17.3 C
Da Lat
Thứ Hai, 18 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 153

Cảm xúc mùa xuân

Featured Image: Toan Quach

 

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa…”

– Nguyễn Du

Đất nước đã vào Xuân. Trời đất giao hòa, lòng người mênh mang…Đông qua Xuân tới, con tạo xoay vần, thời gian như bóng cây qua cửa sổ… Trước ngưỡng cửa của Mùa Xuân mới, tâm hồn ta lại lâng lâng, xao xuyến đến kỳ lạ; đôi lúc là nỗi lòng bâng khuâng, tiếc nuối vì thời gian trôi nhanh quá, mới đó mà một năm đã qua rồi…

Ai trong chúng ta chắc cũng từng đặt câu hỏi: sống là gì? Và mỗi người lại có câu trả lời cho riêng mình. Tuy vậy, để trả lời câu hỏi này lại không đơn giản chút nào. Khi đã “va đập” (chữ của Nguyễn Trần Bạt) cuộc sống chút ít, khi đã có chút vốn sống nho nhỏ thì tôi đã hiểu được một phần rằng sống là đấu tranh, là sự trải nghiệm. Sự trải nghiệm có thể là vui hay buồn, nhỏ bé hay lớn lao… nhưng con người thường luôn hướng tới những trải nghiệm mới, những trải nghiệm lớn lao.

Chính vì “không bao giờ dừng bước trước những trải nghiệm đỉnh cao” (Sony); “Hãy vượt qua chính mình để làm chủ thế giới ” (Archimeses)… nên xã hội loài người mới luôn phát triển. Một năm qua đi, tức là mỗi người chúng ta đã có cơ hội trải nghiệm cuộc sống một năm. Những trải nghiệm đó dù vui hay buồn, dù bình yên hay bão tố thì cũng “xin cám ơn đời, cám ơn người đã cho tôi cuộc sống này” (lời một bài hát của Trịnh Công Sơn)…

Một năm hay 365 ngày là một đơn vị thời gian. Một năm qua đi thế là chúng ta đã tiêu mất một năm Sự Sống và tiến gần đến Cái Chết cũng một năm. Cái Chết – là sự kỳ diệu nhất của tạo hóa – theo thiên tài sáng tạo Steve Jobs. Bởi theo Ông, tất cả sẽ bị tan biến trước Cái Chết. Chính vì có Cái Chết nên mọi sự già cỗi, trì trệ sẽ được thay mới bằng sự tươi mới, khoáng đạt… Cái Chết giúp xã hội loài người phát triển, đó chính là Creative Destructive – Sự hủy diệt tích cực! Có lẽ với suy nghĩ đó của bậc thiên tài nên ông đã luôn sống với phương châm: hôm nay là ngày cuối cùng trong đời mình, luôn nghĩ và làm những việc lớn lao, luôn Think Diffirent, bởi thế ông đã tạo ra giá trị nhân loại mang tên Apple, và ông đã góp phần cho thế giới này tốt đẹp hơn.

Dù chưa hiểu sâu sắc được như thế ý nghĩa của Cái Chết, chưa tu luyện đến mức thượng thừa để sống như “hôm nay là ngày cuối cùng trong đời” nhưng tôi cũng hiểu được phần nào rằng thời gian trôi nhanh không hẳn chỉ là sự khắc nghiệt mà nó còn có ý nghĩa tuyệt vời: “Chính thời gian trôi nhanh – hay là sự khắc nghiệt của thời gian” nên chúng ta mới thấy ý nghĩa của nó! Bông hoa hồng thật đẹp nhưng nó sớm tàn phai nên nó càng đẹp, bởi nếu bông hoa hồng mãi không tàn thì ta nhìn mãi vẻ đẹp của nó ta cũng thấy nhàm. Vì sự sống là hữu hạn mà thời gian lại trôi nhanh nên ta mới quý cuộc sống này. Chính điều đó nên: thời gian trôi nhanh chính là điều tuyệt diệu nhất của SỰ SỐNG!

Đã thế Sự Sống là hữu hạn nhưng đôi khi lại rất mong manh. Xin chia sẻ một câu chuyện nhỏ (với tôi là chuyện lớn) với mọi người. Vì mưu sinh, nên giao thừa vừa rồi với tôi không phải là chuyện quây quần bên người thân, bạn bè hay hái lộc cầu may mà là chuyện cơm áo gạo tiền, là chuyện kiếm sống.

Khoảng 3 giờ sáng Mồng Một Tết công việc mới xong. Về phòng trọ tắm rửa, vào mạng xem không khí đón xuân đến 5 giờ sáng mới về quê. Chắc ít người đi trên đường lúc 5 giờ sáng Mồng Một Tết bởi lúc đó mọi người đang ngon giấc hoặc chuẩn bị mâm cơm cúng Tổ tiên nên lúc này đường không một bóng người. Trên đường quốc lộ thênh thang gần sáng Mồng Một Tết như là chỉ có mình tôi. Hoà trong cái se lạnh của Mùa Đông, sự kỳ diệu của Mùa Xuân là sự cô đơn lẻ loi của mình trong trời đất bao la mà một năm chỉ có cơ hội trải nghiệm một lần vào đêm Mồng Một Tết làm cảm xúc của tôi thật khó tả. Một mình thênh thang trên đường quốc lộ mà ngày thường luôn kẹt cứng người và xe…

Rồi đến lối rẽ sang đường. Dù theo thói quen là quan sát mỗi khi qua đường nhưng vì đi đường chẳng gặp ai nên tôi có phần chủ quan, quan sát một chút rồi sang ngay! Khi vừa sang đến bên kia đường thì có một xe hơi vớ tốc độ hơn 100km/h lao tới. Ớn lạnh sống lưng bởi chỉ cần chậm hay nhanh 5 giây là tôi… đi rồi.

Vẫn biết Cái Chết là điều bình thường nhưng nếu chẳng may mình chết lúc đó thì cũng như bao người khác trước khi chết sẽ tiếc nuối lắm lắm những trải nghiệm mới đang chờ họ nếu họ sống, tôi còn thêm niềm tiếc nuối là chưa cống hiến được gì cho cuộc sống này, chưa góp phần nhỏ bé của mình để cho cuộc sống này tốt đẹp hơn. Sự tiếc nuối này mới là lớn lao nhất. Chắc lúc đó mà chết thì tôi sẽ không nhắm mắt được. Rất may cho tôi là vẫn còn sống!

Hàng ngày tôi vẫn luôn thấy cuộc sống thật đẹp dù cuộc sống đôi khi rất khó khăn vất vả. Qua sự việc với mình vào rạng sáng Mồng Một vừa qua thì tôi còn thấy Sự Sống còn thật mong manh nữa. Tôi thêm trân trọng từng giây cuộc sống và tôi lại càng thấy cuộc sống thật đẹp.

“Xin cám ơn đời, cám ơn ai đã cho tôi cuộc sống này…” Tôi sẽ từng giây từng phút “tu luyện“ để ngày một trưởng thành hơn, để đến lúc sẽ hiểu thât sâu sắc và sống như “hôm nay là ngày cuối cùng trong cuộc đời“. Để rồi sẽ cháy hết mình vì “sống đúng nghĩa là cháy hết mình”! Để rồi vào thời điểm này của những năm sau, sau sau… nữa tôi sẽ vẫn thốt lên rằng: Xuân đã sang diệu kỳ. Để rồi đến khi từ giã cõi đời này dù qua bao bể dâu vẫn được như Bố Già Vito Corleone (trong Bố Già của Mario Puzzo): môi vẫn nở nụ cười và vẫn thốt lên được rằng: CUỘC ĐỜI THẬT ĐẸP…

Pham AQ
Hà Nội, Mùa Xuân 2015

4 trái chuối giá 50.000 VND

 

Tôi vừa mua 4 trái chuối ở một cửa hàng tiện lợi của Nhật với giá 266 yên (246 yên + 8% thuế tiêu thụ). Nếu tính tỉ giá 1 yên = 180 đồng thì 4 trái chuối này có giá 47.880 đồng. Tôi nhắc lại: đây là giá của 4 trái chuối, 4 trái chứ không phải 4 nải! Ở Việt Nam, với số tiền đó bạn có thể ăn bao nhiêu chuối?

Trước khi bạn đem vật giá ra so sánh, trước khi bạn bàn đến chi phí vận chuyển các thứ thì cho phép tôi nói thêm: 4 trái chuối đó có xuất xứ từ Peru, Nhật Bản không có chuối! Và đây là lần đầu tôi ăn chuối Peru ở Nhật, bình thường thì tôi vẫn ăn chuối Philippines với giá 136 yên (24.480 đồng) cho 4 trái, nhưng hôm nay chuối Phi hết hàng. Đọc đến đây có lẽ bạn cũng nghĩ được điều mà tôi đã nghĩ: Tại sao lại là chuối Peru và Philippines mà không phải là Việt Nam? Tại sao?

Có lẽ bạn chưa biết rằng nông sản nội địa của Nhật chưa bao giờ đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân nước này. Cho nên họ buộc phải nhập thêm nông sản từ khắp nơi trên thế giới về để bổ sung nguồn cung. Vậy nông sản Việt chiếm bao nhiêu % thị phần?

Nếu bạn hỏi tôi thì tôi xin thành thật trả lời rằng: Tôi không biết! Tôi không phải một nhà thống kê kinh tế nên tôi không trả lời câu hỏi đó cho bạn được. Nhưng không khó để dẫn chứng cho các bạn mường tượng qua những thông tin báo chí đã đăng.

Vào tháng 6 năm 2014 nông dân tỉnh Bắc Giang đem bán tháo vải ra đầy đường. Dự báo với sản lượng vải 140.000 tấn, trong đó, tiêu thụ nội địa khoảng 60%, xuất khẩu 40% (Trung Quốc chiếm khoảng 95% sản lượng xuất khẩu.). Trong khi đó thị trường Nhật không có lấy 1 kg vải Việt Nam nào được nhập. Bộ Khoa học đã xuất khẩu 10 tấn vải ngay trong tháng 7 năm 2014 để làm mẫu cho Nhật Bản kiểm định, người ta bắt đầu mơ về cái giá 16$/5 quả vải ở thị trường này. [1]

Thêm một thông tin khác: theo ông Hoàng Trung, Phó Cục trưởng Cục BVTV thì “Vải ở Mỹ thì tôi không rõ lắm, nhưng ở Nhật, 3 quả vải trị giá 1 USD. Hay như nhãn của Thái Lan XK sang Mỹ, tôi thấy họ bán khoảng 30-40 USD/hộp 5kg. Như vậy so với Việt Nam thì cao hơn rất nhiều lần. Tôi nghĩ nếu XK sang Mỹ thì cũng sẽ có giá cao như vậy thôi.” [2]

*Nếu bạn nào thắc mắc sao lại có 2 cái giá: 3 quả/1$ và 5 quả/16$ ở cùng thị trường thì xin mời bạn tìm hiểu về tương quan giữa giá vốn – giá bán và lượng hàng hóa, quan hệ cung cầu.

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=m9ePheZ2aos]

Câu hỏi dành cho bạn ở đây: Tại sao lại phải là các cơ quan nhà nước đem nông sản đi giới thiệu, kiểm định ở các nước mà không phải là các doanh nghiệp tư nhân? Liệu cơ quan nhà nước có bao quát hết các mặt hàng nông sản không? Liệu cơ quan nhà nước có thể giới thiệu nông sản Việt đến tất cả các nước không?

Còn rất nhiều vụ bán đổ bán tháo, thậm chí là vứt cho gia súc làm thức ăn. Còn rất nhiều vụ đốt bỏ, chặt bỏ, đổ bỏ khác mà tôi không nêu ra. Đơn giản vì tôi không chắc các loại nông sản đó có thể tiêu thụ được ở Nhật hay một quốc gia nào đó hay không.

Đến đây mời bạn trả lời các câu hỏi sau:

  1. Ai là người quyết định số phận của nông dân? Là doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thương lái nội địa hay người tiêu dùng?
  2. Ai là người quyết định số phận doanh nghiệp và thương lái? Là người tiêu dùng hay là chính sách xuất nhập khẩu, các quy định về chất lượng sản phẩm trong thị trường nội đia, các khâu vận chuyển, kiểm duyệt sản phẩm?
  3. Ai là người quyết định chính sách xuất nhập khẩu, các quy định về chất lượng sản phẩm trong thị trường nội địa, các khâu vận chuyển, kiểm duyệt sản phẩm? Là người tiêu dùng hay các cơ quan nhà nước?
  4. Ai là người quyết định bổ nhiệm, tuyển dụng các cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề trên? Là người tiêu dùng, nông dân hay là một Đảng phải chính trị nào?
  5. Ai là người quyết định sức khỏe của người tiêu dùng khi tiêu thụ nông sản? Là nông dân, các cơ quan nhà nước hay một Đảng phái chính trị?

*** Nếu bạn không trả lời được các câu hỏi trên thì xin theo dõi tiếp những bài viết của chúng tôi trong thời gian tới. Kinh tế học có thể trả lời những câu hỏi trên và nhiều câu hỏi nữa.

Gửi các Zombie và độc giả của Triết Học Đường Phố

Các bạn nằm trong số ít giới trẻ Việt Nam hiện nay quan tâm đến tình hình đất nước, chịu đầu tư suy nghĩ để tìm ra một con đường đưa đất nước này đi lên. Đó thực là một điều đáng quý.

Tuy nhiên, hẳn các bạn cũng đồng ý với tôi, khát vọng và nhiệt huyết muốn thay đổi không thôi chưa đủ. Muốn đưa đất nước tiến lên, các bạn còn cần phải có tri thức.

Trong đó, tôi trộm nghĩ tri thức về kinh tế học nằm trong những thứ tri thức quan trọng nhất.

Bởi vì sao? Vì phải hiểu kinh tế học thì mới đề ra được những chính sách tốt. Chính sách không tốt thì người tài sẽ bỏ đi, tài nguyên sẽ bị phí phạm, sản xuất sẽ không phát triển được. Mà chính sách tốt thì kinh tế vững.

Chúng ta muốn không bị phụ thuộc vào Trung Quốc, muốn xây nhiều trường học, bệnh viện, muốn xóa bỏ hủ tục. Nếu kinh tế nước ta giàu mạnh thì có phải làm những điều đó dễ hơn biết bao nhiêu?

Nếu không hiểu biết về kinh tế học, thì sẽ không thể biết được và không thể tranh luận một cách nghiêm túc được chính sách nào tốt, chính sách nào kém. Và cần nhiều người như các bạn quan tâm và có ý kiến đúng đắn về các chính sách, thì xã hội dân chủ mới hoạt động được hết hiệu quả, đất nước mới tiến bộ được.

Vậy thì bây giờ học kinh tế bằng cách nào? Cái này mỗi người một ý, nhưng theo tôi thì các bạn nên bắt đầu từ các trường phái Neoclassical và Keynesian. Không hẳn là các trường phái này ưu việt nhất, nhưng cả thế giới này đang học và dùng chúng, do đó chúng ta cần phải biết và hiểu chúng.

(*Ghi chú: THĐP không đi theo 2 trường phái kinh tế này, mà đi theo hướng của trường phái kinh tế Áo, Austrian Economics, muốn tìm hiểu thêm thì tìm đọc Ludwig von Mises, Keynesian economics được giảng dạy đại trà là vì nó thiên về chủ nghĩa nhà nước, còn Austrian economics thì thiên về chủ nghĩa tự do.)

Nếu không hiểu các trường phái này thì chúng ta sẽ không nói cùng một thứ ngôn ngữ với đa số các nhà kinh tế học hiện hành.

Có lẽ ai cũng ngại việc bắt tay vào tìm hiểu một bộ môn mới từ con số không. Vì thế tôi xin giới thiệu với các bạn một sê-ri video Kinh Tế nhập môn của các bạn Kinh Tế Không Kinh Thế. Các video này khá nhẹ nhàng, không quá cầu kỳ, có thể giúp người xem bổ sung những khái niệm cơ bản nhất về kinh tế. Các bạn xem sẽ thấy kinh tế không khó hiểu như các “chuyên gia” vẫn thường dọa chúng ta để giữ cho người dân không muốn tìm hiểu về kinh tế và bóc trần những sai sót của họ.

Nếu mỗi ngày bạn dành ra 30 phút để tìm hiểu về kinh tế, tham gia thảo luận, nhìn nhận các vấn đề thì bạn sẽ nhanh chóng tích lũy được kiến thức kinh tế và nhìn ra các vấn đề.

 

Zetal

 

Link các bài báo có nội dung được nêu trong bài:

  • [1] http://cafef.vn/nong-thuy-san/vai-thieu-bac-giang-va-giac-mo-16-usd5-qua-2014060916141849017.chn
  • http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/hang-hoa/10-tan-vai-thieu-luc-ngan-se-xuat-sang-nhat-ban-3011150.html
  • [2] http://nongnghiep.vn/vai-thieu-sang-my-se-con-gian-nan-post132429.html

41 câu nói của Tổng Thống Mỹ George W. Bush

Featured image: Papba.org

 

Lời giới thiệu

George W. Bush, vị tổng thống 43 của nước Mỹ là một trong những tổng thống thời chiến tranh của Mỹ. Chính sách ngoại giao và quân sự của ông ta đã biến đổi nước Mỹ từ sự cố 911. Mời các bạn đọc để hiểu thêm về vị tổng thống này.


 

1. Nước Mỹ sẽ không bao giờ bỏ chạy. Và chúng ta sẽ luôn mang ơn tự do đã sinh ra những người con anh dũng.

2. Nước Mỹ chưa bao giờ đoàn kết bởi dòng máu, nơi sinh hay địa lý. Chúng ta được kết nối bởi những lý tưởng cao quý hơn.

3. Sự trao quyền trong hòa bình là một điều hiếm có trong lịch sử, nhưng là điều thường xuyên ở nước ta. Với một lời tuyên thệ đơn giản, chúng ta giữ gìn truyền thống và xây dựng một cuộc bắt đầu mới.

4. Thượng Đế không đứng bên phía của một quốc gia nào, nhưng chúng ta biết rằng Thượng Đế luôn đứng bên phía công lý.

5. Là người Mỹ, chúng ta muốn hòa bình — chúng ta làm việc siêng năng và hy sinh cho hòa bình. Nhưng sẽ không có hòa bình nếu an ninh của chúng ta được dựa vào sự quyết định của một nhà độc tài ác độc. Tôi sẽ không bao giờ giao mạng sống của một người Mỹ nào vào niềm tin với Saddam Hussein.

6. Tôi tin rằng tự do là điều tất cả con người đều cần.

7. Dù chúng ta đem địch thủ tới công lý hay công lý tới địch thủ, công lý sẽ được thực hiện.

8. Chúng ta sẽ không mệt mỏi, chúng ta sẽ không nản chí và chúng ta sẽ không thất bại. Hòa bình và tự do sẽ chiến thắng.

9. Sự lan rộng của tự do là lối dẫn đến một thế giới an toàn và thịnh vượng hơn.

10. Sự khát khao cho tự do nằm ở trong tất cả con người. Và sự khát khao đó sẽ không bị kìm hãm bởi những nhà tù, những luật truy nã hoặc cảnh sát chìm. Qua từng giao đoạn, tự do sẽ tìm lối đi.

11. Chúng ta biết rằng các nhà độc tài sẽ nhanh chóng chọn bạo lực, trong khi đó các nước tự do sẽ giải quyết các vấn đề trong hòa bình.

12. Nước Mỹ chưa bao giờ là một đế chế. Chúng ta có thể là một cường quốc vĩ đại nhất trong lịch sử có cơ hội và đã từ chối – để chọn sự cao thượng thay vì quyền lực và công lý thay vì vinh quang.

13. Tự do kinh tế tạo nên nền tảng cho tự do.

14. Người Mỹ là một dân tộc tự do, họ biết rằng tự do là một quyền lợi của tất cả con người và là tương lai cho các quốc gia. Sự tự do mà chúng ta tự hào không phải là một món quà của Mỹ ban cho thế giới, nó là một món quà của Thượng Đế cho nhân loại.

15. Tôi tin rằng Thượng Đế đã gieo mầm trong mỗi con người sự khát khao để sống trong sự do. Và khi sự khát khao đó bị đe dọa bởi độc tài, nó sẽ nổi dậy.

16. Sự lãnh đạo đối với tôi có nghĩa là trách nhiệm, danh dự, tổ quốc. Nó nghĩa là đức tính và biết lắng nghe.

17. Hành động của chúng ta trong thập niên này sẽ có những hậu quả cho thế kỷ này. Nếu nước Mỹ yếu đuối và không dứt khoát, thế giới sẽ trôi dần vào thãm họa. Điều đó sẽ không xảy ra dưới sự lãnh đạo của tôi.

18. Một trong những khoảnh khắc mà tôi tự hào nhất là khi tôi đã không bán mình để đổi lấy sự hâm mộ.

19. Tôi muốn được mọi người nhớ tới là một người có những mục đích ưu tiên và sẵn sàng sống vì những điều đó.

20. Sự khủng hoảng tài chính không nên được dùng để làm viện cớ tăng thuế, thuế chỉ sẽ làm suy giảm khả năng phục hồi của nền kinh tế chúng ta.

21. Tôi sẽ không chỉ trích người kế vị của tôi (tống thống Obama). Lịch sử sẽ làm điều đó.

22. Hôm nay, tự do đã bị tấn công bởi một nhóm người hèn hạ giấu mặt, và tự do sẽ được bảo vệ.

23. Bất cứ chính phủ nào ủng hộ, bảo vệ hay chứa chấp các tổ chức khủng bố cũng phạm tội khủng bố.

24. Nước Mỹ là một quốc gia với một mệnh lệnh – và mệnh lệnh đó đến từ những tín ngưỡng căn bản nhất. Chúng ta không có khát vọng để thống trị, cũng không có khát vọng để trở thành một đế chế. Mục đích của chúng ta là hòa bình và dân chủ.

25. Nhân dân Afghanistan đang xây dựng một đất nước tự do, và tự hào và chung sức chống lại khủng bố – và nước Mỹ rất vinh dự khi có một đồng minh như thế.

26. Nước Mỹ và đồng minh rất quyết tâm: Chúng ta không chịu sống trong cái bóng của nguy hiểm.

27. Sự sử dụng khôn ngoan nhất của sức mạnh Mỹ là để thúc đẩy tự do.

28. Những giá trị của nước Mỹ xứng đáng để chúng ta chết để bảo vệ.

29. Một người dân đang ở nơi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới sau khi bị tấn công: “Tôi không nghe ông được.” Tổng Thống Bush: “Tôi có thể nghe được bạn, cả thế thới có thể nghe được bạn, và những người đã tấn công tòa nhà này sắp tới sẽ nghe thấy tất cả chúng ta.”

30. Chính phủ không tạo ra sự thịnh vượng. Vai trò tối cao của chính phủ là tạo ra một môi trường để mọi người chấp nhận rủi ro và tạo công ăn việc làm.

31. Bất cứ nơi đâu mà tự do đang quấy trộn, chế độ độc tài sẽ lo sợ.

32. Tôi biết chắc rằng giới tư sản sẽ là người kéo đất nước khỏi sự khủng hoảng kinh tế này. Tôi tin các bạn sẽ dùng tiền của các bạn tốt hơn chính phủ dùng tiền của các bạn.

33. Tôi thấu hiểu mọi người trong nước không hoàn toàn đồng ý với những quyết định của tôi. Và tôi đã có những quyết định khó khăn, nhưng mọi người đều biết lập trường của tôi là gì.

34. Chế độ độc tài đã sụp đổ, Iraq đã được tự do.

35. Tôi không tin các nhà làm luật nên quyết định thay cho người dân Mỹ.

36. Mục đích tất yếu của chính sách kinh tế của tôi là giảm thuế cho những ai đã đóng thuế.

37. Thế kỷ này sẽ là thế kỷ của tự do.

38. Những lý tưởng và lợi ích đã dẫn Mỹ giúp đỡ Nhật Bản để biến thất bại thành dân chủ cũng là lý do tương tự để Mỹ tham gia vào Afghanistan và Iraq.

39. Chiến lược phòng thủ mà đã không cho phép người dân Nam Hàn sống dưới chế độ độc tài đã giúp biến họ trở thành một con hổ Châu Á. Đó là một mô hình cho các nước đang phát triển trên thế giới.

40. Ba thập niên sau, có một cuộc tranh luận về nguyên nhân gì đã dẫn nước Mỹ tham chiến vào Việt Nam và cách thức chúng ta đã rút quân. Cho dù định kiến của bạn là gì, một trong những di sản của Việt Nam khi Mỹ rút quân đã được trả giá bởi hàng triệu người trong khổ cực và đem cho chúng ta những ngôn từ mới như thuyền nhân, trại cải tạo và những cánh đồng xác chết.

41. Tôi nhớ gì nhất từ khi không còn là tổng thống nữa? Tôi nhớ những lần tôi chào các quân nhân và làm Chỉ Huy Trưởng của quân lực tuyệt vời nhất thế giới.

 

Dịch: Ku Búa
Review: LX

20 câu nói của Stalin, một trong những thần tượng của Hồ Chí Minh

Featured image: biography.com

 

1. Một cái chết là một bi kịch, một triệu cái chết là một con số.

2. Những người đi bầu chẳng quyết định được gì. Những người đếm phiếu bầu mới có quyền quyết định.

3. Ý tưởng còn lợi hại hơn cả súng đạn. Chúng ta không cho nhân dân sở hữu súng, tại tao chúng ta lại cho phép họ sở hữu ý tưởng?

4. Giáo dục là một loại vũ khí, tầm ảnh hưởng của nó lệ thuộc vào người cầm nó trong tay và người nó nhắm tới.

5. Lịch sử đã chứng minh rằng chẳng có quân lực nào là bất bại cả.

6. Anh hùng không làm nên lịch sử, lịch sử mới làm nên anh hùng.

7. Tôi chỉ tin vào một thứ, sức mạnh của lòng quyết tâm của con người.

8. Cái chết là giải pháp cho mọi vấn đề. Không còn ai thì cũng không còn vấn đề.

9. Quyền lực chính đáng duy nhất đến từ khẩu súng.

10. Trong quân đội Xô Viết, binh sĩ cần nhiều độ can đảm để lùi bước hơn là tiến bước.

11. Khi chúng ta treo cổ bọn tư bản, họ sẽ bán cho chúng ta sợi dây để chúng ta dùng.

12. Truyền thông in ấn là vũ khí lợi hại nhất của Cộng Sản.

13. Nhà văn là một kỹ sư của linh hồn con người.

14. Chủ nghĩa Marx không đơn thuần là một lý thuyết xã hội, nó là một cái nhìn cho thế giới, một hệ thống triết lý, sự logic của một xã hội vô sản.

15. Bạn hay nói về một chủ nghĩa xã hội chủng tộc. Cái đó không tồn tại. Không có chủ nghĩa xã hội cho riêng dân tộc Nga, Anh, Pháp, Đức, Ý, cũng như Tàu. Chỉ có một chủ nghĩa xã hội của Marx và Lenin mà thôi.

16. Tôi không tin tưởng bất cứ ai, kể cả chính bản thân tôi.

17. Nước Mỹ như một cơ thể khỏe mạnh và sự chống đối của nó có thể chia ra 3 phần: lòng yêu nước, đạo đức và tâm linh. Nếu chúng ta có thể hạ thấp 3 cái đó, nước Mỹ sẽ sụp đổ từ bên trong.

18. Lòng ân huệ là một căn bệnh của những con chó.

19. Tôi ra lệnh cho các binh sĩ của quân đội Hồng Quân Soviet: “Không lùi một bước nào nữa.” (Lệnh của Stalin năm 1942 khi quân đội Đức đến gần Moscow).

20. Thượng đế là ai? Ông ấy đứng về phe nào? Tôi biết ác quỷ Satan đang đứng cùng phía với chúng ta, ông ta là một người cộng sản tốt bụng.

 

Dịch: Ku Búa

Thành công và thất bại là hệ quả của một lối sống

Featured image: mAy 369

 

Bài viết này chỉ là quan điểm cá nhân của tôi, chỉ mang tính chất kham thảo. Nếu bạn cảm thấy hài lòng với lối sống của bạn thì cứ tiếp tục sống như cách bạn đã từng sống.


 

Một lần nọ, trong giờ học Pháp Luật, thầy giáo tôi đã từng hỏi là “Long nè! Theo em thì em nghĩ sao về Thất Bại và Thành Công?”

Tôi trả lời: “Thưa Thầy! Thất Bại có 2 dạng: dạng thứ nhất là làm nhưng chưa ra đúng kết quả và dạng thứ hai là lười biếng chẳng làm gì cả. Nhưng cá nhân em nghĩ là Thất Bại chính là dạng thứ hai, còn dạng một là chỉ chưa thành công thôi.”

Thầy giáo hỏi: “Vậy Thành Công là gì?”

Tôi trả lời: “Thành Công là đạt được những kết quả và mục tiêu mà mình muốn, và mục tiêu lớn nhất của đời em là “kiếm 1 tháng 1 tỷ đồng Việt Nam”, như vậy là em đã thấy mình thành công rồi.”

Thầy giáo tiếp tục hỏi, “Vậy em nghĩ em đã thành công chưa? và nếu vậy thì em đạt được bao nhiêu phần trăm trên con đường đó?”

Tôi trả lời: Em đang trên con đường Thành Công và em nghĩ Thất Bại là một phần của Thành Công, vì người Thành Công nhất là người Thất Bại nhiều nhất, thật ra lúc đó đây là vấn đề mà tôi chưa tôi nghĩ đến trong khi tôi đang tìm kiếm thành công. Lúc đó tôi cảm giác mình đang bị một vấn đề gì đó. Hầu hết mọi người đều biết về 2 từ “Thành Công và Thất Bại”. Nhưng khi nói rằng họ đã thành công chưa thì đa phần câu trà lời hơi mập mờ, vì đôi khi họ chẳng biết họ muốn cái gì thì làm sao thành công mà cho dù họ biết họ muốn cái gì nhưng họ nằm lưng lửng giữ thất bại và thành công thì làm sao mà định nghĩa được. Nên tôi đã trả lời rằng, chỉ có lúc họ chết thì những việc mà đã làm mới có thể đánh giá là Thất Bại hay Thành Công, vì chưa chắc kẻ Thất Bại là Thất Bại cả đời, kẻ Thành Công là Thành Công là Thành Công cả đời.

Thầy tôi trả lời rằng: “Thất Bại chính là đứng yên mặc cho thời gian đi qua mà không phát triển gì cả?”

Sau khi nghe xong câu trả lời này tôi thấy nó đúng nhưng theo quan sát của tôi có người làm cả đời mà toàn gặp thất bại nhưng chưa bao giờ mãn nguyện những gì họ có, không biết cái đó có gọi là Thành Công không? Hay mục tiêu của họ là lên Giám Đốc và khi họ đã ở vị trí đó thì Đùng 1 cái, họ bị sa thải vì quá già hoặc một ai đó thế họ. Như vậy có thể chứng minh rằng nếu dùng những mục tiêu làm mốc “Thành Công” và khi đạt được nó cũng không ổn lắm.

Xã hội này theo quan điểm đám đông là “Thành Công” thì phải đi xe hơi, nhà Lầu, dùng cả tiền tỷ, có mối quan hệ rồng, tài năng .v.v…..Theo quan sát của tôi thì những đặc điểm đó gần đúng với “Thành Công” nhưng chưa hẳn là chính xác. Vậy nếu mất tất cả những thứ đó họ là ai, chẳng lẽ là “Thất Bại”.

Tôi cảm giác từ Thất Bại và Thành Công đôi lúc là “Yes hoặc No” như câu hỏi” Bạn là Nam hay Nữ”. Nó hơi bị rập khuôn và khó mà hiểu sâu được cái cốt lõi của “Thành Công” và “Thất Bại”.

Ngoài ra Thành Công và Thất Bại nó còn phụ thuộc vào quan điểm và mục tiêu của từng người nên khó đánh giá được.

Tôi đã từng nghe qua nhiều sách nói, và cá nhân tôi quan sát và suy nghĩ, những cuốn sách đó nó thường dạy chúng ta thay đổi từ bên trong như thay đổi tư duy, giá trị sống, bảng cam kết giá trị cá nhân hay cho chúng ta sơ về những thói quen thành công .v.v… và ngoài đời tôi quen cũng vài người khá Thành Công và tôi quan sát thấy, tùy vào mức độ và nghề nghiệp của họ nhưng cái cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề tương đối giống nhau đều dựa trên những tư duy, kinh nghiệm và niềm tin của bản thân.

Sau này khi tôi biết đến 1 câu nói :

“Gieo suy nghĩ, gặt hành động; Gieo hành động, gặt thói quen; Gieo thói quen, gặt tính cách; Gieo tính cách, gặt số phận.”

Lúc này tôi suy nghĩ rất nhiều, thì Thành Công và Thất Bại nó có sự quyết định từ bên trong Nội Tâm của mọi người chứ không phải bên ngoài, bên ngoài chỉ là phản ánh thực tế cuộc sống, tôi càng ngẫm càng thấy thú vị vì mỗi người chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay là do bên trong Nội Tâm của chúng ta và chúng ta được môi trường bên ngoài đút nên cái Nội Tâm bên trong của chúng ta chứ thật sự chúng ta không muốn nó như vậy cả, vì đâu phải ai cũng muốn sống cuộc đời nghèo khổ, tầm thường và thất bại đâu.

Điều tôi học từ sách và qua thực tế cá nhân tôi thấy nó gần chính xác 70%, ngoài ta có rất nhiều người cho rằng để Thành Công cần: Đam mê, chăm chỉ, Tích cực, Không sợ Thất Bại, Kiên Trì, … những yếu tố đó thường nằm bên trong con người chứ không phải là bên ngoài, vì đâu có ai nói anh muốn thành công thì anh phải đẹp trai hay môi trường đó nó phải hợp với anh thì anh mới Thành Công.

Jim Rohn từng nói một câu rất hay “Ngoài thị trường họ trả lương cho bạn vì khả năng của bạn trong một khoảng thời gian chứ không phải là thời gian bạn bỏ ra.” Nếu thời gian là tiền bạc thì họ phải đưa cho bạn tiền bạc khi bạn chẳng làm gì cả, điều này có nghĩa là 10 hay 20 năm nữa công việc bạn làm thì mức lương 10 USD thì vẫn luôn là giá trị đó cho dù có tăng lên đi nữa, và thời gian có trôi qua thì thời gian vẫn vậy, khó khăn, trở ngại, các mối quan hệ cũng y chang chẳng có gì thay đổi cả, nhưng nếu bạn phát triễn bản thân thì mọi thứ sẽ thay đổi còn nếu không thì cuộc sống bạn vẫn vậy.

Lúc này tôi bắt đầu giác ngộ và liên hệ bản thân chính mình điều này hoàn toàn đúng. Tôi quyết định thay đổi vào lúc 21 tuổi và tôi đă trãi nghiệm qua những thứ mà trước đây tôi chưa từng trãi nghiệm và dường như tôi có những thứ mà trước đây tôi chưa từng có và tôi hiểu hơn về bản thân mình hơn, nhưng thật ra so với 3 năm trước tôi vẫn vậy chưa có sự thay đổi gì lớn cả, chỉ có suy nghĩ và tư duy bắt đầu biến chuyển nhưng vẫn chưa thể nào gọi là Thành Công vì chưa có Thành Tựu gì lớn cả và dường như lúc nào tôi cũng bị ám ảnh bởi tương lai và Thành Công luôn mặc cảm là “mình vô dụng, không làm được cái gì lớn cả, người ta bằng mình là Giám Đốc, doanh nhân mua được nhả cửa có ghệ đẹp, đi du lịch khắp nơi mà mình vẫn còn dậm chân tại chỗ…”

Sau khi dùng phương pháp 360 độ ghi lại toàn bộ suy nghĩ và hành động của tôi trong 1 ngày và trong vòng 3 tháng, tôi phát hiện rằng TƯ DUY tôi CÓ THAY ĐỔI nhưng về HÀNH ĐỘNG thì KHÔNG và Thói Quen càng không nữa. Tôi luôn tìm kiếm những thứ bên ngoài để giải quyết triệt để cái thứ bên trong như tôi đã tìm trong 5 năm và không hề có cái thứ đó. Tôi đã bắt đầu trở thành kẻ phụ thuộc vào thứ bên ngoài chứ không còn là kẻ quyết định từ bên trong Nội Tâm nữa, tôi phát hiện ta tôi từng “Sợ Hại, Nghi ngờ, Trì Hoãn, Lười Biếng, Tiêu Cực,…và hay thay đổi” đây là những yếu tố của kẻ Thất Bại. Như vậy đã quá tõ ràng về việc tại sao Tôi Thất Bại, tất cả là do lối sống của tôi. Tôi để phần con của mình quyết định chứ không phải là phần người quyết định trong một chuỗi những hành động hằng ngày mà từ đó sinh ra Thất Bại, từ những cái Thất Bại rất nhỏ trong những việc nhỏ làm không tốt rồi tích dần thành cái lớn.

Từ đó tôi nghiệm ra rằng 2 từ Thất Bại và Thành Công giống như 2 từ Bệnh Tật và Khỏe Mạnh. Đó là từ chỉ hệ quả của một lối sống , chứ không phải là kết quả. Chẳng hạn bạn siêng năng, chăm chỉ, tích cực, đam mê…nói chung là Lối Sống Tích Cực bạn sẽ có những hệ quả của Thành Công và nó thể hiện qua những dấu hiệu như: Bạn Tài Năng Hơn, Kiếm Được Nhiều Tiền Hơn, Có nhiều bạn hơn, có nhiều khách hàng hơn, mua được nhiều thứ hơn…. như vậy nhà lầu hay xe hơi chỉ là những hệ quả của 1 lối sống Thành Công còn nếu bạn sống theo kiểu : nhậu nhẹt, lười biếng, tham chơi, ….lối sống tiêu cực thì sẽ có những hệ quả của Thất Bại và thể hiện qua những tín hiệu như: thất bại trong công việc, bị sa thãi, bị mọi người ghét, bất tài, gặp nhiều khó khăn… đó là hệ quả của 1 lối sống Thất Bại.

Đôi khi chúng ta cứ suy nghĩ mãi “làm sao để thành công” và luôn đi tìm những cách bên ngoài nhưng thật chất chúng ta chưa hiểu rõ bản thân của mình, vì vấn đề không nằm bên ngoài mà nằm bên trong, và nó thể hiện rõ ràng ở lối sống của chúng ta, chỉ có chúng ta thật sự hiểu được cách chúng ta sống như thế nào để Thành Công và Thất Bại thôi, chứ không thể nào tìm người nào đó hay bất cứ vị diễn giả nào giải quyết được, cho dù Tony Robbins Diễn giả giỏi nhất thế giới hay Quách Tuấn Khanh vị diễn giả giỏi nhất Việt Nam, hay Phật Thích Ca hay Chúa Jesus đi chăng nữa, cũng chẳng thay đổi được đâu, chỉ khi chúng ta thật sự muốn thì mới có câu trả lời.

Đối với tôi, Lối Sống Quyết Định Thành Công hay Thất Bại và Thành Công hay Thất Bại chỉ là những hệ quả và nó thể hiện dưới vài dạng tín hiệu chứ nó không phải là cái đích thật sự, cái thật sự chính là phải thay đổi cái Lối Sống của chúng ta, để làm điều đó chúng ta phải là song song giữa việc thay đổi tư duy và hành động bên ngoài và khiến nó trỡ thành một lối sống, chứ không thể nào chỉ có 1 phía được. Do vậy Thành Công và Thất Bại chỉ là hệ quả của một lối sống thôi, và không có đúng hay sai, tốt hay xấu, chỉ có khác về kết quả thôi.

 

Tăng Kim Long

Chút tình Bolero

Thưở nhỏ, tôi sống ở một xóm ngoại ô nghèo quanh co miền Tây. Bên hàng xóm duy nhất có một nhà có dàn VCD và loa thùng lúc nào cũng mở nhạc tưng bừng. Hàng năm, vào giờ này là cả xóm được nghe những bài ca xuân xưa bất tử như Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa, Mùa Xuân Đó Có Em, Ước Nguyện Đầu Xuân, Mùa Xuân Lá Khô… Tết nào tôi cũng nhớ những lời ca cũ rất quen:

Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa
Một chiều xuân em đã hẹn hò
Đưa hương theo làn gió…” 

Những bài hát nghe tự thời nào cứ gặp đúng cảnh, đúng tình là bật ngay lên trong trí nhớ. Những bài hát buồn buồn ấy là nhạc bolero.

Rồi lớn lên ra thành phố học – những buổi chiều ở nhà trọ vắng quạnh – cứ mỗi lần nhìn ra ven đường gặp hoàng hôn nắng nhạt, khói đốt đồng bay lên từ cuối chân trời, những bài hát cứ y như đem đến tận cõi lòng tôi, làm sống thật trước mắt người trai trẻ mùi rơm rạ mới gặt, gió mát và từng tốp trẻ con thong thả trên lưng trâu tỏa về thôn xóm. Trong cái yên lặng riêng mình, tôi lại nghe vẳng lên trong trí nhớ:

“Tình nồng thắm xuyên qua bao mái tranh…
Ngọt ngào dâng hương mái tóc xanh
Những tình mặn mà là những tình đơn sơ
Quê tôi vẫn đẹp đẹp mấy tình ngây thơ…”

Hình ảnh miền quê xa ngát, êm đềm, đó là cái đọng lại, cái quý nhất tìm thấy sau khi nghe nhạc, nhạc bolero. Vâng, cũng là nhạc bolero!

Ai đó hãy khoan vội chê rằng bolero là giòng nhạc “sến” “bình dân” “nghèo”. Ừ thì nghèo, có sao! Khái niệm đó ta nên hiểu theo nghĩa khác, chỗ khác, giành cho những cái khác nhạc bolero. Bolero là giai điệu, giòng nhạc mộc mạc và gợi cảm trong phần hồn của mỗi con người. Nói như một hôm nào đó, một kẻ thị thành tạm rời xa khói bụi ồn ào, về ngả lưng nằm dài trên cỏ ở một nơi nào đó (như bài Vó Ngựa Trên Đồi Cỏ Non), mặc cho lũ cào cào, châu chấu đua nhau nhảy lóc tóc lên tóc, lên người, chui cả vào ngực áo – hay nhảy ùm xuống giòng kinh mát rượi, thả nổi mà nhìn mây trôi qua hai hàng dừa nước ven bờ (Bến Duyên Lành).

Khi ấy, cái con người thành thị kia đã được bỏ lại cùng đống quần áo, giầy dép, đồng hồ, mắt kính, smartphone trên bờ đất, chỉ còn lại niềm rung động êm ả giữa trời nước hiền lành. Rồi khi trở về, bỗng dưng lòng ta sẽ cảm thấy yêu thêm một chút màu khói nhạt lững lơ trên mái rạ, yêu thêm một chút bông hoa súng nhỏ nở lặng lẽ trên mặt hồ êm. Cái tình quê đơn sơ, như vậy, đã thêm một chút trong lòng. Bấy giờ, ta vẫn có thể yên tâm ngồi nghe nhạc Taylor Swift, Hilary Duff, hay Michael Jackson, yên tâm chiêm ngưỡng những ngôi sao màn bạc thế giới. Có hề gì!

Tôi viết tản mạn và không trích thêm, không “tiến dẫn” một bài bolero nào nữa, vì chăng nhạc bolero hay có quá nhiều!? Những bài hát ấy lặng lẽ có chỗ đứng riêng trong tâm hồn mỗi người Việt Nam, nó không cần được “tiến dẫn”, nó bất tử vì nó có cái chung của đời và cái riêng của thơ ca. Yêu những bài hát ấy, chính là ta yêu một cách nói riêng hiền lành và tự nhiên của con người.

“Mai sau dù có bao giờ…” Giả dụ như cái miền quê nghèo khó của chúng ta sẽ được như nhiều người mong ước, có ánh đèn đô thị, có xe hơi, nhà lầu, có quán bar, vũ trường v.v… Và giả dụ như thứ quê ca tình tự quê nhà có khi nào bị xem như không còn hợp thời trang, không hiện đại… thì tôi vẫn cứ mang theo trong trí nhớ riêng mình cái chiều làng quê say sưa trong tiếng ca, người làng quê yêu bông lúa thiết tha, những mẹ già ngồi trông trẻ đùa xóm dưới, rung rung môi cười như thưở còn đôi mươi.

 

Hồ Nhất Duy

Hành trình của kẻ dịch chuyển

Featured Image: Werner Kunz

 

Cuộc đời là một hành trình hay là một đích đến. Nếu thử qua một lần đi phượt, bạn sẽ cảm nhận rõ hơn câu trả lời cho chính mình. Khoan nói về sở thích hay đam mê đi khám phá đây đó, chỉ nói về cách bạn đi đến một địa điểm nào đó đôi khi thể hiện quan điểm sống của bạn.

Cuộc sống hầu hết mọi người đều có kế hoạch, dù ngắn hạn hay dài hạn, dù sơ sài hay kỹ lưỡng, những chí ít sẽ đều có một sự mường tượng trong tâm trí mình.

Nếu bạn thực hiện một hành trình mà cụ thể không biết mình sẽ đi đến đâu, bạn sẽ đi như thế nào. Chờ cho đến khi xác định được điểm đến rõ ràng hay tiếp tục chuyến đi với tâm lý thoải mái nhất, nhẩn nha ngắm cảnh, tận hưởng từng quãng đường với biết bao điều thú vị. Hoặc cũng có lẽ bạn sẽ không bao giờ xuất phát, bạn sợ sự mông lung phía trước, sợ sự xao nhãng trên đường đi, sợ những thứ bí ẩn đang chờ đợi mà bạn không thể nắm bắt.

Ngược lại, một hành trình với kế hoạch chi tiết về điểm đến, thời gian liệu có khiến bạn an tâm hơn. Xác lập mục tiêu, tập trung vào trọng điểm, ước lượng khả năng và cố gắng nhanh nhất có thể. Tuy nhiên, có vẻ đây giống như là một cuộc đua hơn là một chuyến phượt.

Theo tôi, cái thú vị của những lữ khách là việc “dịch chuyển” chứ không phải là chuyện “đi đến”. Với 2 quan điểm khác nhau, cách thực hiện hành trình sẽ khác nhau. Người “dịch chuyển” đi chầm chậm và tận hưởng mọi thứ trên hành trình, quan sát mọi thứ diễn ra với con mắt tò mò và nụ cười mãn nguyện vì đơn giản, với họ, việc “dịch chuyển” đã là một phần thưởng rồi. Đối lập lại, người “đi đến” sẽ tăng tốc hết mức vì với họ, mục tiêu là quan trọng nhất, mọi thứ khác chỉ là thứ yếu, nếu không chạm được nơi cần đến xem như chuyến đi là thất bại.

Tôi tự cười một mình khi nghĩ lại chuyến đi phượt gần đây với một nhóm bạn, mặc dù đã nói rõ là chuyến đi không có lịch trình cụ thể nhưng sau một hồi lòng vòng dưới trời oi bức, có người liền phàn nàn về cái ý tưởng ngu ngốc ấy. Tôi không trách họ vì đơn giản họ là người “đi đến”, họ cần một cái gì thật cụ thể và rõ ràng để nhắm đến. Nếu không biết sẽ đi đâu, họ sẽ không thể thoải mái tận hưởng những gì đang hiện diện trước mắt và với họ, chuyến đi như vậy nên kết thúc càng nhanh càng tốt.

Tôi thường đi chậm, ngay cả khi đã biết rõ điểm đến. Một là tôi có thể suy tưởng, hai là tôi có thể chậm chạp nhìn ngắm những điều đang trôi đi trước mắt, luôn lạ lẫm, luôn mới mẻ và nhiều ý nghĩa. Trộm nghĩa, dường như đó là cách tôi đang thực hiện hành trình cuộc đời mình: chậm chạp, nhẩn nha, tận hưởng, ít quan tâm đến đích đến vì đường nào nó cũng tới, không vội vã, không khẩn trương…

Liệu điều đó có đúng đắn, liệu tôi có vô trách nhiệm với cuộc đời của mình hay không, tôi giống một kẻ lang thang hơn là một tay đua chuyện nghiệp mỗi ngày lại rèn luyện bản lĩnh của mình để đến đích nhanh hơn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi họ đến đích, nó khiến họ thỏa mãn hay không, thỏa mãn vì điều gì: ta có tài, ta chinh phục, ta tập trung, ta vượt lên, ta đạt được… Và nếu giả sử cái đích đến không như trong tưởng tượng, chuyến đi có thể quay ngược lại không?

Gần đây tôi có một vụ kinh doanh nhỏ với một kế hoạch khá tỉ mỉ. Kết quả kinh doanh không như ý muốn vì mục tiêu đã không đạt được. Nhưng lạ là tôi không thấy buồn bã hay nản lòng đơn giản là vì tôi đã được tưởng thưởng những điều tuyệt vời trong suốt thời gian thực hiện công việc đó. Chỉ có một điều vương vấn là tôi không biết liệu tôi có thể mở công ty kinh doanh với cái lối suy nghĩ như thế hay không.

Để chuyến hành trình được trọn vẹn, lời khuyên cho người “đi đến”: hay sẵn sàng tâm lý rằng, dù đích đến có như thế nào, bạn cũng sẽ tận hưởng nó mà không hối tiếc gì.

Lời khuyên cho người “dịch chuyển”: bạn vẫn chẳng cần lên kế hoạch hay xác định mục tiêu gì cả, tuy nhiên, phải nhớ là lúc đó bạn nên đi một mình. Đừng bắt ép người khác lang thang tư tưởng như bạn, vì nếu đã là “lang thang” thì không thể nào có điểm chung cho ít nhất hai người. Muốn tiếp tục dịch chuyển, cả hai phải có một “điểm đến”.

 

AVKH

Quan điểm trên thế giới về cấm đoán ma túy: Phỏng vấn Mark Thorntom

Featured image: goldenratio

 

Mark Thornton, Nghiên cứu viên cao cấp của Viện Mises, vừa đến Anh để tham gia một cuộc thảo luận do Oxford University tổ chức.


 

Viện Mises: Tại sao ông lại được mời tham gia thảo luận tại Oxford?

Mark Thornton:  Những cuộc tranh luận ở Oxford (Oxford Union) hầu như có thể mời bất cứ người nào mà họ muốn tranh luận, trong đó các vị tổng thống, thủ tướng, Mẹ Theresa, Đức Đạt Lai Lạt Ma, và thậm chí cả Julian Assange nữa, vì vậy tôi lấy làm vinh dự khi được họ mời. Tôi đã gặp một số nhà nghiên cứu ở Oxford Union và ở Đại học Oxford, những người đã biết công trình của tôi về cuộc chiến chống ma túy và ở Viện Mises. Mỗi bên tranh luận thông thường gồm nhà nghiên cứu làm công việc dẫn chương trình và ba chuyên gia. Các cuộc tranh luận được tiến hành tương tự như ở Viện Thứ Dân và đã được tiến hành từ năm 1823.

Viện Mises: Sợi chỉ đó xuyên suốt trong luận cứ của ông là gì và được đón nhận như thế nào? Bên ủng hộ cuộc chiến chống lại ma túy biện hộ thế nào?

Mark Thornton: Câu nói đùa mở màn của tôi đã được đón nhận một cách tốt đẹp và luận cứ của tôi cũng được đón nhận một cách tốt đẹp. Luận cứ của tôi là cuộc chiến chống ma túy chẳng mang lại lợi ích gì, chỉ tốn tiền và những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn. Bao gồm tội ác do những người nghiện ma túy gây ra, bạo lực do những người buôn bán ma túy thực hiện, nạn hối lộ và tham nhũng và hiệu lực của thuốc gia tăng đến mức có thể gây chết người. Tôi đã trình bày với họ lí thuyết về phương pháp kết nối những điểm này lại với nhau và câu chuyện về cách kết nối những điểm này. Sau đó tôi đã trình bày mười lợi ích của việc hợp pháp hóa các loại ma túy phù hợp với ba tiêu chí: làm cho chúng ta an toàn hơn, làm cho chúng ta khỏe mạnh hơn và cải thiện phúc lợi của con người. Tôi kết thúc bài thuyết trình của mình với bốn ví dụ về những việc sẽ xảy ra khi luật về ma túy đã được tự do hóa. Một ví dụ là thí nghiệm, người nghiện heroin được cấp những liều heroin an toàn về dược. Kết quả là tội phạm giảm đáng kể, số người có việc làm gia tăng và những người tìm cách chữa bệnh cũng gia tăng. Một ví dụ khác là chính sách đổi kim tiêm. Những nước áp dụng chính sách trao đổi kim tiêm một cách tự do (cấp kim tiêm miễn phí) có tỉ lệ người bị mắc HIV/AIDS và những bệnh lây qua đường tiêm chích rất thấp còn những nước thi hành chính sách rất nghiêm ngặt đối với kim tiêm (chỉ bán theo toa) có tỉ lệ lây nhiễm rất cao. Người nghe phản ứng rất nhiệt tình.

Ba chuyên gia bên phía ủng hộ cuộc chiến chống ma túy đưa ra luận cứ sau đây. Chuyên gia thứ nhất nói rằng không có cuộc chiến chống ma túy nào hết và người ta chưa thực sự tiến hành cấm đoán. Luận cứ của chuyên gia thứ hai là ma túy là xấu – chỉ thế thôi! Bà này từng là một người nghiện ma túy và tiết lộ rằng khi còn trẻ bà muốn xăm một lá cần sa lên mu bàn tay, nhưng người xăm hình từ chối vì lúc đó bà chưa đủ 18 tuổi. Điều này làm bà nghĩ rằng các doanh nghiệp sẽ bán cocaine cho những đứa trẻ 14 tuổi nếu nó được hợp pháp hóa? Chuyên gia cuối cùng khẳng định rằng nếu chúng ta hợp pháp hóa ma túy thì cuối cùng hầu như tất cả mọi người đều sẽ trở thành những con nghiện nặng. Như bạn thấy đấy, luận cứ của phía bên kia chủ yếu là thông tin sai lạc và chiến thuật dựa trên sự sợ hãi.

Viện Mises:  Chúng ta biết rằng ở nhiều tiểu bang ở Mĩ, đặc biệt là ở Colorado và Washington, những nỗ lực nhằm hợp pháp hóa ma túy đã có tiến bộ đáng kể. Ở Anh quốc, người ta có quan điểm như thế nào về những tiến bộ như thế?

Mark Thornton: Tất cả những mà người tôi nói chuyện về chính sách ma túy đều biết sự tiến bộ ở Colorado và Washington và một số người đã hỏi tôi về chuyện đó. Ấn tượng chung của tôi là mọi người hy vọng rằng Mĩ đã phá vỡ thái độ bài trừ ma túy cứng rắn của nước này. Nói chung, ý kiến của người dân ở Vương quốc Anh và châu Âu cũng dường như đang hướng về chính sách ma túy tự do hoá nhiều hơn nữa. Điều này không nhất thiết kéo theo việc hợp pháp hoá hoàn toàn ma túy, mà là chính sách coi những loại ma túy mạnh là những vấn đề y tế chứ không phải là vấn đề thực thi pháp luật, và cần sa được quy định tương tự rượu và thuốc lá.

Viện Mises:   Thông qua các phương tiện truyền thông và văn hóa đại chúng tất cả chúng ta có một hình ảnh nhất định về cuộc chiến chống ma túy ở Mĩ, với các băng đảng, những kẻ buôn lậu ma túy và những người vận chuyển ma túy. Cuộc chiến chống ma túy ở châu Âu có gì khác không hay cũng giống như ở đây, không ít thì nhiều?

Mark Thornton: Cũng giống như Hoa Kỳ, châu Âu là khu vực tiêu thụ ma túy bất hợp pháp lớn, chứ không phải là khu vực sản xuất, với luật phòng chống ma túy tương tự như ở đây. Nam Mĩ cũng sản xuất nhiều ma túy, nhập lậu vào châu Âu. Đương nhiên là vấn đề rất giống nhau. Giống nhau một phần còn là do những hiệp ước quốc tế buộc các nước phải tuân thủ những tiêu chuẩn pháp lí nhất định đối với các loại ma túy bất hợp pháp. Vì vậy mà họ cũng có những kẻ buôn lậu, những băng nhóm bán lẻ ma túy, tội phạm có tổ chức, hối lộ và tham nhũng .v..v. Có một số trường hợp ngoại lệ mà ta thấy rõ như cửa hàng cà phê cần sa ở Hà Lan. Cũng có một số thí nghiệm đáng chú ý, ví dụ như phi hình sự hóa tất cả các loại ma túy ở Bồ Đào Nha. Sẽ không sai khi nói rằng cải cách của Bồ Đào Nha là hành động tuyệt vọng, nhưng nên nhớ rằng Hoa Kỳ cũng tuyệt vọng như thế khi chúng ta bãi bỏ luật cấm rượu trong lúc cuộc Đại suy thoái rơi vào tình trạng nặng nề nhất.

Viện Mises: Cuộc đấu tranh chống lại cuộc chiến chống ma túy đã trở thành phong trào toàn cầu hay nỗ lực mới thu được thành công ở vài quốc gia?

Mark Thornton: Cả hai. Nỗ lực mới thu được thành công ở vài quốc gia; nhưng tôi nghĩ rằng đã có một phong trào mang tính ý thức hệ trên toàn thế giới nhằm ủng hộ cho những đạo luật tự do hơn về ma túy. Ở châu Âu và ở cả Tây Bán cầu, cán cân nghiênh về những đạo luật tự do hơn về ma túy đang bắt đầu trở nên rõ ràng. Cần sa dùng trong y khoa và hợp pháp hóa cần sa tiêu khiển được nhiều nước trong các nước đã phát triển chấp nhận. Người dân Mexico, người dân các nước Trung Mĩ và các nước sản xuất ma túy ở Nam Mĩ đã bị cuộc chiến chống ma túy làm cho khốn khổ và đang rất cần một giải pháp. Dường như những chiến thắng chỉ là lẻ tẻ và biệt lập, nhưng tôi tin rằng khi lịch sử nhìn lại quá khứ gần đây và tương lai trước mắt của chúng ta nó sẽ dán cho giai đoạn này cái nhãn “Sự cáo chung của cuộc chiến chống ma túy”, tương tự như chúng dán nhãn “Sự cáo chung của chiến tranh lạnh” và “Sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản” vậy.  Chí ít thì đấy cũng là hy vọng của tôi.

Viện Mises:  Khi chúng ta nghĩ về ma túy bất hợp pháp, chúng ta thường hiểu là cocaine, thuốc phiện và cần sa. Nhưng càng ngày người ta càng chú ý hơn đến những loại thuốc bán theo toa. Đây có phải cũng là vấn đề đang nổi lên ở các nước khác không?

Mark Thornton: Người ta đã dự đoán được vấn đề này, như tôi đã chỉ ra trong cuốn sách của mình: Kinh tế học về cấm đoán. Khi cuộc chiến chống ma túy tiến triển với lực lượng thực thi mạnh mẽ hơn và hình phạt nặng nề hơn thì thị trường chợ đen phản ứng bằng những loại ma túy mạnh hơn, hiệu quả hơn và nguy hiểm hơn. Khi tôi viết vào những năm 1980, quá trình là cần sa có hiệu lực ngày càng cao hơn, rồi chuyển sang cocaine, ma túy đá và heroin. Kể từ đó ma túy tổng hợp, thuốc lắc, thuốc phiện bán theo toa đã được thêm vào hỗn hợp. Gần đây hơn, người ta còn phát minh ra những loại ma túy hóa học mới, hợp pháp về mặt kỹ thuật. Tôi tự hỏi nếu những người đang chiến đấu với ma túy hiện nay có một cái nút có thể đưa chúng ta trở lại thời kì trước khi có sự can thiệp của chính phủ vào ma túy và đến nơi mà người ta hút thuốc phiện có hiệu lực thấp và thuốc phiện bán ngay bên lề xã hội và uống Coca-Cola (loại có chứa cocaine chứ không phải caffeine), họ có bấm cái nút đó hay không?

Ở Mĩ, các loại thuốc giảm đau có chứa thuốc phiện như OxyContin (oxycondone) và Vicodin mỗi năm giết chết hàng ngàn người. Các con nghiện đều có quan niệm sai lầm rằng đấy là những chất thay thế an toàn cho heroin. Việc sử dụng loại thuốc này cũng đã lan sang châu Âu và những nơi khác và đã có người chết.

 

Nguồn
Dịch: Phạm Nguyên Trường

Những ngày cùng tuổi

Featured image:  Alex_Leo

 

Đã định viết bài thơ đón xuân
mùa đông đóng băng
giấc mơ cài khóa
em không về sau trận lá rụng mùa
chừng như xuân vừa qua đó
parabol chiều cong ảo giác
biến thiên nỗi buồn cực đại
những ngày cùng tuổi lô nhô

Đã định viết câu thơ ngợi ca xuân
nụ non chối từ tách mầm nứt hạt
xác thối động tình
nụ non bưng mặt khóc
câu thơ sơ sinh đã tử nạn trong chiếc bong bóng bay tít trên cao
những ngày cùng tuổi không về

Đã định viết khúc biệt từ xuân
nhưng hình như xuân đã qua lâu rồi
khi mưa chưa kịp tới
những ngày cùng tuổi dắt díu nhau lưu vong
ngày xuân ngập trong cơn mù nhiệt đới
không nắng không mưa
buồn như ngày lá chết
tôi ngồi bên thềm ủ rủ đợi bóng
những ngày cùng tuổi đã qua.

26.2.15
Phương Uy

Tiến sĩ Milton Friedman — Cuộc chiến chống lại ma túy mà chúng ta đang thua

Featured image:   asboluv

 

Người ta đã nói về tất cả các khía cạnh của vấn đề rồi, chẳng còn mấy thứ để nói nữa. Tôi chỉ muốn nói rằng điều mà mọi người đều đồng ý là cần có thêm tiền để nghiên cứu – nhất là những công trình nghiên cứu mà chúng ta đang làm, nhưng tôi muốn nói rằng tôi không đồng ý với ý kiến đó. Nếu vấn đề nào chúng ta cũng chờ đợi cho đến khi tất cả các công trình nghiên cứu mà chúng ta muốn làm đều đã làm xong thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm được bất cứ chuyện gì. Nếu chúng ta định hành động thì chúng ta phải hành động trên cơ sở những bằng chứng đã có. Tôi không đồng ý với những người, tương tự như anh bạn tốt của tôi, anh Ed Meese, tức là những người nói rằng chúng ta cần phương án thay thế chi tiết và có đủ cơ sở lí luận trước khi làm bất cứ điều gì với hệ thống hiện hành, những người muốn thay đổi hệ thống có nghĩa vụ chứng minh điều đó. Nếu hệ thống gây ra rối loạn, thì làm bất cứ điều gì đó nhằm thay đổi nó là tốt, mặc dù chúng ta có thể không có phương án thay thế đầy đủ và chi tiết.

Cần phải nhớ rằng về cơ bản chúng ta đứng về một phía. Tất cả chúng ta đều có chung mục đích. Tất cả chúng ta đều biết rằng các loại ma túy hiện đang gây ra rất nhiều tác hại. Chúng ta khác nhau ở chỗ: đâu là phương tiện tốt nhất nhằm giảm thiểu những tác hại mà ma túy gây ra cho xã hội. Chúng ta không né tránh những cố gắng nhằm đạt tới những kết luận hợp lí bằng cách gán cho những người không đồng ý với chúng ta những động cơ xấu. Một câu nói nổi tiếng của ông Pierre S. du Pont cách đây gần đúng hai thế kỷ (ngày 25 tháng 9 năm 1790) trước Quốc hội của nước Pháp cách mạng, tôi đã sử dụng nhiều lần:

“Thưa ngài, sự gay gắt của những cuộc thảo luận của chúng ta dễ làm cho chúng ta ngả về thói quen xấu, đấy là gán cho người khác những ý định xấu xa. Cần có thái độ lịch sự với những ý định; cần phải tin rằng đấy là những ý định tốt và dường như đấy đúng là những ý định tốt; nhưng chúng ta hoàn toàn không được có thái độ lịch sự với những luận cứ phi logic hoặc những lập luận vô căn cứ. Những người lập luận không hợp logic đã vô tình phạm nhiều tội hơn là những người xấu cố ý làm.”

Tôi sẽ không đưa ra thêm bất kỳ luận cứ nào vì đã có biết bao nhiêu luận cứ đã được trình bày. Tôi muốn sử dụng thời gian có hạn của tôi chỉ đơn giản là cố gắng hệ thống hóa cuộc thảo luận và đưa thêm một ít bằng chứng. Người ta thường thảo luận về vấn đề ma túy trên hai bình diện. Một bình diện được một diễn giả trong ngày hôm nay trình bày như là cuộc tranh luận giữa Plato với John Stuart Mill: Sự bất đồng về mặt triết học giữa quan điểm của Plato, cho rằng một số người trong chúng ta (là “triết gia –hoàng đế”) có quyền nói cho những người khác những việc họ phải làm vì đấy là điều tốt đối với họ, và học thuyết của John Stuart Mill, cho rằng vai trò của chính phủ chỉ đơn giản là ngăn chặn người dân làm hại lẫn nhau và rằng chính phủ không có quyền buộc người dân làm bất cứ điều gì chỉ đơn giản vì đấy là điều tốt đối với chính họ. Có thể gọi là quan điểm triết gia-hoàng đế và quan điểm của chủ nghĩa tự do. Không nghi ngờ gì rằng có bất đồng trên bình diện này, và như nhiều người đã biết, tôi đứng về phía John Stuart Mill. Nhưng, trong vấn đề này – cũng như trong nhiều vấn đề khác – đấy không phải là quyết định. Tuy nhiên, nó có ảnh hưởng đến thái độ của người dân và thế giới quan của họ. Tôi nghĩ rằng phải công nhận điều đó.

Tại sao nó không phải là quyết định? Bởi vì ngay cả chủ nghĩa tự do cũng biện minh cho sự can thiệp nhằm ngăn chặn thiệt hại mà người này gây ra cho người khác. Theo tôi, sự phân biệt căn bản nhất, cần phải nhớ trong cuộc thảo luận này là phân biệt giữa những nạn nhân vô tội và những nạn nhân tự làm hại mình. Vấn đề này đã xuất hiện trong nhiều cuộc thảo luận. Mọi người đều công nhận rằng nạn nhân tự làm hại mình có thể gây tổn hại cho người khác. Thậm chí nếu không có điều luật phòng chống ma túy nào, nếu ma túy trở thành hoàn toàn hợp pháp, thì sẽ vẫn có những nạn nhân vô tội. Dĩ nhiên, rõ ràng nhất là con của những người nghiện ma túy bị mắc bệnh ngay từ khi mới lọt lòng. Tôi không biết có bao nhiêu đứa trẻ như thế – xin để những người làm trong ngành y tế quyết định – nhưng chắc chắn đấy rõ ràng là những nạn nhân vô tội của chính các bà mẹ của chúng. Vì vậy, hợp pháp hóa ma túy sẽ không có nghĩa là không còn các nạn nhân vô tội. Ngay cả người theo trường phái tự do kiên định nhất cũng có thể biện hộ cho việc cấm một số loại ma túy hoặc hạn chế một cách nghiêm ngặt việc sử dụng chúng với lí do là sự can thiệp vào các hành vi của cá nhân được tưởng thưởng một cách hậu hĩnh: ngăn chặn được tác hại đối với những nạn nhân vô tội.

Điều này đưa vấn đề lên bình diện thứ hai – bình diện lợi ích. Chúng ta đang có một hệ thống phòng chống ma túy. Nó có hoạt động không? Nó mang lại nhiều lợi ích hơn hay nhiều thiệt hại hơn? Nếu nó làm hại nhiều hơn lợi thì chúng ta hãy thôi làm những cái hại đó và không chờ cho đến khi chúng ta có một kế hoạch chi tiết, đầy đủ về việc chúng ta phải làm gì. Hãy loại bỏ những đặc tính mà rõ ràng là đang gây ra nhiều thiệt hại nhất. Một lần nữa, trên bình diện này, tất cả mọi người đều đồng ý rằng các phương pháp hiện nay đang gây ra rất nhiều thiệt hại. Tiến sĩ Clarke đã trình bày một cách xúc động và hiệu quả về một trong những thành tố quan trọng nhất của thiệt hại này (trong Chương 25, Searching for Alternatives: Drug-Control Policy in the United States / Ed. by M.B. Krauss, E.P. Lazear.Stanford, Calif.: Hoover Institution Press, 1991]).

Những nỗ lực nhằm thực thi các biện pháp cấm đoán ma túy đang phá hủy các khu phố nghèo, hết thành phố này sang thành phố khác, tạo ra bầu không khí tiêu cực đối với những người sống ở đó. Đây có lẽ là sự sỉ nhục lớn nhất ở Hoa Kỳ trong giai đoạn hiện nay. Tôi nói “có lẽ” bởi vì chính sách thay thế là điều chúng ta đang làm cho các nước khác, chủ đề này được thảo luận trong Chương 20. Ai có thể nói với tôi rằng Hoa Kỳ có quyền phá hủy nước Colombia bởi vì Hoa Kỳ không thể thực thi luật pháp của chính nước mình? Nếu chúng ta thực thi pháp luật của chúng ta thì sẽ không có vấn đề gì.

Tôi không có ý nói rằng chúng ta không thể thực thi được pháp luật của mình. Về nguyên tắc, chắc chắn là chúng ta có thể xóa bỏ hoàn toàn ma túy nếu chúng ta sẵn sàng sử dụng những phương pháp mà Saudi Arabia sử dụng: Nếu chúng ta sẵn sàng chặt tay tội phạm ma túy, nếu chúng ta sẵn sàng tử hình những người buôn bán ma túy. Chúng ta không áp dụng những hình phạt đó và tất cả chúng ta, không trừ một ai, rất tự hào về sự kiện là chúng ta không sẵn sàng áp dụng những phương pháp đó. Chữa thế thì rõ ràng là còn tệ hơn cả bệnh. Nhưng vì chúng ta không thể thực thi được pháp luật của mình, tôi tin rằng chẳng thể nào biện hộ được cho những hành động tàn phá của Hoa Kỳ đối với những nước khác.

Chúng ta đang phá hủy những khu dân cư nghèo ở các thành phố lớn, nhưng đấy là những thành phố của chúng ta. Tôi không biện hộ cho hành động đó – xin chớ hiểu lầm – nhưng theo tôi, phá hủy các nước khác còn khó biện hộ hơn. Tôi đã hỏi rất nhiều người ủng hộ các chính sách hiện nay của chúng ta câu hỏi này. Nhưng chưa bao giờ nhận được câu trả lời tương đối thỏa đáng.

Khi thảo luận về vấn đề ma túy, tôi, tương tự như nhiều người khác, cũng như tiến sĩ Morgan (Chương 24), đã trích dẫn những biện pháp cấm rượu trong những năm 1920 như một ví dụ rõ ràng về những ảnh hưởng tiêu cực của cấm đoán. Đáp lại, tôi đã nhận được rất nhiều thư. Những người không đồng ý với kết luận của tôi thường đưa ra hai luận cứ và để trả lời những luận cứ này, tôi muốn đưa ra thêm một ít dữ liệu.

Mọi người đều biết rằng cấm đoán các loại ma túy làm cho ma túy trở thành hoạt động bất hợp pháp, mang lại nhiều lợi nhuận và tạo ra một tầng lớp tội phạm. Nhưng, những người ủng hộ những biện pháp cấm đoán lại trả lời rằng hợp pháp hóa hoặc phi hình sự hóa ma túy hoặc thay đổi tình hình bằng bất cứ biện pháp nào khác thì những người này vẫn sẽ là tội phạm, họ sẽ chỉ chuyển sang những lĩnh vực khác mà thôi. Hãy xem những việc xảy ra sau khi bãi bỏ Luật cấm rượu, họ nói. Lúc đó có Al Capone và các băng đảng, và sau khi những biện pháp cấm rượu chấm dứt, chúng liền chuyển sang những lĩnh vực khác. Chắc chắn là có một phần sự thật trong chuyện này. Giới tội phạm sẽ để lại tàn dư, mà tàn dư có nghĩa là nhiều tội phạm hơn.

Chuyện này nghiêm trọng đến mức nào? Tôi có một đồ thị (Hình 3. 1). Thể hiện số vụ giết người trên 100.000 dân – trục tung – kể từ 1910 trở đi. Số liệu có đến năm 1987. Sau năm 1910, số vụ giết người gia tăng cực kì nhanh. Vụ bùng nổ đầu tiên diễn ra trong Thế chiến I, và hiện tượng mà chúng ta bao giờ cũng thấy là chiến tranh thường làm gia tăng tội phạm. Sau khi Chiến tranh kết thúc thì sao? Số vụ giết người tính trên 100.000 dân tiếp tục tăng lên rất nhanh và đạt đỉnh điểm vào đúng năm bãi bỏ Luật cấm rượu, tức là năm 1933. Sau đó nó giảm cũng rất nhanh, và giữ ở mức thấp trong suốt những năm 40 và 50, trừ những năm Thế chiến II là có gia tăng. Vì năm 1933 cũng là năm kết thúc của Đại suy thoái, có thể khẳng định rằng cuộc Đại khủng hoảng cũng góp phần làm gia tăng tội phạm và những vụ giết người. Nhưng, trong suốt giai đoạn thịnh vượng trong những năm 1920, số vụ giết người trên 100.000 dân cao hơn hẳn giai đoạn thịnh vượng trong những năm 40 và 50, nếu không nói đến cuối những năm 30, không được thịnh vượng bằng. Tôi tin rằng khi nhìn vào những bằng chứng này thì không một người nào có thể nghi ngờ rằng bãi bỏ Luật cấm rượu đã có ảnh hưởng đáng kể và nhanh chóng đối với số vụ giết người.

Đầu những năm 1960, số vụ giết người bắt đầu gia tăng và sau khi Tổng thống Nixon tiến hành cuộc chiến chống lại ma túy thì gia tăng rất nhanh. Thời gian gần đây, tỷ lệ giảm một chút, nhưng vẫn còn ở mức tương tự như năm 1933. Theo tôi, chúng ta có thể tin tưởng tuyệt đối rằng nếu ma túy được hợp pháp hóa thì tỷ lệ những vụ giết người sẽ giảm mạnh, nhiều khả năng là sẽ trở lại mức của những năm 50. Đó là vấn đề rất đáng quan tâm: Giảm tỷ lệ giết người từ trung bình của thập niên 80 xuống mức trung bình của những năm 50, với dân số hiện nay của chúng ta, điều đó có nghĩa là giữ được mạng sống cho hơn 10.000 người một năm!

Tôi đã đưa thêm về số lượng tù nhân (trên 10.000 dân) mà tất cả các nhà tù liên bang, tiểu bang và địa phương nhận hàng năm. Những dữ liệu này, hay chí ít là những dữ liệu mà tôi nắm được, chỉ có từ năm 1926 trở đi. Từ năm 1926 đến năm 1931 số lượng tù nhân tăng lên rất mạnh. Sau đó giảm, rồi lại tăng trở lại đến năm 1940, rồi lại giảm mạnh trong giai đoạn chiến tranh, rồi lại tăng và đạt đỉnh điểm vào năm 1961, rồi lại giảm mạnh cho đến năm 1969. Từ năm 1970 trở đi, số tù nhân tăng lên đáng kể, năm 1987 nhiều hơn hai lần so với năm 1931. Sự gia tăng tù nhân trùng với giai đoạn mở đầu cuộc chiến chống ma túy của Tổng thống Nixon, và tăng thêm khi Tổng thống Reagan khởi động cuộc chiến tranh tương tự.

Những con số này ít nhất cũng làm ta đau lòng. Hầu hết các cuộc thảo luận về các nạn nhân vô tội, trong đó có những cuộc tôi đã nghe ở đây, đã bỏ qua nhóm người mà tôi coi là những nạn nhân vô tội quan trọng nhất, đấy những người không được cảnh sát bảo vệ bởi vì cảnh sát còn bận ngăn chặn ma túy và bị ngành công nghiệp ma túy mua chuộc. Việc phá hoại tinh thần thực thi pháp luật, phá hoại tinh thần thượng tôn pháp luật làm cho danh sách các nạn nhân vô tội ngày càng dài thêm. Về mặt cá nhân, tôi thấy khó hiểu làm sao mà người nào đó có thể phủ nhận sự kiện là coi việc sở hữu và phân phối một số loại ma túy nào đó là tội phạm đã sinh ra những nạn nhân vô tội. Rất ít người phủ nhận sự hiện diện của những nạn nhân vô tội như thế. Tuy nhiên, những người ủng hộ những biện pháp cấm đoán ma túy đáp lại rằng phi hình sự hóa ma túy có thể làm giảm số nạn nhân vô tội đó, nhưng giá mà xã hội phải trả để đạt được điều đó sẽ là sự gia tăng mạnh mẽ số người nghiện. Một lần nữa, họ quay trở lại với rượu và Luật cấm rượu để tìm bằng chứng. Họ cho rằng sau khi Luật cấm rượu bị bãi bỏ thì số người uống rượu gia tăng và số người nghiện rượu cũng gia tăng.

Hai đồ thị sau từ máy tính đáng tin cậy của tôi là để trả lời cho những lời tuyên bố như thế. Đồ thị thứ nhất (hình 3.2) cho thấy phần trăm số tiền mà người ta chi tiêu được dành để mua đồ uống có cồn. Chỉ có số liệu dành cho đồ uống có cồn hợp pháp; đó là lí do vì sao lại bắt đầu vào năm 1933. Đáng tiếc là, tất cả những ước tính về tiêu thụ rượu trong thời kỳ cấm rượu đều là những số liệu gián tiếp và không chắc chắn, vì vậy tôi quyết định chỉ đưa vào những con số liên quan đến đồ uống hợp pháp. Tiến sĩ Morgan đã trình bày một số dữ liệu về tiêu thụ rượu trong thời gian cấm đoán và rõ ràng là người ta vẫn tiêu thụ. Nhân tiện xin nói thêm là, trong số các nạn nhân vô tội của Luật cấm rượu, có cả những người tự làm cho mình nghiện, do những yếu tố mà tiến sĩ Morgan đã đưa ra. Trên thị trường bất hợp pháp, chắc chắn là có rượu giả, làm cho một số người chết. Thật vậy, tôi luôn luôn cảm thấy rằng những người nghiện ma túy hiện này là những người được hưởng lợi nhiều nhất từ việc phi hình sự hòa ma túy. Hiện nay họ bị buộc phải trở thành tội phạm. Họ không thể yêu cầu giúp đỡ nếu không thừa nhận rằng mình là tội phạm. Như vậy là, luận cứ ủng hộ những phương pháp đang được sử dụng hiện nay chỉ có thể là: hợp pháp hóa ma túy thì số người nghiện sẽ gia tăng nhanh chóng.

Kinh nghiệm sau khi Luật cấm rượu bị bãi bỏ cho chúng ta biết điều gì? Trong ba năm đầu tiên, sau khi đồ uống hợp pháp đã thế chỗ cho đồ uống bất hợp pháp, tỷ lệ các khoản chi tiêu dành cho đồ uống có cồn đã tăng mạnh, đấy là điều không đáng ngạc nhiên. Đỉnh điểm là năm 1937, sau đó đi xuống đến năm 1940, sau đó, trong giai đoạn chiến tranh lại tăng lên cho đến năm 1945. Sau đó liên tục giảm dần.

Tôi đã khá già, tôi biết rõ giai đoạn đó. Tôi nhớ vài tháng sau khi Luật cấm rượu được bãi bỏ tôi có đến một nhà hàng Thụy Điển ở thành phố New York với một người bạn Thụy Điển, một anh bạn cùng lớp tại đại học Columbia. Đấy là một nhà hàng mà trong suốt giai đoạn cấm đoán anh ta có thể mua rượu Aquavit. Tôi chưa uống loại rượu này bao giờ và anh nghĩ rằng tôi nên thử. Họ nói không thể bán vì chưa có môn bài. Anh bạn tôi nói chuyện với họ bằng tiếng Thụy Điển và cuối cùng đã thuyết phục được họ đưa chúng tôi vào nhà bếp và cho chúng tôi nếm chút hương vị của Aquavit. Những người tin rằng khó mà mua được rượu trong giai đoạn cấm rượu ở Hoa Kỳ đều nên xem xét các bằng chứng. Lúc đó tôi cũng chưa quá già và không phải là người uống nhiều rượu, nhưng tìm cửa hàng rượu lậu không phải là việc khó.

Quay trở lại đồ thị, những người hoài nghi có thể nói, và nói đúng, rằng đấy là một tỷ lệ tính bằng phần trăm. Tổng số tiền chi cho tiêu dùng gia tăng. Có khả năng là tỷ lệ nhỏ trong tổng số lớn hơn là tấm bình phong che giấu sự gia tăng rất lớn số rượu được tiêu thụ.

Hình 3.3 cho thấy chi phí cho đồ uống có cồn trong giai đoạn đó, tính theo giá cố định năm 1982. Như chúng ta thấy, chi tiêu tính bằng giá trị tuyệt đối, cũng như tính bằng tỷ lệ phần trăm, tăng lên cho đến năm 1937 và sau đó giảm trong một thời gian ngắn. Trong giai đoạn chiến tranh, chi tiêu tăng mạnh, đạt đỉnh điểm vào năm 1946. Chi tiêu sau đó giảm và tương đối ổn định trong những năm 40 và 50 và sau đó, bắt đầu từ năm 1961, những khoản chi cho đồ uống có cồn đã tăng nhanh chóng. Nhưng, đối với mục đích của chúng ta, bài học quan trọng rút ra từ đồ thị là việc hợp pháp hoá rượu rõ ràng là đã không kích thích nạn nghiện rượu. Sau khi rượu được hợp pháp hóa, mức độ tiêu thụ gần như giữ nguyên. Gia tăng mạnh những khoản chi cho đồ uống có cồn trong giai đoạn từ 1961 đến năm 1980 là do những xu hướng trong đời sống của chúng ta trong những năm 1960 mà mọi người đều biết. Kể từ năm 1980, chi tiêu cho rượu đã giảm trong cả giá trị tuyệt đối và chứ không chỉ theo tỷ lệ phần trăm của tổng số tiền chi tiêu.

Rõ ràng là nếu các loại ma túy bất hợp pháp hiện nay được hợp pháp hóa và đối xử với chúng giống hệt như người ta đối xử với rượu thì cũng chẳng có lí do để cho rằng số người nghiện sẽ gia tăng đột biến. Không có nghĩa là chắc chắn như thế, nhưng tất cả những lời tuyên bố khẳng định điều ngược lại đều dựa trên phỏng đoán và giả thuyết mà thôi. Tôi chẳng thấy có bằng chứng nào. Gần với bằng chứng nhất mà tôi gặp là ý kiến nhắc đến những cơn sốt thuốc phiện ở Trung Quốc. Với những bằng chứng mà chúng ta có – không chỉ từ Luật cấm rượu mà còn từ Hà Lan, Alaska và những nơi khác, tôi nghĩ rằng những người khẳng định rằng số người nghiện ma túy sẽ gia tăng đến mức không thể chấp nhận được phải chứng minh được điều mà họ khẳng định.

Điều duy nhất chúng ta biết chắc chắn là những phương pháp mà chúng ta đang dùng hiện nay không có hiệu quả. Số người đồng ý với nhận định này đông hơn là ta tưởng lúc ban đầu. Bản chất của con người là phóng đại những khác biệt của họ với nhau. Khó có thể gây ấn tượng với người khác mà không phóng đại ý kiến của mình. Ví dụ, về vấn đề cần sa mà Tiến sĩ Grinspoon đã nói một cách cực kì cảm động (Chương 21: Searching for Alternatives: Drug-Control Policy in the United States / Ed. by M.B. Krauss, E.P. Lazear.Stanford, Calif.: Hoover Institution Press, 1991), tôi ngờ là rất ít người tin rằng buôn bán cần sa đáng bị kết án tử hình. Tôi ngờ rằng hầu như tất cả mọi người đều đồng ý rằng không có lí do gì đế có thể đối xử với cần xa như cách chúng ta đang làm hiện nay.

Tôi cảm thấy rằng chúng ta cần phải thừa nhận những thiệt hại mà chúng ta đang gây ra và không để cho sự độc đoán của hiện trạng ngăn cản chúng ta tiến hành một số thay đổi đủ sức ngăn chặn những vụ giết người trong các khu ổ chuột trong các thành phố của chúng ta. Chúng ta có thể ngăn chặn việc tước đoạt đời sống gia đình bình thường của những người bị thiệt thòi trên đất nước này. Tôi không đồng ý với nhiều trong số những người đồng ý với tôi về vai trò mà chính phủ phải thực hiện trong việc điều trị các con nghiện. Tôi cũng không đồng ý với những người nói rằng thảm kịch của những khu ổ chuột là vấn đề xã hội, những người thiệt thòi không có đủ công ăn việc làm và do đó chính phủ phải cung cấp cho họ công ăn việc làm. Tôi muốn nói với những người đó rằng thành tích của chính phủ trong việc tạo ra công ăn việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội khác cũng chẳng hơn gì thành tích của họ trong việc cấm đoán ma túy. Theo tôi, không chỉ phần lớn tội phạm của chúng ta là do các biện pháp của chính phủ mà ra, mà phần lớn người nghèo của chúng ta cũng là do các biện pháp của chính phủ mà ra. Nếu những người đã nghiên cứu tình hình ma túy cũng nghiên cứu một cách cẩn thận ảnh hưởng của những biện pháp của chính phủ trong các lĩnh vực như phúc lợi, dịch vụ xã hội, nhà ở..v.v.. thì họ sẽ dễ dàng nhận ra rằng ít nhất những lời tôi nói cũng có một phần sự thật. Nhưng đây là những chủ đề khác nhau và chúng ta phải tách biệt ra. Xin đừng tạo ra giới tuyến về ý thức hệ trong vấn đề này bởi vì, mặc dù chắc chắn là có yếu tố ý thức hệ, những trong trường hợp này, tính toán về lợi ích là rất mạnh và giữ thế thượng phong.

 

Tác giả: Tiến sĩ Milton Friedman
Dịch: Phạm Nguyên Trường


 

Milton Friedman (31 tháng 7 năm 1912 – 16 tháng 11 năm 2006) là một nhà kinh tế học người Mỹ, ông là người ủng hộ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và đã có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, kinh tế học vi mô, lịch sử kinh tế và thống kê. Năm 1976, Friedman nhận Giải Nobel kinh tế vì những đóng góp vào lĩnh vực phân tích tiêu dùng, lịch sử và lí thuyết tiền tệ cũng như công lao của ông trong việc chứng minh tính phức tạp của chính sách ổ định kinh tế vĩ mô. Nhiều người cho rằng Friedman là nhà kinh tế học có ảnh hưởng lớn nhất vào nửa sau thế kỷ 20.