẻ ở chung phòng trọ thì say mèm và tắt điện thoại? nếu bạn là tôi, luôn mở máy để khi họ đi làm về dù rất khuya vẫn mở cửa, rồi đến phiên mình lại bị cho ở ngoài thì chắc sẽ giận lắm. Cuộc sống này có rất nhiều việc không như ta muốn, nó làm ta thất vọng, làm ta chán chường nhưng nó cũng cho ta những điều rất tuyệt vời. Và điều tuyệt vời nhất của tôi lúc ấy chính là em. Như một sự tình cờ, em gọi điện cho tôi, những lời an ủi ngọt ngào của em làm lòng tôi thấy bình yên hơn, ấm áp hơn dù trời thì mang cái lành lạnh của mùa đông Sài Gòn.

– “Vậy anh thuê khách sạn để ngủ đi. Khi nào đến khách sạn thì gọi em, em sẽ… sẽ… chúc anh ngủ ngon hihi!!”

– “Em! Chắc anh sẽ không ngủ khách sạn đâu, anh không quen ngủ nơi ấy khi chỉ có một mình. Anh sợ ma lắm! anh sẽ chạy quanh Sài Gòn vậy. Sài Gòn về khuya cũng có nhiều điều để nhìn.”

– “Đây là một ý hay, anh hãy quan sát và nhớ viết bài cho em đọc nhé. Thôi em đi ngủ đây. Bye anh!”

– “Hôn em! Chúc em ngủ ngon. Anh yêu em!”

Thế là cuộc hành trình ngoài dự kiến của tôi bắt đầu. Tôi biết, với nhiều người, Sài gòn về khuya cũng rất bình thường, nó bình thường vì họ chứng kiến nhiều lần lắm. Nhưng với tôi thì đây là lần đầu tiên thật sự quan sát và cảm nhận nó.

Từng cơn gió lạnh tạt qua trên con đường vắng, thật vắng lặng nếu so với sự đông đúc ồn ào của ban ngày. Đôi khi có những chiếc lá hay bao nylon bay lên, lại có con đường chỉ mang cái lạnh với không gian im lắng.

Người bạn đầu tiên của khuya Sài Gòn mà tôi thấy chính là những bác xe ôm đang nằm vắt mình trên xe. Có lẽ họ ngủ một tí hay lo nghĩ về cuộc sống khi một ngày mới bắt đầu. Làm bạn với những bác xe ôm thường là những quán nước vỉa hè nơi góc đường. Tôi tạt vào quán nước làm một ly cà phê cho mình tỉnh táo.

Lâu lâu trên đường vẫn có những chiếc xe gắn máy vụt qua với yên sau mang đầy rau cải. Tất cả những chiếc xe thế này sẽ mang nguồn thực phẩm ở nông thôn đến các chợ để chuẩn bị cho các bà nội trợ vào sáng sớm. Thông thường khi bạn bỏ tiền ra mua một thứ gì đó, bạn chỉ thấy được sản phẩm cuối cùng mà thôi. Hãy một lần thử đi ngược dòng của sản phẩm đó, bạn sẽ thấy đó cũng là cuộc phiêu lưu không kém phần thú vị. Chính cái sản phẩm trên tay bạn đã tạo ra một mối liên kết không ngờ đối với những con người ở những nơi xa nhau và không hề biết nhau. Mỗi sản phẩm như một con người trong đời người. Dòng đời đó có ánh sáng, cũng có bóng tối, trải qua nhiều giai đoạn. Nếu mỗi giai đoạn đều được trau chuốt cho tốt thì sản phẩm cuối cùng sẽ mang chất lượng cao. Con người chẳng phải cũng thế hay sao?

“Con ơi đi không?” – Đó là câu mời chào của một “bóng hồng” hơn 55 tuổi. Trên con đường ấy mỗi góc cây là một bóng hồng. Có bóng hồng đứng dựa vào tường với điếu thuốc trên môi, có bóng hồng ngồi co ro với thân mình run vì lạnh. Tôi tự hỏi lòng mình: “Làm sao nên nông nỗi thế?” Vì bản thân họ hay vì xã hội khiến họ phải thế? Là do một phút sa chân hay một sự kém may mắn nào đó khiến họ sinh ra trong nghèo hèn và vô học? Tôi chợt thấy buồn cười khi một ai đó cảm thấy tự hào vì mình không giống họ hay vì mình giàu có hơn người khác, hay học thức hơn. Thử hỏi nếu những người đó sinh ra trong một gia đình oan trái, một hoàn cảnh trái ngang thì liệu họ có thoát ra khỏi vũng bùn đó hay không? Sẽ có người bảo rằng – tôi sẽ vượt qua. Nhưng nói thì dễ mà làm thì khó vô cùng. Vì vậy riêng tôi nghĩ – đừng tự hào vì ta có nhiều thứ hơn người khác, mà hãy tự hào vì sự cố gắng vươn lên của ta có nhiều hơn.

Nếu có người hỏi bạn công trình kến trúc nào của Sài Gòn về đêm là đẹp nhất thì bạn nhớ đáp đó là “ủy ban nhân dân thành phố” và sau đó là “nhà hát lớn thành phố”, rồi đến “nhà thờ đức bà” và “bưu điện thành phố”. Đó là những công trình mang tính văn hóa – lịch sử của Sài Gòn. Dù bên cạnh có biết bao nhà cao tầng mọc lên nhưng những cái mới ấy mãi luôn khom mình trước vẻ đẹp của những giá trị xưa củ. Từng có một thời cái công việc bảo vệ những giá trị ấy trở nên vô cùng cấp thiết. Với tôi giá trị của một nơi nào đó không nằm ở sự đồ sộ của nó mà nằm ở linh hồn đặc trưng của chính nó.

Nếu một thành phố không có những thứ giá trị cao quý nền tảng thì nó khác gì một cô gái điếm diêm dúa rẻ tiền? Bạn hãy thử đi dạo Sài Gòn về khuya, khi con người đang ngủ, bạn sẽ biết trái tim và linh hồn nó nằm ở đâu. Không phải những tòa nhà cao chót vót với khung kính giá lạnh, mà là những công trình kiến trúc tồn tại từ xưa đến giờ. Nhìn thành phố tôi lại nghĩ đến thân phận con người. Trong nó là sự đấu tranh của cũ và mới, nếu chỉ chuộng cái cũ thì ngừng lại trên con đường phát triển. Nếu xóa hết cái cũ để chạy theo cái mới thì khác chi rời bỏ cái gốc của mình để làm thân cỏ dại, mà cỏ dại thì khi có gió bão sẽ tróc gốc mà héo tàn. Có lẽ lựa chọn hợp lý nhất là hài hòa giữa cũ và mới, biết chọn lọc những gì có giá trị thật sự để giữ lại.

Đã 3 giờ sáng, tôi dựng xe bên lề trước bưu điện thành phố bên hông nhà thờ đức bà. Trước bồn hoa Đức Mẹ có vài người đang cầu nguyện. Một chiếc xe đạp, một chiếc xe gắn máy và một chiếc ô tô, niềm tin vào sự thiên liêng và hy vọng vào ngày mai tươi đẹp không từ chối một ai. Hay nói cách khác, dù bạn là ai, bạn giàu hay nghèo, bạn tốt hay xấu thì mong ước lớn nhất của bạn luôn là bình yên và hạnh phúc. Vì vậy hãy nhớ nguyện cầu về những điều tốt lành đó luôn luôn. Sẽ có ơn trên soi sáng hay ít ra khi nghĩ về điều gì đó nhiều hơn thì ta dễ nhìn thấy và nắm bắt nó hơn.

Đã có bác xe ôm, cô bán nước, những bóng hồng ven đường, những người chở hàng, vài người cầu nguyện.. thì không thể thiếu một người bạn vô cùng thân thiết của Sài Gòn là những người quét lá trên đường. Bạn có biết sau những công trình kiến trúc thì điều gì là đẹp nhất hay không? Xin thưa đó chính là họ. Tôi kinh ngạc trước vũ điệu quét lá của những con người đó, họ đi lùi rồi quét chổi ngang bên phải, rồi trở tay quét ngang bên trái. Đó là một động tác mang tính dưỡng sinh cao, họ quét lá như khiêu vũ, vô cùng chăm chú. Họ quét như một nghệ sĩ luôn đặt tất cả tinh thần vào một bức vẽ hay như đang trình bày một ca khúc tuyệt diệu. Tôi kinh ngạc vì vẻ đẹp đó, tôi kinh ngạc vì nó toát lên từ một công việc mà ta cho rằng là đơn giản và tầm thường. Phải chăng cái đẹp không nằm ở sự giản đơn hay phức tạp mà nằm ở trái tim ta đặt vào nó?

5 giờ có lẽ phòng trọ vẫn chưa mở cửa nên tôi cũng theo mọi người vào công viên để tập thể dục buổi sáng. Tất nhiên, sau một ngày làm việc, một đêm không ngủ thì tôi không còn sức đâu để chạy bộ nữa. Tôi bước đi theo dòng người trong công viên Tao Đàn. Những tán cây lớn nhòa trong sương sớm, những con người đi nhanh về phía trước với áo đầy mồ hôi. Đa số họ có tuổi vượt qua 50, khá ít thanh niên. Phải chăng ta chỉ làm điều gì đó khi cuộc sống bắt ta phải thế dù ta biết nếu ta làm sớm hơn thì sẽ tốt hơn? Đó thường là lựa chọn của phần đông con người. Khi cơ thể già nua và mỏi mệt mới biết chăm sóc nó, nhưng liệu có kịp hay không? Nhưng mà tôi cũng thế thì còn biết nói ai?

Thật dài cho một chuyến hành trình xuyên đêm nhưng cũng thật ngắn khi so với một đời người. Lại thật nhiều bổ ích khi so với những gì ta tìm được qua một ngày như mọi ngày mà ta vẫn sống. Sau một đêm không ngủ, tôi nghĩ mình cần nói với em một lời mà tôi rất muốn nói:

Cảm ơn em rất nhiều – người đã làm thay đổi tâm hồn tôi

 

Mắt Đời

Thị trường và đạo đức (kỳ 10)

 

Leonid V. Nikonov – Đạo lý của bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội thị trường

Trong tiểu luận này, nhà triết học Nga Leonid Nikonov khảo sát có phê phán một cách kỹ lưỡng ý tưởng về “bình đẳng” trong nền kinh tế thị trường và thấy rằng phần lớn những lời phê phán mang tính bài tư bản dựa trên đòi hỏi về bình đẳng – dù đấy có là bình đẳng về khả năng, bình đẳng về giá trị hay về kết quả – là không phù hợp. Leonid Nikonov là giảng viên triết học tại trường đại học tổng hợp quốc gia Altai ở Barnaul, cộng hòa liên bang Nga. Ông giảng dạy các môn như triết học, bản thể học, nhận thức luận, và triết học tôn giáo. Hiện nay ông đang viết tác phẩm với nhan đề Khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa tự do (Moral Measurements of Liberalism) và đã từng công bố nhiều bài viết trên các ấn phẩm mang tính hàn lâm của Nga.

Năm 2010 ông thành lập và sau đó trở thành giám đốc Trung tâm triết lý của tự do, trung tâm này thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo và thảo luận cũng như những chương trình khác ở Nga và Kazakhstan. Ông càng gắn bó hơn với công việc đó sau khi giành giải nhất cuộc thi (ở Nga) diễn ra vào năm 2007 viết về đề tài Chủ nghĩa tư bản thế giới và quyền tự do của con người, một cuộc thi tương tự như cuộc thi do quỹ Students For Liberty diễn ra vào năm 2011 và tham gia giảng dạy cho khóa học về tự do diễn ra vào mùa hè ở Alushta, Ukraine. (Chương trình lúc đó do Cato.ru, còn hiện nay thì do InLiberty.ru sắp xếp). Năm 2011 ông được mời làm thành viên trẻ của tổ chức Mont Pelerin Society, một tổ chức do 39 nhà khoa học thành lập vào năm 1947 nhằm khôi phục lại những tư tưởng tự do truyền thống.

______________________________________________________________

Thị trường không nhất thiết phải tạo ra kết quả như nhau cũng như không đòi hỏi mọi người phải có khả năng như nhau. Nhưng để có thị trường thì đấy là cái giá đáng phải trả. Bất bình đẳng không chỉ đơn thuần là kết quả bình thường của sự trao đổi trên thương trường. Nó là điều kiện tiên quyết của quá trình trao đổi, không có nó thì trao đổi sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Hy vọng rằng những vụ trao đổi trên thương trường và xã hội thị trường, trong đó tài sản được phân bố thông qua thị trường, sẽ tạo ra sự bình đẳng là hy vọng hão huyền. Bình đẳng về những quyền căn bản, trong đó có bình đẳng về quyền tự do trao đổi, là nhu cầu thiết yếu của thị trường tự do, nhưng đừng nghĩ rằng thị trường tự do sẽ tạo ra kết quả như nhau cho tất cả mọi người, cũng như thị trường tự do không cần sự bình đẳng về điều kiện nào khác, ngoài bình đẳng trước pháp luật.

Có thể coi lý tưởng của quá trình trao đổi bình đẳng là sự bình đẳng về khả năng ban đầu hoặc bình đẳng vể kết quả chung cuộc. Nếu hiểu theo nghĩa bình đẳng về khả năng thì chỉ có những người ngang nhau về mọi khả năng liên quan mới có thể tham gia vào quá trình trao đổi bình đẳng, bất kỳ sự khác biệt nào cũng tạo ra trao đổi bất bình đẳng, đấy là lý do vì sao một số người bác bỏ hợp đồng lao động – vì sự bất bình đẳng (và vì vậy mà bất công) – giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nếu hiểu theo nghĩa bình đẳng về kết quả chung cuộc thì nghĩa là chỉ những giá trị ngang nhau mới được mang ra trao đổi hoặc sau khi trao đổi người ta sẽ nhận được những giá trị như nhau.

Thí dụ, cùng một số lượng hàng hóa với chất lượng như nhau được chuyển từ phía này sang phía kia thì cuộc trao đổi sẽ đáp ứng được điều kiện bình đẳng. Hãy tưởng tượng một cảnh kỳ quái, trong đó hai sinh vật có hình dạng giống như con người, hoàn toàn giống nhau (để tránh sự khác biệt tạo ra bất bình đẳng), chuyển giao cho nhau những món đồ hoàn toàn giống nhau. Bỏ qua một bên xúc cảm thẩm mỹ mà ta có thể có trước bức tranh trái tự nhiên này, ý nghĩa mà nó có thể gợi ra là ý tưởng về trao đổi bình đẳng là ý tưởng đầy mâu thuẫn. Trao đổi như thế chẳng làm thay đổi được gì, nó chẳng cải thiện được địa vị của bất cứ bên nào, nghĩa là chẳng bên nào có lý do để trao đổi hết.

(Karl Marx khăng khăng nói rằng trao đổi trên thương trường là dựa trên sự trao đổi của những giá trị ngang nhau, điều đó đã tạo ra một lý thuyết kinh tế vô nghĩa lý và chẳng ăn nhập gì với thực tế hết). Gắn trao đổi trên thương trường với nguyên tắc bình đẳng là đã tước đi chính lý do của sự trao đổi, mà lý do là các bên trao đổi để lấy cái tốt hơn. Về mặt kinh tế học, trao đổi là dựa trên sự công nhận về cách đánh giá khác nhau của các bên tham gia trao đổi.

Tuy nhiên, xét về mặt đạo đức, tư tưởng bình đẳng có thể là tư tưởng hấp dẫn đối với một số người. Đặc điểm chung của nhiều đánh giá mang tính đạo đức là chúng thường hình thành trên quan niệm về trách nhiệm, chỉ quan tâm tới việc phải làm chứ không quan tâm tới khía cạnh kinh tế hay cái thực sự hiện có hoặc thậm chí không quan tâm tới cái sẽ xuất hiện sau đã làm cái phải làm. Thí dụ, theo Immanuel Kant thì trách nhiệm đòi hỏi phải thực thi, bất chấp kết quả và hậu quả và thậm chí bất chấp cả khả năng thực hiện cái cần phải làm. Nói “anh phải” cũng có nghĩa là nói “anh có thể”. Cho nên, mặc dù bình đẳng trong trao đổi là lố bịch về mặt kinh tế, nhưng nó vẫn (và đang) được coi là lý tưởng về mặt đạo đức.

Bình đẳng – như một vấn đề đạo đức – là một chủ đề phức tạp. Chúng ta có thể phân biệt hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất: bình đẳng là mối quan tâm chủ yếu (những người theo chủ nghĩa bình quân) và quan điểm thứ hai: bình đẳng không phải là chủ yếu (những người không theo chủ nghĩa bình quân). Những người không theo chủ nghĩa bình quân không cần khẳng định bình đẳng là đáng mong muốn hay không đáng mong muốn, họ chỉ bác bỏ việc coi bình đẳng là mục đích nhằm loại bỏ những mục đích khác, đặc biệt là tập trung vào việc bảo đảm cho sự bình đẳng về mặt vật chất. Những người tự-do-phi-bình-quân-chủ-nghĩa khẳng định tầm quan trọng của một số quyền bình đẳng, mà cụ thể là bình đẳng về những quyền căn bản, họ cho rằng quyền bình đẳng này không phải là bình đẳng về kết quả, cho nên cũng có thể coi họ là những người theo chủ nghĩa bình quân kiểu khác. (Người dân trong các xã hội hiện đại và tự do coi bình đẳng về quyền là nền tảng của luật pháp, của quyền sở hữu và lòng khoan dung). Những người tự-do-phi-bình-quân-chủ-nghĩa cổ điển và những người theo phái tự do cổ điển bảo vệ quan điểm của họ, họ coi đấy là hình thức bình đẳng trong sáng nhất hay phù hợp nhất hoặc ổn định nhất, còn những người biện hộ cho quyền bình đẳng trong “phân phối” tài sản lại tuyên bố rằng bình đẳng của phái tự do là bình đẳng chỉ mang tính hình thức, bình đẳng trên lời nói chứ không phải trên thực tế. (Họ cho rằng bình đẳng trước pháp luật chỉ là nói về suy nghĩ và hành động của người ta chứ không nói về tình trạng đáng mong ước của thế giới hay của phân bố tài sản. Coi cách tiếp cận với quyền bình đẳng như thế chỉ là hình thức chứ không phải là thực chất phụ thuộc vào quan niệm của người ta về vai trò của thủ tục pháp lý và tiêu chuẩn hành vi).

Thật khó thảo luận những vấn đề triết học phức tạp trước khi chúng được trình bày một cách rõ ràng hoặc được đặt ra một cách đúng đắn. Các nhà triết học cả ở phương Đông lẫn phương Tây đã nêu ra các học thuyết về đạo đức cách đây hàng ngàn năm, tức là trước khi có những phân tích về những đánh giá liên quan đến trách nhiệm và lập luận hiển ngôn. David Hume là người đầu tiên thực hiện công trình nghiên cứu theo hướng này, sau đó là Immanuel Kant và những triết gia theo trường phái thực chứng khác như George Moore, Alfred Ayer, Richard Hare ..v..v..; công việc nghiên cứu vẫn còn tiếp tục.

Mặc dù cuộc tranh luận giữa những người theo chủ nghĩa bình quân và những người không theo chủ nghĩa bình quân không chỉ giới hạn trong việc xem xét quan hệ hợp lý giữa bình đẳng và đạo đức, tìm hiểu mối quan hệ giữa bình đẳng và đạo đức sẽ là đóng góp có giá trị vào cuộc tranh luận sôi nổi, đang diễn ra hiện nay, về việc liệu dùng vũ lực để tái phân phối lượng tài sản bất bình đẳng do thị trường tạo ra là việc làm hợp đạo lý hay là đáng phải bị cấm, nếu xét về mặt đạo lý. (Điều này khác hẳn với vấn đề là tài sản của những người chủ sở hữu hợp pháp bị nhà cầm quyền hay những kẻ tội phạm chiếm đoạt phải được trả về cho khổ chủ).

Xin xem xét vấn đề đạo đức của sự công bằng thông qua một câu hỏi đơn giản sau đây: Tại sao bình đẳng – dù đấy là bình đẳng về khả năng ban đầu hay bình đẳng về kết quả chung cuộc thì cũng thế – về mặt đạo đức, lại ưu việt hơn là bất bình đẳng (hoặc ngược lại)? Muốn tìm được câu trả lời cho cuộc tranh luận như thế thì phải hỏi trực tiếp cả những người theo chủ nghĩa bình quân lẫn những người không theo chủ nghĩa bình quân.

Phạm vi của những câu trả lời khả thể là có giới hạn. Trước hết, người ta có thể quyết định những tỷ lệ số học cụ thể nào đó (về bình đẳng hoặc bất bình đẳng) là tốt hơn những tỷ lệ khác. Thí dụ, tỷ lệ giữa X với Y là đức hạnh hơn nếu giá trị của các biến số này bằng nhau và kém đức hạnh hơn nếu các biến số này không bằng nhau, nghĩa là tỷ lệ 1:1 tốt hơn tỷ lệ 1:2 (và càng đức hạnh hơn so với tỷ lệ 1:10). Mặc dù dường như quan điểm như thế là rất rõ ràng, nhưng vấn đề đạo đức lại không dễ giải quyết như thế. Các giá trị không thể được rút ra từ những biểu thức toán học, bản thân những biểu thức này vốn đã trung tính về mặt đạo đức rồi. Khẳng định rằng tỷ lệ toán học này là ưu việt hơn tỷ lệ toán học kia là việc làm cực kỳ tùy tiện, chẳng khác gì hành động kỳ quặc của những đồ đệ của Pythagor, những người đã phân chia các con số thành giống đực, giống cái, đáng yêu, tốt, xấu ..v..v..

Tốt hơn là không nên tập trung vào sự bình đẳng về khả năng ban đầu hay kết quả chung cuộc mà nên tập trung vào đức hạnh của từng cá nhân, coi đấy là cơ sở để đánh giá những mối quan hệ (trong đó có quan hệ trao đổi) giữa các cá nhân với nhau. Theo đó: không ai có đức hơn (hoặc kém đức hơn) người khác hay ngược lại, một số người có đức hơn (hoặc kém đức hơn) những người khác. Trên cơ sở đó ta có thể nói rằng đòi hỏi bình đẳng về khả năng ban đầu hay kết quả là đáng mong muốn hay không đáng mong muốn. Cả hai quan điểm đều cùng hội tụ về một điểm là cần tái phân phối bằng bạo lực nhằm xóa bỏ hay thiết lập sự bất bình đẳng, trong cả hai trường hợp, luận cứ quan trọng nhất là đức hạnh của các bên, mặc dù giữa ý tưởng về đạo đức của người ta và địa vị hiện có của người ta là những khái niệm cách nhau một trời một vực, không thể nào kết nối với nhau được. Nói một cách cụ thể hơn thì vấn đề chính là quan hệ giữa, một bên là đức hạnh và bên kia là số lượng hay giá trị tài sản mà một người nào đó đang nắm giữ.

Chúng ta có thể tiến thêm một bước nữa mà hỏi rằng vì sao mỗi buổi sáng hai người đức hạnh như nhau lại phải uống cùng số lượng hay cùng số tiền cà phê như nhau? Hoặc liệu một người nhân từ và ông hàng xóm keo kiệt của ông ta, cả hai đều có đạo đức như nhau (hoặc họ có như nhau không?), lại phải hay không được sở hữu số chậu lan như nhau? Những người có đạo đức như nhau dường như không có biểu hiện gì rõ ràng là họ bình đẳng về khả năng hay tiêu dùng hoặc tài sản mà họ nắm giữ là như nhau. Hãy xem xét quan hệ của hai người chơi cờ có đạo đức như nhau. Đạo đức như nhau có phải là tài nghệ như nhau hay ván cờ nào cũng hòa hay không? Hay họ phải theo cùng luật chơi, và điều này sẽ kéo theo là không thể có quy định mang tính quy chuẩn là tất cả các ván cờ đều sẽ hòa.

Như vậy là, không có mối liên hệ nào giữa đức hạnh với khả năng ban đầu hay kết quả cụ thể. Nếu chúng ta tập trung chú ý vào hành vi hay luật lệ chứ không chú ý vào khả năng ban đầu hay kết quả chung cuộc thì chúng ta sẽ thấy là tình hình công việc là do hành động, sự lựa chọn và (nhất là trong những trường hợp tội phạm) ý định. Một người có bao nhiêu tiền trong túi và số tiền này lớn hơn hay nhỏ hơn số tiền trong túi của người hàng xóm, tự bản thân nó không phải là thành tố mang tính đạo đức. Vấn đề là số tiền đó từ đâu mà ra. Một ông trùm tư bản và một người lái taxi đều có thể được coi là người có đạo đức hay không đạo đức, tất cả phụ thuộc vào việc là hành động của người đó có tương thích với những tiêu chuẩn đạo đức phổ quát hay là không, thí dụ như họ có tôn trọng những quy tắc công lý và những tiêu chuẩn đạo đức vốn có trong họ và trong những người khác hay không.

Người ta ca ngợi hay phê phán một người không phải vì anh ta giàu hay nghèo mà vì hành động mà anh ta làm. Địa vị khác nhau tạo ra khả năng khác nhau trong việc thực hiện những hành vi tốt hay xấu, đạo đức hay vô đạo, công bằng hay bất công, nhưng những tiêu chuẩn vừa nói bên trên – chứ không phải khả năng ban đầu hay kết quả cuối cùng – mới chi phối hành vi của con người. Sử dụng một cách bình đẳng các tiêu chuẩn đạo đức là cơ sở để chúng ta đánh giá hành vi của một người là có phù hợp đạo lý hay không. Bình đẳng về mặt đạo đức nghĩa là tội ác là tội ác, dù người lái taxi hay một ông trùm tư bản thực hiện thì cũng vậy mà thôi, và buôn bán trung thực tạo ra lợi nhuận vẫn là buôn bán trung thực, do hai người lái taxi hay hai ông trùm tư bản hoặc một ông trùm tư bản và một người lái taxi buôn bán với nhau thì cũng thế.

Xin quay trở lại với quan hệ giữa tài sản và bình đẳng. Tài sản mà người ta có có thể là kết quả của hành vi đúng đắn hay dùng bạo lực cướp đoạt. Trao đổi trên thị trường tự do có thể tạo ra bất bình đẳng hơn hoặc bình đẳng hơn, nhà nước can thiệp hoặc tái phân phối cũng có thể tạo ra bất bình đẳng hơn hoặc bình đẳng hơn. Không thể nói trước được là những hình thức tương tác như thế là bình đẳng hay bất bình đẳng. Một doanh nhân có thể tạo ra của cải và vì vậy mà giàu hơn người khác, ngay cả khi tài sản được tạo ra cũng có lợi cho người kia. Trao đổi trên thị trường tự do có thể làm cho mọi người bình đẳng hơn: thịnh vượng lan rộng và xói mòn dần đặc quyền đặc lợi bất công mà một số người được thừa hưởng từ những hệ thống cũ.

Một người ăn cắp của một người nào đó và vì vậy mà có nhiều tài sản hơn nạn nhân, kết quả là bất bình đẳng hơn; còn nếu hắn lại bị mất cắp thì sẽ có bình đẳng hơn. Tương tự như thế, sự can thiệp của các lực lượng cưỡng bức có tổ chức của nhà nước có thể tạo ra sự bất bình đẳng nghiêm trọng về tài sản – bằng cách chà đạp quyền lựa chọn của những người tham gia trên thương trường (chủ nghĩa bảo hộ, tài trợ và “độc quyền để thu lợi”) hoặc đơn giản là sử dụng bạo lực và cưỡng bức, như đã từng xảy ra trong các nước theo chế độ cộng sản. (Tuyên bố hi sinh vì bình đẳng không có nghĩa là thực sự tạo ra bình đẳng, như kinh nghiệm cay đắng của hàng chục năm qua đã cho thấy).

Dù hệ thống pháp luật hay hệ thống kinh tế có làm cho người ta tiến đến gần hơn hay xa hơn bình đẳng về thu nhập thì đấy vẫn chỉ là vấn đề thực tiễn chứ không phải là vấn đề lý thuyết. Báo cáo về mức độ tự do kinh tế thế giới (The Economic Freedom of the World Report -www.freetheworld.com) đo mức độ tự do kinh tế và sau đó tiến hành so sánh nó với những chỉ số thể hiện mức độ thịnh vượng khác nhau (tuổi thọ, trình độ học vấn, mức độ tham nhũng, thu nhập tính trên đầu người..v.v..). Số liệu cho thấy rằng dân chúng trong những nước có nền kinh tế tự do nhất không chỉ giàu có hơn hẳn dân chúng các nước có nền kinh tế ít tự do hơn, mà bất bình đẳng về thu nhập (cụ thể là phần thu nhập quốc dân mà 10% người nghèo nhất được hưởng) không phải là đặc điểm của những chính sách khác nhau, nhưng tổng thu nhập của họ thì lại là đặc điểm như thế.

Nếu chia các nước trên thế giới thành 4 nhóm (mỗi nhóm chiếm 25% dân số thế giới) thì phần thu nhập quốc dân mà 10% người nghèo nhất trong nhóm nước có nền kinh tế ít tự do nhất (trong đó có những nước như Zimbabwe, Myanmar và Syria) được hưởng trong năm 2008 (năm gần nhất có số liệu) là 2,47%; trong nhóm tiếp theo (đứng tứ ba về tự do kinh tế) con số đó là 2,19%; nhóm tiếp theo (đứng thứ hai về tự do kinh tế) con số đó là 2,27%; còn nhóm tự do nhất là: 2,58%. Mức độ dao động không phải là lớn. Có thể nói bất bình đẳng về kinh tế dường như miễn nhiễm đối với những quy định của chính sách kinh tế.

Nhưng mặt khác, tổng thu nhập mà 10% người nghèo nhất được hưởng thì lại khác nhau một trời một vực, biến số này chắc chắn là không miễn nhiễm trước các chính sách kinh tế. Người nằm trong diện 10% những người nghèo nhất trong những nước ít tự do kinh tế nhất chỉ có thu nhập trung bình là 910 dollar một năm, trong khi người nằm trong diện 10% người nghèo nhất trong những nước có nền kinh tế tự do nhất lại có thu nhập trung bình hàng năm lên tới 8.474 dollar. Dường như đối với người nghèo thì nghèo ở Thụy Sỹ vẫn tốt hơn là nghèo ở Syria.

Dù bạn và tôi có khởi đầu bình đẳng trước khi trao đổi hay có tài sản như nhau sau khi trao đổi thì điều đó, tự nó, cũng không phải là vấn đề đạo đức. Nhưng mặt khác, không đối xử một cách bình đẳng với những người bình đẳng với nhau về mặt đạo đức và không để họ được bình đẳng trước pháp luật – tất cả đều nhằm tạo ra thu nhập bình đẳng hơn (đây dường như là một công trình không thành công vì khó mà thao túng được kết quả) – chắc chắn là vấn đề đạo đức rồi. Đấy chính là vi phạm quyền bình đẳng về mặt đạo đức.

Cuộc tranh cãi ồn ào nhất về bất bình đẳng về thu nhập lại không phải là tranh cãi về bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo trong những xã hội tự do về kinh tế mà là tranh cãi về khoảng cách khổng lồ giữa tài sản của người dân trong những xã hội tự do về mặt kinh tế và tài sản của người dân trong các xã hội không được tự do về mặt kinh tế. Khoảng cách giàu nghèo chắc chắn có thể được giải quyết bằng cách thay đổi luật lệ, nghĩa là thay đổi chính sách kinh tế. Giải phóng người dân trong những xã hội không được tự do về kinh tế sẽ tạo ra một lượng tài sản rất lớn, điều đó sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giữa những người giàu trên thế giới và người nghèo trên thế giới hơn bất kỳ chính sách có thể tưởng tượng được nào khác.

Hơn nữa, điều đó còn có những hậu quả tích cực trong việc thực thi công lý vì nó chấm dứt việc đối xử bất bình đẳng với người dân trong các nước có bộ máy cai trị tồi vì nạn ô dù, tập quyền, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa xã hội và bạo lực. Tự do kinh tế là bình đẳng trước pháp luật và quyền của mọi người trong việc sản xuất và trao đổi đều được tôn trọng như nhau, đấy là tiêu chuẩn công lý đúng đắn dành cho những con người đức hạnh.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: The Morality of Capitalism