18.6 C
Da Lat
Chủ Nhật, 28 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 177

Tôi muốn bước vào thế giới thượng lưu

159
Featured Image: Russ Morris

 

Vừa mới xem xong bộ phim The Intouchables, bộ phim thứ 16 đáng để xem nếu có một bài nữa để giới thiệu 5 phim đáng xem. Nhưng bài viết này không viết về nó mà là về tôi. The Intouchables đã nhắc lại những ước vọng mà tôi luôn khao khát – một đời sống thượng lưu nhiều ý nghĩa.

Bạn nghĩ về điều gì trước tiên khi nghe đến 2 từ “thượng lưu? Chắc hẳn là sự giàu sang với sự xa hoa của nó? Hay là những buổi tiệc linh đình với thật nhiều quý cô xinh đẹp? Không! Điều tôi mơ ước không phải thế, hay nếu có thì chỉ là một mong muốn nhỏ nhoi khi so với một thứ khác to lớn hơn, đó chính là tri thức. Không chỉ lúc này, ngay từ khi còn rất nhỏ, chúng ta đã ước mơ mình là một hoàng tử phong nhã đang rong rủi trên đường đi tìm nàng công chúa. Mơ sở hữu một tòa lâu đài tráng lệ để sống cùng nàng trọn đời. Nhưng khi ta lớn lên, ta trưởng thành hơn, ta không chỉ nhìn sự giàu sang ở phương diện vật chất mà còn ước mơ ở những gì thuộc về tinh thần.

Sống và lớn lên trong một gia đình bình thường, cha mẹ không thuộc về những con người có nhiều học vấn và cũng không phải thiếu hiểu biết. Ta có một cuộc sống như bao người, tri thức tiếp thu không có gì đột phá, và có lẽ sẽ sống như vậy suốt đời nếu không gặp phải những biến cố buột ta phải hiểu nhiều hơn về mình và về đời. Khi đó ta biết hướng tới những tầm cao mới, hiểu rằng còn có rất nhiều thứ cao vời mà ta khó lòng với tới.

Một ngày nào đó ta đọc được tin nói về cuộc bán đấu giá các bức tranh của Picasso, Van Gogh hay Monet với những cái giá trên trời. Ta tự hỏi tại sao bức tranh ấy lại giá cao thế, trong khi nhìn vào thì chẳng hiểu được gì, màu sắc thì lòe loẹt, ta nghĩ họ điên rồi khi mua một bức tranh vài chục triệu đô la. Nhưng họ có phải là điên không hay chính là ta dốt nát? Trong các tạp chí hay trong điện ảnh, nhiều người tài giỏi cứ nói về những điều ta không biết, và cũng từ đó ta ước mình cũng như họ, cũng có thể mang vài cái tên của họa sĩ nổi tiếng vào cuộc tranh luận với những người hiểu biết. Tất nhiên điều tôi nói là khi ta thực sự hiểu chứ không phải để lòe thiên hạ.

Ngoài hội họa thì còn có âm nhạc, tại sao một loại nhạc chỉ có những người trình độ mới thưởng thức được? Tại sao khi nghe những bài của Bach, Mozart hay Beethoven ta cảm thấy dở tệ? Trong khi đó ngày ngày cứ ngân nga “…anh nói rằng anh đi giăng câu…”, đã có sự khác biệt nào ở đây giữa tôi và những người kia? Hoặc khi viết những bài nói về cuộc sống, cứ lâu lâu ta lại gặp những cái tên như Heidegger, Nietzsche hay Kierkegaard. Nhiều người mang ra để minh chứng cho những lập luận của họ. Trong khi ta chẳng biết gì về những vị đó.

Cũng không chỉ về những phương diện văn học, nghệ thuật, tôn giáo hay chính trị. Có những độ cao của sự cảm nhận về cuộc sống mà ta không với tới nổi. Những sản phẩm, những trào lưu mà người người đang chạy theo cũng được sinh ra từ đó – giới thượng lưu. Hạnh phúc hay nỗi đau của ta bị tác động trực tiếp hay gián tiếp mà ta không hề biết. Trong khi những con người trên ấy làm những chuyện to lớn và vĩ đại thì ta cứ mãi loay hoay trong thế giới nhỏ bé của mình.

Từng ngày qua tôi ước mình sống trong thế giới tri thức của tần lớp thượng lưu, thượng lưu của quý tộc phương tây chứ không phải thế giới của những người giàu có ở Việt Nam. Nhưng đó cũng chỉ là mơ ước mà thôi. Vì trong thân phận là một người bình thường nên ta bị rất nhiều giới hạn cũng như trở lực. Ta phải học trong một ngôi trường chỉ dạy về những con số của các môn tự nhiên, ta không được học nhạc hay tiếp xúc với hội họa, ta không được học để làm một bài văn có giá trị.

Rồi khi lớn lên thì ta phải làm một công việc bình thường, tiếp xúc với những con người bình thường như ta, và có lẽ một ngày không xa sẽ lấy một cô gái bình thường làm vợ để ngày ngày nếm những hạnh phúc rất đỗi bình thường, cuối cùng chết đi với một cuộc đời bình thường. Nghe tôi nói thì bạn có cảm thấy chán ngấy hay không? Trong khi ở trên cao kia, có rất nhiều điều tuyệt diệu mà ta không biết, một thế giới hoàn toàn khác – cái thế giới của đỉnh cao trí tuệ. Và dù muốn hay không thì những con người đó đang nhìn ta như những kẻ u mê và thiếu hiểu biết. Có lẽ nói thế sẽ có rất nhiều người bị chạm tự ái nhưng sự thật là vậy.

Vì sao tôi viết bài này? Viết để nhắn nhủ những ai còn nhiều thời gian và có nhiều điều kiện hãy ngước mắt nhìn lên, cố gắng bước lên với tất cả sức lực để đặt chân vào cái thế giới đó, cái thế giới thượng lưu của trí tuệ loài người. Còn tôi thì chỉ mới bắt đầu nghĩ về nó và bước những bước đầu tiên. Tôi ước gì điều này đã đến sớm hơn với mình.

À, những cái tên được nêu ra trong bài đều được tìm kiếm từ Google, nhưng đến một ngày nào đó tôi sẽ trích dẫn ra với sự hiểu biết thật sự.

 

Mắt Đời

Cái giá thật sự của sự thành công!

50
Featured Image: zhiken

 

Thời gian trôi qua quá nhanh khiến chúng ta không thể nào bắt kịp được nhịp sống và sự đổi thay của nó theo từng ngày. Vạn vật đều thay đổi, những phát minh mới luôn được ra đời và thay thế cho những sáng chế cũ. Cuộc đời quá ngắn cho những ai biết trân trọng cuộc sống và cuộc đời dài quá đỗi cho những ai chỉ mải rong chơi và phí phạm thời gian quý báu của mình. Bời tất cả mọi sản phẩm được làm ra chỉ quy về một mục đích chung là làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn và tiết kiệm được thời gian hơn mà thôi.

Những điều tôi sắp nói ở đây không phải là một công thức hay lý thuyết, triết lý hay học thuyết bất kỳ nào mà thực sự nó chỉ là những suy nghĩ, những tâm tư nguyện vọng mà tôi đã từng trăn trở với bản thân qua rất nhiều ngày, sự dằn vặt ám ảnh nó cứ không ngừng khi mà tôi vẫn là một kẻ vô dụng và chưa có gì để cống hiến cho cuộc đời này. Ít nhất là như vậy!

Nhiều người luôn luôn muốn tạo ra sự thay đổi ở bên trong họ, họ đủ khả năng để ý thức được việc thay đổi sẽ tốt cho họ biết nhường nào, nhưng cái ý chí đó nó rõ ràng là không đủ, và sự nhận thức được việc thay đổi nó sẽ tốt như thế nào thì họ chỉ có thể nhận thức được, thấy được hầu như chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

Bởi vì hầu như mục đích chính người ta muốn thay đổi chỉ là vì tiền bạc, muốn trở nên giàu có trong tương lai. Chỉ vậy thôi! Chính vì thế, họ luôn luôn đi theo những hệ thống, những cách thức đã có sẵn, nó còn được gọi là đường tắt, luôn muốn được người khác dẫn dắt và chỉ bảo mình thật chi tiết.

Chúng ta tin răm rắp vào những lời nói, những cách thức của những người cho chúng ta con đường mà không hề có một chút hoài nghi, chúng ta cứ đi theo như bị thôi miên vậy! Cái này các bạn có thể liên tưởng nó như là một giáo hội nào đó bất kỳ hoặc một công ty bất kỳ. Điều này giống như việc bạn tự hạn chế đi khả năng sáng tạo một cách tự do và trí tưởng tượng của bạn để làm hay nghĩ bất kỳ một vấn đề gì đó. Bạn bị dập khuôn như một cái máy, điều này sẽ tạo ra sự xung đột trong bản thân bạn khi bạn không thể làm được những yêu cầu mà giáo hội đưa ra hay là người chỉ dẫn cho bạn yêu cầu. Việc lập trật tự và kiểm soát cảm xúc của chính mình chưa bao giờ là điều dễ dàng đối với con người cả.

Ai cũng muốn trở thành người đặc biệt nhưng ai cũng răm rắp làm theo những người không đặc biệt. Khi bạn chưa hiểu nỗi chính mình thì làm sao bạn có thể lắng nghe cảm xúc của bạn, tâm bạn chưa tĩnh thì làm sao bạn có thể đối thoại nội tâm. Theo Krishnamutri: “Bạn nên cự tuyệt mọi sức mạnh uy quyền ngoại vi. Khi bạn làm được điều này, bạn sẽ không bao giờ cảm thấy sợ hãi.” Bạn như một ly nước rỗng và bạn có thể đổ vào đó những gì bạn thích, bạn sẽ được tự do, không phải sao?

Bạn muốn khám phá cái gì, hãy tự do đi tìm hiểu nó!

Chẳng phải khi đó bạn sẽ rất hạnh phúc và cuộc sống bạn có ý nghĩa hơn chăng. Lúc này mọi sự khó khăn chỉ là trải nghiệm và bạn không còn phải sợ vì nó là quy chuẩn chung của xã hội, sẽ không còn sợ đám đông luôn chờ đợi để chụp mũ và chỉ ra những cái sai của bạn. Khi bạn đạt được đến cảnh giới này, bạn thừa hiểu được rằng nó không còn quan trọng và không nặng nề nữa. Một tâm hồn không lo sợ, luôn lạc quan yêu đời là hình ảnh cho một tâm hồn chứa đựng đầy tình yêu thương và lòng vị tha. Tình yêu có thể thực hiện được tất cả bất kỳ điều gì mà nó muốn.

Khi đã quyết định chọn con đường này, bạn chỉ có một người bạn thân duy nhất đó là sự cô độc. Hãy nhìn lại những cá thể riêng biệt đã làm thay đổi thế giới này đi, thành công phải được trả giá bằng máu và nước mắt, và chỉ có cá nhân riêng biệt mới làm nên sự thành công to lớn này mà thôi, đừng viển vông nữa. Hãy thức dậy đi, bởi vì chẳng có gì là dễ dàng cả, đừng bao giờ trốn chạy nó, chỉ cần bỏ chạy, bạn sẽ bị sợ hãi.

Hãy tự cảm nhận và hòa mình vào những nét đẹp mộc mạc của tự nhiên mà bạn đã bỏ quên nó quá lâu, hãy gột rửa tâm hồn để thưởng thức những nét đẹp của thiên nhiên, và tận hưởng những cảm giác mà bạn chưa từng có được của cuộc sống. Dành cho mình thời gian để thả diều, đi công viên, ngắm nhìn sự chuyển động của cây cối, ra biển để cảm nhận vẻ đẹp của đại dương, hãy làm những điều như vậy. Hãy vận động cơ thể một cách đồng bộ, để những mạch cảm xúc có một sự liên kết chặt chẽ và bảo vệ tinh thần ta một cách tối đa trước xã hội đầy dối trá và mục ruỗng này.

Sóng là hồn của đại dương, nếu không có sóng, đại dương chỉ là một vùng nước chết. Và ngược lại, nếu phải xa đại dương, sóng chỉ là một vũng nước ngục tù. Nó giống như thân và tâm của chúng ta vậy. Chúng ta cần tái tạo lại một màu xanh của thiên nhiên trong tâm hồn chúng ta để loài người sẽ không bị diệt vong trong tương lai.

Lời cuối, nếu như bạn cảm thấy bài viết khá nặng nề về việc tự đè nén mọi cám dỗ của cuộc sống và luôn trong tình trạng phải ép mình để có sự thành công như các vĩ nhân thì vẫn có thể có những tiêu chí thành công khác đơn giản hơn trong cuộc sống. Và cũng không cần phải cô độc đến mức đó. Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo và chỉ là ý kiến trăn trở của bản thân mong có thể làm một điều gì đó lớn lao hơn.

Hãy đứng dậy và mạnh mẽ như một con hổ để có thể đập tan đi sự thị phi của bầy đàn, và hãy là con hổ mạnh nhất! Lúc đó, bạn đã thực sự chiến thắng bản thân.

Trượt qua những đêm mùa đông

2
Featured Image: Noah Weiner

Lội qua vũng đen của đêm mỏi mệt
đám mây di trú trở về
lóng lánh mật ong nắng
ngày đẹp như quả táo cổ tích
mặc những âm u của người đàn ông muộn phiền trong anh
đám ký âm bay lên từ bộ não mù lòa rưng rức mủ
vỡ ra một loạt những giai điệu lừa dối
thiên đường khoác bộ mặt bằng những xô lệch chăn gối
em đã cháy từ dạo mùa thu

Trầm ý nghĩ
ảo ảnh nứt nụ từ những lặng thinh
giả vờ đến rồi đi từ những bình an phố
ngày nắng đẹp buồn như vết di căn
mọc rễ trong cơn mưa lỗi thời từ năm ngoái
khu rừng cháy đen trong tiềm thức mệt mỏi
trận ngái ngủ ru à hời
bằng ngôn từ thoái hóa
cố gắng níu kéo chiếc vỏ trứng rỗng không

Phía xa xôi kia
em mỉm cười sau ám ảnh chiếc gương
người đàn ông bất lực không dịch được tình yêu ra thành bài thơ
hoang mang cháy trong sự quẫy lượn của đám ngôn ngữ phế thải
đóa hoa hồng đã đạp gió bay lên thiên hà xa xăm từ lâu
bỏ trống những sinh phần lạnh lẽo
nằm mơ giấc trăm năm

trong ngày lóng lánh nắng
chỉ còn lại đám diệp lục mùa đông trên lá cây.

 

Phương Uy
14.11.14

 

Liệu chúng ta có đang sống chỉ để làm việc và mua sắm?

81
Featured Image: Keoni Cabral

 

1. Chúng ta sống để làm gì? Câu hỏi này gần như được đặt ra mỗi ngày, với mỗi người. Bạn, những người quanh bạn đang sống để làm gì? Tất cả chúng ta, mọi người trên thế giới này đang sống để làm gì? Những câu trả lời sống để ăn, để ngủ, sống để tìm ý nghĩa cuộc đời, sống để yêu thương… tôi cho rằng đều là những câu trả lời chưa thỏa đáng. Chúng ta sống tất nhiên không chỉ vì những việc tầm thường như ăn và ngủ. Chúng ta càng không sống vì những mục đích lớn lao cao cả như tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời, ghi dấu ấn vào cuộc đời hay thay đổi thế giới. Ít nhất không có nhiều người làm được những điều đó trên cuộc đời này, hình như không phải chúng ta. Vậy thì phải có thứ gì đó ở giữa, thứ gì đó mà mọi người đều sống vì nó như một quy luật tất yếu, thứ mà phần đông mọi người đều chấp nhận và tuân theo, một thứ gì đó đại trà và phổ biến.

Tôi không có câu trả lời chính xác cho câu hỏi này, nhưng gần đây, khi tiếp xúc với một số lý thuyết và luận điểm thú vị, tôi đã bắt đầu mường tượng ra. Liệu, chúng ta, tất cả chúng ta đều đang chỉ sống để… làm việc. Vâng, là làm việc, có bao nhiêu người trên đời này sống mà không cần làm việc hay chưa từng làm việc? Bản thân việc “làm việc” đôi khi không hẳn là thứ mọi người muốn nhưng chẳng mấy ai có thể tách nó ra khỏi cuộc sống cả. Khi còn nhỏ chúng ta được đẩy đến trường học ngày qua ngày tháng qua tháng không phải vì mục tiêu hiểu biết, mà để mong sau này đậu đại học, ra trường kiếm được một công việc làm. Khi lớn lên đã có việc làm, chúng ta gần như dành trọn tuổi trẻ cho công việc, lãng quên đam mê và những thứ khiến ta hạnh phúc thật sự. Cho đến khi về hưu mục tiêu của mọi người luôn là cố gắng làm việc để chứng tỏ bản thân, để được cống hiến và cụ thể hơn là để được không phải làm việc khi về già.

Đúng vậy, mọi người làm việc để không phải làm việc về sau. Việc làm từ khi nào đã trở thành nỗi ám ảnh, thành mối quan tâm hàng đầu của mọi lớp người trong xã hội. Tất nhiên, mục tiêu của nó là làm việc để kiếm tiền duy trì cuộc sống, duy trì rồi thì làm việc để nâng cao chất lượng cuộc sống và theo đuổi các tiện nghi khác. Vậy tôi có thể nói “làm việc” chính xác là thứ người ta sống để làm hay không?

Tất nhiên theo cách này hay cách khác, dù việc ta thích hay không, dù việc to hay nhỏ, dù làm vì mục tiêu gì, mọi người đều sống để làm việc. Không giây phút nào trên trái đất này không có người làm việc, dù ngày hay đêm, dù trên mặt trời hay dưới lòng đất, trên biển hay trong đất liền, dù làm việc bằng tay chân hay bằng đầu óc, dù ở bờ biển hay trong nhà hàng… Mọi nơi, mọi lúc đều có người đang làm việc.

Câu hỏi đặt ra là, chúng ta có thật sự cần làm việc nhiều như thế để duy trì cuộc sống? Thế giới này có cần nhiều người làm việc như vậy mới có thể duy trì và phát triển? Tại sao người ta không sống vì hạnh phúc, sống để tạo ra những giá trị đích thực hay tạo ra những thứ lớn lao ý nghĩa mà cứ phải sống để làm việc ngày qua ngày? Liệu có một tương lai nào tốt đẹp cho những con người chỉ muốn làm việc vừa đủ không?

2. Tôi từng đọc được một bài luận rất hay, đại ý bài luận ấy nói rằng chúng ta hoàn toàn không cần thiết phải làm việc 8 tiếng/ngày để duy trì cuộc sống. Bài luận đưa ra những luận điểm thuyết phục mọi người hãy quẳng bớt công việc đi, hãy sống cho ra sống, sống để hưởng thụ, để trải nghiệm, để trân trọng thời gian chứ không phải sống để làm việc. Một bài luận nhận được rất nhiều sự phản đối từ mọi người, đúng vậy, phản đối, chứ không phải đồng tình. Như kiểu ai cũng thích làm việc cả, kiểu như phải làm việc không ngơi nghỉ thì mới tồn tại được trên trái đất này.

Làm tôi lại nhớ tới một câu nói trên status của anh H.H (founder Triết Học Đường Phố):

“Bạn có để ý thấy những ai thường bị giết, ám sát không? Luôn là những người kêu gọi hòa bình, đoàn kết, yêu nhau: Jesus, Gandhi, Lincoln, John Kennedy, John Lennon, Bobby Kennedy, Martin Luther King, Malcom X… và Bùm một phát, ngay đầu. Rõ ràng là loài người chưa bao giờ sẵn sàng cho những tư tưởng như thế.” – George Carlin.

3. Công nghiệp hóa là một bước tiến vĩ đại của loài người, nhưng lại là một bước tiến tồi tệ đối với trái đất. Nó khiến cho hàng hóa dư thừa, khiến cho tất cả mọi người phải quay cuồng theo cái vòng xoáy bất tận của sản phẩm, sản xuất, hàng hóa, lưu thông, mua sắm rồi lại làm việc, kiếm tiền, mua sắm, sản xuất, khai thác, vứt bỏ rồi lại làm việc, lại mua…

Hãy bắt đầu với thời gian làm việc của loài người nói chung. Ngày xưa người lao động phải làm việc tới 16 tiếng/ngày và 7 ngày/tuần để có thể bắt kịp tiến độ của máy móc đang dần trở nên thịnh hành. Mọi việc thay đổi khi một người có tên Robert Owen bắt đầu tổ chức chiến dịch đòi quyền cho công nhân không làm việc quá 8 tiếng/ngày, khẩu hiệu của ông là “một ngày làm việc 8 tiếng, vui chơi tận hưởng 8 tiếng và 8 tiếng còn lại để nghỉ ngơi”.

Thật không may, một trong những người đầu tiên đáp ứng yêu sách này của ông, chính là vị doanh nhân nổi tiếng Henry Ford. Ông đi đầu trong việc phê chuẩn cho công nhân của mình rút ngắn giờ làm còn 8 tiếng và thậm chí còn tăng gấp đôi lương. Điều này đã tạo nên bước ngoặt rất lớn cho sự phát triển của xã hội. Mọi người làm việc hăng say hiệu quả hơn, chỉ trong một thời gian ngắn đã đem về cho công ty gấp đôi lợi nhuận.

Các doanh nghiệp và tập đoàn lớn bắt đầu học theo ông và chẳng mấy chốc, cả thế giới bằng lòng với mức lao động 8 tiếng/ngày và 5-6 ngày/tuần. Vấn đề ở chỗ, khi Henry Ford kí quyết định đó, không phải vì ông lo lắng cho sức khỏe của công nhân hay gì tương tự thế, lý do của ông được tiết lộ rằng: “Tôi đồng ý mọi người cần làm việc ít đi, để có thời gian mà ra ngoài mua sắm, phải vậy thì nền kinh tế mới phát triển được, tất nhiên, mua sắm ô tô cũng nằm trong danh sách đó.” Đó có thể coi như một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của xã hội, khi người ta giảm ½ thời gian làm việc để dành thời gian cho việc mua sắm, vô hình chung đã hình thành nên xã hội đương đại của chúng ta hiện nay. Xã hội của vật chất, của tiêu dùng, phá hoại và rất nhiều điều tệ hại đi kèm.

4. Đồng ý với quan niệm của Story of Stuff, tôi cũng phản đối sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tiêu dùng, không phải lên tôi, mà lên xã hội này cũng như trái đất này. Công nghiệp hóa khiến cho hàng hóa trở nên dư thừa. Các nhu cầu căn bản được đáp ứng lại nảy sinh ra những nhu cầu mới, hết nhu cầu mới lại có những nhu cầu cũ được làm mới, cứ thế nó xoay tròn loài người trong cái vòng xoay bất tận để thỏa mãn những thú vui vật chất mà quên đi cái đích đích thực của kiếp người. Chính chủ nghĩa tiêu dùng, chứ không phải cộng hòa, dân chủ hay quân chủ mới là siêu chủ nghĩa, mới là thứ chi phối tất cả mọi người, ở khắp mọi nơi, đủ mọi lứa tuổi, màu da, giới tính… Mọi người đều ở trong nó, bị nó chi phối, hoàn toàn tự nguyện.

Vậy tại sao chủ nghĩa tiêu dùng lại không tốt? Vì nó khiến cho chúng ta, tất cả chúng ta, đều chạy theo vật chất, chạy theo những thứ hàng hóa bám ngoài da. Nó thay đổi nếp suy nghĩ và cả phương thức sống của mọi người. Chủ nghĩa tiêu dùng nói rằng, nếu như bạn không mua sắm, bạn là người tệ hại, bạn không giúp xã hội phát triển, bạn là người vô dụng. Nó nói rằng, nếu bạn không mua sắm bất cứ gì, thì cuộc sống của bạn là vô nghĩa, bạn tụt hậu, bạn thua kém mọi người. Chủ nghĩa tiêu dùng nhồi vào đầu óc người ta rằng sống là phải mua sắm, rằng giá trị con người bạn nằm ở những thứ đồ vô tri trên người bạn, xung quanh bạn chứ không phải bản thân bạn, nó nhất định cho rằng mua sắm là cách làm cho xã hội phát triển, là cách khiến bạn chứng tỏ giá trị và là cách để đánh giá một con người, một quốc gia.

Tại sao người ta không đánh giá một quốc gia bằng những chỉ tiêu như độ hài lòng, độ hạnh phúc, độ an toàn, độ trong lành xinh đẹp, mà lại chỉ đánh giá qua những con số “tổng sản phẩm quốc nội hay tổng sản phẩm xuất nhập khẩu”. Tại sao người ta không đánh giá nhau qua những giá trị đóng góp cho người khác, cho gia đình, cho xã hội mà lại đánh giá qua những đồ vật họ có thể mua và có thể mang bên mình? Sở dĩ chúng ta phải làm việc 8 tiếng cũng chỉ vì lẽ đó, vì phải kiếm tiền để mua sắm, vì nếu không có tiền, không mua sắm ta sẽ bị tụt hậu, bị người khác chê cười, bị đánh giá là người tụt hậu, nghèo hèn.

Ta không thể nào cứ đi mãi chiếc cub cùi khi được nói mỗi ngày bên tai rằng xe này mới sành điệu, xe kia mới mạnh mẽ. Ta không thể dùng mãi cái điện thoại cùi khi 24/7 mọi phương tiện truyền thông đều bô lô ba la rằng dòng điện thoại mới này là cần thiết, là tuyệt vời, là hoàn hảo, là không thể thiếu trong cuộc sống. Mà cho dù ta có giữ được bản thân khỏi sự hấp dẫn của những món hàng, chỉ sử dụng những thứ đúng nhu cầu, thì, liệu những người xung quanh có còn ai muốn chơi, muốn quen biết, muốn giao thiệp hay hợp tác với ta không?

Thật ra đây chỉ là một khía cạnh nhỏ tiêu cực của chủ nghĩa tiêu dùng. Sự thật nó còn tệ hại hơn nhiều. Theo Story of Stuff, sản xuất hàng hóa chính là chủ đề được ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia trên thế giới này. Vâng, không phải y tế, giáo dục, đời sống, an toàn hay gì cả, mà chính là kinh tế, chính là việc sản xuất hàng hóa. Chính phủ các cấp quan tâm và ưu tiên nó đến nỗi, ở nhiều nơi, các tập đoàn còn giàu mạnh và ảnh hưởng nhiều hơn cả chính phủ, thậm chí nó chi phối cả chính phủ các nước.

Tất cả những gì chủ nghĩa tiêu dùng quan tâm, là làm sao để sản xuất được nhiều hàng hơn, bán được nhiều hàng hơn cho mọi người. Vâng, chỉ có thế. Và nó làm mọi cách để đạt được điều đó. Chắc hẳn bạn còn nhớ khi đi học chúng ta được dạy về quy trình sản xuất hàng hóa như thế nào, rằng hàng hóa đến từ nhà sản xuất, qua kênh phân phối, đến tay người tiêu dùng.

Đó chỉ là một phần rất nhỏ của quy trình. Họ không dạy chúng ta rằng trước cả khâu sản xuất, hàng hóa là những tài nguyên bị đào khỏi lòng đất, bị chặt khỏi rừng, bị xới tung và tận diệt. Họ cũng quên không nói rằng, hàng hóa nào cũng chứa những hóa chất độc hại sẽ đi vào cơ thể theo cách này cách khác.

Họ càng quên không nói rằng, để làm ra được một sản phẩm người ta phải thải ra bao nhiêu chất độc hại, ô nhiễm ra môi trường, phải tận dụng bao giờ làm việc của những người lao động cùng khổ và sau cùng phải mất bao nhiêu chi phí để hàng hóa đến được tay chúng ta. Và họ cũng chẳng nói với ta rằng những thứ hàng chúng ta mua sẽ mau chóng bị lỗi thời và hư hỏng, chúng ta sẽ lại phải mua những món hàng mới, còn những thứ đồ cũ vất đi sẽ bị chôn vào lòng đất, sẽ góp phần hủy hoại môi trường.

Không, họ không nói với chúng ta điều đó, bởi vì họ còn bận nhồi vào đầu ta rất nhiều thứ khác: rằng mua sắm là việc nên làm, cần làm và phải làm, rằng hãy mua sắm để thể hiện giá trị con người bạn, rằng bất cứ thứ gì bạn cần trên đời, bạn đều có thể mua được. Các tập đoàn, các công ty và xí nghiệp làm mọi biện pháp để duy trì thứ chủ nghĩa này. Họ biến chúng ta thành những kẻ thụ động, những kẻ sống hời hợt, chạy theo trào lưu, vây quanh những món hàng vô tri vô giác, họ biến mục đích sống của chúng ta trở nên tầm thường. Biến mọi con người thành nhỏ nhen, ích kỷ, vụ lợi và tính toán. Đó chính là mặt trái xấu xí của chủ nghĩa tiêu dùng. Nó bắt chúng ta làm lụng vất vả để có tiền mua sắm, mua mỗi ngày, mua nhiều hơn nữa và sau cùng đút tiền vào túi của các nhà tài phiệt.

Theo một vài khảo sát, người Mỹ ngoài thời gian làm việc chính thức thì chỉ làm hai việc: mua sắm và xem tivi, mua sắm thì là mua sắm rồi, nhưng xem tivi cũng lại là một kênh mua sắm khác nữa, tivi ném vào bạn hàng trăm mẫu quảng cáo mỗi ngày, quảng cáo trực tiếp, gián tiếp, quảng cáo liên tục không bao giờ ngừng nghỉ. Đó chính là cách thức chủ nghĩa tiêu dùng chi phối chúng ta. Nó nhắc ta mỗi ngày rằng ta là người tụt hậu, quê mùa, xấu xí, răng ta xấu, tóc ta hư, da ta tệ hại và đồ dùng của ta thì lỗi thời và quê kệch.

Truyền thông là một công cụ hữu hiệu phục vụ cho chủ nghĩa tiêu dùng. Nó nhắc ta mua sắm mỗi ngày, nó làm mọi việc chỉ để chạy theo mục tiêu lợi nhuận và bán hàng của các nhà sản xuất. Nó không quan tâm tâm tư tình cảm và nhu cầu cao cấp của con người, nó đơn thuần chỉ là một công cụ. Và dường như càng ngày thứ công cụ này càng lớn mạnh, đến nỗi con người không thể sống mà thiếu chúng?

Chủ nghĩa tiêu dùng, nói tổng quát, chính là chủ nghĩa vật chất, nó làm cạn kiệt tài nguyên, phá hủy môi trường, nó khiến con người phải làm việc ngày đêm cho những sản phẩm họ không thật sự cần tới, để làm hài lòng những người không quen biết, làm vừa lòng cái xã hội này.

5. Nếu như một ngày làm việc rút ngắn lại 4 giờ cho mọi người làm việc sản xuất đủ nhu cầu tiêu dùng của thế giới, hàng hóa không còn dư thừa, mọi người trân quý đồ dùng hơn, có nhiều thời gian để sống cho chính mình, cho những đam mê, những nghiên cứu, những sáng chế và nhiều thời gian hơn cho con cái, cho gia đình. Điều đó không phải rất tuyệt sao? Bạn nghĩ điều này là vô tưởng? Nhưng chẳng phải nó đã từng xảy ra trong quá khứ rồi sao? Khi giờ làm việc chính thống 16 tiếng được rút thành 8 tiếng/ngày. Vậy giờ nếu lịch sử lặp lại một lần nữa, thời gian làm việc được rút thêm một lần ½, thế giới này sẽ ra sao?

Chắc hẳn rất nhiều người chưa bao giờ hình dung được cuộc sống trong thế giới đó. Liệu người ta làm việc ít hơn trái đất có ngừng quay không, cây cối có ngưng sản xuất oxi và người ta có chết vì lo lắng cái ăn cái mặc? Không, nhất định là không, có thể người ta sẽ bớt mua sắm chi tiêu lại một chút, có thể người ta sẽ muốn dành nhiều thời gian bên con cái, dạy dỗ chúng trở thành người tự lập, tự kiếm tiền, tự mua nhà chứ không cố sống cố chết mua nhà để sẵn cho chúng.

Có thể người ta sẽ có nhiều thời gian để đi du lịch khắp nơi cùng nhau, biết rõ và tường tận về địa lý và các vùng miền của nước nhà, trải nghiệm những không gian văn hóa khác nhau. Có thể người ta sẽ muốn đi ra thế giới nhiều hơn, học hỏi được tinh hoa văn hóa của cả nhân loại nhiều hơn. Có thể người ta sẽ có nhiều thời gian để vui chơi, đọc sách, trau dồi tri thức, kỹ năng và dành nhiều thời gian, tình cảm hơn để ở bên người thân. Có thể bọn trộm cắp sẽ thôi không hoành hành khi họ cũng có thể có được cuộc sống như bao người, khi đồ dùng đắt giá không phải mối quan tâm của ai cả mà tâm tư, tình cảm và những hoạt động nhân văn mới là thứ người ta mong muốn.

6. Tổng lại hai ý lớn ở trên, rằng con người có cần làm việc 8 tiếng/ngày không để suy trì và làm hài lòng cái chủ nghĩa tiêu dùng ích kỷ? Tôi cho rằng không. Tại sao phải làm việc 8 tiếng/ngày khi chỉ cần 4 tiếng/ngày chúng ta có thể giải quyết mọi việc sản xuất mọi thứ đủ cho nhu cầu của cả thế giới? Tại sao người công nhân phải làm 8 tiếng để sản xuất gấp đôi những cái kẹp ghim, những cái móc quần áo, những cái tăm xỉa răng chất đầy trong kho?

Điều đó là không cần thiết. Thế giới không cần đến những kho hàng đầy ắp dư thừa như thế chỉ vì mục tiêu lợi nhuận của các tập đoàn. Thế giới cần được phát triển theo những phương thức khác, nhân văn hơn, sâu sắc và ý nghĩa hơn. Trái đất lại càng căm ghét chủ nghĩa tiêu dùng, nó hủy hoại môi trường, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên mất hàng tỉ năm mới có được. Nếu như con người chỉ sản xuất những thứ cần thiết, vừa đủ cho nhu cầu thì hẳn trái đất này sẽ rất đẹp xinh. Không khí trong lành, cây cối xanh tươi, chim thú đa dạng, con người và thiên nhiên hòa nhập với nhau.

Các bạn sẽ nói đó là một thế giới không tưởng hay lý tưởng, sao cũng được, chúng ta hãy cứ hình dung, cứ tưởng tượng đi, chẳng ảnh hưởng gì tới cuộc sống thực cả, nhưng nếu ý tưởng này có thể tác dụng dù chỉ một chút ít lên lối sống của chỉ một ai đó, làm cho nó tốt đẹp hơn, không phải thế cũng tuyệt rồi sao? Tin vui là chúng ta có tiền đề và nền tảng để xây dựng thế giới đó, chỉ là chúng ta có thực sự muốn và đủ năng lực tư duy để chấp nhận nó hay không mà thôi. Tại sao thế giới không cần người ta phải làm việc 8 tiếng/ngày? Nếu nhìn theo một góc nhìn khác bạn sẽ nhận ra nhiều điều thú vị.

Các bạn sẽ nói đó là một thế giới không tưởng hay lý tưởng, sao cũng được, chúng ta hãy cứ hình dung, cứ tưởng tượng đi, chẳng ảnh hưởng gì tới cuộc sống thực cả, nhưng nếu ý tưởng này có thể tác dụng dù chỉ một chút ít lên lối sống của chỉ một ai đó, làm cho nó tốt đẹp hơn, không phải thế cũng tuyệt rồi sao? Tin vui là chúng ta có tiền đề và nền tảng để xây dựng thế giới đó, chỉ là chúng ta có thực sự muốn và đủ năng lực tư duy để chấp nhận nó hay không mà thôi. Tại sao thế giới không cần người ta phải làm việc 8 tiếng/ngày? Nếu nhìn theo một góc nhìn khác bạn sẽ nhận ra nhiều điều thú vị.

Bạn có cho rằng, chúng ta không cần quá nhiều đồ dùng, thế giới này không cần đầy ắp hàng hóa như hiện tại không? Và đặc biệt là trái đất này càng không hề muốn chủ nghĩa tiêu dùng được duy trì quá lâu, quá sâu sắc như hiện nay. Chẳng việc gì phải chặt hàng rừng cây để sản xuất ra những bộ bàn ghế cồng kềnh chất đầy các showroom hay đóng thành những tập giấy chất đầy ắp các kho hàng. Nếu chúng ta chỉ sản xuất đủ nhu cầu của thế giới, không dư thừa thì bao nhiêu tài nguyên, bao nhiêu cánh rừng trên đời được bảo tồn và tươi tốt? Chẳng việc gì phải mất hàng ngàn giờ lao động của những đứa trẻ vị thành niên ở thế giới thứ ba để sản xuất ra một kho quần áo khổng lồ lỗi mốt mỗi ngày, hàng tấn tấn thực phẩm hư hỏng hết hạn dùng phải thiêu hủy mỗi giây.

Đó là một sự lãng phí khủng khiếp mang tính tàn bạo của chủ nghĩa tiêu dùng. Nó thà sản xuất ra hàng đống hàng đống hàng dư thừa để rồi phải thiêu hủy còn hơn là chia đều cho những người cần đến chúng. Theo S.O.T, chỉ trong vòng vài trăm năm loài người đã khai thác hết 1/3 tổng lượng tài nguyên trên trái đất, cứ cái đà khai thác, sản xuất như thế để thỏa mãn những nhu cầu thứ cấp thì loài người sẽ phải cần tới 5 trái đất mới đủ tài nguyên cung cấp thỏa mãn nhu cầu ảo này. Vâng, là 5 trái đất, nhưng bạn biết đấy, trái đất đẹp xinh này chỉ có một thôi, một duy nhất thôi. Sao chúng ta lại lỡ quên điều đó mà cứ thoải mái ăn xài như hiện tại?

Con người được đặt lên trái đất này với một sự ưu tiên tuyệt đối so với mọi loài, được sử dụng mọi quyền lợi trong khả năng với điều kiện con người phải bảo tồn những giá trị cả vật chất lẫn tinh thần của trái đất này. Tiếc thay loài người chúng ta là những kẻ tham lam, chúng ta tận diệt trái đất mà chẳng có biện pháp nào để bảo vệ và bảo tồn nó cả, chưa đủ và sẽ không bao giờ đủ.

Chúng ta không chỉ lấy mọi thứ của trái đất, chúng ta cũng trả về cho nó, nhưng là trả về những hóa chất độc hại, những nguồn nước bị ô nhiễm và hàng tỷ tỷ tấn rác thải trong đó rất rất nhiều là rác thải công nghiệp, độc hại, không bao giờ phân hủy. Chúng sẽ mãi còn ở đó dù hàng ngàn năm nữa trôi qua. Thế hệ con cái chúng ta nhất định sẽ phải gánh đủ hậu quả, yên tâm là thế, nhất định là thế nếu chúng ta không có biện pháp và hành động nào khắc phục.

Hãy tưởng tượng, rác thải tiêu dùng chúng ta thải ra môi trường mỗi ngày là 1, thì rác thải trong sản xuất, trong công nghiệp nhân lên con số 70, bạn có thể hình dung nổi không? Và những thứ rác thải siêu độc hại này, là rác vĩnh viễn, không thể tái chế và không thể phân hủy được. Bạn có hình dung được trái đất của chúng ta đang phải gánh chịu một sức ép lớn như thế nào từ đống rác loài người thải ra?

Và không chỉ trái đất mà từng cá thể chúng ta cũng phải chia nhau gánh nặng đó. Những cá thể ở các nước nghèo, đang phát triển như Việt Nam ta còn chịu sức ép lớn hơn. Khi các nước lớn tha hồ dùng phần tài nguyên trên đất của ta sản xuất ra sản phẩm cho nhu cầu của họ, và rồi, thải ngược lại cho chúng ta hàng trăm ngàn tấn rác thải mỗi năm trong sự chào đón nhiệt tình của mọi người.

Chẳng cần nói nhiều ai trong chúng ta chẳng biết thừa Việt Nam từ lâu vốn đã bị xem như cái thùng rác của thế giới. Xe hơi cũ không xài nữa, nhập về đây, quần áo sida chẳng ai còn mặc, nhập về đây. Linh kiện, máy móc, dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, đồ điện tử… tất cả những gì thế giới thải ra đều sẽ được nhập về Việt Nam dưới những tên gọi mỹ miều. Tôi thật sự đau lòng về điều này. Tài nguyên của chúng ta đâu hết rồi? Tại sao chúng ta không là cái nôi, là cái nguồn hay là một thứ gì giá trị hơn. Tại sao chúng ta lại chỉ là cái thùng rác của thế giới? Xấu hổ quá, thất vọng quá!

7. Quá nhiều những bất cập càng nói càng đau lòng, nhưng làm sao chúng ta có thể thay đổi điều đó, liệu một thực tại khác có thể xảy ra trên trái đất này? Có thể lắm chứ, miễn sao chúng ta không ngừng tìm cách, không ngừng suy nghĩ, đừng cổ súy và chạy theo chủ nghĩa tiêu dùng như những tín đồ mất hết chính kiến. Từ đó xây dựng nên những khái niệm, những hệ thống và quy trình mới cho thế giới này. Chẳng phải thế giới này mọi thứ đều thay đổi bắt nguồn từ những ý tưởng hay sao? Đừng xem thường bất cứ ý tưởng nào dù nhỏ bé hay điên rồ.

Tin vui là cho đến nay, khá nhiều những lý thuyết mới đã và đang dần xuất hiện hứa hẹn thay đổi hệ thống kinh tế, xã hội ở mức vĩ mô. Đó là điều hoàn toàn có thể. Chỉ cần chúng ta chịu khó tìm hiểu nó, chấp nhận nó và để cho nó được chứng tỏ sự đúng đắn của bản thân. Bởi lẽ cái gì không đúng sẽ tự nhiên bị triệt tiêu khỏi thế giới này, đó là quy luật.

Chẳng hạn sự xuất hiện của Bitcoin là một ví dụ điển hình. Nếu các bạn có tìm hiểu sẽ thấy ngay, nó là một bước tiến cực kỳ đáng chú ý cho nền kinh tế cả về phương thức lẫn giá trị. Nếu như nó được chấp nhận và ủng hộ rộng rãi, tôi không biết người ta còn cần đến hệ thống ngân hàng để làm gì? Cần các dịch vụ chuyển tiền làm gì? Mọi thứ bỗng trở nên dễ dàng, đơn giản, tiết kiệm và gọn gàng hơn bao giờ hết.

Rồi hãy thử nhìn mô hình kinh tế Kibbutz tôi từng đề cập trong bài viết về Israel, không phải đó là một mô hình quá tuyệt vời sao? Người ta tha hồ sống khỏe chả cần mua các thiết bị máy giặt vì có đội giặt ủi cho cả làng, người ta chẳng cần mua xe hơi vì đã có sẵn một bãi xe miễn phí ai thích chạy thì lấy chạy… Điều tưởng chừng vô lý đó hoàn toàn có thật, không cần nghi ngờ nữa. Giờ thì xin giới thiệu với các bạn thêm một ý tưởng về một thế giới mới, một nền kinh tế kiểu mới, nếu hình thái kinh tế này được phát triển và duy trì, chúng ta hoàn toàn có thể làm được điều tưởng chừng vô tưởng: không mua sắm vẫn sống tốt và chẳng cần gì phải làm việc quá nhiều.

8. Trước tiên xin lấy bản thân mình làm ví dụ đầu tiên cho việc kiểm soát thói quen mua sắm và hạn chế tác động của truyền thông lên cuộc sống cá nhân. Tôi đã làm được, bằng cách nào? Chỉ một vài năm trước đây có thể coi tôi như một tín đồ của chủ nghĩa tiêu thụ và mua sắm, cũng như mọi người, đặc biệt cũng như mọi cô gái trẻ khác, tôi yêu việc mua sắm, tôi không thể ngừng mua sắm thêm quần áo mới, đồ dùng mới hàng tuần, thậm chí hàng ngày.

Không thể ước chừng được số tiền tôi bỏ ra cho thói quen tai hại này, dù nhiều khi thứ đồ tôi mua về có khi chẳng bao giờ được đụng đến. Vậy mà giờ đây, vẫn là một cô gái trẻ, tôi lại chẳng mất nhiều chi phí cho khoản này, không phải vì tôi không thích những món đồ mới, không phải vì tôi không có điều kiện, mà chỉ đơn giản vì tôi thấy chúng không còn cần thiết nữa.

Tôi mặc đi mặc lại chỗ quần áo đã mua từ lâu, tôi đi hoài một đôi giày yêu thích và kiểu tóc thì để mãi ngàn năm chẳng buồn thay đổi. Tôi quên luôn cái ý định đổi điện thoại mỗi khi ra dòng mới dù trước đây đã từng đặt nó như việc nhất định phải làm. Và tôi nhận ra, mọi thứ chẳng có gì thay đổi, mặc đi mặc lại một vài bộ quần áo không khiến cho bản thân tôi mất giá trị, xài một món đồ lỗi mốt cũng không vấn đề. Mọi thứ chẳng có gì to tát nữa. Tôi dành nguồn lực tập trung cho những mục đích cao hơn, như học những kỹ năng mới, nghĩ ra những cơ hội kinh doanh mới, trau dồi bản thân bằng những giá trị tốt đẹp hơn như vốn kiến thức, sự hiểu biết và rất nhiều thứ khác. Những thứ sẽ không bị lỗi mốt và không bị vứt đi như những món hàng.

Tôi nhận ra thời gian và tiền bạc dùng để mua những bộ đồ hợp mốt có thể dùng để tập thể thao và đầu tư ăn uống hợp lý, rồi thì ta sẽ có một cơ thể đẹp đẽ cân đối. Khi có một cơ thể đẹp, cân đối rồi thì mặc gì cũng sẽ đẹp cả thôi, không nhất thiết phải là những bộ đồ đắt đỏ hay thời thượng. Giả sử thế. Hoặc tôi biết rất nhiều bạn nữ, mỗi khi có dịp tiệc tùng, như sinh nhật, đám cưới, lại phải đi mua những bộ quần áo váy đầm mới. Nhưng hãy thử một lần, lục lại tủ và mặc một bộ đồ cũ đi, bạn sẽ nhận thấy rõ ràng rằng chẳng mấy ai bận tâm chuyện bạn mặc gì cả, ngoại trừ chính bản thân bạn. Và rằng bạn sẽ nhận ra quần áo là phù phiếm thế nào.

Tất nhiên tôi hoàn toàn không khuyên các bạn chê bai quần áo, chỉ là hãy nhìn nhận nó đúng với giá trị nó mang lại, đừng quá phụ thuộc và ảo tưởng về quần áo. Tôi là người chuyên bán quần áo thời trang, nhưng lại khuyên các bạn điều ngược đời như vậy nên bạn hoàn toàn có thể tin tưởng lời khuyên này, và thử tự mình kiếm chứng đi.

Nếu như mỗi lần ra đường bạn lại băn khoăn nên mặc gì, thử một lần mặc đại vài món cơ bản trong tầm tay, dám chắc khi bạn không chú ý tới vẻ ngoài của mình quá nhiều thì tâm trạng của bạn cũng thoải mái hơn nhiều lắm. Đừng xem tivi, xem quảng cáo quá nhiều. Nó chẳng có tác dụng gì hơn việc cố bán cho được nhiều hàng, sự thật răng bạn không xấu, tóc bạn không xấu, xe bạn không lỗi thời, điện thoại của bạn vẫn ngon lành lắm.

Mọi thứ vẫn ổn, chỉ có trong mắt truyền thông quảng cáo, chẳng cái gì là ổn cả, bạn phải mua đồ mới thì mới ổn được, nhưng sự thật chúng ta đều biết, món đồ mới sẽ nhanh chóng bị cũ đi, bị lỗi thời và bạn lại phải quay cuồng vào những món mới khác nữa. Cứ thế, khi để mặc cho truyền thông dắt mũi đưa bạn vào mê cung mua sắm bạn sẽ mãi sống trong thế giới vật chất tầm thường, không bao giờ thỏa mãn và góp phần không nhỏ hủy hoại môi trường sống cũng như trái đất này. Bạn có muốn như vậy không?

Tôi không tin mình có thể khiến cho ai đó ghét mua sắm hay ít mua sắm hơn sau bài viết này. Tất nhiên, đó là một căn bệnh, một loài virut đáng yêu chẳng ai muốn khỏi cả. Nhưng tất cả những gì tôi muốn, là đem đến cho những ai chưa từng quan tâm, hãy có một cái nhìn toàn cảnh về mọi việc, bao gồm cả việc mua sắm, chủ nghĩa tiêu dùng đã và đang phá hoại trái đất, phá hoại cuộc sống và các giá trị xã hội nhiều đến thế nào.

Chính vì chủ nghĩa tiêu dùng mà truyền thông ngày càng biến dạng. Bạn có biết tại sao các trang tin tức ngày càng tiêu cực, vớ vẩn và tệ hại không? Vì họ phải đăng những tin như thế để thu hút nhiều người đọc, nhiều người đọc để bán quảng cáo, bán quảng cáo để bán được nhiều hàng. Tất cả chỉ có thế. Nếu như một xã hội người ta không cần mua sắm nhiều, các công ty không cần quảng cáo quảng bá ra rả ngày đêm thì các trang tin có cần đăng những thứ rác rưởi, giật gân, tiêu cực như hiện tại? Tôi nghĩ rằng không.

Dù là một người học chuyên ngành truyền thông – quảng cáo, nhưng tôi phải thừa nhận tôi ghét nó. Càng đi sâu vào nó tôi càng ghét, khi tất cả mọi hoạt động truyền thông gần như đều vì mục đích bán hàng, bán nhiều hàng, nhiều hàng hơn nữa. Tôi phát chán đọc những tài liệu, những dự án, những cuốn sách chật ních những “thông điệp truyền tải, sự thật ngầm hiểu, thõa mãn tức thời, nghiên cứu hành vi, thị hiếu, thói quen khách hàng, marketing, quảng cáo, bảng khảo sát, chiến lược tiếp cận khách hàng, tạo ra nhu cầu …” vân vân. Thật sự quá mệt mỏi khi phải gặp những từ ngữ chuyên ngành đó thường xuyên. Tôi ghét chúng, tất cả chúng. Chúng biến con người thành những thực thể yếu đuối và hay thay đổi, chúng đào sâu từng ngóc ngách trong tâm tư con người không phải để làm cho nó tốt đẹp hơn, mà chỉ để bán hàng, để sinh lợi nhuận mà thôi. Tôi ghét những mẫu quảng cáo ngập tràn báo chí, truyền hình, website, diễn đàn, ngập tràn đường xá, cầu cống và thậm chí cả trên giấy vệ sinh cũng gặp quảng cáo nữa.

Tôi ghét chúng, tôi ghét những chương trình truyền hình, những sân khấu, những con đường ngập tràn các bảng hiệu, các tên thương hiệu, các băng rôn áp phích. Tôi ghét những cảnh phim lạm dụng quảng cáo sản phẩm, tôi ghét những cuộc gọi chào hàng, ghét những gương mặt, những con người hoàn hảo, những gia đình hoàn hảo trong các phim quảng cáo. Ghét những người yêu nhau vì một loại dầu gội, ghét những gia đình hạnh phúc nhờ một loại thuốc đông y nào đó, ghét những đứa trẻ chỉ thông minh được khi ăn một loại bánh này, lễ phép khi được uống một loại sữa kia. Tôi ghét những hình ảnh hàng hóa tràn ngập trang facebook của mình, ghét những tờ rơi bay đầy phố… Tôi ghét mọi thứ liên quan đến quảng cáo, truyền thông, ghét những hành động chỉ mang mục đích bán hàng.

Tôi ước hàng hóa không nhiều, không dư thừa để người ta biết trân quý hơn những gì người ta có. Để người ta không làm mọi việc chỉ để có tiền mua sắm, để người người không nghĩ về vật chất mà nghĩ về tâm hồn nhiều hơn. Chắc chắn sẽ có người nói tôi điên rồi, đúng vậy, tôi điên rồi, cái chủ nghĩa tiêu dùng này khiến tôi phát điên rồi. Tôi chỉ muốn đập nát nó đi thôi. Còn nếu ai nói nếu không sản xuất, không mua sắm xã hội không thể phát triển, hẳn người đó sẽ phải suy nghĩ lại.

Đúng thế, có thể kinh tế hàng hóa phát triển chậm hơn nhưng chắc chắn sẽ theo hướng bền vững hơn, hài hòa hơn và tuyệt đẹp hơn. Khắp mọi nơi trên thế giới ai cũng có thời gian để làm việc và nghiên cứu những gì mình giỏi. Mọi người nông dân đều hiểu rõ cách nuôi trồng nông sản của mình cho hiệu quả. Các nhà khoa học có nhiều nguồn lực hơn để nghiên cứu sáng chế, các y bác sĩ sẽ có nhiều thời gian nghiên cứu, bào chế các phương thức chữa bệnh mới, những bài thuốc mới hiệu quả hơn.

Nhất định nếu có điều kiện để mọi người dù nông dân hay tri thức cùng nhau nghiên cứu mọi vấn đề, lĩnh vực thì trái đất này sẽ càng xanh tốt, những nguồn năng lượng sạch được khai thác và tìm thấy sớm hơn. Tất cả các tiến bộ khoa học, công nghệ trên đời sẽ tiến nhanh thêm một bước, thậm chí nhiều bước. Vì chúng ta tận dụng được kho ý tưởng của toàn nhân loại và chúng ta có gấp đôi lượng thời gian hữu ích được sử dụng cơ mà.

9. Giờ xin quay lại việc giới thiệu về hình thái kinh tế mới mà tôi đã nhắc ở trên: Nền kinh tế chia sẻ

Bạn đã bao giờ nghe đến khái niệm này? Để đơn giản, hãy tưởng tượng một viễn cảnh mà nơi đó, mọi người đều dùng chung đồ dùng của nhau, nói gọn là mọi người chia sẻ đồ dùng với nhau, từ những thứ đồ sử dụng mỗi ngày như xe hơi, như bếp nấu ăn, cho đến những thứ đồ ngàn năm mới sử dụng một lần như đồ nghề câu cá, dụng cụ cắm trại, bộ dụng cụ sửa xe, làm vườn. Mỗi khu phố lại có một nhà kho chứa những thứ đồ dùng từ phổ biến đến chuyên môn cho mọi người trong phố ai có nhu cầu thì đến lấy về dùng, xong lại đem trả… Như thế không phải thật tiện dụng và thật tiết kiệm sao? Như một thư viện công cộng cấp khu phố, ai có sách lại mang đên đây góp lại, mọi người đến đọc tự do và chịu trách nhiệm bảo quản.

Ngay cả những đồ dùng như đồ chơi con nít, quần áo, đồ nội thất, đồ công nghệ, đồ dùng nhà bếp hay ti tỉ thứ đồ dùng khác, hễ ai có mà không dùng tới nhiều sẽ tự động quyên vào nhà kho chung cho mọi người cùng sử dụng. Và hãy tưởng tượng những căn nhà được đề bảng chia sẻ ở khắp nơi, ai cũng có cơ hội kiếm được một chỗ ở nơi mình yêu thích, thuận tiện cho công việc và vui chơi. Có thể đây là một khái niệm khá mới và bạn chưa kịp hiểu lẫn thấm nó. Vậy thì đừng tiếc bỏ ra một khoảng thời gian nhất định tìm hiểu về mô hình kinh tế chia sẻ này, tôi hứa đó sẽ là khoảng thời gian xứng đáng không bị phí trong cuộc đời bạn đâu.

Ưu điểm của nền kinh tế chia sẻ này không còn gì phải nghi ngờ. Chúng ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều tài nguyên của trái đất, tiết kiệm được rất nhiều thời gian hoang phí trong việc cố sản xuất hàng hóa cho dư thừa như mô hình cũ. Không chỉ tài nguyên trái đất mà tài nguyên của mỗi cá nhân cũng được trân trọng hơn, bao gồm cả vật chất và phi vật chất, như công sức, tình cảm, thời gian. Mọi người không cần đi làm cật lực để mua những thứ đồ dùng chạy theo mốt mới. Chỉ sống đủ nhu cầu và dành thời gian công sức để theo đuổi đam mê, sáng tạo những ý tưởng mới, bào chế ra những phương thuốc mới, cách thức chữa bệnh mới. Nhiều thời gian hơn để đi du lịch khắp nơi, trải nghiệm thế giới phẳng. Nhiều thời gian hơn để chăm sóc cho gia đình, cho con cái và cha mẹ. Ai cũng hài lòng.

10. Có một câu nói ngắn gọn mà rất nhiều người chúng ta đã nghe qua và từng cảm thấy xấu hổ về nó, một câu nói mô tả chân thực thực tế hành động của chúng ta khi bị chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa hàng hóa chi phối và điều khiển, xin được nhắc lại:

“Rất nhiều người trong chúng ta, tiêu những đồng tiền không phải do ta kiếm được, để mua những thứ ta không thật sự cần, nhằm để chứng tỏ với những người ta không thích.” – Dave Ramsey, (Fight Club)

Vâng, bạn có thấy không? Có thừa nhận câu nói này rất đúng không? Nếu viết đầy đủ câu nói đó có thể như này: “Rất rất rất nhiều người trong số chúng ta, tiêu những đồng tiền do người khác làm việc cật lực có được, hoặc những đồng tiền do chính chúng ta đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được, để mua những món đồ ta chẳng thật sự cần, chỉ để lấy le với những người ta không quen biết, không quan tâm, làm giàu cho một nhóm nhỏ người khác mà ta chẳng hề biết đến, rồi sau đó nhanh chóng quăng nó đi, quên nó thật nhanh và góp một tay đẩy trái đất này đến ngày tận kiệt.”

Liệu sau bài viết này có ai muốn cùng tôi căm ghét cái chủ nghĩa tiêu dùng chết tiệt này? Có ai đó muốn nhìn lại cuộc sống của bản thân và bắt đầu thay đổi?
Đừng ai nói những người như tôi làm cản trở sự phát triển của xã hội, vì tôi dám khẳng định rằng xã hội này cần nhiều người có những ý tưởng, những hành động thiết thực hơn, ý nghĩa hơn việc ngồi hàng giờ xem quảng cáo và mua sắm. Thế giới này chắc chắn sẽ thay đổi vì những người có những hành động đi ngược số đông, chứ sẽ không thay đổi vì những hành động của bầy cừu hay của đàn chuột lemping. Không, nhất định không!

Và cũng đừng ai nói thế giới này không thể thay đổi, nếu bạn cho rằng như thế thì bạn cũng không nên ngăn cản những người đang cố thay đổi nó. Còn giả như bạn cho rằng thế giới này không cần thay đổi ư? Bạn thật ích kỷ. Chúng ta cần thay đổi nó, không phải vì chúng ta, mà vì con cái chúng ta, vì tương lai của trái đất này, vì đó là trách nhiệm của loài người khi mang danh thống trị muôn loài, đừng đùn đẩy cho loài nào khác.

Còn nếu như bạn nghĩ đó không phải việc của bạn, thật tốt vì bạn đã đọc đến đây. Sau nữa dành cho những người thật sự quan tâm, hãy tìm hiểu, đây có thể là thời cơ, là cơ hội của bạn. Hãy thử nghiên cứu sâu hơn về nền kinh tế chia sẻ, bạn sẽ nhận ra được nhiều cơ hội có thể ứng dụng vào thực tế. Bạn có thể sẽ trở thành người đi đầu trong nền kinh tế mới mẻ này vì nhu cầu chia sẻ luôn luôn tồn tại, không bao giờ mất đi cả. Và chia sẻ đồ dùng, kinh tế nhất định sẽ không ngoại lệ.

Hôm nay tôi làm được nhiều việc nên cảm thấy mệt mỏi quá, có ai dư một bờ vai rảnh rỗi để chia sẻ cho tôi lúc này không? (Đó cũng là một ý tưởng về kinh tế chia sẻ nhỉ)

 

Phi Tuyết

[Review] Núi Thần – Thomas Mann

0
Featured Image: Kafka Bookstore

 

Có gì trên ngọn núi ấy?

Thomas Mann đã nói trong cuốn sách này rằng: thời gian là một bí mật. Người ta cố gắng nhốt kín thời gian và đong đếm nó bằng tiếng tích tắc của các thể loại đồng hồ, nhưng người ta chưa bao giờ điều khiển được nó. Ngược lại, nó điều khiển ta và đo lường cuộc đời ta. Người ta chạy trốn thời gian bằng những cuộc xê dịch, mà cụ thể ở đây là một cuộc đào thoát đồng bằng lên núi cao, nơi người ta trả tự do cho thời gian để giải thoát cho chính mình khỏi nỗi ám ảnh của những cột mốc, của những đơn vị ngày tháng. Nhưng rồi, bằng một cách nào đó, thời gian vẫn lao đi và cuốn tất cả theo dòng chảy bất kham của nó để đối diện với một cột mốc duy nhất của đời người: cái chết.

Hans Castorp đã đối diện với cái chết khá sớm, khi những người thân lần lượt bỏ chàng ra đi. Đối với Hans, chết là một cuộc chia ly linh thiêng và trang trọng. Nhưng sau này, khi Hans lên sống ở Sơn trang, chàng mới hiểu rằng có vô vàn khuôn mặt của cái chết cũng như chừng ấy thái độ của sự biệt ly. Và vì thế dần dần chàng đánh mất đi sự tôn kính của mình dành cho sự kiện đặc biệt ấy, để trơ lì đối diện nó bằng một cái nhún vai. Rốt cuộc thì, dù người ta có muốn đối diện với nó vì quá chán ngán chốn hồng trần, hay muốn trốn chạy nó vì quá lưu luyến hồng trần, thì cái chết cũng sẽ đến dưới bàn tay quyết định của thời gian chứ không phải của chúng ta. Vô vọng, dường như là câu trả lời cho tất cả.

Và bởi vì con người không quyết định được cái chết của mình, nên họ bằng mọi cách sống một cuộc đời như mình mong muốn. Ngọn núi Davos, nơi đóng đô của An dưỡng đường Sơn trang, nơi thời gian tự do một cách toàn năng và bất kham, nơi bốn mùa bất chấp luật lệ thích ghé lúc nào thì ghé, nơi người ta miễn cưỡng đến ở để chiến đấu cho cuộc sống của mình. Ở đó, không có một bầu không khí tang thương ngự trị, hoặc nó vẫn ngự trị nhưng nó đã bị ngó lơ, hoặc khỏi cần ngó lơ mà người ta tự luyện cho nó thứ nội công thâm hậu có tên là vô cảm. Bằng mọi giá, họ đấu tranh cho lý tưởng, cho ước mơ, cho quan điểm sống và cho tình yêu. Cả Sơn trang là một hợp chủng quốc ngồi chờ đợi giây phút cáo chung, nhưng vẫn không thôi va chạm nhau bằng những cuộc cãi vã liên hồi kỳ trận.

Cuốn sách là những cuộc hành trình, không chỉ riêng cua Hans Castorp. Những nhân vật khác trong này cũng hết sức đặc sắc, từ Settembrini đến người đồng minh thù địch Naphta, từ Joachim đến cô nàng người Nga Clawdia Chauchat, họ đều trưởng thành trên hành trình đi đến cái chết, bằng những nụ cười trên môi như sự lựa chọn sau cùng cách thức đối diện với số phận của mình. Với Settembrini là nụ cười ý vị thâm trầm, với Hans là nụ cười hồn nhiên nông nổi, với Clawdia là nụ cười kiêu kỳ, họ đều cười với cuộc đời tiếng cười của chính mình, một cách để chạm khắc vào thời gian vô định những dấu ấn, trước lúc nó kịp xoá sổ tất cả…

Núi thần, đúng như tên gọi của nó, là một ngọn núi đồ sộ và vĩ đại. Tuy nhiên nó không đòi hỏi ở người khác một phẩm chất cao siêu để vượt qua. Nó, cũng như một vài cuốn sách được liệt vào hàng kinh điển khác, chỉ chờ đợi ở bạn một sự kiên trì, một nỗ lực bền bỉ để đi hết hành trình. Bù lại, nó sẽ dành tặng bạn thứ văn chương hảo hạng, một bản hoà âm đẹp đẽ của triết lý, chất thơ và tình yêu, nó tặng bạn những đoạn văn tả cảnh đẹp rụng rời đến mức bạn chỉ ước ao gì mình được ở đó – là con bệnh cũng được, nó tặng bạn những cuộc tranh luận đầy tính triết học nhưng rất dí dỏm hài hước, tặng bạn bức tranh sinh động về cả thế gian. Cuối cùng, nó tặng bạn những nụ cười, như một cách tiêu xài cuộc đời mà không hề hối tiếc…

 

Kafka Bookstore

Người Việt có nên uống sữa?

34
 Featured Image: Chiot’s Run

 

Uống sữa có tốt cho người Việt không? Ngày nay, có rất nhiều thông tin gây tranh cãi về vấn đề này. Để giúp hiểu rõ hơn, tôi muốn đề cập về lịch sử và những ảnh hưởng đến sức khỏe của sữa. Trước tiên, con người uống sữa từ khi nào và vì sao?

Khoảng 8000 năm trước đây, cùng thời gian với người dân Đông Á học cách trồng lúa và làm rượu gạo, những người Bắc Âu đã uống sữa bò và ăn phô mai cùng các sản phẩm từ sữa. Ở Đông Á, chúng ta trồng lúa nước, uống rượu gạo bởi cùng lý do với người Bắc Âu uống sữa, ăn phô mai: Tại cả hai nơi, những động vật có vú lớn nhất đã biến mất vì săn bắn quá mức và thay đổi khí hậu, vì vậy tình trạng đói khổ hoành hành. Khi những người châu Á đầu tiên uống rượu bị say vì dùng quá nhiều thì những người Bắc Âu đầu tiên thử uống sữa cũng bị vấn đề về tiêu hóa bởi họ thiếu gen sản xuất ra lactase, một loại enzyme giúp tiêu hóa đường lactose có trong sữa.

Trước đây, tất cả các loài động vật có vú đều mất lactase trong thời kỳ trưởng thành, nhưng ở một vài nơi trên thế giới, con người cuối cùng đã biến đổi về gen để cho phép họ và con cái tiêu hóa sữa tốt hơn. (Cũng như vậy, nếu sữa được ai đó uống đủ một thời gian dài thì sẽ xuất hiện sự thích ứng ở ruột trong việc tiêu hóa sữa, sẽ làm tăng men tiêu hóa lactose và sản sinh ra ít khí hydro hơn).

Hơn 80% dân số ở quần đảo Anh và Scandinavia khi sinh ra đã có enzyme lactase và có thể tiêu hóa được sữa vào tuổi tuổi trưởng thành). Ở Bắc Ấn Độ, khoảng 63% dân số có lactase, ở phía Nam Ấn Độ, tần suất là từ 10 đến 20%. Ở Đông Phi và Trung Đông, sữa bò và lạc đà đã được uống từ hàng ngàn năm, vì thế, tỷ lệ dân số có enzyme lactase là cao.

Ở phía đông Địa Trung Hải, tần suất có lactase là khoảng 15% (trong lịch sử, người ta có ăn pho mát dê). Ở Tây Phi, Đông Á và Tân Thế Giới, rất ít người có lactase vĩnh viễn. Người Mông Cổ cưỡi ngựa và dùng sữa của nó, trong khi đó ở Trung Đông, người Bedouin uống sữa lạc đà, thậm chí người nghèo Bedouin sống lệ thuộc vào sữa là chủ yếu. Sữa trâu được uống thường xuyên ở Nam và Đông Nam Á. Thông thường, phô mai, sữa chua và bơ để được lâu hơn sữa và dễ dàng tiêu hóa hơn.

Nhìn chung, cứ hai trong số ba người trên thế giới không có khả năng sản xuất ra lactase. Nói cách khác, sữa không phải là một phần quan trọng của chế độ ăn uống truyền thống cho hai phần ba dân số thế giới.

Bây giờ sữa bò phổ biến rộng rãi tại Việt Nam, chúng ta có nên uống sữa?

Câu trả lời của tôi là không, vì ba lý do sau:

Thứ nhất, có một vấn đề về các yếu tố sinh trưởng tương tự insulin (viết tắt là IGF-1), một loại protein điều chỉnh sự tăng trưởng. Uống sữa làm tăng IGF-1. Trẻ em uống nhiều sữa có xu hướng tăng chiều cao hơn. Chiều cao có giá trị trong xã hội loài người, tuy nhiên uống sữa để tăng chiều cao cũng chứa đựng những nguy cơ bệnh tật như ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú, đại tràng và phổi. Sữa cũng liên quan tới mụn trứng cá: Một loạt nghiên cứu trên diện rộng (47.355 người tham gia mỗi nghiên cứu) được tiến hành bởi Đại học Harvard cho thấy sự liên quan giữa lượng sữa tiêu thụ và mụn trứng cá ở tuổi vị thành niên.

Thứ hai, người Việt không nên uống sữa vì lượng canxi trong sữa cao. Các công ty sữa thường thuyết phục chúng ta rằng có nhiều canxi sẽ tốt cho xương. Tuy nhiên, hàng ngày chúng ta thực sự cần bao nhiêu lượng canxi trong mỗi bữa ăn? Tiêu chuẩn ở Mỹ và Canada về canxi cho người lớn nên tiêu thụ là 1.000 mg canxi mỗi ngày; ở châu Âu, mức tiêu thụ là 800 mg, còn tại Nhật Bản là 500 mg.

Thật là nghịch lý, từ nhiều năm nay người ta đã thấy rằng, tại các quốc gia nơi người dân tiêu thụ nhiều canxi trong khẩu phần ăn, bệnh gãy xương hông trở nên phổ biến. Bổ sung nhiều canxi dường như tăng nguy cơ gãy xương hông. Vượt qua ngưỡng tiêu thụ 400 mg canxi mỗi ngà dường như chẳng giúp gì cho xương của chúng ta mà còn làm vấn đề tồi tệ hơn. Trong bữa ăn truyền thống Việt Nam, mọi người đã có đủ canxi từ rau có lá xanh đậm.

Khi tôi đi du lịch ở Papua New Guinea, người dân ở đây không uống sữa hàng ngày ngoài sữa mẹ trong giai đoạn phôi thai, nhưng họ rất chắc khỏe. Papua Guinea là một trong những nước có tỷ lệ gãy xương hông thấp nhất trên thế giới. Tỷ lệ gãy xương hông cao nhất xảy ra ở những người Bắc Âu cao lớn, ưa thích uống sữa. (Sữa đậu nành, trái lại, lại làm giảm tỷ lệ gãy xương hông ở phụ nữ, có lẽ do ảnh hưởng của kích thích tố nữ hoặc vitamin K tìm thấy trong các sản phẩm đậu nành lên men). Dùng canxi hàng ngày cũng làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cũng được chứng minh trong nhiều nghiên cứu.

Lý do thứ ba khiến tôi nghĩ sữa không cần thiết với người Việt là chúng ta đã có lối ăn truyền thống không cần tới sữa. Ở Bắc Âu và một vài nơi của châu Phi, Trung Đông, Nam và Trung Á, sữa có một lịch sử lâu đời và là một phần quan trọng và ngon lành trong bữa ăn của họ, như tôi được học khi tôi đi du lịch qua Thụy Điển và Iceland. Nói họ dừng uống sữa có khác nào bảo người Việt dừng ăn cơm hay nước mắm. Còn ở Việt Nam, chúng ta có một lối ăn ngon lành dựa trên rau, gạo, cua, cá, trái cây, trứng gà vịt, thịt heo, bò, đậu nành, nước mắm chứ trước đây chúng ta không dùng tới sữa bò. Không có lý do gì khiến chúng ta phải dừng những thức ăn truyền thống cũng như không có lý do gì phải bắt đầu việc uống sữa.

[themify_box style=”purple rounded” ]Stephen Le được đào tạo về Sinh nhân chủng học. Anh lấy bằng tiến sĩ của Đại học California, Los Angeles (UCLA) và hiện là giáo sư thỉnh giảng của Khoa Sinh học, ĐH Ottawa. Trong hai năm nay, anh đã viết một cuốn sách về lịch sử thức ăn, chuẩn bị được NXB Picador USA and HarperCollins Canada xuất bản trong năm 2015. Anh là người Việt, sinh ra ở Canada và đã trở về Việt Nam nhiều lần. Anh cũng sống và du lịch tới 40 nước trên thế giới với cơ hội chứng kiến và thảo luận về văn hóa ăn uống tại nhiều quốc gia.[/themify_box]

 

Stephen Le
Via Hằng Mắm Ruốc

Một cuộc chiến

86
Featured Image: Alejandro García

 

Tôi đang đi về hướng mặt trời lặn, vào giờ kinh sáng, quãng giờ thứ ba. Lúc này mặt trời vẫn đang ở đằng Đông. Người ta hay bảo tôi lập dị, toàn làm những chuyện ngược đời. Khi nhiều người hành hương tìm về phương Đông huyền bí, tôi chọn hướng ngược lại.

Nhưng vào quãng giờ này, phía Tây vẫn còn ánh trăng lờ mờ, dù không đủ tròn nhưng vẫn giúp tôi nhận biết đó là ánh sáng còn sót lại sau một đêm dài. Tôi hân hoan vì vẫn có một ánh trăng chiếu rọi, không còn nguyên vẹn.

Sau lưng tôi, hơi ấm lan tỏa nóng dần, ánh mặt trời đang soi sáng và thiêu đốt. Tôi đang chịu sự trừng phạt như một con chiên lạc lối chăng? Tôi vẫn kiên quyết bước đi về phía mình đã chọn. Sau lưng, da thịt tôi nóng rẫy, tan chảy và đỏ au. Tôi như đang bị thiêu sống, cùng quẫy. Chỉ là một sự lựa chọn không theo số đông, không thuần túy là những bước chân dẫm lên những tàn tích cũ – những dấu chân đã đi trước – lặp lại những gì đã được nghe như một con vẹt ngoan ngoãn để được ông chủ hài lòng và cho ăn, thì có nặng tội đến mức phải bị thiêu đốt không? Tôi uất nghẹn, quay lưng lại định hỏi Mặt Trời tại sao phạt nặng tôi như thế. Nhưng chỉ vừa khi ánh mắt tôi chạm vào một luồng sáng từ khối nóng kia phát ra, đôi mắt tôi đã bị thiêu cháy khi chưa kịp cất lời.

Và cuối cùng, cả cơ thể tôi như một khối nham thạch nóng bỏng, chỉ chực chảy tràn vào hư không. Tôi nhìn về phía Tây, ánh trăng kia đã biến mất tự lúc nào. Tôi kêu gào thảm thiết vì nghĩ rằng, mình đang trải nghiệm những giây phút cuối đời. Tôi không thể khóc, vì chẳng ai dành giây phút này cho việc khóc cả. Tôi đang bay, lơ lửng. Tôi nhìn ngắm bầu trời xanh trong vắt, một cảm giác nhẹ tênh. Bầu trời luôn ngự trị trên đầu tôi, màu xanh của nó và những áng mây bồng bềnh luôn hiển diện mỗi ngày, vậy mà đây là lần đầu tiên tôi ngắm nhìn nó với cảm giác thảnh thơi huyền diệu. Có lẽ, con người ta trước khi chết hay tạo ra cho mình những cảm giác thảnh thơi đó – đôi khi chỉ là cảm giác tự lừa dối để khỏa lấp những tội lỗi mà bản thân đã gây ra trong đời.

Tôi nhắm mắt để mình đi về cõi chết, để ghi dấu màu xanh kia một lần cuối – màu xanh huyền diệu. Tôi lơ lửng mãi như tìm đến cõi vô tận, mọi giác quan đều bị phong tỏa, nhưng mãi mà tôi vẫn chưa thấy mình được siêu thoát. Tôi còn nghe thấy thanh âm ù ù như bão lốc, tiếng sôi sùng sục như đại dương đang thét gào dâng ngọn sóng cao nhất của mình để chiếm lĩnh thế gian. Tôi mở mắt. Một cảnh tượng khủng khiếp đang diễn ra, bầu trời xanh trong vắt của tôi chỉ còn là hình ảnh trong trí nhớ. Bao quanh tôi lúc này là giông tố và có thứ gì đó đang lan ra, chiếm trọn cả khoảng không trước mặt. Một biển máu. Vâng, thôi không thể tìm từ gì chính xác hơn để miêu tả trạng thái này, một biển máu đang vây lấy bầu trời.

Những dòng nước đỏ lòm, lan dần khắp không gian. Tôi sẵn sàng cho một cái chết dưới bầu trời xanh thẳm, để linh hồn mình có thể tựa vào những đám mây đi khắp thế gian, nhưng tôi không thể chết dưới biển máu tanh hôi thế này. Tôi vùng vẫy tìm cách thoát ra, không thể được. Tôi cầu cứu, không ai trả lời, ngay cả những vị thánh. Bỗng giữa biển máu xuất hiện một ngôi sao năm cánh. Tôi mừng rỡ, mình sẽ được giải cứu, mình sẽ được giải cứu. Lẩm nhẩm trong miệng, tôi bay về hướng vì sao. Tôi chợt nhận ra mình mạnh hơn bao giờ hết, ánh mặt trời thiêu đốt đã giúp tôi cứng như sắt nung qua lửa đỏ. Tôi thầm nghĩ với sức mạnh này, tôi sẽ vươn tới ánh sáng của vì sao và nhờ đó, sẽ soi sáng thế gian này, đẩy lùi được bóng tối mà biển máu đỏ đang bao trùm. Nhưng tôi đã nhầm, một sự nhầm lẫn ngu ngốc và tai hại.

Trên môi rạng rỡ một nụ cười, tôi đã bay đến được gần với vì sao. Nụ cười vội vã tắt ngúm khi trước mắt tôi hiện tại không phải là hình ảnh một ngôi sao lấp lánh, mà là một vật có ngũ chi tựa một ngôi sao năm cánh, nhưng chắc chắn không phải là một vì sao, không bao giờ có thể là một vì sao. Cái vật thể ngũ chi đó cứ to dần, như một thực thể có đầy đủ tay chân và một cái đầu. Tứ chi kia lớn dần lên, như hai cánh tay và đôi chân khổng lồ, còn cái đầu dần thu nhỏ lại, bé xíu như trái táo Tàu. Thực thể đó nhìn tôi dò xét, và tôi có linh cảm rằng nó chính là tên lính gác đã tháo cái then cài cánh cửa tội ác để dòng máu đỏ tanh hôi lan tràn thế gian này. Tôi lùi lại đề phòng, cái chi hình táo Tàu lắc qua lắc lại, một tràng cười man rợn nổi lên, hòa cùng tiếng rít như dao cứa. Một thảm cảnh hệt như những tưởng tượng phong phú nhất về ngày tận thế.

Bất ngờ, hai tay nó vươn về phía tôi và xiết lấy cơ thể nhỏ bé này, bóp nghẹt. Tôi vùng vẫy chống cự, nhưng vô ích. Hơi thở tôi yếu dần, tưởng như quả tim ngừng đập. Tôi định buông xuôi, để mặc cho số phận quyết định vì tôi biết rằng, với sức mạnh của riêng mình, chẳng thể làm được gì cả. Đâu đó sâu trong tim tôi, một hơi nóng, một luồng sáng phát ra thiêu cháy hai cánh tay kia, nó liền rụt lại, tôi thoát khỏi cái chết trong gang tấc. Tôi bất ngờ về sức mạnh tiềm ẩn của mình, thì ra Mặt Trời đã không trừng phạt tôi – như tôi đã nghĩ – mà đã cho tôi sức nóng đó, để tôi mạnh mẽ hơn. Cái thực thể kia không buông tha, nó liền rống lên một thanh âm u tối, biển máu dồn vào nó và hiện ra hình hài hai thứ vũ khí trên tay. Hai thứ vũ khí ấy trông rất quen như thể chưa bao giờ tôi nghĩ nó sẽ trở thành công cụ trong tay Kẻ thủ ác.

Tay trái hắn cầm một thứ mà mẹ tôi thường dùng trong mỗi vụ gặt, và với tôi, mỗi khi mẹ dùng đến nó thì tôi biết chắc mùa này nhà tôi no đủ. Tay phải hắn cầm một vật mà cha tôi hay dùng, nó đã giúp gia đình tôi từ nơi ở xiêu vẹo tạm bợ có một căn nhà ván được đóng đinh vững chắc qua mùa mưa bão. Búa liềm, hai vật dụng gia đình tôi từng nâng niu, giờ trở thành thứ vũ khí nguy hiểm. Tôi choáng váng, những hình ảnh trong ký ức hiện về. Làng quê đó, những con đường thơm mùi rạ ầm đó, những con người chân chất đó.

Bây giờ họ ở đâu, trong mớ hỗn loạn này? Có ai như tôi, làm những việc ngược đời rồi giờ đây đang đứng giữa bờ vực của sự sống chết mà vẫn mãi hoài ngờ vực niềm tin của bản thân? Tôi đang chối bỏ những gì tôi đã từng tin và yêu quý, tôn thờ? Là tôi đã sai khi chọn con đường này sao? Nếu như vào giờ kinh thứ ba ấy, tôi đi con đường mà bao kẻ đã đi, dẫm đạp lên những đổ nát mà người đời xưng tụng, thì tôi có đối diện với cuộc chiến này? Nhưng quá trễ rồi, đã qua giờ kinh tối, cuộc chiến đang đến hồi kết trong khi tôi lại chưa tìm được điểm khởi đầu cho niềm tin của mình. Mọi giá trị tôi đã xây dựng như một tòa tháp tráng lệ, nhưng rêu phong tàn tích, đổ sụp trong phút chốc.

Kẻ thủ ác ấy không đủ kiên nhẫn để chờ tôi đi tìm câu trả lời, vì theo hắn, tôi chỉ có thể được viên mãn sau khi được hắn gia ân kết liễu đời mình. Hắn nhẹ nhàng dưa lưỡi liềm kề vào cổ tôi, và bằng một hành động rất ngọt – vì chắc chắn hắn đã thực hiện nó nhiều lần – đầu và thâm mình tôi tách ra làm đôi. Lạ thay, tôi không hề sợ hãi mà tĩnh tâm đón nhận cảm giác này. Những giọt máu nơi vết cắt luôn chảy. thần kỳ chưa, nó không là màu đỏ thuần túy, mà từng giọt mang màu xanh huyền diệu. tôi đã cất công đi tìm màu xanh ấy, mà không hề biết răng, đó là từng giọt máu trong cơ thể mình.

Máu tôi lan dần ra từng cánh đồng, thân thể tôi tan theo gió và linh hồn tôi cư ngụ dưới một đám mây. Nhưng, như những kẻ thắng cuộc vẫn thường làm, cái thực thể ngũ chi đó hân hoan với chiến thắng của mình, và gieo rắc nỗi sợ hãi cho nhân loại mà không hề để tâm rằng, dưới chân những ngọn lúa, từng giọt máu nhỏ xíu mang màu bầu trời, đang vươn mình sinh sôi.

Tôi mỉm cười, vì tôi tin, sẽ còn có nhiều người nữa – như tôi – đi tìm màu xanh đã mất.

 

Lâm Hạ

Can đảm có gì hay?

6
Featured Image: [Duncan]

 

Hôm nay là ngày Remembrance Day, tức là Ngày Tưởng Niệm các chiến sỹ trong chiến tranh. Sáng lên Facebook thấy báo tin là ngày sinh của Bs. Phạm Doãn, trong lòng cũng thấy có chút trùng hợp. Tôi được một cái tánh là hay nhớ ngày sinh bạn bè, nhưng rồi vài người trong số ấy đã ra đi nên tôi nhớ luôn ngày tử của họ là thành hai. Ngày sinh còn chúc mừng, có hoa và bánh kem, ngày tử chỉ biết một mình tưởng nhớ – còn sinh nhật của một người đã mất thì bối rối chẳng biết phải làm sao cho đúng lẽ.

Tháng 11 cũng gợi tôi nhớ tới sinh nhật của một bậc đàn anh đáng kính, đã dìu dắt tôi rất nhiều lúc còn ngu ngơ – anh Kts Văn Công Thuần. Thôi thì tôi sẽ dùng ngày Remembrance này để tưởng nhớ, vì họ có cái chung đều là Chiến Sỹ, dù chết trên trận chiến súng đạn hay trận chiến ở xã hội thì họ cũng đều là những con người can đảm. Thế, can đảm thì có gì hay?

Từ một câu trong phần thảo luận của bài viết “Như một lời nói thừa”, bác Hoa Nguyen cho rằng sự can đảm trong thời gian cuối đời của bác Phạm Doãn (Luyện) là không đúng lúc, hoặc không cần thiết phải làm thế. Tôi viết bài này, cố gắng tránh nhắc lại những chi tiết không cần thiết hoặc không liên quan, hoặc như là có bạn nói “lấy chuyện hậu sự của người ta ra… tự sướng” – tôi không thích (và không cần thiết) lấy cái đau khổ gia đình người ta mà tôn vinh bản thân mình. Nhưng tôi không thể làm ngơ, bởi vì cái im lặng này không phải là kiểu “im lặng của bậc trí”.

Nếu không phân tích được thì quả thật cũng sẽ chẳng có ai hiểu cái giá trị phi thường của lòng can đảm – và dẫn tới mọi người sẽ dễ duôi bắt tay với sự hèn nhát, vì nó dễ làm hơn và cũng “lợi nhiều bề”. Kẻ nào biết mà không bênh vực sẽ thành câm, có trí mà không có dũng nói lên thì sẽ dần thành đần độn – luật Nhân Quả nghiêm khắc rất ác nghiệt, mà tôi cũng không phải là thứ câm hèn. Bởi vì có không nhiều người hiểu được sự can đảm – cái đại dũng lực – của bậc thánh khi đứng trước sinh tử, cho nên cũng có rất ít người chứng đắc được tuệ giác thiền định.

Tôi viết bài này một phần vì đồng cảm với Bs. Phạm Doãn, nói lên cho mọi người được rõ là ông ta đã dũng cảm thật sự như thế nào, chứ không phải chỉ có biểu hiện ở những chuyện nhỏ nhặt như “tự rút ống, nội soi không thuốc mê” hoặc tuyên bố “còn bao nhiêu chơi bấy nhiêu”. Phần còn lại tôi muốn nêu giá trị của đức tánh can đảm – dũng lực – trong bước đường tu tập giải thoát.

Can đảm có gì hay ho? Hay quá đi chứ! Một con người can đảm dám làm dám chịu, dám sống thực như mình mơ ước mà không bị bất cứ sự cản trở nào trong suy nghĩ. Muốn leo núi vượt rừng nhưng trong tâm đầy những lo ngại, sợ sệt, tính toán thiệt hơn,… thì mãi mãi vẫn ở nhà. Một con người bình thường, lúc còn bé thì cha mẹ luôn dạy phải tránh rắn rít, coi chừng đứt tay, đừng chạy nhanh quá sẽ té đau,.. đó là những lời khuyên đúng, nhưng dần dần đứa bé sẽ thận trọng và dè đặt – người ta bảo rằng kẻ “biết suy tính” là người lớn.

Ra đời, xã hội dạy ta phải biết sợ công an, sợ chính quyền cũng như sợ bọn tội phạm. Về nhà thì sợ vợ, vì mong được ổn định nên thỏa hiệp và nhắm mắt trước những tật xấu của con người trong gia đình – vợ nó coi thường cũng phải, vì hai cái hòn của đàn ông đã teo mất từ lâu. Vào cửa thần quyền thì cái đầu tiên được dạy là phải quỳ lạy sợ hãi một bức tranh tượng nào đấy – của những bậc thánh dũng cảm – chứ không được dạy phải noi theo các đức tính, dũng lực của bậc thánh nhân ấy. Gần cuối đời khi thấy trước mặt là hố đen thì sợ quíu cẳng, cố quỳ lạy van xin để bám víu vào một tia hy vọng nào đấy, rằng sau khi chết sẽ được “cứu vớt”.

Hóa ra con người ta cứ phải sợ hãi suốt đời, từ bé cho tới chết – chưa một ngày đủ dũng cảm để thấy được tự do. Cho tới ngày nằm nhắm mắt chờ cái chết mới hối hận tại sao ta chưa từng được sống như ta mong muốn. Ngày Remembrance tôi được xem và đọc những đoạn lịch sử kể về những con người bình thường sống ở xứ tự do giàu có, nhưng khi tin nghe đất nước quê hương bị chiến tranh thì họ xếp hàng rồng rắn đăng ký vào quân đội, đến nổi người ta phải tìm cớ loại bớt ra. Cũng là thiêu thân, nhưng kẻ hèn nhát thích đốt cuộc đời họ trong hưởng thụ dục lạc hơn là cho tổ quốc – rồi sau đó bĩu môi chê bọn ấy ngu. Cuộc đời nhanh như chớp mắt, rồi ai cũng chết, nhưng có người được sống thực, có người chưa bao giờ được sống. Những con người dũng cảm họ đã được tự do trước khi chết, những kẻ hèn chỉ hưởng thụ trong sự sợ hãi.

Xã hội và chính quyền rất sợ lòng dũng cảm, họ tôn vinh các anh hùng liệt sỹ nhưng lại sợ sức mạnh ấy – bởi vì bản chất của giai cấp thống trị là hèn nhát, nên mới sống sót mà luồn lách leo lên. Một mặt thì dựng tượng thờ nhưng mặt khác ngấm ngầm tiêu diệt. Sự can đảm là một đức tánh mà thần quyền lẫn bạo lực không thể cai trị được. Vì độc lập tự do con người ta sẳng sàng đổ máu, vì không muốn bị kẻ ngu đè đầu cỡi cổ người ta dám liều chết vượt biển cưỡi cá mập. Không một thế lực nào có thể làm chùng bước can đảm, kể cả cái chết. Sự tham lam luôn đi đôi với hèn nhát – sợ mất – cho nên khi xã hội được xây dựng từ lòng tham sẽ phải “đì” những kẻ gan dạ. Ai nhút nhát thỏa hiệp thì sống an ổn, ai can trường muốn vượt lên thì sẽ vướng phải chập chùng trở ngại, do cuộc đời này đã thiết kế sẵn – như một quy luật.

Chiến tranh sinh ra do lòng tham, và người ta tìm cách dụ dỗ những chiến sỹ vào chổ chết – kẻ tham hèn thì luồn lách sống và hút máu con người trong chiến tranh như loài ma cà rồng. Nếu không có chổ để triệt bọn Chiến Binh ấy thì chúng sẽ dùng cái dũng lực để tìm diệt những chướng mắt ung nhọt trong xã hội – là cái đuôi của lòng tham. Tôn giáo cũng khởi đầu từ những bậc Thánh dũng cảm, dám hy sinh vì nhân loại, nhưng lại được “tiếp quản” bởi con người – đằng sau là cái tham của Satan xúi giục – cho nên chẳng ai thèm gỡ Chúa Jesus xuống, cứ để Ngài bị đóng treo trên giá.

Đó là hình phạt cho những kẻ can đảm, bạn vào nhà thờ chẳng nhìn thấy thế sao? Phật tử đi chùa lạy Phật để cầu xin, chứ không phải quỳ xuống tôn vinh sự dũng cảm tuyệt vời của Ngài khi chiến đấu với Bản Ngã Tham Ác, hoặc sự dũng cảm chiến đấu giành lại từng người để mà cho họ vượt thoát ra khỏi cõi dục. Họ cũng chẳng cần tìm hiểu con đường mà Ngài đi qua và đã làm, chỉ cần ban phước gia hộ cho họ tiếp tục tham lam là được! Chừng nào con người còn sợ hãi và nhút nhát thì tôn giáo và chính trị vẫn còn vững bền cai trị, họ sẽ dựng tượng anh hùng nhưng chính họ cũng là kẻ đã bắn người đó – để biến ông ta thành tượng đài.

Có một câu nói rất hay: “Chỉ khi nào ngươi dám chết vì Ta, ngươi mới vào được Thiên Đường.” Câu này được giải nghĩa theo nhiều cách, được các giáo chủ dùng làm công cụ để hướng sự cam đảm của con người trở thành các vũ khí chống lại con người. Các đội quân tôn giáo trong các cuộc thánh chiến cũng từ câu ấy mà ra. Đáng lẽ vị Thánh ấy dạy con người dũng cảm bảo vệ Chân Lý để giác ngộ, bước vào hàng ngũ Thánh, thì lại bị bẻ cong để xúi giục con người làm quân lính phục vụ cho sự tham muốn bành trướng lãnh thổ – lòng tham của Quỷ. Trong kinh Phật giáo Đại Thừa cũng có đoạn “qua đi, tiếp đi, cho tới bờ bên kia“, nghĩa là khuyên con người hãy dũng cảm mà tự chèo qua sông mê. Chính Đức Phật lúc cuối đời cũng dặn dò “hãy thắp đuốc lên mà đi, hãy tự nương tựa chính mình”. Thế mà cũng những con người thờ kinh ấy, lại dạy rằng hãy thiết tha kêu gọi tên một vị Phật tưởng tượng, để được tiếp rước. Thế thì các giáo sỹ đã phản Chúa chém Phật thêm một lần nữa.

Những ngày bác PD biết sắp phải ra đi, ông HN có khuyên rằng “hãy nương tựa một vị Phật nào đó” để cảm thấy yên tâm và nhẹ nhàng hơn. Đó là một lời khuyên rất thừa thải – dù có vẻ như có lòng tốt giúp đở, quan tâm – giống như khuyên một vị anh hùng rằng “hãy đầu hàng giặc đi, anh sẽ được mọi thứ”. Thực ra ý của ông HN là thế này: “Anh hãy nương tựa vào Phật A Di Đà, đọc tụng tên Ngài để mong cầu vãng sanh. Anh phải công nhận là anh sai lầm, và sám hối rằng những đau khổ này là quả báu từ việc dám chống lại Đại Thừa. Sự can đảm của anh là vô ích…”

Những ai đã đọc sách giáo khoa Trung Học đều biết chuyện “những điều lố hay Raven và Phan Bội Châu” trích đoạn ngài Raven khuyên ông Phan Bội Châu hãy đầu hàng Pháp đi. Khi tôi đọc những dòng ấy, quả thực thấy cũng như thế. Tôi không dám gọi những người sống gần hết đời mà tin theo Tịnh Độ là nhát gan, bởi vì khi cái chết cứ ngày một đến gần mà tâm chưa được an định thì ý tưởng Vãng Sanh về Tịnh Độ là một cứu cánh. Ai đó tự xưng anh hùng hảo hán, đi máy bay mà nghe thông báo có một động cơ ngưng hoạt động thì cầm chắc là són cmn ra, kêu tên đủ thứ Phật Thánh – kể cả Ala.

Thế nhưng đem cái ý tưởng hèn nhát ra trước một con người không đầu hàng trước số phận, làm chủ được cuộc đời mình khi sống trong lòng một xã hội rối ren, đã tự mình đi thử hết các con đường đã có trước, dám tự mình mở ra một hướng mới cho thế hệ sau – thì quả thật là rất lố bịch. Bảo một người sống tỉnh thức tới phút chót rằng hãy tỉnh táo mà cầu vãng sanh thì cũng giống như khuyên một tỉ phú tiết kiệm tiền lẻ vậy.

Một vị anh hùng đến chết không đầu hàng, ta gọi là hy sinh anh dũng. Một người tốt vì cứu hỏa hay vớt người chìm xuồng, sau đó hy sinh, là can đảm quá sức, xứng đáng dựng miếu thờ. Một chiến sỹ sẳng sàng chết để bảo vệ tổ quốc, cũng là anh hùng liệt sỹ,.. chết trẻ hay già thì cũng chết chỉ có một lần. Nói theo phim Tàu “mười tám năm sau vẫn lại là một hảo hán”. Những vị anh hùng này có tâm thức rất mạnh, coi sống chết nhẹ như không, bởi vì sau đó họ trở thành màu cờ linh vị, thành hồn thiêng sông núi, hoặc tin rằng có đầu thai cõi khác tốt đẹp – họ dám bỏ cõi sống. Người từ chối tiếp rước về cõi Phật (như người ta vẫn tin thế) can đảm hơn các anh hùng nhiều lần – vì từ bỏ luôn cõi sau khi chết. Bs. PD viết rất nhiều nhưng chưa bao giờ thị phạm cho mọi người thấy, sự can đảm ở chổ dám lấy “lần duy nhất” của mình ra để chứng minh và làm thành một bài giảng vô ngôn.

Bs. PD không “giảng” giống như các Thiền Sư thời xưa đã làm, ông can đảm nói lên rằng “làm cách khác vẫn được!” và ông chứng minh cho thấy rằng người ta có thể tự tại nhập diệt trong tỉnh thức bằng một cách NGOÀI PHẬT GIÁO, theo cái mà các vị đạo mạo khinh thường cho rằng “ngoại đạo” – nhưng lại là tiền thân của Phật giáo, còn chứa các kho tàng chưa bị xóa mất. Trong thời gian cuối đời ông đã can đảm nói lên những điều khác với truyền thống Phật Giáo, rằng Thiền Định và những Chứng Đắc của Phật giáo bắt nguồn từ một nơi khác – ông có chỉ rõ ra ở đâu. Để tuyên bố chắc nịch, ông đã chứng minh cho mọi người thấy. Ai dám bảo đó là công phu ngoại đạo – ý khinh rẻ, khi mà “trong đạo” cũng chẳng có mấy ai làm được.

Ông ta đã can đảm như thế đấy! Ông ta biết Thiền và nhập Định để bỏ thân, đủ sức để tự “đi về cõi Phật” chẳng cần ai tiếp rước, nhưng đã dùng một cách hoàn toàn khác, một cách chưa có ai dám thử, để làm sáng mắt những con người kinh viện bảo thủ. Ta gọi những người dám hy sinh sự sống là can đảm, thế còn những ai dám làm chuột bạch hy sinh luôn cả cái chết và cuộc sống “cực lạc” sau khi chết – để mở một con đường mới cho thế hệ sau nghiên cứu Phật Pháp đúng đường, thì ta gọi họ là gì?

Cam đảm là tính chất của bậc Thánh, đầu hàng và sợ sệt bám víu là tánh chất của con người. Cũng trong kinh điển ghi chép rằng Đức Phật lúc thiền định dưới gốc cây Bồ Đề, khi gần đạt tới Chứng Ngộ đã phải bị Mara thử thách như thế nào. Sợ hãi là tánh chất của bản ngã, người can đảm là người đã quay lưng lại với quyền lợi của chính mình – đối đầu với bản ngã. Lúc ngồi kiết già công phu thiền định là lúc thể hiện dũng lực, cuộc chiến sinh tử với chính cái ta, cái tri giác tồn tại của mình. Thầy tôi dạy rằng, nếu chân đau thì cứ cho nó chết luôn, nếu cảm thấy sắp chết thì cứ thử chết một lần xem – vì nếu có bỏ thân trong tư thế thiền định thì chắc chắn sẽ lên cõi Trời, trên đời này chỉ có bậc Thánh mới nhập định bỏ xác trong tư thế kiết già.

Triết gia phương Tây cho rằng “tôi tư duy là tôi tồn tại”, nhưng trong thiền định thì hết tư duy vẫn còn tồn tại – cái “ta có đây”. Người đi vào thiền giống như bước vào ranh giới của cái chết, các cảm thọ nhạt nhòa dần, tri giác yếu dần cho tới khi ngắt biệt với thế giới bên ngoài – xem như chết lâm sàng. Lúc đó vẫn còn tâm và ý thức, sự sống vẫn còn yếu ớt trên hơi thở, cho tới lúc có thể trụ vào hơi thở dừng rồi ngay cả cái “ở đây bây giờ” cũng tan biến, vũ trụ quan sụp đổ, mất hẳn không gian và thời gian. Người nào can đảm dám bước qua, không có gì đảm bảo sẽ quay về được, vì đây là cái chết tối hậu, chết là mất hẳn. Bát Nhã Tâm Kinh có câu chót ngụ ý: “Đi nữa đi, can đảm lên mới qua được bờ bên kia. Qua tới đó mới trả lời được câu hỏi từ muôn thuở “ta là ai, chết là thế nào?”

Người nhút nhát sợ hãi thì không dám nghĩ tới chuyện xuống đò thì làm sao qua sông – không cách nào vào được qua đằng sau cánh cửa Thiền Định, muôn thuở vẫn là hạng chúng sinh tầm thường thấp kém – dù có ai hốt rước qua cõi nào chăng nữa – theo niềm tin. Thế mà ông HN vẫn một mực cho rằng sự can đảm chẳng có giá trị gì cả, chỉ làm đau đớn vô ích. Người khuyên đầu hàng thì sẽ được cõi dục này tuyên thưởng nhiều thêm, người dũng cảm bỏ bè bơi nốt qua sông thì sẽ không còn gì, tự do thoát khỏi cuộc đời này.

Như tôi đã từng gọi Bs. PD là một chiến binh, hơn nữa là một chiến binh rất dũng cảm. Ngày Tưởng Nhớ Chiến Sỹ cũng là ngày sinh nhật của ông, sinh thế nào thì tử thế ấy. Lời tuyên bố vô ngôn dũng cảm của Bs. PD sẽ sớm bị chìm nghĩm mất hút, hay sẽ bị bóp méo hoặc làm giảm giá trị – cho tới nay chỉ có tôi là nhai lại hai lần. Người hiểu được thì quay lơ đi không dám chấp nhận, kẻ mù mờ dễ dàng tin vào các diễn giải rằng Bs. PD cố chấp làm ra vẻ can đảm chứ có ích lợi gì đâu. Rồi người ta so sánh với các vị “chết an lành có hào quang xá lợi” thấy khoái hơn là can đảm vô ích thế kia. Chúng sinh còn nhiều lắm, đời là thế, uống lavie đi!

 

Karmalaw Net

Em cứ nghĩ rằng…

8
Featured Image: Brooke Holm

 

Em cứ nghĩ rằng một mình em đơn độc
Chỉ mình em tuyệt vọng phải không em?
Chỉ mình em lạc bước trong màn đêm
Chỉ mình em là người đau khổ nhất…

Em cứ nghĩ rằng chỉ mình em mất mát
Chỉ mình em gánh chịu những đau thương
Chỉ mình em là một người tầm thường
Chỉ mình em là người thất bại…

Em cứ nghĩ rằng một mình em chán nản
Chỉ mình em mệt mỏi đến xót xa
Chỉ mình em muốn được vỡ vụn ra
Chỉ mình em là người yếu đuối…

Nhưng em ơi, ngày nào là ngày cuối?
Ngày nào em sẽ thôi tiếc nuối đây em?
Em hãy nhìn lại cuộc đời mà xem
Chỉ vì em chưa biết cuộc đời của người khác…

Không phải chỉ mình em, em ạ
Nên xin em, em đừng nghĩ quá nhiều
Cuộc sống này, có biết bao nhiêu điều
Bao niềm vui vẫn chờ em phía trước…

Nào, em ơi, hãy lau đi giọt nước
Vì cuộc đời đâu chỉ có mình em…?

 

Một Đời Quét Rác

Đại Học ở Canada

237
Featured Image: Shadow becomes White

 

Mình mới chat với một người bạn đang du học ở đại học Toronto-Canada, sau một hồi ca cẩm thì cũng xoay quanh vấn đề học Đại Học, thấy có nhiều ý hay nên mình viết lại thành một bài gọi là để hình dung về Đại Học ở nước khác, để các bạn sinh viên Việt Nam có thể so sánh với thực trạng của mình.

1/ Điều thứ nhất là lớp học không phân chia theo lớp học mà theo môn học, và sinh viên phải tự chọn môn học sao cho phù hợp với mình. Có một số môn quá nhiều người học nên phải dạy trong “đại giảng đường “ là những lớp có “dân số“ lên tới gần 1000 người. Còn những môn quá ít người học thì nó cũng sẽ tự động “ chết yểu “ vào năm sau.

2/ Điều thứ hai là tốc độ giảng bài và thảo luận cực kỳ nhanh vì kiến thức nhiều mà ít thời gian, không sinh viên nào mà không có máy ghi âm để tối nghe lại. Nhờ sự gấp rút này mà cách tư duy và suy nghĩ, ra quyết định của tất cả mọi người đều rất nhanh.

3/ Điều thứ ba là vì tất cả môn học đều tự chọn nên sinh viên phải tự sắp xếp thời khóa biểu cho chính mình chứ không phải do nhà trường. Sinh viên còn phải tự đăng ký danh sách thi cử và gởi lại cho nhà trường, nếu chưa đủ số lượng sinh viên cho một phòng thi thì các sinh viên phải tự mời nhau tham gia cho đủ số lượng. Không có kỳ thi nào cả, chỉ cần đủ số lượng là thi, thi cử diễn ra hàng tuần, hàng tháng suốt năm học. Điều này dẫn đến việc học và thi của sinh viên: rất rảnh rỗi hoặc rất bận rộn, tùy vào bạn chứ không do ai cả.

4/ Điều thứ tư là tình trạng thi lại cũng khá phổ biến, có nghĩa là không phải môn nào cũng vượt qua dễ dàng. Sinh viên thi lại không phải đóng tiền mà phải thuyết phục người khác cùng đăng ký và ôn thi với mình để đủ số lượng người thi chung một đợt. Bạn bè ở Đại Học rất quan trọng vì cần có nhau mới “sống sót“ được!

5/ Điều thứ năm là mỗi sinh viên đều bắt buộc phải là thành viên của một Collecge, tạm dịch là học xá, kiểu như dạng câu lạc bộ nhưng lớn hơn và bài bản hơn rất nhiều. Đại học Toronto chia làm 7 học xá chính theo nhóm ngành nghề, mỗi học xá do chính sinh viên tổ chức vận hành theo quy chế bầu cử dân chủ và thông qua đại hội học xá hàng năm mà tất cả thành viên sẽ quyết định những hoạt động trong năm sẽ diễn ra thế nào. Học xá của bạn mình đang tham gia có đồng phục riêng, tự thuê văn phòng làm trụ sở riêng bên ngoài trường, mỗi tuần tối thứ 4 đều có tiệc truyền thống mà mọi người ăn uống và làm quen nhau. Làm quen và kết bạn ở Đại Học thông qua các học xá là điều rất dễ dàng, chỉ cần nhìn đồng phục mà tìm bạn để thi lại, hoặc trao đổi kiến thức.

6/ Sinh viên quan hệ với nhà trường thông qua hội sinh viên. Từ hội này mà giới sinh viên hình thành một tầng lớp gọi là những lãnh đạo sinh viên. Tầng lớp này chính là bộ khung cốt lõi tạo ra trường Đại Học chứ không phải nhà trường.

Họ quan hệ tốt với nhà trường và các giáo sư, họ quyết định danh sách diễn giả khách mời hội thảo của trường, họ quyết định triển lãm nào sẽ diễn ra, nên tổ chức tham quan ở đâu, họ thuê các đơn vị xe bus đưa đón sinh viên hàng ngày, họ tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các doanh nghiệp cho sinh viên, họ là người kết nối đề tài khoa học cần nghiên cứu và sẽ giúp sinh viên đấu giá ý tưởng đó cho doanh nghiệp nào cần mua ý tưởng. Họ tổ chức tất cả việc thực tập của sinh viên cho những doanh nghiệp nào có nhu cầu cần người thực tập.

Họ vận hành một quỹ rất lớn do các sinh viên thế hệ trước đã kinh doanh và để lại số tiền đó. Thế hệ sau có trách nhiệm phải làm cho nó sinh lời ra nhằm phục vụ sinh viên ,tất cả mọi vấn đề dính tới sinh viên đều có mặt họ. Thậm chí họ còn quyết định món ăn nào sẽ có trong căn tin. Tóm lại là nhà trường chỉ thu học phí để trả tiền cơ sở vật chất trường lớp và trả lương giáo viên, ngoài ra thì nhà trường không còn chức năng nào khác về mặt tài chính.

Để trở thành một sinh viên lãnh đạo thì bạn phải ứng cử vào đầu năm và tập hợp một nhóm nhằm vận động tranh cử, tất nhiên là thành tích của bạn cũng phải đáng nể, đặc biệt là thành tích ngoại khóa! Lợi ích khi được trúng cử vào làm lãnh đạo sinh viên thì không sao kể hết được mà quyền lợi đầu tiên chính là bạn sẽ nhận mức lương khá cao do hội chi trả. Quyền lực của sinh viên làm chủ tịch hội sinh viên rất lớn chứ không hữu danh vô thực như ở Việt Nam. Hội sinh viên được tổ chức gần như một doanh nghiệp lớn nhằm vận hành giáo dục,có kế toán thu chi và báo cáo kiểm toán công khai hàng năm.Quỹ hội sinh viên rất lớn nhưng được miễn thuế, chỉ có nhà trường mới phải đóng thuế tính trên học phí đã thu.

7/ Bạn mình đang là nghiên cứu sinh ngành tài chính quốc tế, một ngành rất đáng phải du học, nếu có điều kiện. Và thực tế là khối lượng bài vở cũng chất cao như núi chứ không thoải mái gì, nhưng sự khổ sở này là do chính sinh viên đã lựa chọn chứ không phải bị ai ép phải làm như vậy, nên ý thức phải học tập nó cao hơn. Sinh viên ở Toronto có nghĩa là tự nguyện, bạn phải là người hoàn toàn tự nguyện thì mới là sinh viên được. Nhà trường chỉ đóng vai trò thứ yếu chứ không quan trọng như Việt Nam.

Mình cũng hay nghe báo chí vẫn hô hào cách học mới là lấy sinh viên làm trung tâm, nhưng chỉ khi chat với bạn đang du học thì mới thấy ở nước ngoài họ đã lấy sinh viên làm trung tâm triệt để đến mức độ nào. Họ trao cả quyền vận hành trường học cho sinh viên. Tuy nhiên, theo mình nghĩ thì trước hết sinh viên cũng phải vô cùng năng động và có năng lực hơn cả nhà trường, thì việc trao quyền đó mới xảy ra!

Than ôi, Việt Nam bao giờ tổ chức được thế này đây, các bạn có ý tưởng gì không?

 

Nguyễn Duy Lập