19 C
Da Lat
Thứ Hai, 29 Tháng 12, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 164

Thị trường và đạo đức (kỳ 17)

 

 

Ludwig von Mises – Nguyên nhân kinh tế của chiến tranh

Chiến tranh là định chế cổ xưa nhất của loài người. Từ thời thương cổ con người đã khao khát đánh nhau, giết chóc và cướp bóc lẫn nhau rồi. Tuy nhiên, công nhận sự kiện này không đưa ta đến kết luận rằng chiến tranh là hình thức không thể tránh được trong quan hệ giữa người với người và những cố gắng nhằm thủ tiêu chiến tranh là đi ngược lại bản chất của con người và vì vậy mà không tránh khỏi thất bại.

Vì mục đích tranh luận, chúng ta có thể công nhận luận đề của phái quân phiệt rằng con người được tự nhiên phú cho bản năng là đánh nhau và phá hoại. Nhưng những bản năng và xung lực thô sơ đó không phải là đặc điểm của con người. Con người đứng cao hơn tất cả các loài sinh vật khác vì có lý trí và có khả năng tư duy. Và lý trí của con người dạy họ rằng hợp tác và cộng tác trong hòa bình trên cơ sở phân công lao động có lợi hơn là xung đột vũ trang.

Tôi không muốn nhắc lại lịch sử của những cuộc chiến tranh. Chỉ cần nói rằng trong thế kỷ XVIII, tức là ngay tại ngưỡng cửa của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tính chất của chiến tranh đã khác xa với thời con người còn ăn lông ở lỗ rồi. Người ta không còn đánh nhau nhằm tiêu diệt hay bắt kẻ chiến bại làm nô lệ nữa. Chiến tranh đã trở thành công cụ của nhà cầm quyền và được tiến hành bằng những binh đoàn tương đối nhỏ, với những người lính chuyên nghiệp, đa phần là lính đánh thuê.

Mục tiêu của chiến tranh là xác định xem vương triều nào có quyền cai trị đất nước hay một tỉnh nào đó. Những cuộc chiến tranh lớn nhất ở châu Âu trong thế kỷ XVIII là những cuộc chiến tranh đòi quyền thừa kế ngai vàng, đấy là những cuộc chiến tranh ở Tây Ban Nha, ở Ba Lan, ở Áo và cuối cùng là cuộc chiến tranh giành quyền kế vị ở Bavaria. Người bình thường hầu như không để ý tới kết quả của những cuộc chiến tranh này. Họ chẳng quan tâm nhiều tới việc ai sẽ là người cai trị họ, ông hoàng dòng họ Habsburg hay Bourbon thì cũng thế mà thôi.

Nhưng những cuộc xung đột bất tận đó đã trở thành gánh nặng đối với loài người. Chúng là những chướng ngại nghiêm trọng đối những cố gắng nhằm mang lại sự phồn vinh ngày càng tốt đẹp hơn. Kết quả là, các nhà triết học và các nhà kinh tế học thời đó đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu nguyên nhân của chiến tranh. Sau đây là kết quả của những công trình nghiên cứu của họ:

Trong hệ thống sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và kinh doanh tự do, khi nhà nước chỉ có một chức năng duy nhất là bảo vệ các cá nhân khỏi những hành động tấn công bằng vũ lực và lừa đảo đối với cuộc sống, sức khỏe và tài sản của họ, thì công dân của bất cứ nước nào cũng chẳng cần quan tâm đến việc đường biên giới của họ đi ngang qua những đâu. Không ai cần quan tâm đến việc nước họ to hay là nhỏ, có cần xâm chiếm thêm một tỉnh nữa hay là không. Việc xâm chiếm lãnh thổ sẽ chẳng mang lại lợi lộc gì cho những người công dân bình thường.

Nhưng các ông hoàng và giới quí tộc cầm quyền thì lại khác. Mở rộng lãnh thổ tạo điều kiện cho họ tăng cường quyền lực và thu được nhiều thuế hơn. Đất đai xâm chiếm được mang lại lợi nhuận cho họ. Họ là những kẻ hiếu chiến, trong khi những người công dân bình thường lại là những người yêu chuộng hòa bình.

Như vậy là, những người theo trường phái tự do cổ điển kết luận rằng trong hệ thống kinh tế tự do (laissez faire) và chính quyền nhân dân, chiến tranh sẽ không còn. Chiến tranh sẽ chấm dứt vì không còn lý do nữa. Vì những người theo trường phái tự do thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX tin tưởng tuyệt đối rằng không gì có thể ngăn chặn được phong trào hướng đến tự do trong lĩnh vực kinh tế và dân chủ trong lĩnh vực chính trị cho nên họ cũng khẳng định rằng loài người đang đứng trước ngưỡng cửa của thời đại hòa bình vĩnh viễn.

Họ khẳng định rằng muốn làm cho thế giới được hòa bình thì cần phải thực hiện tự do kinh tế, thương mại tự do và quan hệ hữu hảo giữa các dân tộc, chính phủ của dân. Tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của cả hai yêu cầu này: tự do thương mại cả nội thương lẫn ngoại thương và chế độ dân chủ. Sai lầm chết người của thời đại chúng ta là đã từ bỏ yêu cầu thứ nhất, cụ thể là thương mại tự do, và chỉ còn quan tân đến chế độ dân chủ mà thôi. Như vậy là, người ta đã lờ đi sự kiện là không được tự do kinh doanh, không có thương mại tự do và không có tự do kinh tế thì chế độ dân chủ cũng không tồn lại được lâu.

Tổng thống Woodrow Wilson tin tưởng tuyệt đối rằng muốn thế giới được hòa bình thì phải là cho nó trở thành dân chủ. Trong Thế chiến I người ta tin rằng chỉ cần tước quyền lực của dòng họ Hohenzollern và giới địa chủ quí tộc Đức là có thể giữ được nền hòa bình bền vững rồi. Tổng thống Wilson không nhận ra rằng trong thế giới của những chính phủ toàn trí toàn năng, lại đang ngày càng tăng cường sức mạnh, thì như thế vẫn chưa đủ. Trong cái thế giới mà sức mạnh của chính phủ càng ngày càng gia tăng thì vẫn còn đó nguyên nhân kinh tế của chiến tranh.

Chiến tranh xâm lược có mang lại lợi ích cho những công dân bình thường hay không?

Người theo chủ nghĩa hòa bình nổi tiếng ở Anh, ông Norman Angell, nhắc đi nhắc lại rằng chiếm đoạt lãnh thổ của người khác chẳng mang lại cho người công dân bình thường bất cứ lợi lộc nào. Chẳng có người công dân bình thường nào của Đức được lợi sau khi cuộc chiến Pháp-Phổ, diễn ra trong các năm 1870-1871, kết thúc và nước này sát nhập vùng Alsace-Lorraine vào Đức. Hoàn toàn đúng như thế. Nhưng đấy là giai đoạn của chủ nghĩa tự do truyền thống và tự do kinh doanh. Trong giai đoạn của chúng ta, khi chính phủ can thiệp vào kinh tế thì tình hình đã khác.

Xin lấy một thí dụ. Chính phủ các nước sản xuất cao su ký kết thỏa thuận thành lập liên minh nhằm tạo ra độc quyền trong lĩnh vực cao su tự nhiên. Họ buộc các đồn điền phải hạn chế sản xuất nhằm kéo giá cao su lên cao hơn mức giá trên thị trường tự do. Đây không phải là trường hợp cá biệt. Các chính phủ trên khắp thế giới đã thi hành những chính sách tương tự với nhiều loại lương thực và nguyên vật liệu có tính chất quan trọng sống. Họ bắt buộc các nhà sản xuất trong nhiều ngành công nghiệp phải tham gia các tập đoàn, kết quả là quyền kiểm soát đã chuyển từ các doanh nhân sang tay chính phủ. Đúng là một vài bước đi như thế đã gặp thất bại. Nhưng các chính phủ đó vẫn không từ bỏ kế hoạch. Họ đang cố gắng tìm cách cải tiến phương pháp và tin rằng sau Thế chiến II họ sẽ thu được nhiều thành công hơn.

Hiện nay người ta đang nói nhiều về nhu cầu kế hoạch hóa trên bình diện quốc tế. Nhưng những người trồng cao su, cà phê hay những loại hàng hóa khác lại chẳng cần kế hoạch hóa, cả trên bình diện quốc gia hay quốc tế. Họ sản xuất những món hàng đó là vì đối với họ, đấy là cách kiếm sống tốt nhất. Kế hoạch hóa trong trường hợp này bao giờ cũng chỉ là những hành động của chính phủ nhằm hạn chế sản xuất và thiết lập độc quyền về mặt giá cả mà thôi.

Trong những điều kiện như thế, không thể nói rằng chiến tranh thắng lợi không mang lại cho nhân dân lợi lộc gì. Nếu các nước cần nhập khẩu cao su, cà phê, thiếc, ca cao và các loại hàng hóa khác có thể buộc chính phủ những nước sản xuất từ bỏ chính sách độc quyền thì họ sẽ cải thiện được tình hình kinh tế của các công dân của nước họ.

Đánh giá như thế không có nghĩa là biện hộ cho chiến tranh xâm lược và chinh phục. Nó chỉ chứng minh sự lầm lẫn của ông Norman Angell và những người theo chủ nghĩa hòa bình khác, tức là những người xây dựng luận cứ ủng hộ hòa bình của mình trên giả định ngầm rằng tất cả các nước vẫn còn gắn bó với những nguyên tắc của chế độ kinh doanh tự do.

Ông Norman Angell là đảng viên Đảng lao động Anh. Đảng này ủng hộ xã hội hóa[i] một cách triệt để nền kinh tế. Nhưng đảng viên Đảng lao động quá ngu dốt, đến mức không hiểu được xã hội hóa sản xuất nhất định sẽ gây ra những hậu quả kinh tế và chính trị như thế nào.

Trường hợp nước Đức

Tôi muốn giải thích những hậu quả đó bằng cách sử dụng tình hình ở Đức.

Giống như tất cả các nước châu Âu khác, Đức là nước nghèo tài nguyên thiên nhiên. Chỉ dựa vào nguồn lực trong nước, họ không thể nuôi ăn cũng như cung cấp quần áo mặc cho toàn thể dân chúng trong nước. Đức phải nhập một khối lượng lớn nguyên vật liệu và lương thực và phải thanh toán những khoản nhập khẩu rất cần thiết đó bằng cách xuất khẩu hàng công nghệ, đa số những món hàng này lại được chế tạo từ nguyên liệu nhập khẩu.

Trong chế độ kinh doanh tự do, Đức đã tự thích ứng được với hoàn cảnh đó một cách cực kỳ xuất sắc. Sáu, bảy mươi năm trước, tức là trong những năm 1870 và 1880, Đức là một trong những nước thịnh vượng nhất thế giới. Các doanh nhân của họ đã biết xây dựng những nhà máy cực kỳ hiệu quả. Ngành công nghiệp Đức giữ vị trí đầu tầu trên lục địa châu Âu. Hàng hóa của họ giữ vị trí áp đảo trên thị trường thế giới. Sự thịnh vượng của người Đức – của tất cả các tầng lớp dân cư – gia tăng hàng năm. Chẳng có lý do gì để phải thay đổi cơ cấu của nền kinh tế Đức.

Nhưng đa phần các nhà tư tưởng và những nhà bình luận chính trị, các giáo sư do nhà nước bổ nhiệm, các lãnh tụ Đảng xã hội cũng như các quan chức chính phủ đều không thích hệ thống thị trường tự do. Họ gán cho nó nhãn hiệu “tư bản chủ nghĩa”, “tài phiệt”, “tư sản”, “Tây” và “Do Thái”. Họ than vãn trước sự kiện là chế độ kinh doanh tự do đã sát nhập nước Đức vào hệ thống phân công lao động quốc tế.

Tất cả các nhóm người đó và các đảng phái chính trị đều muốn nhà nước quản lý chứ không để kinh doanh tự do nữa. Họ muốn thủ tiêu động cơ lợi ích. Họ muốn quốc hữu hóa và đặt nó dưới sự chỉ huy của chính phủ. Việc đó có thể là tương đối đơn giản đối với đất nước có khả năng tự lực cánh sinh về mặt kinh tế. Nước Nga, chiếm đến một phần sáu diện tích mặt đất, có thể sống mà hầu như không cần nhập khẩu. Nhưng Đức thì khác. Đức không thể không nhập khẩu và vì vậy mà phải xuất khẩu hàng công nghiệp. Đấy chính là điều mà bộ máy quản lí quan liêu của chính phủ không thể làm nổi. Các quan chức chỉ có thể phát tài trong thị trường nội địa bị bế quan toả cảng mà thôi. Họ không biết cạnh tranh trên thị trường ngoại quốc.

Hiện nay phần lớn dân chúng nước Đức quốc xã muốn chính phủ kiểm soát công việc kinh doanh. Nhưng sự kiện là chính phủ kiểm soát kinh doanh và ngoại thương là những việc không tương thích với nhau. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải nhắm đến sự tự cấp tự túc. Đây là đất sống của chủ nghĩa dân tộc có tính gây hấn – có thời được gọi Chủ nghĩa đại Đức, bây giờ gọi là chủ nghĩa xã hội quốc gia (quốc xã).

Chúng ta là một dân tộc đầy sức mạnh, những người xã hội chủ nghĩa quốc gia nói như thế; chúng ta đủ sức đập tan tất cả các dân tộc khác. Chúng ta phải chinh phục tất cả các nước có nguồn tài nguyên cần thiết cho sự thịnh vượng kinh tế của chúng ta. Chúng ta cần tự cấp tự túc và vì thế chúng ta phải chiến đấu. Chúng ta cần Lebensraum (không gian sống) và Nahrungs freiheit (không lệ thuộc vào lương thực, thực phẩm).

Cả hai khái niệm này đều trỏ vào cùng một thứ – chinh phục những vùng đất đủ lớn và giàu tài nguyên để cho người Đức có thể sống với mức sống không kém hơn bất cứ dân tộc nào mà không cần ngoại thương. Ở nước ngoài người ta hiểu rõ thuật ngữ Lebensraum (không gian sống). Nhưng thuật ngữ Nahrungs freiheit (không lệ thuộc vào lương thực, thực phẩm) thì không. Freiheit là không lệ thuộc, Nahrungs freiheit nghĩa là không lệ thuộc vào việc buôn bán làm cho Đức phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm. Trong mắt những người quốc xã, chỉ sự “không lệ thuộc” như thế mới có ý nghĩa mà thôi.

Công sản và quốc xã thống nhất với nhau ở một điểm: dân chủ, tự do và chính phủ nhân dân được họ hiểu là chính phủ kiểm soát tòan bộ công việc kinh doanh. Gọi là hệ thống xã hội chủ nghĩa hay cộng sản hoặc kế hoạch hóa không phải là điều quan trọng. Dù gọi là gì thì hệ thống này cũng đòi hỏi phải tự cấp tự túc về mặt kinh tế. Trong khi nước Nga, nói chung là có thể sống tự cấp tự túc về mặt kinh tế thì Đức không thể làm như thế được. Vì vậy mà nước Đức xã hội chủ nghĩa phải tiến hành chính sách Lebensraum hay Nahrungs freiheit, nghĩa là chính sách xâm lược.

Cộng sản và quốc xã thống nhất với nhau rằng thực chất của cái mà họ gọi là thi hành chương trình kiểm soát của chính phủ đối với công việc kinh doanh cuối cùng sẽ phải dẫn tới kết quả là bác bỏ sự phân công lao động trên bình diện quốc tế. Theo triết lý của quốc xã thì chỉ có một kiểu quan hệ quốc tế phù hợp – đấy là chiến tranh. Những người lãnh đạo của họ lấy làm tự hào khi trích dẫn những lời tuyên bố của Tacitus. Gần hai ngàn năm trước, nhà sử học người La Mã này nói rằng người Đức lấy làm xấu hổ khi phải lao động nặng nhọc mới kiếm được những thứ có thể kiếm được bằng giết chóc. Không phải vô tình mà vào năm 1900 Kaiser Wilhelm II đã kêu gọi binh sĩ của mình bắt chước rợ Hung. Mấy từ đó chứa đựng cả một chính sách có chủ ý.

Phụ thuộc vào nhập khẩu

Đức không phải là nước duy ở châu Âu phụ thuộc vào nhập khẩu. Châu Âu – chưa kể Nga – có dân số gần 400 triệu người, gấp hơn ba lần dân số nước Mĩ. Nhưng châu Âu không sản xuất được bông, cao su, cùi dừa khô, cà phê, trà, đay và không có nhiều kim loại quan trọng khác. Ngoài ra, họ còn rất thiếu những sản phẩm như len, cỏ khô nuôi gia súc, gia súc, thịt, da và nhiều loại lương thực.

Năm 1937 châu Âu chỉ khai thác được 56 triệu thùng dầu thô, trong khi Mĩ sản xuất được những 1.279 thùng. Đấy là chưa nói, hầu như tất cả dầu thô của châu Âu đều nằm ở Romania và miền Đông Ba Lan. Nhưng cuộc chiến hiện thời dẫn đến kết quả là những vùng này đã nằm dưới quyền kiểm soát của Nga. Sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp là nhiệm vụ quan trọng sống còn của nền kinh tế châu Âu. Nhưng khi chính phủ kiểm soát kinh doanh thì xuất khẩu là việc làm bất khả thi.

Sự thật trần trụi là như thế, ngôn từ hoa mĩ của những người theo đường lối xã hội chủ nghĩa không thể nào thay đổi được nó. Muốn sống, người châu Âu phải bám lấy cơ chế tự do kinh doanh, một cơ chế đã được thử thách trong một thời gian dài. Lựa chọn khác là chiến tranh và chinh phục. Người Đức đã thử làm như thế hai lần và cả hai lần họ đều thất bại.

Nhưng các nhóm có ảnh hưởng chính trị nhất ở châu Âu không nhận thức được nhu cầu của tự do kinh tế. Ở Anh, Pháp và Italy cũng như ở một vài nước nhỏ hơn người ta đang cổ động cho việc chính phủ kiểm soát hoàn toàn hoạt động kinh doanh. Chính phủ các nước đó hầu như đã bịt tai, nhắm mắt trước nguyên tắc tự do kinh tế. Đảng lao động Anh và những người vẫn còn gọi đảng mình một cách sai lần là Đảng tự do coi cuộc chiến tranh này không chỉ là cuộc chiến đấu cho nền độc lập của nước họ mà còn coi nó là cuộc cách mạng nhằm thiết lập quyền kiểm soát của chính phủ đối với hoạt động kinh doanh nữa. Đảng thứ ba ở Anh, tức là Đảng bảo thủ, nói chung vẫn có cảm tình với những chủ trương như thế.

Người Anh muốn thắng Hitler, nhưng họ rất muốn du nhập những phương pháp quản lý kinh tế của ông ta vào đất nước mình. Họ không ngờ rằng chủ nghĩa xã hội nhà nước ở Anh sẽ mang lại tai họa cho quần chúng nhân dân. Anh phải xuất khẩu hàng công nghiệp để mua nguyên vật liệu và thực phẩm của nước ngoài. Giảm xuất khẩu nhất định sẽ làm mức sống của nhân dân Anh giảm theo.

Tình hình ở Pháp, Italy và đa phần các nước châu Âu khác cũng tương tự như tình hình ở Anh

Bằng việc cung cấp cho người tiêu dùng các nhu yếu phẩm khác nhau – chính phủ xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành quốc chủ. Người công dân buộc phải nhận những gì chính phủ ban cho. Nhưng ngọai thương thì khác. Người tiêu dùng ngoại quốc chỉ mua nếu chất lượng và giá cả món hàng hấp dẫn được họ. Trên đấu trường quốc tế nhằm giành quyền phục vụ người tiêu dùng ngoại quốc, chủ nghĩa tư bản đã chứng minh được tính hiệu quả và khả năng thích ứng vượt trội. Mức độ thịnh vượng kinh tế và nền văn minh ở châu Âu thời trước chiến tranh không phải là kết quả hoạt động của các cơ quan và đại diện của các chính phủ. Nó là thành tựu của hệ thống kinh doanh tự do.

Những chiếc máy ảnh và hóa chất của Đức, những bộ trang phục, mũ và nước hoa của Paris, những chiếc đồng hồ Thụy Sĩ và túi da của Vienna không phải là sản phẩm của các xí nghiệp do nhà nước kiểm soát. Chúng là sản phẩm của các doanh nhân, những người làm việc không mệt mỏi nhằm cải thiện chất lượng và hạ giá thành sản phẩm của họ. Không người nào dám cả gan nói rằng những cơ quan của chính phủ sẽ thay thế một cách thành công các doanh nhân.

Nền thương mại quốc tế do các doanh nhân thực hiện là công việc cá nhân giữa các công ty tư nhân của các nước khác nhau. Nếu có bất đồng thì đấy cũng chỉ là xung đột giữa các công ty tư nhân mà thôi. Chúng không tạo ra xung đột trong quan hệ chính trị giữa các quốc gia với nhau. Chúng chỉ liên quan tới ông Meier và ông Smith nào đó mà thôi. Nhưng nếu ngoại thương trở thành công việc của chính phủ thì những xung đột như thế sẽ biến thành các vấn đề chính trị ngay lập tức.

Giả sử chính phủ Hà Lan thích mua than của Anh chứ không thích mua than từ vùng Ruhr của Đức. Lúc đó những người dân tộc chủ nghĩa ở Đức có thể nghĩ: “Một nước nhỏ hành xử như vậy mà chịu được à? Năm 1940 Đế chế thứ ba chỉ cần bốn ngày là đã đè bẹp được lực lượng võ trang của Hà Lan rồi. Phải ra tay một lần nữa! Lúc đó chúng ta có thể dùng tất cả những sản phẩm của Hà Lan mà chả mất đồng nào”.

Phân chia nguồn lực một cách “công bằng”

Xin xem xét yêu cầu nổi bật của những tên xâm lược quốc xã và phát xít nói về cách phân chia mới và công bằng những nguồn lực tự nhiên trên địa cầu. Trong chế độ tự do kinh doanh, người không trồng cà phê mà muốn uống thì phải trả tiền. Dù đấy có là người Đức, người Italy hay người của nước cộng hòa Colombia thì anh ta vẫn phải làm cho đồng bào mình một số việc nào đó, anh ta phải kiếm được tiền và dùng một phần tiền để trả cho món cà phê mà anh ta thích.

Còn đất nước không sản xuất được cà phê trong vùng biên giới lãnh thổ của mình thì điều đó có nghĩa là họ phải xuất khẩu hàng hóa hay nguồn lực để lấy tiền thanh toán cho món cà phê mà họ nhập. Nhưng các ngài Hitler và Mussolini lại không thích cách giải quyết như thế. Điều họ muốn là thôn tính lãnh thổ nước xuất khẩu cà phê. Nhưng công dân của Colombia hay Brazil lại không muốn trở hành nô lệ của cả nước Đức quốc xã lẫn nươc Italy phát xít, thế là xảy ra chiến tranh.

Thí dụ đáng chú ý nữa là ngành trồng bông. Hơn một trăm năm qua, một trong những ngành công nghiệp chủ yếu của châu Âu là kéo sợi và sản xuất hàng may mặc. Châu Âu không trồng được một cân bông nào. Khí hậu không thích hợp. Nhưng nguồn cung bao giờ cũng đủ, ngoại trừ giai đoạn 1860, tức là những năm nội chiến ở Mĩ, khi cuộc xung đột làm gián đoạn việc cung cấp bông từ những bang miền Nam. Các nước công nghiệp ở châu Âu đã mua được đủ bông không chỉ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa mà còn cho nhu cầu xuất khẩu khá lớn các sản phẩm về bông nữa.

Nhưng trong những năm ngay trước Thế chiến II tình hình đã thay đổi hẳn. Số lượng bông được bán trên thị trường thế giới vẫn còn rất lớn. Nhưng hệ thống kiểm soát ngoại thương mà phần lớn các nước ở châu Âu áp dụng đã ngăn chặn, không cho thương nhân mua bông để sản xuất nữa. Hitler đã làm cho ngành dệt may suy tàn bằng cách hạn chế sản xuất và buộc họ phải sa thải phần lớn công nhân trong ngành này. Hitler không quan tâm tới số phận của những người công nhân mất việc. Ông ta đưa họ tới những nhà máy sản xuất đạn dược.

Tôi đã chỉ ra rằng trong thế giới của tự do thương mại và tự do kinh doanh thì nguyên nhân kinh tế của chiến tranh sẽ không còn đất sống nữa. Trong thế giới đó việc xâm chiếm các vùng đất và thuộc địa sẽ chẳng mang lại cho người công dân bình thường bất cứ lợi lộc gì. Nhưng trong thế giới của các chế độ toàn trị, nhiều người có thể tin rằng thôn tính những vùng lãnh thổ giàu tài nguyên có thể cải thiện được sự thịnh vượng về mặt vật chất của họ. Những cuộc chiến tranh trong thế kỷ XX chắc chắn là những cuộc chiến tranh kinh tế. Nhưng đấy không phải là do chủ nghĩa tư bản gây ra như những người xã hội tìm cách thuyết phục chúng ta. Các chính phủ muốn có quyền năng vô hạn –được quần chúng, bị bộ máy tuyên truyền trong nước làm cho rối trí, ủng hộ – trong cả lĩnh vực chính trị và kinh tế, là nguyên nhân gây ra những cuộc chiến tranh này.

Ba kẻ xâm lược chính trong cuộc chiến tranh này là nước Đức quốc xã, nước Italy phát xít và đế quốc Nhật bản sẽ không thực hiện được mục đích của họ. Họ đã bị đánh bại và chính họ cũng đã biết như thế. Nhưng trong tương lai họ có thể lại thử làm như thế một lần nữa, vì hệ tư tưởng toàn trị sai lầm của họ không biết bất kỳ biện pháp cải thiện điều kiện vật chất nào khác, ngoài chiến tranh. Những người có tư tưởng toàn trị cho rằng chinh phục là phương tiện chính trị hữu hiệu duy nhất đối với những mục tiêu kinh tế của họ.

Tư duy kinh tế

Tôi không nói rằng tất cả các cuộc chiến tranh của tất cả các dân tộc và trong mọi thời đại đều là có nguyên nhân kinh tế, nghĩa là đều là do ước muốn làm giàu bằng mồ hôi nước mắt của những người bại trận mà ra. Chúng ta không cần phải nghiên cứu nguyên nhân sâu xa của những cuộc thập tự chinh hay những cuộc chiến tranh tôn giáo trong các thế kỷ XVI và XVII. Điều tôi muốn nói là: trong thời đại của chúng ta, tất cả các cuộc chiến tranh lớn đều là kết quả của tư duy kinh tế.

Chắc chắn không thể gọi Thế chiến II là chiến tranh giữa người da trắng và da màu rồi. Vế mặt sắc tộc, người Anh, người Hà Lan và người Na Uy chẳng khác gì người Đức; người Pháp và người Ý thì cũng thế; người Trung Quốc chẳng khác gì người Nhật. Đấy không phải là cuộc chiến giữa người Công giáo và người theo đạo Tin lành. Nói cho cùng, người Công giáo và người Tin lành có mặt trên cả hai bên chiến tuyến. Đấy cũng không phải là cuộc chiến giữa chế độ dân chủ và chế độ độc tài. Đòi hỏi của một số nước thành viên Liên hiệp quốc (đặc biệt là Nga Xô) để được gọi là “dân chủ” là đòi hỏi rất đáng ngờ. Mặt khác, Phần Lan (liên minh với Đức quốc xã) lại là nước có chính phủ được bầu theo lối dân chủ.

Lý lẽ của tôi cho rằng những cuộc chiến tranh trong thời gian gần đây là do động cơ kinh tế không phải là lời biện hộ cho chính sách xâm lược. Dùng chính sách xâm lược và chiếm đóng làm phương tiện kinh tế nhằm tranh giành lợi ích kinh tế là thất sách. Ngay cả trong ngắn hạn có thu được thành công “về mặt kỹ thuật” thì trong dài hạn nó cũng không đạt được mục đích mà bọn xâm lược nhắm tới. Nền công nghiệp hóa hiện đại không cho phép đặt vấn đề xây dựng hệ thống xã hội mà bọn quốc xã gọi là “Trật tự mới”.

Chế độ nô lệ không phải là giải pháp của các xã hội cộng nghiệp. Nếu bọn quốc xã chiến thắng được kẻ thù của mình thì chúng sẽ phải phá hủy nền văn minh và đưa nhân loại trở lại thời kỳ ăn lông ở lỗ. Chúng không thể nào xây dựng được Trật tự mới vĩnh cửu, như là Hitler từng hứa.

Như vậy là, vấn đề chính là làm sao tránh được những cuộc chiến tranh mới. Câu trả lời không phải là xây dựng Hội quốc liên mạnh hơn, cũng không phải là thành lập Tòa án quốc tế hữu hiệu hơn, thậm chí cũng không phải là thành lập lực lượng Cảnh sát quốc tế. Nhiệm vụ thực sự là làm cho tất cả các dân tộc – hay chí ít cũng là những dân tộc động người nhất thế giới – trở thành những dân tộc yêu chuộng hòa bình. Muốn được như thế thì phải quay lại với chế độ kinh doanh tự do.

Muốn loại bỏ chiến tranh thì phải loại bỏ nguyên nhân của chiến tranh

Thần tượng lớn nhất của thời đại chúng ta là nhà nước. Nhà nước là định chế xã hội cần thiết, nhưng không được thần thánh hóa nó. Nó không phải là thần thánh, nó chỉ là sản phẩm của những con người hữu sinh hữu tử mà thôi. Nếu chúng ta biến nó thành thần tượng thì chúng ta sẽ phải hiến dâng cho nó những thế hệ thanh niên của chúng ta trong những cuộc chiến tranh trong tương lai.

Muốn giữ được nền hòa bình bền vững thì xây dựng văn phòng và tòa án cho Hội quốc liên ở Geneva, thậm chí xây dựng lực lượng cảnh sát quốc tế là chưa đủ. Việc cần làm là thay đổi hệ tư tưởng chính trị và quay trở lại với hệ thống kinh tế thị trường tự do.

[themify_box style=”yellow rounded” ]Đây là phần chính bài giảng của Ludwig Von Mises (1881-1973) ở quận Cam, California vào tháng 10 năm 1944.
Ludwig von Mises (1881-1973) là lãnh tụ nổi tiếng của trường phái kinh tế Áo. Ông giảng dạy và viết về lý thuyết kinh tế, lịch sử, nhận thức luận, chính quyền và triết lý chính trị. Ông có những đóng góp quan trọng trong lý thuyết kinh tế, trong đó có lý thuyết về quan hệ giữa lượng tiền lưu thông và giá cả, lý thuyết về chu kỳ kinh doanh… Mises là học giả đầu tiên công nhận rằng kinh tế học chỉ là một phần của môn khoa học lớn hơn về hành vi của con người mà Mises gọi là “nghiên cứu hành vi của con người”.[/themify_box]

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/daily/2949

[i] Từ xã hội hóa ở đây được hiểu khác với quan niệm của ta hiện nay. Nó có nghĩa là quốc hữu hóa hay tập thể hóa chứ không phải là tư nhân hóa -ND.

Vô thường 5

Photo: Maria Gvedashvili

 

Có đoàn tàu nào trở về đây nữa không ?
Em đã ngồi nơi đây suốt cả thời mơ mộng
Em đã đếm bao ngày tháng dài rộng
Em đã hát hết cả những chờ mong…

Có đoàn tàu nào trở về đây nữa không ?
Cho em theo với – về tuổi thơ em đó
Cho em theo với – về lại thời hoa đỏ
Em muốn trở về trở-về-với-Em

Em muốn trở về ngày tháng ngọt như kem
Về với cánh diều và chong chóng giấy
Em muốn trở về trở-về-với-Em…

–The Kid Falling From Heaven–

Có phải tiền đang định hình con người bạn?

Featured Image: Pixabay

 

Chia sẻ này dành cho chúng ta – những người học xong chọn cho mình con đường tìm việc và đi làm thuê. Chúng ta tập trung xây dựng cuộc sống, gia đình, quan hệ, bạn bè,… dựa trên nền tảng công việc mà chúng ta chọn, dựa trên công ty mà chúng ta làm và gắn bó. Vấn đề đặt ra là bạn sẽ cống hiến bao nhiêu phần trăm sức lực, thời gian cho công ty nếu giá trị của bạn xứng đáng được nhận mười đồng nhưng công ty chỉ có thể trả và cần bạn ở mức năm đồng thôi. Bạn sẽ cống hiến mười đồng, mười lăm đồng hay chỉ năm đồng tương xứng với số tiền mà công ty bạn có thể chi trả cho bạn hoặc giả chỉ là việc ở mức hai đồng rưỡi hay thậm chí là chỉ một đồng rưỡi?

Đừng vội, tôi dám chắc mỗi người đã có riêng sự lựa chọn cho bản thân mình nhưng hay giữ bí mật nhé. Cùng so sánh sau khi phân tích được và mất ở mỗi sự lựa chọn xem như thế nào các bạn nhé!

Thứ nhất, bạn sẽ chọn cống hiến  ở mức mười đồng. Điều này có nghĩa là bạn chấp nhận mình sẽ bị thiệt một phần về công sức, cống hiến, thời gian và trí tuệ cho công ty, cho công việc mà bạn đang làm. Bạn đang không quan tâm đến số tiền mà công ty chỉ có thể chi trả cho bạn chỉ là năm đồng thôi. Bạn sẳn sàng biếu không năm đồng mà bạn tạo ra cho công ty. Đây là điều mà rất ít người có thể làm được như bạn đang nghĩ và đang làm, vì phần lớn chúng ta có cái nhìn rất ngắn, hạn hẹp chúng ta chỉ chăm chú vào số tiền mà chúng ta được nhận và ki bo từng đồng từng cắc. Thường chúng ta không hề có sự lựa chọn đường hướng cho năm hay mười năm tiếp theo. Chúng ta không xác định được đâu là lẽ sống của chúng ta, chúng ta không hề biết chúng ta đang sống vì điều gì và chúng ta đang yêu thích cái gì. Lựa chọn điều này bạn là người giỏi, thông minh đấy nhưng sẽ khôn ngoan hơn nếu bạn chấp nhận dấn thân theo trường hợp tiếp theo. Thử xem thế nào nhé.

Thứ hai, bạn sẽ chọn cách làm hết sức lực của mình. Với ý nghĩ này xét về khía cạnh tiền bạc, thời gian bạn sẽ lỗ hơn rất rất nhiều lần. Vì công ty chỉ cần bạn tạo ra giá trị tương đương năm đồng nhưng bạn là người có năng lực, cống hiến chỉ quan tâm đến sự cống hiến của chính mình cho công ty, quan tâm đến sự khám phá năng lực tiềm ẩn của cá nhân. Bạn không quan tâm đến thiệt hơn về vật chất vì có nhiều điều còn quan trong hơn cả tiền bạc. Mặc dù bạn sẽ thiệt phần tiền công so với công sức bạn bỏ ra nhưng với sự lựa chọn này cái được lớn nhất chính là bạn được sống là chính mình. Bạn làm ra tiền chứ không phải đồng tiền đang nhào nặn nên con người bạn. Bạn sống đã, làm việc hết mình, chơi cống hiến thế thì một ngày nào đó thiên hạ chắc chắn sẽ nằm trong tay của các bạn.

Thứ ba, làm đúng sức mình với mức chi trả theo khả năng của công ty. Bạn có năng lực mười đồng cơ mà tại sao bạn lại tự giới hạn năng lực của chúng ta. Đến lúc nào đó nó sẽ may một, và chúng ta sẽ từ người có khả năng tạo ra giá trị mười đồng xuống một người chỉ tạo ra một giá trị năm đồng. Phải chăng chính vì trọng đồng tiền mà bạn đã bị đồng tiền định hình cuộc đời của chính bạn. Bạn không cố gắng hết khả năng và khi lựa chọn như vậy bạn chẳng ban giờ biết được năng lực thực, giá trị thực nơi con người của bạn như thế nào. Vì bạn chẳng bao giờ làm việc hết mình, bạn chẳng bao giờ cảm thấy yêu thích một điều gì trên đời cả. Khi đó cuộc sống thật vô vị, nó làm bạn trở nên nhút nhát và thấp kém hơn.

Cuối cùng, chính là sự lựa chọn của những kẻ thấp kém trong xã hội. Họ sẳn sàng làm dưới sức mình, dưới cả sự chi trả của công ty. Gian dối, họ chỉ tạo ra giá trị một đồng rưỡi hoặc hai đồng rưỡi nhưng báo cáo, chém với công ty rằng em làm bla bla để rồi họ được nhận năm đồng. Thiệt hơn thì công ty đã thiệt một phần tiền vì giá trị họ tạo ra không tương xứng với giá trị mà công ty bỏ ra. Ngẫm lại thì cảm thấy rất đáng thương cho các bạn này vì họ mãi mãi không biết mình là ai, không biết mình có năng lực gì và mình giỏi cở nào. Họ mãi mãi là những kẻ thất bại, đáng buồn thay nhóm này hiện nay đông như quân Nguyên.

Vấn đề chỉ có vậy, chúng ta hay tự lựa chọn cách làm việc cho chính mình. Hãy chọn và cống hiến, dấn thân với nó, chúng ta có sức trẻ ngại gì mà không thử, làm hết sức, chơi hết mình. Đừng để đồng tiền tạo nên con người mỗi chúng ta, đừng để tiền làm nên nhân cách của mỗi người chúng ta. Hãy sống một cuộc đời thật đã, cống hiến, hết mình để biết rằng mình đang giỏi cái gì, mình đang giỏi như thế nào. Cuộc đời của bạn là do sự chọn lựa của chính bạn. Vậy nên nếu bạn chọn cống hiến trên cả mức công ty chi trả thì thiên hạ chắc chắc là của bạn; nếu bạn tạo ra giá trị bằng với mức công ty chi trả thì bạn đã vô tình để đồng tiền sai khiến bạn, quan trọng hơn  bạn sẽ không bao giờ biết được bạn là ai cho đến khi bạn đi về bển; cuối cùng nếu bạn chấp nhận làm gian dối, lười nhát làm dối ăn thiệt, sẳn sàng bán rẻ nhân cách chỉ vì đồng lương nhỏ nhặt đấy thì cuộc đời này sẽ ra sao, thiên hạ thuộc về ai thì có lẻ bạn đã rõ. Vậy hãy sáng suốt lựa chọn và dấn thân với lựa chọn của chính mình nhé các bạn.

 

Mr. Lias

Giới trẻ và vận mệnh đất nước!

Featured image: Naive Project

Việt Nam sắp thua Lào và Campuchia?

Gần đây, các bài báo bắt đầu rộ lên thông tin chỉ vài ba năm nữa, 2 nước bạn Lào và Campuchia sắp vượt mình về GDP bình quân đầu người: Ngân hàng Thế giới (WB) vừa đưa ra khảo sát GDP bình quân đầu người năm 2013 của VN là 1.910 USD/người chỉ cao hơn Lào là 300USD/người và 900USD so với Campuchia. Thứ trưởng Bộ KHĐT Nguyễn Chí Dũng phải thừa nhận “Nếu vẫn phát triển như hiện nay các nước này chỉ mất 3-5 năm tới là vượt mình.”

Để 2 nước bạn vượt, điều đó có thực sự là không tốt?

Bấy lâu nay, dù đất nước nghèo đói, lạc hậu so với thế giới, dù dân trí thấp kém, chậm phát triển trong kinh tế, giáo dục…nhưng chúng ta vẫn luôn tự hào vì đứng “trên” 2 đàn em Lào và Camphuchia, vẫn là “Đầu tàu” phát triển kinh tế, giáo dục, khoa học kĩ thuật của khu vực Đông Dương. Chúng ta vẫn tự hào là nhà đầu tư số 1 tại Lào, vốn đầu tư sang Capuchia tăng mạnh trong những năm gần đây;  rồi tự hào về cả vị trí dẫn đầu trong những nước có du học sinh Lào theo học…

Ảo tưởng theo kiểu: “Nhìn lên thì không bằng ai, nhưng nhìn xuống thì không ai bằng mình” khiến chúng ta quên đi rằng đất nước vẫn đang xếp thứ nhất với những điều đáng xẩu hổ như:

  • Uống 3 tỷ lít bia/năm
  • Ăn 5 tỷ gói mì/năm
  • Giá thuốc lá rẻ nhất thế giới
  • Tỷ lệ nạo phá thai lớn nhất thế giới
  • Thịt lợn, thịt bò đắt nhất
  • Giá sữa cao nhất
  • Giá xe cao nhất
  • Phí bệnh viện cao nhất

Biết đâu, để 2 nước bạn vượt mặt, đó là một điều đáng mừng?

Đáng mừng là để chúng ta nhận ra mình đang ở đâu và cần phải làm gì; để chúng ta thấy rằng Lào, Campuchia họ cũng đi từ xuất phát điểm như thế, họ cũng đã vươn lên như thế, với tư tưởng của một đất nước nhược tiểu sẵn sàng học hỏi từ cộng đồng quốc tế chứ không như chúng ta lúc nào cũng nhìn xuống xem có bao nhiêu đứa không bằng mình rồi ngất ngưởng với những cái nhất không giống ai đấy!

Họ tuy không có “ Rừng vàng, biển bạc”, họ cũng biết rằng mình không có rừng vàng, biển bạc, chính vì thế họ sẵn sàng học hỏi, lao động, tìm tòi để làm giàu cho đất nước, dân tộc. Chúng ta có “Rừng vàng, biển bạc”, chúng ta biết và cũng luôn tự hào về sự giàu có của đất nước, thế nên ta đào, ta bán thay vì sản xuất, nuôi trồng…

Ta tự hào vì có nền giáo dục tiên tiến “hơn” họ, vì hàng năm cấp cho họ hang nghìn xuất học bổng tại các trường đại học lớn, vì hàng vạn học vị tiến sĩ để rồi để họ vượt mặt về chỉ số Năng xuất sáng tạo. Tiến sĩ “giấy” thì đâu thử được lửa đời!

Chúng ta đã làm gì để đất nước này đi lên?

1. Học

Từ nhỏ, chúng ta được dạy dỗ là “Phải cố gắng học tập thật giỏi, để góp phần xây dựng đất nước” rồi trong câu kết quen thuộc của những bài văn chẳng phải chúng ta vẫn thường viết: “Em xin hứa sẽ cố gắng lỗ lực học tập thật giỏi để sau này đem sức lực nhỏ bé của mình đi xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp”, thế là học sinh nhao nhao vào học tập, phụ huynh nhảy vào đầu tư cho con cái được học ở những trường tốt nhất, học nhiều nhất, kiểm tra điểm cao nhất.

Giáo dục nước nhà được chú trọng và đầu tư nhiều hơn bao giờ hết, hằng năm hàng ngàn tỉ đồng ngân sách được sử dụng cho hoạt động giáo dục, đại học, cao đẳng được mở ra ồ ạt, các dự án đổi mới chương trình dạy và học, dự án bồi dưỡng, đào tạo cán bộ được triển khai nhiều hơn bao giờ hết. Và…chúng ta đã thu lại những gì?

Chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ thích hưởng thụ, sống lệ thuộc, thụ động. Thế hệ ấy thích ngắm hơn là đọc, đèn facebook lúc nào cũng sáng 23/24, các ảnh tự sướng, stt tâm trạng thì nhảy vào comment không ngớt; các bài báo, bài viết giá trị về tình hình đất nước, xã hội thì chẳng ai quan tâm.

Chúng ta đã tạo ra một thế hệ yếu kém về cả thể chất lẫn tinh thần. Sáng dậy, ra đường chỉ thấy các cụ già đi tập thể dục mà chẳng có một bóng thanh niên; trẻ em tiểu học phải dậy từ 6h sáng rồi đeo chiếc cặp vài ba kg tới trường, trong khi đó sinh viên thì 9-10h sáng vẫn nằm trùm trăn. Đi học đường xa một chút, trời lạnh một chút là lên facebook kêu ca này nọ; anh ca sĩ này mới có người yêu mới, chị diễn viên kia mới bị bồ đá…là biết ngay, nhưng về nhà nấu một bữa cơm cho mẹ chưa chắc đã làm được. Nghịch lý!

Còn đó cả một thế hệ thờ ơ, vô cảm với cuộc sống, xã hội, vận mệnh của đất nước và cả dân tộc. Nghe tin Trung Cộng có cái giàn khoan vào biển mình, thì cũng thay cái avata biển Đông cho nó có phong trào chứ có biết sự tình thế nào đâu. Đi coi bóng đá, đi chơi Noel, pháo hoa…thậm chí cả đi hưởng ứng cái vụ giờ Trái Đất là y như rằng sáng hôm sau rác thải đầy sân vận động, đầy đường phố. Lên báo thì cũng kệ thôi, cha chung không ai khóc, người ta vứt thì mình cũng vứt thôi, ai dại gì mà nhặt cho chúng nó cười!

2. Làm

Dân số Việt Nam đang phát triển trong thời kì mà bất kì quốc gia nào cũng mơ ước khi mà cơ cấu đang ở độ chín với độ tuổi lao động chiếm gần 2/3 trên tổng 90 triệu dân. Ở giai đoạn dân số Vàng này, lẽ ra phải là động lực để phát triển và đưa nền kinh tế đất nước đi lên thì thực tế lại cho thấy chiều ngược lại. Đâu đó người ta vẫn thường nhắc cái bài ca: “VN với lực lượng dân số đông, trẻ và giá nhân công thấp.” Người nước ngoài đầu tư ở nước ta, trả cho dân ta số tiền rẻ mạt và ta thấy tự hào?!

Nhưng cái gì cũng có giá của nó, bạn được trả lương vì tạo ra giá trị cho thị trường chứ không phải thời gian, tại sao người ta được trả tới 10$ cho một giờ làm việc mà chúng ta lại được trả chưa tới 1$? Rồi thì năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 1/18 năng suất lao động của Singapore, bằng 1/6 của Malaysia và bằng 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc.

Đây là một câu chuyện nhỏ của bác Alan Phan trong bài viết Khi “dân số vàng” Việt Nam vẫn còn đang ngái ngủ.

 

Khi trò chuyện với mộtbạn trẻ đang làm việc tại Phòng Quản lý Tài nguyên và Môi trường ở một huyệnthuộc tỉnh Bình Dương (tỉnh được xem là một trong những địa phương có nền kinhtế năng động nhất cả nước), tôi mới vỡ lẽ chuyện gì cũng có nguyên nhân của nó.

Bạn trẻ nàytâm sự và than vãn rằng lương tháng quá thấp (khoảng 1 triệu 9 trăm nghìn đồng,chưa đến 100 đô la Mỹ), công việc là đo đạc và kiểm tra đất đai. Khi được hỏicông việc có áp lực không, anh cho rằng chẳng có nhiều việc để làm, mỗi ngàytheo quy định là phải có mặt ở văn phòng lúc 8 giờ sáng và rời khỏi văn phònglúc 5 giờ chiều, thế nhưng chẳng ai quản lý giờ giấc, thậm chí là có nghỉ làm vàingày không xin phép cũng chẳng sao. Mỗi người một máy tính, tha hồ chơi game,xem phim và facebook. Anh cho rằng công việc ở đâylàm bạn phí thời gian nhưng khi được hỏi là tại sao không xin việc ở nơi khácthì anh nói trình độ và bằng cấp không có, công việc hiện tại là do gia đìnhquen biết và xin cho.

Đó chỉ là mộtví dụ ở một đơn vị hành chính công của Việt Nam, còn phía khối doanh nghiệp nhànước thì cũng không kém. Một người bạn của tôi đang làm ở phòng kinh doanh củamột doanh nghiệp nhà nước lớn (có khoảng hơn 30 công ty con) thì có cách thanvãn nhẹ nhàng hơn. Chả là mấy hôm nay tuyến cáp quang internet bị sự cố ngoàibiển, bạn bực mình vì chẳng thể download phim về xem được. Là con gái một sếp nhân sự ở doanhnghiệp này cho nên dù chỉ có tấm bằng tốt nghiệp phổ thông, chị vẫn được vàolàm ở đây.

Lịch trìnhhằng ngày của chị như sau: 8 giờ đến cơ quan điểm danh và mở máy tính, đọc báolướt web đến khoảng 9 giờ kém đi ăn sáng uống cà phê cùng đồng nghiệp, đến khoảng10 giờ về lại văn phòng và download phim trong lúc tiếp tục lướt web đến 11 giờhơn, 12 giờ nghỉ trưa nhưng vì là con gái nên chị tự cho phép mình về sớm mộttí và vào muộn một tí vào đầu giờ chiều. Thường là đầu giờ chiều các sếpđi ra ngoài tiếp khách hoặc làm việc riêng đâu đó nên chị cũng lơ là công việchơn buổi sáng một tí.

Hai trường hợp trên đây không phản ánh tất cả nhưng cũng cho thấy tồn tại một bộ phận đang lãng phí của công và ăn bám xã hội một dưới vỏ bọc “nhân viên văn phòng.”

 

Hồi tôi mới thi đại học, các bác, các cô, các chú đồng loạt khuyên thế này:

– Mày nên thi vào trường XYZ này này! Sau này ra trường dễ xin việc, mà làm nhà nước thì NHÀN!

– Trường đấy không được đâu cháu! Nhà mình không có quan hệ gì, cháu học đấy rồi sau này không xin được việc đâu!

– Cháu nhìn anh ABC kia kìa, học mấy năm được cái bằng, giờ làm nhà nước, ngồi máy lạnh mà tiền cũng dễ kiếm.

Chẳng phải trong gia đình tôi mà cả xã hội  bây giờ là thế, họ nói những điều ấy với cả những đứa mẫu giáo, cấp 1 rằng:

“Cháu ơi! Ráng lên mà học, sau này vào làm nhà nước nhàn nhạ mà rạng danh gia đình, dòng họ!”

Hóa ra, từ khi còn nhỏ, lực lượng lao động chính của đất nước ấy đã được dạy những điều cơ bản như: công việc nhàn, lương nhà nước, làm ít, ngồi máy lạnh, điều hòa… là mục tiêu tối thượng, là mong muốn của những người xung quanh nó.

Thế là mới có những câu chuyện kiểu như ngồi café nhậu nhẹt, 1 thằng nói:

– Tao vừa xin được việc chỗ này, lương tháng 5 triệu mà toàn ngồi chơi.

Thằng kia lập tức nói ngay:

– Ngon vậy!

Thay đổi là giải pháp

Thay đổi là con đường duy nhất giải quyết cho mọi vấn đề. Thời kì xã hội thông tin phát triển nhanh tới mức mà kiến thức sản sinh ra trong vòng 60s tới đủ để ta học đến năm 80 tuổi, thì không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kì xã hội nào khác, nếu không thay đổi để bắt kịp xu thế thì việc bị bỏ lại phía sau là xu hướng chung.

Chúng ta đã đi sai đường, nhưng chưa hề muộn để thay đổi. Cái khó là chúng ta có dám dũng cảm để thay đổi từ tư duy, cách nghĩ đến cách lao động, làm việc, học tập.

Câu trả lời nằm ở chúng ta, những người trẻ-năng động và nhiệt huyết-những con người nắm trong tay vận mệnh của cả đất nước và dân tộc. Để cả đất nước thay đổi, thì chúng ta phải là những người cần thay đổi đầu tiên, bắt đầu từ tư duy:

Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận.

Chia sẻ bài viết này nếu bạn cảm thấy có ý nghĩa!
The more you share, the more you get!

 

Lê Ngọc Hưng

19 tuổi bạn đã…

Featured image:  Cara

 

19 tuổi bạn đã chọn cho mình một trường Đại học đúng tâm nguyện?
19 tuổi bạn đã thật sự yêu một ai đó bằng cả một con tim?
19 tuổi bạn đã bao giờ xách ba lô lên vai và đi bụi 1 lần?
19 tuổi bạn đã thật sự đốt mình trong đam mê của tuổi trẻ?
19 tuổi bạn đã vạch ra kế hoạch gì cho tương lai của mình?

Chưa. Đó câu trả lời của tôi, còn bạn thì sao?

Ta có thể nói cái tuổi 19 ấy…cái tuổi người lớn chẳng phải và con nít thì tất nhiên là không rồi. 19 cái tuổi chập chững tập làm người lớn với biết bao hoài bão và khát vọng. Bắt đầu từ cái tuổi này, tôi và bạn đều đứng ra cánh cửa của tương lai đón nhận mọi thứ để tự lập và trưởng thành, nó là những ngày tháng mưa giông, ngày nắng hồng đôi khi là những ngày gió bão giật cấp 15, 16 nữa đấy.

Khi tôi viết về cái tuổi 19 khi tôi đã bước sang tuổi 23, nhìn lại cái tuổi 19 đầy ngây dại vụng về, tôi chẳng hề tiếc nuối cái tuổi ấy đã đi qua, bởi lẽ cái tuổi 19 suy nghĩ thì nhiều mà làm thì ít 19 tuổi bạn không thể hoàn hảo mọi thứ từ suy nghĩ đến hành động đâu, bạn không nên có những yêu cầu quá khắt khe khi ở độ tuổi này. Hãy sống như kiểu con nít mới lớn, làm những gì mình thích và thích những gì mình làm. Nhớ nhé!

19 ạ, bắt đầu từ tuổi này bạn có khát khao và khao khát thực hiện ước mơ của mình lắm đấy, đó là ước mơ cho tương lai, hay một niềm đam mê nào đó ,nó cứ như ngọn lửa bập bùng cháy, âm ỉ cháy đôi khi bùng lên dữ dội làm ruột gan nóng như lửa đốt.

19 tuổi bắt đầu nếm được cái vị mặn của những giọt nước mắt nơi đầu lưỡi. Là giọt nước mắt tủi thân, giọt nước mắt buồn phiền và giận dỗi hay đôi khi đó là giọt nước mắt của sung sướng và hạnh phúc. Cuộc sống là phải trải nghiệm, trải nghiệm rồi mới hiểu được ý nghĩa đích thực của hai từ cuộc sống, theo bản thân tôi cuộc sống có nghĩa là một cuộc đấu tranh để dành lấy sự sống cho bản thân, nói hơi quá nhưng bản chất cuộc sống là vậy, họa may nó chỉ phủ một lớp tình người mỏng manh, che đậy nó mà thôi. Nhưng hiển nhiên tôi không phủ nhận giá trị nhân đạo của cuộc sống, nói ở đây là nói những cái góc khuất của xã hội, nhiều người lấy cái vỏ của đạo đức, mang danh đạo đức ra mà giúp người, nhưng thật sự là không phải thế, tác hại của họ gây ảnh hưởng cực kỳ lớn đến xã hội là suy giảm lòng tin của con người vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

19 tuổi, bạn sẽ thích tự lập bằng cách đi làm thêm, đi làm để lấy kinh nghiệm sống, đi làm để trang trải cho cuộc sống. Cái giá của sự tự lập là đắt lắm đấy. Tin tôi đi!

19 tuổi bạn chưa có gì để mất, suy cho cùng chỉ có thời gian và niềm tin , sự nhiệt huyết của tuổi trẻ. Vì thế hãy can đảm làm gì mình thích, đừng sợ thất bại, hãy đột phá và lội ngược dòng để thấy giới hạn của mình tới đâu.

Dẫu biết rằng sau mỗi lần vấp ngã là một bài học, thế nhưng mấy ai rút ra được kinh nghiệm cho bản thân – ở cái tuổi này. Hãy khóc đi bạn nhé, khóc xong rồi phải ngẩng đầu bước tiếp. Vì muốn thấy cầu vồng phải trải qua những cơn mưa.

19 ơi! Cố lên nhé.

 

Hà Trinh

Đừng lầm tưởng và đổ lỗi nữa…

Featured image: Asylum Art

Có chăng, chúng ta đang đổ lỗi lẫn nhau để rũ bỏ trách nhiệm của chính mình…

Ở xã hội hiện tại, các bạn có thấy rằng chúng ta đang đổ lỗi cho nhau, từ cá nhân, tổ chức, con người và cả xã hội nữa.

Nhà trường, thầy cô giáo đổ lỗi về sự hư hỏng của học sinh, trong khi đó học sinh đổ lỗi lại sự vô trách nhiệm của họ.

Ba mẹ đổ lỗi cho con cái khi bất lực về việc giáo dục hay bảo ban trong khi đó con cái lại đổ lỗi chính họ là nguyên nhân tạo nên tính cách của mình.

Sếp đổ lỗi cho sự yếu kém của nhân viên trong khi nhân viên đổ lỗi về sự bất tài trong cách lãnh đạo của sếp.

Bạn đổ lỗi cho bạn mình khi quan hệ trở nên xấu đi trong khi đó họ cũng nói xấu bạn để chứng minh họ là người bạn tốt trong mắt người khác.

Cảnh sát giao thông đổ lỗi cho ý thức của người dân trong khi người dẫn lại đổ lỗi về tệ nạn phong bì của chính họ.

Có chăng chúng ta đang đổ lỗi cho tác nhân khác mà không biết rằng tác nhân đó hình thành chính là do chúng ta?

Bạn đổ lỗi về tương lai của mình vì ba mẹ, trường học, giáo dục, … trong khi tương lai của bạn là do chính bạn quyết định.

Bạn đổ lỗi các báo lá cái viết linh tinh toàn tin thất thiệt, cướp, hiếp, giết… mà không biết rằng chính bạn lại là người có sở thích khoái chí đọc mấy tin đó.

Bạn đổ lỗi cho mấy nhân vật chuyện tạo scandal mà không biết rằng chính hành động phản đối của bạn lại càng gúp họ nổi tiếng.

Bạn đổ lỗi về sự yếu kém của mình là do môi trường, do… mà không biết rằng, vẫn là do nhận thức của bạn tạo lên.

Bạn đổ lỗi về chuyện tình yêu kém may của mình do số phận, do cuộc đời bất công, mà không biết rằng, việc bạn không có người yêu là do bạn chứ không phải ai khác – vấn đề này cũng tương tự với hạnh phúc, khổ đau, giàu sang… bạn thường đổ lỗi cho số phận, nhưng không biết rằng số phận là do bạn tạo nên.

Có chăng nhiều lúc chúng ta nghĩ rằng nếu có thứ này thì chúng ta sẽ đạt được thứ kia?

Tôi đã từng muốn học đàn và tôi nghĩ rằng chỉ cần có một chiếc đàn guitar là tôi sẽ học được, rất tiếc, tôi cũng chưa gảy hoàn thiện được một bài nào mặc dù đã mua tới tận 3 chiếc guitar.

Tôi đã từng muốn học tiếng Anh và ép mình học tiếng Anh bằng được, tôi nghĩ có nhiều sách là được, tôi mua hàng tá sách tiếng anh về, rồi cuối cùng chả đọc quyền nào cả.

Tôi nghĩ rằng kinh doanh là cần có vốn đầu tiên, vậy nên thương vụ kinh doanh đầu tiên tôi xin 20 triệu đồng, nhưng sau đó cũng nướng sạch trong vòng 2 tháng.

Tôi từng nghĩ rằng chỉ cần có một ý tưởng tốt và sự cố gắng là sẽ có thể thành hiện thực, tôi lao đầu vào suy nghĩ vẽ nên những tương lai đẹp đẽ, nhưng bản kế hoạch trong mơ, để rồi đến khi thực hiện thì mọi thứ trở về hiện thực.

Tôi từng nghĩ rằng tôi sẽ dùng smartphone thông minh để học tiếng anh, đọc ebook cũng như làm các công việc phụ trợ mình tốt hơn, tôi sắm một con smartphone 9 triệu đồng, tôi dùng nó được 6 tháng thì hỏng màn hình nên bán rẻ còn 2 triệu tư, sau đó dùng tiền để đầu tư, 1 tuần sau khi xài đen trắng thấy bất ổn thì tôi tậu lại cho mình một chiếc Blackberry 8900 với giá 450k, giờ thì tôi hài lòng về nó, bởi ngoài các tính năng cơ bản mà 2 điện thoại hỗ trợ rất tốt thì chiếc 9tr kia kiến tôi chơi game và xem phim nhiều hơn trong khi đó chiếc 450k kia giúp tôi tập trung đọc ebook tốt hơn.

Có thể khi bạn đọc thì đây là những thứ quá hiển nhiên và bạn cũng thấy thế, những ví dụ qúa vớ vẩn và lãng xẹt, nhưng những điều tôi viết trên đây không phải để bạn công nhận là nó đúng, mà giúp gợi cho bạn những thứ lãng xẹt đó đang có mặt trong cuộc sống của bạn. Tôi nghĩ những câu chuyện trên cũng giúp bạn liên tưởng và nhận ra được nhiều thứ, đặc biệt là đang sảy ra trong cuộc sống của bạn, còn tôi, tôi cũng chỉ có một điều muốn nói với bạn: Đừng lầm tưởng và đổ lỗi nữa.

Vì cuộc sống là của bạn, do bạn quyết định, và vì bạn quyết định cuộc sống của bạn, nên hãy để người khác quyết định cuộc sống của chính họ……

 

Jay Vuong

 

 

Làm thế nào để tự chữa bệnh lười

Featured image: Antocitta

 

Tôi đọc bài viết Đất nước của những kẻ lười biếng trên Triết Học Đường Phố và bài Tại sao người Việt lười biếng trên trang Góc nhìn Alan. Bài viết thứ nhất thẳng thắn chỉ ra vấn đề và bài viết thứ hai luận bàn về căn nguyên của của nó. Tôi đọc các bình luận về bài viết thứ nhất và nhận thấy đa số bạn đọc có vẻ như “ngộ ra” và công nhận là mình đang lười biếng thật. Ở bài viết thứ hai, những căn nguyên của bệnh lười là những yếu tố khách quan bên ngoài chứ không phải là từ chính chủ thể lười biếng: chúng ta lười lao động do cơ chế làm chủ tập thể, lười suy nghĩ do cơ chế bao cấp về tư tưởng, lười học do hệ thống giáo dục yếu kém và lười tập thể dục do môi trường bị hủy hoại.

Suy nghĩ về vấn đề được đặt ra, tôi không khỏi liên tưởng đến một mẩu chuyện về một ông bố nát rượu và hai người con trai mà tôi đã đọc đâu đó. Ông anh thì cũng nát rượu hệt như ông bố và sống một cuộc đời vô cùng bê tha trong tối tăm vô vọng. Ngược lại, người em rất nỗ lực vượt lên hoàn cảnh, tự tìm cách học hành và sau này rất thành đạt trong cuộc sống. Mọi người xung quanh rất ngạc nhiên và hỏi tại sao là anh em một nhà nhưng họ lại khác nhau đến thế. Câu trả lời mà họ nhận được từ hai người anh em đó giống hệt nhau: “Tại tôi có một ông bố nát rượu.”

Trở lại vấn đề lười biếng, điều nên bàn là khi ta đã biết ta lười, ta chỉ tặc lưỡi, “ừ, đúng là mình lười thật” rồi… thôi, ta sẽ chờ đợi những giải pháp vĩ mô cho những nguyên nhân đã được xác định trong bài viết thứ hai, hay ta nỗ lực tìm những giải pháp tự thân để ngăn không cho bệnh lười của mình trở thành mãn tính?

Việc lựa chọn một thái độ trước một sự việc nào đó có thể quyết định sự thành công hay thất bại. Theo tôi, nếu ta cứ để mặc mình trôi đi trong sự lười biếng hoặc trông chờ vào tha lực – cái có thể không bao giờ tới – khả năng rất cao là ta sẽ trở thành người anh nát rượu trong câu chuyện trên. Vậy tại sao ta không lựa chọn một thái độ tích cực hơn để trở thành người em giỏi giang thành đạt?

Do vậy, trong bài viết này tôi xin được đề cập đến một số giải pháp cho chính chủ thể lười biếng tự thực hiện.

Lười học – Hãy tự tìm cho mình một lối đi

Đừng đổ lỗi cho những cám dỗ vật chất như Internet, karaoke, Lotte hay Starbuck làm cho bạn trở nên lười học. Phim hay ư, cà phê ngon ư, bạn vẫn có thể thụ hưởng nó vào những ngày cuối tuần cùng bạn bè kia mà. Năm ngày đầu tuần bạn hãy ưu tiên cho công việc cần làm trong lứa tuổi của bạn là học, để hai ngày còn lại sẽ là thư thái an nhàn thay cho cảm giác uể oải và áy náy suốt tuần vì bỏ bê việc học.

Đừng đổ lỗi cho những kiến thức khó nuốt, áp đặt của một nền giáo dục nặng tính giáo điều đã làm cho bạn trở nên lười học. Bạn chán ngán nền giáo dục trong nước ư? Vậy bạn hãy tìm cách đi tị nạn giáo dục đi. Việt Nam đã ở thời mở cửa nên cơ hội cũng mở, miễn là bạn phải muốn tìm. Một số sinh viên của tôi không cần đến bố mẹ quá giàu mới được ra nước ngoài học đâu. Họ tự rèn luyện tiếng Anh để lấy những chứng chỉ với mức điểm yêu cầu của các nước họ muốn đến, rồi họ tìm các chương trình học ở các nước phát không thu học phí. Họ xác định rõ bố mẹ họ chỉ hỗ trợ ăn ở cho một vài tháng đầu tiên, và họ chấp nhận làm những việc chân tay để có thể duy trì việc học.

Nếu bố mẹ bạn không có khả năng chu cấp cho bạn một số tháng đầu ở nước ngoài, bạn hãy chọn con đường tự mình bồi dưỡng kiến thức cho mình ở trong nước vậy. Trong một bài tập tôi giao cho sinh viên hãy giải quyết bài toán cung (kiến thức/kỹ năng ở các trường đại học) và cầu (nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp) không gặp nhau, dẫn đến tình trạng 174.000 cử nhân thất nghiệp ở Việt Nam tính đến quý 3/2014, các sinh viên của tôi đã đưa ra một giải pháp rất đáng khích lệ. Theo họ, khi vẫn đang ngồi ở trường đại học, bạn nên tìm hiểu các trang tuyển dụng để biết về yêu cầu của các công việc bạn muốn làm. Thay vì ngồi đó đổ lỗi cho nhà trường không dạy những kiến thức bạn cần, bạn nên chủ động ra ngoài tìm học những cái bạn thiếu. Thời đại công nghệ và dịch vụ phát triển, bạn có nhiều cách để tự phát triển kỹ năng chứ không phải chỉ dựa vào thầy cô và trường lớp.

Lười làm – Hãy trang bị cho mình tư duy “ông chủ”

Báo Tuổi Trẻ có đăng một so sánh của ông Vũ Ngọc Hoàng, ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương:

“Cách đây bốn, năm mươi năm, Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam và Việt Nam cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại Việt Nam làm ông chủ, làm quản lý, còn người Việt Nam ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin.”

Tại sao đồng bào chúng ta đã từng “đầu ngẩng cao bất khuất” trong các cuộc chiến tranh, giờ lại phải tha hương cúi đầu làm nô bộc trong thời đất nước thái bình? Xin hãy đừng tìm câu trả lời từ bên ngoài mà hãy tìm nó ở tự thân.

Trước tiên, bạn hãy nuôi dưỡng và phát triển tư duy “ông chủ”, không phải là làm chủ người khác mà làm chủ chính vận mệnh của mình. Ta phải biết đấy là môt nỗi nhục khi đầu ta phải cúi xuống, mắt ta phải lấm lét xem mình có đang bị dò xét hay không để mà làm việc theo kiểu đối phó, và cái tư duy “nô bộc” đó sẽ biến chúng ta thành osin ngay trên đất nước của mình chứ đâu cần phải đi sang nước bạn. Tôi chắc khi bạn giải quyết được việc lười học, bạn sẽ không lười làm. Cái quá trình tự tìm con đường sáng cho cuộc đời của bạn qua con đường học tập tự thân nó đã là chăm làm, và quá trình đó cũng giúp bạn nuôi dưỡng lòng tự trọng, tự tôn của một “ông chủ” khi bạn thực sự đi làm việc về sau.

Lười suy nghĩ – Hãy chọn Con đường chẳng mấy ai đi

Đừng đổ lỗi cơ chế gò bó khiến bạn lười không muốn nghĩ, bởi cái chính là bạn tự quyết định bạn nghĩ cái gì. Chúng ta không chọn được vùng đất nơi chúng ta sinh ra, nhưng chúng ta chọn được vùng đất mà chúng ta muốn đến để thoải mái suy nghĩ hay có điều kiện tốt hơn để suy nghĩ, để từ đó những sáng kiến mới, những đóng góp mới vào túi khôn nhân loại sẽ ra đời. Nếu có khả năng, bạn hãy suy nghĩ như GS. Ngô Bảo Châu ở một môi trường phù hợp nào đó, rồi nhận một giải thưởng danh giá cho suy nghĩ của mình, sau đó trở về nước, gợi cảm hứng đổi mới tư duy cho lớp trẻ. Tôi chắc chắn rằng bạn sẽ được hân hoan chào đón, bởi thực tế đã cho thấy phụ huynh học sinh đạp đổ cả một cổng trường thực nghiệm tại Hà Nội năm 2012 chỉ bởi họ hy vọng GS. Ngô Bảo Châu sẽ giúp con họ có được một phương pháp tư duy tích cực.

Thật ra, ở bất cứ môi trường nào bạn cũng có thể suy nghĩ, miễn là bạn phải muốn nghĩ và muốn đi “những con đường chẳng mấy ai đi”. Nếu bạn nghĩ về những cái người ta đã nghĩ chán chê rồi thì lấy đâu ra những cá nhân kiệt xuất, những phát minh làm thay đổi cuộc sống? Đọc báo, xem truyền hình, tôi rất xúc động về các học sinh rất đỗi bình thường từ những vùng đất khó nghèo của làng quê Việt Nam đã biết suy nghĩ từ những mảng khuyết của thực tế cuộc sống để đóng góp thêm cho cuộc sống. Em Đinh Công Toàn, một học sinh nghèo lớp 9 ở một làng quê lúa ở Hà Tĩnh vì thương cha mẹ vất vả mà suy nghĩ cách phát minh ra máy quạt lúa. Đặng Thị Ngọc Ánh, học sinh 12 của một trường huyện ở Thừa Thiên-Huế vì thông cảm với nỗi nhọc nhằn với những người quét rác phải vất vả thu gom, đốt xác lá khô mà suy nghĩ ra công thức chế biến “giấy xanh” từ lá chuối, lá khô và thân tre. Đó chỉ là một vài ví dụ về cách suy nghĩ tích cực bắt nguồn từ “cái khó” để từ đó “làm ló cái khôn”.

Tôi dạy tư duy phản biện ở một trường đại học. Buổi đầu tiên giới thiệu về môn học, tôi vẽ một vòng tròn lên bảng và hỏi sinh viên của tôi nhìn thấy cái gì. Câu trả lời nhanh nhất và đồng loạt từ các em là một vòng tròn. Tôi khuyến khích các em nhìn tiếp, sau một lúc, một số em trả lời ngập ngừng rằng các em nhìn thấy cái lỗ, cái khoảng không trống rỗng bên trong vòng tròn. Đó là câu trả lời tôi mong muốn, bởi cái vòng tròn mà ai cũng thấy là điều quá hiển nhiên và tôi không cần đến sinh viên học tư duy phản biện trả lời câu hỏi đó. Để phát triển tư duy, các em hãy tập nhìn những điều chưa ai nhìn thấy.

Tôi khuyến khích các em suy nghĩ để tìm cách đặt lại vấn đề hoặc tìm cách đi những con đường mới chưa ai khai phá. Đến cuối khóa học, một sinh viên gửi cho tôi một bài viết rất thú vị trong đó em sưu tầm những trường hợp đặt lại vấn đề, ví dụ như Hình học phi Euclid dựa trên cơ sở phủ nhận ít nhất một trong số những tiên đề Euclid, được khởi xướng bởi Lobachevsky trong lĩnh vực hình học trừu tượng và phát triển bởi Bolyai, Gauss, Riemann. Em lấy những ví dụ này làm cảm hứng và nói với tôi cuộc hành trình của em với cách nghĩ “thoát hộp” hay “đạp đổ” nay thực sự bắt đầu. Tôi không có đủ kiến thức Toán học hay Vật lý để đồng hành cùng em trên con đường em đi, nhưng tôi vui biết bao khi em có động lực để suy nghĩ theo cách của riêng mình.

Lời kết

Lười biếng là một căn bệnh nguy hiểm bởi nó biến cuộc sống của chúng ta trở thành sự tồn tại nhàm chán cho bản thân và nhiều người lười biếng sẽ là một gánh nặng cho xã hội. Khi bạn biết mình lười, bạn hãy cố gắng thay đổi bằng cách chọn một thái độ phù hợp, một hướng đi đúng đắn để thay đổi và làm chủ cuộc sống của mình một cách có ý nghĩa. Chúc bạn thực hiện thành công những “nghị quyết năm mới” của riêng mình bằng nội lực thay vì chờ một “cú huých từ bên ngoài”.

Diệu Ngọc

“Có xấu thì mới tốt lên được”

  Ảnh: AER Wilmington DE

Có rất nhiều người mà tôi phải cám ơn nhưng nói chung thường được chia làm hai kiểu người. Kiểu người tôi yêu rất nhiều nhưng không yêu tôi, kiểu người yêu tôi rất nhiều nhưng tôi không yêu họ. Ai cũng có một thời yêu đơn phương ai đó mà không thể hiểu nổi lí do tại vì sao và cũng từng “bị” ai đó yêu đương phương mà chính mình cũng không thể hiểu nổi lí do tại vì sao, thật ra đến cuối cùng thì ta đều phải cám ơn cả hai.

Tôi thường hay nói rằng ai đó nên yêu thương bản thân mình, đến một thời điểm tình yêu của bạn đã quá nhiều và tự nhiên bạn sẽ muốn chia sẻ cho người khác, nhưng chỉ riêng điều đó thôi thì vẫn chưa đủ nếu ai đó chưa hiểu và chấp nhận phân nửa còn lại của chính mình. Ý tôi muốn nói là cái phần tối tối còn lại bên trong của mỗi người, nơi nuôi dưỡng những con quỷ mà chính bạn cũng không muốn nghĩ đến. Trước khi bạn nhìn thấy và chấp nhận phần còn lại của chính mình (vì bạn sẽ không muốn thấy và cũng không tự nhiên mà thấy đâu), sẽ có người giúp bạn làm điều đó, người yêu bạn hơn chính bản thân họ. Họ chắc chắn sẽ chấp nhận những con người thật của bạn mà chính bạn còn không thể nào chịu đựng nổi. Nếu bạn có bên cạnh một người như thế bạn nên giữ gìn và trân trọng họ như báu vật vì họ giúp bạn hiểu rõ chính mình một cách trọn vẹn nhất.

Thật ra, chính tôi lại không làm được như điều tôi vừa nói. Tôi không thấy anh có điểm nào tốt, anh không hề có điểm nào hay ho trong mắt tôi, không hề. Khi tôi chán, không biết làm gì hoặc không có ai, tôi gọi anh. Khi tôi vui vẻ, hạnh phúc, bận rộn với điều gì đó mới mẻ, tôi gọi bạn bè tôi. Khi tôi muốn đến nơi nào đó, lang thang đâu đó, tôi gọi anh. Khi anh muốn đi đâu đó với tôi, tôi thậm chí không trả lời tin nhắn hoặc để anh đến rồi về vì tôi đổi ý vào phút cuối. Điều tồi hơn là tôi nói cho anh nghe tất cả những điều trên, những điều mà tôi nghĩ về anh, lí do thật sự vì sao tôi lại cư xử tệ hại với anh, lí do vì sao tôi không yêu anh nhưng vẫn đi với anh, tôi thậm chí còn không muốn làm bạn với anh. Tôi bắt bẻ anh đủ mọi chuyện, tôi moi đủ mọi thứ để cho anh thấy rằng anh là người có lỗi, tôi đem lỗi của anh để phân tích, để vạch lá tìm sâu, để anh cảm thấy bản thân anh thực sự là người không xứng đáng.

Tôi nói cho anh biết tất cả mọi bí mật của mình vì tôi không quan tâm anh nghĩ gì về tôi vì tôi có quan tâm gì anh đâu. Tôi chỉ muốn nói vậy thôi. Đôi khi tôi đi xa đến mức nói với anh rằng tôi giữ mối quan hệ với anh là vì lợi ích của chính tôi, anh không nên đến gần tôi nữa. Tôi khuyên anh nên tin tôi, tôi hiểu bản thân mình khá rõ, rằng tôi sẽ không bao giờ yêu anh cho dù anh có yêu tôi hơn chính anh đi nữa. Nếu tôi yêu anh, tôi đã yêu ngay từ ban đầu, anh nên mặc kệ tôi mỗi lần tôi gọi anh vì đôi khi tôi cũng không tự chủ đến mức hoàn toàn rũ bỏ được cám dỗ. Tôi đơn giản chỉ không muốn nhìn thấy mặt anh, mỗi lần nhìn thấy anh là tôi không được vui. Tôi đẩy anh đi tới điểm giới hạn của sức chịu đựng, anh chỉ thể hiện rằng mình đang tức giận rồi im lặng, những lúc như thế tôi nghĩ anh thật là hèn, tôi nghĩ anh thậm chí còn không dám nói lên suy nghĩ của mình, anh có quyền làm điều đó vì sao anh lại không làm. Đối với người mà mình không thích thì họ làm gì mình cũng không thích, thường là vậy.

Đôi khi anh hỏi tôi vì sao tôi ghét anh đến mức chưa bao giờ tỏ ra dễ chịu với anh lấy một lần, tôi trả lời anh rằng có lẽ do tôi ghét chính mình đến mức không thể chịu đựng nổi nên đổ hết tất cả lên vai anh, đó là những lúc tôi biết mình đã đi quá xa khi xúc phạm đến lòng tự trọng của người khác. Lúc đó tôi đã có rất nhiều lí do để trả lời, đó là vì trong quá khứ anh đã không tốt với tôi, đó là vì con người anh khiến tôi khó chịu, vân vân (tôi không nhớ hết được vì chuyện cũng lâu rồi) nhưng cuối cùng tôi đành phải chấp nhận rằng chẳng có lí do nào cả. Tôi tồi tệ với anh chẳng vì lí do gì hệt như anh tốt với tôi cũng chẳng vì lí do gì, nó thuộc về bản chất. Ai cũng có những con quỷ và đó là những con quỷ của riêng tôi. Tôi thậm chí còn liên tục tổn thương anh bằng cách nhắc đi nhắc lại rằng tôi không hề thích anh chút nào bởi vì đôi khi tôi cảm thấy có lỗi (vì tôi thực sự rất quá đáng) và tôi tặng anh cái gì đó để chuộc lỗi, hoặc là cám ơn anh vì anh quá tử tế với tôi nhưng không có nghĩa là tôi có thêm thiện cảm nào đối với anh. Tôi phải giải thích mỗi một lần tặng quà gì đó cho anh để anh không hiểu lầm.

Đây cũng không phải là chuyện của riêng tôi, trước khi viết bài này tôi cân nhắc khá kĩ và tôi nghĩ mình nên viết vì tôi không hề có ý bêu xấu anh ngay cả với chính tôi mặc dù trông có vẻ là tôi đang tự bêu xấu mình. Tôi đơn giản chỉ muốn viết về những gì tôi đã trải qua và hi vọng ai đó hiểu cụ thể phải bắt đầu yêu thương chính mình từ đâu và như thế nào. Những gì đã trải qua, nếu không dùng nó vào việc gì đó thì thật là uổng phí vì cái giá phải trả thật sự không nhỏ.

Tôi cũng không có ý tự hào vì những điều tôi đã kể trên, những điều mà tôi vẫn thường nói rằng tôi không hề có ý làm tổn thương ai, tôi chỉ thể hiện con người thật của mình. Tôi không hề tự hào chút nào, tất cả những điều đó chỉ làm cho tôi hiểu rằng tôi chẳng là ai cả nhưng tôi phải để việc nó như là chính nó vì tôi không muốn mình bị mất trí, tôi không muốn làm người đạo đức giả, không muốn tự lừa dối mình rằng mình là người rất tử tế nhưng thật ra không phải như vậy.

Tôi không muốn giả vờ rằng mình là kiểu người tốt hay là ngược lại, rằng mình là người rất xấu bởi vì chẳng có ai chỉ là người tốt hay chỉ là người xấu, chúng ta có tất cả. Nếu tôi xử sự như thể tôi rất tốt thì thật ra tôi chỉ đang tự lừa dối chính mình. Nếu tôi xử sự như thể tôi rất xấu thì thật ra tôi đang rất ghét bản thân. Tôi chọn cách cư xử như tôi cảm thấy, một cách tự nhiên. Tôi không kêu gọi mọi người hãy xấu xa hết cả đi, không phải như vậy nhưng trước tiên bạn phải là chính mình rồi sau đó bạn mới có thể hiểu, thay đổi, chấp nhận và yêu thương bản thân.

Mọi người ai cũng hô hào với nhau rằng phải yêu thương bản thân mình nhưng thật ra họ không hiểu được phải yêu như thế nào. Họ không thể hiểu nổi vì sao họ vẫn không hạnh phúc khi họ yêu bản thân nhiều lắm rồi, yêu một cách ích kỉ, nhưng sao càng ích kỉ lại càng cảm thấy có lỗi. Đó là vì họ không yêu trọn vẹn con người họ, họ chỉ yêu vẻ đẹp của mình, phần còn lại họ từ chối xem như là không tồn tại, nếu có thì là có ở người khác. Cho nên thật sự may mắn cho ai có được một người yêu bạn hơn cả chính bản thân họ, vì họ đã làm thay cho bạn phần khó khăn nhất rồi, họ chấp nhận trọn vẹn con người bạn.

Điều đó không có nghĩa là bạn buộc phải yêu họ lại để đền ơn nhưng tôi nghĩ chúng ta nợ họ lời giải thích, lời cám ơn, lời xin lỗi, ít nhất cũng là những điều đó vì họ đã giúp ta nhận ra góc tối của mình. Nếu không phải là họ thì ai có thể làm được điều đó? Bản thân chúng ta vốn đã chối bỏ chúng ngay từ ban đầu, đặc biệt là từ ngày chúng ta đến trường. Và vì sao chúng ta phải hiểu được góc tối của chúng ta để làm gì? Có một câu đại khái như thế này, nếu bạn không tự lừa dối mình thì không ai có thể lừa dối bạn được. Bạn muốn hiểu hay không thì đó là sự lựa chọn của bạn.

 

Quyên Quyên

[Review] Phim The Hobbit 3: Đại chiến 5 cánh quân

 

Thú thật với các bạn là trước khi xem The Hobbit 3: Đại chiến 5 cánh quân, tôi không hề biết đến 2 The Hobbit trước đó, nghĩa là không hề biết đến các cuộc phiêu lưu của xứ sở người Lùn hay cuộc đại chiến Rồng Lửa. Tôi đồng ý như một sự tất yếu trước sự lựa chọn của người bạn đi cùng. Và cho tời giờ tôi vẫn thầm cảm ơn sự lựa chọn đó.

1. Sự kịch tính

Có ai ngốc nghếch như tôi không khi xem phim lại có chút hoài nghi về nhân vật chính. Sự thật là tôi băn khoăn không biết đâu là nhân vật chính thật sự, nhân vật chính nhất. Trái tim yếu đuối và nhiều mộng tưởng của tôi ban đầu cứ đinh ninh người anh hùng Bard trở về sau khi hạ gục được con rồng khổng lồ là nhân vật chính nhất, và tôi sẽ có một cuộc du hành cùng chàng và những cư dân của chàng. Đến khi gặp vị thủ lĩnh tai dài, mặt trắng với đội quân Tiên Tộc hùng hậu, tôi lại đinh ninh rằng một nhân vật chính – một anh hùng nữa là đây, còn vị vua Thorin kia chỉ là một nhân vật phản diện điểm vào. Cho tới khi cổng thành mở, vua Thorin Oakenshield lao mình vào cuộc chiến với cái ôm chầm với người em họ, tôi mới thực ra nhận ra những nhân vật chính nhất, chính của chính là anh chàng người lùn BilBo Baggins, vua Thorin Oakenshield, bộ tộc người Lùn của ông và phù thủy Gandalf.

Bên cạnh đó, những mâu thuẫn được lồng ghép hết sức tự nhiên. Tiền bạc và lòng tham xưa nay vốn luôn là những cái bẫy thử thách chết người, là nguyên nhân tạo ra những mâu thuẫn, và trong The Hobbit 3, vàng bạc châu báu đã làm mờ mắt những con người cao quý và quyền lực nhất. Tham vọng là cái hố không đáy làm kiệt sức con người trong nỗ lực bất tận tìm cách thỏa mãn nhu cầu mà không bao giờ chạm tới được sự thỏa mãn. Vua Thorin Oakenshield và vị thủ lĩnh Tiên tộc đều không thoát khỏi cái bẫy chết người, và họ chọn chiến tranh như một sự giải thoát, với cái bình phong như thể bảo vệ lòng kiêu hãnh của chính mình và dân tộc mình.

Ngoài ra, trong những bộ phim anh hùng cổ đại, không thể thiếu những con quỷ dữ, nếu không các anh hùng của chúng ta lấy đâu ra đất để trình diễn. Trong phim, những con quỷ dữ Orc như đội mồ sống dậy từ một quá khứ xa xăm nào đó, mang bộ mặt gớm ghiếc đi tìm để tiêu diệt kẻ thù không đội trời chung từ thuở xa xưa của mình.

Một bộ phim dù hoành tráng đến đâu cũng không thể thành công nếu thiếu những tiểu tiết đắt giá. The Hobbit 3 cũng không phải là ngoại lệ. Với những chi tiết đắt giá như hình ảnh quả tim núi Ankenstone, chiếc nhẫn kỳ lạ giúp hô biến tức khắc, đặc biệt hình ảnh vua Thorin quăng chiếc vương miện trên đầu đã thực sự ám ảnh tôi. Nỗi sợ hãi là những con hổ giấy. Điều khó khăn nhất là quyết định hành động, phần còn lại chỉ là sự bền bỉ. Vua Thorin căn bản không chỉ vượt qua được lòng tham mà đã chiến thắng nỗi sợ hãi của chính bản thân mình. Ánh hào quang của vua Thorin chỉ thực sự tỏa sáng khi chiếc ngai vàng “ngã” xuống.

2. Giá trị nhân văn hay tình người, sự cao quý là những điểm sáng

Ngoài những cảnh chết chóc, chiến tranh thì sự dũng cảm, tình người luôn có mặt và là tâm điểm xuyên suốt từ đầu đến cuối bộ phim. Tên phản bội hèn nhát Alfrid được người anh hùng Bard cứu năm lần bảy lượt, đến tận gần cuối phim, khi gã trốn chui lủi như con chuột nhắt trong bộ dạng của một mụ đàn bà lôi thôi lếch thếch, Bard vẫn để cho gã ra đi, anh còn tếu táo gọi với theo: “Lộ váy lót kìa” như một sự “không thèm chấp”.

Tinh thần chiến đấu quả cảm của những chiến binh, mà tiêu biểu nhất là vua Thorin Oakenshield, con trai Kili của Ngài, chú lùn Bilbo Baggins, người anh hùng Bard, phù thủy Gandaf… với những câu nói bất hủ như “Tôi không trốn đâu. Tôi không trốn sau tường đá trong khi mọi người phải chiến đấu vì chúng ta. Thứ đó không ở trong máu tôi.“(Kili)

Hay câu hỏi xoáy sâu vào tâm can của vua Thorin: “Nhưng một lần cuối thôi, mọi người có theo tôi không?” Và những người phụ nữ quả cảm: “Đàn bà cũng phải sát cánh với đàn ông khi sống và khi chết…” Tôi yêu người có thể cười trong nghịch cảnh, có thể tìm sức mạnh trong sự khốn cùng và trở nên can đảm nhờ suy nghĩ. Những tâm hồn nhỏ bé có thể chùn bước, nhưng họ – những con người có trái tim kiên định và được sự đồng thuận của lương tâm sẽ theo đuổi những nguyên tắc của mình cho đến chết.

Nhưng bộ phim có quá nhiều cái chết, nó khiến tôi cảm thấy nghiệt ngã. Chúa đã an bài để vua Thorin trở thành huyền thoại khi ngài và kẻ tử thù cùng chết, nhưng sao Chúa lại khiến con trai Ngài lại cũng phải ra đi? Tôi nghĩ phần đông sẽ khóc thương cho họ, dù đó là khóc thầm hay thành tiếng, và tôi cũng thuộc trong số đó.

3. Diễn xuất diễn viên và kỹ thuật

Hollywood mà đã hóa trang thì không còn gì để chê. Từ những con quỷ Orc gớm ghiếc, phù thủy, những bộ râu dài, trang phục… đều tuyệt vời. Các cảnh quay đánh nhau, sự nhịp nhàng đến rập khuôn khi giương cung chiến đấu của Tiên tộc… thật khiến người xem ấn tượng.

Vẻ đẹp oai nghiêm cùng sự rắn rỏi toát lên từ người anh hùng Bard, thủ lĩnh Tiên tộc; những cảm xúc của chú lùn Bilbo Baggins, và đặc biệt là sự chuyển hóa nội tâm của vua Thorin từ một kẻ tham lam, ích kỷ đến khi trở lại bản chất anh dũng vốn có đều được hiện lên một cách xuất thần.

Đây chỉ là những suy nghĩ cá nhân của tôi về phim Hobbit 3 nhưng đồng thời cũng là sự chia sẻ về quãng thời gian tuyệt vời khi tôi trải nghiệm cùng bộ phim. Bạn đã xem Hobbit 3 chưa? Nếu chưa, đừng băn khoăn với những sự lựa chọn khác nhau khi đứng trước rạp chiếu phim. Tôi cá là bạn sẽ không thất vọng.

 

Lê Hoài Thương

Từ “Je suis Charlie” cho đến sự trở về của vị vua

Featured image: Sky News

 

Sự kiện khủng bố tại Paris là tiếng súng bắn vào quyền lực thứ tư trong xã hội – tự do ngôn luận. Những gì diễn ra tại mọi nơi ở nước Pháp làm mình đi từ tò mò đến đồng cảm, và cuối cùng là khâm phục. Những con người với dòng chữ “Je suis Charlie” được nhìn thấy trên các phương tiện truyền thông cho thấy sự đoàn kết của người dân Pháp. Nhưng chỉ khi đứng giữa đám đông ấy, mình mới cảm thấy sức mạnh thật sự của sự đoàn kết đó. Khi mà ngay chiều tối hôm xảy ra vụ khủng bố, hàng loạt vụ tưởng niệm tại các tòa thị chính được tổ chức, mỗi người tham gia đều hô vang “Je suis Charlie” và tay của họ đập vào dòng chữ đó như muốn biến nó thành một phần trong cơ thể và tâm hồn họ.

Mỗi công dân, giờ đây như muốn trở thành một thành viên trong tòa báo, sẵn sàng đương đầu với bọn khủng bố, cho dù trên tay họ không một tất sắt, ngoài quyền được nói, được biểu đạt của tự do. Mình tìm đến buổi tưởng niệm chỉ vì hiếu kỳ và tò mò, nhưng nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trên khóe mắt của những người già cho tới trẻ. Mình mới cảm nhận thấy một phần nhỏ của nỗi đau lớn của một dân tộc. Giá trị duy nhất, sau hơn 3 năm ở Pháp, của xã hội này chính là sự nhân bản, luôn hướng tới và đảm bảo hạnh phúc của từng con người nhỏ bé trong một xã hội rộng lớn. Và lương tri của mỗi công dân chính là tiếng nói rõ ràng nhất và là nền tảng duy nhất cho sự nhân bản đó.

Cảm giác đứng giữa những công dân đầy tính nhân bản đó chỉ là sự xấu hổ khi nghĩ về những gì đã và đang xảy ra ở một nơi hạnh phúc nhất, nhì trên thế giới: những con người sẵn sàng quay mặt làm ngơ trước cái chết của những ngư dân trên biển cả; những thế hệ tương lai tung hô những người ngư dân không một chút trang bị tối thiểu phải đương đầu với những tàu chiến hạng nặng, trong khi việc đó là của cảnh sát biển và hải quân – đôi khi mình chỉ tự hỏi những lời tung hô đó có chứa đựng lương tri hay chỉ là sự cuồng tín đầy mê muội; một người đẹp chân dài sẵn sàng làm hàng trên sự mất tích và cái chết những hành khách trên chuyến bay xấu số – vậy đó là một người đẹp hay một con mụ phù thủy tán tận lương tâm.

Hơn hết, mình đã phì cười khi like trang page “Je suis Charlie” chỉ vài giờ sau vụ khủng bố với hơn 55 000 người, và hiện giờ có tới 5 trang “Je suis Charlie” với lượng người thấp nhất là 15 000 người và cao nhất gần 100 000 người. Tại sao mình phì cười? Vì mình nhìn lại con số ở page “những người bạn của” một nhà văn thì quá bi thương, với gần 4000 người. Mình tự hỏi những người đã nhận được tin tức đa chiều hơn, trong một nền báo chí tuyên truyền, lại không like nổi một cái như thể hiện sự đóng góp và đứng cùng người đã dành thời gian của cuộc đời để mang đến thông tin, kiến thức và tư duy cho bạn đọc.

Những tuyên truyền về đại đoàn kết toàn dân chỉ là một khẩu hiệu rỗng ruột, khi mà người dân sẳn sàng quay lưng với chính nỗi đau của cộng đồng. Họ không phẩn nộ, không lên tiếng hay bày tỏ quan điểm về vấn đề đó một cách công khai, ngoài sự im lặng và quan sát trong bóng tối. Matin Luther King từng nói: “Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt.” Có ai đã từng tự hỏi rằng lương tri của xã hội còn hay đã mất?

Câu chuyện trong bài diễn văn của Wael Ghonim về Inside the Egyptian revolution, sự khác biệt về tôn giáo giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo đã không làm cho họ tách biệt nhau ra, mà họ đã đoàn kết lại. Những người Hồi Giáo hành lễ thì những người Thiên Chúa Giáo bảo vệ họ và ngược lại. Vì sao họ có thể làm được điều đó? Vì “không hề có ai là người lãnh đạo, người lãnh đạo chính là mỗi cá nhân trên trang page đó”, vì “không ai là anh hùng, không ai là anh hùng, bởi vì mọi người đều là anh hùng”. Chính “những giọt nước mắt chảy ra từ đôi mắt cũng chính là từ tâm hồn chúng ta” là tiếng nói của lương tri trước nỗi đau của đồng loại và lực đẩy duy nhất để mỗi người bước qua sự sợ hãi của chính mình để bảo vệ lẫn nhau.

Hãy coi mỗi xã hội là một bàn cờ lớn và mỗi cá nhân là một quân cờ trên đó. Câu hỏi đặt ra là làm như thế nào để những quân cờ có thể bảo vệ nhau? Thì chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra rằng: Trong cờ vua, mỗi quân cờ được phân chia theo hệ thống cấp bậc với những vai trò khác nhau. Nhìn tương quan giữa 2 bàn cờ vua nhỏ và lớn, khi ta muốn lấy 1 con vua hay 1 con hậu ở bàn cờ nhỏ để vào chơi ở bàn cờ lớn hơn với vai trò một quân tốt, nhưng nhiều người hy vọng quân tốt này tạo nên sức mạng thần kỳ như ở bàn cờ nhỏ trước đó.

Tuy nhiên, nếu nhìn thấy trước rằng con tốt sẽ không bao giờ tiến đến ô cuối cùng để lại hóa thành hậu rồi đánh đổ vua, thì con tốt đó chỉ mang tính biểu tượng và vật thí trên bàn cờ lớn hơn. Giết gà dọa khỉ luôn là cái giá của mọi quân tốt ra đi trên bàn cờ lớn.

Trong khi đó ở cờ vây, mọi quân cờ đều bình đẳng chỉ có đen và trắng. Mọi quân cờ đều có thể xoay chuyển tình thế chỉ trong tích tắt mà không cần phải đạt một thứ bậc nhất định nào trên bàn cờ. Sức mạnh của mỗi quân cờ là những bước tiến đơn giản nhưng vững chắc để tạo nên vòng vây siết cổ kẻ thù. Khi đám quân nào hết khí thì sẽ bị loại ngay lập tức khỏi bàn cờ. Vì thế giá trị cờ vây nằm ở sự bình đẳng về quân cờ và hoàn toàn phụ thuộc vào nước đi của từng quân cờ một.

Vậy chúng ta nên tiếp tục chơi cờ vua để trông chờ và tìm ra ông vua mới, hay chuyển qua chơi cờ vây nhỉ? Các bạn chắc vẫn còn nhớ rằng The Lord of the Ring: The Return of the King là tập cuối cùng của một serie hấp dẫn phải không?

 

 Nguyễn Thanh Nghị