20.1 C
Da Lat
Chủ Nhật, 17 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 157

Việt Nam cần các tư tưởng Khai Sáng

Featured Image: isado

 

Lịch sử loài người đã trải qua hàng ngàn năm, khi con người sinh ra từ thuở sơ khai hoang dã, sau nhiều bước chuyển về thể chất lẫn tinh thần, đã bước dần từ nơi u tối đến ánh sáng văn minh.

Lịch sử loài người đã trải qua hàng ngàn năm, với những cuộc đấu tranh để sinh tồn, hay những cuộc đấu tranh khởi nguồn từ sự khác biệt về sắc tộc hay tôn giáo…

Lịch sử loài người cũng đã trải qua hàng ngàn năm, để đúc kết ra được những chân lý, hay những giá trị phổ quát hiện hữu như những chân giá trị mà nhờ đó, loài người đã tiến bộ như ngày hôm nay.

Trong những bước đường đưa nhân loại tới nền văn minh hiện tại, một trong những cột mốc quan trọng là phong trào khai sáng bắt nguồn từ Âu châu, mà khởi đầu tại Anh quốc vào cuối thế kỷ 17, và tiếp sau tại Pháp, Mỹ và Nhật Bản vào các thế kỷ 18, 19.

Phương châm khai sáng

Kỷ nguyên Khai sáng (Enlightenment) ở Âu châu tuy đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 17, nhưng phải chừng một thế kỷ sau, khi tác phẩm “Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?” (1784) của Immanuel Kant ra đời, danh từ này mới trở thành một thuật ngữ có chỗ đứng hẳn hoi trong ngôn ngữ triết học và lịch sử tư tưởng. (1)

“Khai sáng”, theo định nghĩa của Kant, “là sự thoát ra của con người khỏi tình trạng chưa trưởng thành (nonage) do chính con người tự gây nên. Chưa trưởng thành vì không có khả năng sử dụng lý trí của mình mà không cần đến sự dẫn dắt của kẻ khác. Sự chưa trưởng thành này, nếu chính nguyên nhân không nằm ở sự thiếu lý trí mà ở sự thiếu quyết định và thiếu can đảm trong việc tự sử dụng lý tính của chính mình mà không cần sự dẫn dắt của kẻ khác, thì chính là lỗi do chính mình gây nên. Bởi vậy, ‘Hãy dám biết và hãy can đảm sử dụng lý trí của chính mình’ là phương châm của khai sáng”. (2)

Tuy đã diễn ra từ cách nay ba thế kỷ, nhưng phong trào khai sáng với những luận điểm của nó về căn bản vẫn còn giá trị cho đến hiện tại. Và ở những nơi nào đó trên thế giới, nó “vẫn tiếp tục lan tỏa nhằm đánh đổ thần quyền và chủ nghĩa phong kiến mông muội”… (3) Ba trong số tám luận điểm chính của khai sáng là những luận điểm cơ bản, được chân nhận, mà hầu như không cần phải bàn cãi:

  1. Lý trí chính là khả năng trung tâm của con người, nó không những giúp cho con người có khả năng suy nghĩ sáng suốt mà còn cả hành động một cách đúng đắn.
  2. Niềm tin phải được đón nhận bằng lý trí, không dựa trên quyền uy và chức sắc, tôn giáo, kinh nghiệm hay truyền thống.
  3. Tất cả mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm, tuyệt đối cá nhân, hoàn toàn bình đẳng xét về khía cạnh lý lẽ (so với các cá nhân khác hay nhà nước) và do đó phải được tạo cho sự bình đẳng trước luật pháp và quyền tự do cá nhân. (4)

Phong trào khai sáng Nhật Bản

Nhật Bản là một quốc gia Á Đông có một chính thể dân chủ từ khá sớm so với các nước Á Đông khác, và mau chóng đạt được sự giàu mạnh, một phần lớn là nhờ tư tưởng khai sáng có từ thời Minh Trị Duy tân, thời kỳ diễn ra những biến đổi lớn trong xã hội Nhật Bản, có vai trò như bước ngoặt cho sự biến chuyển đầy ngoạn mục.

Thời Minh Trị Duy tân bắt đầu từ năm 1868. Trước đó, Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu. Trong bối cảnh bị dồn ép phải mở cửa bởi các quốc gia Tây phương, thay vì bế quan tỏa cảng, Nhật Bản đã chọn con đường cải cách để bắt kịp với các quốc gia tiên tiến. Điều này đã khiến Nhật Bản tránh được nguy cơ trở thành một nước thuộc địa như nhiều quốc gia phong kiến khác.

Chính phủ thời Minh Trị Duy tân lúc đó đã đưa ra các khẩu hiệu “Phú quốc cường binh” “Quyết theo kịp phương Tây”, đã góp phần khiến người Nhật trở nên tích cực và nhiệt tâm với “văn minh khai hóa”. Và, với cách thức thâu dụng người tài, chính phủ Minh Trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho những tinh hoa của đất nước được khai mở những nguồn sáng của văn minh.

Những học giả trong trào khai sáng tại Nhật Bản đã được tạo cơ hội đến các quốc gia Tây phương để học hỏi các kiến thức về kinh tế, thống kê, luật pháp, chính trị học, khoa học – kỹ thuật,… để sau đó, Nhật Bản tiến hành nhiều cuộc cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực, khiến nước Nhật mau chóng trở thành một quốc gia hùng mạnh!

Phong trào Duy tân có sự đóng góp lớn của những trí thức trong chính quyền cũ (chính quyền Tokugawa trước thời Minh Trị) và hội trí thức Merokusha (Minh lục xã) – một hội trí thức với các tên tuổi lẫy lừng như Nishimura Shigeki, Nishi Amane, Fuzukawa Yukichi (5), đã góp phần to lớn vào sự chuyển biến tư tưởng của người dân Nhật Bản trong thời kỳ khai sáng.

Điểm qua một số thành quả mà Minh lục xã đã gây dựng là hàng loạt các tác phẩm, các cuốn tự truyện, các bài xã luận về hầu mọi chủ đề như kinh tế, chính trị, pháp luật, triết học, khoa học, tôn giáo, v.v… cùng với Minh lục tạp chí được sáng lập bởi Minh lục xã, đã tạo nên sự mới mẻ và sôi động cho các luận đàn tri thức ở Nhật Bản thời đó.

Các tác phẩm điển hình cần kể đến: như cuốn “Khuyến Học” của Fukuzawa (6), ngay lần in đầu tiên đã có số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu; tác phẩm dịch thuật “Bàn Về Tự Do” của John Stuart Mill (7), được xuất bản lần đầu ở Anh năm 1859, đến năm 1868, đã được dịch ở Nhật Bản với 2 triệu bản phát hành, trong khi dân số Nhật Bản lúc đó khoảng 35 triệu người. Nhìn vào các con số ấy, có thể thấy tầm ảnh hưởng của các tác phẩm đó đối với người dân Nhật Bản thật rộng lớn!

Coi trọng vai trò của dịch thuật là một điểm quan trọng của văn minh khai sáng. Nhiều tác phẩm dịch thuật ra đời lúc đó (“Bàn Về Tự Do” là một ví dụ kể trên) đã góp phần không nhỏ giúp nâng cao tầm thức của người Nhật, và có vai trò to lớn trong việc đem lại những thành quả rực rỡ của Duy tân. Cuộc cách mạng Duy tân, sau chừng 30 năm, đã góp phần khiến Nhật Bản trỗi dậy ngang hàng với các quốc gia Âu, Mỹ!

Trong số luận điểm của các học giả, có thể thấy nổi bật lên những tư tưởng tiến bộ của Nishi, khi đề nghị dùng mẫu tự La Tinh để biểu thị tiếng Nhật, của Tsuda khi chủ trương phải có tự do xuất bản, của Fukuzawa khi cho rằng chính phủ phải chia sẻ “quốc quyền” với dân chúng, hay như ý tưởng thành lập “dân tuyển nghị viện”, tức quốc hội ngày nay, của Itagaki. Nhiều luận điểm khi ấy đã được tranh luận sôi nổi trên Minh lục tạp chí.

Tuy các thành viên của Minh lục xã có nhiều ý kiến khác nhau về các vấn đề quan trọng được bàn thảo, song, “chính sự khác biệt cùng những cuộc thảo luận thẳng thắn trên Minh lục tạp chí đã đóng góp cho nguyên tắc tương đối trong việc hình thành tính đa dạng của tư duy.” (8) Ví dụ như: “Cuộc bàn cãi về vai trò của người trí thức đối với chính quyền giữa Fukuzawa, một học giả ở ngoài chính phủ, và Katô, đại diện cho những trí thức phục vụ trong chính quyền, đã đưa đến hai trào lưu học thuật ở nước Nhật cận và hiện đại.

Với tư cách là người sáng lập trường Khánh Ứng Nghĩa thục (Keiô Gijuku), Fukuzawa được xem là người mở đầu cho truyền thống học thuật và trường ốc độc lập với chính phủ (shigaku, tư-học), tức private academy. Ngược lại, Katô, sau đó trở thành hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Đông kinh (1877), là cha đẻ của truyền thống học thuật và trường ốc do nhà nước thiết lập và nâng đỡ (kangaku, quan-học), tức official academy. Những thành quả này có thể xem là một đóng góp quan trọng của hội Meirokusha, bởi lẽ trước đó vì không có truyền thống tự do thảo luận nên người ta thường chụp mũ, đơn giản dán nhãn hiệu tà thuyết (kyotan bôsetsu, hư-đản vọng-thuyết) cho những ý kiến đối lập.” (9)

Phong trào khai sáng đã để lại những di sản vô giá của những trí tuệ biết bắt kịp thời đại, để Nhật Bản ngày nay được thừa hưởng và tiếp tục phát huy tinh thần của những trí tuệ ấy. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với những thành trì cũ mòn trong tư duy, nhờ được dẫn dắt bởi những người mang sứ mạng khai sáng, quốc gia châu Á này đã vươn lên mạnh mẽ để sánh ngang tầm với các nước Tây phương.

Phong trào Duy tân Việt Nam

Ngọn gió khai sáng từ Nhật Bản thổi qua Trung Hoa, khiến cho nhà cách mạng tân tiến tại nước này tạo nên một loạt các tác phẩm triết học trong bộ Tân Thư, với những phản ánh về hiện thực đất nước và những phương án giải quyết các vấn nạn để đưa Trung Hoa đến con đường cải cách. Tiếp thu tinh thần khai sáng qua các Tân thư cùng các trước tác của Montesquieu, Rousseau, Voltaire,… Phan Châu Trinh đã nhìn thấy được những nhược điểm cơ bản về văn hoá xã hội của Việt Nam so với phương Tây, những lạc hậu và hủ hóa trong bộ máy cầm quyền phong kiến đã bám rễ từ lâu, là nguyên nhân khiến đất nước phải chịu thân phận thuộc địa. Nhận thức được điều đó, ông đã có sự chuyển biến về tư tưởng có ý nghĩa cách mạng trong công cuộc tìm đường cứu nước.

Từ đó, Phan Châu Trinh sáng lập phong trào Duy tân với ba điểm chính: “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, trong đó, “dân trí” đóng vai trò quan trọng như chìa khóa để mở ra một thời đại mới, với những con người có tri thức mới, để từ đó, đất nước có khả năng giành được độc lập và trở nên cường thịnh.

“Tri thức mới” trong quan niệm của ông, “đó là hiểu biết về dân quyền (ngày nay ta gọi là dân chủ), người dân biết rằng mình có quyền, biết rõ các quyền của mình trong xã hội, trong cuộc sống, trên đất nước, trước thế giới. Theo cách nói ngày nay, có thể ông cho rằng điều cơ bản để tạo nên sức mạnh lay trời chuyển đất là dân chủ về thông tin (“dân biết”), trao thông tin về những quyền của nhân dân cho chính nhân dân.” (10)

Thậm chí Phan Châu Trinh còn cho rằng “nếu có thoát khỏi tay ngoại bang, giành được độc lập, mà không có dân quyền, không có dân chủ, dân trí thấp, người dân không giác ngộ về quyền dân chủ của mình và sử dụng có hiệu quả quyền đó để làm chủ đất nước, xã hội, thì cũng là vô nghĩa, nhân dân không thể có hạnh phúc, đất nước không thể phát triển, và như vậy nền độc lập dân tộc cũng không thể vững chắc” (11)

Trong phong trào Duy tân, Phan Châu Trinh cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đã lập nên một “bộ ba Quảng Nam”, đi đến nhiều miền đất nước, mở nhiều trường dạy học những tri thức mới. Vào năm 1908, hai năm sau khi được phát động, phong trào Duy tân đã lan rộng khắp cả nước, tạo nên sự kiện “Trung Kỳ dân biến”, mà sau đó, tiếc thay, đã bị thực dân Pháp và tay sai dập tắt.

Phong trào Duy tân, theo nhà văn Nguyên Ngọc “chủ yếu nhằm vào một cuộc cải cách giáo dục sâu rộng, với tư tưởng cơ bản là thực học, đối với chúng ta ngày nay dường như bỗng trở nên thời sự một cách lạ thường” (12). Quả là vậy, khi thành quả của giáo dục hiện tại là thấp so với những đòi hỏi bức thiết mà thời đại đặt ra, khi hiện tại Việt Nam vẫn đang lạc hậu hàng thế kỷ so với thế giới!

Việt Nam và một phong trào khai sáng mới?

Việt Nam đến nay đã trải qua hơn 60 năm sau khi miền Bắc giành được độc lập, và hơn 30 năm sau khi đất nước thống nhất. Nhưng sau ngần ấy năm, tại sao Việt Nam vẫn là một nước nghèo và lạc hậu, dân trí vẫn chưa cao, với khoảng 70% dân số sống bằng nghề nông? Có quá nhiều lý giải viện dẫn hoàn cảnh lịch sử hay những tổn hại do chiến tranh, mà nếu cứ chấp nhận những lý giải ấy một cách hiển nhiên mãi, đó sẽ tiếp tục là trở lực cho chúng ta hàng nhiều thập kỷ nữa.

Và nếu chấp nhận lý giải ấy cho Việt Nam, hẳn sẽ ngạc nhiên đến mức phải thán phục về một thần kỳ Nhật Bản. Sau thế chiến II, do bị tàn phá nặng nề và nền kinh tế bị kiệt quệ, từ một nước giàu có với những thành quả đạt được sau Duy tân, Nhật Bản rơi vào nhóm các nước đang phát triển. Tuy vậy, chỉ sau không đầy 30 năm (1945 – 1973), Nhật Bản đã mau chóng phục hồi, để một lần nữa, vươn lên sánh vai cùng các liệt cường. Qua đó, hãy tự hỏi, Việt Nam có thể có một thần kỳ hay không?

Thiết nghĩ, không dám bứt phá và không dám nghĩ khác, chấp nhận sự bảo hộ tư tưởng theo các chiều thông tin hạn định, cái tôi và con người cá nhân bị đồng hóa, ngại phải đối mặt với những khác biệt về tư tưởng trong một xã hội thiếu tranh luận tự do, chủ quan lo sợ về những đổi khác do những thành trì kiên cố của thói quen hay tập quán, v.v… là một phần lớn nguyên nhân khiến chúng ta vẫn chậm tiến trên con đường hòa nhập với thế giới!

Việt Nam cần phải thay đổi! Bạn muốn thay đổi? Tôi muốn thay đổi! Nhiều người, rất nhiều người khác nữa muốn thay đổi?! Chúng ta làm gì để thay đổi? Hãy cùng tìm những giải pháp khả thi và hiệu quả, có thể khai phóng tiềm năng trí tuệ của người Việt, để từ đó tạo lực đẩy mạnh mẽ đưa đất nước đi lên!

Những giải pháp ấy, từ lịch sử, có thể nhìn thấy ngay từ nhà cách mạng Phan Châu Trinh, khi cho rằng phải có dân chủ về thông tin để khai mở dân trí, và tiếp đến, người dân phải được trao cho đầy đủ “dân quyền”, phải có cơ hội có được hiểu biết để ý thức rõ các quyền của mình và thực thi nó với tất cả trách nhiệm mà không trao lại cho chính phủ như một sự ủy thác. Dân trí vẫn có thể phát triển, nhưng với một tốc độ chậm chạp, chừng nào người dân chưa đủ “can đảm trong việc sử dụng lý trí của chính mình”.

Những giải pháp ấy, từ lịch sử, cũng có thể rút ra từ phong trào khai sáng tại Nhật Bản, ở đó có sự tự do tranh luận để đạt tới sự đa dạng và sự phát triển năng lực của tư duy. Và thông qua tranh luận, các lý lẽ hợp lý đã được chắt lọc và trở thành những phương hướng cho việc hoạch định các chính sách đổi mới. Một điểm quan trọng khác, đó là những người mang sứ mạng khai sáng đã thực hiện sứ mạng của mình với tất cả trách nhiệm và tinh thần dám dấn thân vì đại cuộc!

Những giải pháp ấy, ngay từ trong hiện tại, có thể nhìn từ chính chúng ta, khi mỗi người là một cá thể chủ động và tích cực trong việc thay đổi thói quen và lối mòn của tư duy, bước qua những hàng rào cản trở việc tiếp cận những tri thức mới, phá vỡ những thành trì ngăn cấm việc tìm đến thế giới thông tin tự do vô vàn kỳ thú với những nguồn tri thức mênh mông…

Và những giải pháp khác, mà mỗi cá nhân có thể dùng “lý trí và lòng can đảm” của chính mình, theo như phương châm của khai sáng, để tìm ra phương cách thích hợp cho bản thân, cho gia đình, và cho xã hội…

Dân tộc Việt Nam vốn là dân tộc quả cảm với những con người quả cảm, với tinh thần tự hào dân tộc cao và không quản ngại khó khăn? Vậy thì, những người quả cảm và có tinh thần trách nhiệm, khi nhận thức được tính cấp thiết của việc mở mang dân trí, hãy là những người đi tiên phong cho một phong trào khai sáng mới, để dẫn dân tộc Việt Nam đi đến một thần kỳ – một thần kỳ Việt Nam!

 

Nguyễn Trang Nhung
Via BBC Vietnamese


 

Chú thích:

(1, 2, 8, 9) “Hội trí thức Meirokusha và tư tưởng khai sáng ở Nhật Bản” – Vĩnh Sính
http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsucacnuoc/Meirokusha.htm
(3, 4) Tư tưởng, phong trào Khai Sáng là gì? – Bùi Quang Minh
http://www.chungta.net/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Tu_tuong_phong_trao_Khai_Sang_la_gi
(5) Nishimura Shigeki: giảng viên Hán học và về sau là trưởng phòng biên tập của bộ Giáo dục. Nishi Amane: một quan viên của hai chính quyền Tokugawa và Meiji và về sau là thứ trưởng bộ quốc phòng. Fukuzawa Yukichi: nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu và rộng nhất đến xã hội Nhật Bản cận đại.
(6, 7) Các cuốn sách hiện đã được dịch và được phát hành tại Việt Nam năm 2004
(10, 11, 12) Tính cập nhật kỳ lạ của một tư tưởng lớn – Nguyên Ngọc: http://www.chungta.net/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Giao-Duc/Tinh_cap_nhat_ky_la_cua_mot_tu_tuong_lon
Xin xem thêm các bài tham khảo ‘Nhật Bản khác ta những gì’ của TS Nguyễn Lân Dũng và ‘Một sự nghiệp lớn và cấp thiết’ của nhà văn Nguyên Ngọc ở các đường dẫn bên tay phải.
Nguyễn Trang Nhung là thành viên Tập hợp Thanh niên Dân chủ, hiện đang làm việc tại Nhật Bản. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Thư gửi những người lớn

Featured Image: Nhi Dang

 

Xin chào mọi người, con là một người trẻ tuổi Việt Nam.

Con không có sự quen biết cá nhân với tất cả mọi người, nên con không thể viết thư riêng cho từng người được, nên đành mạo muội làm một điều không mấy hay, là viết một bức thư chung, xin gửi tới người lớn.

Những người lớn, con xin định nghĩa đơn giản, là những người đã có gia đình, có con cái, như ba của con, mẹ của con, cô bác của con. Cũng có những người lớn, có thể nhỏ tuổi hơn con, nhưng có nhiều kiến thức và kinh nghiệm hơn con, có nhiều sự ảnh hưởng hơn con.

Con xin thưa thật ngắn gọn câu chuyện của mình. Người bạn của con, Nah, đọc là “na”, tên thật là Nguyễn Vũ Sơn, là một nghệ sĩ nhạc rap, hiện đang dấn thân làm một việc mà xưa nay chưa từng đứa trẻ nào dám làm: Đơn độc đứng lên chống lại chính quyền độc tài của cộng sản Việt Nam.

Chúng con, cũng như nhiều sinh viên học sinh khác, không theo và không đại diện cho bất kỳ phe cánh chính trị nào, cũng không phải là một tổ chức hay hội nhóm có mục đích hoạt động rõ ràng. Chúng con chỉ là những người bạn trẻ, mang cùng chí hướng. Chúng con không có lá cờ, không có logo, không có ký hiệu, chúng con chỉ nhận ra nhau bằng tình thương của mình với đất nước.

Chúng con chỉ là những người trẻ, bồng bột và thiếu hiểu biết. Những gì chúng con đang làm, xuất phát từ trái tim yêu nước, yêu dân tộc mình. Hàng ngày đọc báo, xem thông tin chúng con thấy trẻ em phải chết vì bị tiêm nhầm vắc xin, người già phải chết đường chết chợ, mà không cầm được nước mắt. Chúng con có cơ hội đi châu Âu, châu Mỹ, chúng con nhìn thấy người dân ở đó được cơm no áo ấm, chúng con không cam tâm nhìn người Việt Nam mình bị đày đọa tận cùng nghèo khổ như vậy.

Thưa các cô chú bác, những điều này, có lẽ chúng con không cần nói thêm, các cô chú bác cũng đã nhìn thấy từ rất lâu rồi. Nay, con viết thư này chỉ mong có 3 điều thỉnh cầu, xin các cô chú bác rộng lòng mà xem qua:

Một là, xin hãy thông cảm và ủng hộ chúng con, chúng con cần tình yêu thương của mọi người. Chúng con không phải kẻ thù, kẻ thù của chúng ta là tham nhũng, là đói nghèo, là bất công xã hội, là sự độc tài, tàn ác. Chúng con xin mọi người, nếu có bất kỳ hiềm khích, hay khác biệt tư tưởng, cũng xin gác lại, vì chúng con không đứng về phe phái nào khác ngoại trừ con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Hai là, xin hãy giúp chúng con bằng kiến thức và kinh nghiệm quý báu của mọi người. Xin hãy giúp chúng con ở cả 3 giai đoạn, trước khi chấm dứt độc tài, trong khi chấm dứt độc tài, và cả sau khi chấm dứt độc tài. Xin hãy giúp chúng con những phương pháp hữu hiệu để không những bạn bè thế giới bên ngoài, mà cả những người đồng bào trong nước cũng ủng hộ chúng con. Xin giúp chúng con kiến tạo những nền tảng vững chắc cho một xã hội tự do, nhằm ngăn cản một chế độ độc tài khác quay trở lại, tiếp tục gieo rắc tang thương lên dân tộc Việt Nam.

Ba là, xin đừng lợi dụng chúng con. Xin đừng trả thù, giết hại bất kỳ ai. Xin đừng gây bạo loạn, đừng gieo tang thương. Chúng con chỉ đứng lên chống một kẻ thù duy nhất của dân tộc Việt Nam, đó là đói nghèo, là tham nhũng, là bất công, là tàn bạo. Chúng con không làm để xã hội rơi vào bất ổn, hay để thỏa mãn tham vọng chính trị, cho nên sẽ thật là ác độc nếu cô chú bác sử dụng chúng con cho những mục đích khác ngoài việc xây dựng lại đất nước.

Nah, hay Nguyễn Vũ Sơn, sẽ xuống đường trong một ngày rất gần, để chính thức đứng cùng mọi người, lên tiếng đòi lại tự do, công bằng cho người Việt Nam. Ngày đó, chắc chắn chính quyền cộng sản Việt Nam sẽ có những hành động nhằm ngăn cản, gây rối loạn, hay có thể dẫn tới những kết quả thật tệ và đau lòng, nhưng con hy vọng, với sự giúp đỡ của cô chú bác, chúng ta sẽ vượt qua được, chúng ta sẽ chiến thắng tàn bạo và giả dối, bằng tình yêu thương và sự vững tâm của cô chú bác dành cho chúng con.

Chúng con trông đợi, và đặt niềm tin vào mọi người. Con chúc mọi người nhiều sức khỏe, và xin thay mặt những người bạn của con, con cảm ơn mọi người đã quan tâm.

Một người trẻ tuổi Việt Nam.

 

Sang Đặng

Phim tài liệu Last Days in Vietnam

Phim tài liệu Last Days in Vietnam của đạo diễn Rory Kennedy mô tả lại những giờ khắc cuối cùng trước khi Mỹ rút khỏi Việt Nam miêu tả hàng nghìn người chen lấn trước cửa sứ quán Mỹ ở Sài Gòn; đoàn người rồng rắn lên nóc một toà nhà để lên trực thăng rời khỏi Việt Nam. Sài Gòn hỗn loạn trong 24 giờ trước khi quân đội Bắc Việt tấn công vào Sài Gòn. Bộ phim đã được trình chiếu rộng rãi vài ngày trước đây tại Mỹ.

Tháng 4 năm 1975, những đồn đoán về quân đội Bắc Việt bao vây Sài Gòn khiến nhiều người lo lắng muốn di tản khỏi Việt Nam. Lúc này, quân đội Mỹ đã rút khỏi miền Nam sau khi hiệp định đình chiến Paris được ký kết. Tổng thống Richard Nixon, từng hứa sẽ đưa quân Mỹ tái tham gia chiến tranh nếu miền bắc phá vỡ lệnh ngừng bắn, thì lại từ chức vì bê bối trong vụ nghe lén có tên Water Gate.

Người dân Mỹ lúc này không còn sức để theo đuổi cuộc chiến đã chia rẽ sâu sắc cả đất nước. Quốc hội Mỹ không mặn mà gì trước đề nghị của Tổng thống Gerald Ford về việc cấp hàng chục triệu đôla để di tản người Việt Nam làm việc cho các cơ quan Mỹ.

Trong khi đó, một vài quan sĩ quan trong sứ quán Mỹ tự mình tìm cách đưa những người Việt Nam giữa thời điểm nước sôi nửa bỏng này để di tản. Đạo diễn Rory Kennedy tái hiện những sự kiện trên trong bộ phim tài liệu mới có tên “Last Days in Vietnam”.

Nói với chúng tôi đạo diễn Rory Kenedy chia sẻ cảm nghĩ của bà ngay vào lúc này, khi cuốn phim đã hoàn tất:

“Ngay cả bây giờ khi tôi xem phim tôi vẫn nóng ruột không biết điều gì sẽ xảy ra với những người Việt Nam đó: ai sẽ di tản được, ai sẽ phải ở lại. Tôi nghĩ những ký ức đó sẽ đọng lại trong tôi mãi mãi.”

Khoảng 11 giờ sáng ngày 29/4/1975 trước khi Sài Gòn bỏ ngõ, đài phát thanh của Mỹ phát đi bản nhạc White Christmas, báo hiệu chiến dịch sơ tán công dân Mỹ khỏi Sài Gòn bắt đầu. Chỉ trong vòng 24 tiếng, những người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Hơn một trăm nghìn người Việt Nam làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà được di tản trong đợt này.

Bộ phim Last Days in Vietnam có những cảnh hiếm hoi về tàu khu trục hộ tống USS Kirk tiếp nhận 17 chuyến trực thăng chở người tị nạn Việt Nam. Tàu USS Kirk lúc đó đang đậu gần đảo Côn Sơn. Đạo diễn Rory Kennedy cho biết thêm vê khúc phim này:

“Chiếc trực thăng Chinook, chở đầy người Việt Nam và trẻ em không thể hạ cánh vì nó có thể phá huỷ con tàu [USS Kirk]. Vì thế, những người trên trực thăng phải nhảy xuống tàu cách nó nửa mét. Em bé 18 tháng tuổi cũng được thả từ đây.”

“Last Days in Vietnam” là phim tài liệu mới nhất của đạo diễn Kennedy, một người trong dòng họ nổi tiếng Kennedy. Ở tuổi 45 tuổi nhưng bà có nhiều duyên nợ với Việt Nam. Bà là cháu của cố tổng thống Mỹ John Kennedy, người ký lệnh đưa những binh sĩ Mỹ đầu tiên tham chiến ở Việt Nam. Bà cũng là người con thứ 11 của cố thượng nghị sĩ Robert Kennedy, người từng đưa ra đề xuất các con đường nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam vào năm 1968.

“Chúng ta không mấy trân trọng những gì xảy ra trong những ngày cuối đó mặc dù nó là một chương quan trọng trong lịch sử Mỹ. Tôi cảm thấy có rất nhiều bài học được rút ra từ thời điểm đó, nhất là trong hoàn cảnh chúng ta rút quân khỏi Iraq và Afghanistan và cũng như việc chống lại lực lượng Hồi giáo ISIS hiện nay.”

Nguyễn Sơn Tùng, tuy không phải là một nhân vật trong phim nhưng sau khi biết cuốn phim được dựng lại trong bối cảnh ông cũng là một trong những người có mặt ở thời khắc lịch sử ấy đã viết cho trang web của đài Á châu Tự do những dòng sau đây:

“Nửa giờ sau đó căn nhà chỉ huy bốc cháy. Chắc người Mỹ đốt cháy căn nhà và các tài liệu trước khi cuộc di tản kết thúc. Một chiếc trực thăng đáp xuống. Chúng tôi nhốn nháo và muốn ra khỏi xe. Khoảng 10 thuỷ quân lục chiến Mỹ cuối cùng bước lên máy bay, tay cầm súng nhằm chĩa vào xe chúng tôi và nói: “Mọi người ngồi im, chúng tôi trước.” Máy bay cất cánh trong khi lính Mỹ luôn chĩa súng vào chúng tôi.”

Là một trong một vài trăm người bị bỏ lại trong cuộc sơ tán của Mỹ ông Sơn Tùng kể:

“Nếu cuộc rút lui này xét theo nghĩa tháo chạy thì người Mỹ đã hoàn toàn thành công vì họ đã ra đi bình an vô sự. Nhưng nếu xét theo nghĩa một cuộc di tản thì họ đã thất bại vì họ đã bỏ lại một trăm người gồm phụ nữ, trẻ em rất muốn di tản nhưng không được dù hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về thời gian, phương tiện vận chuyển, an ninh hầu như tuyệt đối. Sao người Mỹ có thể tự hào về sức mạnh, lòng nhân đạo, lý tưởng tự do, nhân quyền trong một hoàn cảnh nếu như trên!”

 

Via RFA – Đài Á Châu Tự Do


[youtube https://www.youtube.com/watch?v=HBJaDLx-ULY]

23 điều vô lý chỉ có ở Việt Nam

Featured image:  Duyanh Pham

 

Ở Việt Nam có những thứ và những điều vô cùng vô lý nhưng vì những thứ đó đang ở Việt Nam nên ai cũng cho rằng nó có lý và không có vấn đề gì. Có những thứ và những điều mà chỉ có ở Việt Nam, không có nước nào có. Hy vọng nhiều người sẽ nhận ra. Danh sách như sau:

1. Sổ hộ khẩu. Trên thế giới chỉ có 3 nước áp dụng chính sách này, cả 3 nước đều là 3 cường quốc của thế giới, là thiên đường. Đó là Việt Nam, Trung Quốc và….Bắc Hàn. Tôi thật sự không hiểu nổi mục đích của cái sổ hộ khẩu là gì, trừ việc làm mồi kiếm ăn cho mấy anh chị Công An. Nếu bạn nào có thế giải thích trong 1 câu “tại sao chúng ta lại có sổ hộ khẩu” tui chết liền. Ở xứ khác khi sinh ra chỉ có giấy khai sinh rồi lớn lên làm cái thẻ, hộ chiếu. Vài nước thì dùng bằng lái xe làm chứng minh. Muốn đi đâu thì đi, nước của mình mà. Tại sao mỗi lần chuyển địa phương là phải đi khai tạm trú, kt3. Mấy cái này là gì tui hiểu tui chết liền.

2. Đi mua xe đi đăng ký tên mình phải dùng sổ hộ khẩu về đăng ký tại nơi thường trú (nơi đăng ký hộ khẩu). Nó vô lý ở chỗ này. Bạn là dân Lạng Sơn chuyển công tác vô làm ở Cà Mau, bạn muốn mua xe máy và đứng tên bạn, lỡ xe có bị trộm thì người ta biết xe đó là của mình. Nhưng ở Việt Nam thì nếu mua ở Cà Mau thì dân Lạng Sơn phải chở xe về Lạng Sơn đăng ký. Có cái nước nào khác trừ Việt Nam làm vậy không? Có ai biết thì nói nha, tại tui khờ lắm, hiểu biết về thế giới bên ngoài Việt Nam kém nữa.

3. Cảnh sát giao thông kiểm tra xe nếu không có đủ giấy tờ sẽ bị giam xe. Tại sao người lái xe phải chứng minh xe đó là của người lái? Sao CSGT không chứng minh điều ngược lại. Phi logic. Còn việc giam xe thì tui chưa biết xứ nào khác làm vậy hết.

4. Thuế “chuyển đổi mục đích sử dụng đất”. Tui chưa biết xứ nào khác có cái thuế quái dị như vậy. Đây là loại thuế làm cản trợ quá trình công nghiệp hóa của đất nước. Bạn là một nông dân có 100 mét vuông đất nông nghiệp. Bạn muốn dùng 50m2 đó để xây cái hang. Bạn phải đi tới Sở Tài Nguyên Môi Trường nộp đơn chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Số tiền đó cộng với bôi trơn đút lót thì gần bằng giá bán thị trường rồi. Thế thì bạn phải bán đi 50 m2 còn lại. Nghĩa là cái thuế này làm mọi thứ liên quan tới đất đai mắc gấp đôi. Một trong những thứ khùng điên nhất.

5. Đi nộp giấy tờ phải đi công chứng rồi phải có con tem xác nhận. Đã vậy còn phải xin xỏ mấy bé mấy *** ** làm hành chính nữa chứ.

6. Đi “xin” việc ở cơ quan nhà nước, công ty quốc doanh và một số công ty tư nhân phải nộp “sơ yếu lý lịch”. Sơ yếu lý lịch yêu cầu bạn phải ghi rõ về gia đình và bản thân: Trước và sau 1975 đã và đang làm gì. Tui và gia đình tui làm gì trước sau 1975 thì liên quan gì tới năng lực yêu cầu của công việc?

7. Đi làm từ thiện phải (nộp đơn) “xin phép” Ủy Ban Nhân Dân và Mặt Trận Giải Phóng địa phương. Trời ơi, đã đi từ thiện, là bỏ tiền túi mình ra cho người khác, đã vậy còn phải đi xin giấy phép là sao? Độc Lập Tự Do Hành Phúc đâu rồi?

8. Tham gia các giải thể thao ở tỉnh (và vài thành phố) phải có hộ khẩu và sổ tạm trú ở đó. Thể thao Thái Lan đang phát triển với quy mô chinh phục Châu Á. Trong khi đó ở Việt Nam các nhà làm thể thao hỏi: “Hộ khẩu con đâu?” Thấy có ngu không?

9. Đi du lịch hoặc ở khách sạn nhà nghỉ phải đưa hộ chiếu hoặc Chứng Minh Thư cho tiếp tân. Ở xứ khác tui chỉ trình cái thẻ Master hoặc Visa. Nếu đưa hộ chiếu thì họ photocopy xong rồi đưa lại chứ không giữ. Tui chưa biết cái xứ nào làm vậy, trừ Việt Nam.

10. Trước giải, buổi, hội hay chương trình gì cũng phải giới thiệu danh sách mấy quan có mặt. Đã vậy danh nghĩa dài dòng lê thê. Có cần phải đọc tên từng người một, chờ từng người một đứng dậy ngồi xuống không. Tui thật sự không hiểu cái logic. Tui chưa bao giờ thấy một giải hay trận thể thao nào ở nước ngoài làm vậy.

11. Các trung tâm thể thao trưng khẩu hiệu “rèn luyện thể thao theo giương Bác Hồ vĩ đại”. Sao xứ Mỹ không trưng khẩu hiệu “tập luyện theo gương George Washington vĩ đại”? Bác Hồ hồi đó có tập thể thao mà sao tui không biết ta. Chuột cơ tay đô nữa, giờ tui mới biết. Phải ráng tập để nói theo gương Bác Hồ Vĩ Đại mới được.

12. Tất cả các giấy tờ hành chính pháp lý phải có dòng chữ này ở trên “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”. Giấy xin phép nghỉ học cũng vậy, giấy báo cáo cũng vậy luôn. Xứ khác có vậy không ta?

13. Đi toilet ở Bến Xe (Miền Đông, Miền Tây, tỉnh, thành phố) mỗi lần phải trả 2,000 VND.

14. Toilet công cộng thường không có giấy vệ sinh. Vậy người ta dùng gì để chùi *** ta?

15. Làm xong cái hội thảo hay chương trình gì lớn chút cũng phải nói: “Cảm ơn các lãnh đạo đã tạo điều kiện.”

16. Quân Đội đi làm kinh tế: Viettel, MB Bank, Xăng Dầu Quân Đội, Binh Đoàn 318 Dầu Khí. Tui thật sự không hiểu. Quân đội gì mà làm kinh tế kinh doanh?

17. Quân Đội tham gia thể thao thành tích chuyên nghiệp. Tui chưa biết quân đội nước nào khác làm vậy.

18. Cảnh Sát Nhân Dân tham gia thể thao thành tích chuyên nghiệp.

19. Quân Đội phong hàm sĩ quan cho vận động viên đạt thành tích. Mặc dù chưa bao giờ qua trường lớp đào tạo sĩ quan, chưa bao giờ có kinh nghiệm cầm lính, chưa bao giờ có kinh nghiệm chiến trường. Hàm sĩ quan vô nghĩa vậy sao? Bạn là cha mẹ thì có cho con mình vô cái quân đội như vậy không? Vận động viên đạt thành tích thể thao thì liên quan gì tới phong hàm sĩ quan quân đội? Tui chưa biết quân đội xứ nào khác làm vậy hết.

20. Đi xin việc làm vô mấy cơ quan nhà nước hay quốc doanh phải lót tiền, cả trăm triệu hơn chứ không kém. Có xứ nào khác làm vậy không ta?

21. Đánh thuế kinh doanh trên facebook. Cái này miễn ý kiến.

22. Sinh viên học ĐH hay CD cũng phải học 1.5 năm lý thuyết kinh tế triết học Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.5 năm của cuộc đời mà sinh viên sẽ không lấy lại được.

23. Và cuối cùng, Đảng Cộng Sản đấu tranh hy sinh cả triệu người dân trong cuộc chiến chống Pháp, Mỹ Ngụy vì lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, nhưng cuối cùng lại dùng chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường để làm giàu. Vậy cả triệu người Việt đã chết làm gì. Cuộc chiến đó có nghĩa gì?

 

Ku Búa

[Review] Light loss – Offthesky

Album Artwork 

 

 

Light loss là một album của nghệ sĩ nhạc thể nghiệm Jason Corder (Offthesky), đến từ Denver, Colorado (Mỹ). Album được phát hành bởi hãng đĩa Dronarivm (Nga) dưới dạng digital download và CD vào ngày 2 tháng 2 năm 2015.

Light loss xoay quanh sự chuyển mùa từ thu sang đông, dưới thứ ánh sáng lạnh và hư ảo. Đi cùng với đó là những cảm giác u ám, nặng nề xuyên suốt toàn bộ album.Những sắc thái trong mỗi track được xây dựng bởi sự đối lập giữa vẻ tối tăm của drone/noise/effect với những vệt sáng nhạt nhòa của những phần giàu giai điệu hơn, như của giọng hát, piano, violin, cello và synth.

Mouthful of Silence mở đầu album và nêu bật được chủ đề chính. Hoàn toàn được bao phủ bởi những lớp noise và drone dày đặc, những âm thanh mang hơi hướng của dark ambient dai dẳng và lê thê càng nhấn mạnh thêm cảm giác lạnh và tối tăm.

Trong phần còn lại của album, noise nhường chỗ dần cho âm thanh của các nhạc cụ. Field recording không rõ rệt, nhưng cũng đủ để nhận ra. Thiên hướng của electro acoustic cũng càng được thể hiện rõ rệt Âm thanh của saxophone giữ vị trí ổn định trong mỗi track, tạo nên một phần nền vững chắc. Saxophone cùng synth và effect không chỉ gợi nên cảm giác u uất chiếm lĩnh album này mà còn mang đến thêm nhiều yếu tố thể nghiệm đặc sắc.

Trong Dream Coma, từng đợt sóng liên tục của effect và saxophone tạo nên sự đối nghịch với những chuyển động chậm chạp của cello. Quả là một dấu ấn đáng để ý! Sau đó, Offthesky đã tạo nên một bước ngoặt bất ngờ bằng cách để những âm vực cao của synth dồn dập chồng lên những nét hư ảo của nhạc cụ dây.

Trong Bloodletting, một sắc thái mới xuất hiện ngay ở đầu track: những lớp giọng hát lơ lửng và quấn quýt lấy nhau như sương mờ buổi sớm. Trong nửa đầu của track này, synth và effect được giảm thiểu khá rõ, chỉ thấy hầu hết giọng hát chìm trong reverb. Trong nửa sau, noise và effect lại trỗi dậy và trở nên chói gắt hơn và dịu dần khi một lần nữa phần giọng hát xuất hiện và kết thúc tác phẩm

Track thứ 4 If We were a lake thể hiện một sự cân bằng khá rõ rệt giữa synth – effect – giọng hát – nhạc cụ dây. Không gian của tác phẩm này khá gần với không gian trong một bộ phim. Giai điệu nổi trội hơn nhiều so với những phần drone dài dặc. Một nét mới ở track này là giọng hát sánh đôi cùng phần piano mang tối giản và lặp lại, mang âm hưởng của modern classical. If We were a lake cũng là track đầu tiên mà phần violin có một đường nét giai điệu cụ thể thay vì chìm nghỉm trong biển effect.

Light loss – track chủ đề là track dài nhất của album (21 phút). Đây là một sự tổng hơp của tất cả các track còn lại. Điểm nổi trội duy nhất là phần trống xuất hiện từ phút 14. Cùng lúc đó, Saxophone xuất hiện mang thêm thiên hướng free jazz, đẩy cường độ lên cao cho đến tận cuối tác phẩm.

Như nhiều album khác được phát hành bởi Dronarivm Light loss của Offthesky được sản xuất rất công phu và tỉ mỉ. Album là một trải nghiệm đẹp lặng lẽ và choáng ngợp, là sự hòa hợp giữa phong cảnh và tâm trạng con người.

Album có thể được nghe và đặt mua tại đây.

 

[soundcloud url=”https://api.soundcloud.com/tracks/186936408″ params=”auto_play=false&hide_related=false&show_comments=true&show_user=true&show_reposts=false&visual=true” width=”100%” height=”450″ iframe=”true” /]

 

Cánh Đồng Âm Nhạc

Hướng dẫn 6 bước để trở thành dư luận viên

Featured image: blueteeth

 

Phần 1

Tại sao lại gọi là dư luận viên? Dư luận viên là ai? Dư luận viên ở đâu? Dư luận viên hoạt động như thế nào? Làm cách nào để phân biệt được dư luận viên? Dư luận viên có được trả lương không? Vân vân… Có rất nhiều những bức xúc về những dư luận viên này nhưng từ khi cụm từ này tồn tại cho đến nay chưa có tổ chức, cá nhân nào định nghĩa chính xác về chúng. Vì lẽ đó tôi đã bỏ thời gian hơn một năm qua để theo dõi, tìm hiểu và đúc kết về thành phần gây bức xúc này. Hôm này tôi chính thức viết một bài để mọi người không còn mơ hồ về họ.

1. Nguồn gốc

Dư luận viên thật ra là danh từ chỉ những thành viên của cái gọi là “Viện nghiên cứu dư luận xã hội”. Viện này được thành lập chính thức vào ngày 26/01/2008 [1] (Vừa ăn sinh nhật 7 tuổi cách bài viết này 10 ngày) . Thuộc quyền quản lý trực tiếp của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, hiện nay đã dàn trải khắp 63 tỉnh thành trong cả nước, mỗi tỉnh thành có ít nhất 1 trung tâm gọi là Trung Tâm Nghiên Cứu Dư Luận Xã Hội, tùy theo quy mô tỉnh thành mà có phân ra các phòng ban ở quận huyện hay không.

Về quy mô

Cấp Viện và Trung tâm thì được cấp hẳn một cơ quan, tách riêng khỏi cơ quan hành chính của các tỉnh thành. Đây là nơi dành để hội họp, tuyên truyền và tập huấn cho dư luận viên các cấp thấp hơn. Cấp phòng ban thì được gộp vào bên trong Ủy ban quận huyện, phường xã, được tách riêng hoặc gộp chung với Ban dân vận của địa phương (tùy cơ cấu nhân sự từng nơi).

2. Vai trò của dư luận viên (Xem phụ lục [2])

+ Tham mưu cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý công việc soạn thảo, ban hành, tổ chức thực hiện quyết định; thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận xã hội. (Đa phần các dư luận viên trên mạng chỉ chuyên thực hiện nhiệm vụ được gạch dưới này thôi.)

+ Góp phần củng cố và mở rộng nền dân chủ trong Đảng, trong xã hội. (Cái này quan trọng, nên đọc kỹ để ứng phó với dư luận viên và tuyên truyền cho những người sợ góp ý kiến.)

– Tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp ý kiến, tham gia vào các công việc của Đảng, Nhà nước: Việc tiếp xúc của các cộng tác viên nghiên cứu dư luận xã hội với người dân để nắm bắt ý kiến của họ, nhất là các cuộc điều tra, thăm dò dư luận xã hội là cơ hội để người dân bày tỏ chính kiến, tham gia ý kiến với các công việc điều hành, quản lý đất nước của các cấp ủy đảng và chính quyền, nâng cao ý thức làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của họ.

– Phát huy vai trò phản biện xã hội, vai trò kiểm tra, giám sát của cán bộ, đảng viên và nhân dân: Khi người dân cảm thấy ý kiến của mình được lắng nghe, được coi trọng thì trách nhiệm phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của họ cũng được nâng cao. Nhân dân có “trăm tai, nghìn mắt” nên có thể nhìn rõ mọi vấn đề, sự vật dưới nhiều góc độ. Sự phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của nhân dân giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý kịp thời phát hiện những sơ hở, hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các giải pháp khắc phục.

+ Công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội góp phần đổi mới công tác tư tưởng của Đảng.

3. Các thành phần dư luận viên

a. Thành phần chính quy

Đây dĩ nhiên là cấp cao cấp nhất và ít khi lộ diện nhất, là cán bộ công chức, Đảng viên được đào tạo nghiệp vụ tuyên truyền và lý luận chính trị hẳn hoi mới được tuyển vào. (Tạm thời bỏ qua)

b. Thành phần bán chính quy

Đa phần là Đoàn viên (sinh viên – học sinh) ở các trường đại học.

Thêm một số ít Đảng viên – cán bộ, công chức ở các phòng ban khác của Ủy ban các cấp, có thời gian là nhảy vào. Những người này thì chỉ chuyên đánh lạc hướng dư luận về vấn đề liên quan đến địa phương mình.

c. Thành phần bị nhồi sọ

Lẽ ra không thể gọi thành phần này là dư luận viên, họ chỉ là nạn nhân! Nhưng vì cách comment của họ nhìn vào khá giống với dư luận viên bán chính quy nên dân tình mấy năm nay cứ gọi họ là dư luận viên (chẳng khác nào họ gọi người khác là phản động). Nhắc lại: Họ chỉ là những người bị đầu độc, và cần được giải độc.

Ghi chú:

[1] “Ra mắt Viện nghiên cứu dư luận xã hội” – Báo thanhnien (google search để biết thêm thông tin)
[2] “Vai trò của dư luận xã hội” – Tài liệu của các trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội. (google search cụm từ trên để đến cái file word của các trang Tỉnh ủy)

Phần 2

Trong phần này mình sẽ tập trung phân tích dư luận viên bán chính quy. Đây là lực lượng dư luận viên chính hoạt động trực tiếp trên môi trường internet nhưng vì sao gọi là bán chính quy thì mình sẽ giải thích trong bài. Không biết các thành viên trong Triết Học Đường Phố có ai đã hoặc đang là Đoàn viên không? Nếu có thì mình hy vọng các bạn có thể hỗ trợ xác minh cho mình những thông tin trong bài viết này.

Như ở phần 1 đã đưa ra, thì lực lượng Đoàn viên thanh niên (sinh viên – học sinh) bị áp đặt trở thành một trong những thành phần nồng cốt thực thi chính sách tuyên truyền, đánh lạc hướng và định hướng dư luận xã hội. Nhưng sự áp đặt này không diễn ra ở tất cả mọi nơi mà nó có chọn lọc. Ví dụ: khu vực Hà Nội, Hồ Chí minh… những nơi có nhiều người bất đồng với các chính sách của chính quyền, những nơi có khả năng diễn ra biểu tình, những nơi dân oan mất đất tập trung về thưa kiện..vv…

Vậy lực lượng này được điều động ra sao? Vì sao họ lại tham gia làm dư luận viên? Họ được hưởng chế độ như thế nào? Có được nhận lương hay không?

Thứ nhất: Họ là ai và vì sao họ tham gia làm dư luận viên? Trước hết, các bạn hãy hình dung thế này: các thanh niên ở các xã, huyện có điều kiện khó khăn, quanh năm chỉ có ruộng vườn, nương rẫy, cố gắng học hành để đỗ đại học, để được thoát cái nghèo. Đến một ngày, họ đỗ đại học ở các thành phố lớn. Vì lẽ đó họ rời quê nghèo đến với đô thị. Và thứ mà họ chứng kiến là gì? Là phố xá xầm uất, là xe cộ, là tiện nghi hào nhoáng…hay nói cách khác đó là ”sự lãnh đạo tài tình của Đảng”! Nó có khác với miền quê của họ không? Nó có làm họ tăng thêm lòng tin đối với Đảng không? Đọc đến đây tôi tin là bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói và tôi biết có thể bạn có thắc mắc, hãy nêu ra.

Thứ hai: 6 bước để trở thành dư luận viên

Bước 1: Ở vị trí như thế, từ sự thay đổi môi trường sống như thế nên lòng tin của họ là tuyệt đối (vào thời điểm ấy). Thế rồi họ có những tiếp xúc với công nghệ, họ chạm vào internet, họ bắt đầu đọc tin tức, tham gia vào facebook… Và thứ họ đọc được là gì? Là những bài báo bôi nhọ lãnh đạo, là những bài viết “gây hoang mang” dư luận, làm mất “lòng tin” của nhân dân vào “sự lãnh đạo của Đảng”, rồi là những lời chống đối mạnh mẽ, là những kẻ suốt ngày “xuyên tạc” chính quyền, là những thế lực thù địch, phản động lưu vong luôn nguyền rủa chính quyền… Mấy cái là…, là… ấy là được mớm cho? Ai mớm thì các bạn có thể tự đoán được.

Bước 2: Thế rồi họ được tham gia sinh hoạt Đoàn, họ tiếp xúc với những vị Đảng viên, cán bộ lãnh đạo “công chính liêm minh”, tận tình chỉ bảo cho họ. Họ được tuyên truyền cho cách lý luận để chống lại những giọng điều xuyên tạc, chống phá chính quyền… bla bla…

Bước 3: Vậy là họ hăng hái gia nhập vào chiến trường internet, tham gia vào công cuộc đập tan âm mưu của thế lực thù địch, chống lại tụi anh hùng bàn phím chuyên gây rối, kích động nhân dân biểu tình hòng “diễn biến hòa bình”…vv… Hăng hái và tràn đầy nhiệt huyết, họ chia sẻ với nhau những chiến tích, những thông tin về “bè lũ phản động” để cùng nhau hợp lực chống lại chúng, họ bắt đầu tham gia vào các hội nhóm, các trang facebook chống “phản động” … Có bạn nào thấy con đường này quen quen không?

Bước 4: Với cái sự hăng hái vạch trần âm mưu của bè lũ phản động ấy, như một lẽ đương nhiên họ bị đám phản động la làng lên rằng “Đồ Dư Luận Viên”, “Đồ cái đứa tháng lãnh 3 củ đi l*** đ** ĐCS, …etc…” Hầy, có oan không cơ chứ? Đến đây thì họ sẽ có đấu tranh tâm lý. Một là “nghe” theo tụi phản động quay ra tìm hiểu thông tin về những gì mà họ tin tưởng. Hai là kiên định lòng tin vào Đảng, vào chính phủ, bác bỏ tất cả luận điệu của tụi phản động. (Nếu lựa chọn một thì họ sẽ trở thành những Zombie như chúng ta.)

Bước 5: Nếu lựa chọn cách thứ hai trong bước 4 thì họ sẽ chính thức trở thành dư luận viên bán chính quy (chưa nói gì đến tiền nông nhá). Đến lúc này họ “nhận ra” rằng, đám phản động rất ghê gớm, chúng đã “đầu độc” những người “thiếu lập trường chính trị”, gây chia rẽ trong nội bộ Đảng,…blap blap… Rất nguy hiểm! Họ phải báo cáo cho nhà chức trách, phải tìm biện pháp mạnh hơn để đối phó với đám phản động này.

Bước 6: Họ được chi đoàn, liên đoàn, huyện ủy – quận ủy, thậm chí là tỉnh ủy – thành ủy hết lòng khen ngợi là Thanh niên xung phong, là thanh niên yêu nước…blap blap. Họ được cho tham gia tập huấn, được giảng dạy lý luận chính trị ở mức cao hơn (tức là bị tẩy não nhồi sọ nặng hơn ấy). Rồi thì họ nghĩ ra đủ mọi cách thức chống lại bè lũ phản động (Thanh niên mà – năng động và linh hoạt lắm). Thế rồi họ nghĩ ra cách ném mắm tôm, ném nước mắm, …blap blap… Để chống lại tụi phản động! Và rồi họ được tuyên dương, được nhận tiền “bồi dưỡng”. Mức tiền bồi dưỡng này thì bắp bênh lắm, không cố định ở mức 3 triệu đâu nhé (tùy thuộc độ rộng cái miệng của người trao tiền cho họ nữa)

—-Tạm dừng phần 2 ở đây—-

 

Zetal, Tham Mưu Zombie

Dân trí bao nhiêu cho dân chủ?

Featured image:  The-Wu

 

 

Bài viết này chỉ ra những lý lẽ và phân tích nhằm tìm giải đáp cho câu hỏi được nêu trong tựa đề. Với bài viết này, tôi hi vọng sẽ tháo gỡ được hoàn toàn (hoặc phần lớn) băn khoăn của không ít người về mối liên hệ giữa Dân chủ và Dân trí.

Nhiều người cho rằng để có dân chủ cần có dân trí cao, hoặc ít ra là không thấp. Theo đó, dân trí phải đạt đến một trình độ nào đấy là điều kiện cần cho dân chủ. Tuy nhiên, không mấy ai chỉ ra được trình độ nào đấy cụ thể ra sao.

Dân trí được định nghĩa là trình độ hiểu biết của người dân, nói chung [1]. Ở một nước như Việt Nam, đa số người dân sống bằng nông nghiệp, lại ít có điều kiện tiếp cận với tri thức, nên trình độ hiểu biết nói chung – hay dân trí – là tương đối thấp.

Tôi không có ý muốn bàn cãi với những ai phản đối nhận định trên, bởi đó không phải là một trong những điều mà bài viết này hướng tới. Thay vào đó, tôi muốn chúng ta cùng đi đến một khẳng định rằng: Dân trí thấp vẫn có thể có dân chủ.

Cuộc bầu cử tại Ấn Độ vào tháng 5 vừa qua đã cho thấy rõ nét về quyền làm chủ của người dân nước này. Mặc dù đa số người dân Ấn Độ sống trong đói nghèo, và bởi thế, không có hoặc ít có điều kiện học hành, nhưng họ vẫn có thể sử dụng hiệu quả lá phiếu.

Trong một bài viết về cuộc bầu cử, Hồng Nga của BBC Việt ngữ đã mô tả một cụ bà 53 tuổi tên là Nila Devi, một nông dân ở làng Chhiattar, bang Bihar nghèo nhất nhì̀ Ấn Độ̣:

“Giống như đa phần phụ nữ ở độ tuổi trung niên trong làng, bà Nila không biết chữ và chỉ nhận biết các đảng chính trị theo màu cờ sắc áo. Nhưng bà biết phải bầu cho ai.”[2]

Bài viết dẫn lời nhận xét của một nhà phân tích chính trị địa phương:

“Cho dù nghèo đói, người dân ở đây nhận thức rõ ràng về dân chủ.”, và “Dân nghèo ở đây hiểu rằng quyền bầu cử là rất quan trọng, vì thông qua lá phiếu, họ có thể thay đổi cuộc đời.”[3]

Có thể nói, cuộc bầu cử tại Ấn Độ nói riêng và nền dân chủ Ấn Độ nói chung là minh chứng không thể chối cãi cho thực tế rằng: Dân chủ là hoàn toàn có thể ở một nước có mặt bằng dân trí thấp.

Nếu hình dung trình độ hiểu biết của một người như một chiếc tủ thì chiếc tủ ấy có nhiều ngăn. Mỗi ngăn của chiếc tủ chứa đựng những hiểu biết về một lĩnh vực nào đấy. Ngăn rỗng thì hiểu biết về một lĩnh vực bằng không, ngăn đầy thì hiểu biết về lĩnh vực ấy trọn vẹn. Trình độ hiểu biết của một người có thể được đánh giá là cao hay thấp, tùy thuộc vào việc chiếc tủ của người đó có các ngăn đầy, không rỗng không đầy, hoặc rỗng ra sao.

Hiểu biết về dân chủ có thể được đặt trong một ngăn. Ngăn này có thể rỗng ngay cả với người có nhiều hiểu biết, chẳng hạn những người có nhiều bằng cấp về các lĩnh vực chuyên môn nhưng lại không có khái niệm gì về dân chủ.

Thay chiếc tủ trình độ hiểu biết của mỗi cá nhân bằng chiếc tủ dân trí của người dân một nước. Ở góc độ dân trí, chỉ cần xem xét ngăn chứa hiểu biết về dân chủ, mà không cần xem xét các ngăn khác hoặc toàn bộ chiếc tủ, để biết người dân nước này có thể làm chủ hay chưa.

Hình dung đơn giản trên đây nhằm cho thấy rằng, để có dân chủ thì vấn đề không phải là dân trí cao hay thấp, mà là hiểu biết của người dân về dân chủ có đầy đủ hay không. Hiểu biết này chỉ là một phần nhỏ của dân trí. Không thể nói dân trí chung chung như một điều kiện cần cho dân chủ.

Dân chủ là một quá trình mà ở giai đoạn đầu, để hình thành một định chế với những yếu tố nền tảng đảm bảo cho việc người dân làm chủ thì không đòi hỏi dân trí cao. Song rõ ràng, trong bất cứ giai đoạn nào của dân chủ, dân trí càng cao thì việc thực thi dân chủ càng hữu hiệu. Trở lại hình ảnh về chiếc tủ dân trí, nếu các ngăn về các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, pháp luật,… càng đầy, thì khả năng người dân làm chủ một cách hiệu quả các lĩnh vực này – thông qua việc tác động và (gián tiếp) tạo nên các chính sách Nhà nước về các lĩnh vực, càng lớn.

Đến đây, có thể có ý kiến cho rằng: Cần một nền dân chủ có chất lượng cao ngay từ khi nó mới ra đời, và do đó, chỉ nên có dân chủ khi dân trí đã cao. Điều này tuy có vẻ đúng, nhưng thực tế là sai lầm. Bởi thứ nhất, đợi đến khi dân trí đã cao mới thực thi dân chủ thì sẽ không nhanh tiến bộ bằng thực thi dân chủ sớm khi có thể, và hệ quả là, thứ hai, không nhất thiết cần một nền dân chủ ngay từ đầu đã có chất lượng cao.

Có thể thấy nhiều quốc gia có nền dân chủ khá sớm khi trình độ dân trí không cao, chẳng hạn như Thụy Điển. Một thế kỷ trước đây, Thụy Điển vẫn chỉ là “một nước nông canh lạc hậu, với đại đa số dân chúng sống trong những điều kiện rất nghèo khổ”[4]. Cũng khoảng thời gian ấy, năm 1921 đã diễn ra cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên. Nền dân chủ Thụy Điển từ đó hình thành và dần trở nên bền vững. Đến nay, thành công của nền dân chủ Thụy Điển có thể được dễ dàng nhận thấy qua “những yếu tố dân chủ mạnh mẽ không chỉ trong chính trị quốc gia, vùng miền và địa phương, mà còn ở cả nhà trường, nơi làm việc, trong các tổ chức quyền lợi và các khu vực khác của xã hội”[5].

Chắc chắn rằng, nếu nền dân chủ Thụy Điển chỉ xuất hiện khi dân trí đã cao, thì ngày nay chúng ta đã không có cơ hội được chứng kiến sự thành công của nền dân chủ này đến như thế!

Tán thành việc đợi cho dân trí cao rồi mới thực thi dân chủ tương tự như tán thành việc tích lũy lý thuyết thành đống rồi mới đem ra thực hành, trong khi nếu vừa học vừa hành thì sẽ sớm hưởng được ích lợi từ việc lý thuyết và thực hành bổ trợ cho nhau.

Cũng như thực hành tác động trở lại (qua việc củng cố và có thể làm gia tăng) lý thuyết, dân chủ giúp cho dân trí phát triển. Thực hành dân chủ là cách tốt nhất để người dân kiểm nghiệm lý thuyết về quyền làm chủ quốc gia, đồng thời, kinh nghiệm làm chủ quốc gia có thể giúp người dân đạt được những tri thức mới. Thêm vào đó, xã hội dân chủ cho phép các quyền tự do, mà với các quyền này, người dân có được không gian rộng mở cho sự phát triển cá nhân, trong đó có sự hoàn thiện tri thức. Chẳng hạn, thông qua báo chí tự do và bàn thảo công khai về các vấn đề thời sự, người dân có thể mau chóng thu được những hiểu biết cần thiết trong các lĩnh vực mà mình quan tâm.

Kết lại, toàn bộ lý lẽ và phân tích đã nêu có thể được tóm gọn qua ba điểm chính:

1) Dân trí thấp vẫn có thể có dân chủ. Để có dân chủ thì người dân cần hiểu biết về dân chủ, trong đó có quyền làm chủ của mình, hiểu biết này là một phần của dân trí.

2) Dân trí càng được nâng cao thì dân chủ càng được thực thi hữu hiệu, và ngược lại, dân chủ càng được thực thi hữu hiệu thì dân trí càng được nâng cao.

3) Thực thi dân chủ sớm khi có thể thì tốt hơn là đợi đến khi dân trí đã cao.

Cần lưu ý rằng, trong điểm đầu tiên, hiểu biết của người dân về dân chủ chỉ là một điều kiện cần (mà không phải toàn bộ điều kiện) cho dân chủ. Xét từ phía người dân, chỉ riêng hiểu biết này thôi là chưa đủ cho việc người dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Nếu có hiểu biết về quyền làm chủ nhưng không có ý thức thực hiện quyền này thì có nghĩa người dân đã tự tước đi cơ hội được làm chủ đất nước. Cho nên, chỉ khi hiểu biết về quyền được song hành với ý thức thực hiện quyền, thì mới có hi vọng rằng người dân sẽ trở thành chủ nhân đích thực.

Tại Việt Nam, hiểu biết về dân chủ lẫn ý thức thực hiện quyền làm chủ của người dân còn hạn chế, vì vậy, để tiến tới dân chủ, hai yếu tố này phải được nâng cao. Việc nâng cao cả hai yếu tố sẽ diễn ra rất chậm chạp nếu thiếu đi những điều kiện tác kích. Những điều kiện ấy có thể được tạo ra từ phía chính quyền bằng cách mở rộng dần không gian sinh hoạt dân sự và chính trị cho người dân, để người dân tham gia ngày càng sâu vào việc điều hành xã hội[6]. Bên cạnh đó, chính quyền cần có những đột phá trong việc cải tổ hệ thống chính trị hiện tại để đạt đến một thể chế dân chủ hiệu quả trong tương lai.

 

Nguyễn Trang Nhung

**********

[1] Theo Từ điển tiếng Việt – Nxb Đà Nẵng.
[2] Đói nghèo và Dân chủ – Hồng Nga, BBC Việt Ngữ
[3] Như trên.
[4] Thụy Điển & Người Thụy Điển – Claes Britton và Viện Thụy Điển.
[5] Như trên.
[6] Ví dụ, mở rộng dần bầu cử dân chủ cấp cơ sở để tiến dần tới bầu cử dân chủ cấp quốc gia.

 

 

[Review] Khuyến Học – Quyển sách mọi người Việt nên đọc

 

Khuyến Học, hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất tại Nhật, được sáng tác bởi học giả Fukuzawa Yukichi.

Sơ lược về tác giả, hãy xem lời giới thiệu trên Goodreads:

“Nói tới Fukuzawa Yukichi, không người Nhật nào lại không biết. Họ nói về ông như một trong những bậc “khai quốc công thần” của nước Nhật Bản hiện đại, hình ảnh của ông được in trên đồng tiền có mệnh giá cao nhất ở Nhật, tờ mười nghìn yên. Fukuzawa Yukichi là nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với xã hội Nhật Bản thời cận đại.

Người Nhật tôn vinh ông là “Voltaire của Nhật Bản”, không chỉ vì tính triệt để và tầm mức vượt trội trong tư tưởng của ông, mà còn vì cũng như danh nhân người Pháp, Fukuzawa Yukichi cùng những người đồng chí của mình là những người khai sáng tinh thần quốc dân Nhật Bản, đem lại linh hồn, động lực và sự hậu thuẫn tinh thần cho công cuộc Duy tân của chính phủ Minh Trị. Những tác phẩm của ông dù viết từ hơn một thế kỷ trước nhưng vẫn được người Nhật Bản ngày nay hết lòng ngưỡng mộ.”

Khuyến Học là tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến công chúng Nhật Bản của tác giả Fukuzawa Yukichi. Cuốn sách này được in lần đầu với 3, 4 triệu bản, so sánh với dân số Nhật Bản khoảng 35 triệu người tại thời điểm đó, rồi lại so sánh với lượng bản in trung bình chưa tới 5 ngàn bản của các đầu sách hiện đại, mới thấy được sức ảnh hưởng của nó. Người dân Nhật thời Minh Trị thuộc Khuyến Học như sách vỡ lòng, đâu đâu cũng thấy người ta cầm Khuyến Học, trên tàu điện, ở thư viện, trên xe buýt… Có thể nói không ngoa rằng đâu là cuốn sách gối đầu giường của mọi người dân Nhật trong thời kỳ Duy Tân.

Quyển sách khẳng định tầm quan trọng của việc học và việc nâng cao dân trí quốc gia. Xuyên suốt các chương sách, tác giả đề cao sự phát triển của chí khí dân tộc, khuyến khích quốc dân hợp tác với chính phủ để xây dựng đất nước, nhấn mạnh sự thống nhất của tinh thần quốc dân. Với văn phong phê phán, Fukuzawa Yukichi đả kích tâm lý bàng quan thờ ơ với vận mệnh đất nước, ỷ lại vào chính phủ. Ông lên án những phong tục lạc hậu, đánh trực diện vào tư tưởng xưa cũ vốn coi trọng đẳng cấp thứ bậc, trọng nam khinh nữ, những thói quen kém văn minh vốn chịu ảnh hưởng của Nho giáo đã ăn sâu vào tính cách người Nhật.

Mỗi phần trong sách đưa ra những ví dụ thực tiễn để vạch ra thực trạng tiêu cực, đả kích những điều mâu thuẫn bất hợp lý trong phong tục cũ, nhằm đánh đổ tâm lý sợ hãi tự ti và lối tư duy lạc hậu của người Nhật sau bao nhiêu năm bị phong kiến đô hộ. Từ đó tác giả hướng dẫn sâu sát, tỉ mỉ, mục đích hướng người đọc khỏi lối mòn suy nghĩ, xóa đi lối tư duy tiêu cực, mà hướng tới sự bình đẳng, tự do cá nhân để khuyến khích sự học, phát triển văn minh. Một vài đoạn phân tích đến từng khía cạnh nhỏ của cuộc sống, đôi khi chi tiết một cách quá mức, chủ yếu để loại bỏ tận gốc thói suy nghĩ cũ, làm sáng rõ sự quan trọng của tư duy logic, lý trí, khoa học.

Mình tình cờ đến với Khuyến Học trong giai đoạn đầu trên con đường tự học, khi đang mày mò vươn lên. Và đó là một quyển sách thực sự đúng lúc. Không hẹn mà gặp, Khuyến Học giúp trả lời những câu hỏi mà mình thấy bản thân và bạn bè xung quanh vẫn nghi vấn bấy lâu nay. Đó là những câu hỏi trong quá trình phát triển bản thân, hoàn thiện chính mình, như ý nghĩa của sự học, năng lực hành động, danh tiếng và thực lực…, và cả những câu hỏi về chế độ xã hội, về mối quan hệ giữa chính phủ với quốc dân, và nên hay không nên có cách mạng nhân dân. Khuyến Học đề cao vai trò của việc tự giáo dục, nhắc mình nhớ rằng thực học là sự nghiệp cả đời, rằng kiến thức không phải để làm giàu cho bản thân mà để giúp đời, và rằng mỗi người dân ngoài chăm lo cho bản thân, gia đình thì còn có bổn phận với xã hội, với đất nước.

Sách chứa đựng nhiều tư tưởng cấp tiến và gây sửng sốt cho độc giả, ngay cả độc giả thuộc thế kỷ hai mươi mốt. Những ý tưởng sau của ông khiến mình thực sự tâm đắc:

  • Trời không tạo ra người đứng trên người. Mọi người sinh ra đều bình đẳng về quyền lợi. Nếu có khác biệt là do học vấn.
  • Dân ngu tự chuốc lấy chính sách bạo tàn. Người dân tử tế nghiêm túc thì buộc chính phủ cũng phải tử tế nghiêm túc.
  • Có những người còn trẻ mà lại muốn lựa chọn những công việc an nhàn, tự cảm thấy thỏa mãn chẳng khác gì loài sâu kiến.
  • Việc tìm kiếm chân lý thường bắt đầu từ sự hoài nghi.

Đọc Khuyến Học, có thể hình dung rõ sự kinh ngạc của công chúng trước những tư tưởng mới mẻ đến lạ lùng này. Chúng như những nhát dao chặt mạnh vào luồng suy nghĩ truyền thống, cắt đứt những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ trong đời sống người Nhật. Những ý tưởng khai sáng vĩ đại làm thức tỉnh người đọc khỏi những tham vọng tầm thường, khiến họ tâm phục khẩu phục. Nhiều lần khi đọc sách, mình đã phải vỗ đùi thán phục, thực sự ngưỡng mộ những suy nghĩ cách tân của Fukuzawa Yukichi.

Đây là quyển sách mà mọi người Việt Nam đều nên đọc. Đọc để biết người dân Nhật Bản đã xây dựng đất nước như thế nào để biến một quốc gia lạc hậu thành cường quốc năm châu chỉ sau ba mươi năm công cuộc duy tân. Đọc để biết vì sao sự học nên là một quá trình của cả đời người. Đọc để biết hổ thẹn và phấn đấu xây dựng đất nước ngang bằng với láng giềng, sánh vai với phương Tây.

Nhưng cuốn sách này lại không hề là một cuốn sách dễ đọc. Bởi vì cứ sau một vài trang sách, ta sẽ thấy những hình ảnh minh họa cho thói hư tật xấu của quốc dân lại ẩn hiện bóng dáng của chính ta. Bởi cuốn sách khiến ta thấy xấu hổ với chính mình. Kuzukawa Yukichi đề cập đến hiện trạng xã hội Nhật cách đây hơn một trăm năm, nhưng khi đọc, cứ ngỡ như ông đang ám chỉ xã hội Việt Nam thời hiện đại. Hãy xem một vài trích đoạn đắt giá của sách:

“Đa phần các trí thức đều thiếu con mắt nhận biết thời cuộc. Họ yêu quý và lo giữ chỗ cho bản thân hơn là lo lắng, ưu tư cho đất nước. Đối với họ, gió chiều nào che chiều ấy. Đa số các trí thức kiểu này luôn rình rập tìm kiếm lợi ích trước mắt, săn đón cơ hội leo vào hàng quan chức, sa vào các sự vụ quản lý vặt vãnh tiêu phí thời gian bằng những việc vô bổ, xa rời công việc nghiên cứu, học thuật. Tôi buộc phải nói rằng những người trí thức như vậy là nỗi bất hạnh cho công cuộc văn minh đất nước.”

“Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tác độc lập, tự do thì dù có biến cả thế giới thành kẻ thù chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta lại phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?”

“Việc chúng ta đang phải trả những khoản tiền lớn để thuê người nước ngoài, nhập khẩu hàng hóa cũng bởi trình độ học thuật của nước ta quá lạc hậu so với các quốc gia Tây phương. Mọi thứ của cải, mọi nguồn ngoại tệ nước Nhật Bản tích góp được, lại cứ phải đem dâng cho nước ngoài hết… Chúng ta phải thấy xót xa, phải thấy đó là sự nhục nhã…”

Bàn một chút về văn phong. Trải dài Khuyến Học là những ngôn từ bay bổng, gợi mở, tạo cảm hứng, giàu hình tượng. Từ ngữ súc tích, cô đọng, tạo cảm hứng và động lực mạnh mẽ để tiến theo con đường của học giả Fukuzawa. Ông sử dụng nhiều lời lẽ đơn giản, dễ hiểu, nhiều hình ảnh mang tính liên tưởng cao, khiến người đọc ở mọi trình độ có thể dễ dàng tiếp thu mà không cảm thấy nhàm chán. Cách viết như đang thân tình trò chuyện với độc giả thể hiện một tính cách khiêm tốn với vốn kiến thức uyên thâm.

Quả thật, nước Nhật trở thành cường quốc như ngày hôm nay, sánh vai với phương Tây và được cả thế giới ngả mũ kính phục, nhờ vào công của những người như Fukuzawa Yukichi.

 

Rosie Nguyen

Có khi nào bế tắc giữa đường đời?

 Featured Image: BKPaul Hart

 

Giữa đường đời, có khi nào bạn cảm thấy bế tắc trên chính con đường mình đã chọn? Có khi nào nhìn lại, bạn không biết mình đã đi được bao xa, còn bao nhiêu bước nữa phải cố gắng, và bạn đánh mất lý do để bước tiếp? Những lúc như vậy, không ít thì nhiều, chắc chắn đã từng xảy đến với bạn. Không sao, bởi bạn không phải là người duy nhất trải qua điều này. Điều quan trọng hơn chính là cách bạn quyết định vượt qua điều đó như thế nào. Và sự chọn lựa sẽ quyết định cuộc sống của bạn. Vĩ mô hơn, những sự chọn như vậy sẽ quyết định đến sự tương lai của cả một xã hội.

Sự bế tắc trên đường đời và những lối thoát không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Trong Sa Hành Đoản Ca, Cao Bá Quát cũng diễn tả một vấn đề tương tự qua một hình ảnh rất xác thực: bước đi trên bãi cát. Người lữ khách bước trên bãi cát dài: “Đi một bước như lùi một bước..” Đi mãi, đi mãi, lầm lũi bước không biết đi về đâu. Không phải ai trong đời cũng tìm được cho mình một mục đích sống để phấn đấu. Vậy nhưng cuộc sống vẫn cứ trôi, và con người vẫn phải sống. Vẫn cứ lầm lũi đi tiếp, vẫn những ngày bước trên con đường quen thuộc về nhà mà tưởng mình lạc lối. Sự bế tắc giữ chân người trong bùn lầy, càng xoay xở càng lún sâu, để rồi trói chặt số phận mình ở chốn tầm thường.

Nhưng cũng có những người lựa chọn vượt ra khỏi vũng sình ấy. Họ chọn thay đổi, thay đổi cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ dũng cảm chấp nhận thử thách, bỏ lại đằng sau những thứ quen thuộc để chọn một con đường mới. Họ chấp nhận liều lĩnh và thử thách để phá vỡ cuộc sống an toàn đến tẻ nhạt mình đang có.

Đang là giảng viên một trường Đại học có tiếng tại Hà Nội, sở hữu công việc ổn định, một địa vị cao trong xã hội và một mức lương đáng mơ ước của nhiều người, Tô Phước Thịnh lại quyết định chọn một con đường không-giống-ai. Bỏ ngoài tai những lời khuyên ngăn của người thân, ông quyết định từ bỏ công việc giảng viên để chuyển sang…. kinh doanh tào phớ, một thức quà truyền thống. Bằng sự sáng tạo và lòng đam mê cùng óc kinh doanh tuyệt vời, Tô Phước Thịnh giờ đây sở hữu trong tay chuỗi cửa hàng Tofu nổi tiếng khắp đất nước, thu về 500 triệu đồng một tháng.

Khi nhận ra cơ hội mà bản thân mong chờ, ông đã không ngần ngại từ bỏ chỗ đứng an toàn để chọn một con đường đầy rủi ro. Khi đưa ra quyết định táo bạo đó, có lẽ Tô Phước Thịnh cũng đã sợ hãi. Nhưng: “Dũng cảm không phải là không sợ hãi, mà là chiến thắng được nỗi sợ của chính mình.” Ông đã vượt qua tất cả những rào cản là nỗi lo sợ và định kiến của mọi người, quyết định chọn một con đường mới với một mặt hàng hoàn toàn mới. Và quyết định thay đổi đã đền đáp cho Tô Phước Thịnh rất xứng đáng, bởi bây giờ, cuộc sống của ông đã không còn tầm thường nữa. Ông đã có cùng quyết định với Robert Frost trong bài thơ nổi tiếng Con Đường Không Có Dấu Chân Người:

Hai con đường cắt nhau giữa rừng
Và tôi chọn con đường không có dấu chân người
Điều đó đã tạo nên sự khác biệt.

Vậy tại sao chỉ một số ít người dám tạo nên sự khác biệt? Điều này xuất phát từ bản năng của con người. Một trong nhu cầu lớn nhất của mỗi người chính là nhu cầu được an toàn. Mỗi người đều có một “vành đai an toàn” cho riêng mình, và việc bứt khỏi vành đai an toàn đó không có vẻ là một sự lựa chọn sáng suốt cho đa số mọi người. Vô tình, chúng ta đang đối mặt với một kẻ thù đang âm thầm níu bước chân ta: sự tầm thường. Sự tầm thường như một sợi xích vô hình, khiến mỗi bước chân của ta trở nên nặng nhọc hơn. Nhưng sự nguy hiểm của tầm thường nằm ở chỗ chúng ta sẽ dần quen với sức nặng của dây xích đó, đến nỗi ta không còn để ý đến sự hiện diện của nó nữa.

Khi bạn thất bại, thất bại và thất bại, đến khi bạn ở dưới đáy vực sâu, bạn không còn lựa chọn nào khác ngoài trèo lên. Nhưng nếu bạn tầm thường, mọi thứ vẫn ở trong sức chịu đựng của bạn, và bạn không có động lực để thay đổi. Cuối cùng, bạn chấp nhận một cuộc sống bế tắc, tù túng. Bạn để cho những ước mơ của mình ở ngoài tầm với một gang tay mà không cố gắng kiễng chân lên để với tới. Chỉ để có được một cảm giác an toàn, để tiếp tục đối mặt với những lo sợ hiện tại và không phải đứng trước những thách thức mới của cuộc sống.

Trong một giờ văn nói về việc “chọn lựa con đường không có dấu chân người”, một học sinh đã viết rằng mặc cho những bậc vĩ nhân khai phá những con đường mới, em chỉ mong muốn có một cuộc sống bình thường: học xong cấp ba, lên đại học, ra trường và kiếm một công việc ổn định. Xét cho cùng, người học sinh này chỉ nói thay cho tiếng nói của phần đông những người trong xã hội hiện nay, mong muốn có một cuộc sống “an cư lạc nghiệp”. Nhưng những bậc vĩ nhân cũng có những khởi điểm hết sức bình thường. Thomas Edison, nhà phát minh vĩ đại người Mỹ đã từng bị thầy giáo phê vào sổ “chỉ có thể đi chăn vịt”. Walt Disney từng bị biên tập nhiều tờ báo sa thải vì “thiếu trí tưởng tượng và không có ý tưởng hay ho”. Trước khi trở thành tỷ phú nhờ bảy tập truyện Harry Potter, J.K.Rowling là một phụ nữ thất nghiệp, ly hôn và nuôi con bằng trợ cấp xã hội.

Chúng ta cũng là con người, cũng có trí óc và những tham vọng, tại sao chúng ta không thể trở thành những bậc vĩ nhân như vậy? Nhiều người sẽ nói rằng: “Họ là những người có IQ cao ngất ngưởng.” ”Họ sinh ra trong gia đình có truyền thống học rộng.” “Còn tôi, gia đình tôi thậm chí không có điều kiện cho tôi đi học xa.” Thoạt nghe, những lý do đó có vẻ rất hợp lý. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn, chúng ta dễ dàng nhân ra chúng không hơn gì những lời biện minh.

Nick Vujicic, chàng trai cụt cả hai tay hai chân từ lúc sinh ra, bằng nghị lực phi thường của mình vẫn sống một cuộc sống bình thường, thậm chí trở thành một nhà diễn thuyết nổi tiếng mang lại cảm hứng cho hàng ngàn người trên khắp thế giới. Nick đã từng nói: anh cho rằng khuyết tật của mình chính là một sứ mệnh mà Thượng Đế trao cho, bởi chính khuyết tật đó đã tạo điều kiện để anh gặp và truyền cảm hứng được cho nhiều người đang gặp khó khăn trong cuộc sống hơn.

Thái độ sống tích cực của Nick khiến ta phải xấu hổ, ta chợt nhận ra những lý do biện minh cho sự nhụt chí của mình thật hồ đồ và vô căn cứ. Shakespeare từng nói: “Thường xuyên biện bạch cho một lỗi lầm chỉ làm lỗi lầm đó nghiêm trọng hơn.” Dẹp bỏ những định kiến sai lầm đánh giá thấp bản thân, và bạn sẽ tìm thấy một lối ra cho những ngõ cụt trong cuộc sống của mình. Bạn làm được nhiều hơn những gì bạn nghĩ!

Nếu đối với mỗi cá nhân, việc thiếu can đảm để xóa những “con đường mòn” trong cuộc sống sẽ khiến con người ta không đạt được mục đích sống và dễ dàng lâm vào bế tắc thì đối với xã hội, sự chấp nhận tầm thường của phần đông mọi người càng đem lại nguy cơ lớn hơn nữa. Thử tưởng tượng nếu tất cả mọi người đều mang tâm lý sợ rủi ro, co ro trong vị trí an toàn hiện có. Nhân loại sẽ mãi mãi không biết trái đất quay quanh mặt trời, hình học phi Euclide sẽ không bao giờ ra đời và bộ môn hình học sẽ mãi được giới hạn trên những mặt phẳng, thậm chí có khi bây giờ con người vẫn chỉ sử dụng điện một chiều.

Sự sáng tạo và cống hiến, không chấp nhận tầm thường của những bậc vĩ nhân cũng chính là sự đấu tranh thúc đẩy nền văn minh loài người phát triển. Và giờ đây, chúng ta, những con người của thế kỷ XXI, nếu chúng ta mãi để cho những nỗi sợ hãi lấn át, xã hội sẽ mãi mãi không phát triển được.

Kẻ thù của vĩ đại là tốt.” – Một câu nói rất ngắn nhưng mang những triết lý rất sâu xa. Nếu chúng ta mãi chấp nhận cái “tốt”, sẽ chẳng ai phấn đấu cho cái vĩ đại. Trong xã hội hiện đại, mỗi cá thể càng phải tin tưởng vào bản thân mình, dẹp bỏ những nỗi lo sợ và phấn đấu vì những mục tiêu trong cuộc sống. Có như vậy, mới thấy cuộc sống là một cuộc đua kỳ thú, không phải một ngõ cụt không lối thoát.

 

Night Poem

Nhận diện dư luận viên và công an mạng

Featured image: JamFactory

 

 

Dư luận viên hay Công an mạng hay đội lốt tranh đấu cho dân chủ để thâm nhập các trang FB có tiếng và dùng những thủ đoạn sau:

1. Gây hoang mang, chia rẽ trong giới tranh đấu bằng cách dèm pha, tạo nghi kỵ

2. Đánh lạc hướng chủ đề bằng nguỵ biện và ‘tung hoả mù’.

3. Làm loãng tranh luận bằng các cãi cù nhầy về câu chữ hay chuyện bên lề, hay chọc tức, hay gợi dục.

4. Đưa ra những chủ đề tranh luận có tính cách đào sâu hố ngăn cách giữa các cộng đồng để huỷ hoại tinh thần đoàn kết.

5. Doạ bóng doạ gió về an toàn cá nhân.

6. Hàm ý là họ có khả năng xâm phạm đời tư của bạn để làm bạn xấu hổ.

7. Khen bạn ngút trời để làm cho bạn tự mãn và mất đi khả năng tự kiểm và tự kiềm.

Hồng vệ binh

Hồng vệ binh còn được dân mạng yêu tự do dân chủ gọi là Dư luận viên. Những người làm Công tác HVB do Ban tuyên giáo tuyển chọn và có hưởng lương. Vì được hưởng lương, HVB viết theo đơn đặt hàng từ cấp trên nên phải theo định hướng của cấp trên. Số lượng HVB có thể lên tới hàng chục nhìn người tuỳ thời điểm, sự kiện chính trị xã hội.

Có những HVB chuyên chơi “hàng thối” có nghĩa là nhóm này được giao nhiệm vụ chọc thối, chửi bậy gây ức chế cho “chủ thớt” (chủ status). Nhóm này lương thấp và được phân công ném cứt vào “nhà” những chủ thớt thiếu bản lĩnh non tay dao.

Có những nhóm HVB chuyên “rót mật”. Nhóm này được giao nhiệm vụ cụ thể là vào những trang blog, facebook của những chủ thớt có ít nhiều tiếng tăm. Đám HVB này chỉ làm mỗi việc khen ngợi chủ thớt lên mây xanh hầng ngày, làm mọi cách cho chủ thớt đi từ trạng thái say sóng đến lâng lâng và cuối cùng là để nạn nhân bay lơ lửng như quả bóng bay không thể, không muốn hạ xuống mặt đất nữa và cuối cùng tự “nổ” cái bụp, xác tan nát như các mảnh bóng vụn.

Có một nhóm HVB khác, loại này trình cao hơn, rất kiên nhẫn, viết khá lưu loát, trong các comments thường có lối viết nhất ngôn đa nghĩa, hiểu sao cũng được. Nhóm này kết bạn rộng rãi với hầu hết các anh chị em tham gia tranh đấu dân chủ để nắm tin tức, nắm tâm tư tình cảm, hoàn cảnh cá nhân để lấy tư liệu phân tích, nhận định báo cáo lên Ban tuyên giáo để có đối sách sát với tình hình thực tế. Nhóm này vào tất cả các ngóc ngách trang cá nhân của người ta đào bới xem kĩ từng tấm hình gia đình, bạn bè, theo dõi các comment của đối tượng, lưu ảnh, phân tích sau đó tập hợp báo cáo gửi lên cấp trên. Nhóm này rất chịu khó lăn vào các chat room gây cảm tình với đối tượng, gây cảm tình cá nhân với các nick có trong danh bạ, chờ cơ hội khen ngợi, tiết lộ thông tin có cắt xén, gia giảm dấm ớt với người này người nọ gây chia rẽ trong nội bộ những người tranh đấu dân chủ đang được dư luận đánh giá tốt.

Nói tóm lại HVB ngày càng tinh vi và có khả năng thích ứng cao hơn. Nếu những người yêu tự do dân chủ không tự nâng trình của mình lên chắc chắn sẽ thua HVB toàn tập và bị họ xỏ mũi bằng sợi thừng mềm mà hoàn toàn không hay biết.

 

Hanh Tran