17.6 C
Da Lat
Thứ Ba, 19 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 144

22 câu nói của Vladimir Lenin

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Giới thiệu: Lenin, tên đầy đủ là Vladimir Ilyich Ulyanov (1870-1924), người tiên phong cho phong trào chủ nghĩa xã hội. Người tiên phong trực tiếp và gián tiếp cho cái chết của hơn 100 triệu người từ trong Liên Bang Xô Viết, cho tới Ukraine, cho tới những cáng đồng của Trung Quốc và Việt Nam.


 

Hệ tư tưởng của ông ta đã được Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản lấy làm nền tảng cho đất nước Việt Nam. Tôi sẽ không nhận xét gì, nhường phần đó cho các bạn. Tôi xin bắt đầu với một câu dành cho các bạn trẻ Việt Nam.

 

Hãy cho tôi bốn năm để giáo dục bọn trẻ và hạt giống (chủ nghĩa cộng sản) tôi trồng sẽ không bao giờ bị bật rễ.

 

Hãy đưa cho tôi một thế hệ thanh niên và tôi sẽ biến đổi cả thế giới.

 

Hãy đưa tôi một đứa con nít, trong 8 năm nó sẽ trở thành một người Bolshevik mãi mãi.

 

Một sự giả dối được lặp lại nhiều lần sẽ trở thành sự thật.

 

Chính trị không có đạo đức, chỉ có thủ đoạn. Một người vô đạo đức cũng có lợi cho chúng ta chỉ bởi vì anh ta là một người vô đạo đức.

 

Hủy diệt gia đình, bạn hủy diệt một quốc gia.

 

Cái cách để hủy diệt giai cấp tư sản là dìm ép họ giữa thuế và lạm phát.

 

Chúng ta không có thời gian để chơi với các phe đối lập tại các hội nghị. Chúng ta sẽ giữ những nhà đối lập chính trị, dù họ công khai hay gián tiếp, ở trong tù.

 

Tự do rất quý hiếm, quý hiếm tới độ nó phải được hạn chế.

 

Người nào hiện tại nói về tự do truyền thông (báo chí) đang đi ngược chiều và đang cản trở sự tiến bước của chúng ta trên đường tới Chủ Nghĩa Xã Hội.

 

Một trong những điều kiện căn bản cho sự chiến thắng của chủ nghĩa xã hội là đem quyền lực cho giai cấp công nhân và tước quyền của giai cấp tư sản.

 

Một người có một cây súng có thể kiểm soát 100 người không súng.

 

Mục đích của chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cộng sản.

 

Bước đầu tiên để quảng bá cho chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội.

 

Bạn không thể nào làm cách mạng với găng tay trắng. (Nghĩa là găng tay phải dính máu).

 

Bao nhiêu tự do đi nữa cũng không đủ để làm hài lòng một đám đông đang chết đói.

 

Tự do trong xã hội tư bản luôn như nhau như trong thời Cổ Hy Lạp: tự do cho những chủ nô lệ.

 

Giai cấp tư sản mạnh hơn chúng ta gấp nhiều lần. Để cho nó có vũ khí của tự do truyền thông sẽ làm cho nó thêm lợi thế. Chúng ta không muốn tự sát nên sẽ nó sẽ không có tự do này.

 

Chủ nghĩa cộng sản là sức mạnh của Soviet cộng với sự khí thế của cả nước Nga.

 

Chủ nghĩa phát xít là chủ nghĩa tư bản đang bị suy tồi.

 

Khi chính quyền (cộng sản) đang tồn tại thì sẽ không có tự do, khi có tự do thì sẽ không có chính quyền (cộng sản).

 

Cái cách tốt nhất để hủy diệt hệ thống tư bản là phá giá đồng tiền.

 

Ku Búa

Tâm sự của một người Nhật: Lý do tôi ghét Việt Nam

Featured Image: All Free Photos

 

Giới thiệu: Đây là một bài tâm sự của một anh bạn người Nhật làm trong ngành du lịch. Lần đầu tiên anh ta đến Việt Nam năm 1997 cũng là lần anh thề sẽ không bao giờ trở lại vì đã gặp quá nhiều chuyện xấu. Bài viết được bạn Nguyễn Quốc Vương Dịch.


 

Lang thang trong thế giới mạng mênh mông tôi chợt gặp những dòng tâm sự của một người Nhật sau chuyến du lịch đến Việt Nam. Anh chàng có tên Shimata này chỉ kể về những “chuyện thường ngày ở huyện” của Việt Nam nhưng nó rất… hấp dẫn. Có lẽ cần phải đưa câu chuyện của anh vào giáo trình ngành du lịch và cẩm nang du lịch dành cho người nước ngoài đến Việt Nam. Mời các bạn thưởng thức. (Nguyễn Quốc Vương)

Cái gì? Bình thường tôi vào đọc blog của anh có bao giờ thấy chủ đề “Việt Nam” đâu? Lấy đâu ra người quan tâm nào? Đúng thế! Trên Blog của tôi chưa hề xuất hiện “Việt Nam”. Cả chữ “V” trong từ “Việt Nam” cũng không có nốt. “Anh đã đến Việt Nam lần nào chưa?” Nếu có ai hỏi thế thì câu trả lời là có, 10 năm trước tôi có đến thành phố Hồ Chí Minh một lần duy nhất. Tuy nhiên, trong tôi nói tới Việt Nam thì đấy là quốc gia xấu xa tồi tệ nhất (最低最悪の国) và nỗi bất mãn trong tôi sẽ tăng lên tới mức 150%. Trong lòng tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ đến đó lần thứ hai, thật là một nước tồi tệ số 1.

Tôi ghét Việt Nam

Mà nói đúng ra thì tôi ghét người Việt Nam hơn là ghét Việt Nam. Tôi căm ghét thứ văn hóa “móc được cái gì thì móc” của người Việt. Tôi càng căm ghét thứ người Việt Nam làm những điều như thế. Tôi không muốn nhìn mặt người Việt Nam và sẽ không đến Việt Nam đến lần thứ hai. Trái tim tôi đã quyết định như thế. Thời còn ba lô trên vai lấy điểm khởi đầu là Bangkok tôi đã đi tới nhiều nước châu Á xung quanh như Malaysia, Singapore, Laos, Myanma, Campodia… nhưng chưa lần nào nghĩ mình muốn đi tới Việt Nam.

Tiếp xúc với người Việt Nam thì cũng chỉ có hai lần. Khi có người cần tư vấn về du lịch Việt Nam, tôi cũng thường nói toàn những điều tiêu cực như “thôi bỏ đi!” hay đưa ra lời chú ý đầy căm hận “hãy cẩn thận với người Việt Nam”.

Tôi tảng lờ trước câu chuyện của ai đó khi họ nói “Việt Nam tuyệt vời lắm.” Hoặc là chỉ hờ hững đáp “ừ ừ, tốt nhỉ!”. Từ thời điểm tôi đi du lịch Việt Nam đến giờ đã 10 năm. Tôi đã duy trì mãi hành động “không thèm mua” đồ Việt Nam vì thế khi mua Maruboro ( có lẽ là thuốc lá Malboro?) ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc tôi đã trả lại vì nó được sản xuất tại Việt Nam.

Đôi khi trong cửa hàng 100 Yên tôi có nhặt lên vài sản phẩm nhưng do nó là đồ Việt Nam nên tôi đã tuyệt đối không mua. Đối với Việt Nam đáng ghét thì một Yên cũng tiếc. Có thể các bạn sẽ nói tôi: Ấy ấy!! Chơi đến mức đó hay sao hả? Nhưng các bạn hãy xem dưới đây xem tôi “ghét Việt Nam” đến cỡ nào. Cứ nghĩ đến những việc xấu xa mà người Việt Nam làm với tôi thì thực sự tôi lại cảm thấy bực mình.

Thế đến Việt Nam lần đầu tiên đã gặp chuyện gì vậy?

Tôi sẽ kể đây nhưng xin các bạn đừng có khóc nhé.

Nghe cũng khóc và kể cũng khóc…

10 năm về trước. Năm 1997 (năm Heisei thứ 9). Đấy là câu chuyện trước lúc tôi trở thành khách du lịch ba lô 5 năm.

Khi ấy tôi mới có 24 tuổi. Tôi, vốn làm việc cho một công ty du lịch ở quê hương Shikoku đã nhận được một chuyến đi du lịch tới thành phố Hồ Chí Minh bằng vé của công ty hàng không Việt Nam nhân dịp mới vào làm việc.“Từ giờ trở đi Việt Nam sẽ trở thành thị trường đầy hứa hẹn, người du lịch tới Việt Nam chắc chắn sẽ tăng.” “Với tư cách là nhân viên công ty du lịch, hãy tận mắt quan sát Việt Nam nơi đang tăng trưởng nhanh chóng.” Cấp trên của tôi đã khuyến khích và cũng có thể nói là ngợi khen như thế.

Tôi cùng với cậu K, hai người đã quyết định tham gia “Tour Hồ Chí Minh 4 ngày 2 đêm”. Tôi lần đầu đặt chân tới Việt Nam trong tâm trạng vừa lo lắng vừa khấp khởi trong cảm xúc “đột nhiên được tới Việt Nam sướng thật”. Tuy nhiên với tôi, người lần đầu tiên tới Việt Nam thì đấy là một chuỗi những sự việc đáng ghét và khủng khiếp.Tôi và cậu K hai nhân viên công ty du lịch đã gặp chuyện gì với người Việt Nam? Một kết cục bất hạnh đã chờ đón chúng tôi. Nói đơn giản thì thì chúng tôi đã bị người người Việt Nam lừa đến độ phát điên lên và ra về trong nỗi tức giận. Lý do là thế đấy.

Hẹn các bạn lần sau nhé ( Hic! Lại công việc! Công việc).

Ghi chú: Xin lỗi chị Shikayoshi hiện đang sống ở tp Hồ chí Minh nhé.

10 năm về trước. Tôi sẽ kể cho các bạn nghe câu chuyện xảy ra trong chuyến đi “Hồ Chí Minh 2 đêm 4 ngày” trong lần đầu tới Việt Nam.

Tháng 12 năm 1997

Tôi cùng với đồng nghiệp K xuất phát từ Kansai tới Hồ Chí Minh trên máy bay của hãng Hàng không Việt Nam. Trong máy bay tất cả các tiếp viên đều mặc áo dài gợi cảm và ngay từ trước lúc đáp xuống Việt Nam cảm xúc của hai chúng tôi đã dâng cao và trong lòng tràn ngập cảm xúc mong đợi: “Không biết những việc vui vẻ nào đang đợi chúng mình đây?”

Sau chuyến bay khoảng 5 tiếng chúng tôi đáp xuống thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi ra khỏi máy bay và đi vào tòa nhà cũ kỹ, đứng xếp hàng làm thủ tục nhập cảnh. Đến lượt mình khi chúng tôi đưa passport cho nhân viên nhập cảnh thì anh ta vừa lắc đầu vừa nói: “Thế này không thể nhập cảnh được.” Hóa ra vấn đề nằm ở chỗ tấm ảnh đi kèm Visa là ảnh đen trắng.

Với lý do “phải là ảnh màu” tôi và cậu K đã đột nhiên bị từ chối nhập cảnh vào Việt Nam. Nhân viên nhập cảnh nói: “Đằng sau kia kìa.” Chúng tôi quay lại và nhìn thấy chủ cửa hàng ảnh vẫy tay cười cười: “Lại đậy lại đây.” Không có cách nào khác chúng tôi buộc phải đến đó chụp ảnh dán vào visa và cuối cùng thì cũng được nhập cảnh. Ngay trước lúc nhập cảnh đã gặp rắc rối với ông chủ hiệu ảnh. Phí chụp ảnh đến 20 đô la Mĩ.

Chẳng ai yêu cầu thế mà bị bắt phải chụp và mất tới 40 đô la.

“Không đùa đâu! Quái đản!”

Tôi và cậu K cáu, phản kháng với chủ hiệu ảnh nhưng cho dù có nói gì cũng vô ích. Phải gắng lắm mới miễn cưỡng chấp nhận giá của mỗi bức ảnh. “Thật là một đất nước quái gở nhỉ.” Tôi vừa than thở với cậu K vừa bước một bước ra ngoài tòa nhà sân bay thì lần này bị vây chặt bởi những người lái Taxi mời khách: “Đi đâu thế? Lên đây tôi chở!”

Dù thế nào cũng phải mặt dày tí! Muốn về khách sạn thì không thể không bắt xe vì thế tôi cùng cậu K vừa thương thuyết vừa lên chiếc Taxi của một lái xe có vẻ như là người tốt và có lương tâm nhất.

Giá về đến khách sạn trong thành phố là 20 đô la. Chát thật! tôi nghĩ vậy nhưng so với các xe khác thì vẫn rẻ hơn vì thế tôi cầm tay 20 đô la và lên đường về khách sạn trong thành phố.

Quang cảnh nội thị Hồ Chí Minh nhìn từ cửa sổ xe Taxi có thể diễn đạt chỉ bằng một từ “vô trật tự”, nhìn chỗ nào cũng thấy toàn người không đội mũ bảo hiểm. Chuyện 3, 4 người ngồi một xe là chuyện đương nhiên. Trước cảnh ở Nhật Bản không thể nào chấp nhận chúng tôi một lần nữa cảm thấy thực sự mình đã đi đến một nước lạ. Số lượng xe rất nhiều và hoàn toàn không coi vạch sang đường dành cho người đi bộ hay đèn tín hiệu là cái thá gì. Chiếc taxi chạy khục khặc trên con đường chưa trải nhựa đầy bụi khiến mặt chúng tôi rung giần giật.

20 phút sau xe đến khách sạn. Khi xuống xe và đưa cho lái xe 20 đô la thì anh ta nói: “ Không! 30 đô la.”

“Anh chẳng nói là 20 đô la sao?” Cậu K thét lên phản kháng. “Được rồi! Được rồi! 20 đô la.” Lái xe vừa thản nhiên nói vừa thè lưỡi ra. “Thật chán! Quái gở thật!” Khi mở cốp xe để lấy hành lý và định bước vào khách sạn thì lái xe taxi kêu lên: “ Tip! Tip!” “Không! Vớ vẩn!” Cả tôi và cậu K đều nổi khùng. “Hứ!“ lái xe lại thè lưỡi ra và chạy mất. Thật là một tay lái xe rách giời rơi xuống.

Chúng tôi làm thủ tục nhận phòng. Chúng tôi ở trong một khách sạn hạng trung nhìn ra đường Nguyễn Huệ và gần đại lộ Đồng Khởi. Căn phòng nồng nặc mùi hôi ẩm mốc và từ vòi hoa sen chảy ra thứ nước màu vàng. Mặc dù phòng có vấn đề nhưng từ ban công có thể nhìn thấy sự ồn ào tấp nập của đại lộ và con sông Sài Gòn rất đẹp. Hai người đặt vội hành lý xuống phòng rồi nhanh chóng ra ngoài ngắm cảnh trong thành phố. Trước hết chúng tôi muốn đi chậm dọc theo đại lộ Đồng Khởi, con đường chính của thành phố Hồ Chí Minh để xem cuộc sống của người dân và tới chợ Bến Thành, nơi được coi là nhà bếp của thành phố Hồ Chí Minh.

Khi vừa đặt hai tay lên tủ kính bán hàng và ngắm nhìn bật lửa Zippo của Việt Nam thì một con chuột to cỡ lòng bàn tay người vừa kêu phù phù vừa chạy vọt qua trước mắt. “Oa.. oái …” Tôi kêu lên hoảng sợ. Tôi đỏ mặt vì người Việt Nam xung quanh cười.

Lần này đột nhiên trời đổ mưa nền chợ Bến Thành bắt đầu ngập nước và rồi… lần này thì đàn gián và chuột với quy mô lớn tôi chưa từng thấy bao giờ diễu hành ngay trước mắt. “Oái!!!!”

Tởm quá! Tôi cảm thấy kinh tởm như toàn thân nôn mửa. Hai người chúng tôi nhanh chóng bỏ lại chợ Bến Thành ở phía sau với đàn trẻ con ăn xin vây quanh. Thật không muốn đến lần thứ hai. Cậu K kêu đói bụng vì thế chúng tôi cùng đến hàng mì. (Đàn gián và chuột lúc nãy làm cho tôi không thiết gì ăn). Cậu K gọi Phở còn tôi thì chỉ gọi Coca và hút thuốc. Vừa châm điếu thuốc thì tôi nghe có tiếng người qua đường gọi. “Cho xin điếu thuốc” “Cho xin tí lửa”,“Tôi có bạn ở Nhật” “Cho xem tiền Nhật Bản nào”

Thật là ầm ĩ. Những người khách du lịch như chúng tôi không thể nào thấy bình yên. Lúc đầu cho dẫu mong mỏi sẽ được tiếp xúc với người Việt Nam vui vẻ nhưng lúc này ngay lập tức tôi cảm thấy chán ngán. Lúc nào cũng thế, cuối cùng thì cũng bị xin xỏ thuốc lá. Đi đến đâu cũng bị người Việt Nam vây quanh, xin xỏ một ngày kết thúc và với chúng tôi Việt Nam đã gần như là quá đủ.

Ngày thứ hai ở Hồ Chí Minh Cậu K nói với tôi là đi đến nhà người Việt mới quen để chơi rồi bước ra ngoài. Cậu ta có rủ tôi đi cùng nhưng tôi muốn một mình chậm rãi đi dạo nên đã từ chối. Chúng tôi giao hẹn rằng buổi tối sẽ cùng nhau đi uống bia hơi. Tôi đi đến xem bảo tàng.

Khi tôi ra khỏi khách sạn thì ngay lập tức có một chiếc xích lô đi theo sau tôi tới tận trước cửa bảo tàng. Khi tôi quay trở lại khách sạn thì chiếc xích lô lúc nãy cũng lại đi theo về trước khách sạn. Khi tôi đi ngang qua thì anh ta lên tiếng gọi to: “Này! Đi không?” Nhưng tôi làm thinh. Đó là do trong sách hướng dẫn du lịch có ghi: “Cần phải thận trọng với những xích lô lưu manh.” Vì thế mà tôi không lên xích lô, tôi tuy đã quyết định như vậy nhưng vì anh ta nhiệt tình quá vì thế mà cái tình của xích lô đã chuyển phắt sang tôi khiến cho tôi dần dần muốn lên xe.

Tôi hỏi: “Giá bao nhiêu?” “Mỗi giờ 50 đô la.” Anh ta đáp. Đắt thế! Đừng có đùa! Ai ngồi! Tôi nghĩ vậy và làm thinh tiếp tục bước đi. Dần dần giá cả cứ hạ thấp dần. “10 đô la nhé, đi không?” “Đắt nhỉ” .“Thế thì 5 đô la.” “ Hừ, làm thế nào bây giờ”

Giá cả giờ đây đã tụt xuống còn có 1/10. Nếu là 5 đô la thì có ngồi cũng chẳng sao nhỉ… tôi bắt đầu có ý nghĩ như thế. Mất công đã đến Việt Nam vì thế cũng muốn một lần được cưỡi xích lô. Người đạp xích lô cũng trẻ trông như một thanh niên tốt. Nhìn kỹ thì thấy mắt rất đẹp, thật là một tay điển trai. Thôi được! Cưỡi thử nào.

“5 đô la nhé, nếu cao hơn tôi không trả đâu. Giao kèo đấy nhé.”“OK. Giao kèo thì giao kèo! Nhảy lên nào, nhảy lên nào!” Thấy anh ta nhiệt tình làm việc từ sáng tới giờ tôi liền đi đến quán cà phê ở gần gọi súp và bánh sandwich cùng cà phê mời anh xích lô. Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện sau khi bụng đã ổn ổn tôi lại lên xe và bắt đầu đi ngắm cảnh thành phố. Lần đầu tiên ngồi trên xích lô được ngắm cảnh thật là thích. Tôi ngồi trên chiếc xích lô rung lắc vừa chụp ảnh cảnh phố phường Hồ Chí Minh mang phong cách Pháp vừa cảm nhận đầy đủ cái tình của kỳ quốc cùng ngọn gió dễ chịu.

Thoáng cái đã hết một tiếng việc còn lại chỉ là về khách sạn. Cuối cùng tôi có ý định chụp ảnh anh chàng xích lô. Tuy nhiên khi giơ camera lên thì anh ta cương quyết từ chối. Lý do là anh ta không thích chụp ảnh. Khi đến trước đường Đồng Khởi chỉ cách khách sạn chút ít thì đột nhiên anh ta nói: “Đến đây là hết! Xuống!” Tại sao đột nhiên thế này? Tôi nghĩ thế nhưng do chỉ cách có chút ít là về đến khách sạn nên tôi đáp: “Hiểu rồi, hiểu rồi, xin cảm ơn.” và định đưa cho anh ta 5 đô la. Khi làm vậy thì anh xích lô đột nhiên có vẻ mặt dễ sợ khác hẳn lúc trước.

“Hai trăm đô la! Trả 200 đô la đi!” Khuôn mặt đầy sát khí và nói như thét vào mặt. “Đợi đã! Đã giao kèo là 5 đô la rồi mà” “Không! 200 đô la! Trả 200 đô la đi!” Cái này thì thật gay… 200 đô la có biết cao hơn bao lần không? Đừng có đùa! Đây tuyệt đối không trả đâu!!! “Vớ vẩn! Đồ ngu!” Tôi nói vậy rồi ù té chạy.

Anh xích lô đuổi theo. Tuy nhiên do mặt đường hẹp nên xích lô không đuổi được. Thật chua chát! Việc không trả tiền tất nhiên rồi, và hơn hết việc tiếp xúc với anh ta rồi trao đổi tình cảm kia tóm lại là cái thứ gì đây!? Trong lòng tôi tràn ngập cảm giác bị phản bội. Kể lể công ơn là việc tôi không hề thích nhưng tôi đã mời anh ta ăn cơm, mua nước cho anh ta uống thân thiện đến thế còn gì! Vậy mà tại sao anh ta lại có thái độ như thế! Trả 200 đô la đi! Lẽ ra không có câu đó chứ! Tâm trạng tôi lại tụt dốc. Chuyện này lẽ ra chắc chắn chả bao giờ xảy ra thế mà….

Tôi về khách sạn và vừa ngủ thì cậu K cùng phòng về. Cậu K trông cũng không khỏe. Khi tôi hỏi: “Sao thế?” Cậu ta hỏi lại với giọng trầm xuống: “Cậu Shimata này, cậu còn tiền không?” “Còn nhưng sao thế?”

Hỏi ra mới biết cậu ta đến nhà người Việt Nam chơi và bị lấy mất toàn bộ số tiền. Khi cậu ta chơi bài thì chỉ trong phút chốc nó bỗng biến thành trò bài bạc và khi tỉnh ra thì cậu đã thua lớn bị đe dọa và phải trả toàn bộ số tiền. Tổng cộng cậu ta đã phải trả 400 đô la và số tiền mang theo còn lại chỉ còn có 20 đô la.

Tại sao cả tôi và cậu K lại gặp vận đen như thế… Chúng tôi không đến Việt Nam để có những kỷ niệm như thế này thế mà… Tôi không muốn nói với cậu K: “Tại sao cậu không cẩn thận.’” vì chuyện ấy cũng giống như tôi. Để an ủi cậu K chúng tôi vừa uống bia hơi ở quán gần đó vừa an ủi lẫn nhau tới sáng. Nhân tiện, tôi trả tiền. Mặc dù tôi đã tính toán thật cẩn thận nhưng cho dẫu thế thì số tiền phải trả cũng cao gần gấp 4 lần. Do đã mệt nên tôi chán không muốn phản kháng nữa chỉ ‘vâng, vâng” rồi trả tiền. Người bán hàng nói tiền thừa là tiền “tip” và không hề trả lại.

Thật quá lắm rồi. Tôi căm ghét Việt Nam! Tôi muốn mau chóng quay trở về Nhật. May là chỉ còn ngày mai nữa là trở về. Buổi tối máy bay sẽ cất cánh từ Hồ Chí Minh. Ngày mai, ngày cuối cùng thì chỉ còn mỗi việc mua quà cho người cùng công ty sau đó đợi đến giờ check out rồi ra khỏi khách sạn là xong. Trong tâm trạng chán chường như thế ngày thứ hai kết thúc. Tuy nhiên sự “cãi vã” với người Việt không kết thúc ở đó. Ngày thứ ba cũng là ngày cuối cùng đã xảy ra “sự kiện đáng ghét hơn nhiều”.

Ngày thứ ba ở Hồ Chí Minh. Khi tỉnh dậy mở mắt ra thì đã 2 giờ chiều. Trên bàn là lá thư của cậu K. “Chào! Tớ đi ra ngoài ngắm cảnh. Buổi chiều tối sẽ quay lại.”

Sắp đến buổi tối về nước rồi. Muốn được nhanh nhanh trở về Nhật. Máy bay xuất phát lúc 23 giờ vì thế tôi phải ở khách sạn đến 21 giờ. Cuối cùng tôi muốn đi mua quà Việt Nam nên đi ra ngoài…

Trời! cái gì thế này! Ngay trước hành lang khách sạn là người đạp xích xô ngày hôm trước đang đứng đó. Nhưng lần này anh ta kéo theo cả bạn và có đến 10 người đạp xích lô có bộ mặt dễ sợ đang nắm tay đứng đợi!

Làm sao bây giờ… Chắc chắn sẽ bị đánh nên thân… Chân tôi run lên. Vào khi đó ở chỗ tiếp tân có một ông già giống như người Nhật và tôi đã cầu cứu ông giúp đỡ. “Xin lỗi…ông có nói được tiếng Việt Nam không?” “Có! Tôi nói được nhưng có chuyện gì thế?”

Thật là may ông cụ đúng là người Nhật Bản. Tôi kể cho ông cụ nghe một phần sự việc xảy ra đến lúc này và cầu xin ông làm trọng tài trung gian. Ông già đứng trước chỗ tiếp tân là nhân viên lưu trú của Ngân hàng Sanwa.

“Được, hiểu rồi. Lẽ ra không được ngồi xích lô!”
“Vâng, thành thật xin lỗi!”
“Ở gần đây xích lô đặc biệt lưu manh đấy.”
“Vâng, thành thật xin lỗi!”
“Thế đã mặc cả bao nhiêu?”
“Thưa, 5 đô la ạ.”

“Và thành 200 đô la? Trời ơi!”
“Thế trả bao nhiêu thì ổn?”
“Cháu không muốn trả quá số tiền đã nói”
“Được, tôi sẽ thử thương thuyết nhưng nếu gặp người xấu thì hãy chuẩn bị tinh thần là gần 100 đô la cũng phải trả đấy”.

Nhân viên của ngân hàng Sanwa (dưới đây xin gọi là ông B) đã giúp thương thảo với người đạp xích lô hôm qua. Bạn bè của anh ta đã về hết chỉ còn lại có mình anh ta. Ông B đưa anh ta lại chỗ quầy lễ tân nơi tôi đợi. Tôi, ông B và người đạp xích lô ba người ngồi xuống Sofa và bắt đầu nói chuyện.

B: “Người đạp xích lô nói anh hứa sẽ trả 100 đô la.”
Shimata: “Không, tôi không nói thế… hắn ta ngày hôm qua đột nhiên đòi tôi 200 đô la và giờ thì đến đòi đấy!”
Xích lô: haaaa (thét lên bằng tiếng Việt nam.)
B: “Anh ta nói anh hứa trả 100 đô la.”
Shimata: “Tôi không hiểu chuyện gì cả. 100 đô la hay 200 đô la cũng đều là vớ vẩn.”
B: Lần này không trả hơn 5 đô không được đâu. Ví dụ như 10 đô chẳng hạn.
Shimata: “Không (tôi ngoan cố).”
Xích lô: “haaaaa (tiếng Việt Nam).”
B: “Anh ta nói là anh nói láo.”
Shimata: “Tôi đâu có nói láo. Người nói láo chính là thằng cha đó.”
Xích lô: “Haaaa (tiếng Việt Nam).”
B: Thôi được anh ta nói 7 đô la đấy.
Shimata: “Không! (tôi ngoan cố).”

Tôi không muốn trả cho thằng cha như thế này. 200 đô la rồi đột ngột thành 100 đô la rồi lần này thành 7 đô la làm như thế hóa ra tôi giống như thằng nói láo. Tôi không thể tha thứ cho kẻ đạp xích lô đáng ghét đó được. Tuy nhiên người đạp xe xích lô cứ cương quyết là tôi nói sẽ trả 100 đô la.

Shimata: “Xin lỗi đã làm mất thời gian của ông…”
B: “Không sao, cái việc này ở Việt Nam hoàn toàn không phải là chuyện hiếm.”
Shimata: “Hả? Thật vậy sao?”
B: “Lúc đầu lên xích lô có tưởng tượng ra chuyện này không?”
Shimata: “Thì…”
B: Anh cũng có phần sai
Shimata: “Vâng…”
B: “Anh ta là người vô văn hóa vì thế có thương thuyết bằng giá trị quan đạo đức của người Nhật đi nữa cũng vô ích. Tôi nghĩ thế.”
Shimata: “Vâng…”
Xích lô: “Haaaa (tiếng Việt Nam).”
B: “Anh ta nói là 7 đô la.”
Shimata: “Không! Không được. 5 đô la. Đã giao kèo là 5 đô la rồi mà (tôi ngoan cố đến cùng).”
B: “Trả đi thì sẽ tốt hơn tôi nghĩ thế. Nếu là 7 đô la thì vẫn còn rẻ đấy!”

Nhờ ông B mà cũng có thể tôi đã chuyển tải được cảm xúc của mình tới người đạp xích lô. Thật là một gã lưu manh, tôi bực biết bao nhiêu. Cho dù là thương thuyết được tới 5 đô la đi nữa thì anh ta cũng đã phá hỏng lời giao kèo. Việc mời cơm anh ta thật là ngu ngốc. Tôi cảm thấy khó chịu và không muốn trả tiền.

Quả thật đúng như ông B nói. Cho dù có nói với người đạp xích lô quan niệm đạo đức của người Nhật đi chăng nữa thì cũng vô ích. Thông thường thì với tôi 7 đô la cũng không vấn đề gì nhưng vào thời điểm đó tôi không hề có tâm trạng muốn trả. Tôi không muốn trả cho anh ta một Yên nào. Vấn đề không phải là tiền bạc mà vấn đề là cảm xúc. Và thế là tôi trở nên ngoan cố. Tuy nhiên, tôi không muốn làm ông B mất thêm thời gian…

Shimata: “Hiểu rồi… Tôi sẽ trả 7 đô la.”

B: “Rồi! Thế nhé xong một vụ rồi nhé (ông cười).”

Kết cục tôi trả cho người đạp xích lô 7 đô la và chẳng hiểu sao tôi muốn khóc. Tôi đã nghĩ hắn là người tốt thế rồi ngồi lên xích lô và đột nhiên bị hắn lừa rồi bỏ chạy. Rồi bị 10 người đến đợi rồi có khả năng bị dần một trận nên thân. Người đạp xích lô nói láo kia lại gọi tôi là thằng nói láo. Tôi đã làm phiền đến cả ông B. Nhờ sự tốt bụng của ông B mà tôi cũng ổn giống như một đứa trẻ. Nhưng rồi kết cùng vẫn phải trả tiền. Mất công đi du lịch mà cuối cùng thế này đây. Tại sao tôi lại phải gặp chuyện cay đắng thế này càng nghĩ tôi càng cảm thấy xấu hổ và muốn khóc.

B: “Rồi! Cuối cùng hai người bắt tay cái nào! Rồi! Rồi! bắt tay đi.”

Không có lý do gì phải bắt tay. Cuối cùng tôi hỏi tên người đạp xích lô Tên anh ta là “Minh”. Tên hắn và khuôn mặt hắn tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi nhìn mặt hắn như muốn nói này thằng ngu cút xéo đi. Minh có vẻ khó chịu, nắm chặt tiền rồi ra khỏi khách sạn.

Bản thân số tiền thiệt hại không lớn. Cũng có thể số tiền đó nhỏ đến mức không thể nói đó là thiệt hại. Nhưng sự mất mát về tinh thần thì lớn hơn nhiều. Người ta đã nhắc rằng là nguy hiểm thế mà tôi vẫn lên xích lô tôi mới ngu làm sao.

Việt Nam thế là đủ rồi. Tôi không muốn đến Việt Nam lần thứ hai. Tôi không muốn đến Việt Nam lần thứ hai. Tôi sẽ không đi Việt Nam lần thứ hai. Tôi thề trong tim như vậy, tôi cảm ơn ông B, trao đổi địa chỉ rồi ru rú trong phòng chờ đến sát giờ checkout. Tôi không đi đâu cũng không đi mua quà mà ngủ ngay trên giường. Vào lúc checkout chợt nhớ đến chiếc áo sơ mi bỏ quên trên phòng tôi liền quay lên nhưng nó đã bị ai đó lấy mất. Đến lúc cuối cùng mà cũng… Sẽ không đến lần hai đâu, đồ ngu! Tôi vừa lầm bầm như thế vừa hướng ra phi trường.

Tôi sẽ không bao giờ quên chuyến đi 4 ngày 2 đêm tháng 12 năm 1997 ở thành phố Hồ Chí Minh

Kể từ đó đã 10 năm… Cả ý nghĩ căm ghét du lịch Việt Nam cùng sự việc xảy ra với người đạp xích lô đáng ghét đã được thanh tẩy trong dòng chảy của thời gian, tôi, người đã căm ghét Việt nam suốt 10 năm trời giờ đây bắt đầu có ý nghĩ thế nào cũng được.

Gần đây vô tình tôi lại chú ý tới Việt Nam không thể nào cưỡng được. Vào thời điểm này nghĩ lại thì điều tôi cần phản tỉnh thật nhiều. Tôi thật xấu khi cái gì cũng đổ tại người Việt Nam. Tôi đã không hề có chút tri thức nào về Việt Nam, tôi cũng không hề có ý nghĩ mong muốn lý giải người Việt Nam. Tôi đã chỉ bị hút hồn bởi Áo dài và khi gặp người Việt Nam thì vênh mặt lên rằng ta đến từ nước Nhật cường quốc kinh tế đây… và thiếu đi sự khiêm tốn. Tôi đã tự ý mời người đạp xích lô và tự mình sung sướng và tôi phải cảm thấy xấu hổ vì điều đó.

Khi đã trở về Nhật tôi nói với người xung quanh rằng tôi ghét Việt Nam, khi được hỏi về du lịch Việt Nam tôi đã nói là nên đi Bangkok rồi khi nghe ai đó nói du lịch Việt Nam rất thú vị thì tôi giả điếc không nghe. Tôi cũng đã ích kỷ tẩy chay hàng Việt Nam… Tại sao trong 10 năm ròng tôi đã làm những điều ấy với Việt Nam? Sự thay đổi tâm tính này quả thật phần lớn nhờ vào blog tôi nghĩ vậy.

Vào tháng 4, chị Yakibuta, người sống ở Hồ Chí Minh về nước và đến nhà tôi chơi có mời tôi cà phê Việt Nam. Mất công người ta mời lại đã lâu không uống cà phê Việt Nam. “Shit! Thật là ngon!!!”

Đúng vậy, Việt Nam không chỉ là nước có cà phê ngon mà còn là nước có thức ăn ngon! Khi đọc blog của chị ấy ở Hồ Chí Minh thì cuộc sống ở Việt Nam đã được viết rất sống động mỗi lần đọc là một lần tăng cảm hứng về Việt Nam. Ngoài chị ấy còn có chị Shikayoshi đang sống rất vui vẻ ở Hồ Chí Minh. Tôi chỉ có 2 ngày 4 đêm rồi từ bỏ tại sao hai người lại có thế sống vui vẻ như thế với những người Việt Nam vây quanh. Tôi cảm thấy có hứng thú với Yakibuta và Shikayoshi. Xung quanh việc gặp gỡ hai người tôi cũng phải cảm ơn chị Boctok. Tôi muốn một lần quay trở lại Hồ Chí Minh để thử xem sao. Tôi nghĩ như thế từ tận đáy lòng.

Ngoài Hồ Chí Minh thì Việt Nam cón có rất nhiều nơi du lịch nữa. Đến giờ phút này tôi cảm thấy luyến tiếc vì vào thời còn là kẻ ba lô trên vai tôi đã không đến thăm Việt Nam. Cho dù để có được ý nghĩ ấy tôi đã mất đến 10 năm.

Chà! Tôi muốn đến Việt Nam.

 

あーベトナム行きたい。

Nguyễn Quốc Vương dịch

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 4)


Nền tảng của chính sách tự do – Chương 1

Luận cứ của chủ nghĩa phát xít

Mặc dù chủ nghĩa tự do chưa được công nhận một cách triệt để ở bất cứ đâu, nhưng thành tựu của nó trong thế kỷ XIX đã tiến xa đến mức một số nguyên tắc quan trọng nhất của nó đã được coi là đương nhiên, không cần tranh luận nữa. Trước năm 1914, ngay cả những kẻ thù lỳ lợm nhất và quyết liệt nhất của nó cũng đã buộc phải chấp nhận sự kiện đó. Ngay cả ở nước Nga – tức là nơi mới chỉ tiếp nhận được những tia sáng yếu ớt của chủ nghĩa tự do – phe bảo hoàng, trong khi tiếp tục khủng bố những người đối lập, cũng phải để ý đến những quan điểm tự do ở châu Âu. Trong cuộc Thế chiến vừa qua (Chiến tranh Thế giới I –ND), các phe quân sự trong các nước tham chiến, dù tỏ ra hung hăng, nhưng trong cuộc đấu tranh với những người đối lập ở trong nước vẫn phải tỏ ra mềm mỏng.

Chỉ đến khi những người dân chủ xã hội theo đường lối marxist thắng thế và giành được quyền lực với niềm tin rằng thời đại của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản đã vĩnh viễn cáo chung rồi thì sự nhượng bộ tư tưởng tự do, mà trước đấy người ta vẫn cho là cần thiết, mới chấm dứt. Các đảng của Quốc tế III chấp nhận mọi phương tiện, chỉ cần chúng hứa hẹn giúp họ giành được mục tiêu trong cuộc đấu tranh là được. Theo quan điểm của họ, bất cứ người nào không công nhận và không ủng hộ toàn bộ học thuyết của họ một cách vô điều kiện đều đáng tội chết; và họ sẽ không run tay tiêu diệt người đó, cũng như gia đình người đó, kể cả trẻ con – bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, khi hoàn cảnh cho phép.

Việc thi hành một cách công khai chính sách tiêu diệt đối thủ và giết chóc nhằm thực hiện đường lối đó đã tạo điều kiện cho phong trào đối lập ngóc đầu dậy. Kẻ thù phi-cộng-sản của chủ nghĩa tự do lập tức sáng mắt ra. Trước đây họ vẫn còn tin rằng ngay cả trong cuộc đấu tranh với những đối thủ đáng ghét nhất người ta cũng phải tôn trọng một số nguyên tắc nhất định của chủ nghĩa tự do. Dù không muốn, nhưng họ vẫn buộc phải loại bỏ việc giết người và mưu sát khỏi danh sách những biện pháp có thể được áp dụng trong cuộc đấu tranh chính trị. Họ buộc phải chấp nhận một số hạn chế trong việc ngược đãi báo chí đối lập và đàn áp tự do ngôn luận.

Bây giờ họ bỗng thấy những đối thủ mới xuất hiện, đấy là những kẻ không quan tâm tới những lý lẽ như thế, mọi phương tiện đối với họ đều là tốt, miễn là đánh bại được kẻ thù. Kẻ thù theo đường lối quân phiệt và dân tộc chủ nghĩa của Quốc tế III cảm thấy như bị chủ nghĩa tự do đánh lừa. Họ cho rằng trong lúc điều kiện vẫn còn và khi họ đang muốn giáng trả các đảng cách mạng thì chủ nghĩa tự do đã trói chân trói tay họ. Họ tin rằng nếu không bị chủ nghĩa tự do cản trở thì họ đã dẫm nát phong trào cách mạng ngay từ trong trứng nước rồi.

Các tư tưởng cách mạng chỉ có thể bén rễ và đơm hoa kết trái vì đối thủ của chúng đã tỏ ra khoan dung; việc tôn trọng, mà sau này mới biết là quá đáng, các nguyên tắc tự do đã làm cho họ nhụt chí. Nếu trước đây họ đã nhận thức được rằng cần phải đàn áp một cách dã man mọi phong trào cách mạng thì Quốc tế III không thể giành chiến thắng vào năm 1917 được. Những kẻ quân phiệt và dân tộc chủ nghĩa tin rằng khi cần bóp cò và đánh nhau thì họ chính là những người thiện xạ nhất và là những chiến binh khéo léo nhất.

Tư tưởng căn bản của các phong trào này – từ tên gọi của phong trào hoành tráng nhất và có kỷ luật nhất, ở Ý, có thể định danh là phát xít – là sử dụng những biện pháp vô luân trong cuộc đấu tranh chống Quốc tế III, tức là những biện pháp từng được tổ chức này sử dụng nhằm chống lại các đối thủ của mình. Quốc tế III tìm cách tiêu diệt đối thủ và tư tưởng của đối thủ bằng những biện pháp giống như các biện pháp mà bác sĩ vệ sinh phòng dịch sử dụng trong cuộc chiến chống bệnh truyền nhiễm vậy; phong trào này cho rằng họ không bị giới hạn bởi bất kỳ điều khoản của bất kỳ thoả ước nào mà họ có thể ký với đối thủ, họ nghĩ rằng trong cuộc đấu tranh này họ có thể phạm mọi tội ác, có thể nói dối và vu khống.

Về nguyên tắc, bọn phát xít cũng công khai theo đuổi những ý định như thế. Việc họ chưa tự giải thoát hoàn toàn khỏi một số khái niệm và tư tưởng của chủ nghĩa tự do cũng như các quy tắc đạo đức truyền thống như những người Bolshevik ở Nga đã làm là do một nguyên nhân duy nhất sau đây: bọn phát xít hoạt động trong những nước có di sản văn hoá và đạo đức kéo dài đã hàng ngàn năm, không thể phá vỡ ngay được, chứ không phải là chúng đang hoạt động trong các dân tộc bán khai hai bên dãy núi Ural, từ trước đến nay quan hệ của những người đó với nền văn minh cũng chẳng khác gì bọn lục lâm thảo khấu ở trong rừng rậm hay trong sa mạc, thỉnh thoảng lại tấn công cướp bóc những khu vực văn minh.

Do sự khác biệt như thế mà chủ nghĩa phát xít sẽ không bao giờ tự giải thoát hoàn toàn khỏi những tư tưởng của chủ nghĩa tự do, như chủ nghĩa Bolshevik ở Nga đã làm. Chính do những ấn tượng tươi mới của những vụ giết người và bạo hành ở Liên Xô mà bọn phát xít ở Đức và Ý mới có thể xoá bỏ được những ràng buộc mang tính truyền thống về luật pháp và đạo đức và tìm được xung lực cho những hành động đàn áp đẫm máu như thế.

Hành động của bọn phát xít và những đảng tương tự như chúng chính là những phản ứng cảm tính do sự phẫn nộ trước những hành động của những người Bolshevik và cộng sản gây ra. Ngay sau khi cơn giận dữ ban đầu trôi qua, chính sách của chúng sẽ ôn hoà hơn và thậm chí, có thể, cùng với thời gian còn trở nên ôn hoà hơn nữa (Xin nhắc lại rằng tác phẩm này được xuất bản vào năm 1927. Sau này những người theo phái tự do không còn hi vọng hợp tác với bọn phát xít trong cuộc đấu tranh chống cộng nữa – chú thích của bản tiếng Nga – ND).

Thái độ ôn hoà như vậy chính là kết quả của sự kiện là những quan niệm tự do truyền thống tiếp tục tạo được ảnh hưởng một cách vô thức lên nhận thức của bọn phát xít. Dù sao mặc lòng, người ta buộc phải công nhận rằng việc các đảng cánh hữu chấp nhận chiến thuật của bọn phát xít cho thấy: cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tự do đã giành được những thắng lợi mà trước đó mấy năm không ai có thể tưởng tượng được.

Mặc dù cương lĩnh kinh tế của chủ nghĩa phát xít nói chung là phản tự do và chính sách của nó là can thiệp một cách toàn diện, nhưng nhiều người vẫn ủng hộ vì chúng không thi hành chính sách phá hoại vô nghĩa và không có giới hạn nào, một chính sách đã đóng dấu kẻ thù không đội trời chung của nền văn minh lên trán những người cộng sản. Trong khi một số người khác, mặc dù biết rõ những tai hoạ mà chính sách kinh tế phát xít sẽ mang đến cho nhân loại, vẫn coi chủ nghĩa phát xít là một tai hoạ còn dễ chịu hơn là chủ nghĩa cộng sản và chế độ Xô Viết. Nhưng với đa số người ủng hộ và hâm mộ, cả công khai lẫn bí mật, thì sức hấp dẫn của chủ nghĩa phát xít lại chính là những biện pháp đầy bạo lực của nó.

Bây giờ thì không thể nào phủ nhận được rằng biện pháp duy nhất có thể đáp trả được bạo lực chính là bạo lực. Vũ khí phải được sử dụng trong cuộc chiến đấu nhằm chống lại vũ khí của những người Bolshevik và sẽ là sai lầm nếu tỏ ra yếu đối trước bọn sát nhân. Không một người theo trường phái tự do nào lại tỏ ra nghi ngờ chuyện đó. Chiến thuật của những người theo phái tự do khác với chiến thuật của phát xít không phải ở quan niệm về nhu cầu sử dụng vũ lực nhằm chống lại những cuộc tấn công bằng vũ lực mà ở sự khác biệt trong việc đánh giá mang tính nền tảng về vai trò của vũ lực trong cuộc đấu tranh giành quyền lực.

Mối nguy hiểm của chủ nghĩa phát xít đối với chính sách đối nội nằm ở chỗ họ tuyệt đối tin tưởng vào vai trò quyết định của bạo lực. Muốn giành thắng lợi thì phải quyết tâm và luôn luôn sử dụng bạo lực. Đấy là nguyên tắc tối cao của họ. Chuyện gì sẽ xảy ra một khi đối thủ cũng đầy quyết tâm và cũng sẵn sàng sử dụng bạo lực như thế? Kết quả chắc chắn sẽ là chiến tranh, nội chiến. Người chiến thắng cuối cùng sẽ là bên có đông người nhất.

Về lâu dài, phe thiểu số – ngay cả khi đấy là những người có năng lực và nghị lực nhất – cũng không thể thắng được đa số. Như vậy là câu hỏi quyết định nhất vẫn còn nguyên giá trị: làm sao lôi kéo được đa số về phe với mình? Nhưng đây chỉ là vấn đề thuần tuý trí tuệ. Đấy là chiến thắng của trí tuệ chứ không phải là chiến thắng của vũ lực. Muốn người ta gắn bó với đường lối của mình thì đàn áp tất cả các lực lượng đối lập bằng vũ lực là biện pháp hoàn toàn không phù hợp. Sử dụng bạo lực trần trụi – nghĩa là không cần biện hộ bằng những luận cứ được xã hội công nhận – chỉ làm cho những kẻ mà ta muốn đánh có thêm nhiều bạn bè mà thôi. Trong cuộc đấu tranh giữa bạo lực và tư tưởng, tư tưởng bao giờ cũng chiến thắng.

Hiện nay chủ nghĩa phát xít có thể giành chiến thắng vì lòng căm thù những tội ác mà những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa gây ra cho nhân loại đã làm cho nhiều giới có cảm tình với chúng. Nhưng khi ấn tượng tươi mới về tội ác của những người Bolshevik đã phai mờ thì cương lĩnh của chủ nghĩa xã hội sẽ lại có sức hấp dẫn đối với quần chúng. Vì chủ nghĩa phát xít không tiến hành cuộc chiến đấu nhằm đánh bại nó, họ chỉ làm mỗi một việc là đàn áp những tư tưởng xã hội chủ nghĩa và khủng bố những người truyền bá những tư tưởng đó mà thôi. Nếu họ thực sự muốn chiến thắng chủ nghĩa xã hội thì họ phải lấy tư tưởng làm vũ khí để đối địch với nó. Nhưng chỉ có một hệ tư tưởng có thể đối địch một cách hiệu quả với chủ nghĩa xã hội, đấy chính là chủ nghĩa tự do.

Như người ta thường nói, tạo ra thánh tử đạo là cách thúc đẩy sự nghiệp nhanh chóng nhất. Câu đó chỉ đúng một phần. Không phải sự đoạ đầy của những người ủng hộ phe bị đàn áp mà chính là việc nó bị tấn công bằng vũ lực chứ không phải bằng trí tuệ đã làm cho phe đó mạnh lên. Đàn áp bằng vũ lực bạo tàn chính là lời thú nhận về sự bất lực về mặt trí tuệ, trí tuệ là vũ khí hữu hiệu hơn bởi vì chỉ có nó mới có thể hứa hẹn chiến thắng cuối cùng. Đấy chính là sai lầm căn bản của chủ nghĩa phát xít và đấy cũng là nguyên nhân đưa nó đến chỗ sụp đổ.

Chiến thắng của chủ nghĩa phát xít trong một loạt nước chỉ là một giai đoạn trong cuộc đấu tranh lâu dài về vấn đề sở hữu. Giai đoạn sau sẽ là chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh sẽ được giải quyết không phải bằng vũ khí mà bằng tư tưởng. Chính các tư tưởng đã chia người ta thành những nhóm đối chọi với nhau, tư tưởng đã đưa vũ khí vào tay họ, và tư tưởng quyết định vũ khí sẽ được dùng để bảo vệ ai và chống lại ai. Chính tư tưởng, chứ không phải vũ khí, sẽ đưa ra kết quả sau cùng.

Đấy là nói về chính sách đối nội của chủ nghĩa phát xít. Chính sách đối ngoại, dựa trên nguyên tắc sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, không thể không tạo ra những cuộc chiến tranh bất tận, chắc chắn sẽ huỷ diệt toàn bộ nền văn minh hiện nay. Đấy là điều không cần phải thảo luận nữa. Muốn giữ vững và thúc đẩy hơn nữa trình độ phát triển kinh tế thì cần phải bảo đảm nền hoà bình giữa các dân tộc. Nhưng các dân tộc không thể sống trong hoà bình nếu hệ tư tưởng chủ đạo của họ lại là niềm tin rằng các dân tộc phải dũng vũ lực thì mới bảo vệ được vị trí của mình trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới.

Không thể phủ nhận rằng chủ nghĩa phát xít và những phong trào hướng đến việc thiết lập các chế độ độc tài tương tự như thế đều là những phong trào có dự định tốt đẹp nhất và sự can thiệp của chúng trong thời điểm hiện nay đã cứu được nền văn minh châu Âu. Công lao mà chủ nghĩa phát xít đã giành được sẽ còn mãi với lịch sử. Nhưng mặc dù trong thời điểm này, chính sách của nó đã cứu được nền văn minh châu Âu, đấy vẫn không phải là chính sách hứu hẹn sẽ thành công trong dài hạn.

Chủ nghĩa phát xít là biện pháp cấp bách tạm thời. Sẽ là sai lầm chết người nếu coi nó là một cái gì hơn thế. [Hiện nay những dòng này nghe chẳng khác gì sự nhắc nhở về cái giá khủng khiếp mà nền văn minh của chúng ta đã phải trả vì sự mù loà đầy bi kịch của những đại diện đầy uy tín của giới tinh hoa trí thức ở cả phía Đông lẫn phía Tây châu Âu – chú thích của bản tiếng Nga – ND].

Giới hạn hoạt động của chính phủ

Người theo trường phái tự do cho rằng nhiệm vụ của nhà nước chỉ và dứt khoát chỉ là bảo đảm việc giữ gìn đời sống, sức khoẻ, tự do và sở hữu tư nhân khỏi những cuộc tấn công bằng bạo lực mà thôi. Ngoài những cái đó ra đều là không tốt. Chính phủ, thay vì thực hiện nhiệm vụ của mình, lại đi xa đến mức, thí dụ, như can thiệp vào sự an toàn về cuộc sống và sức khoẻ, tự do và tài sản của cá nhân, dĩ nhiên là hoàn toàn không tốt.

Nhưng, như Jacob Burckhardt đã nói: quyền lực tự nó đã là xấu, ai sử dụng không quan trọng. Quyền lực có thể làm băng hoại người cầm quyền và dẫn đến lạm dụng. Không chỉ những ông vua và những nhà quý tộc nắm quyền tuyệt đối, mà quần chúng, khi chế độ dân chủ giao vào tay họ quyền lực tối cao của chính phủ, cũng rất dễ có xu hướng thái quá.

Ở Mĩ việc sản xuất và buôn bán rượu bị cấm đoán. [Ý nói đến điều luật gọi là “luật khô” ở Mĩ –chú thích của bản tiếng Nga – ND]. Những nước khác không đi xa đến như thế, nhưng hầu như ở đâu cũng có những hạn chế đối việc mua bán thuộc phiện, cocaine, và những loại ma tuý khác. Có vẻ như ở đâu người ta cũng cho rằng một trong những nhiệm vụ của ngành lập pháp và chính phủ là bảo vệ cá nhân khỏi chính anh ta. Ngay cả những người, mà trong những lĩnh vực khác thường lo ngại về sự mở rộng lĩnh vực hoạt động của chính phủ, cũng cho rằng về khía cạnh này, quyền tự do cá nhân bị ngăn chặn là đúng, thậm chí họ còn nghĩ rằng chỉ có những lý thuyết gia cố chấp ngu ngốc mới có thể phản đối những cấm đoán như thế.

Trên thực tế, việc can thiệp kiểu như thế của chính quyền vào đời sống cá nhân được chấp nhận rộng rãi đến mức những người chống đối chủ nghĩa tự do có xu hướng xây dựng lý lẽ và rút ra kết luận rằng tự do tuyệt đối là không tốt và chính phủ, trong vai trò người bảo vệ hạnh phúc, cần phải có một số biện pháp ngăn chặn đối với quyền tự do cá nhân. Người ta không hỏi chính phủ có phải ngăn chặn quyền tự do cá nhân hay không, người ta chỉ hỏi những biện pháp ngăn chặn có thể đi xa đến mức nào mà thôi.

Không cần phí lời để bàn về sự kiện là tất cả các loại ma tuý đều có hại. Câu hỏi là một ít rượu có có hại hay không hay chỉ có hại khi rượu bị lạm dụng cũng không phải là vấn đề cần thảo luận ở đây. Sự kiện đã được xác định là nghiện rượu, nghiện cocaine, nghiện morphine rất có hại cho đời sống, sức khoẻ, khả năng lao động và nghỉ ngơi và vì vậy mà những người theo chủ nghĩa công lợi phải coi đấy là những tệ nạn. Nhưng như thế không có nghĩa là chính phủ phải ngăn chặn những tệ nạn này bằng cách cấm buôn bán chúng.

Chưa có gì chứng tỏ rằng sự can thiệp của chính phủ có thể ngăn chặn được những thói xấu đó, và ngay cả có ngăn chặn được thì điều đó cũng không có nghĩa là nó không mở cái hòm Pandora và từ đó không xuất hiện những mối hiểm nguy còn khủng khiếp hơn là tệ nghiện rượu và nghiện morphine.

Không ai cản trở những người cho rằng sử dụng hay lạm dụng những chất độc đó là có hại được sống một cách chừng mực và điều độ. Không nên coi vấn đề này chỉ liên quan đến tệ nghiện rượu, nghiện morphine và cocaine ..v..v.. mà ai cũng biết là không tốt rồi. Vì nếu về nguyên tắc, đa số các công dân có quyền áp đặt lối sống của mình cho thiểu số thì việc cấm đoán sẽ không dừng lại ở rượu, morphine, cocaine và những chất độc hại tương tự khác.

Tại sao có thể cấm các chất đó mà không cấm nicotine, caffeine và những chất tương tự khác? Tại sao chính phủ lại không quy định có thể ăn loại thức ăn nào, không nên ăn loại thức ăn nào vì đấy là thức ăn có hại? Trong lĩnh vực thể thao nhiều người có xu hướng làm quá sức mình. Tại sao chính phủ không can thiệp trong lĩnh vực này?

Ít người biết cách kiềm chế trong đời sống tình dục, và có vẻ như những người già yếu không chịu hiểu rằng họ nên chấm dứt hoàn toàn thú vui này hoặc chỉ nên vừa phải thôi. Chính phủ có cần can thiệp không? Một số người có thể nói rằng đọc sách báo độc hại còn nguy hiểm hơn những thứ đó nữa.

Có cho phép xuất bản những loại sách báo chuyên thoả mãn những bản năng thấp hèn của con người để rồi chúng sẽ làm băng hoại tâm hồn họ hay không? Có nên cấm tranh ảnh khiêu dâm, những vở kịch đồi truỵ và tóm lại là tất cả những gì có thể lôi kéo người ta vào con đường vô đạo hay không? Và việc truyền bá những lý thuyết xã hội học sai lầm có làm bại hoại con người và các dân tộc hay không? Kích động nội chiến và chiến tranh giữa các dân tộc có bị cấm đoán hay không? Những tác phẩm báng bổ lỗ mãng và những câu chuyện hồ đồ làm hại đến thanh danh của Chúa và Nhà thờ có bị cấm hay không?

Như chúng ta đã thấy, chỉ cần từ bỏ nguyên tắc nói rằng chính phủ không được can thiệp vào bất cứ vấn đề nào liên quan đến cách sống của cá nhân là chúng ta sẽ tiến dần đến việc điều tiết và ngăn cấm cả những tiểu tiết nhỏ nhặt nhất. Quyền tự do cá nhân sẽ bị huỷ bỏ. Cá nhân sẽ trở thành nô lệ của cộng đồng, phải tuân theo mệnh lệnh của đa số. Chẳng cần phải nói thêm nữa về cách thức mà những kẻ cầm quyền chẳng ra gì có thể lạm dụng quyền lực ở đây. Khi đã nắm được quyền lực như thế, ngay cả những người có những ý định tốt nhất cũng chắc chắn sẽ biến thế giới thành nghĩa địa của tâm hồn.

Toàn bộ nền văn minh nhân loại là kết quả của những sáng kiến của thiểu số nhỏ bé, những người đầu tiên xa rời tư tưởng và tập quán của đa số, sau đó đa số mới chấp nhận sáng kiến của họ. Cho đa số quyền hạ lệnh cho thiểu số nghĩ gì, đọc gì và làm gì đồng nghĩa với việc đặt dấu chấm hết, một lần và vĩnh viễn, cho sự tiến bộ.

Chớ nên nói rằng cuộc đấu tranh chống việc lạm dụng morphine và cuộc đấu tranh chống văn hoá phẩm “đồi truỵ” là hai việc khác nhau. Khác biệt duy nhất giữa chúng là một số trong chính những người ủng hộ cuộc đấu tranh chống lạm dụng morphine không đồng ý chống văn hoá phẩm “đối truỵ”, chỉ có thế thôi.

Ở Mĩ, những người theo trường phái giám lý và những người chính thống trong giáo hội Thiên chúa giáo, sau khi thông qua được luật chống sản xuất và buôn bán rượu đã tiếp tục đấu tranh nhằm đàn áp thuyết tiến hoá và đã đẩy được thuyết Darwin ra khỏi trường học trong một loạt tiểu bang. Ở nước Nga Xô Viết mọi biểu hiện của tự do phát biểu đều bị cấm đoán. Việc một cuốn sách nào đó có được xuất bản hay không phụ thuộc vào thái độ tuỳ tiện của một loạt những kẻ cuồng tín ít học và vô văn hoá được chính phủ giao cho trách nhiệm về vấn đề này.

Những người đương thời với chúng ta có xu hướng đòi chính phủ cấm đoán ngay lập tức những thứ không làm họ hài lòng và việc họ sẵn sàng chấp nhận những cấm đoán như thế ngay cả khi đấy là những thứ phù hợp với họ chứng tỏ rằng tinh thần nô lệ đã ăn sâu bén rễ trong lòng người ta đến mức nào. Cần phải nhiều năm tự học thì một người nô lệ mới có thể trở thành công dân tự do. Người tự do phải biết chịu đựng khi những người đồng bào với mình hành động và sống khác với cách mà anh ta cho là đúng đắn. Anh ta phải bỏ thói quen gọi cảnh sát mỗi khi thấy điều gì đó không vừa ý với mình.

Lòng khoan dung

Chủ nghĩa tự do chỉ và tuyệt đối chỉ quan tâm đến đời sống trần tục và những lo lắng trần tục mà thôi. Vương quốc tôn giáo không nằm trong thế giới này. Nghĩa là chủ nghĩa tự do và tôn giáo có thể sống bên nhau mà không hề va chạm với nhau. Chủ nghĩa tự do không có lỗi khi hai phía xảy ra đụng độ. Chủ nghĩa tự do không đi ra ngoài lĩnh vực của mình, nó không xâm nhập vào lãnh thổ của đức tin hay lãnh địa của các học thuyết mang tính siêu hình. Nhưng nó đã đụng độ với nhà thờ, tức là thế lực chính trị đòi quyền điều tiết không chỉ quan hệ của con người với thế giới bên kia mà còn điều tiết cả công việc của thế giới này theo quan điểm của nó. Đấy chính là chiến tuyến giữa hai bên.

Trong cuộc xung đột này, chủ nghĩa tự do giành được chiến thắng vang dội đến mức nhà thờ đã phải vĩnh viễn từ bỏ những yêu sách mà họ đã kiên quyết duy trì trong hàng ngàn năm. Thiêu sống những người dị giáo, khủng bố của toà án giáo hội, chiến tranh tôn giáo, hôm nay đấy đã là những hiện tượng thuộc về lịch sử. Hiện nay không ai có thể hiểu làm sao mà những con người hoà nhã, những người chỉ thực hành những nghi lễ tôn giáo mà họ cho là đúng đắn trong bốn bức tường nhà mình lại bị lôi ra toà, bị tống giam, bị tra tấn và thiêu sống. Nhưng ngay cả khi không còn những đống củi thiêu người nữa ad majorem Dei gloriam [lạy chúa tôi – tiếng Latinh- ND] thì thái độ bất khoan dung cũng vẫn còn hiện diện khắp nơi.

Nhưng chủ nghĩa tự do phải tỏ ra bất khoan dung với bất kỳ biểu hiện bất khoan dung nào. Nếu ta cho rằng sự hợp tác hoà bình giữa tất cả mọi người là mục đích của sự phát triển xã hội thì ta không thể cho phép các cố đạo và những kẻ cuồng tín phá hoại hoà bình được. Chủ nghĩa tự do tuyên bố có thái độ khoan dung với mọi đức tin tôn giáo và mọi học thuyết có tính siêu hình không phải vì nó bàng quan với những vấn đề “cao siêu” này, mà từ niềm tin rằng bảo đảm hoà bình trong xã hội phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.

Và vì nó đòi hỏi lòng khoan dung đối với tất cả các quan điểm, tất cả các nhà thờ, tất cả các giáo phái nên nó cũng phải kêu gọi tất cả đều phải trở về những giới hạn phù hợp mỗi khi họ có thái độ bất khoan dung. Trong chế độ xã hội dựa trên sự hợp tác hoà bình, không có chỗ cho đòi hỏi của nhà thờ về việc giáo huấn và giáo dục thanh niên. Nhà thờ có thể và phải được nhận tất cả những thứ mà tín đồ tự nguyện cung cấp cho họ, nhưng họ cũng không được động đến bất cứ thứ gì của những người không muốn dây dưa với họ.

Thật khó mà hiểu làm sao mà những nguyên tắc này lại làm cho một số người có đạo trong các tôn giáo khác nhau trở thành kẻ thù của chủ nghĩa tự do. Nếu những nguyên tắc này không cho phép nhà thờ buộc người ta phải cải đạo bằng bạo lực, dù đấy là bạo lực của họ hay của nhà nước giao cho họ, thì những nguyên tắc này cũng bảo vệ nhà thờ chống lại việc ép buộc các tín đồ của họ cải đạo sang các nhà thờ khác và giáo phái khác. Cái mà chủ nghĩa tự do lấy của nhà thờ bằng tay này thì lại trả nhà thờ bằng tay kia. Ngay cả những kẻ cuồng tín tôn giáo cũng phải thừa nhận rằng chủ nghĩa tự do không lấy đi bất cứ thứ gì thuộc lĩnh vực của nhà thờ.

Chắc chắn là ở đâu mà họ giữ thế thượng phong thì nhà thờ và các giáo phái sẽ tìm mọi cách đàn áp những người không quy phục, nhưng nếu là thiểu số thì họ sẽ đòi phải có thái độ khoan dung đối với họ. Nhưng đòi hỏi sự khoan dung của chủ nghĩa tự do khác hẳn với đòi hỏi khoan dung như thế. Chủ nghĩa tự do đòi hỏi khoan dung là vấn đề nguyên tắc chứ không phải là chủ nghĩa cơ hội.

Nó đòi hỏi lòng khoan dung đối với ngay những học thuyết vô nghĩa lý nhất, với những tín ngưỡng ngu ngốc nhất và trẻ con nhất. Nó đòi hỏi lòng khoan dung đối với những học thuyết và quan điểm mà nó cho là có hại và có tính phá hoại đối với xã hội và ngay cả với những phong trào mà nó đang chiến đấu một cách không mệt mỏi. Điều thúc đẩy chủ nghĩa tự do đòi hỏi và tỏ thái độ khoan dung không phải là nội dung của học thuyết cần phải khoan dung mà chính là nhận thức rằng chỉ có lòng khoan dung mới có thể tạo lập và giữ vững được nền hoà bình trong xã hội, không có nó thì xã hội loài người có thể rơi trở lại thời kỳ dã man và cảnh cơ hàn của những thế kỷ đã qua từ lâu.

Chủ nghĩa tự do đấu tranh chống lại những điều ngu dốt, vô lý, sai lầm và độc ác bằng vũ khí của trí tuệ chứ không phải bằng bạo lực hung tàn và đàn áp.

Nhà nước và hành động phản xã hội

Nhà nước là bộ máy cưỡng bức và bạo lực. Điều đó đúng không chỉ đối với “nhà nước tuần đêm” mà còn đúng cho bất kỳ nhà nước nào, và đúng nhất đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tất cả những gì nhà nước có thể làm đều được nó làm bằng cách cưỡng bức và dùng vũ lực. Đàn áp những hành vi nguy hiểm cho trật tự xã hội là bản chất hoạt động của nhà nước; ngoài ra, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nó còn kiểm soát cả các tư liệu sản xuất nữa.

Những người Roma có đầu óc tỉnh táo đã thể hiện điều đó bằng hình vẽ một cái búa và bó roi trên biểu tượng của quốc gia. Trong thời đại ngày nay chủ nghĩa thần bí cực kỳ khó hiểu, tự gọi mình là triết học, đã tìm mọi cách nhằm che dấu sự thật của vấn đề. Đối với Schelling thì nhà nước là hình ảnh trực tiếp và có thể nhìn thấy được của đời sống xác thực, là một giai đoạn trong quá trình khám phá cái Tuyệt Đối hay là Tinh Thần Thế Giới.

Nhà nước tồn tại vì mục đích của chính nó, và hoạt động của nó cũng chỉ nhằm giữ vững bản chất và hình thức tồn tại của nó mà thôi. Đối với Hegel thì Lý Trí Tuyệt Đối tự thể hiện mình trong nhà nước, và Tinh Thần Khách Quan cũng được thực hiện trong nhà nước. Đấy là trí tuệ đầy đức hạnh phát triển thành hiện thực hữu cơ – tức là hiện thực và ý tưởng đạo đức được biểu hiện ra như là ý chí đã được vật chất hoá, có thể nhận thức được đối với chính nó. Các đồ đệ của triết học duy tâm chủ nghĩa đã vượt ngay cả các sư phụ của mình trong việc sùng bái nhà nước.

Chắc chắn là những người cùng với Nietzsche, nhằm phản ứng lại những học thuyết nói trên và những học thuyết tương tự như thế, gọi nhà nước là con quái vật lạnh lùng nhất cũng chẳng đền gần chân lý hơn. Nhà nước chẳng lạnh cũng chẳng nóng vì nó là một khái niệm trừu tượng và những người đang sống – các tổ chức của nhà nước, chính phủ – thay mặt nó mà hành động. Toàn bộ hoạt động của nhà nước đều là hành động của con người, là cái ác do con người tự tạo ra cho nhau. Mục đích của nhà nước – tức là duy trì trật tự xã hội – biện hộ cho hành động của các cơ quan nhà nước, nhưng những người bị tác động thì không vì thế mà cảm thấy cái ác là dễ chịu hơn.

Cái ác mà người nọ gây ra cho người kia làm cả hai đều bị tổn thương – không chỉ người bị làm ác mà cả kẻ gây ra cái ác cùng bị đau khổ. Không gì có thể làm cho người ta thoái hoá nhanh hơn là khi họ trở thành phương tiện thi hành pháp luật và làm cho người khác bị đau khổ. Số phận của thần dân là phải lo lắng, là tinh thần nô lệ và thái độ nịnh bợ; thái độ cao ngạo đạo đức giả, kiêu căng của ông chủ cũng chẳng có gì hay ho hơn.

Chủ nghĩa tự do tìm cách giảm nhẹ mức độ cay đắng trong quan hệ giữa cơ quan chính chính phủ và công dân. Dĩ nhiên là trong khi làm như thế nó sẽ không bước vào vết chân của những người lãng mạn, tức là những người biện hộ cho những hành vi phản xã hội của những người vi phạm pháp luật và lên án không chỉ quan toà và cảnh sát mà còn lên án cả trật tự xã hội nữa. Chủ nghĩa tự do không muốn và không thể phủ nhận rằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước và sự trừng phạt theo đúng pháp luật những kẻ tội phạm là những định chế mà xã hội không bao giờ – dù hoàn cảnh có như thế nào – bãi bỏ được.

Nhưng người theo chủ nghĩa tự do tin rằng mục đích của trừng phạt là loại bỏ những hành vi có hại cho xã hội, đấy là nói khi có điều kiện. Trừng phạt không được có tính thù hận hay trả đũa. Kẻ tội phạm phải nhận sự trừng phạt của pháp luật chứ không phải là do lòng thù hận hay sự tàn bạo của quan toà, của cảnh sát hay đám đông khao khát đàn áp.

Tai hoạ lớn nhất của lực lượng cưỡng bức tự coi mình là người “đại diện cho nhà nước” là nó trực tiếp tấn công vào những sáng kiến mới xuất hiện vì cuối cùng thì bao giờ nó cũng cần sự đồng thuận của đa số. Xã hội loài người không thể sống thiếu bộ máy nhà nước, nhưng loài người lại phải chống lại sự phản kháng và chống đối của nhà nước và bộ máy cưỡng chế của nó thì mới tiến bộ được. Không có gì ngạc nhiên khi tẩt cả những người có cái mới để trình bày với nhân loại đều không thể nói được bất cứ điều gì tốt đẹp về nhà nước và luật pháp của nó.

Những người theo chủ nghĩa quốc gia thần bí và những người sùng bái nhà nước có thể phản đối họ; nhưng những người theo trường phái tự do thì ủng hộ họ, ngay cả khi không đồng ý với họ. Nhưng mọi người theo trường phái tự do đều phải chống lại sự ác cảm có thể hiểu được với tất cả những gì liên quan tới cảnh sát và cai tù, đấy là nói khi thái độ đó trở thành kiêu căng quá đáng và tự tuyên bố là quyền nổi loạn chống lại nhà nước. Phản kháng bằng bạo lực chống lại sức mạnh của nhà nước phải được coi là biện pháp cuối cùng của phe thiểu số nhằm thoát ra khỏi sự áp bức của đa số.

Thiểu số cần phải sử dụng trí thức làm vũ khí trong cuộc đấu tranh để trở thành phe đa số. Nhà nước cần phải được xây dựng như thế nào đó để trong khuôn khổ pháp luật của nó có những chỗ trống cho phép cá nhân được tự do di chuyển trong đó. Hoạt động của người công dân không bị thu hẹp một cách quá đáng đến mức khi quan điểm của anh ta khác với nhà cầm quyền thì anh ta chỉ còn lựa chọn: lật đổ bộ máy nhà nước hay là chết.

 

Phm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

 

20 câu nói của người đàn bà thép Margaret Thatcher

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Giới thiệu: Khi nói về sự ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo thế giới trong việc chống lại chủ nghĩa tập trung tập thể (chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội), không có một lãnh đạo nào có thể qua mặt được Ronald W. Reagan (Tổng Thống Mỹ 1981-1989) và bà Margaret Thatcher (Thủ Tướng Anh 1979-1990). Cặp đôi này là là hai nhà lãnh đạo mạnh miệng phản đối chủ nghĩa tập trung tập thể nhất. Sự mạnh miệng cũng như chính sách kinh tế tự do và chính sách quốc phòng chủ động của bà đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Bang Soviet và có thể nói là gián tiếp áp lực đảng Cộng Sản Việt Nam và các nước Cộng Sản khác phải thay đổi chính sách.


 

Xin mời các bạn đọc 20 câu nói của Margaret Thatcher, một biểu tượng của Anh Quốc. Tôi xin bắt đầu với câu nói nổi tiếng nhất của bà. Thật đáng tiếc là trong thời buổi hiện tại, gần như không có một nhà lãnh đạo tầm cỡ nào có đủ can đảm như bà.

1. Vấn đề với chủ nghĩa xã hội là đến một lúc nào đó nó sẽ tiêu hết tiền của người khác.

2. Tranh luận về khoảng cách giàu nghèo: “Khi họ nói về khoảng cách giàu và nghèo, ý của họ là họ muốn khoảng cách đó được thu nhỏ, nghĩa là họ thà muốn mọi người trở nên nghèo hơn. Đó không phải là cách tạo sự thịnh vượng và cơ hội.”

3. Nếu mục đích của bạn là làm người khác thích bạn, bạn phải chuẩn bị thỏa thuận với nguyên tắc của mình và sẽ không đạt được gì cả (trong chính trị).

4. Trước tiên bạn thắng cuộc tranh luận, sau đó bạn thắng cuộc bầu cử.

5. Đừng đi theo đám đông, hãy để đám đông đi theo bạn.

6. Trong chính trị, nếu bạn muốn ai nói một điều gì đó, hãy nhờ một người đàn ông. Còn nếu bạn muốn thực hiện một điều gì đó, hãy nhờ một người phụ nữ.

7. Bất cứ một người phụ nữ nào thấu hiểu những vấn đề nội trợ sẽ có đủ sự hiểu biết về những vấn đề trong việc điều hành một quốc gia.

8. Một trong những vấn đề lớn nhất trong thời đại chúng ta là chúng ta bị quản lý bởi một nhóm người quan tâm tới cảm xúc hơn là lý tưởng và ý tưởng.

9. Bạn phải đánh một trận đánh hơn một lần nếu muốn thắng nó.

10. Thất bại? Tôi không hiểu ý nghĩa có chứ đó.

11. Tôi rất thích lý luận. Tôi rất thích tranh luận. Tôi không yêu cầu mọi người phải ngồi yên và đồng ý với tôi – đó không phải là công việc của họ.

12. Châu Âu được tạo ra bởi lịch sử. Nước Mỹ được tạo ra bởi triết lý.

13. Đối với tôi, thỏa thuận có nghĩa là rời bỏ những lý tưởng, nguyên tắc, giá trị và chính sách của mình.

14. Những người tin vào chủ nghĩa xã hội rất hạnh phúc cho đến khi họ tiêu hết tiền của người khác.

15. Có rất nhiều điểm khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản của Mỹ và Châu Âu. Người Mỹ coi trọng sự giới hạn của chính phủ, quy định tối thiểu, thuế thấp và sự tự do tối đa trong thị trường lao động. Sự thành công của họ đã được chứng minh bằng khả năng tạo công ăn việc làm, một điều mà họ làm tốt hơn Châu Âu.

16. Không có khái niệm nào gọi là xã hội: chỉ có khái niệm đàn ông, đàn bà và gia đình.

17. Tinh thần ghen ăn tức ở chỉ có thể hủy diệt, chứ không thể nào xây dựng.

18. Khi con người được quyền chọn lựa, họ sẽ chọn tự do.

19. Những quốc gia nào đã nhắm đến sự công bằng, như những quốc gia cộng sản, đều không có tự do hoặc công lý hay sự công bằng. Họ có những sự bất công bằng nhất, những quyền lợi của các nhà lãnh đạo xứ đó luôn cao hơn của người dân. Những quốc gia đã nhắm đến tự do, công lý và sự độc lập của người dân vẫn có tự do và công lý, và họ có nhiều sự công bằng và tôn trọng lẫn nhau hơn những người dân ở các quốc gia khác. Hãy đi cùng với tôi. Bạn sẽ có tự do và công lý và ít sự khác biệt hơn giữa con người với con người hơn là ở Liên Bang Soviet.

20. Những người theo chủ nghĩa xã hội phải luôn tốn thời gian để tìm tiêu đề khác cho chủ nghĩa của họ, vì những giá trị đó luôn bị chứng minh ngược lại và trở thành lỗi thời.

 

Ku Búa

Lảm nhảm về Hộ Chiếu, Thị Thực và Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam

Giới thiệu: Bài viết này nói về những sự vô lý, dị hợm và văn hóa đầu tiên tiền đâu ở các Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam (TLSQ) trên thế giới. Tôi chỉ viết ngắn gọn để khỏi gây nhàm chán vì nếu viết đầy đủ thì sẽ thành một cuốn sách.


 

Lảm nhảm về TLSQ Việt Nam

  1. TLSQ Việt Nam cũng như các cơ quan hành chính khác trong bộ hành chính của đảng cộng sản Việt Nam. Tác phong làm việc chậm chạp rườm rà, nhân viên làm việc với văn hóa vô giáo dục – nói thẳng ra là mất dạy. Cũng như các cơ quan khác, nó có quy luật đầu tiên tiền đâu. Chuyện lạm thu phí là chuyện bình thường như văn hóa.
  2. Xin các đồng hương, những người con xa xứ thông cảm. Để vô làm ở những chỗ có máy lạnh như vậy thì ngoài việc xét ba đời thì phải chạy chọt. Đã tốn mấy trăm triệu mà lương thì chỉ vài trăm USD thì họ phải tìm cách lấy lại vốn để nuôi gia đình. Đổ lỗi cho ai đây?
  3. TLSQ Việt Nam là một trong những nơi mà người Việt xa quê ghét nhất. Nhiều TLSQ không công khai số điện thoại vì sợ mấy cô chú cực đoan gọi tới chửi.
  4. TSLQ và Đại Sứ Quán Việt Nam ở những nước có đông người Việt tỵ nạn như Úc, Mỹ, Đức, Pháp, năm nào vào ngày 30/4 cũng là nơi để tụ họp biểu tình chống cộng. Năm nào mấy anh chị nhân viên cũng nghe kiều bào ta vẫy cờ vang và hô “đả đảo cộng sản”.
  5. Nhân viên hầu hết là người bắc, dân nam làm gì có cửa vô? Cái này có nên nói không ta, lỡ nói rồi, kệ.

Hộ Chiếu Việt Nam và Hộ Khẩu

Ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, trừ ba cường quốc cộng sản – đó là Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Hàn – Hộ Chiếu là loại giấy tờ tùy thân có nhiều quyền hành chính nhất. Nó chứng minh bạn là một công dân của một đất nước được công nhận trên toàn cầu. Nó là một thứ phải có nếu muốn qua cửa xuất nhập cảnh. Bạn có thể dùng nó để làm giấy tờ mua nhà, làm bằng lái xe hoặc các hồ sơ hành chính khác. Nhưng ở ba cường quốc cộng sản thì Hộ Chiếu thật sự không có cơ sở hay quyền hành chính gì nếu không có Sổ Hộ Khẩu.

Rất nhiều người, nhất là những người nước ngoài gốc Việt (gọi là Việt Kiều), thường nhầm lẫn và cứ tưởng có Hộ Chiếu Việt Nam là có thể mua nhà, mua xe hay làm giấy tờ ở Việt Nam. Đó là một sai lầm trầm trọng ở xứ thiên đường này. Ở Việt Nam muốn được công nhân là một công dân thì phải có Hộ Khẩu. Mà muốn có Hộ Khẩu thì phải có nhà để làm Hộ Khẩu. Từ Hộ Khẩu Công An làm Chứng Minh Nhân Dân (CMND). Lúc đó bạn mới là công dân Việt Nam, mấy anh chị Công An gọi là Thường Trú.

Sự dị hợm của quy luật này có một không hai trên thế giới. Đã có Hộ Chiếu, nghĩa là mình là công dân của một nước, trong trường hợp này là Việt Nam, thì tại sao phải cần Hộ Khẩu để làm giấy tờ? Cái logic này nằm ngoài sự hiểu biết của tôi, tôi hiểu tại sao tôi chết liền. Ở Việt Nam là vậy đó.

Làm thế nào để có được Hộ Chiếu Việt Nam?

  1. Nếu ở Việt Nam, bạn phải tới Phòng Xuất Nhập Cảnh (thuộc Bộ Công An) Tỉnh hoặc Thành Phố thuộc nơi thường trú (đăng ký Hộ Khẩu) để xin làm Hộ Chiếu. Nếu bạn có Hộ Khẩu Vũng Tàu nhưng đang sinh sống ở Sài Gòn, bạn phải chạy về Vũng Tàu, cầm cái Hộ Khẩu lên phòng Xuất Nhập Cảnh để xin. Nếu muốn làm ở Sài Gòn phải có Sổ KT3 (tạm trú dài hạn).
  2. Nếu bạn sinh ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam với cha hoặc mẹ có quốc tịch Việt Nam, dựa theo luật bạn đã tự động trở thành một công dân Việt Nam. Cha mẹ bạn đến Đại Sứ Quán hoặc TLSQ Việt Nam ở nước ở tại để xin làm Hộ Chiếu Việt Nam.
  3. Nếu bạn sinh ở ngoài Việt Nam nhưng cha mẹ không làm Hộ Chiếu cho bạn khi sinh thì bạn vẫn có thể làm nếu chứng minh được nguồn gốc Việt Nam của mình. Nghĩa là có gì đó chứng minh mẹ hay cha bạn là công dân Việt Nam.
  4. Nếu bạn sinh ra ở Việt Nam trước năm 1975 (Việt Nam Cộng Hòa), đi việt biên với hai bàn tay trắng, không có giấy tờ tùy thân, thì hơi khó làm. Cái này nằm ngoài tầm hiểu biết của mình.

Giá trị của Hộ Chiếu Việt Nam

Cầm trên tay Hộ Chiếu màu xanh bạn có thể đi du lịch các nước Đông Nam Á mà không cần xin thị thực. Nhưng nếu muốn đi những nước còn lại trên thế giới thì phải tới TLSQ xin thị thực trước. Dựa theo thống kê của công ty Henley & Partners Holding, Hộ Chiếu Việt Nam được miễn thị thực vào 45 quốc gia, thua cả Lào (46 nước) và Campuchia (47 nước). Với hạng 81 trên 93 (trên tổng cộng 213 quốc gia và lãnh thổ), Hộ Chiếu Việt Nam được xếp áp chót bảng về giá trị. Dù giá trị áp chót nhưng phí để làm Hộ Chiếu Việt Nam nằm trong top.

10 trong vô số câu chuyện về Hộ Chiếu và Thị Thực Việt Nam:

  1. Hồi mình đang ở Sydney du học, Hộ Chiếu của mình sắp hết hạn nên mình tới TLSQ Việt Nam ở Sydney để làm cái mới. Theo quy định thì chỉ trả $80, hai tuần sau tới nhận. Nhưng chị nhân viên nói nhỏ: “Em đưa $200 thì mai có liền.” Mình từ chối thế là nét mặt tươi cười trở thành nhăn nhó.
  2. Tôi biết một chú kia ở Úc làm kinh doanh nên đi về Việt Nam thường xuyên. Vì thị thực kinh doanh (business visa) hơi phiền phức nên tới TLSQ Việt Nam ở Sydney xin cái Hộ Chiếu Việt Nam. Tốn $500 (không đùa), Hộ Chiếu Việt Nam giá trị nhất thế giới đấy nhá. Ông ta khi về Việt Nam muốn mua một căn nhà thì người ta không chịu, bắt ông ta phải đưa Hộ Khẩu, không có thì không làm gì được. Cái này vô lý, đã có Hộ Chiếu Việt Nam, nghĩa là mình là công dân Việt Nam thì cần cái Hộ Khẩu để làm gì?.
  3. Một anh bạn người Mỹ gốc Việt (sinh ra ở Mỹ, cha mẹ việt biên, nên không có Hộ Chiếu Việt Nam) đi tới TLSQ Việt Nam ở San Francisco với người bạn Mỹ để xin thị thực du lịch vào Việt Nam. Nhân viên TLSQ đó nói với anh ta “phải mất 2 tuần em nhá, nếu em muốn nhanh thì em trả phí làm gấp, vài tiếng sau sẽ có liền”. Anh ấy tốn $45. Nhưng chưa xong, đó là anh ta, còn anh bạn người Mỹ của anh ta thì tốn $90 với lý do “bạn em phải tốn nhiều hơn vì bạn em là người nước ngoài”. Một cách làm tiền ngu không thể tả.
  4. Một chị Việt Nam cùng chồng người Bỉ tới TLSQ Việt Nam ở Bỉ làm giấy khai sinh và Hộ Chiếu cho con thì bị nhân viên hành tới lui 4 tháng trời mới có. Trong khi theo quy định thì chỉ mất 5 ngày làm việc. Đã vậy còn lạm thu gấp 2-3 lần phí quy định. Việc này đã được lên báo và làm rùm beng trên Facebook.
  5. Cầm cái Hộ Chiếu màu xanh Việt Nam đi đâu cũng bị thiên hạ soi mói. Một năm mình bay trên dưới 10 lần nên thấy tận mắt cách đối xử của nhân viên cửa khẩu với những ai cầm Hộ Chiếu Việt Nam. Vừa rồi mình đi Mã Lai chơi. Mấy người Tây chỉ mất 30 giây, họ quẹt cái Hộ Chiếu là cho qua. Những người khác như Nhật, Hàn thì lâu hơn chút, nhưng quá lắm 1-2 phút. Còn tới phiên ai cầm Hộ Chiếu Việt Nam thì mất tới 5 phút. Người ta hỏi mấy câu như: “Vé khứ hồi đâu?” “Ở khách sạn ở đâu?” “Đi với ai?”. Tôi hổ thẹn lắm.
  6. Anh bạn Tây của mình đang dạy tiếng Anh ở Sài Gòn, cứ 3 tháng là chạy sang Campuchia để làm mới lại thị thức. Còn không thì tới mấy công ty dịch vụ du lịch tốn $50 USD. Muốn ở dài hạn ở xứ này phải tốn cái phí quỷ này. Đây là cách chính phủ Việt Nam thu hút chất xám quốc tế?
  7. Cái Hộ Chiếu Việt Nam mình hình như kém chất lượng hay sao đó. Cái Hộ Chiếu nước người ta quẹt máy 1 lần là xong. Còn cái của mình phải quẹt 4-5 lần. Không phải mình tôi đâu, tôi hỏi mấy người khác họ cũng nói y chang.
  8. Một trong những điều làm du lịch Việt Nam kém cạnh tranh với các nước trong khu vực là thủ tục xin thị thực quá rườm rà. Nếu bạn là công dân xứ khác ngoài những nước được miễn thì phải nộp đơn, đưa Hộ Chiếu cho công ty du lịch hoặc tới TLSQ Việt Nam, chờ vài ngày hoặc hơn 1 tuần thì mới lấy lại được. Đã vậy còn tốn $45 phí thị thực. Cái nước này nó xinh đẹp tới độ phải tính tiền người ta từ vòng xin thị thực sao? Một suy nghĩ nông cạn và ngu dốt.
  9. Các bạn nữ Việt Nam nào xinh xinh với thân hình bốc lửa một chút, đi du lịch sang Singapore hay Mã Lai với vé khứ hồi cách xa ngày đi hơi lâu thì sẽ được nhân viên cửa khẩu mời vào phòng riêng phỏng vấn. Tại dạo này nhiều chị em Việt Nam qua bên đó làm ”nghề” quá. Lạm dụng thị thực du lịch hành nghề rồi chạy về nước nên mấy chị em trong sạch bị ảnh hưởng.
  10. Mình lấy chồng Nhật, khi đủ thời hạn nhập quốc tịch Nhật thì phải từ bỏ quốc tịch Việt Nam, nghĩa là bỏ Hộ Chiếu. Phải mất hơn 1 năm trời mới làm xong.

Cái Hộ Chiếu Việt Nam có giá lắm nên mấy bạn có đi nước ngoài thì làm ơn đừng đánh mất nhé. Mất thì khổ lắm.

 

Ku Búa

10 lý do vì sao 80% du khách nước ngoài một đi không bao giờ trở lại Việt Nam

Featured Image: All Free Photo

 

Lời giới thiệu

Bài viết này được dựa trên những lời phê bình của các du khách trong và ngoài nước về trải nghiệm của họ khi đi du lịch ở Việt Nam. Hiện tại 80 đến 90% du khách quốc tế nói sẽ không trở lại Việt Nam sau khi đến đây du lịch. Trên các diễn đàn du lịch luôn tràn ngập những phàn nàn, cái nhìn thiếu thiện cảm và sự không hài lòng về ngành du lịch Việt Nam. Đây là điều không bất ngờ vì báo chí đã lên án quá nhiều lần. Nhưng bài viết này sẽ nói lên những thứ báo chí thường không nhắc đến, hoặc khi dịch sang tiếng Việt các nhà báo cố tình xóa đi vì nó quá nhạy cảm.

Việt Nam được tạo hóa ban tặng cho những danh lam thắng cảnh hiếm nơi nào có thể sánh được. Nhưng trong ngành du lịch yếu tố đó chỉ chiếm một phần trong sự hài lòng của du khách. Yếu tố quan trọng nhất là dịch vụ và thái độ của những người làm trong ngành. Ngành du lịch Việt Nam đến nay vẫn chưa hiểu được tầm quan trọng của phục vụ. Chúng ta, những doanh nghiệp lớn và các nhà kinh doanh nhỏ lẻ chưa làm tốt để xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam và để cho các nước khác lấy đi những gì đáng lẽ là của mình. Muốn thay đổi phải can đảm nhìn vào sự thật, dù sự thật mất lòng.

Sau đây là 10 lý do vì sao du lịch Việt Nam bị chê và vì sao 80% du khách một đi không trở lại.

 

1. Phí xin thị thực (visa) khi đến Việt Nam

Việt Nam là một trong những nước yêu cầu các cá nhân mang quốc tịch ngoài Việt Nam (trừ các công dân khối Đông Nam Á) phải xin thị thực nếu muốn nhập cảnh vào Việt Nam. Chi phí cho mỗi lần xin là $28 đến $50 (500,000 VND đến 1 triệu VND) tùy vào loại thị thực và phải chờ 3 ngày đến 1 tuần.

So sánh với Thái Lan thì đây là một điều làm du khách rất khó chịu. Nếu một công dân Úc, Mỹ, Châu Âu đến Thái Lan du lịch thì không cần phải làm như vậy, họ sẽ được cấp thị thực khi nhập cảnh, với điều kiện là đi không quá 60 ngày. Du lịch Việt Nam đã kém vị thế cạnh tranh từ lúc du khách đặt vé.

Hãy tưởng tưởng bạn là một thanh niên Mỹ hay Châu Âu đang chuẩn bị 1 chuyến khám phá Châu Á. Bạn Google, đọc sách, rồi quyết định sẽ đến Việt Nam. Bạn phải tới Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam, đưa hộ chiếu cho nhân viên, chờ vài ngày rồi tới nhận sau khi trả phí. Đây là 1 điều vô cùng khó chịu. Nếu bạn đi Thái Lan, Singapore, Mã Lai thì chỉ cần mua vé máy bay. Tới cửa khẩu xuất nhập cảnh bạn sẽ được cấp giấy thông hành/thị thực/phép lưu trú mà không phải tốn 1 xu nào. Nếu bạn là một khách du lịch thì bạn có chọn Việt Nam không? Đây là một cách thu tiền nhỏ mọn và nông cạn.

 

2. Giá cả và chi phí du lịch ở Việt Nam cao hơn các nước lân cận

Giá phòng khách sạn 3-5 sao ở Việt Nam mắc hơn các nước lân cận hơn 20-30%. Nếu bạn không tin thì có thể lên Agoda xem xét.

Giá tour đi du lịch Thái Lan từ Sài Gòn 4 ngày rẻ hơn giá tour đi Hà Nội (Miền Bắc) tính luốn giá vé máy bay. (4-5 triệu). Nếu bạn là một du khách thì chẳng có lý do gì để chọn đi du lịch xa trong nước khi giá cả ngang hoặc hơn đi ngoài nước. Chỉ là giá mắc hơn chứ chưa nói đến chất lượng dịch vụ.

 

3. Sự thiếu vắng của giá cả, phân biệt đối xử và nói thách

Đa số các cửa hàng ở Việt Nam đều không để giá, đây là một điều làm cho du khách vô cùng khó chịu vì họ cảm thấy có gì đó thiếu trung thực. Giá cả sẽ lên xuống tùy vào cảm tính của người bán, đây là một điều rất khó chấp nhận nhất là đối với các du khách đến từ các nền kinh tế công nghiệp.

Người bán hàng sẽ ra 1 giá với dân địa phương và giá khác với người ngoài. Đây là một sự phân biệt rõ rệt. Du khách quốc tế thường bị chặt chém với giá cả gấp 2-10 lần giá bình thường. Chẳng khác gì lừa dối.

Không chỉ các cửa hàng nhỏ lẻ mà các nhà hàng, khách sạn, công ty du lịch cũng có chính sách khó hiểu này. Ví dụ, một tour đi xuyên Việt Nam của một công ty lớn kia có 3 giá như sau: Việt Nam 21,890,000 VND, Việt Kiều 21,890,000 và Nước Ngoài 22,490,000. Phụ thu phòng đơn: Việt Nam 3,400,000, Việt Kiều 3,400,000 và Nước Ngoài 4,500,000. Đây là một điều vô cùng vô lý và làm cho du khách rất khó hiểu và búc xúc. Tôi thật sự không hiểu, cũng là con người, cũng nhiêu đó túi tiền thì tại sao lại có điều lệ vô lý như vậy?

4. Tác phong và thái độ phục vụ kém chuyên nghiệp

Kém chuyên nghiệp là một từ quá nhẹ, phải dùng từ “hỗn,” “vô cảm,” “bất lịch sự” và nếu cực đoan hơn thì “mất dạy.” Các nhân viên hiếm khi nào cười với khách và khi cười, nụ cười không tự nhiên và không gây thiện cảm. Nhân viên thường tỏ vẻ khó chịu khi khách yêu cầu một điều gì đó, một điều không thể chấp nhận được từ những người làm trong ngành du lịch và phục vụ. Từ “cảm ơn” và “xin lỗi” gần như không có hoặc hiếm khi nào nghe ở Việt Nam.

Đa số các khách sạn thường không có thông tin gì về địa phương để du khách khám phá. Nếu có thì thường là đại lý bán tour du lịch với giá cao hơn giá bên ngoài vài lần.

Ngoại ngữ kém. Du khách không yêu cầu nhân viên phải có trình độ cao, chỉ cần để chỉ dẫn những thứ căn bản khi du khách cần. Điều này quan trọng hơn ở các khách sạn 3-5 sao, nơi du khách phải trả hơn 1-2 triệu VND cho 1 ngày ở. Nếu làm du lịch mà không biết phục vụ những thứ căn bản nhất cho du khách thì không có lý do gì để họ trở lại. Thái độ và chất lượng phục vụ ở miền Bắc tệ hơn miền Nam rất nhiều. Trình độ và chất lượng không được tiêu chuẩn hóa, kể cả ở các khách sạn 3-5 sao.

 

5. Toilet, vệ sinh và ý thức cộng đồng

Người Việt Nam rất thích xả rác, đi đâu cũng thấy rác. Nếu bạn đến từ một nơi văn minh thì điều này làm bạn rất khó chịu. Xả rác là một điều đại đa số người Việt Nam coi như hiển nhiên nhưng là một điều rất khó chấp nhận trong một xã hội văn minh.

– Phun nước miếng, rất khó chấp nhận.

– Đại đa số người Việt không xếp hàng, không tôn trọng lẫn nhau.

Các quán ăn nhà hàng thường không coi trọng cái toilet và vệ sinh. Toilet là nơi quan trọng nhất trong quán ăn vì nếu bạn vô 1 cái toilet dơ thì bạn sẽ mất hứng với thức ăn. Các toilet ở các bến xe thường rất dơ và hôi. Còn các toilet dọc đường khi đi xe giường nằm thì xuống cấp quá trầm trọng. Toilet là một biểu tưởng của sự văn mình và trình độ nhân văn của một đất nước, chúng ta phải nên chú trọng nhiều hơn. Các toilet ở trường học và những nơi công cộng cũng quá tệ.

Có quá nhiều người chửi hoặc nói tục. Những từ như “đụ má, đụ mẹ, địt mẹ, mẹ, má, lồn, cặc, vãi lồn, vãi” được dùng quá nhiều. Cứ 2-3 là một từ chửi. Đừng nghĩ du khách không biết bạn nói gì. Khi bạn dùng một từ nào đó quá nhiều lần, thì người ta sẽ thắc mắc, và khi hỏi ra sẽ biết. Nên các bạn, nhất là các bạn trẻ nên bớt chửi lại.

 

6. Xâm phạm đời tư cá nhân, khác biệt về văn hóa

Người Việt khi gặp nhau hoặc mới gặp vài lần sẽ hỏi những câu như: bạn tên gì, nhà bao nhiêu người, làm nghề gì, lương bao nhiêu, vợ con chưa, ở đây bao lâu, sẽ đi đâu nữa, v.v.

Đối với người phương Tây, những thứ như: tiền lương, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp và gia đình và những thứ cá nhân. Họ chỉ nói về những thứ đó với những người thân. Khi làm vậy, chúng ta nghĩ là bình thường, nhưng với họ thì không. Nên tôn trọng đời tư cá nhân.

 

7. Sự thiếu hiểu biết về văn hóa và lịch sử địa phương

Đa số các bạn trẻ không hề biết hoặc biết quá ít về lịch sử và văn hóa của chính đất nước họ. Đa số các bạn trẻ khi đi chơi sẽ nói nhảm (nói nhảm thiệt), không có đề tài cụ thể. Điều này làm du khách rất thất vọng.

 

8. Thu phí vặt ở các địa điểm tham quan

Điều làm tôi và các du khách cực kỳ khó chịu là phải trả tiền phí cho mỗi điểm tham quan, dù chỗ đó có chút xíu. Đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm có chút xíu mà cũng phải mua vé vô, vô rồi không hiểu nó có cái gì để đáng bán vé nữa.

 

9. Hệ thống vận chuyển công cộng kém

Ở những nước khác, có thể nói là ngang hàng với Việt Nam, tuy hơn một chút, nếu bạn muốn đi từ một thành phố này tới một thành phố kia thì chỉ cần hỏi vài người, Google vài phút là ra. Nhưng ở Việt Nam thì phức tạp hơn một chút. Hệ thống vận chuyển thì vô vùng rối bời. Bạn phải có xe máy hoặc đi taxi chứ đứng đó mà mò đường chờ xe buýt thì cả ngày cũng chưa tới.

Vấn đề vận chuyển công cộng là một vấn đề nhà quản lý đô thị Việt Nam chưa thực sự quan tâm. Nếu so với các thành phố như Bangkok, Kuala Lumpur thì Sài Gòn với Hà Nội của Việt Nam y chang như một cái chợ.

 

10. Người Việt xấu xí

Tiếng Việt bây giờ nổi tiếng gần ngang hàng với tiếng Anh rồi. Ở Nhật thì chuyện du học sinh, công nhân Việt Nam ăn sắp vặt đã thành một tệ nạn. Ở Singapore và Mã Lai thì rất nhiều người lạm dụng thị thực du lịch để sang đó bán dâm. Ở chỗ buffe thì có bảng ghi “lấy vừa đủ ăn” mà không có ghi tiếng khác. Dạo này ở Campuchia có vài nơi ghi “cấm đái bậy.”

Người Việt đi đâu cũng mang tiếng xấu nên mấy bạn quốc tế không có thiện cảm là phải. Hình ảnh của Việt Nam cũng vì thế mà giảm theo. Biết nói gì đây.

 

14 trong vô số câu chuyện muốn quên về du lịch Việt Nam

Nói tới những câu chuyện xấu khi đi du lịch Việt Nam thì có thể viết thành 1 cuốn sách. Nhưng ở đây tôi chỉ viết 14 câu chuyện nghe rất quen.

  1. Một đoàn thể thao miền nam đi thi đấu ở Thanh Hóa. Thi đấu xong cả nhóm đi Sầm Sơn chơi. Một anh kia với vài người bạn thấy người ta bán dừa nên qua mua. Anh tahỏi giá thì người bán nói 20,000 VND. Anh ta kêu mua 4 trái. Người bán trả lời “hai trăm ngàn.” Ủa 4 trái là 80,000 mà sao 200,000 được? Người bán trả lời với vẻ mặt giang hồ “thì anh mua trái kia là hai mươi nghìn, còn 3 trái kia thì sáu mươi nghìn một trái.” Anh kia và 3 người bạn kia liền móc tiền trả vì biết đã đụng phải giang hồ Sầm Sơn.
  2. Anh kia người Vũng Tàu ra Hà Nội chơi với người yêu. Khi chọn taxi vô Phố Cổ thì đi Taxi Mai Linh để tránh bị chém. Trên xe có cái bảng giá ghi rõ ràng ‘Chuyến Nội Bài – Hà Nội dưới 33km 220,000 VND/tuyến’. Nhưng khi tới khách sạn thì tài xế bắt tính theo km, tổng cộng phải trả 330,000 VND. Cái này thì hình như là luật ngầm, lệnh vua (Mai Linh) không bằng lệ làng.
  3. 1 cặp vợ chồng kia đi du lịch Hà Nội. Sáng bắt taxi từ Phố Cổ đi Lăng Bác. Cô vợ ra hỏi taxi bao nhiêu, taxi nói 50,000 VND. Tới nơi thì đồng hồ tính tiền chỉ 20,000 VND.
  4. Ở Nội Thành Huế, một chị bán hàng rong chửi một chị kia khi chị ấy không chịu mua hàng “mẹ, Việt Kiều thế mà keo kiệt.”
  5. Mình lên Đà Lạt chơi, tối ngồi uống sữa đậu nành, có 10,000 VND/ly thôi. Nhưng khi một anh Tây kia uống xong kêu tính tiền thì chị bán hàng nói “pho ti thao sèn” (fourty thousands/40,000 VND).
  6. Mình có thằng bạn làm ở một khách sạn nhỏ ở Vũng Tàu. Vào dịp 30/4 năm ngoái khách sạn nó còn phòng nhưng ông bà chủ bắt nói với khách là hết phòng, đúng ngày 30/4 sẽ lên giá. Thằng đó vì không hiểu nên mới ý kiến với ông chủ là không sợ mất khách hả, ổng trả lời “sợ gì mày ơi, người ta cần tao chứ tao đâu cần người ta.”
  7. Kỳ trước mình với tụi bạn đi Nha Trang chơi. Đang ăn thì cô bạn trong nhóm bị đau bao tử, thế là mình chạy đi mua vài viên thuốc. Mình tới tiệm thuốc tây kêu: “chú ơi, bạn con bị đau bao tử, chú bán con 2 viên,” ông chủ tiệm trả lời “ba chục em nhé.” Một viên thực tế có vài ngàn thôi mà lúc đó gấp quá nên mình trả luôn không nói gì.
  8. Mấy cái em lễ tân khách sạn hình như hay thích phân biệt đối xử với khách nội và ngoại hay sao á. Nó thấy người Việt vô là mặt tỉnh bơ, còn thấy khách Tây với trai đẹp là cái mặt sáng lên tươm tướp tới chào hỏi.
  9. Tháng vừa rồi mình đi Hà Nội, thuê xe máy chạy vòng vòng. Đi gửi xe gần Hồ Gươm để tham quan, thấy cái bảng ghi 5,000. Nhưng khi ra tính tiền thằng giữ xe hét 20,000 VND. Tởn tới già.
  10. Một anh người Mỹ mua một tour du lịch Hạ Long, ngủ qua đêm trên thuyền. Đã đặt phòng đơn trước và trả tiền, nhưng lúc nhận phòng thì mới biết phải ngủ với 1 người lạ khác, và người này cũng đã đặt phòng đơn. Mấy chuyện này quá nhiều trên các diễn đàn du lịch.
  11. Mình với gia đình lái xe đi Nha Trang, dự định qua đêm ở biển Tuy Phong. Đã gọi điện đặt 2 phòng là 800,000 VND. Nhưng tới lúc nhận phòng người ta tự nhiên tăng lên 1.4 triệu. Bực bội.
  12. 1 đoàn khách Nhật đi Vũng Tàu du lịch. Tới quán kia ở đường Hoàng Hoa Thắm bị chém 16.6 triệu cho một buổi ăn. Chắc phải ngon hơn ở khách sạn 5 sao.
  13. Một anh và 2 người bạn kia đi du lịch Vũng Tàu. Vào ngày thứ 2 đi ăn bánh canh ở cái quan vỉa hè, trả 300,000 VND cho 3 tổ nhỏ xíu. Một kỷ niệm thật đẹp với Vũng Tàu.
  14. Bà dì mình năm rồi đi Vịnh Hạ Long, bả về bả nói một câu mình không biết nói gì luôn “đi Hạ Long rồi về Sài Gòn tao mới biết tao còn sống, đi làm gì mày ơi.”

 

Có quá nhiều điều để nói nhưng báo chí đã viết quá nhiều nên bài viết này sẽ tạm ngưng ở đây.

 

Ku Búa

Nấm thức thần psilocybin hoạt động như thế nào? (Phần cuối)

Pháp luật và lịch sử

Magic Mushrooms và luật pháp

Tàng trữ, thảo luận, canh tác và buôn bán nấm psilocybe phụ thuộc trực tiếp vào nơi bạn sống. Tại Mỹ, nấm psilocybe được xếp vào nhóm ma túy “Schedule I” dưới sự quản lý của “the Controlled Substances Act” hay còn được gọi là “the Psychotropic Substances Act” – Điều này có nghĩa là pháp luật tại Mỹ coi nấm psilocybe thuộc chất ma túy dễ bị lạm dụng và không có khả năng trị liệu y học, pháp luật cũng coi nấm thuộc loại ma túy nguy hiểm ngay cả khi bác sĩ kê đơn thì điều này cũng không được chấp nhận.

Từ khi con người biết tới chất Psilocybin là hợp chất hóa học chính yếu gây ra hiệu ứng trên người sử dụng nấm thì nấm đã bị cấm tại Mỹ. Tuy nhiên, bào tử nấm không chứa chất psilocybin, do đó việc sở hữu bào tử nấm gây ra khá nhiều tranh cãi trong luật pháp liên bang Mỹ.

P/S: Cho tới thời điểm này cây cần sa vẫn bị xếp vào nhóm ma túy “Schedule I”!

Nhiều growers sống tại Mỹ đã mua bào tử nấm từ những nước khác, thế nhưng tổ chức Drug Enforcement Administration (DEA) đã thắt chặt luật pháp trên sự sở hữu dụng cụ và bào tử phục vụ cho việc trồng nấm tại nhà. Tuy nhiên bào tử nấm lúc đó vẫn còn chưa bị cấm ở rất nhiều nước trên thế giới, thế nhưng nhiều nước châu âu đã thắt chặt luật cấm từ năm 2000s. Ví dụ, trước năm 2005 thì việc buôn bán nấm psilocybe là hoàn toàn hợp pháp tại Anh Quốc (nhưng sở hữu bào tử vẫn chưa bị cấm). Tại Hà lan, đã cấm bán nấm khô vào năm 2001 và cấm bán nấm tươi vào năm 2008. Ở những nước khác, luật pháp vẫn cho phép sở hữu nấm psilocybe nhưng cấm buôn bán.

Một vài nước, như Mexico, cho phép sử dụng nấm psilocybe trong những sinh hoạt tôn giáo.

Tóm tắt lịch sử của nấm psilocybe

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tin rằng nấm psilocybe đã được con người sử dụng từ 9000 năm trước công nguyên dựa theo những hình ảnh được điêu khắc trên đá được tìm thấy. Tượng điêu khắc và những bằng chứng khác có hình ảnh của nấm psilocybe đã được tìm thấy tại nền văn mình đã mất Myan và Aztech ở Central America.

Người Aztecs đã sử dụng một hợp chất gọi là teonanácatl có nghĩa là “mũi tên của chúa trời”, mà người ta cho rằng đây là một tên gọi khác của nấm psilocybe. Cùng với Peyote Cactus, Morning glory seeds và những cây thực vât làm thay đối nhận thức khác, nấm psilocybe đã được sử dụng để giúp con người đi vào trạng thái hôn mê, thay đổi nhận thức và liên lạc trực tiếp với chúa trời. Khi những người truyền giáo của Thiên Chúa Giáo Tây Ba Nha tới châu Mỹ vào thể kỷ thứ 16, một vài người đã viết về những cây thực vật giúp con người thay đổi nhận thức.

Nấm psilocybe đã được người phương tây (châu âu) biết tới từ những năm 1950s. Một nhà nghiên cứu nấm có tên là R. Gordon Wasson đã đi du lịch khắp nước Mexico để nghiên cứu về nấm vào năm 1955. Ông đã tham dự và làm chứng về những nghi lễ tôn giáo sử dụng nấm psilocybe. Ông đã được hướng dẫn bởi thầy phù thủy (shaman) của người Mazatec – người bản xứ sống ở vùng Oaxaca thuộc nam Mexico.

Wasson đã viết nhiều bài thuật lại cuộc tìm kiếm của ông và những bài viết này đã được xuất bản trên tạp chí Life vào năm 1957 với tựa đề “Tìm kiếm nấm Psilocybe“. Một trong những đồng nghiệp của Wasson có tên là Roger Heim đã nhờ tới sự giúp đỡ của Albert Hofmann (cha đẻ của LSD) để có thể chiết xuất thành công hợp chất psilocybin và psilocin từ nấm mà Wasson đã mang về từ Mexico.

Một trong những người nổi tiếng nhất ủng hộ LSD đã đọc tạp chí Life và đã kêu gọi mọi người sử dụng nấm psilocybe để tìm kiếm thế giới tâm linh. Từ đó nấm psilocybe đã được sử dụng rộng rãi trong phong trào Hippie những năm 1960s. Trong những năm 1970s, luật pháp đã cấm con người sử dụng nấm psilocybe (trừ khi điều này phục vụ tìm kiếm khoa học). Cho tới nay nấm psilocybe tính ra mới được quốc tế hóa khoảng 40 năm!


Dịch: Việt Growers Psychedelics Plants (17/03/2015)
Source: How Stuff Works

 

Nấm thức thần psilocybin hoạt động như thế nào? (Phần 3)

Liều lượng và canh tác

Liều lượng sử dụng

Liều lượng và cường độ của nấm psilocybe không chỉ phụ thuộc vào chủng loại (giống), mà còn phụ thuộc vào nơi canh tác và kỹ thuật canh tác. Ví dụ: có nhiều giống nấm thuộc họ P. Cubensis; giống Thai P. cubensis cho hiệu ứng rất mạnh trong khi giống Gulf Coast cho hiệu ứng high êm dịu. Chất psylocybin có trong nấm thức thần cũng bị giảm đáng kể khi phơi khô nấm, do đó cần phải ăn nhiều hơn để thu được cùng một hiệu ứng so với nấm còn tươi.

Nấm thức thần được bán tại Mỹ có giá khoảng $20 một liều (3,5grams). Hiệu ứng của nấm luôn luôn thay đổi đối với từng người sử dụng và từng chủng loại (giống).

Thông thường, những người mới dùng nấm psilocybe lần đầu tiên được khuyên dùng 1g nấm khô, sau đó đợi 1 giờ sau để quan sát hiệu ứng trên cơ thể và quyết định có nên dùng thêm hay không. Phương pháp ăn là nhai nát nấm tươi (hoặc khô), nấm khô khá khó ăn, ngược lại nấm tươi thì dễ ăn hơn, một số loài nấm khi ăn có vị the thé hoặc đắng khó chịu, nếu ăn cùng với hoa quả (ví dụ như quả dâu) thì sẽ dễ ăn hơn. Để ăn nấm psilocybe người ta cũng thường cho nấm vào bánh Pizza hay bất cứ món ăn gì có thể chế với nấm – Tuy nhiên đối với những món ăn phải nấu quá lâu với nấm sẽ làm giảm đáng kể hiệu ứng của nấm psilocybe khi ăn.

Nếu bạn không thích ăn nấm thì có thể tán nhỏ nấm rồi hãm với nước sôi rồi vắt hết nước để uống như trà. Ngoài ra rượu cũng rất thường được sử dụng cùng với nấm, ví dụ như chúng ta có thể cho nấm vào ngâm với rượu rum hoặc tequila sau đó lấy chất lỏng thu được để uống trực tiếp hoặc mix với các loại nước khác. Những người đã sử dụng nấm theo phương pháp hãm như trà nói rằng họ cảm thấy hiệu ứng diễn ra nhanh hơn là đối với cách ăn trực tiếp. Ngoài ra, nấm khô còn có thể được tán nhỏ rồi cho vào viên nhọng để uống như thuốc (mushroom pills) – sử dụng theo cách này người dùng có thể tránh được mùi vị khó chịu của nấm.

Nhiều người dùng thường mua nấm từ các growers, một số thường đi săn nấm ngoài tự nhiên (chú ý khi săn nấm ngoài tự nhiên phải đảm bảo 2 điều để chắc chắn đó là nấm psilocybe: 1 là quan sát sự ô xy hóa của psilocybine khi cấu nấm (sẽ có màu xanh nước biển) và 2 là phải làm spore print). Tuy nhiên rất nhiều người dùng nấm yêu thích canh tác nấm tại nhà, canh tác nấm tại nhà rất dễ và không tốn kém về diện tích cũng như đồ nghề.

Canh tác nấm psilocybe

Để canh tác nấm psilocybe, trước tiên mời bạn đọc bài này:

Rất nhiều người mới canh tác nấm bắt đầu với giống P. Cubensis bởi vì đây là giống được biết tới nhiều nhất trên thế giới và chúng cũng dễ canh tác nhất. Có rất nhiều phương pháp để canh tác nấm, nhưng cách đơn giản nhất là bắt đầu với bào tử (phôi) của nấm. Một bào tử nấm sẽ phát triển thành một quả nấm (nấm không phải là cây) nhưng một quả nấm có thể cho ra hàng trăm hoặc hàng ngàn bào tử.

Spore Prints thường được sử dụng để xác định chính xác loại nấm mọc hoang dã trong tự nhiên, cũng có thể được sử dụng để canh tác nấm. Bào từ khô trên bản in cần phải được nhúng vào nước cất trước khi sử dụng. Vô trùng là điều tối quan trọng khi canh tác nấm bởi vì vi khuẩn hoặc mốc có thể phát triển cùng với mycelium và làm hỏng hoàn toàn vụ mùa. Rất nhiều growers mua bào tử trong ống tiêm (được làm từ bào tử và nước cất) từ những website bán trên internet hoặc họ có thể tự làm lấy tại nhà. Một ống tiêm bào tử (spore syringe) có giá từ $10 tới $20 tùy vào giống nấm.

Phương pháp canh tác được nhiều growers áp dụng nhất thế giới là phương pháp PF TEK do tác giả Robert ‘ Billy’ McPherson phát minh vào năm 1995 sử dụng lọ thủy tinh, hộp nhựa to, nồi áp suất, bột gạo nâu và vermiculite để canh tác nấm tại nhà. Bột gạo nâu được trộn cùng với vermiculite và nước để tạo ra chất nền xốp và thoáng khí. Chất nền này sau đó được cho vào lọ thủy tinh, sau đó đậy nắp lại và cho vào nồi áp suất để tiệt trùng trong khoảng 1h. Sau khi tiệt trùng growers cần để lọ thủy tinh qua một đêm để nhiệt độ giảm xuống nhiệt độ thường.

Sau đó growers bơm bào tử từ xi lanh qua một lỗ nhỏ trên nắp hộp để cấy phôi vào chất nền đã được tiệt trùng. Sau đó lọ thủy tinh này được để trong bóng tối ở nhiệt độ 28 độ C trong vòng 3 tuần để bào tử có thể phát triển thành Mycelium và để Mycelium có thể chiếm hữu hết chất nền. Một khi Mycelium đã chiếm hữu hết chất nền, growers chỉ cần cho cục chất nền (còn gọi là Cake hay bánh trong tiếng việt) vào hộp nhựa to được rải đá chân trâu (perlit) ở phía dưới đáy.

Tiếp theo growers cần giữ ẩm khoảng 95%, ánh sáng ban ngày hoặc ánh sáng đèn tuýp 12h mỗi ngày và thường xuyên quạt CO2 ứ đọng trong hộp để khí mới có thể đi vào (nấm sử dụng O2 và giải phóng CO2). Nhiệt độ thích hợp nhất để nấm phát triển là 23 độ C. Nếu không có vấn đề gì nấm sẽ mọc sau 1 hoặc 2 tuần, growers cần thu hoạch nấm vào thời điểm mũ nấm bắt đầu mở ra (mũ nấm mở ra để giải phóng bào tử, ở thời điểm này nấm đã dừng phát triển về trọng lượng). Một chiếc bánh như thế này có thể cho ra hàng trăm quả nấm. Growers cũng thường phơi khô nấm (để nấm ở nơi khô, thoáng) sau đó bảo quản trong lọ thủy tinh kín ở nơi tránh ánh sáng hoặc để trong lọ thủy tinh kín rồi giữ trong tủ lạnh. Bằng cách này nấm có thời gian sử dụng lên tới hàng tháng.

Để tìm hiểu kỹ hơn về phương pháp PF TEK bạn có thể tham khảo trang này.

Ở phần kế tiếp của bài này chúng ta sẽ tìm hiểu về pháp luật và lịch sử của nấm psilocybe.

 

Việt Growers Psychedelics Plants
16/03/2015

Nấm thức thần psilocybin hoạt động như thế nào? (Phần 2)

Các loài nấm thức thần

Mũ bonê của tự do hay còn gọi là P. Semilanceata là một loài nấm thức thần được nhiều người biết tới và có thể tìm thấy tại nhiều nơi trên trái đất.

Săn nấm trong tự nhiên chứa đựng nhiều hiểm họa. Có hàng ngàn loài nấm, phần lớn trong số này có những tính chất rất giống nhau. Một số loài nấm độc không chỉ tạo ra những vấn đề về dạ dày mà còn có thể làm suy sụp cơ thể hoặc chết người. Cuộc đi săn các loài nấm có thể ăn được không dành cho người mới bắt đầu mà cần phải được người có nhiều kinh nghiệm trong việc xác định chủng loại nấm thực hiện. Ngay cả đổi với những người đã có kinh nghiệm vài chục năm săn nấm cũng có thể nhầm lẫn.

Một phần quan trọng của quá trình xác định chủng loại nấm là tạo ra một dấu in phôi nấm (spore print) – Điều này có thể thực hiện bằng cách ấn đều mũ nấm xuống phía dưới trên một miếng giấy (giấy có sự tương phản trắng-đen thường được sử dụng), theo cách làm này phôi nấm được giải phóng. Chúng ta sẽ nói cụ thể về phương pháp in phôi nấm phía dưới bài này.

P/S: Videos săn các loài nấm Psilocybe ở một số vùng trên thế giới (tiếng Anh):

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 1 of 4:

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 2 of 4:

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 3 of 4:

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 4 of 4:

How to identify magic mushrooms psilocybin cubensi:

https://www.youtube.com/watch?v=kQc6auPbNWg


Có hàng chục loài nấm Psilocybe. Phần lớn trong số này có dáng nhỏ – Kích thước trung bình là 7cm chiều dài thân và 2,5cm chiều dài của mũ nấm. Khi nấm còn tươi, chúng thường có thân màu xám sáng, hơi vàng hoặc nâu nâu, & mũ nấm màu nâu hoặc nâu-trắng + lá tia (ở mũ nấm). Trong bài này chúng ta chỉ tìm hiểu một vài loài nấm được biết đến nhiều nhất.

Psilocybe cubensis

Psilocybe cubensis là loài nấm có kích thước lớn nhất trong các loài nấm thức thần. Đây cũng là loài được biết tới nhiều nhất. Thường được gọi là Large Psilocybe, Golden Cap hoặc Mexican Mushroom, có rất nhiều biến thể khác nhau. Mũ nấm thường hơi đỏ nâu, với thân màu trắng hoặc vàng nhạt. Khi làm dập hoặc bẻ ngang, thịt nấm (dính) thường chuyển qua màu xanh xanh. Một vài người tin rằng đây là một trong những dấu hiệu chìa khóa để săn nấm ngoài tự nhiên, nhưng một vài loài nấm độc cũng chuyển sang màu xanh(!). Psilocybe cubensis thường được tìm thấy tại những nơi ẩm ướt, chúng mọc trên những bãi phân của động vật ăn cỏ như Ngựa, Trâu, Bò…

Psilocybe Semilanceata

Hay còn gọi là mũ bonê của tự do là một loài nấm psilocybe được nhiều người biết đến. Thông thường, P. semilanceata có thể được tìm thấy tại những đám cỏ ẩm ướt và có sự xuất hiện của trâu bò hoặc cừu nhưng không giống như P. cubensis, loài nấm này không mọc trực tiếp trên những bãi phân. Semilanceata Psilocybe có kích thước nhỏ, có màu vàng sáng hoặc nâu, có chóp (đỉnh mũ nấm) rất nhọn. Một loài nấm psilocybe khác có tên là Psilocybe pelliculosa (có ít hợp chất thức thần hơn) thường hay bị nhầm lẫn với nấm P. semilanceata.

Psilocybe Baeocystis

Psilocybe baeocystis khi còn tươi có mũ nấm màu nâu sẫm và thân nấm màu nâu nhạt hoặc vàng nhạt. Chúng thường được tìm thấy tại những đám cỏ (cánh đồng) và mọc trên những thân gỗ mục, tảng than bùn hoặc lớp rơm lót. Chúng có những tên gọi khác là potent Psilocybe, blue bell và bottle cap.

Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về liều lượng và các phương pháp sử dụng nấm thức thần.


Source: Việt Growers Psychedelics Plants (02/03/2015)
Edit: Triết Học Đường Phố

 

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 3)

 

Nền tảng của chính sách tự do – Chương 1

5. Bất bình đẳng về tài sản và thu nhập

Bất bình đẳng về tài sản và thu nhập là vấn đề bị phê phán nặng nề nhất. Trong xã hội có người giàu và người nghèo, có người rất giàu và cũng có người rất nghèo. Cách giải quyết cũng không có gì khó: chia đều tất cả tài sản.

Đề xuất này bị phản đối trước hết vì người ta cho rằng nó sẽ chẳng giúp cải tạo được tình hình vì số người có của phải lớn hơn rất nhiều lần số người giàu có hiện nay cho nên việc phân chia như thế sẽ chẳng làm tăng được mức sống của mỗi người thêm được bao nhiêu. Điều này dĩ nhiên là đúng nhưng không đủ. Những người đòi sự bình đẳng trong việc phân chia thu nhập đã bỏ qua một chi tiết quan trọng nhất: tổng số tài sản có thể đem phân phối, tức là thu nhập hàng năm của lao động xã hội, không phụ thuộc vào cách phân phối chúng.

Số sản phẩm đang có trong xã hội không phải là hiện tượng tự nhiên hay xã hội độc lập với các điều kiện xã hội mà chính là kết quả của những định chế xã hội của chúng ta. Chỉ vì bất bình đẳng có thể tồn tại trong chế độ xã hội của chúng ta, chỉ vì nó thúc đẩy mọi người mang hết sức mình ra sản xuất và sản xuất với giá thành thấp nhất cho nên loài người mới có trong tay số tài sản được sản xuất ra và được tiêu thụ hàng năm như hiện nay. Nếu động cơ lao động đó bị phá huỷ thì năng suất lao động sẽ giảm đáng kể, phần đem phân phối cho mỗi cá nhân sẽ ít hơn rất nhiều so với phần mà một người nghèo nhất cũng nhận được hiện nay.

Tuy nhiên, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập còn có một chức năng nữa, cũng quan trọng như chức năng vừa nói bên trên: sự xa xỉ của người giàu.

Người ta đã nói và viết rất nhiều điều ngu xuẩn về sự xa xỉ. Người ta phản đối việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ vì cho rằng thật là bất công khi một số người sống quá thừa mứa trong khi những người khác lại sống trong cảnh bần hàn. Luận cứ này có vẻ như cũng có giá trị nào đó. Nhưng đấy chỉ là vẻ ngoài mà thôi. Nếu có thể chứng minh được rằng việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ chính là thực hiện một chức năng hữu ích trong hệ thống hợp tác xã hội thì luận cứ này sẽ bị coi là vô giá trị. Đấy chính là điều chúng ta sẽ làm trong phần dưới đây.

Dĩ nhiên là chúng ta không biện hộ cho việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ bằng luận cứ mà đôi khi có người nói là hàng xa xỉ giúp luân chuyển tiền trong dân chúng. Nếu người giàu không hưởng những món xa xỉ thì người nghèo không có tiền, người ta nói như thế. Thật là nhảm nhí. Vì rằng nếu không có người tiêu thụ hàng xa xỉ thì vốn và lao động dùng cho việc sản xuất hàng xa xỉ sẽ được dùng cho việc sản xuất các hoàng hoá khác, thí dụ như những món hàng mà nhiều người tiêu thụ, những món hàng cần thiết chứ không phải là những món hàng “vô dụng”.

Để có thể tạo ra được một quan niệm đúng đắn về giá trị xã hội của việc tiêu thụ các món hàng xa xỉ trước hết ta phải hiểu rằng khái niệm về xa xỉ là khái niệm tương đối. Xa xỉ là có cách sống tương phản rõ rệt với phần lớn dân chúng cùng thời. Như vậy là, quan niệm về xa xỉ là quan niệm có tính cách lịch sử. Nhiều thứ ta coi là thiết yếu hiện nay có thời đã từng được coi là xa xỉ.

Trong thời Trung cổ, khi phu nhân dòng dõi quý tộc người Byzantine của ngài tổng trấn vùng Venise dùng món mà ngày nay chúng ta gọi là thìa thìa dĩa bằng vàng để gắp thức ăn chứ không dùng tay để bốc thì người Venise coi đấy là món hàng xa xỉ, nhạo báng cả thánh thần và họ nghĩ rằng nếu trời có mắt thì nhất định người đàn bà này phải mắc một căn bệnh khủng khiếp mới xứng: chắc chắn là họ cho rằng tiêu xài phung phí trái tự nhiên như thế thì nhất định sẽ bị Trời phạt.

Cách đây vài ba thế hệ buồng tắm trong nhà được coi là xa xỉ, ngày nay gia đình công nhân Anh nào cũng có buồng tắm như thế cả. Ba mươi lăm năm trước chưa ai có ô tô, hai mươi năm trước sở hữu ô tô được coi là sống xa hoa, còn hiện nay ở Mĩ ngay cả công nhân cũng có xe Ford riêng. Đấy là xu hướng của lịch sử kinh tế. Món hàng xa xỉ hôm nay sẽ trở thành đồ dùng cần thiết vào ngày mai. Mọi sự cải tiến trước tiên đều là những món hàng xa xỉ của một ít người giàu có, nhưng sau đó một thời gian sẽ trở thành đồ dùng thiết yếu, được mọi người coi là đương nhiên phải như thế.

Việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ giúp cho nền công nghiệp phát triển và tạo ra những sản phẩm mới. Đấy là một trong những tác nhân làm cho nền kinh tế của chúng ta trở thành năng động. Nhờ có nó mà chúng ta mới có những cách tân, và nhờ những cách tân như thế mà đời sống của tất cả các thành phần dân cư trong xã hội mới được cải thiện từng bước một.

Nhưng phần lớn người ta đều không có cảm tình với một người vô công rỗi nghề giàu có, chỉ biết ăn chơi chứ chẳng chịu làm bất cứ chuyện gì. Nhưng ngay cả một người như thế cũng thực hiện chức năng trong đời sống của cơ thể xã hội. Anh ta tạo ra, thí dụ cách sống xa hoa, lối sống như thế sẽ làm cho quần chúng nhận thức được những nhu cầu mới và khuyến khích nền công nghiệp hoàn thành các nhu cầu đó.

Có thời chỉ có người giàu mới đi ra nước ngoài. Schiller chưa bao giờ được nhìn thấy những dãy núi ở Thuỵ Sĩ mà ông từng ca ngợi trong tác phẩm Wilhelm Tell, mặc dù chúng nằm ngay trên biên giới quê hương Swab của ông. Goethe chưa bao giờ thấy Paris, Vienna cũng như London. Hôm nay hàng trăm ngàn người đang đi du lịch, chẳng mấy nữa sẽ có hàng triệu người cũng sẽ đi như thế.

6. Sở hữu tư nhân và đức hạnh

Trong khi tìm cách chỉ ra chức năng xã hội và sự cần thiết của sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và kèm theo nó là hiện tượng bất đình đẳng trong phân phối thu nhập và tài sản, chúng tôi đồng thời cũng đưa ra bằng chứng biện hộ về mặt đạo đức cho sở hữu tư nhân và chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là chế độ xã hội dựa trên nền tảng sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất.

Đức hạnh là sự tôn trọng những đòi hỏi tất yếu cho sự tồn tại của xã hội mà bất kỳ thành viên nào của xã hội cũng cần phải thực hiện. Một người sống cách ly với thế giới thì không cần tuân theo bất kỳ quy tắc đạo đức nào. Anh ta không cần phải đắn đo khi làm những việc mà anh ta cho rằng có lợi cho mình vì không cần phải suy nghĩ xem việc đó có làm hại người khác hay không. Nhưng, là một thành viên trong xã hội, khi làm bất kỳ việc gì người ta cũng phải xem xét không chỉ lợi ích trực tiếp của mình mà còn phải góp phần củng cố xã hội mà mình đang sống nữa.

Cá nhân chỉ có thể sống được nhờ sự hợp tác xã hội, nếu tổ chức đời sống và sản xuất xã hội bị sụp đổ thì từng cá nhân sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng. Trong khi yêu cầu các cá nhân quan tâm đến lợi ích của xã hội trong mọi hành động của mình và không được làm những hành động có lợi cho anh ta nhưng lại gây thiệt hại nghiêm trọng đối với đời sống xã hội thì không có nghĩa là xã hội yêu cầu anh ta phải hy sinh quyền lợi của mình cho quyền lợi của người khác. Vì sự hy sinh mà xã hội đòi hỏi chỉ là tạm thời: hy sinh lợi ích trực tiếp và tương đối nhỏ để đổi lấy lợi ích lớn hơn nhiều.

Sự tồn tại của xã hội, sự tồn tại hiệp hội những con người hợp tác với nhau và cùng nhau chia sẻ một lối sống chung, đáp ứng quyền lợi của tất cả mọi người. Người nào hy sinh lợi ích tức thời nhằm tránh cho xã hội khỏi tình trạng hiểm nghèo là người hy sinh lợi ích nhỏ vì lợi ích to lớn hơn nhiều.

Ý nghĩa của sự tôn trọng quyền lợi của xã hội như thế lại thường bị hiểu sai. Người ta tin rằng giá trị đạo đức nằm ở hành động hy sinh, ở việc từ bỏ sự thoả mãn ngay lập tức. Người ta không chịu công nhận rằng giá trị đạo đức không phải là sự hy sinh, mà là mục đích của sự hy sinh; người ta cố tình gán giá trị đạo đức cho bản thân hành động hy sinh, cho bản thân sự từ chối. Nhưng hành động hy sinh phải là để phục vụ cho mục đích đức hạnh thì mới được coi là đức hạnh. Có sự khác nhau một trời một vực giữ một người liều mình và hy sinh tài sản của mình vì những mục tiêu cao quý và một người hy sinh tất cả những thứ đó mà chẳng mang lại lợi ích gì cho xã hội.

Tất cả những hành động nhằm giữ gìn trật tự xã hội đều là đức hạnh, còn những gì có hại cho nó đều là phi đạo đức hết. Do đó, khi ta rút ra kết luận rằng một định chế nào đó là có lợi cho xã hội thì không thể nói rằng nó là phi đạo đức được. Có thể có những ý kiến khác nhau về việc một định chế cụ thể nào đó là có ích hay có hại đối với xã hội. Nhưng khi đã coi định chế đó là có lợi thì người ta không còn có thể nói rằng nó phải bị coi là phi đạo đức vì một lý do không thể giải thích nào đó được nữa.

7. Nhà nước và chính phủ

Tuân thủ luật đạo đức là lợi ích tối cao của mọi cá nhân vì duy trì sự hợp tác xã hội mang lại lợi ích cho tất cả mọi người; đồng thời nó cũng buộc mọi người phải hy sinh, mặc dù chỉ là những hy sinh tạm thời để đổi lấy những lợi ích lớn hơn. Phải có một số hiểu biết sâu sắc mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự vật thì mới nhận thức được chuyện đó, đồng thời phải có ý chí nhất định thì mới thực hiện được những hành động phù hợp với nhận thức như thế.

Những người không có nhận thức hoặc nhận thức được nhưng không có ý chí thực hiện thì không có khả năng tuân thủ luật đạo đức một cách tự nguyện. Không khác gì việc tuân thủ các quy định về vệ sinh mà các cá nhân phải theo vì sức khoẻ của chính mình. Một người nào đó có thể sống phóng túng, thí dụ như hút chích ma tuý vì không biết hậu quả của nó hoặc cho rằng hậu quả không là gì so với việc từ bỏ thú vui nhất thời, hoặc là không có đủ ý chí để điều kiển hành vi cho phù hợp với nhận thức của mình.

Có người cho rằng xã hội cần phải sử dụng những biện pháp cưỡng bức để buộc những cá nhân nói trên vào đường ngay lối thẳng và trừng phạt bất kỳ kẻ nào có những hành động bất cẩn có hại cho sức khoẻ và cuộc sống của hắn ta. Họ nói rằng phải dùng biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn những kẻ nghiện rượu và nghiện ma túy khỏi những thói hư tật xấu của mình và buộc họ phải tự bảo vệ sức khoẻ.

Nhưng những biện pháp cưỡng bách có đáp ứng được mục tiêu đề ra hay không? Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này sau. Bây giờ chúng ta sẽ quan tâm đến một vấn đề khác, mà cụ thể là có cần buộc những kẻ có hành vi gây nguy hại cho sự tồn tại của xã hội phải chấm dứt những hành động như thế hay không. Người nghiện rượu và nghiện ma tuý chỉ gây hại cho chính mình; còn người vi phạm những qui tắc đạo đức điều chỉnh đời sống của con người trong xã hội gây hại không chỉ cho mình mà còn cho tất cả mọi người.

Cuộc sống trong xã hội sẽ trở thành bất khả thi nếu những người muốn cho trật tự xã hội tiếp tục tồn tại và có hành động phù hợp với ước muốn đó không được dùng sức mạnh và những biện pháp cưỡng bức nhằm chống lại những kẻ sẵn sàng phá hoại trật tự xã hội. Một ít kẻ phản xã hội, tức là những người không muốn hoặc không thể thực hiện những hành động hy sinh tạm thời mà xã hội đòi hỏi, có thể làm cho đời sống xã hội trở thành không chịu đựng nổi. Không sử dụng những biện pháp cưỡng chế và sức mạnh nhằm chống lại kẻ thù của xã hội thì không thể sống được.

Chúng ta gọi bộ máy ép buộc và cưỡng chế, tức là bộ máy buộc người dân tuân thủ những quy định của đời sống xã hội, là nhà nước; gọi những quy định mà nhà nước phải tuân thủ là luật pháp; gọi những tổ chức chịu trách nhiệm quản lý bộ máy cưỡng chế đó là chính phủ.

Có những môn phái tin rằng người ta hoàn toàn có thể từ bỏ bất kỳ hình thức cưỡng bức nào và có thể xây dựng xã hội trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện tuân thủ các chuẩn mực đạo đức. Những người vô chính phủ cho rằng nhà nước, luật pháp và chính phủ đều chỉ là những định chế vô tích sự trong hệ thống xã hội, đấy là nói hệ thống phục vụ cho quyền lợi của tất cả mọi người chứ không phải chỉ phục vụ cho quyền lợi của một ít kẻ đặc quyền đặc lợi. Chỉ có chế độ xã hội dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới cần sử dụng bạo lực và cưỡng bức để tự vệ mà thôi. Nếu sở hữu tư nhân bị bãi bỏ thì mọi người, không trừ một ai, đều sẽ tự động tuân thủ những quy định mà sự hợp tác xã hội đòi hỏi.

Như đã chỉ ra bên trên, học thuyết đó sai lầm ngay khi nó nói về tính chất của quyền sở hữu tư nhân các tư liệu sản xuất. Nhưng nếu không có chuyện đó thì lý thuyết này cũng hoàn toàn không thể đứng vững được. Người theo phái vô chính phủ hoàn toàn đúng khi không phủ nhận rằng mỗi hình thức hợp tác giữa người với người trong xã hội trên cơ sở phân công lao động đều đòi hỏi tuân thủ một số quy tắc ứng xử không phải lúc nào cũng được các cá nhân hoan nghênh vì những quy tắc đó buộc người ta phải hy sinh, dù chỉ là trong một thời gian ngắn, nhưng vẫn làm cho người ta đau khổ, ít nhất là ngay tại thời điểm đó.

Nhưng người theo phái vô chính phủ đã lầm khi cho rằng mọi người, không có ngoại lệ, đều sẽ tự nguyện tuân thủ các quy tắc như thế. Có những người bị bệnh đường ruột, họ biết rõ rằng nếu ăn một món nào đó thì chỉ một thời gian ngắn sau đó họ sẽ bị đau bụng, thậm chí đau đến mức không chịu được, nhưng họ vẫn không thể không hưởng thụ cái món khoái khẩu đó. Những mối quan hệ qua lại trong đời sống xã hội khó theo dõi hơn là tác động của thức ăn lên cơ thể con người và hậu quả cũng không diễn ra nhanh như thế, mà trên hết là không phải lúc nào kẻ bất lương cũng cảm nhận được.

Có thể bỏ qua tất cả những điều đã trình bày mà giả định rằng mỗi người trong xã hội vô chính phủ đều có khả năng nhìn xa trông rộng và ý chí mạnh mẽ hơn kẻ bị bệnh đường ruột tham ăn mà không sợ bị coi là ngớ ngẩn hay không? Trong xã hội vô chính phủ liệu có thể loại bỏ hoàn toàn khả năng là một người vô tình ném que diêm đang cháy và gây ra hoả hoạn hoặc trong khi tức giận, ghen tuông hay thù hận mà xúc phạm người khác được hay không? Chủ nghĩa vô chính phủ hiểu sai bản chất của con người. Nó chỉ có thể trở thành hiện thực trong thế giới của thánh thần mà thôi.

Chủ nghĩa tự do không phải là chủ nghĩa vô chính phủ và cũng chẳng có gì chung với chủ nghĩa vô chính phủ. Người theo trường phái tự do hiểu rõ rằng không có những biện pháp cưỡng bách thì sự tồn tại của chính xã hội sẽ bị đe doạ và muốn bảo đảm được sự hợp tác hoà bình giữa người với người thì đằng sau các quy tắc ứng xử cần phải tuân thủ còn cần phải có sự đe doạ bằng vũ lực, nếu không bất cứ thành viên nào cũng có thể là mối đe doạ đối với toàn bộ lâu đài xã hội. Cần phải có khả năng buộc những kẻ không tôn trọng cuộc sống, sức khoẻ, quyền tự do cá nhân hay tài sản cá nhân của người khác tuân thủ những quy tắc của đời sống trong xã hội. Đấy chính là chức năng mà học thuyết tự do gán cho nhà nước: bảo vệ tài sản, tự do và hoà bình.

Một người xã hội chủ nghĩa Đức tên là Ferdinand Lassalle đã cố tình biến quan niệm về nhà nước trong cái khung chật hẹp như thế thành trò nhảm nhí bằng cách gọi nhà nước được xây dựng trên những nguyên tắc tự do là “nhà nước – tuần đêm”. Nhưng thật không hiểu nổi vì sao nhà nước – tuần đêm lại kỳ quặc hoặc tồi tệ hơn là nhà nước quan tâm đến cả việc muối dưa cải, sản xuất nút quần hoặc xuất bản báo?

Muốn hiểu được cái ấn tượng mà Lassalle tìm cách tạo ra bằng nhận xét dí dỏm như thế, ta phải biết rằng người Đức cùng thời với ông vẫn chưa quên được nhà nước của những ông vua độc tài, với rất nhiều chức năng quản lý và điều tiết khác nhau, và họ vẫn còn bị triết học của Hegel chi phối rất mạnh, ông này lại là người đưa nhà nước lên vị trí của thánh thần. Nếu coi nhà nước, theo quan niệm của Hegel, như là “một thực thể tự ý thức về mặt đạo đức”, là “Vũ trụ trong nó và cho chính nó”, là “lý tính của ý chí” thì dĩ nhiên là người ta phải coi mọi cố gắng nhằm giới hạn chức năng của nhà nước vào việc phục vụ như là người gác cổng ban đêm là báng bổ rồi.

Chỉ có như thế ta mới hiểu được làm sao mà người ta lại có thể đi xa đến mức chỉ trích chủ nghĩa tự do là có thái độ căm ghét hay thù địch đối với nhà nước. Nếu tôi nghĩ rằng trao cho nhà nước việc quản lý ngành đường sắt, khách sạn hay hầm mỏ là không thích hợp thì tôi cũng không phải là “kẻ thù của nhà nước”, cũng như không thể coi tôi là kẻ thù của axit sulphuric chỉ vì tôi nghĩ rằng dù nó có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau thì cũng không thể dùng nó để uống hay rửa tay được.

Sẽ là sai khi nói rằng chủ nghĩa tự do muốn hạn chế lĩnh vực hoạt động của nhà nước hoặc về nguyên tắc học thuyết này căm thù mọi hoạt động của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực kinh tế. Cách giải thích như thế hoàn toàn không nói lên bản chất của vấn đề.

Quan điểm của chủ nghĩa tự do về chức năng của nhà nước là kết quả tất yếu của những luận cứ nhằm bảo vệ quyền tư hữu của chủ nghĩa này. Khi người ta đã ủng hộ quyền sở hửu tư nhân tư liệu sản xuất thì dĩ nhiên là người ta không thể ủng hộ quyền sở hữu công cộng tư liệu sản xuất, tức là ủng hộ việc giao chúng vào tay nhà nước chứ không để nằm trong tay sở hữu chủ tư nhân. Như vậy là, ủng hộ quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất cũng có nghĩa là giới hạn một cách triệt để các chức năng của chính phủ rồi.

Những người xã hội chủ nghĩa đôi khi cũng có thói quen phê phán chủ nghĩa tự do là không nhất quán. Họ khẳng định rằng sẽ là phi lý nếu quy định vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế chỉ là bảo vệ quyền sở hữu. Thật khó hiểu tại sao trong khi nhà nước không được hoàn toàn trung lập thì sự can thiệp của nó lại bị giới hạn trong việc bảo vệ quyền của các chủ sở hữu mà thôi?

Lời phê phán bên trên chỉ có thể được coi là hợp lý nếu sự chống đối của chủ nghĩa tự do đối với tất cả các hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, không kể việc bảo vệ quyền sở hữu, có xuất xứ từ việc căm thù về nguyên tắc mọi hành động của nhà nước. Nhưng vấn đề hoàn toàn không phải như thế. Chủ nghĩa tự do phản đối việc mở rộng lĩnh vực hoạt động của nhà nước chính vì trên thực tế nó sẽ tiêu diệt quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Mà những người theo trường phái tự do lại coi sở hữu tư nhân là nguyên tắc phù hợp nhất cho việc tổ chức đời sống của con người trong xã hội.

8. Chế độ dân chủ

Như vậy là, chủ nghĩa tự do hoàn toàn không có ý định phủ nhận sự cần thiết của bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật và chính phủ. Liên kết nó, dù dưới bất kỳ hình thức nào, với tư tưởng của chủ nghĩa vô chính phủ là sai lầm nghiêm trọng. Đối với người theo trường phái tự do, nhà nước là định chế tuyệt đối cần thiết vì người ta giao cho nó những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng: bảo vệ không chỉ sở hữu tư nhân mà còn bảo vệ hoà bình vì nếu không có hoà bình thì không thể gặt hái được toàn bộ lợi ích mà sở hữu tư nhân mang đến cho người ta.

Chỉ cần những lý lẽ như thế cũng đủ để xác định những chức năng mà nhà nước phải thực hiện nhằm đáp ứng lý tưởng của chủ nghĩa tự do. Nhà nước phải không chỉ đủ sức bảo vệ sở hữu tư nhân mà còn phải được xây dựng như thế nào đó để tiến trình phát triển hoà bình và uyển chuyển của xã hội không bao giờ bị những cuộc nội chiến, cách mạng và bạo loạn làm cho gián đoạn.

Nhiều người vẫn còn bị ý tưởng, có từ thời tiền tự do, cho rằng làm quan là cao quý và đáng trọng. Cho đến mãi thời gian gần đây, và cả hiện nay, các quan chức ở Đức vẫn được người ta trọng vọng, thái độ trọng vọng như thể làm quan là địa vị cao quý hơn cả. Sự tôn trọng của xã hội đối một chức quan hạng bét hay anh trung uý quèn còn cao hơn gấp nhiều lần sự tôn trọng giành cho một doanh nhân hay một luật sư lão làng. Các nhà văn, các nhà bác học và các nghệ sĩ đã nổi tiếng và được vinh danh ở nước ngoài nhưng ở trong nước lại chỉ nhận được sự tôn trọng tương xứng với địa vị khiêm tốn mà họ giữ trong bộ máy quan liêu của nhà nước mà thôi.

Đánh giá quá cao công việc trong các văn phòng của bộ máy quản lý như thế thật là một việc làm thiếu căn cứ. Đấy là một loại quái thai, dấu vết của những ngày xa xưa, khi mà người dân thường còn phải sợ hoàng thân và hiệp sĩ của ông ta vì lúc nào cũng có thể bị bọn họ cướp bóc. Trên thực tế, dùng thời giờ để ghi hồ sơ trong các công sở cũng chẳng có gì hay ho hơn, vinh dự hơn hay danh giá hơn, thí dụ như, làm trong phòng thiết kế của một nhà máy chế tạo nào đó. Nhân viên thuế vụ cũng có địa vị chẳng khác gì những người trực tiếp làm ra tài sản mà một phần của nó đã bị thu dưới dạng thuế khoá để trả cho chi phí của bộ máy của nhà nước.

Quan niệm về địa vị đặt biệt và phẩm giá của các quan chức nhà nước là cơ sở của lý thuyết giả-dân chủ về nhà nước. Lý thuyết này nói rằng để cho người khác cai trị là đáng xấu hổ. Lý tưởng của nó là một thể chế, trong đó mọi người dân đều quản lý, đều chỉ huy. Dĩ nhiên là chuyện này chưa bao giờ, hiện không thể và sẽ chẳng bao giờ xảy ra hết, ngay cả trong một quốc gia bé tí. Có thời người ta đã nghĩ là lý tưởng đó đã được thực hiện ở các thành bang Hy Lạp thời Cổ đại và trong các bang nhỏ ở vùng núi của Thuỵ Sĩ. Nhưng hoàn toàn không phải như thế.

Ở Hy Lạp, chỉ có một phần dân cư, tức là các công dân tự do, là có đóng góp phần nào vào việc cai trị; dân ngụ cư và nô lệ không có đóng góp gì. Ở các bang của Thuỵ Sĩ những vấn đề hoàn toàn mang tính địa phương đã và vẫn được giải quyết theo lối dân chủ trực tiếp, đấy là nguyên tắc đã được đưa vào hiến pháp. Còn tất cả các vấn đề vượt ra ngoài biên giới khu vực đều thuộc quyền tài phán của Liên bang, mà chính phủ Liên bang của nước này thì khác xa với lý tưởng về dân chủ trực tiếp.

Chẳng có gì phải xấu hổ khi để cho người khác cai trị mình. Chính phủ và bộ máy quản lý, cảnh sát và các cơ quan khác cũng cần các nhà chuyên môn: các quan chức chuyên nghiệp và các chính khách chuyên nghiệp. Nguyên tắc phân công lao động cũng được áp dụng cho cả các chức năng của chính phủ. Không ai có thể vừa làm kỹ sư vừa làm cảnh sát cùng một lúc được. Nếu tôi không phải là công an thì phẩm giá của tôi, sự thịnh vượng của tôi, tự do của tôi cũng chẳng hề giảm đi chút nào.

Nếu một ít người chịu trách nhiệm bảo vệ những người khác thì đấy cũng không hề phi dân chủ hơn là một số người sản xuất giày cho những người khác vậy. Nếu các định chế của nhà nước là dân chủ thì chẳng có tí lý do gì để phản đối các chính khách và các quan chức dân sự chuyên nghiệp hết. Nhưng chế độ dân chủ là thể chế hoàn toàn khác với quan niệm của những kẻ mơ mộng hão huyền chuyên tán nhảm về dân chủ trực tiếp.

Chính phủ là một nhóm người – số người cai trị bao giờ cũng ít hơn số người bị trị, chẳng khác gì số thợ giày so với số người mua giày vậy – phụ thuộc vào sự chấp thuận của những người mà họ quản lý, nghĩa là sự chấp nhận bộ máy quản lý hiện hữu. Họ có thể coi chính phủ là một cái ác không thể tránh được, nhưng họ phải nghĩ rằng không nên thay đổi tình trạng hiện thời. Nhưng nếu đa số những kẻ bị trị tin rằng cần phải và có thể thay đổi hình thức cai trị và thay chế độ cũ và các quan chức cũ bằng một chế độ mới và các quan chức mới thì ngày tàn của chế độ cũ đã điểm.

Đa số sẽ có đủ lực lượng để thực hiện ước vọng của họ bằng vũ lực, ngay cả trong trường hợp phải chống lại ý chí của chế độ cũ. Về lâu dài, nếu dư luận không ủng hộ, nghĩa là nếu những người bị trị không tin rằng chính phủ của họ thuộc loại tốt, thì không chính phủ nào có thể đứng vững được. Sức mạnh mà chính phủ dùng để đàn áp tinh thần phản đối chỉ có hiệu quả khi đa số chưa tập hợp thành phe đối lập đoàn kết nhất trí mà thôi.

Như vậy nghĩa là trong bất kỳ thể chế nào cũng có những phương tiện để buộc chính phủ phải phụ thuộc vào ý chí của những người bị trị: đấy là nội chiến, cách mạng và bạo loạn. Nhưng đấy chính là những phương tiện mà chủ nghĩa tự do muốn tránh. Sự cải thiện về mặt kinh tế không thể kéo dài nếu những cuộc đấu đá nội bộ liên tục làm cho công việc bị gián đoạn. Tình hình chính trị rối loạn, tương tự như tình hình thời những cuộc chiến tranh hoa hồng ở nước Anh, trong vòng vài năm sẽ đẩy nước này vào hoàn cảnh nghèo đói, khốn quẫn nhất. Nếu người ta không tìm được biện pháp ngăn ngừa nội chiến thì kinh tế không thể nào phát triển được như ngày nay.

Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, tương tự như cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, phải trả giá bằng rất nhiều nhân mạng và của cải. Nền kinh tế hiện nay của chúng ta không thể chịu đựng nổi những cơn chấn động tương tự như thế. Dân chúng trong các thành phố thủ đô hiện đại sẽ phải chịu nhiều đau khổ vì những cuộc nổi dậy, bạo loạn sẽ làm gián đoạn việc nhập khẩu lương thực, thực phẩm, than đá và cắt đứt đường dây diện, đường dẫn khí đốt, dẫn nước, chỉ nội nỗi sợ trước những rối loạn như thế đã đủ làm tê liệt đời sống của đô thị rồi.

Đấy là lĩnh vực mà chế độ dân chủ có thể thi hành chức năng xã hội của mình. Chế độ dân chủ là thể chế có thể buộc chính phủ phải đáp ứng các ước nguyện của những người bị trị mà không cần tới những cuộc đấu tranh đầy bạo lực. Trong nhà nước dân chủ, nếu chính phủ không thực hiện chính sách được lòng đa số thì người ta có thể đưa những người làm vừa lòng đa số lên cầm quyền mà không cần gây ra nội chiến. Bằng những cuộc bầu cử và những giàn xếp trong quốc hội, việc thay đổi chính phủ được thực hiện một cách êm ả, không có va chạm, không có bạo lực và không còn cảnh đầu rơi máu chảy nữa.

9. Phê phán của thuyết vũ lực

Các chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ trong thế kỷ XVIII khẳng định rằng chỉ có các cố đạo và các thượng thư mới là những kẻ vô luân, ngu ngốc và độc ác mà thôi. Còn nhân dân đều là những người tốt, trong sạch, cao quý và ngoài ra, còn có tài năng trí tuệ thiên bẩm cần thiết để bao giờ cũng biết và làm những việc đúng đắn. Đây dĩ nhiên là chuyện hoàn toàn nhảm nhí, chẳng khác gì những viên cận thần vẫn gán cho các ông hoàng của họ đủ thứ đức tính tốt đẹp và cao thượng. Nhân dân là tập hợp của tất cả các công dân riêng lẻ, và nếu có một số công dân không thông minh, không cao quý thì toàn thể nhân dân cũng không thể là một tập hợp thông minh và cao quý được.

Vì toàn thể nhân loại đã bước chân vào thời đại dân chủ với những hi vọng bị thổi phồng lên như thế cho nên ta sẽ không ngạc nhiên trước tâm trạng thất vọng diễn ra ngay sau đó. Người ta đã phát hiện ngay ra rằng các chế độ dân chủ cũng phạm nhiều sai lầm chẳng khác gì chế độ quân chủ hay quý tộc. So sánh phẩm chất giữa những người mà nền dân chủ đưa lên vị trí đứng đầu chính phủ và những người mà vua chúa hay hoàng đế đưa lên vị trí này nhằm thực thi quyền lực tuyệt đối của họ cho thấy những người cầm quyền mới cũng chẳng hơn gì. Người Pháp thường nói về “sức mạnh huỷ diệt của cái khôi hài”.

Thực tế là chẳng bao lâu sau, ở đâu các chính khách của chế độ dân chủ đại diện cũng đã biến nó trở thành trò cười trong mắt người dân. Những người đại diện cho chế độ cũ dù sao cũng còn có những phẩm chất quý phái nhất định, ít nhất là vẻ ngoài. Còn hành vi của những người cầm quyền mới thì lại đáng khinh. Không gì có thể làm hại nền dân chủ cho bằng thái độ kiêu ngạo rỗng tuếch và giả dối trắng trợn của những người lãnh đạo đảng dân chủ-xã hội, những kẻ đã nắm được quyền lực sau khi chế độ quân chủ sụp đổ.

Như vậy là, nơi nào mà chế độ dân chủ giành được thắng lợi thì tại nơi đó lập tức xuất hiện học thuyết bài dân chủ và đây sẽ là phong trào chống đối chủ chốt. Người ta nói rằng để cho đa số cầm quyền là việc làm vô nghĩa. Những người tài giỏi nhất phải nắm quyền, ngay cả khi họ chỉ là thiểu số. Điều này có vẻ như là đương nhiên cho nên số người ủng hộ các phong trào bài dân chủ đủ mọi màu sắc càng ngày càng gia tăng. Những người mà chế độ dân chủ đưa lên đỉnh tháp quyền lực càng tỏ ra đáng khinh bao nhiêu thì kẻ thù của dân chủ càng đông thêm bấy nhiêu.

Tuy nhiên, học thuyết phản dân chủ lại có những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng. “Một người tài giỏi nhất” hay “những người tài giỏi nhất” nghĩa là thế nào? Nước cộng hoà Ba Lan đưa một nghệ sĩ piano bậc thầy lên nắm chính phủ vì họ coi ông là người Ba Lan tài giỏi nhất lúc đó. Nhưng phẩm chất của người đứng đầu nhà nước phải khác rất xa với phẩm chất của một nhạc sĩ.

Những người phản đối chế độ dân chủ, khi sử dụng từ “tài giỏi nhất” chỉ muốn nói rằng một người hay một số người phù hợp nhất đối với công việc của chính phủ, cho dù họ có ít, thậm chí chẳng có kiến thức gì về nhạc hết. Nhưng điều đó lại dẫn ta đến vấn đề chính trị: Ai là người phù hợp nhất? Disraeli hay Gladstone là người phù hợp nhất? Đảng bảo thủ cho là Disraeli hợp hơn, còn đảng tự do thì lại bảo là Gladston hợp hơn. Nếu không phải đa số thì ai sẽ giải quyết vấn đề này?

Như thế là chúng ta đã tiếp cận với vấn đề quyết định của tất cả các học thuyết phản dân chủ, dù các học thuyết này có do hậu duệ của những nhà quý tộc hay những người bảo hoàng xưa cũ, những người ủng hộ phong trào công đoàn, những người Bolshevik hay xã hội chủ nghĩa đưa ra thì cũng thế mà thôi, mà cụ thể là học thuyết về bạo lực.

Những người chống lại nền dân chủ ủng hộ việc thiểu số cướp chính quyền bằng vũ lực và cai trị đa số. Họ cho rằng vũ lực đủ sức cướp được chính quyền chính là đạo lý [Súng đẻ ra chính quyền – ND]. Họ cho rằng người tài giỏi nhất là người biết cai trị và chỉ huy, người thể hiện được khả năng áp đặt sự cai trị của mình lên số đông, dù có thể trái với ước muốn của họ. Ở đây học thuyết của tổ chức l’action Française đã trùng hợp với học thuyết của những người ủng hộ phong trào công đoàn, học thuyết của Ludendorff và Hitler, học thuyết của Lenin và Trotzky.

Người ta có thể đưa ra nhiều luận điểm ủng hộ cũng như chống báng lại các học thuyết này, tất cả phụ thuộc vào niềm tin mang tính triết lý hoặc tôn giáo của người nói, mà nói đến đức tin thì đồng thuận là việc thiên nan vạn nan. Chúng ta sẽ không đưa ra và cũng không thảo luận những lý lẽ ấy ở đây vì chúng sẽ chẳng thuyết phục được ai. Lý lẽ quyết định duy nhất là luận cứ của những người ủng hộ chế độ dân chủ.

Nếu mỗi nhóm người tin rằng họ có đủ sức áp đặt quyền lực cho những người còn lại đều được quyền thử vận may thì chúng ta phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận những cuộc nội chiến kế tiếp nhau không bao giờ dứt. Nhưng tình hình như thế không phù hợp với trình độ phân công lao động mà ta đã đạt được hiện nay. Xã hội hiện đại, đặt nền tảng trên sự phân công lao động, chỉ có thể tồn tại được trong một nền hoà bình bền vững. Nếu chúng ta phải chuẩn bị để đón nhận khả năng xảy ra những cuộc nội chiến và xung đột nội bộ kéo dài thì chúng ta phải trở lại với giai đoạn phân công lao động giản đơn, trong đó từng tỉnh, nếu không nói là từng làng, phải trở về với chính sách tự cấp tự túc, nghĩa là có khả năng tự kiếm sống và đứng vững được trong một thời gian mà không cần nhập khẩu bất cứ thứ gì từ bên ngoài.

Đồng nghĩa với sự thụt lùi ghê gớm về năng suất lao động và trái đất chỉ có thể nuôi sống được một phần dân cư hiện nay mà thôi. Lý tưởng của phe bài dân chủ sẽ dẫn tới trật tự kinh tế như thời Trung Cổ và thời Cổ Đại. Mỗi thành phố, mỗi làng mạc, trên thực tế là mỗi người đều được vũ trang và sẵn sàng tự vệ, mỗi tỉnh đều là những khu vực càng độc lập với thế giới trong việc tự cấp mọi thứ hàng hoá mà họ cần thì càng tốt.

Người theo phái dân chủ cũng cho rằng cầm quyền phải là người giỏi nhất. Nhưng họ tin rằng khả năng cầm quyền của một người hay một nhóm người nên được thể hiện bằng cách thuyết phục dân chúng rằng họ có đủ năng lực giữ vị trí đó, để đồng bào của họ tự nguyện trao quyền giải quyết công việc xã hội cho họ chứ không phải là sử dụng vũ lực buộc người khác chấp nhận đòi hỏi của họ. Người nào không giành được vị trí lãnh đạo vì đuối lý hoặc không tạo được niềm tin thì không có lý do phàn nàn về việc dân chúng đã chọn người khác chứ không chọn anh ta.

Dĩ nhiên là không được và không cần phủ nhận rằng có những hoàn cảnh mà sức cám dỗ lôi kéo người ta xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do là rất lớn. Nếu những người có đầu óc sáng suốt nhìn thấy rằng dân tộc của họ hay tất cả các dân tộc trên thế giới đang bước trên con đường dẫn tới tàn phá và nếu họ nhận ra rằng thuyết phục đồng bào chú ý đến lời khuyên của họ là việc lảm bất khả thi thì họ có thể ngả sang tư tưởng cho rằng sử dụng bất kỳ biện pháp khả thi nào khác nhằm cứu mọi người khỏi thảm hoạ đều là những việc làm đúng đắn và hợp lý cả.

Lúc đó tư tưởng về nền chuyên chế của giới tinh hoa, của chính phủ thiểu số nắm quyền bằng vũ lực và cai trị nhằm bảo vệ quyền lợi cho tất cả mọi người có thể xuất hiện và sẽ tìm được những người ủng hộ. Nhưng bạo lực không phải là phương tiện để giải quyết các khó khăn như thế. Chế độ chuyên chế của thiểu số không thể đứng vững được nếu nó không thuyết phục được đa số tin rằng đấy là việc làm cần thiết hoặc ít nhất là tin rằng việc nắm quyền của họ là có lợi. Nhưng lúc đó thiểu số sẽ có thể giữ chính quyền mà không cần vũ lực nữa.

Lịch sử cung cấp cho ta nhiều thí dụ ấn tượng chứng tỏ rằng, về lâu dài, ngay cả những chính sách đàn áp dã man nhất cũng không đủ sức làm cho chính phủ như thế giữ được quyền lực. Chỉ cần đưa ra một thí dụ gần đây nhất và được nhiều người biết nhất: những người Bolshevik cướp được chính quyền ở Nga chỉ là một nhóm thiểu số rất nhỏ và cương lĩnh của họ cũng chẳng được mấy người ủng hộ. Giai cấp nông dân, tức là thành phần chủ yếu của dân Nga, không chấp nhận chính sách hợp tác hoá nông nghiệp của những người Bolshevik. Dân chúng chỉ muốn chia ruộng cho “bần, cố nông”, đấy là theo cách gọi của những người Bolshevik. Chính sách nông nghiệp đó, chứ không phải chính sách của các lãnh tụ marxist, được đem ra áp dụng. Đ

ể có thể tiếp tục nắm quyền, Lenin và Trotzky không những đã chấp nhận chính sách cải cách nông nghiệp mà còn biến nó thành một phần của cương lĩnh của chính mình và dùng nó làm lá chắn nhằm chống lại những cuộc tấn công, cả ở trong nước lẫn từ nước ngoài. Những người Bolshevik đã giành được niềm tin của đa số nhân dân Nga bằng cách như thế đấy. Từ khi áp dụng chính sách phân chia ruộng đất, chính quyền Bolshevik nhận được đồng thuận và ủng hộ chứ không còn đi ngược lại ý chí của đa số dân chúng nữa.

Họ chỉ còn hai sự lựa chọn: từ bỏ cương lĩnh hay từ bỏ chính quyền. Họ đã chọn cái thứ nhất và tiếp tục cầm quyền. Không thể có khả năng thứ ba, tức là thực hiện cương lĩnh bằng vũ lực, trái với nguyện vọng của nhân dân. Tương tự như tất cả những nhóm thiểu số có quyết tâm và được tổ chức tốt khác, những người Bolshevik có thể cướp được chính quyền bằng vũ lực và giữ được chính quyền trong một thời gian ngắn. Nhưng về lâu dài khả năng nắm quyền của họ cũng chẳng hơn gì bất kỳ nhóm thiểu số nào khác.

Mọi cố gắng của Bạch Vệ nhằm trục xuất những người Bolshevik đều thất bại vì không được đa số dân chúng ủng hộ. Nhưng ngay cả nếu thành công thì họ cũng phải tôn trọng ước muốn của đa số dân chúng. Sau khi việc chia ruộng đã được thực hiện thì Bạch Vệ cũng không thể nào thay đổi được nữa, trả lại ruộng bị tịch thu cho địa chủ là việc làm bất khả thi.

Chỉ những nhóm tìm được sự đồng thuận của những người bị trị thì mới có thể thiết lập được chế độ có tuổi thọ lâu dài mà thôi. Kẻ, muốn thấy thế giới được cai trị theo những tư tưởng của hắn, sẽ buộc phải tìm cách chi phối tư tưởng của con người. Về dài hạn, bắt dân chúng tuân phục chế độ mà họ không chấp nhận là việc làm bất khả thi. Kẻ cố tình làm điều đó bằng vũ lực cuối cùng nhất định sẽ bị thất bại và những cuộc đấu tranh do hắn kích động sẽ gây ra nhiều tai hoạ hơn là một chính phủ tồi tệ nhất nhưng được nhân dân ủng hộ có thể làm. Làm trái ý người ta thì làm sao người ta hạnh phúc cho được?

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp