14.8 C
Da Lat
Chủ Nhật, 28 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 170

Người trẻ và lối đi riêng cho cuộc đời

Featured image: Andy Fillmore

 

“Mỗi một phút bạn đau khổ là bạn đang đánh mất đi 60 giây để sống hạnh phúc. Mỗi giờ mỗi phút mỗi giây dù làm gì, bạn cũng đều có một sự lựa chọn.”

Cùng một lượng thời gian, bạn đầu tư cho điểm mạnh thì khả năng tạo ra sự khác biệt sẽ lớn hơn là khắc phục điểm yếu. Ý nghĩa của việc khắc phục điểm yếu có lẽ chỉ giúp bạn rèn luyện và vượt qua giới hạn bản thân. Còn không, điều quan trọng là bạn phải tìm ra được điểm mạnh của mình để phát triển nó. Einstein từng nói “Tất cả mọi người đều là thiên tài, nhưng nếu như đánh giá khả năng leo cây của một con cá thì cả đời nó sẽ mãi mãi nghĩ rằng nó là kẻ ngu ngốc.”

Thế nhưng thực tế thì ở trường học, giáo dục thường đánh giá con người dựa trên yếu tố kết quả học tập. Vậy những người có điểm số thấp thì sao? Liệu có nghĩa là họ dốt? Liệu có nghĩa là họ kém? Liệu có nghĩa là họ không thành công? Bộ giáo dục cho thi chung một kì thi quốc gia, nhưng hệ thống trường đại học vẫn còn đó, tức là các em khóa sau, các em sẽ vật lộn vất vả, chiến đấu với học và thi, nhưng thực chất thì trường đại học đâu có đập đi, vào đại học, các em lại vẫn bắt đầu một hệ giáo dục cũ. Thế nên mọi thứ vẫn sẽ chỉ là bắt đầu, thế hệ học sinh cuối cấp, các em có chắc là sẽ chọn đúng trường? Có chắc là sẽ đi được theo thế mạnh? Có chắc là hiểu bản thân và xác định được ước mơ? Hay chăng lại là vòng luẩn quẩn xả hơi sau khi thi đại học, rồi bắt đầu vòng lặp lãng phí thời gian và loanh quanh trong “cái bẫy” của tâm trí khi không xác định được một con đường?

Con người ta, họ đặt ra những con đường mặc định, rồi đặt niềm tin vào đó. Nhưng thật kì lạ, họ vịn vào đó mà bắt thế hệ sau cũng phải tin theo và đi theo. Chẳng hạn phải được điểm cao trong học tập, bằng mọi giá phải đỗ vào đại học. Thế nhưng, điều quan trọng trong quãng thời gian của tuổi trẻ là việc chúng ta sống như thế nào, chứ đâu phải là chúng ta sẽ trở thành ai. Trước khi xây dựng năng lực làm việc, phải học cách xây dựng năng lực làm người, tức nền tảng văn hóa. Bởi vì nếu không có nền tảng văn hóa, khác gì ngôi nhà không có móng, lên cao sớm muộn rồi cũng đổ vỡ.

Có lần mình nghe được câu này “Bi kịch lớn nhất của đàn ông Việt là không biết và không thể làm người bình thường.” Ôi sao mà hay đến thế, thâm thúy đến thế. Người đàn ông bình thường, sống thanh thản, sống trong sạch, biết yêu thương, như thế là bản lĩnh lắm rồi. Còn có tài nhưng thiếu đi cái văn hóa, ôi, cứ chạy theo cái ham muốn của tham, sân, si, lúc lên cao rồi thì ngã cũng đau lắm. Có nhất thiết cứ phải quyền lực cao sang, nhà lầu xe hơi là đẳng cấp đâu. Chính những cái nho nhỏ như dành thời gian nấu bữa tối cho gia đình, ấy mới là bản lĩnh. Vậy nên nhìn những người bình thường, rất đời, rất người, vô tư lự, họ hăng say và đón nhận cái hạnh phúc của lao động, nỗ lực cho đi, ấy thế mà hạnh phúc vô cùng.

Quyền lực là thứ trao tay, đến rồi đi. Nhan sắc là thứ chóng tàn, chả mấy chốc cũng mất, và cuộc đời cũng hợp rồi tan, không tránh khỏi cái quy luật tự nhiên, ấy thế nên làm sao con người ta tìm được cái hạnh phúc và bình an nơi tâm hồn, đó mới là đỉnh cao của hạnh phúc. Để có được điều ấy, có lẽ chỉ có một cách là sống cuộc sống của riêng mình, tại sao lại phải sống vào cái định kiến và niềm tin của xã hội, tại sao lại phải lựa chọn những lựa chọn vốn dĩ là của xã hội, không phải của mình. Tại sao lại phải chạy theo cuộc đua leo cây của loài khỉ, loài vượn trong khi mình là cá? Tại sao không lắng nghe tiếng nói của trái tim? Tại sao không dành thời gian mỗi ngày để làm những điều thực sự ý nghĩa và tìm ra một lối đi riêng cho bản thân mình.

Tư duy lớn, nghĩ việc lớn, nhưng không có nghĩa là không làm những việc nhỏ. Ước mơ xa, chặng đường dài không có nghĩa là không làm tốt những điều ngay trong hiện tại. Nhưng dẫu gì thì cũng vẫn phải là sống cuộc sống của riêng bản thân mình, phải tìm một lối đi riêng để khẳng định bản thân mình.

“Mỗi một phút bạn đau khổ là bạn đang đánh mất đi 60 giây để sống hạnh phúc. Mỗi giờ mỗi phút mỗi giây dù làm gì, bạn cũng đều có một sự lựa chọn.”

Freelancer – Công việc làm nên một tuổi trẻ đầy ý nghĩa

Featured image: Comicbook.com

Tôi nhớ trong một tác phẩm nào đó của nhà văn Phan Việt có đoạn: “Nếu có một thời điểm nào đó trong cuộc sống, mà chúng ta cần phải và nên bị dúi xuống bùn lầy tăm tối, tốt nhất hãy chọn lúc 18 – 25 tuổi, lúc mà bạn có cả sức khỏe lẫn sự dẻo dai, cả hưng phấn lẫn thất vọng, cả niềm tin sắt đá lẫn sự ngoan cố mù quáng, cả sự hiểu biết bằng bản năng và trực giác chưa bị pha tạp lẫn sự tăm tối vì mơ hồ nhận thấy những lực cản của xã hội. Nghĩa là có tất cả mà lại chẳng có gì vững chắc.”

Tôi 20 và tôi chọn xây dựng cho mình một ước mơ người trẻ. Đã là một người trẻ thì chặng hành trình vào đời chắc chắn sẽ vấp phải những chông gai, những đau khổ… nhưng bạn phải vượt qua chính những khó khăn đó để có thể trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn.

Một vài người bạn của tôi nói rằng: “Sau khi tốt nghiệp đại học, tao muốn đi làm nhưng ở đâu cũng cần kinh nghiệm. Ai cho tao kinh nghiệm?” Có một sự thật là trong lớp người trẻ rất nhiều người nói thế. Ai cho bạn kinh nghiệm? Nếu không phải là chính bạn. Vậy làm cách nào để có được kinh nghiệm trong ngành hay nghề bạn yêu thích.

Freelancer chính là một trong những câu trả lời

Bạn thiếu thời gian?

Bạn thiếu những bằng cấp cần thiết để có thể xin một công việc cụ thể?

Và bạn đang cần trải nghiệm để có kinh nghiệm?

Freelancer được gọi để chỉ những người làm việc độc lập và tự do. Họ cung cấp những dịch vụ có phí nhưng không yêu cầu những ràng buộc nào với bên sử dụng dịch vụ.

Freelancer là những ông chủ của chính mình và là người làm những công việc mà họ yêu thích.

Freelancer họ có thể làm gì?

Theo kinh nghiệm của tôi, thì hiện tại không có một ngành nghề nào là không có freelancer. Những freelancer họ có thể là tất tần tật mọi việc như: thiết kế web, lập trình di dộng, copywriter, coach, kế toán, chăm sóc sức khỏe…

Vậy làm thế nào để trở thành một Freelancer?

Bạn phải là một chuyên gia trong lĩnh vực bản chọn.

Để có thể trở thành một freelancer “lành nghề” thì bạn phải thật sự giỏi lĩnh vực của bạn. Bạn phải làm tốt nhất các công việc mà đối tác giao cho bạn một cách nhanh nhất và chất lượng nhất. Bạn phải sở hữu trong mình khả năng làm nhiều việc (multitasking) vì những việc mà đối tác giao cho bạn không hề đơn giản. Như bạn được giao là một website thì bạn phải biết lập trình, thiết kế đồ họa…..thậm chí bạn còn phải quảng cáo chính website đó.

Bạn phải có khả năng chịu áp lực cao

Thật sự Freelancer là một công việc đòi hỏi một thái độ làm việc và tinh thần trách nhiệm với công việc đó cực kì cao. Một dự án, một sản phẩm bạn tạo ra phải là tốt nhất và nhanh nhất để có thể giao hàng kịp với deadline mà đối tác giao cho.

Bạn phải tạo ra sự khác biệt

Để giỏi hơn người khác, bạn sẽ làm gì? Nhiều người cho rằng phải là tốt hơn người khác. Song, để giỏi hơn người khác bạn phải khác biệt họ. Vì người giỏi có người giỏi hơn, nhưng trong những người giỏi, sự khác biệt sẽ tạo giá trị và định vị bạn đang ở đâu trong hàng nghìn người cùng làm một công việc như bạn.

Bạn phải liên tục học hỏi để có thể giỏi hơn

“Sự học như con thuyền ngược nước, không tiến ắt sẽ lùi.” Có một vĩ nhân nào đó đã nói thế. Freelance cũng vậy, bạn phải liên tục trau dồi bản thân để có thể giỏi hơn. Bạn phải giỏi hơn để có thể đảm nhiệm những công việc khó hơn và nâng cao chất lượng sản phẩm mà mình tạo ra. Bạn phải tinh tế và bắt đầu từ những việc nhỏ nhất. Triết lí Kaizen của Nhật Bản nói rằng “Khi bạn làm những việc nhỏ một cách tốt nhất, bạn sẽ gặt được những kết quả thật sự to lớn”.

Bạn phải thật tỉnh táo

Trong nghề Freelancer có rất nhiều góc tối. Có những lần đối tác bạn “hủy hợp đồng” mà không báo trước, gửi tiền trể và thậm chí là không gửi……. Bạn hãy bình tĩnh và tìm cách giải quyết. Bạn hãy tìm những nơi uy tín và có hợp đồng để tránh lép vế trước pháp luật. Bạn cũng nên dùng đến các dịch vụ của ngân hàng và thỏa thuận về tài chính trước khi chấp nhận làm.

“Nếu có một thời điểm nào đó trong cuộc sống, mà chúng ta cần phải và nên bị dúi xuống bùn lầy tăm tối, tốt nhất hãy chọn lúc 18 – 25 tuổi, lúc mà bạn có cả sức khỏe lẫn sự dẻo dai, cả hưng phấn lẫn thất vọng, cả niềm tin sắt đá lẫn sự ngoan cố mù quáng, cả sự hiểu biết bằng bản năng và trực giác chưa bị pha tạp lẫn sự tăm tối vì mơ hồ nhận thấy những lực cản của xã hội. Nghĩa là có tất cả mà lại chẳng có gì vững chắc.”

Dù tuổi trẻ có những khó khăn, freelancer có những cám dỗ và mặt trái. Nhưng đã là tuổi trẻ thì hãy dám sống và trải nghiệm. Hãy sống và viết lên những trang viết của tuổi trẻ của bạn là “Yes! I did it!”

 

Lê Trường An

 

Sinh viên toàn cầu — Cá mè một lứa

Featured image: TnB

 

Trong diễn đàn kinh tế thế giới 2012, một thuật ngữ từng được dùng trong thời kì thế chiến thứ nhất được dùng lại cho một thế hệ đã mất trong thời kì gần đây,  The Lost Generation. Theo số liệu thống kê thì ở Anh hiện có khoảng 1 triệu người thất nghiệp. Ở Tây Ban Nha có 20% người thất nghiệp và 40% trong số đó là thanh niên. Và tại Việt Nam, con số cử nhân thất nghiệp lao vào khoảng 162.000 người. Vậy tại sao số người thất nghiệp lại cao đến thế?

Khủng hoảng kinh tế

Một số người cho rằng, khủng hoảng kinh tế là nguyên nhân gây nên tình trạng thiếu việc làm trầm trọng hiện nay trên toàn thế giới. Song, đó thật sự không phải là một câu trả lời toàn diện. Theo ông Paul Hưng Nguyễn, tổng giám đốc mạng việc làm CareerBuilder thì hiện tại các công ty đang thật sự “khát nhân viên”, đặc biệt là các nhân viên có năng lực làm việc và đảm nhiệm các vị trí cấp trung trong công ty. Vậy đâu là vấn đề chính?

Thiếu kỹ năng làm việc

Trong diễn đàn kinh tế thế giới, các lãnh đạo hàng đầu đã phải thừa nhận là thanh niên châu âu đang thiếu kỹ năng làm việc. Như những phần mềm, các công cụ đơn giản thanh niên châu Âu hiện tại không biết làm. Do một thời gian quá dài họ đã đẩy các công việc gia công này cho Ấn độ, Trung quốc và Việt Nam…

Sinh viên Việt Nam có cái mà thanh niên Châu Âu đang thiếu

Nói thanh niên châu Âu thiếu kĩ năng làm việc đúng nhưng vẫn chưa đủ. Thanh niên châu Âu có đầy đủ các kỹ năng mềm, kỹ năng cứng để làm việc cho các công ty, tập đoàn lớn. Song, cái mà họ đang thiếu đó chính là Tinh Thần Khởi Nghiệp và họ đang thừa sự Tự Tôn.

Đối với thanh niên châu Âu, các công việc như code, may mặc, mài giũa,… chỉ là các công việc hạng bét và không xứng đáng để họ làm. Trong khi đó, các công việc này đang tạo ra nguồn thu nhập để cứu một lượng người khổng lồ trên thế giới vượt qua đợt khủng hoảng toàn cầu này. Các chính phủ châu Âu nói rằng “phải mang các công việc nhỏ ấy về vì hiện tại tình trạng thiếu việc làm quá khủng khiếp rồi”. Song, rất khó để có thể mang các công việc đó về vì “tư duy hưởng lạc” bên trong họ quá cao và thật sự họ đang thiếu các kỹ năng để làm chúng.

Người châu Âu đang thiếu tinh thần khởi nghiệp

Theo thống kê trong diễn đàn kinh tế thế giới, 40% thanh niên châu âu thiếu việc làm và 60% thanh niên Pháp ra trường là ra đi với thất nghiệp. Ở Việt Nam cũng thế, hàng loạt sinh viên thiếu việc làm. Song, cái đáng nói là ở Việt Nam, những sinh viên thất nghiệp thì họ đã tự khởi nghiệp từ những công việc nhỏ từ thời sinh viên như Handmade, mở công ty riêng, freelance……. Như Nguyễn Hà Đông người làm dạy bão toàn cầu với game Flappy Bird, hay Bùi Thị Phương chủ một nhà hàng và các trung tâm Anh ngữ.

Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu việc làm trầm trọng trên toàn cầu?

Câu trả lời trong diễn đàn kinh tế thế giới đó chính là “Giáo dục truyền thụ”. Mấy trăm năm qua, nền giáo dục truyền thụ đã ăn sâu vào tinh thần của người dân trên toàn thế giới. Mối quan hệ học tập chỉ diễn ra giữa thầy và trò. Vô hình chung, chúng ta đang tự giới hạn kiến thức của mình qua một “ông thầy” như lượng kiến thức của thế giới truyền vào chúng ta qua một cái phễu với tấm lọc là một ông thầy. Trong thời đại công nghệ như hiện nay, kiến thức là vô tận với công cụ Google đang làm phai nhạt đi vai trò của một người thầy thực sự. Lượng kiến thức khổng lồ ấy phải được tự thân chúng ta lĩnh hội và phát triển. Trong bộ phim Kungfu Panda vào những phút cuối phim sư phụ nói với Panda rằng “Con đã đủ khả năng để xuống núi, nhưng ta muốn nói với con rằng con làm gì thì đừng nói tên sư phụ ra.”

Có một sự thật ra, nền giáo dục truyền thụ đang bóp chết sức sáng tạo của người học. Chính lối giáo dục truyền thụ đã dần dần làm hạn chế tiềm năng con người. Vì chỉ có 10% người học bằng với thầy của mình và 90% người học còn lại có sức thấp hơn thầy của mình. Và sẽ có rất nhiều người trong 90% ấy tiếp tục đi làm thầy. Vậy đâu là lời giải cho “The Next Generation”?

Giáo dục kiến tạo là câu trả lời

Một học thuyết giáo dục mới dựa trên một kết quả nghiên cứu của nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Jean Piaget về mô hình phát triển trí thông minh của trẻ em từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành. Từ mô hình này, việc hình thành và tích luỹ tri thức của trẻ con là nguyên lý cơ bản để xây dựng các học thuyết về phương pháp học tập của con người. Theo mô hình này, Jean Piaget đã thay đổi căn bản quan niệm về sự học của đứa trẻ. Ông được coi là nhà tâm lý học nhận thức đã sáng lập lý thuyết “kiến tạo” (constructivism) trong giáo dục. Thuyết này gắn bó sự phát triển trí khôn của chủ thể với sự trưởng thành tự nhiên về mặt sinh học của chính chủ thể đó.

Ngay từ sơ sinh, chủ thể đã tự học, mà cách thức tự học chính là những phản xạ. Cách “học tập” tự nhiên ban đầu đó được Piaget đặt tên là trình độ trí khôn cảm giác-vận động trước khi trở thành trí khôn tiền-thao tác, trí khôn thao tác cụ thể và trí khôn trừu tượng. Các “kiến thức” được phát triển ở con người khi thông tin mới đi vào tiếp xúc với kiến thức đã có trong con người nhờ những kinh nghiệm trước đó và đã được “xây dựng” trong những cấu trúc tư duy. Vậy kiến thức là cái được sáng tạo trong quá trình chủ thể khám phá thế giới. Đứa trẻ tự tạo nên kiến thức có nghĩa là làm nên thế giới của chính mình từ kinh nghiệm, thay đổi nó từ chỗ hỗn loạn đến chỗ có tổ chức. Và theo cách đó, Piaget tin rằng một người thầy chủ yếu là người tạo điều kiện thuận lợi, quan sát và hướng dẫn học sinh xây dựng nên kiến thức của chính chúng, hơn là người truyền thụ kiến thức.

Theo đó, thuyết Constructivism bao gồm các thành tố Aspiration (sự yêu thích, mong muốn), Individual – Seeking knowledge (tư duy độc lập với việc tự nghiên cứu và tìm ra những kiến thức mới), Team (có tranh luận).

Một số kinh nghiệm áp dụng mô hình Giáo dục kiến tạo ở các nước như Israel, Nhật Bản cho thấy, mô hình này có khả năng khai phá tiềm năng của con người và thúc đẩy sức sáng tạo. Áp dụng công nghệ thông tin vào giáo dục, các em học sinh được thực hành giải toán trên máy tính bảng. Trong 20 giờ đầu tiên, có một em giải được toàn bộ các bài toán. Và 3 tháng sau chỉ 1 em không giải được. Ở Việt Nam cũng thế, song chúng ta đang làm một việc đó là ép những người giỏi phải chờ một người kém phát triển kia.

Giáo dục kiến tạo là một nền giáo dục cá thể dựa trên tập thể. Các hình thức đước áp dụng trong giáo dục kiến tạo như phương pháp giáo dục tích hợp (Blended Learning), học theo mô hình đội nhóm, Project base Learning, Discovery Learning…….sẽ giúp người học chủ động thu nhận kiến thức và áp dụng một cách triệt để vào công việc và cuộc sống. Chúng ta sẽ loại bỏ hoàn toàn việc đánh giá việc học của người học qua những con điểm vô hồn và việc giảng dạy của giáo viên qua các tiết dự giờ. Giáo dục kiến tạo sẽ đánh giá người học và người dạy qua chặng đường mà họ thu lượm kiến thức và vai trò của người thầy sẽ được chuyển từ người “thầy” sang “người truyền lửa”.

Giáo dục kiến tạo được tóm gọn trong một mô hình của TS. Phan Phương Đạt – Phó Hiệu trưởng ĐH FPT đó là “Làm-Nghiệm-Ngộ-Dụng”. Giáo dục kiến tạo là trách nhiệm thực học và tự học của mỗi người. Đừng quá trong chờ vào nhà trường “dọn sẵn” tiệc cho bạn, hãy tự “nấu” và thưởng thức nó. Việc có trở thành một “thế hệ tiếp nối” hay không là ở chính lớp người trẻ chúng ta.

Lê Trường An

*Bài viết có sử dụng tư liệu của fpt.edu.vn và diễn đàn kinh tế thế giới 2012

 

Gã, 22 tuổi, tốt nghiệp đại học

Featured image: Sandara

 

Phải nói thế nào về gã? Một kẻ suy tư, hẳn là bạn bè nào của gã cũng miêu tả về gã như vậy nếu chỉ trong 5 từ miêu tả về gã. Một kẻ thất thường – gã hay tự nhận là như vậy.

Hiện trạng của gã, lại rơi vào một mô thức chung của những tay cựu sinh – những cử nhân đại học vừa bị cuộc sống kéo ra khỏi thời kì bao cấp, mà cũng đúng thôi, 22 tuổi, tay nào chả vậy. Duy có một điểm gã khác phần đông những kẻ 22 còn lại, là suy tư và trăn trở của gã. Ngay từ những năm cuối cấp trung học phổ thông, trong khi bạn bè hoặc do định hướng gia đình, hoặc nhắm mắt đưa chân, hoặc ghi tên trường vì thích thì gã đã có những toan tính cho đời gã, vậy mà giờ gã lại thấy chơi vơi – một chiến lược chơi vơi.

Những năm đại học, trong khi bạn bè hoặc là hùng hục lao vào cày cuốc như trâu mộng (dù là game hay giáo trình, ngoại ngữ) vì mới thoát khỏi lao tù quản chế trung học, thì gã cứ có một vẻ thong dong nhẩn nha, khi gã học chỗ này một tí, khi thì làm chỗ kia một tẹo. Gã cũng học, cũng chơi, nhưng ai đứng hoàn toàn ngoài những cuộc ấy, thì mới thực thấy gã chẳng trọng, chẳng thú với cuộc nào, mà đúng là gã cũng không bao giờ bị cuốn theo những thứ ấy.

Có những năm, những kỳ của tuổi trẻ, người ta nhao nhao xách xe chạy lên rừng, lao xuống biển, hùng hục chạy ngược đâm xuôi, kỳ nào nở hoa gì, mùa cỏ gì, ba cực bốn đỉnh đèo là nhất định phải đến, phải qua, phải có vài dòng caption cộng thêm với cái mặt cười toe, hoặc 2 ngón tạo hình chữ vê, hoặc giơ cả hai tay thành biểu tượng của Yahoo tím mơ tím mộng ngày xưa.

Gã lầm lũi, có đi, có đến, có ngắm nhìn núi non và hít sương đêm, nhưng là dáng đi của một con thú lạc bầy. Chẳng hiểu sao, gã lại thấy thoải mái với việc đó – cái việc lạc bầy đó. Xuống biển, về rừng đều làm gã thấy thoải mái hơn cái không khí ngột ngạt chen chúc của thành phố; nhưng rồi chẳng bao lâu, gã lại thấy nhớ người, thậm chí là nhớ da diết như tay kĩ sư khí tượng của Lặng Lẽ Sa Pa, gã nghĩ gã cũng thèm đến độ lăn cây ra giữa đường mà kiếm người mất. Gã cũng hiểu thứ cảm xúc thất thường và chông chênh của mình, nên độ nào thấy cuồng chân nhớ rừng là gã đi, nhưng dăm bẩy ngày gã lại về phố ngay chứ không ở lâu, gã biết mình không chịu được. Lẽ tất nhiên là thế.

Ấy, là thứ cảm xúc chông chênh và dễ bị đẩy về một thái cực như vậy, nó giải thích cho cái sự vui vẻ vô cùng của gã khi ở giữa đồng bạn mà có thể ngay lập tức chìm sâu vào thinh lặng một vài giờ sau đó. Gã – một cách không tưởng nhất – thường được đồng bạn nhìn nhận như là một kẻ hài hước có khiếu, thậm chí ở những nhóm bạn nhỏ gần gũi, gã là tay đưa trò, làm chuyện và dẫn dắt tiếng cười cả nhóm.

Nhưng cũng chính gã – trong chính những suy nghĩ xác tín nhất của gã – là một tay cực kỳ nghiêm nghị và luôn soi vào những thứ giá trị trừu tượng to lớn mà thường những kẻ đồng niên tặc lưỡi bỏ qua, những suy tưởng mà gã thường kiếm tìm câu trả lời trong suốt khoảng thời gian dài, như là, ý nghĩa của cuộc sống, tình bạn chân chính, tình yêu đích thực, về cơ bản là ý nghĩa của mọi hành động và suy nghĩ mà bạn bè gã đang làm.

Gã đích thực là kẻ lao đầu vào những câu hỏi hóc búa đầy khí chất của một bậc trượng phi thường thấy trong phim cổ trang kiếm hiệp. Hiếm ai có thể hoàn toàn tin tưởng vào những tính cách này lại có thể tồn tại trong cùng một con người, một gã trai 22.

Ấy, cũng dễ hiểu khi anh em bạn bè, rất nhiều người bằng tuổi, thậm chí hơn tuổi gọi gã là anh. Những tay 22 biết gã từ lâu thì vì những sự suy tư về cuộc sống, cách nói trầm tĩnh và mang góc nhìn từng trải của gã mà gọi gã là anh. Còn những tay 22 mới quen gã, thì vì cái điệu bộ và độ nhăn của da mặt gã cũng rất hợp với cái lối suy tư thủng thẳng mà chiêm nghiệm của gã, nên cũng gọi gã là anh nốt.

Còn chính gã, cũng thấy bọn đồng trang cùng lứa kia, rặt một màu non và xanh. Vậy là gã đang tự phụ và có nghĩa là đang hành động như một kẻ non và xanh; hay gã đúng là đang thấu lũ kia dưới ánh nhìn của một kẻ thường được tôn làm trưởng bối. Đây đúng là một thứ lập luận tự vấn gã vẫn thường dùng để làm tiêu hao năng lượng của bộ não.

Gã đúng là một kẻ mang lại những cảm nhận đối lập hoàn toàn cho tất cả những người từng quen biết gã đủ lâu và đủ sâu; những cảm nhận đó thật quá thường tình, vì chính bản thân gã, rất nhiều khi còn sửng sốt trước những thứ cảm xúc đối lập nảy sinh trong gã suốt rất nhiều năm qua, năm nay, gã vừa tròn 22.

Quay lại cái bẫy chung của những tay 22 mà, giống như đồng bạn, gã cũng đã rơi vào. Cái bẫy tốt nghiệp đại học. Người ta thường nhìn nhận việc học đại học – phần lớn phải sống xa nhà, tiếp xúc nhiều thứ mới mẻ, môi trường khác lạ là một thứ nguy cơ tiềm ẩn rủi ro – là một thứ cạm bẫy ẩn mình.

Còn gã, thì, và đương nhiên là, với tư duy của mình nhận thấy cái bẫy sập lớn vô hình lao đến mỗi kẻ 22. Mà để mô tả hình dạng của cái bẫy này thì nó giống hoàn hảo với hình một chiếc quan tài – bất kỳ chiếc quan tài nào mà người ta thấy hay ấn tượng về.

Từng ngày, cái thứ bẫy quan tài vô hình này lại dịch đến gần những con cừu 22 vừa mới bị – cũng chính là thời gian – lôi xềnh xệch từ vòng rào chăn dắt của trường đại học, quăng ra vùng không gian vô định được gọi là trường đời. Thật vậy, chẳng phải người ta vẫn thường trích dẫn từ một ông nào đó “Hầu hết người ta chết khi 25 tuổi, nhưng khi 75 tuổi mới được chôn” hay sao? Tầm phào, chúng chết từ khi 22 rồi.

Vậy là, gã, với cái kiểu suy tư lập dị của mình, gã thấy rõ mồn một cái thứ quan tài mà chẳng cần gã nhón thêm bước nào, thời gian sẽ lôi tụt gã vào đó. Vậy nên, gần đây gã cứ có một thứ tâm trạng chết tiệt, một kiểu cảm xúc mà hẳn là người già gần đất xa trời, thấy tử thần đã lởn vởn dạo quanh sẽ đồng cảm với gã nhất khi này.

Gã, do đã tri thấu những căn bệnh tuổi trẻ được sắp đặt từ cuộc sống – giống như người già biết được bệnh tật của mình – đã chạy vạy đi vái tứ phương. Gã làm nhiều thứ, khá nhiều so với những kẻ chỉ biết rong chơi, những cuộc thi, khóa đào tạo, huấn luyện gã cũng đã nghĩ mình kinh qua đủ. Gã chơi nhiều nhóm, khá nhiều so với những con mọt sách, những hội nhóm, trại hè gã góp mặt cũng không ít. Gã đi nhiều và trải nghiệm nhiều, không thể gọi là dân phượt, nhưng quả là gã đã đi, đến và trải những chốn hoang sơ trên đất này. Gã cũng làm, có những khi làm mải miết, kiếm được, kiếm đủ trang trải cho cuộc dạo chơi lững thững của gã trong lúc gã – cũng như đồng bạn – học đại. Giờ gã đã bước qua lằn ranh Tốt nghiệp, gã hoang mang…

Gã chưa thực lòng đọc Sống mòn, nhưng đại ý của chuyện thì gã biết, mà cái tên của chuyện cũng đã hoàn thiện ý nghĩa mà hiện trạng của gã đang va phải lúc này. Gã thậm chí còn tưởng tượng thấy mình đã nằm trong cái quan tài vô hình kia, còn cái nắp chỉ chực chờ gã hoàn toàn mất ý chí là đổ sập xuống.

Gã hoang mang về định mệnh cuộc đời gã, trong khi bạn bè thì lo hết chứng chỉ nọ lại canh dè công ty đơn vị mở hòm thư mà lao vào dúi ngay cái CV. Loay hoay cả bốn năm gã chưa tìm ra cái thứ ý nghĩa cuộc đời, tình yêu của gã. Vậy đấy, 22 thực là một con số cực kì khó chịu và nên được gọi là số tử thần, chứ không phải là con số 13. Gã cứ như vậy, ngồi lặng lẽ nhìn lưỡi hái thời gian chuẩn bị cắt đứt “nhiệt huyết”, “ tuổi trẻ”, “tinh thần” khỏi mình để biến gã thành một cái thây ma di động đợi đến ngày 75 tuổi để hạ thổ.

Là vì gã chưa sống đủ sâu? Là vì gã chưa yêu đủ say? Hiện tại, gã chỉ có thể đổ lỗi cho mình như vậy.

 

 

Em có mệt không em? (Phần 2)

Featured image: A Dose Of Words by The Noisy Plume

 

Em có mệt không em?
Khi em cứ phải gồng mình lên mà tỏ ra mạnh mẽ
Tại sao em phải tự hành hạ mình như thế
Em thậm chí còn không thể tự thương lấy bản thân mình…

Em có mệt lắm không khi em đang cố gắng từ bỏ chính mình
Em chạy theo những hình tượng mà người đời mong muốn
Em cố gắng vì mọi người muốn em như vậy
Thế còn em, em thật sự muốn cuộc sống thế nào?

Em có mệt lắm không khi em cứ mãi mãi ước ao
Ước được bằng người, sống như người ta sống
Còn cuộc sống của em thì em coi như vô nghĩa
Như vậy liệu có đáng không em?

Có một điều tôi muốn nói với em
Mỗi chúng ta đều là một thế giới riêng biệt
Không có ai phải cố gắng để “được như ai” hết
Nên em hãy sống đúng là bản thân mình!

Em buồn thì cứ khóc, mà em vui thì hãy cười
Nếu em sợ thì em hãy la hét
Đừng cố gắng tỏ ra em không hề mỏi mệt
Vì như vậy, sẽ càng mệt mỏi hơn…

Một Đời Quét Rác

Quan chức Việt Nam – Vừa ăn cắp vừa la làng

Featured image: Transparency International

 

Ở nước ta, để thông hành và xuôi chèo mát mái mọi việc thì mọi công dân đều phải “làm luật”. Đó là luật “bôi trơn” dù không chính thống nhưng sự thật đã được ngầm định như vậy. Bất cứ ai khi đụng đến các vấn đề pháp lý và quyền lợi, nếu không có quan hệ hoặc ông bà nào đó chống lưng thì phải làm luật tất.  Đó là lý do vì sao tổ chức Minh bạch quốc tế Trace International, (một cơ quan nghiên cứu và theo dõi nạn hối lộ) chấm điểm Việt Nam đứng hạng 188/197 với 82/100 điểm, thuộc nhóm 10 quốc gia tham nhũng nhất thế giới. Văn hoá “lại quả” và quan liêu đã ăn sâu vào từng cơ quan cũng như cá nhân con người Việt Nam. Kể cả cơ quan phòng chống tham nhũng. Nói cách khác là chúng ta nuôi “mèo” để bắt “chuột” nhưng chính Chuột lại mở đường cho Mèo chạy và quay trở lại ăn vụng.

Bản thân tôi cũng từng là nạn nhân và tác nhân của tham nhũng. Thỉnh thoảng được dự các bữa tiệc đi tết các sếp hoặc phải mất phí bôi trơn khi muốn làm giấy tờ thủ tục hay ký một hợp đồng kinh tế nào đó hoặc nhiều khi chỉ là để “bảo kê” cho công việc làm ăn, sinh sống.

Trong những hôm trà dư tửu hậu thỉnh thoảng tôi lại được nghe các bác mèo kể về những vụ bắt chuột và các món hời được Chuột cống nạp rất hấp dẫn. Khi đã thân với Mèo thì những thông tin ấy không còn phải là thứ cần phải dấu diếm nữa mà nó đã trở thành “thành tích” để khoe. Những người kín tiếng hơn hay còn gọi là những “đồng chí chưa bị lộ” còn lại, không phải là chưa lộ, mà hầu hết đã lộ giữa ban ngày, thể hiện qua khối tài sản không thể biện minh, là thực tế trên cả nước. Vấn đề là không ai dám đứng lên nói ra thôi.

Theo ông Soren Davidsen – chuyên gia ngân hàng thế giời (WB) thì “tham nhũng ở Việt Nam đang nằm trong vòng luẩn quẩn”. Vòng luẩn quẩn đó, là hành vi công chức nhà nước gây khó dễ khiến doanh nghiệp và người dân phát sinh động cơ đưa hối lộ, sau đó khó khăn được giải quyết khiến công chức có động cơ để tiếp tục chu trình gây khó dễ. Một vòng tuần hoàn đã được ngầm định thành thói quen và thông lệ.

Ông Davidsen cho biết 63% doanh nghiệp phải trả các khoản phí không chính thức nhằm tạo ra cơ chế ngầm để được giải quyết công việc nhanh chóng; 63% doanh nghiệp nói công chức cố tình kéo dài thời gian xử lý để gây khó dễ; 79% công chức đổ lỗi cho lương thấp là động cơ để tham nhũng… Đặc biệt, 75% doanh nghiệp hối lộ dù không bị gợi ý.

Tham nhũng ở nước ta hiện nay đã trở thành thói quen, là văn hóa, tập quán của người Việt trưởng thành khi bước vào ngưỡng cửa công chức. Nó đã làm cho xã hội bị đình trệ phát triển, một nguồn nhân lực lớn của đất nước chỉ mong xây dựng cuộc sống của mình gắn liền với quan niệm phải ổn định, được nhàn hạ, ít động não, làm ra thật nhiều tiền từ những trạng thái làm việc mơ hồ, hơn là tạo ra sản phẩm vật chất lẫn sản phẩm tinh thần có cạnh tranh, có ích cho xã hội. Bởi vậy chúng ta mới có câu tục ngữ “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa.”

Nguyên nhân cuộc chiến chống tham nhũng ở nước ta ngày càng đi vào bế tắc là vì người thực thi pháp luật chống tham nhũng cũng chính là người dung dưỡng tham nhũng, đã từng phụng sự tham nhũng, đã tham nhũng hoặc vẫn đang trong nhóm lợi ích, đang là hậu duệ, có ân huệ, có quan hệ…với tổ chức, cá nhân tham nhũng.

Trong một Đảng độc quyền với một cơ chế xin cho, công cuộc chống tham nhũng chẳng khác gì cuộc chiến tương tàn giữa các tầng lớp đồng chí, dòng họ, ơn nghĩa thừa kế, có quan hệ chằng chịt về kinh tế, đã hoặc đang hoạt động chung lợi ích. Ở đất nước Việt Nam này, chỉ có duy nhất nhà nước là có súng (một đảng) và tất nhiên họ không thể tự bắn vào chân mình được. Trong lúc không một ai có đủ sức để buộc họ phải làm việc đau đớn đó.

Do đó hiệu quả của công cuộc chống tham nhũng cũng chỉ dừng lại ở số ít cá nhân đại diện cho một bộ máy tham nhũng có hệ thống khổng lồ bị lộ qua phản ánh từ nước ngoài, qua doanh nghiệp phá sản, qua đấu đá nội bộ mà thôi.

Tục ngữ có câu “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, để đưa được ba từ “chống tham nhũng” về đúng nghĩa và có hiệu quả thì phải thực hiện một cuộc cách mạng đồng bộ từ trên xuống dưới. Xoá bỏ cơ chế xin cho, độc quyền, “tuốt” lại đạo đức và trách nhiệm của những người thực thi pháp luật, phòng chống tham nhũng. Còn không, những khẩu hiệu hô hào sáo rỗng, những giải pháp vụn vặt, chắp vá chỉ là thứ phấn son tô trét lên khuôn mặt những tên trộm đội lốt chính nghĩa mà thôi.

Tóm lại là các bác ấy vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa ăn cắp vừa la làng. Kinh tế đất nước ngày càng tụt hậu, ì ạch, èo uột. Ngân sách ngày càng thâm hụt, thủng đáy (nợ công hơn 60% GDP). Mạnh ai người ấy bòn, người ấy rút. Coi thường luân lý, pháp luật, không ai sợ bị trừng trị nữa. Mỗi ngày người ta “ăn” từng tí của dân, từ liều vacxin cỏn con đến tiền chữa bệnh bảo hiểm. Ăn cầu, ăn đường, ăn bê tông cốt thép, ăn tài nguyên khoáng sản, đến rác thải và nhà vệ sinh công cộng cũng ăn nốt. Ăn kín, ăn hở, ăn nằm, ăn đứng, ăn công khai lộ liễu. Nhiều ông bụng to như cái trống vẫn còn thèm ăn. Ăn không chừa thứ gì, nhưng vẫn hàng ngày lanh lảnh, hảo sảng là phòng chống tham nhũng, bài trừ tham nhũng.

 

Nguyễn Văn Thương

Những sai lầm tuổi 20 – Phần 1: Học tập

Featured image: Susie Cagel

 

Tuổi 20 – tuổi trẻ nói chung, là thời điểm nhạy cảm và có những yếu tố bước ngoặt cuộc đời với mỗi người, nhưng cũng là tuổi dễ mắc nhiều sai lầm. Bài viết này chia sẻ phần 1: những sai lầm về học tập của tuổi 20. Dựa trên quan điểm và trải nghiệm của tôi, do vậy sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, vì thế sẽ không có đúng hay sai mà tôi chỉ hy vọng là nó hữu ích với bạn.

Việc học đang là một gánh nặng

Tôi cũng giống bạn, có lẽ đã từng hoặc đang bị vấn đề học tập gây ra nhiều trở ngại chẳng hạn như có quá nhiều thứ để học nhưng lại có quá ít thời gian, quá tải với việc học ở trường, học nhiều nhưng không hiệu quả, không biết mình phải học gì nữa, tấm bằng đại học là không đủ để thành công.

“63% sinh viên thất nghiệp khi ra trường.” – Theo GS Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ GD& ĐT khi bàn về những “Thất vọng và kỳ vọng” vào nền giáo dục Việt Nam. Giáo sư thẳng thắn chỉ ra rằng, sinh viên đang thiếu nhiều kỹ năng và sống thực dụng. Theo điều tra của Bộ GD& ĐT, năm 2011, cả nước có đến 63% sinh viên thất nghiệp vì thiếu kỹ năng.

Một thực trạng đặt ra là đa phần sinh viên ngày đầu bước vào giảng đường đại học thường được người đi trước đưa ra những lời khuyên đại loại như phải học thật giỏi, phải học thật chăm, tấm bằng phải đẹp. Những lời khuyên ấy là tốt nhưng ngày nay chừng đó là chưa đủ vì việc học trên đại học không phải là tất cả. Ngày đi học, thầy giáo của tôi từng dạy: “Cầm vàng còn sợ vàng rơi – Cầm bằng tốt nghiệp đời đời ấm no.”

Có lẽ câu nói ấy bây giờ không còn đúng nhiều nữa. Chúng ta đa phần được người lớn định hướng về việc học như vậy, nhưng thực sự là rất chung chung. Và thế là rất nhiều trường hợp sinh viên chán nản với cách học ở đại học, mới dẫn đến chuyện nghỉ học, cúp tiết, chơi bời, hình thành nên văn hóa mai thi hôm nay mới học. Hay trường hợp khác là có những bạn lao đầu vào học để lấy điểm thật cao, bằng thật đẹp về điểm số nhưng ra trường vẫn thất nghiệp. Câu hỏi đặt ra là: vậy những gì chúng ta đang học ở trường có giúp thành công? Và chúng ta cần học những gì để thành công?

Học những thứ không cần thiết và không học những thứ cần phải học

Ngày còn học THPT, tất cả mọi thứ đều rõ ràng, bạn biết mình phải học môn gì để thi đại học, phải học môn gì để thi tốt nghiệp. Nhưng khi lên đại học rồi, thì lại không còn sự rõ ràng nữa, học môn gì để thành công? Chính vì không có nhiều sự định hướng, nên đôi khi sự lựa chọn của bạn hay bị ảnh hưởng bởi xu thế xã hội. Chẳng hạn học cái gì đang hot, học cái gì là xu thế, học những thứ thấy hay hay và đủ mọi thứ trên trời. Có những thứ là quan trọng với người khác nhưng không có nghĩa là quan trọng với bạn. Và nguyên nhân của sự học không thành công đa phần là vì bạn học những thứ không cần thiết và không học những thứ cần phải học.

Một sinh viên, thời gian lên giảng đường là không nhiều. Do vậy, ngoài thời gian học ở trên trường ra, nếu quan sát danh sách việc làm hàng ngày, bạn sẽ thấy được đâu là chủ đề bạn quan tâm nhiều và dành thời gian nhiều cho nó. Hãy thử trả lời câu hỏi “Nó có hữu ích hay không? Nó có là thứ quan trọng hay không? Nó có cần thiết hay không?” Những câu hỏi đó sẽ giúp bạn dễ dàng xác định được cách bạn quản lí thời gian hàng ngày. Và phần nhiều thì các bạn trẻ hay để lãng phí thời gian.

Tìm đâu một giải pháp?

Ai cũng biết kiến thức chuyên môn chỉ giúp khoảng 15-20% tỷ lệ thành công, còn lại kỹ năng chiếm từ 80-85%. Chẳng hạn như kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng làm chủ một ngoại ngữ, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng làm chủ bản thân,… những điều đó đều là quan trọng cả. Thế nên tốt hơn hết, là hãy học những thứ cần thiết và không học những thứ không cần thiết. Có một chuyên môn giỏi, vững vàng ngoại ngữ và công nghệ thông tin, cộng thêm “tấm bùa hộ mệnh” là những kỹ năng, chắc chắn đường đi của bạn sẽ đầy thuận lợi.

Sự học là cả đời, vậy những thứ bạn cần phải học là gì? Không gì xa xôi cả? Hãy học ngay những thứ mà bạn phải dùng nhiều nhất hàng ngày.

Hàng ngày bạn phải giao tiếp – hãy học kỹ năng giao tiếp.

Hàng ngày bạn phải làm việc – hãy học sâu về chuyên môn.

Hàng ngày bạn phải ăn mặc – hãy học cách ăn mặc từ những chuyên gia.

Hàng ngày bạn phải ăn uống – hãy học cách ăn uống chuẩn mực.

Hàng ngày bạn phải tiêu tiền – hãy học về tài chính.

Hàng ngày bạn phải sống – hãy học kỹ năng sống.

 

Đỗ Việt Cường 

Sự mê muội mang tên trường học – Phần 2

Featured Image: Pixabay

 

“Một trăm năm mươi năm trước, khi Hoa Kỳ vẫn còn là một xã hội dựa phần lớn vào ruộng đất, chẳng có lý do gì để giữ những người trẻ tuổi nằm ngoài thị trường việc làm khi đã qua độ tuổi lên tám hay mười, và không có gì bất thường khi trẻ con rời khỏi trường học vào độ tuổi ấy. Chỉ có một thiểu số là tiếp tục lên đại học để nghiên cứu các ngành nghề chuyên nghiệp. Tuy nhiên, với sự tăng lên của đô thị hóa và công nghiệp hóa điều này bắt đầu thay đổi. Đến cuối thế kỷ mười chín, tám năm học ở trường đã trở thành luật lệ thay vì là ngoại lệ như trước. Đô thị hóa và công nghiệp hóa tiếp tục tăng tốc trong những năm 1920 và 1930, và thế là mười hai năm học ở trường trở thành luật lệ. Sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, việc bỏ học trước khi kết thúc mười hai năm học bắt đầu bị nhiệt liệt ngăn cản, và thành ra thêm bốn năm học đại học không còn được xem là cái gì đó chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa. Tất cả mọi người nên học đại học, ít nhất là trong một vài năm. Phải thế không?”

Tôi huơ huơ tay. “Tôi có một câu hỏi. Có vẻ như với tôi việc đô thị hóa và công nghiệp hóa đáng ra phải có hiệu ứng ngược lại mới đúng. Thay vì giữ những người trẻ nằm ngoài thị trường việc làm, hệ thống lẽ ra phải cố nhét họ vào thị trường lao động chứ.”

Ishmael gật đầu.“Phải, nhìn bề ngoài thì điều này nghe hợp lý. Nhưng hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra tại đây ngày hôm nay nếu những nhà giáo dục của các cô đột nhiên quyết định rằng giáo dục trung học (cấp ba) không còn cần thiết nữa.”

Tôi dành vài giây cân nhắc và nói: “Vâng, tôi thấy ý ông rồi. Đột nhiên sẽ có hai mươi triệu đứa trẻ đổ ra cạnh tranh nhau những công việc còn chưa hiện hữu. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng kịch trần.”

“Điều đó thực sự sẽ là một thảm họa Julie ạ. Cô thấy đấy, không chỉ có tính quyết định khi giữ cho những đứa trẻ mười bốn đến mười tám tuổi này nằm ngoài thị trường lao động, mà còn có tính thiết yếu khi giữ chúng ở lại nhà như những đối tượng tiêu thụ không-kiếm-ra-tiền nữa.”

“Thế nghĩa là sao?”

“Nhóm tuổi này hút một lượng tiền khổng lồ – hai trăm tỷ đô la mỗi năm, được ước tính là như thế – ra khỏi túi của cha mẹ chúng để chi cho sách vở, quần áo, đồ chơi, những thứ đồ mới lạ, đĩa CD, và những thứ tương tự được thiết kế đặc biệt chỉ dành cho chúng mà không cho ai khác. Nhiều ngành công nghiệp lớn phụ thuộc vào khách hàng tuổi vị thành niên. Cô phải ý thức được chuyện ấy.”

“Vâng, tôi cho là vậy. Tôi chỉ chưa bao giờ nghĩ tới nó theo cách này thôi.”

“Nếu những đứa trẻ vị thành niên này đột nhiên được mong chờ là những kẻ kiếm ra tiền và không còn được thoải mái rút hàng tỷ đô la ra khỏi túi cha mẹ chúng nữa thì những ngành công nghiệp phân khúc cho người trẻ đó sẽ biến mất trong một đêm, đẩy thêm nhiều triệu người nữa ra thị trường lao động.”

“Tôi hiểu ý của ông. Nếu những đứa trẻ mười bốn tuổi phải tự nuôi sống bản thân mình thì chúng sẽ không chi tiền cho giày Nike, trò chơi điện tử và đĩa CD.”

“Năm mươi năm trước, Julie ạ, đám trẻ vị thành niên đi xem phim dành cho người lớn và mặc những thứ đồ được thiết kế cho người lớn. Thứ âm nhạc mà chúng nghe không phải là thứ âm nhạc được viết và biểu diễn cho chúng nghe, mà là thứ âm nhạc được viết ra và biểu diễn cho người lớn – bởi những người lớn như Cole Porter, Glenn Miller và Benny Goodman. Để tham gia vào trào lưu ăn mặc lớn đầu tiên sau chiến tranh, những cô bé tuổi teen lục lọi những chiếc áo sơ mi trắng đi làm của cha chúng. Chuyện như thế sẽ không bao giờ xảy ra ngày hôm nay.”

“Điều đó là chắc chắn.”

Ishmael trầm ngâm trong một vài phút. Rồi ông ấy nói: “Một lúc trước cô có đề cập tới việc nghe giáo viên giải thích việc một dự thảo luật được thông qua ở Quốc hội như thế nào. Tôi giả định rằng cô, trong thực tế, đã học điều này ở trường.”

“Đúng thế. Trong môn học về quyền và nghĩa vụ công dân.”

“Thế cô có thực sự biết một dự thảo luật thông qua ở Quốc hội như thế nào không?”

“Ishmael, tôi không có một khái niệm gì hết.”

“Cô đã làm bài kiểm tra chứ?”

“Chắc chắn là có.”

“Cô có qua không?”

“Tất nhiên rồi. Tôi chưa bao giờ thi trượt.”

“Vậy là, cô được cho là đã được ‘học’ việc một dự thảo luật được thông qua ở Quốc hội như thế nào, qua được bài kiểm tra trong môn đó, và rồi mau chóng quên hết nó.”

“Đúng vậy.”

“Cô có thể chia một phân số cho một phân số khác không?

“Tôi nghĩ là có, vâng.”

“Cho tôi một ví dụ đi.”

“À, được rồi, để xem. Ta có một nửa cái bánh và ta muốn chia nó thành các miếng một phần ba. Mỗi miếng sẽ là một phần sáu cái bánh.”

“Đấy là một ví dụ về phép nhân Julie ạ. Một nửa nhân với một phần ba bằng một phần sáu.”

“Vâng, ông nói đúng.”

“Cô học phép chia các phân số vào lớp bốn, chắc là thế.”

“Tôi không nhớ rõ lắm.”

“Hãy thử lại để xem cô có nghĩ ra một ví dụ trong đó cô sẽ chia một phân số cho một phân số khác không nhé.”

Tôi cố thử và phải thừa nhận là chuyện đó vượt quá khả năng của tôi.

“Nếu cô chia một nửa cái bánh làm ba, cô có một phần sáu của một chiếc bánh. Điều đó đủ rõ ràng. Nếu cô chia một nửa cái bánh làm hai, cô có một phần tư chiếc bánh. Nếu cô chia một nửa chiếc bánh cho một, cô sẽ có gì?”

Tôi nhìn ông ta trân trối.

“Nếu cô chia một nửa chiếc bánh cho một, cô có một nửa chiếc bánh, tất nhiên rồi. Bất cứ số nào chia cho một thì ra chính nó.”

“Phải.”

“Vậy thì cô có gì nếu cô chia một nửa chiếc bánh cho một nửa?”

“Ô chà. Nguyên một chiếc bánh?”

“Tất nhiên rồi. Và cô sẽ có gì nếu cô chia một nửa chiếc bánh cho một phần ba?”

“Ba nửa chiếc bánh. Tôi nghĩ thế. Một chiếc rưỡi.”

“Đúng rồi. Vào lớp bốn, cô đã dành hằng tuần liền cố gắng làm chủ khái niệm này, nhưng tất nhiên nó quá trừu tượng đối với học sinh lớp bốn. Nhưng giả định là cô đã qua được bài thi.”

“Tôi chắc chắn là tôi đã qua.”

“Vậy ra cô học thật nhiều cần để qua được kỳ thi, rồi ngay lập tức quên sạch. Cô có biết tại sao cô lại quên nó không?

“Tôi quên nó là bởi vì, ai mà thèm quan tâm?”

“Chính xác. Cô quên nó bởi cùng một lý do cô quên việc một dự thảo luật được thông qua ở Quốc hội như thế nào, là bởi vì cô không sử dụng nó trong cuộc sống của cô. Trong thực tế, người ta hiếm khi nhớ được những thứ mà họ không dùng gì đến.”

“Điều đó đúng.”

“Cô nhớ được bao nhiêu những điều mà cô học được ở trường năm vừa rồi?”

“Hầu như chẳng nhớ gì, tôi sẽ nói vậy.”

“Cô có nghĩ mình khác gì so với bạn học trong chuyện này không?”

“Không khác chút nào.”

“Vậy là hầu hết các cô chẳng nhớ được gì từ điều mà các cô học ở trường từ năm này sang năm sau.”

“Đúng thế. Rõ ràng là tất cả chúng tôi biết đọc và viết và làm tính đơn giản – hoặc là hầu hết chúng tôi làm được điều đó.”

“Điều đó càng chứng tỏ cho điều đang nói, chẳng phải sao. Đọc, viết và làm tính là những thứ mà các cô thực sự dùng trong cuộc sống của mình.”

“Vâng, điều đó hoàn toàn đúng.”

“Đây là một câu hỏi thú vị dành cho cô, Julie. Các giáo viên của cô có kỳ vọng là cô nhớ được tất cả những gì cô học trong năm ngoái không?”

“Không, tôi không nghĩ như vậy. Họ mong chờ ta nhớ là đã có nghe về điều đó. Nếu giáo viên nói ‘các lực thủy triều,’ cô ấy mong chờ mọi người gật đầu và nói, ‘Vâng,chúng ta đã học những cái này vào năm ngoái.’”

“Cô có hiểu sự vận hành của các lực thủy triều không, Julie?”

Ờ thì, tôi biết chúng là gì. Còn tại sao các đại dương lại phình ra ở cả hai phía của trái đất vào cùng một thời điểm thì tôi hoàn toàn chẳng hiểu nổi.”

“Nhưng cô đã không đề cập chuyện này với giáo viên của cô.”

“Dĩ nhiên là không rồi. Tôi nghĩ là tôi đã được 97 điểm với bài trắc nghiệm. Tôi nhớ điểm số còn giỏi hơn là nhớ nội dung môn học.”

“Nhưng giờ thì cô đang ở trong vị trí có thể hiểu tại sao cô đã bỏ ra đúng ra là bao nhiêu năm đời mình trong trường học để học những thứ mà cô quên ngay lập tức một khi cô đã qua được kỳ thi.”

“Thật vậy sao?”

“Thật vậy. Thử nghĩ mà xem.”

Tôi thử nghĩ. “Bọn họ phải cho chúng tôi một cái gì đó để làm trong suốt những năm chúng tôi bị giữ nằm ngoài thị trường việc làm. Và họ phải làm sao điều ấy trông có vẻ hay ho. Nó phải trông có vẻ là một điều gì đó t-h-ự-c s-ự hữu ích. Bọn họ chẳng thể cứ để chúng tôi hút ma túy và nhảy tưng tưng suốt mười hai năm cho được.”

“Sao lại không, Julie?”

“Bởi vì như thế trông sẽ không ổn. Sẽ hết đường che đậy. Bí mật sẽ lộ ra. Tất cả mọi người sẽ biết là chúng tôi ở đó chỉ để giết thời gian mà thôi.”

“Khi cô đang liệt kê ra những thứ mà người ta thấy là sai trái với hệ thống trường học của các cô, cô đã ghi nhận rằng chúng thật tệ hại trong việc chuẩn bị cho người ta có được việc làm. Cô nghĩ lý do tại sao chúng lại kém cỏi trong việc này thế?”

“Tại sao chứ? Tôi nào có biết. Tôi không chắc là thậm chí mình có hiểu câu hỏi này không nữa.”

“Tôi đang mời gọi cô nghĩ về chuyện này theo cái cách mà tôi sẽ nghĩ.”

“Ồ,” tôi nói. Sau khoảng ba phút suy nghĩ tôi cũng chỉ nói được có vậy. Rồi tôi thừa nhận là mình chẳng có khái niệm gì làm cách nào suy nghĩ về chuyện này theo cách của ông ta cả.

“Người ta nghĩ sao về sự thất bại này của trường học, Julie? Điều này sẽ cho cô một manh mối về điều mà Bà mẹ Văn hóa dạy dỗ.”

“Người ta nghĩ trường học là kém cỏi. Đấy là tôi đoán người ta sẽ nghĩ thế.”

“Cố cho tôi thấy điều gì đó mà cô cảm thấy tự tin hơn là một dự đoán xem.”

Tôi ngẫm nghĩ trong một lúc và nói, “Bọn trẻ con lười biếng, và trường học thì kém cỏi và thiếu kinh phí.”

“Tốt. Đó đúng thực là điều mà Bà mẹ Văn hóa dạy. Các trường học sẽ làm gì nếu có nhiều tiền hơn?”

“Nếu trường học có nhiều tiền hơn, chúng sẽ có được các giáo viên giỏi hơn hoặc trả lương được cho giáo viên cao hơn, và tôi đoán lý thuyết ở đây là thêm tiền sẽ khích lệ giáo viên làm tốt công việc của mình hơn.”

“Thế còn chuyện bọn trẻ con lười biếng thì giải quyết sao?”

“Một phần trong số tiền có thêm đó sẽ được chi để mua những đồ dùng học tập mới và những cuốn sách hay hơn và giấy dán tường đẹp hơn, và lũ trẻ sẽ không còn lười biếng như trước nữa. Đại loại như thế.”

“Thì chúng ta cứ giả dụ là những trường học mới và được cải tiến này cho ra những học viên tốt nghiệp mới và được cải thiện hơn. Chuyện gì xảy ra tiếp theo?”

“Tôi không biết nữa. Tôi đoán là bọn họ sẽ dễ dàng kiếm việc làm hơn.”

“Tại sao, Julie?”

“Bởi vì họ có các kỹ năng tốt hơn. Họ biết làm những việc mà người sử dụng lao động muốn.”

“Xuất sắc. Và thế là Johnny Smith sẽ không phải đi làm một người đóng bao bì ở trong cửa hàng tạp hóa, đúng không? Cậu ta có thể nộp đơn vào một công việc trợ lý quản lý chẳng hạn.”

“Đúng vậy.”

“Và đấy là điều tuyệt vời, đúng không?”

“Vâng, tôi nghĩ là thế.”

“Nhưng cô biết đấy, anh trai của Johnny Smith đã tốt nghiệp bốn năm trước đó, trước khi trường học được tổ chức mới và cải tiến.”

“Thì sao?”

“Anh ta nữa cũng đã đi làm cho cửa hàng tạp hóa. Nhưng tất nhiên, vì không có kỹ năng, anh đã phải bắt đầu bằng việc đóng gói hàng hóa.”

“Ồ, đúng.”

“Và giờ, sau bốn năm làm việc, anh ta cũng muốn nộp đơn vào vị trí trợ lý quản lý.”

“À ừ,” tôi nói.

“Và rồi còn có Jennie Jones, một trong những học viên tốt nghiệp từ những trường học mới và cải tiến của các cô. Cô ta chẳng phải nhận một công việc thấp tịt như trợ lý hành chính tại một công ty tài chính. Cô ta có thể vào đúng vị trí chánh văn phòng để làm. Và thế thì thật tuyệt vời, phải không?”

“Cho tới giờ là vậy.”

“Nhưng mẹ cô ta đã quay trở lại lực lượng lao động vài năm trước đó, và không có kỹ năng gì cả, đã phải bắt đầu ở vị trí thấp tịt là trợ lý hành chính tại công ty tài chính đó. Giờ bà ta đã sẵn sàng để được đề bạt làm chánh văn phòng.”

“Tệ thật.”

“Cô nghĩ người ta sẽ thích thú thế nào với những trường học mới và cải tiến, những trường chuẩn bị được cho học viên tốt nghiệp ra trường sẽ có được những công việc tốt?”

“Họ không thích thú gì.”

“Giờ thì cô biết tại sao trường học lại kém cỏi trong việc chuẩn bị cho học viên tốt nghiệp sẵn sàng với môi trường làm việc chưa?”

“Chắc là tôi hiểu rồi. Những người mới tốt nghiệp sẽ phải bắt đầu từ dưới đáy của thang việc làm.”

“Vậy là cô đã thấy rằng trường học của các cô đang làm đúng cái điều mà các cô thực sựmuốn chúng làm. Người ta tưởng tượng rằng họ muốn thấy con cái mình bước vào môi trường làm việc với những kỹ năng thực sự hữu ích, nhưng nếu chúng thực sự làm được thế, chúng sẽ ngay lập tức bắt đầu cạnh tranh việc làm với anh chị của chúng và cha mẹ của chúng, mà đó sẽ là thảm họa. Và nếu những người mới tốt nghiệp ra trường với những kỹ năng lợi thế, ai mà thèm đi đóng gói hàng ở các cửa hàng tạp hóa cơ chứ, Julie? Ai sẽ làm công việc quét dọn? Ai sẽ bơm xăng? Ai sẽ sắp xếp giấy tờ? Ai sẽ lật bánh ham-bơ-gơ?”

“Tôi cho rằng chuyện này sẽ chuyển sang vấn đề tuổi tác.”

“Ý của cô là cô sẽ bảo với Johnny Smith và Jennie Jones rằng họ không thể có được công việc họ muốn, không phải vì những người khác có phẩm chất tốt hơn mà bởi vì những người khác nhiều tuổi hơn chứ gì.”

“Đúng thế đấy.”

“Vậy thì có nghĩa lý gì việc trao cho Johnny và Jennie những kỹ năng cho phép họ làm được những công việc đó?”

“Tôi đoán là nếu họ tốt nghiệp với những kỹ năng này, thì ít nhất họ sẽ có được công việc đó khi tới lượt họ.”

“Anh chị và cha mẹ của họ có được những kỹ năng này ở đâu?”

“Trong lúc làm việc, tôi đoán thế.”

“Ý của cô là trong khi đóng gói hàng, quét dọn, bơm xăng, làm công việc sắp xếp giấy tờ và lật bánh bơ-gơ á.”

“Vâng, tôi đoán thế.”

“Và chẳng phải những học viên mới tốt nghiệp từ những trường cải tiến của các cô sẽ góp nhặt được cũng những kỹ năng ấy như anh chị và cha mẹ họ, bằng việc làm những công việc đó hay sao?”

“Vâng.”

“Thế thì họ có lợi lộc gì trong việc học trước những kỹ năng ấy, bởi lẽ dù sao thì họ cũng sẽ học được chúng trong khi làm việc?

“Tôi đoán là theo cách nào thì cũng chả có lợi lộc gì,” tôi nói.

“Giờ để xem liệu cô có thể tìm ra lý do tại sao trường học của các cô lại cho ra những học viên tốt nghiệp với giá trị sinh tồn bằng không không nhé.”

“Được thôi…Để bắt đầu, Bà mẹ Văn hóa sẽ nói rằng thật là vô ích khi cho ra những học viên tốt nghiệp với giá trị sinh tồn cao.”

“Tại sao lại thế, Julie?”

“Bởi vì họ chả cần tới nó. Người sơ khai cần tới nó, chắc hẳn rồi, nhưng không phải là những người văn minh. Sẽ thật phí thời giờ khi người ta học cách tự sống sót.”

Ishmael bảo tôi cứ tiếp tục.

“Tôi đoán là nếu ông đang dẫn dắt cuộc trao đổi này, ông sẽ hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cho ra một lớp các sinh viên mới và cải tiến với một trăm phần trăm giá trị sinh tồn.”

Ông ta gật đầu.

Tôi ngồi đó một lúc để nghĩ cho thông. “Điều đầu tiên tôi nghĩ đến là họ đi làm những công việc như hướng dẫn viên nơi hoang dã hay đại loại thế. Nhưng thế thì hoàn toàn ngu ngốc. Vấn đề là, nếu họ có một trăm phần trăm giá trị sinh tồn, họ chả cần gì tới công việc.”

“Tiếp tục đi.”

“Khóa kín thực phẩm lại cũng chẳng giữ được họ trong nhà tù này. Họ sẽ ra ngoài. Họ sẽ tự do!”

Ishmael lại gật đầu. “Tất nhiên một số ít trong số bọn họ sẽ vẫn chọn ở lại đằng sau – nhưng đấy sẽ là chuyện thuộc về lựa chọn. Tôi dám nói rằng một Donald Trump hay một George Bush hay một Steven Spielberg sẽ không có bất cứ khuynh hướng nào muốn bỏ nhà tù của Kẻ Lấy lại sau lưng.”

“Tôi sẽ cá còn nhiều hơn là một số ít. Tôi sẽ cá rằng một nửa sẽ ở lại.”

“Tiếp tục đi. Chuyện gì sẽ xảy ra đây?”

“Ngay cả nếu một nửa chọn ở lại, thì cánh cửa sẽ vẫn mở. Người ta sẽ đổ ùa ra. Nhiều người ở lại, nhưng nhiều người sẽ chui ra.”

“Ý của cô là, đối với nhiều người trong số các cô, có được một công việc và làm việc cho tới tuổi nghỉ hưu trông không giống như thiên đường chút nào?”

“Chắc chắn là không,” tôi nói.

“Vậy là giờ thì cô đã biết tại sao trường học của các cô lại cho ra những học viên tốt nghiệp chả có chút giá trị sinh tồn nào rồi nhé.”

“Đúng thế, tôi biết. Do bởi họ chẳng có bất cứ giá trị sinh tồn nào, họ buộc phải bước vào nền kinh tế của Kẻ Lấy. Thậm chí nếu họ thấy ra khỏi nền kinh tế đó vẫn hơn thì họ vẫn không thể làm thế.”

“Một lần nữa, điểm thiết yếu cần chú ý là, đối với tất cả những than phiền của các cô, trường học của các cô đang làm đúng cái mà các cô thực sự muốn chúng làm, nghĩa là sản xuất ra những công nhân, những người không có lựa chọn nào khác ngoài việc bước vào hệ thống kinh tế của các cô, được phân loại từ trước thành các cấp độ khác nhau. Những người tốt nghiệp trung học (cấp ba) nói chung được định đoạt làm những công việc cổ xanh. Bọn họ có thể là thông minh và tài năng giống như những người tốt nghiệp đại học, nhưng họ chưa chứng tỏ được điều này bằng việc trải qua thêm bốn năm nghiên cứu – những nghiên cứu mà phần lớn chẳng hữu ích hơn cho cuộc sống so với những nghiên cứu học tập mười hai năm trước đó. Dù sao thì, bằng đại học sẽ được chấp nhận vào làm những công việc cổ trắng, là cái nhìn chung đối với những người mới chỉ tốt nghiệp trung học thì đừng có bén mảng tới.

“Điều mà những công nhân cổ xanh và cổ trắng thực sự ghi nhớ được từ việc học ở trường không quan trọng lắm – trong công việc hoặc trong cuộc sống riêng. Rất, rất ít người trong bọn họ sẽ có bao giờ được gọi ra để chia một phân số cho một phân số khác, phân tích một câu văn, mổ xẻ một con ếch, phê bình một bài thơ, chứng minh một định lý, luận bàn về các chính sách kinh tế của Jean-Baptiste Colbert, xác định sự khác nhau giữa các bản sonnet của Spenser và Shakespear, mô tả cách một dự thảo luật thông qua ở Quốc hội, hoặc giải thích tại sao các đại dương lại phình ra ở hai phía đối diện của trái đất dưới tác động của các lực thủy triều. Vì vậy, nếu họ tốt nghiệp mà không thể làm được những chuyện đó, thực sự chẳng thành vấn đề dù chỉ là nhỏ nhất. Công việc sau đại học thì rõ ràng là khác hẳn. Bác sĩ, luật sư, khoa học gia, học giả và tương tự như thế, họ thực sự phải dùng trong cuộc sống thực tế điều mà họ học trong trường, vì thế với phần nhỏ dân số này việc học tập ở trường thực sự có tác dụng nào đó ngoài việc giữ cho bọn họ nằm ngoài thị trường lao động.

“Sự lừa bịp của Bà mẹ Văn hóa ở đây là bảo rằng sự tồn tại của nhà trường là để phục vụ cho nhu cầu củacon người. Thực tế thì chúng tồn tại để phục vụ cho nhu cầu nền kinh tế của các cô. Trường học cho ra những học viên tốt nghiệp không thể sống mà không có công việc nhưng lại chẳng có kỹ năng công việc, và điều này phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế của các cô một cách hoàn hảo. Cái mà cô đang thấy vận hành trong các nhà trường không phải là một khiếm khuyết của hệ thống, nó là một đòi hỏi của hệ thống, và chúng thỏa mãn yêu cầu đó với hiệu quả gần như là một trăm phần trăm.”

“Ishmael à,” tôi nói, và mắt chúng tôi gặp nhau. “Ông luận ra điều này hoàn toàn một mình thôi à?”

“Phải, qua nhiều năm, Julie ạ. Tôi là một nhà tư tưởng rất chậm chạp.”

(Còn tiếp)

 

Kiuti Di

[Review] Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh – Mình sẽ sống và yêu như sách

Featured image: Quốc Trương

 

Tôi nghĩ rằng rất khó để có thể viết giản dị, giản dị mà hóm hĩnh và xúc động lại càng khó. Và như chúng ta thường thấy, giản dị là biểu hiện cao nhất của cái đẹp, của cái gì đó sâu sắc, đặc biệt là trong văn chương. Điều này thật đúng với tập truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh (NXB Trẻ, 2011). Nhà văn đã không câu nệ sự bay bổng khi đặt những tựa truyện thoạt nghe có vẻ rất bình thường: Tháng Bảy, Chuyện hồng, Hoa muộn, Mưa rơi, Người có học, Si tình, Có con, Có vợ, Nhật ký

Đọc thử vài dòng đầu mỗi truyện, ta dễ nghĩ những truyện ngắn này tẻ nhạt. Nhưng chớ coi thường! Những truyện ngắn cô đọng đó bày ra đầy đủ những tâm trạng của tuổi trẻ, độ tuổi mà tâm hồn nhiều giông bão, độ tuổi mà “người ta điên đến mức nào, ngông cuồng đến mức nào và cần có bạn bè để an ủi biết bao nhiêu, và người ta lại thích trả thù nữa chứ!” Đọc xong sách, tôi thầm nhủ, mình không hề lạc lõng, và mình sẽ sống và yêu… như sách.

Lần đầu tiên đọc Phan Thị Vàng Anh, thuở còn mượn sách ở thư viện tỉnh về đọc, trong tôi dậy lên những cảm giác lãng mạn: mơ về một không gian sống trong lành và xanh mát, với nếp sống bình dị, với vườn tược quanh nhà, với một khoảng sân trồng một loại cây ăn trái, một loại dây leo, những luống hoa; và ở đó, ta an nhiên đi lại, hít thở, hưởng thụ những giận hờn yêu ghét, ở đó ta “chơi rất nhiều mà học cũng rất nhiều” (Khi người ta trẻ).

Nếu chọn vài truyện hay nhất có lẽ sẽ phải kể nhiều. Những truyện tác động đến tôi nhất, là những truyện viết về chuyện yêu đương hẹn hò. Có lẽ chỉ từ chính kinh nghiệm của mình, nhà văn mới có thể miêu tả tâm lý và tính cách nhân vật, đặc biệt nhân vật nữ, tự nhiên, chân thực và đáng yêu đến mức khiến ta phải bật cười nhiều lần. Nhân vật tôi trong Sau những hẹn hò quen với một anh chàng đã có vợ, cô nàng không muốn ngồi sau xe anh nhưng cũng đành chấp nhận vì “tôi chợt thấy oán những thằng bạn trai hàng ngày của tôi, những người đã để tôi phải đấu trí trong những tối thứ bảy, chủ nhật, và đổ tội cho lòng căm tức, tôi đứng lên, bảo: “Đợi hai phút, em thay đồ!” Hai mẹ con trong Tháng bảy nói chuyện hóm hỉnh và thân thiết nhau như hai người bạn. Tính cách mâu thuẫn của người cô trong Khi người ta trẻ: “ngông nghênh mà lại rất sợ dư luận, kiêu căng mà lại rất tự ti.”

Nhiều lần đọc lại tập truyện, dễ hiểu vì sao tôi yêu thích tập truyện này và ngưỡng mộ tác giả. Tôi luôn bắt gặp tâm trạng mình trong rất nhiều trang viết. Tôi thích thú trước những câu nói, suy nghĩ thật thà và hóm hỉnh của nhân vật. Chúng đại diện cho nhiều tuổi trẻ, trong đó có tôi. Tâm trạng của ta khi yêu đây, kiểu lý luận của ta lúc trẻ đây, cái bồng bột bướng bỉnh lúc mới yêu đây!… Như nhân vật tôi trong Một ngày, vì một phút ngẫu hứng chạy xuống Long Xuyên, quê hương của người yêu nhưng chẳng dám tìm đến nhà, rồi lúc về lại tự trách: “… không thể ngờ có một người xuống đây chỉ để nhìn nơi anh sống, giống như một cuộc sưu tầm tư liệu để cho sự nhớ nhung được phong phú hơn.” (Một ngày); tâm trạng cô gái giận dỗi muốn chia tay khi người yêu trễ hẹn: “Em nằm xuống, vạch ra ngay trong đầu một kế hoạch sống mà không có anh, một đời sống gần như là tu hành, có điều, không có vị thần nào để em thờ phụng cả…” (Si tình); khi người yêu sắp ra trường: “… Chiều chiều, đạp xe ngang ký túc xá, tôi nhìn nó như nhà của mình dù chưa chắc anh coi nó như nhà của anh…” (Nghỉ hè)

Nhân vật trong truyện của nhà văn thường là nữ, trẻ tuổi, còn là sinh viên hoặc mới ra trường, có bề ngoài vừa bình tĩnh hồn nhiên vừa mạnh mẽ tinh nghịch, có cả sự bốc đồng của tuổi trẻ. Họ yêu đương, hẹn hò trong những khung cảnh của mình, sân trường, lớp học, quán cà phê, và ngay ở nhà – những ngôi nhà vườn yên bình. Họ khổ sở khi thói mộng mơ và sự thông minh hiểu đời của mình (hay chính tác giả mới thông minh) đi song song nhau. Chính 2 điều này làm họ nghiêng ngả giữa tình cảm và lý trí, lúc thì chạy một mạch theo con tim, lúc thì khựng lại cân nhắc, để rồi mâu thuẫn và hơi “điên điên”.

Đọc Phan Thị Vàng Anh, tôi thấy nể phục một điều. Những con chữ bình thường được xếp cạnh nhau tạo thành những câu văn đẹp, ngắn gọn, đúng tâm lý, không hề ra vẻ kiều diễm, điệu đàng của văn chương thường thấy. Và nhiều câu như thế tạo thành từng câu chuyện gần gũi, thực tế, có khi chỉ để giải bày tâm trạng, một tình huống khó xử, có khi lại chuyển tải thông điệp:

“… Những người yêu nhau thật không phải đi chơi nhiều như tụi mình. Họ ngồi ở nhà luẩn quẩn bên nhau, người hài lòng với ngay cả điều đơn giản nhất là người đang hạnh phúc nhất…” – Mỗi năm chỉ có một ngày

 

Quốc Trương