16.1 C
Da Lat
Thứ Tư, 20 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 142

Tuyệt mệnh với nền giáo dục việt nam

Featured Image: Pixabay

 

Bây giờ với tôi mọi thứ dường như đã mất đi cơ hội trong cuộc đời mình. Tri thức là điều thiết yếu của cuộc sống con người, nó vận mệnh cho sự phát triển hay suy đồi của một nền đất nước hay một cá nhân riêng. Thế nên đối với tôi, mọi sự thật rối rắm và tôi cảm thấy băn khoăn khi không biết phải lựa chọn điều gì tốt với bản thân mình, mọi việc đều không được tự do như những nền tri thức ngoại quốc mà tôi hay đọc trong sách, internet và trên tivi.

Giáo dục hiện thời dường như đạng tụt hậu không một chút đổi mới mà vẫn thích ràng buộc và tiêu diệt. Giáo dục là thước đo cho sự vượt bậc của con người, nhưng tôi đang sống trong một môi trường hiện nay ở Việt Nam được học, được chơi, được sống…. mọi thứ đều mang tính ganh đua và thích được danh vọng hơn bản thân của mình.

Bằng cấp có phải là sự lựa chọn thiết yếu? Bằng cấp chỉ thể hiện mình chỉ đánh bóng tên tuổi và sự nghiệp mình nhưng quan trọng năng lực của họ đã tốt hay đã đúng như bằng cấp đề ra cho mình chưa? Mọi thứ thật khó để mà quyết định. Hiện nay trên các trang báo, internet tôi cảm thấy dường như nền giáo dục đang ngự trị bởi kẻ ngu dốt hơn là người khôn lanh việc làm họ khiến cho giáo dục thật chậm phát triển chỉ biết nghĩ tới tiền, danh vọng, bằng cấp hơn là khả năng của mình. Nhưng số phận quyết định vậy thì không thể đổi thay gì khi nó đã thấm trong tư tưởng của con người Việt Nam. Kẻ ngu dốt ngự trị bằng lý lẽ của kẻ ngu dốt thì cũng biến con người cũng trở nên ngu dốt và khờ dại.

Mọi thứ đều được kiểm soát không được một cá nhân nào quyết định mở trường tư ra dạy học, mọi thứ đều phải thuộc trong một đảng, một phái chính quyền nhà nước chứ đâu phải một cá nhân không theo đảng, không làm việc cho nhà nước. Chỉ là những thành phần vô lại, bóc lột sức lao động của người dân.

Họ lập trường tư để kiếm thêm lợi nhuận hơn là tích cực dạy học, họ chiêu dụ mọi mặt về hình thức quảng cáo cũng như lời thân ngọt, nghe thấy thích thích mà khi đã học rồi là cảm thấy bực tức khi học phí tăng cao, kiến thức rời rạc, quản lý ít nghiêm nghặt, tổ chức ăn chơi nhiều… rồi đến khi họ bừng tỉnh, mọi thứ xoay quanh họ như là sự diễu cợt trên giọt mồ hôi vất vã của người dân, con cái họ thích chơi hơn thích học. Rồi những ai đã thức tỉnh, họ quyết định rút hồ sơ xin chuyển một ngôi trường với môi trường thích hợp cho tương lai của mình, thì lại bị chiêu trò dụ dùng nhiều lý lẽ để thay đổi tư tưởng của mình. Không biết đó có phải là lương tâm nghề giáo không?

Giáo dục việt nam có quá nhiều bằng cấp. Cứ đem bằng cấp ra so sánh, sợ mình mang nhục hay thua người khác đó là cái tính háo danh mà giáo dục việt nam đào tạo. Còn năng lực thì như đồ thừa thãi vứt bỏ trong thùng rác thì làm sao mà phát triển được, chỉ cầm bằng cấp chiếu cố hay khoe mẻ cho được nêu danh, mang tiếng tâm cho mình nhưng chắc cũng phải né tránh khi họ thể hiện năng lực cho quần chúng! Giáo dục đang đè bẹp nhân tài, học để lao động thì nhiều còn nghiên cứu, phục vụ cho đất nước thì không có, chỉ là nhân tài theo kiểu đã tốt nghiệp loại xuất sắc tư tưởng cộng sản để ngự trị trong dân và lộng hành quyền một cách phi pháp bóc lột một cách thâm độc đến thế.

Càng sống trong xã hội Việt Nam bây giờ, thì cũng như con chim nằm trong lồng luôn mơ đến một ngày được tự do, tự tại. Con người trong xã hội Việt Nam đang bắt đầu mất nhân cách hay đúng hơn là bảo vệ quyền tự do của mình. Một lời ăn tiếng nói ảnh hưởng đến danh dự hay lòng tự tôn của họ thì cũng một sống một còn. Cái quyền con người nó bị xiềng xích đến như thế càng xiềng xích càng muốn được giải thoát. Nhưng sự sợ hãi là bóng tối bao trùm cảm thế giới định đoạt cho những cái ác lộng hành và tàn bạo.

Kiềm hãm tri thức, nhồi nhét tư tưởng cộng sản, mọi việc làm đều thông qua kiểm duyệt, mọi quyết định đều có bè có phái. Chạy chọt tiền bạc để được đề cao, để được một chỗ tốt cho mình mà không nghĩ đến lương tâm và mọi người khác hay sao! Giáo dục đã không còn đúng như khẩu hiệu: “Tiên học lễ, hậu học văn.” Nữa mà trở thành một sự loạn lạc trong xã hội và tước đoạt nhân cách của quyền con người. Học sinh vẫn đang từng ngày uống dòng sữa từ tư tưởng của đảng, tri thức vẫn là sự chọn lọc chứ không được rộng mở thật khó để con người phát triển.

“Sự phát triển cá nhân để trở thành một con người đầy đủ phải là mục tiêu chính của tất cả mọi cố gắng của ta hiện thời. Văn minh loài người chỉ xây dựng được một cách vững vàng trên những con người ấy thôi.” – Alexis Carrel

 

Nguyễn Duy

Bàn về lạm dụng danh xưng

Featured Image: Dr.Farouk

 

Tôi hiểu. Ở Việt Nam, danh xưng đã trở thành một vấn nạn. Vấn nạn cấp quốc gia. Hầu như bất cứ ai cũng cố gắng làm tất cả có thể để có một danh xưng, kiểu như “phải có danh gì với núi sông” (mượn lời của cụ Nguyễn Công Trứ) . Người có quyền thế thì dùng chức danh trước tên họ. Người có bằng đại học thì dùng bằng cấp trước tên. Người có chức danh khoa học cũng ham dùng tên “học hàm” trước tên. Có nhiều trường hợp, người chức danh và danh xưng còn dài hơn cái tên của đương sự! Chưa có một đất nước nào mà quái đản như ở Việt Nam, nơi mà người ta viết những bằng cấp kiểu như “TS BS” trước tên mình! Những danh xưng ngộ nghĩnh như thế khi dịch sang tiếng Anh trở thành một sự xấu hổ mang tầm quốc gia.

Tôi thừa hiểu. Ở Việt Nam, danh xưng đóng vai trò quan trọng, có khi rất quan trọng. Có lần về làm việc ở một tỉnh thuộc vùng miền Tây, sau bài nói chuyện tôi được một vị cao tuổi ân cần trao cho một danh thiếp với dòng chữ tiếng Anh: “Senior Doctor Tran V. …” Đây là lần đầu tiên tôi thấy một danh xưng như thế trong đời. Sau này có dịp tìm hiểu từ bạn bè tôi mới biết ông là một cựu quan chức cao cấp trong ngành y tế của thành phố (đã nghỉ hưu), nhưng vẫn còn giữ chức vụ gì đó trong một hiệp hội chuyên môn. Tôi nghĩ danh xưng “Senior Doctor” (có lẽ nên dịch là ‘Bác sĩ cao cấp’ hay nôm na hơn là ‘Bác sĩ đàn anh’). Nhưng tại sao lại cần một danh xưng phân biệt “giai cấp” như thế? Tôi đoán có lẽ vị đồng nghiệp này muốn phân biệt mình với “đám” bác sĩ đàn em chăng?

Một lần khác, khi tôi phụ trách lên chương trình hội nghị, tôi thấy ban tổ chức viết tên diễn giả bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Những người có danh xưng tiếng Việt ví dụ như “TS BS Trần Thị …” được dịch sang tiếng Anh là “Dr. Dr. Tran Thi …” Tôi không khỏi cười thầm trong bụng vì chưa thấy nơi nào trên thế giới có cách viết lạ lùng như thế. Tôi sợ nhất là trong hội nghị có đồng nghiệp ngoại quốc mà họ đọc được cái danh xưng “Dr Dr” này chắc tôi tìm lỗ mà chui xuống không kịp quá! Tôi phải rất tế nhị đề nghị cách viết “đơn giản” hơn là chỉ “Dr” thôi là đủ, nhưng cũng phải vài ngày trao đổi qua lại, và cuối cùng phải qua vài phút thảo luận trên Skype người ta mới chịu đề nghị này!

Tôi vẫn còn giữ một danh thiếp khác với dòng chữ: “Dr Specialist II Nguyễn M”. Một anh bạn người Úc tôi có lần tình cờ thấy danh thiếp trên bàn nên thắc mắc hỏi tôi “Specialist II” là gì vậy. Lúc đó tôi cũng chẳng biết, nên đành nói: “I have no idea.” Nhưng tôi nói thêm rằng tôi đoán đó là bác sĩ chuyên khoa gì cấp 2 gì đó. Anh bạn đồng nghiệp cười nói mỉa mai (rất dễ ghét) rằng: “Ước gì tao cũng được cấp II nhỉ?”

Không nghi ngờ gì nữa: người Việt rất sính danh xưng. Báo chí trong quá khứ đã nhiều lần nêu vấn đề này. Có nhiều chuyện cười ra nước mắt về những nhầm lẫn về danh xưng (honorific), tước hiệu, và nghề nghiệp ở Việt Nam mà tôi từng chứng kiến trong các hội nghị. Nghe những lời giới thiệu dài lòng thòng như: “Giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân, anh hùng lao động, bác sĩ Nguyễn Văn…” nó khôi hài làm sao!

Tôi vẫn tự hỏi tại sao người ta thích danh xưng trước tên mình? Kinh nghiệm của tôi, khi tiếp xúc với những người hay sử dụng danh xưng cho thấy họ thường dùng danh xưng với những động cơ sau đây:

1. Nuôi dưỡng niềm kiêu hãnh cá nhân

Danh xưng thường có xu hướng bơm phồng “cái tôi” của một cá nhân, và do đó làm cho cá nhân đó tự đánh giá cao chính mình hơn là thực tế. Bà Jill Biden, vợ phó tổng thống Mĩ Joe Biden, từng phàn nàn rằng bà rất “bệnh” khi nhận email và thư gửi đến gia đình với dòng chữ “Sen. and Mrs Biden” (Thượng nghị sĩ và Bà Biden). Bà muốn được danh xưng là “Sen. and Dr. Biden”, và thế là bà đi học đế lấy bằng tiến sĩ Anh văn. Sau 4 năm nghiên cứu, bà được trao bằng tiến sĩ ở tuổi 55. Câu chuyện bà Biden sính danh là đề tài đàm tiếu của giới báo chí Mĩ hồi đầu năm nay.

2. Một hình thức tự quảng cáo

Thật ra, một số người sử dụng danh xưng “Tiến sĩ” hay “Giáo sư” nhắm mục đích tăng giá trị, trọng lượng của ý kiến của họ. Trong thực tế, công chúng cũng có khuynh hướng xem ý kiến của một “Giáo sư, Tiến sĩ” có giá trị cao hơn ý kiến của một… nông dân. Bởi vì đánh giá cao ý kiến của những vị sư sĩ này, nên ít ai dám chất vấn hay phản bác lại ý kiến của họ. Nhưng không có bất cứ một lý do nào để xem ý kiến của một vị giáo sư hay tiến sĩ có giá trị hơn ý kiến của một nông dân; vấn đề là logic và bằng chứng, vì hai khía cạnh này mới chính là thước đo giá trị của ý kiến.

3. Mong muốn được người khác kính trọng

Đây là biện minh (hay lý lẽ) của những người chức sắc tôn giáo, vì họ cho rằng họ cần những “Thượng tọa” “Hòa thượng” “Linh mục” “Mục sư” v.v… để tín đồ tỏ lòng kính trọng họ. Thế nhưng tôi lại nghĩ các Phật tử hay tín đồ Công giáo vẫn có thể gọi “thầy” và “cha” mà đâu có tỏ ra thiếu kính trọng gì đâu!

4. Gây sự chú ý

Người sử dụng danh xưng ngầm nói cho người khác rằng họ là người quan trọng và đáng được kính trọng. Mặc dù họ không bao giờ thú nhận ý đồ ngầm này, nhưng nghiên cứu tâm lý cho chúng ta biết động cơ sử dụng danh xưng là để gây chú ý như ca sĩ thích làm trò khác lạ để thu hút khán giả. Có nhiều lần tôi chú ý đến những danh xưng như “Giáo sư thực thụ” và tự hỏi nó có ý nghĩa gì. Ở Mĩ, chúng ta biết có 3 bậc giáo sư: Assistant Professor, Associate Professor, và Professor. Không cần đến tính từ “thực thụ”, vì chức danh nào cũng thực thụ. Tôi nghĩ chỉ “Giáo sư” là đủ rồi. (Dĩ nhiên có người có những danh xưng chính thức như “Distinguished Professor” hay “Honorary Professor” thì họ có quyền thêm tính từ gì đó cho thích hợp.)

5. Khao khát quyền lực và trần tục

Một nghiên cứu ở Mexico cho thấy rất nhiều chính trị gia không có văn bằng tiến sĩ nhưng họ vẫn tìm cách mua danh xưng “Dr” bằng cách tranh thủ hay vận động để được một đại học nào đó cấp cho bằng “tiến sĩ danh dự” (honour doctor). Với danh xưng này, họ rất dễ thu hút cảm tình của cử tri và có cơ may đắc cử hơn những người không có danh xưng. Tình trạng này cũng giống như ở VN, nơi mà các quan chức rất thích có “TS” trước tên họ.

6. Quảng bá thái độ “elite”, thái độ kẻ cả, hoặc thái độ toàn trị

Những người này thường tự tô son điểm phấn cho mình bằng cách “tiêm” vào mình những danh xưng thật kêu và thật ấn tượng và bắt đầu nhiễm thói kiêu ngạo xem thiên hạ như dưới tay mình.

Ba tôi lúc sinh tiền thường nói rằng những người cần đến danh xưng phía trước tên mình là một tín hiệu cho thấy người đó hoặc là bất tài, hoặc là thiếu tự tin. Vì thiếu tự tin, nên họ phải lấy những danh tước đó ra để tự nâng cao giá trị cho mình. Ngẫm đi nghĩ lại tôi thấy ba tôi cũng có lý, bởi vì ở Việt Nam những người thích dùng danh xưng là các quan chức trong chính quyền. Là quan chức, làm việc hành chính hay chính trị, họ không phải làm chuyên môn; do đó, có lẽ họ có nhu cầu phải quảng bá mình như là một nhân vật “văn võ song toàn”, và để cho… oai.

Ở Việt Nam, vấn đề danh xưng là vấn đề “merit”. Trước tình trạng tiến sĩ giấy, tiến sĩ dỏm tràn lan ở Việt Nam như hiện nay, bất cứ ai được giới thiệu là “tiến sĩ”, người dân ngao ngán nghĩ thầm “lại một tiến sĩ giấy”. Trong bối cảnh đa số (70% hay 95%) giáo sư Việt Nam không xứng đáng với chức danh đó trên trường quốc tế, và với hệ thống phong tước danh như hiện nay thì làm sao danh xưng này củng cố lòng tin của người dân. Nhưng ở Việt Nam vẫn có những tiến sĩ, những giáo sư thật (tức là họ có học và có nghiên cứu xứng đáng với danh xưng đó), nhưng khổ nỗi vì đại đa số những tiến sĩ giấy và giáo sư dỏm kia làm cho công chúng chẳng biết ai là giả và ai là thật. Do đó, cách đánh bóng danh xưng như ở Việt Nam gây ra tình trạng vàng thau lẫn lộn.

Cách dùng danh xưng hiện nay lẫn lộn giữa bằng cấp, phẩm hàm danh dự, và chức vụ. Ai cũng biết cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là những học vị; phó giáo sư và giáo sư là chức danh khoa bảng trong trường đại học; những “nghệ sĩ nhân dân” “nghệ sĩ ưu tú” “nhà giáo nhân dân” “nhà giáo ưu tú” (toàn bắt chước Trung Quốc!) là những tước hiệu danh dự; còn những “giám đốc” “đại tá” “bộ trưởng” v.v… là chức vụ.

Ở Việt Nam, tôi thấy trong các hội nghị, những tước hiệu, chức vụ và học vị đều được liệt kê trước tên người diễn giả, chẳng khác gì một bản lý lịch bằng cấp và chức danh! Ở nước ngoài, trong các hội nghị khoa học, người ta chỉ giới thiệu diễn giả bằng một danh xưng duy nhất như “Dr” hay “Professor”, chứ rất rất hiếm ai giới thiệu thêm chức vụ, và chắc chắn chẳng có ai giới thiệu diễn giả dài lê thê như ở Việt Nam (nếu có ai giới thiệu như thế chắc chắn hội trường sẽ cười ầm lên vì họ nghĩ đó là kiểu nói đùa)!

Tôi càng hiểu hơn. Cách dùng danh xưng như hiện nay chẳng những lẫn lộn thật giả, giữa chức vụ và học vị, mà còn làm trò cười cho đồng nghiệp quốc tế. Trường hợp mà tôi thuật lại ở trên về “Specialist II” là một ví dụ điển hình. Bởi vì chỉ có Việt Nam mới có hệ thống bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II, nên đồng nghiệp quốc tế chẳng thể nào hiểu được.

Thật ra, họ cũng chẳng cần hiểu, họ chẳng thèm tốn thì giờ đọc danh thiếp với những chi chít “Dr”, “Professor” làm gì; họ quan tâm đến CV, đến thực tài hơn. Có liệt kê chín mười danh xưng đi nữa mà CV chẳng có gì, thì chỉ làm cho đồng nghiệp ngoại quốc cười khẩy mà thôi. Khi thực tài không tương đồng hay còn quá thấp so với học hàm và học vị, thì những danh xưng đó chỉ nói lên hội chứng inferiority complex – mặc cảm tự ti. Như là một định luật, cái tôi (ego) lúc nào cũng là hàm số nghịch với kiến thức (knowledge) theo phương trình ego = 1 / knowledge.

 

Nguyễn Văn Tuấn

Quyền im lặng – Nghĩa vụ phản kháng

Featured Image: Jeremy Schultz

 

“Quyền im lặng” và “nghĩa vụ phản kháng”, theo tôi ở một khía cạnh nào đó, tưởng không liên quan mà lại có sự liên quan mật thiết đến lạ kỳ.

“Quyền im lặng” hiện đang trở thành một đề tài được bàn luận sôi nổi trên cộng đồng mạng sau tuyên bố của một ông Nghị gật rằng: “Mấy việc oan sai rất ít mà sửa luật làm khó cơ quan tố tụng.” Còn “nghĩa vụ phản kháng” thì đang âm ỉ cháy dưới dạng thức kêu gọi tiếng nói cộng đồng như “nói gì đi chứ” hoặc kêu gọi sự tham gia của công dân đối với các vấn đề liên quan mật thiết đến đời sống thường nhật của “Todocabi”.

Hai thứ quyền và nghĩa vụ này tương đồng hay xung đột, đang vận động dưới dạng thức nào trong cuộc sống của chúng ta? Chúng ta có ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình không? Có áp dụng được vào chính cuộc sống của mình không?

“Quyền im lặng”

Sẽ có những người có khả năng giải thích cho các bạn cặn kẽ, chính xác và dài dòng hơn tôi rất nhiều về “Quyền im lặng” và chắc chắn với những nguồn thông tin rộng lớn và đa dạng hiện nay trên mạng, các bạn có thể tìm hiểu một cách dễ dàng về “quyền im lặng”, bởi vậy, tôi sẽ chỉ giới thiệu ngắn gọn và đơn giản về “quyền im lặng” như sau: “quyền im lặng” là quyền giữ im lặng của nghi phạm trước sự thẩm vấn của các cơ quan điều tra có thẩm quyền kể cả khi có hay không có sự đại diện/có mặt của người đại diện hợp pháp về mặt pháp luật.

“Quyền im lặng” ra đời sau án lệ Miranda nhằm phòng tránh tối đa 3 yếu tố: thứ nhất việc bức cung bằng các nghiệp vụ chuyên môn (tâm lý, bạo lực) của cơ quan điều tra, thứ hai việc tự cung khai có tội dưới áp lực điều tra mà không có hiểu biết đầy đủ về pháp luật của người bị tình nghi cũng như việc buộc tội/công nhận có tội chỉ dựa trên lời khai của người bị tình nghi và thứ ba là việc cáo buộc trách nhiệm liên quan đối với người đại diện về mặt pháp luật cho người bị tình nghi.

“Quyền im lặng” ra đời sau án lệ Miranda vào ngày 2/6 cách nay nửa thế kỷ. Nhắc đến án lệ Miranda là nhắc đến một bước ngoặt về luật pháp hiện đại trên tôn chỉ tôn trọng và đặt quyền con người lên trước nhất. Đây là vụ án mà tác động của nó không chỉ có ảnh hưởng lớn tới luật pháp của nước Mỹ mà còn là sự thay đổi và bước tiến đối với nhân quyền trên toàn thế giới.

Án lệ Miranda đã cho ra đời “Cảnh báo Miranda”. Cảnh báo này, theo quy ước, phải được cơ quan điều tra thông báo và làm rõ cho nghi phạm về quyền cũng như nghĩa vụ của họ trước khi bị thẩm vấn. Ngoài ra, công nhận “Cảnh báo Miranda” và “quyền im lặng” cũng là công nhận việc xét xử dựa trên chứng cứ thông qua điều tra xác tín và loại bỏ việc sử dụng bản buộc tội như một chứng cứ hợp pháp để buộc tội nghi phạm khi họ chưa có hiểu biết đầy đủ về tình trạng, quyền, nghĩa vụ của họ.

Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều nước thông qua, công nhận và hợp pháp hóa “quyền im lặng”. Tại Việt Nam, “quyền im lặng” vẫn đang trong quá trình thảo luận và ở dạng “dự thảo”.

“Nghĩa vụ phản kháng”

Thực ra khái niệm này tôi không rõ trong chúng ta đã có ai từng nghe chưa nhưng vào năm thứ ba Đại học, khi còn học tiếng Nhật tại trường, tôi có được học một bài đọc nói về vấn đề này. Bài viết được đặt tiêu đề là “nghĩa vụ phản kháng”. Và cho dù thời gian đã bào mòn đi rất nhiều ký ức về thời gian cắp sách tới trường, tôi vẫn không quên được tôi đã ấn tượng với bài viết đó như thế nào khi người Nhật đưa ra một khái niệm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với xã hội như vậy.

Thế nên tôi sẽ phân tích nó dựa trên bài viết tôi từng học và qua sự hiểu của tôi vậy. “Nghĩa vụ phản kháng” được đề cập tới trong bài viết có nghĩa là sự phản đối, lên tiếng, chống lại những hình thái, hành vi, hành động có ảnh hưởng tiêu cực tới cộng đồng, cho dù hành vi đó lớn hay nhỏ. Bạn có thể tự hỏi rằng vì sao đối với một dân tộc coi trọng sự hòa hợp cộng đồng như Nhật Bản lại có thể đưa ra một khái niệm nghe có vẻ hoàn toàn hiếu chiến đến như vậy?

Tôi đã từng có băn khoăn tương tự. Nhưng bài viết đó đã đưa tôi đến một kết luận khác: Chính vì coi trọng hòa hợp cộng đồng, họ bắt buộc phải có tiếng nói phản đối những hành vi ảnh hưởng tới nó. Đó nên được nhìn nhận là một động thái tích cực mang tính xây dựng thay vì phá hoại. Ngoài ra, do bản thân người Nhật có một lợi thế lớn trong việc kiểm soát sự chỉ trích, chính vì vậy, việc phản đối không mang lại nhiều tiêu cực và tác dụng phụ như người Việt Nam ta có thể hình dung ra.

Và bạn sẽ ngạc nhiên. Ngạc nhiên khi biết rằng các chuyên gia viết ra bài viết đó chỉ đưa ra những ví dụ hết sức nhỏ bé để yêu cầu người Nhật phản kháng: chen hàng, gian dối, ồn ào nơi công cộng… Nhìn ở vị trí của chúng ta những điều đó rất nhỏ bé nhưng với người Nhật, việc chu toàn ngay từ những tiểu tiết có thể tạo ra một nền tảng bền vững để hình thành một con người hay một cộng đồng bền vững, có giá trị phát triển.

“Nghĩa vụ phản kháng” còn được đề cập và nhấn mạnh rất nhiều lần bởi các nhà hoạt động như anh hùng dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi hay mục sư Martin Luther King Jr., chứng minh tầm quan trọng của tiếng nói của mỗi con người trong một quần thể xã hội. Việc tự ý thức được việc lên tiếng của mình đồng nghĩa với tác động lay chuyển những bất công cũng như sai trái mà có lẽ bất kỳ thể chế, cộng đồng nào cũng có thể gặp phải trong tiến trình phát triển là một đánh dấu quan trọng để tiến lên.

Ví như Martin Luther King Jr. đã nói:

“Có những đạo luật công chính và có những đạo luật bất công. Tôi tán thành với St. Augustine rằng những đạo luật bất công thì không phải là luật dưới bất kỳ hình thức nào. Người có mong muốn chống lại một đạo luật bất công phải công khai thực hiện với tấm lòng yêu thương. Tôi cho rằng một người chống lại một đạo luật mà lương tâm nói cho anh ta biết rằng nó sai trái cũng như sẵn sàng chấp nhận hình phạt vì chống lại đạo luật đó nhằm khơi lên lương tâm của cả một cộng đồng đối với những bất công xã hội thì đó chính là một người thể hiện tinh thần trọng pháp cao độ.”

Chúng ta có cái gì tương tự “nghĩa vụ phản kháng” hay không?

Có lẽ chúng ta đều đã có thể hiểu “nghĩa vụ phản kháng” là gì và mơ hồ thấy chúng ta có một thứ tương tự. Chủ nghĩa anh hùng, tư tưởng người quân tử trong Nho giáo là một thứ như vậy, là một kiểu phản kháng như vậy đối với cái sai cái xấu trong xã hội. Tuy nhiên, vì Nho giáo, sau mấy ngàn năm truyền bá, dần chỉ chủ yếu tập trung phát triển vào tầng lớp cầm quyền nghĩa là vẫn mang nặng tính chất cai trị, do đó, “nghĩa vụ phản kháng” chỉ được thể hiện ở một phương diện rất hẹp và thực thi bởi người nắm quyền.

Điều đó hết sức rủi ro. Lịch sử đã chứng minh bởi những kẻ cầm quyền không phải bao giờ cũng là người đủ sáng suốt để đưa ra sự phản kháng đúng đắn đối với những biểu hiện đi xuống của xã hội. Hitler khi phát động chiến tranh diệt chủng đối với tộc người Do Thái, chắc chắn trong lòng đã nghĩ rằng chủng tộc người đó là một sự sai trái đối với sự tiến hóa của toàn nhân loại. Việc thiếu vắng “nghĩa vụ phản kháng” của nhân dân Đức đã dẫn nước Đức vào một thời kỳ tăm tối trước, trong và sau chiến tranh thế giới thứ hai cho tới khi có thể hoàn toàn hồi phục.

Ngược lại, “nghĩa vụ phản kháng” được đưa ra bởi các chuyên gia Nhật là nghĩa vụ áp dụng đối với mọi con người trong xã hội với tư duy khuyến khích mọi công dân tham gia vào công cuộc xây dựng cải cách và phát triển cộng đồng, đất nước. Lời kêu gọi này thể hiện sự tôn trọng của chính phủ đối với tiếng nói của người dân, sự khuyến khích người dân tham gia vào việc điều hành đất nước cũng như thể hiện tinh thần trọng thị nhân quyền, lấy con người làm nhân tố chính của đất nước.

Vì sao cần có “nghĩa vụ phản kháng”?

Thời gian gần đây các bạn có lẽ đều đã đọc những bài chia sẻ về vụ việc dàn dựng quen biết để cướp trên xe buýt và cô gái đó đã không nhận được sự giúp đỡ nào từ những người xung quanh. Khoan nói đến tính xác thực của vụ việc này, nhưng chỉ cần nhìn vào một hiện tượng như thế (hay như bất cứ vụ tai nạn nào trên đường phố với sự thờ ơ của người qua đường) chúng ta sẽ nhận thấy sự vắng bóng của “nghĩa vụ phản kháng”.

Con nguời thiếu “nghĩa vụ phản kháng” sẽ không còn thấy cái xấu để đấu tranh nữa. Và cho dù buồn bã, chúng ta đều sẽ phải công nhận rằng cái xấu không bao giờ biến mất trong xã hội này. Nếu chúng ta, ngay từ những vấn đề nhỏ bé nhất, không lên tiếng để chống lại chúng, chúng ta sẽ mãi tăm tối và một ngày nào đó, không thể trách móc khi không nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng bởi sự thờ ơ đã làm triệt tiêu đi cảm giác về lương tâm mất rồi.

“Tôi tin rằng bất hợp tác với cái xấu cũng có tầm quan trọng ngang với tán thành và phát huy cái tốt.” – Martin Luther King Jr.

Có lẽ, nhắc đến vụ việc tiêu biểu nhất trong thời gian vừa qua liên quan tới vấn đề tôi đang trình bày, thì không thể bỏ qua sự việc người dân Hà Nội lên tiếng trong sự kiện chủ trương chặt hạ, thay thế 6700 cây xanh ở Hà Nội. Với một thái độ ôn hòa, bản thân cũng là người có tham gia việc tuần hành hai lần, tôi cảm nhận được nhu cầu được nói được lắng nghe của người dân đối với chính quyền là rất lớn.

Và để không gây ra những tranh cãi về bất đồng quan điểm trong vụ việc cây cối này thì tôi muốn khẳng định lại một lần nữa: Tiếng nói người dân cất lên để được hiểu và biết về một dự án có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống do thành phố tiến hành, không nhằm ngăn chặn việc thay đổi bộ mặt đô thị nếu dự án đó được giải trình hợp lý đối với người dân. Người dân muốn được biết và thông tin chính xác đầy đủ. Và với hình thức đấu tranh ôn hòa, tuần hành đi bộ, đạp xe trên phố, tôi ngạc nhiên cũng như vui mừng bởi người dân cho dù chỉ là số ít, vẫn phần nào ý thức được vị trí và tầm quan trọng của tiếng nói của mình.

Nhưng có một sự thực đáng buồn tại Việt Nam rằng chúng ta vẫn chưa có cả “quyền im lặng” lẫn “nghĩa vụ phản kháng” một cách hệ thống, sâu sắc. Không có “quyền im lặng” thể hiện sự thiếu sót với vấn đề nhân quyền nhưng không có “nghĩa vụ phản kháng” thể hiện sự thiếu sót của nhân tâm.

Bạn có thể cho rằng “nghĩa vụ phản kháng” không dành cho bạn, không thuộc về bạn, không phải là bạn. Nhưng hãy nghĩ tới việc bạn sẽ có gia đình, con cái, trong một xã hội rối ren, khi luật pháp vẫn áp dụng trên quy ước răn đe thay vì tinh thần thượng tôn pháp luật thì lòng tốt của con người sẽ giúp cho bạn yên tâm hơn mỗi khi bước ra đường vào ban đêm, con cái bạn sẽ có thể có một môi trường sạch sẽ hơn để làm những điều chúng muốn.

Vậy nên “nghĩa vụ phản kháng” không phải là điều xa lạ, không nên là một điều xa lạ. Nó và “quyền im lặng” là hai mặt của một đồng xu, trong túi bạn, ở trong tay bạn, chỉ là bạn sẽ sử dụng nó như thế nào mà thôi?

Bởi vì “không phải bao giờ một người tốt cũng đồng nghĩa với một công dân tốt.” mà công dân tốt cũng chỉ là một định nghĩa được áp lên xã hội do một chính thể cầm quyền. Tôi thì thích làm người tốt hơn…

 

Tương Nhi

Lảm nhảm về Magna Carta

 

Featured Image: Wikipedia Commons

 

  • Magna Carta hoặc Magna Carta Libertatum trong tiếng Latin (the Great Charter of the Liberties) nghĩa là ”Đại Hiến Chương” hoặc ”Đại Hiến Chương Về Những Tự Do”.
  • Là một bản văn kiện ký (đóng dấu) vào ngày 15 tháng 6 năm 1215 bởi Vua John của Anh Quốc tại Runnydere, gần Windsor.
  • Magna Carta là một sự thỏa thuận trên văn bản giữa Vua John và một nhóm quý tộc nổi loạn nhằm phản đối những mệnh lệnh lạm quyền của ông.
  • Magna Carta gồm có 63 điều, dài tầm 4000 chữ.
  • Bản Magna Carta gốc được ghi bằng tiếng latin. Phiên bản tiếng Anh được dịch vào năm 1534, hơn 300 năm sau khi ngày ký kết.
  • Phiên bản dịch đầu tiên là từ tiếng Latin sang tiếng Pháp, vì thời đó tiếng Pháp là ngôn ngữ của giới quý tộc. Sau khi Quân Norman cầm quyền vào năm 1066, Pháp là ngôn ngữ chính thức ở Anh Quốc cho hơn 600 năm.
  • Quan niệm của nhà Vua là, Vua sống trên luật pháp, vì ông ta lấy quyền cai trị từ Thượng Đế và chỉ trả lời Thượng Đế, không ai khác.
  • Quan niệm theo các nhà thần học thời đó là nhà Vua sống dưới pháp luật, pháp luật là pháp luật tự nhiên, đó là pháp luật của Thượng Đế. Và nếu đó là luật của Thượng Đế, nhà Vua phải tuân theo cũng như thi hành nó.
  • Magna Carta chấm dứt cuộc tranh luận này và xây dựng lên lý tưởng rằng mọi người, kể cả nhà Vùa đều phải sống dưới luật pháp.
  • Magna Carta là nền cốt cho ngành hành pháp, hiến pháp và nền dân chủ của Anh Quốc và các quốc gia Tây Phương.
  • Xét xử bởi ban hội thẩm được ghi vào trong Magna Carta và trở thành nền tảng cho việc xét xử.
  • Magna Carta có rất nhiều điều khó hiểu cho con người hiện đại vì bối cảnh cũng như văn hóa thời đó khác xưa bây giờ.
  • Magna Carta quy định tiêu chuẩn hóa khối lượng rượu, bắp và trọng lượng.
  • Điều 13 trong Magna Carta quy định và biến thành phố London thành một thành phố tự do.
  • Magna Carta cũng có vài câu khó hiểu đối với con người hiện đại như điều số 11: “Nếu một người chết nợ tiền người Do Thái, vợ anh ta có thể nhận số tiền mà không cần phải trả nợ.”

Magna Carta có 63 điều, nhưng sau đây là 4 điều chính và quan trọng nhất:

  1. ”Vua cũng không được đứng trên pháp luật và không được tùy tiện tăng thuế, bắt người.”
  2. ”Không một công dân tự do nào bị bắt, bị giam giữ nếu không có tòa án do chính các công dân khác lập ra để xét xử và kết tội. Đây là tiền đề cho chế độ bồi thẩm đoàn hay hội thẩm nhân dân về sau.” (“No free man shall be seized or imprisoned, or stripped of his rights or possessions, or outlawed or exiled, or deprived of his standing in any other way, nor will we proceed with force against him, or send others to do so, except by the lawful judgement of his equals or by the law of the land..”)
  3. ”Công lý bị trì hoãn cũng có nghĩa là công lý bị từ chối (‘Justice delayed is justice denied’), trì hoãn việc xét xử và phán quyết cũng được xem là thiếu trách nhiệm thực thi luật pháp.” (To no one will we sell, to no one deny or delay right or justice.”)
  4. ”Giáo hội Anh được tự do, không bị kiểm soát bởi Tòa Thánh Vatican và các thế lực khác.” (”First, that we have granted to God, and by this present charter have confirmed for us and our heirs in perpetuity, that the English Church shall be free, and shall have its rights undiminished, and its liberties unimpaired.”)

Nếu đọc giả muốn đọc bản gốc và bản tiếng Anh của Magna Carta thì có thể vào đây.

 

Ku Búa

Sự tĩnh lặng trong tâm hồn

Featured Image: Danielle Nelson

 

Lời mở đầu của tác giả:

Trước khi có sự khởi đầu của bài viết. Tôi xin được cảm ơn mọi người đã bỏ một ít thời gian để đọc bài này, đối với tôi thì đây là lần đầu tôi post bài viết đầu tay của mình nhưng cũng phải xem xét lại vì trước khi được công khai tới người đọc thì cũng phải chịu sự kiểm duyệt bài viết và đánh giá khả năng tiêu chuẩn nhầm đáp ứng cho nhu cầu người đọc thêm bổ ích và tránh những dụng ý xấu, không thích hợp để có một bài viết sinh động và đầy kinh nghiệm hữu ít và cũng đây là tiếng nói nhỏ của tôi được rộng rãi cho người đọc để phê bình hay cho lời khuyên để tôi được góp phần cải thiện hơn.

Và nếu bài này chưa được sự chấp thuận từ ban quản lý thì tôi cũng chẳng đáng phải buồn. Vì được viết để trình bày tư tưởng để diễn đạt ý niệm của mình cho cộng đồng được biết thì hẳng là sự vinh hạnh nhưng nếu không được công khai thì cũng có quản lý xem thì cũng vui rồi!


Đối với cuộc sống của chúng ta đang hiện hữu đây thì quả thật là một cuộc sống lao đao và nhộn nhịp chưa một chút dừng chân, ngồi nghĩ. Như Đức Phật có nói: “Đời là bể khổ.” Quả thật câu nói chẳng sai chút nào nhưng cũng phải suy ngẫm nhiều để đạt được một mục đích nào đó mà ta muốn chạm tới, để được hoàn thiện hơn chấp vá thêm cho quy luật đạo đức con người còn thiếu xót trong cuộc sống.

Nhu cầu là thiết yếu, nhưng nhu cầu hiện nay con người đang theo đuổi là tiền bạc, danh vọng và còn khai thác thêm những bản tính vốn xấu của con người như: Tham lam, ích kỷ, độc ác, đố kỵ… nếu chúng ta nhìn về mặt tiêu cực thì tật xấu kể cũng chưa hết. Càng khêu gợi cái xấu xa, thì con người càng đắm chìm trong tội lỗi. Một đất nước đầy dục vọng thì hẳn đất nước ấy chứa đầy sự thâm độc và mưu mẹo, xảo quyệt. Muốn quyền lực hơn, muốn được nhiều hơn, muốn được mạnh hơn, muốn được uy quyền hơn.

Điều gì cũng muốn nhưng bên trong cái muốn đó họ có cảm nhận được hạnh phúc không? Trong tâm hồn họ đã tĩnh lặng chưa? Điều đó nó cứ quay vòng như chiếc kim đồng hồ khi bạn đang tìm kiếm một hạnh phúc để thỏa mãn trong tâm bạn nhưng khi bạn với tới được và đạt được nó, thỏa mãn lòng ao ước trong bạn và bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc. Nhưng nó không phải là hạnh phúc viên mãn mà chỉ tồn tại trong chốc lát như sao băng bay qua trước mắt mình và vội biến mất một cách nhanh chóng vậy.

Bạn sẽ cảm thấy mọi thứ mình tìm kiếm đều không thỏa mãn trong tâm bạn và bạn từ bỏ nó, từ bỏ những nỗ lực bạn đạt nó rồi bạn lại tìm kiếm mục đích khác cao cả hơn mục đích trước. Cứ như thế chỉ như chiếc kim quay từ điểm xuất phát rồi cũng trở về điểm xuất phát thì đến khi nào ta mới tìm kiếm sự hạnh phúc và tĩnh lặng trong tâm hồn mình?

Chúng ta thường có suy nghĩ như người lớn, mọi việc làm đều phải lớn, phải điềm tĩnh, hoài nghi và suy nghĩ nhiều, lao đao nhiều rồi lại bận rộn nhiều cái gì cũng phải sống sao cho như người lớn. Nếu như một đứa bé bảo cha mình chơi đồ hàng xén, nấu ăn bằng cát, rồi makeup thì không biết có ai chấp nhận chơi cùng không? Nếu có thì cũng phần ít nếu không thì hẳn là phần nhiều. Mà xét về mặt có thì chúng ta chơi cùng đứa bé, chúng ta trở thành diễn viên và trở thành một đứa bé cỡ tuổi nó mọi biểu cảm ta làm nhầm đem lại sự hạnh phúc cho đứa bé ấy nhưng chúng ta có còn hồn nhiên, ngây thơ và dữ dội như thở nhỏ khi chúng ta kết thúc cuộc chơi với đứa bé không?

Như lời Chúa Jesus có nói:

“Ai không trở nên như trẻ nhỏ thì không được vào Nước Trời.” (Mat 18:3)

Đó là cách nhìn một cách ngắn gọn để chúng ta tìm kiếm hạnh phúc và tĩnh lặng trong tâm hồn mình, nhưng sẽ có người hỏi: Trở nên như trẻ nhỏ. Về phương diện thể lý tôi không thể thực hành được vì nay tôi đã lớn? Điều đó không phải ép buộc mình phải trở nên như trẻ nhỏ mà nhắc nhở cho ta thấy muốn tìm kiếm sự tĩnh lặng và hạnh phúc thì hãy nên dẹp bỏ mọi áp lực, những chật chội còn bận rộn trong cuộc sống.

Hãy dành vài phút, tĩnh lặng và tìm lại chính mình. Đó là điều tôi muốn diễn đạt cũng giống như Alexander Đại Đế ông nỗ lực chinh phục các nước với một mục đích ngớ ngẩn làm cho đất nước ông được bình yên. Nhưng thầy của Alexander là triết gia Aristoteles có hỏi ông:

“Sau khi chinh phục cả thế giới con sẽ làm gì?
Alexander nói: Con sẽ nghỉ ngơi.
Aristoteles: Vậy tại sao con không nghĩ ngơi ngay bây giờ.”

Nên hãy tĩnh lặng trong tâm hồn ngay bây giờ, đừng đợi khi ta về già sẽ từ bỏ sự bận rộn, áp lực vì nó sẽ khiến ta ám ảnh và cảm thấy hối tiếc hơn mà thôi! Mọi thứ đều mang cho ta sự tĩnh lặng miễn là hợp với tâm lý của mình. Chúng ta nghe điệu nhạc cũng tạo cho ta cảm giác thanh bình, chúng ta đọc sách cũng tạo cho ta cảm giác yên tĩnh hòa mình vào tri thức, chúng ta làm một buổi công tác từ thiện chúng ta cũng cảm thấy hạnh phúc và bình an trong tâm hồn,… tại sao chúng ta không làm như thế!

“Bầu trời đầy sao ở trên đầu tôi và quy luật đạo đức ở trong tôi.”  – Immanuel Kant

 

Nguyễn Duy

Lảm nhảm về tư duy An Cư Lạc Nghiệp của người Việt và đầu tư bất động sản

Featured Image: Pixabay

 

Giới thiệu: Đây là một bài lảm nhảm. Trong bài viết này, tôi xin được viết về tư duy An Cư Lạc Nghiệp của người Việt Nam và những ngộ nhận về đầu tư Bất Động Sản (BĐS).


 

Khi nghĩ đến đầu tư hoặc đầu cơ, đại đa số người Việt Nam sẽ nghĩ đến kênh đầu tư BĐS. Sau đây là những quan niệm phổ biến và có thể nói là những ngộ nhận về đầu tư BĐS.

  • Họ nghĩ và cho rằng BĐS sẽ không bao giờ xuống giá trong dài hạn.
  • Họ chỉ cần bỏ một % (phần trăm) tiền cọc và vay thế chấp ngân hàng phần còn lại. Thường thì 20-30%. Nghĩa là họ chỉ cần bỏ ra 2-3 đồng để đầu tư vào một thương vụ 10 đồng.
  • Từ trước đến giờ, BĐS là kênh đầu tư duy nhất người Việt Nam có được. Vì thị trường đầu tư tài chính (chứng khoán, quỹ mở, quỹ đóng, trái phiếu) chỉ mới gia nhập vào Việt Nam.
  • Họ có thể dùng tiền nhận được từ việc thuê BĐS để trả góp tiền vay hàng tháng (nếu vay thế chấp).
  • Quan niệm của người Việt Nam là mua nhà sẽ không bao giờ lỗ.

Quan niệm “An Cư Lạc Nghiệp” của người Việt

Người Việt Nam có quan niệm An Cư lạc Nghiệp. Ở đời trước tiên phải lo an cư, nghĩa là phải có một nơi để ở trước, và quan trọng hơn là mình phải là chủ nơi ở đó. Sau đó mới lo lạc nghiệp, nghĩa là xây dựng cuộc sống, làm việc, lập gia đình. Nhưng vì sao người Việt Nam lại có tư duy này còn người Phương Tây thì không phải không có, mà họ không coi trọng điều này cho lắm?

Theo phân tích thì có 8 nguyên nhân:

1. Việt Nam từ trước đến nay là một nước nông nghiệp nên người Việt Nam sinh sống với tư duy nông nghiệp. 1 người làm nông nghiệp sẽ sống trong cái làng cả đời, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, ít đi ra ngoài vùng. Nên đời sống họ chỉ là cái nhà và mấy sào ruộng.

2. Cái nhà trong văn hóa người Việt không chỉ là một nơi để ở, mà là một biểu tượng cho cuộc sống của họ. Một căn nhà thông thường sẽ có 3 thế hệ ở chung.

3. Người Việt Nam có tư duy làng xã. Khi đã sinh ra ở một nơi nào đó, người Việt Nam sẽ sinh sống ở đó cho đến chết. Điều này chỉ bắt đầu thay đổi khi Việt Nam mở cửa và hội nhập vào thị trường quốc tế. Người Việt Nam từ đó cũng thay đổi theo sự công nghiệp hóa của đất nước. Thay vì ở một nơi cố định, họ bắt buộc phải đi làm việc ở địa phương khác.

4. Thời bao cấp chính quyền đã áp dụng chính sách Hộ Khẩu, bắt buộc mọi người phải khai nhân trú và nếu muốn di chuyển sang địa phương khác phải có giấy phép thông hành. Sự di chuyển của người Việt Nam (nhất là người miền Bắc) đã bị kìm nén và kiểm soát toàn diện. Vì vậy nên người Việt Nam không có tư duy di chuyển theo công việc. Thế hệ trẻ sinh sau thời bao cấp không hề biết gì về điều này nhưng đây là một trong những ký ức khó quên của thế hệ trước.

5. Thời bao cấp ai muốn có tem phiếu lương thực phải có Hộ Khẩu, muốn có Hộ Khẩu phải có nhà, không có nhà và Hộ Khẩu thì bị coi như một người vô quốc tịch.

6. Chính sách Hộ Khẩu. Cho dù đã qua thời bao cấp nhưng chính quyền vẫn giữ chính sách Hộ Khẩu. Đây là một thứ ám ảnh tất cả những ai đi làm và sinh sống ở địa phương khác. Hộ Khẩu là một thứ cần thiết cho mọi thủ tục hành chính, nên ai cũng thèm khát để sở hữu một căn nhà ở nơi mình làm việc để có Hộ Khẩu và khỏi phải đối mặt với những thủ tục rườm rà này (Nếu muốn đọc thêm về Hộ Khẩu thì xin đọc giả đọc bài “Hộ Khẩu: một thứ khôi khài, vô lý và ngu ngốc“).

7. Giá nhà ở Việt Nam mắc gấp 20-30 lần thu nhập bình quân một năm của người Việt Nam. Ở các nước Phương Tây thì chỉ 4-10 lần. Nên việc đi làm để mua trả góp một căn nhà là điều ngoài sức tưởng tượng của đại đa số người Việt Nam. Những người sở hữu nhà ở các thành phố lớn luôn sống trên cơ và có nhiều lợi thế hơn những người nhập cư.

8. Người Việt Nam không có văn hóa cho thuê nhà chuyên nghiệp như ở Phương Tây. Thậm chí, một trong những loại người người Việt Nam ghét nhất là chủ nhà trọ. Tiền điện nước thì tính gấp 2-3 lần, tăng giá thuê thì bất thình lình, làm việc thì vô cùng kém chuyên nghiệp (dân thường hay dùng từ “mắc dại”). Vì vậy ở trọ là một điều người Việt Nam ghét nhất. Bản thân tôi cũng đã trải qua cảm giác này khi sinh sống ở Sài Gòn. Hiện tại thì tôi đang sống trong một căn nhà mua trả góp của mình. Nên tôi biết rất rõ cái cảm giác phải đi ở trọ khổ thế nào.

Còn người Phương Tây theo nhận xét và phân tích của tôi thì xem nhẹ việc này hơn, vì:

  • Họ sống trong nền kinh tế công nghiệp và chất xám. Họ thường di chuyển và thay đổi chỗ làm nên không có tư duy phải gắn bó với một địa phương nào. Họ đi đến đâu nơi công việc yêu cầu.
  • Người Phương Tây có văn hóa thuê nhà. Đa số hoạt động rất chuyên nghiệp, qua môi giới, có văn bản luật lệ và quyền lợi. Vì vậy nên họ cho thuê và ở lâu dài.
  • Người Phương Tây có tư duy cá nhân (còn người Việt Nam có tư duy gia đình), khi đã trưởng thành họ sẽ sống tự lập, ít về thăm nhà, người Việt thì ngược lại.

Chuyện của người bạn của tôi

Một người bạn của tôi đã đầu cơ cùng với vợ anh ấy vào một căn nhà cho thuê ở Sydney. Tôi không ở Sydney, cũng chưa bao giờ tận mắt đến xem căn nhà này. Trong thương vụ này, tôi không góp phần nào, mà chỉ làm tư vấn và phân tích. Tôi hoàn toàn không nhận được gì trừ kinh nghiệm. Tôi sẽ không đi quá sâu vào các chi tiết. Trong bài viết này tôi chỉ muốn chia sẻ kinh nghiệm, cũng như những ngộ nhận và rủi ro về đầu cơ BĐS. BĐS không như mọi người thường nghĩ là một kênh đầu tư siêu an toàn, mà nó là một con dao 2 lưỡi, nhất là khi bạn đầu tiên bằng tiền vay thế chấp. Sau đây là chi tiết của thương vụ đó.

  • Căn nhà mua giá: $600,000 AUD cách trung tâm Sydney 30km về phía Tây-Nam, gần thị trấn Campbelltown.
  • Đặc cọc 20%: $600,000 x 0.2 = $120,000
  • Tiền phí mua nhà: $20,000
  • Tiền luật sư, kế toán: $2,000
  • Chi phí làm thủ tục vay: $1,000
  • Thời hạn vay: 30 năm (1,560 tuần)
  • Trả góp hàng tuần: $650
  • Tiền thuê nhà: $550
  • Tiền túi bỏ ra để bù vào: $650-550 = $100. Chưa tính chi phí sửa chửa và phí quản lý của ngân hàng.
  • Sau 3-5 sẽ bán với dự tính là giá nhà sẽ tăng 3-5% mỗi năm.
  • Sau 5 năm, giá nhà sẽ là $765,768. Tính gọn lại là $766,000 (tối thiểu)
  • Tổng chi phí trả trong 5 năm (tiền bù lỗ và chi phí quản lý): ($100 + 50) x 52 tuần x 5 năm = $39,000.
  • Dự tính phần lời trước phí môi giới: $766,000 – $600,000 – $39,000 = $127,000.
  • Lời chỉ 127,000/600,000 = 0.21167 = 21%.
  • Nhưng vì chỉ bỏ ra $120,000 mà lời $127,000. Nên lời là 1.058 = 106% nhờ đòn bẩy tài chính (20% hoặc 1 chọi 5).
  • Nếu bỏ tiết kiệm ngân hàng thì sau 5 năm họ chỉ lời 15%.
  • Còn nếu đầu tư cổ phiếu không đòn bẩy thì họ chỉ lời tầm 20-30%.
  • Nhưng BĐS là còn dao 2 lưỡi.

Mặc dù tôi đã khuyên anh ta không nên đầu cơ vào BĐS lúc này vì theo phân tích của tôi Sydney đang có một bong bóng BĐS. Nhưng anh ta đã quyết định. Tôi chúc anh ấy thành công. Riêng tôi thì không thích đụng tới BĐS. BĐS là một trò chơi với con dao 2 lưỡi. Tôi chỉ đầu tư vào quỹ Exchange Traded Fund (ETF) và dùng đòn bẫy tài chính nếu cần. Đó chỉ là ý kiến riêng của tôi, tôi xin nói thêm trong bài viết khác. Tôi không thích BĐS, vì:

  • Khi mua một căn nhà, bạn khóa vốn (tiền) của bạn vào một nơi. Muốn rút phải mất thời gian và chi phí cao (3-6% phí môi giới và các chi phí hàh chính khác).
  • Giá nhà theo phân tích của tôi chỉ tăng bình quân theo lạm phát, nếu các bạn không tin thì có thể tự tìm hiểu.
  • BĐS tăng trưởng thấp hơn cổ phiếu 5-10%.
  • BĐS không linh động.
  • Quan niệm giá nhà sẽ không xuống là quan niệm hết sức sai lầm. BĐS là trò 2 lưỡi. Đợt bong bóng BĐS vỡ vừa rồi đã chứng minh điều này. Cá nhân tôi biết vài người đã mắc nợ mà không thể nào thoát được. Như tôi đã nói, BĐS là trò 2 lưỡi.

Đó là kinh nghiệm của tôi. Đây chỉ là một bài lảm nhảm.

 

Ku Búa

Tranh luận hoặc trở lại hầm tối

Featured image: Daniel

 

Khoa học không có những cuộc tranh luận là khoa học rùa què!

Chính ngay khi nhà khoa học nghĩ ra được điều gì, họ cũng phải thí nghiệm và thí nghiệm điều ngược lại để xác định lý thuyết. Khi thí nghiệm những điều chống lại lý thuyết, nhà khoa học không cầu mong nó sai, nhưng là tìm cái chỗ sai của mình để sửa lại lý thuyết ấy và cũng có thể bỏ đi để đi tìm cái mới. Vì thế, họ trình bày lý thuyết của họ và mong có được nhiều phản biện, và qua những cuộc tranh luận, lý thuyết của họ càng sáng ra hơn và càng được khẳng định hơn. Đó không phải là sự tự tin mà là cách đi tìm sự thật. Sự thật không phải là chân lý mà chỉ là được họ đang bảo vệ thành công… chưa bị đánh đổ.

Vào năm 1997, Adam Riess từng chắc rằng ông phát hiện ra một sai lầm rành rành trong kết quả nghiên cứu của mình. Khi đó, các phép đo đạc những ngôi sao phát nổ ở xa trong không gian gợi ý rằng vũ trụ đang giãn nở với tốc độ ngày càng nhanh, thay vì chậm lại như ông dự kiến. (1)

Nhà khoa học không bị mặc cảm vì những điều mình nghĩ và nói ra không đúng; nhưng họ thầm cảm ơn nếu họ biết được điều sai đó sớm hơn để họ có thể sửa chữa hoặc từ bỏ nó để đi tìm cái mới hơn. Do đó, họ rất cần những phản biện, điều chỉnh và ngay cả bác bỏ. Các tờ báo Science là mảnh vườn thí nghiệm giống cây trồng mới mà họ vừa lai tạo được ra sầu riêng hột lép hay bắp hột lép..Qua đó, các đồng nghiệp sẽ chỉ cho họ biết điều nhầm lẫn, non kém hay nghịch lý mà họ đang mắc phải. Với họ – những nhà khoa học – xem các báo Science hay các hội thảo khoa học là “trường” (école, université/champ) để học hỏi. Đó là sự thành thật của cái tâm khoa học.

Họ thiếu cái “ngã mạn!”
Họ chưa hề biết “tự mãn!”

Einstein ban đầu không thích ý tưởng về một vũ trụ giãn nở. Năm 1917, khi khám phá rằng các phương trình của mình không chính xác trong một vũ trụ tĩnh, Einstein đưa vào một yếu tố hời hợt là một lực giả thuyết nhằm sửa chữa vấn đề. Lực này được biết với tên gọi “hằng số vũ trụ.” Khi những quan sát sau đó cho thấy vũ trụ không đứng yên mà giãn nở, Einstein đã bỏ ý tưởng đó ra khỏi phương trình và gọi “hằng số vụ trụ” là “sai lầm ngớ ngẩn nhất” trong sự nghiệp của ông. (1)

Một cái “tâm” đáng kính!

Tâm của nhà khoa học là cái tâm rất “thành”…cái tâm rất “thật” …như cái tâm của một em bé mà Lão Tử đề cao:

“Hàm đức chi hậu. Tỉ ư xích tử.” (2)

Tạm dịch: Hàm dưỡng lấy sức cho đầy. Kẻ ấy ví như đứa con đỏ.

Mạnh Tử cũng bảo:

“Bất thất kỳ xích tử chi tâm.” =

Tạm dịch: Bậc đại nhân không đánh mất cái lòng của đứa con đỏ.

“Đứa con đỏ” nghĩa là mới sinh còn “đỏ hoẻn” mà tâm hồn trẻ thơ ấy là cái tâm thức chưa nhuốm buị trần và nói như thời đại môi trường ngày nay là “chưa bị ô nhiễm.” Đó là một tâm hồn trong trắng, chưa chất chứa những mưu mô, những ý đồ hay những manh ý ô tạp. Đó là tâm hồn còn đang “rỗng” (empty/vide), gọi là “tâm hư.”

Chính nhờ cái tâm vô “thành và thật” ấy mà nhân loại được ân hưởng bao nhiêu lợi ích từ những công lao khổ nhọc của họ.

Họ ít nói mà làm nhiều!

Bác sĩ Nguyễn Đình Nguyên (đại học New South Wales, Sydney-Úc) cho chúng ta biết một phản thành tựu rất đáng chú ý, tức là việc bác bỏ PSA, một biện pháp vốn được áp dụng rộng rãi trong chẩn đoán ung thư. Việc biện pháp chẩn đoán sớm ung thư PSA bị bác bỏ cho thấy con đường phát triển của y học dựa trên những phát hiện và phản biện, với các điều chỉnh và sửa đổi không ngừng. (3)

Chưa bao giờ giới khoa học tuyên bố “đó là chân lý,” “đó là sự thật:” Prada hay Vérité!

Thuyết tương đối của nhà bác học Albert Einstein với phương trình E=MC2, là một bộ phận cơ bản của vật lý học hiện đại. Phương trình này dựa trên khái niệm là không có gì có thể di chuyển nhanh hơn ánh sáng.

Nhưng “các nhà khoa học nói họ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra rằng các neutrino này đã đến nơi trong vỏn vẹn có 60 nano giây, tức là 60 phần tỉ của một giây đồng hồ, và như thế là nhanh hơn tốc độ của ánh sáng.”

“Nếu các phát hiện về neutrino tỏ ra là xác thực, thì các nhà vật lý sẽ bị buộc phải xét lại phần lớn những gì đã phát hiện được trong thế kỷ qua về cách thức vũ trụ vận hành. Nhóm nghiên cứu nói kết quả cuộc thí nghiệm rất khó tin, ngay cả đối với các nhà khoa học đã phát hiện ra nó.”

“Nhóm nghiên cứu yêu cầu các đồng nghiệp ở những nơi khác kiểm tra lại kết quả để bảo đảm không có lầm lẫn nào trong phương pháp cũng như cách tính toán của họ.”(4)

Lời trần tình đó không phải là các nhà khoa học thiếu tự tin mà là sự cẩn trọng trong suy tư, trong việc làm và kể cả trong thành tựu đã thu lượm được.

Sự khiêm tốn và nhã nhặn của khoa học đem lại lợi ích thực sự cho nhân loại hơn là khoa tu từ quỷ biện của tôn giáo và chính trị. Chính vì thế mà Dale Carnegie khuyên chúng ta không nên đem chính trị và tôn giáo vào câu chuyện giữa bạn hữu và trong giao thương.

Khoa học không có phản biện và lòng dũng cảm khiêm tốn thì nhân loại vẫn còn trong đêm trường tăm tối của Đường Minh Hoàng du nguyệt điện và Hậu Nghệ dương cung bắn mặt trời như thằng Cuội nằm gốc cây đa ngắm chị Hằng vậy!

Nhưng còn một thứ tinh thần khác

“Bằng tuyên truyền khôn ngoan và dai dẳng, người ta có thể khiến cho quần chúng nghĩ rằng thiên đường là địa ngục, địa ngục là thiên đường” và “Tuyên truyền “không ăn nhập gì với sự sáng sủa rõ ràng của khoa học, cũng như bích chương quảng cáo không có ăn nhập gì với nghệ thuật. Đám quần chúng càng rộng lớn bao nhiêu, thì trình độ của tuyên truyền lại càng phải thấp bấy nhiêu.” — Mein Kampf – Adolf Hitler – tr. 240-241 – Robert B.Downs – Hoài Châu và Từ Huệ dịch – Văn Đàn -1970

Đối tựơng để chính trị và tôn giáo vận động là 99.99% dân chúng kém may mắn nhất: những ngừơi ít học nên ít hiểu biết nhất.

Với họ, những nhà chính trị, nói như Machiavelli (Quân vương = Le Prince): “…nhưng bản tính con người vốn chất phát và vốn hoàn toàn bị chi phối vì những nhu cầu trước mắt đến nỗi ai muốn lừa dối họ, sẽ luôn luôn tìm thấy những kẻ sẵn lòng làm kẻ chịu bịp…” – Những tác phẩm biến đổi thế giới – Robert B.Downs – Hoài Châu-Từ Huệ dịch – Văn Đàn -1970 – tr. 25

Đó là cái cách mà bà mẹ Tăng Sâm bị lừa: Có người đến bảo với mẹ Tăng Sâm “Tăng Sâm giết người,” bà điềm nhiên ngồi dệt cửi. Lát sau có người đến nói “Tăng Sâm giết người,” bà khẳng định: “Không bao giờ.” Sau lại có người đến mách “Tăng Sâm giết người,” bà tự hỏi “Có thực không?” Không lâu sau đó, cũng lại có người đến nói cho bà biết “Tăng Sâm giết người,” bà bắt đầu lo lắng và thầm nghĩ “lẽ nào con ta lại làm thế.” Nhưng tiếp theo lại có người hớt ha hớt hãi chạy đến cho bà hay “Tăng Sâm giết người.” Bà liền vứt cả con thoi và bỏ khung cửi chạy đi tìm con. Chuyện đó được Machiavelli (“Le Prince”) lý giải: dầu là sự việc không có thật, nhưng cứ khẳng định. Lúc đầu bị phản đối đấy nhưng cứ lì đi, nói nữa đi sẽ dẫn “người ta” đến chổ nghi ngờ là thành công một nữa rồi. Không nao núng, cứ tiếp tục khẳng định rồi “người ta” sẽ bị lung lạc. Từ chỗ bán tín bán nghi đó mà bạn càng khẳng định như đinh đóng cột thì mối hoài nghi dần dần tan như sương mù buổi sáng… và người ta tin ngay.

Trị thuật là thế ấy! Nói như Hitler, tuyên truyền như quảng cáo thôi, đâu cần sự thật! Vì thế chính trị không cần đến tranh luận là vậy. Tranh luận chỉ làm cho vấn đề được phơi ra ánh sáng, chỉ bồ túc thêm sự rõ ràng làm cho tuyên truyền mất hết khả năng thuyết phục. Chính trị mất hết hiệu năng.

Và còn một thứ tinh thần nữa rõ ràng hơn

“Bất cứ một cuộc tranh luận nào cũng không mang lại thông cảm và đoàn kết, càng tranh cãi, chúng ta càng rời xa chân lý, có chăng chỉ là chạm tới những mảnh vỏ rời rạc cuả chân lý mà thôi! Gần như tất cả mọi cuộc tranh luận đều phù phiếm, chúng không đưa bạn đến đâu cả! Ngay cả khi bạn đã thắng trong cuộc tranh luận, kết quả thắng cuộc đó cũng chỉ là gượng ép mà thôi! Ngày hôm nay, bạn có thể làm đối phương im tiếng, không thể tranh cải gì thêm được nữa, nhưng chưa chắc họ đã chịu thua hay hoàn toàn khuất phục. trong lòng họ vẫn ấm ức.” (Lỗ Trí Thâm ngày nay chứ không phải Lỗ Trí Thâm Luong Sơn Bạc.)

Và rằng: Họ khôn khéo giăng cái bẫy maya “vô minh” để hù dọa người yếu bóng vía và tự cao tự đại sợ mà ấm a ấm ớ hùa theo họ để khỏi bị mang tiếng là “ngu” (ngu lậu). Andersen không hư cấu từ tưởng tượng ra chuyện ông hoàng “mặc áo tồng ngồng” để chọc quê lũ ngu mà tự cho là mình sáng. Chuyện thật 100% này cũng được nhà văn Pháp André Maurois tường thuật lại chuyện một nhạc sĩ dương cầm dấm dớ đăng đàn biễu diễn một đêm “nhạc im lặng”; thính gỉa là những nhà danh gia vọng tộc, những giáo sư, học gỉa ưu tú. Tất cả đều bị ông nhạc sĩ này “bịp” để thử xem cái ngu của họ đến đâu!

Chuyện rằng:

“Chúng ta đã thấy những cái điên khùng không thể tưởng tượng nổi. Nhật báo Anh đã đăng tin một nhà chơi dương cầm vô danh quảng cáo rầm rộ rằng sẽ có một buổi hòa tấu nhạc yên lặng. Đúng ngày đó, phòng chật ních thính giả. Bậc diệu thủ im lặng ngồi trước mặt đàn, làm bộ chơi đàn, nhưng dây đàn đã gỡ hết cho nên cần đàn không gây một âm thanh nào cả. Thính giả liếc trộm các người ngồi bên xem có nên phản kháng không. Nhưng các ông ngồi bên cứ thản nhiên, cử tọa đều kiên nhẫn, ngồi yên. Sau hai giờ yên lặng, buổi tấu nhạc chấm dứt. Nhạc sĩ đứng dậy chào thính giả. Cử tọa nồng nhiệt vỗ tay khen. Hôm sau, trên vô tuyến truyền hình, nhạc sĩ im lặng đó kể lại câu chuyện và kết: “Tôi muốn biết xem cái ngu xuẩn của con người tới mức nào; nó thật vô biên.”

Tôi thì tôi không nói “cái ngu xuẩn” mà nói “cái nhu nhược” của con người. Những thính giả đó biết rằng họ không nghe thấy gì cả, nhưng họ sợ rằng nếu phản kháng thì không hợp thời. Jean Cocteau bảo:

“Công chúng đã từng bị đập quá đến nổi họ tự tát vào má mình chứ không vỗ tay để khen.”

Thói làm ra vẻ tán thưởng mà sự thật chẳng thích mà cũng chẳng hiểu gì cả; cái thói đó gọi là thói “ đua đòi chuộng mốt.”

Nhiệm vụ của các bạn không phải là trừ sạch cái thói đó cho thời đại của bạn (vì vô phương trừ được), mà là ngăn bớt những tai hại của nó lại, và chống lại nó.”(6)

Tôi thì tôi bảo đó là bệnh “a-dua” hèn hạ của lũ lòi tói! Để mượn ngạn ngôn của người Pháp minh họa về bọn này:

“Tant d’hommes ne seraient pas insolents si tant d’autres n’étaient pas si lâches.”
(Tạm dịch: Nếu không có nhiều người khiếp nhược thì cũng không có nhiều người ngạo mạn thế.)

Tôn giáo, họ dùng thủ thật “cả vú lấp miệng em:” nếu là một đưa bé miệng còn hôi sữa thì chỉ còn biết ú ớ mà thôi. Họ đang đêm ra đường trồng cây cột giữa đường rồi hô hoán lên…chửi bới…tấn công…(thật ra không có cây cột đó từ trước)…thế là mọi người cho rằng họ có lý…đúng…vỗ tay hoan nghênh. Họ đạt được mục tiêu: xô người kia vào bẫy việt vị một cách gian trá!

“Tất cả mọi cuộc tranh luận thực ra đều mang ý nghĩa sai lệch, kệch cỡm, bởi vì: Không một ai đạt tới chân lý qua tranh luận cả! Chẳng qua chỉ là để khoa trương cái TỰ NGÃ, nhưng nhiều người đã tự lừa dối mình rằng đã đạt tới chân lý, giác ngộ qua những cuộc tranh luận. Họ lấy sự hơn thua trong các cuộc tranh luận làm dấu móc đo trí thức và mức độ tu tập, giác ngộ cuả họ! Thật hết sức lầm lẫn. Làm sao gọi là chân lý khi đầu óc bạn chứa đầy tư tưởng háo thắng, phải đánh gục đối phương, phải dứt khóat thắng cuộc tranh luận để chứng tỏ cái sở học, sở trường, sở đắc cuả mình! Một khi bạn cố dùng mọi cách để thắng đối phương, bạn tự dưng là một kẻ bạo lực cho dù chỉ là BẠO LỰC TƯ TƯỞNG!”

— Lỗ Trí Thâm

Người này đại diện cho cái bạo lực ấy, kết tội cho người tranh luận là khoa trương cái TỰ NGÃ…lấy sự hơn thua trong các cuộc tranh luận làm dấu mốc đo tri thức…đầy tư tưởng háo thắng…để chứng tỏ sở học…hay chính tác giả thành thật với chính mình…như thế! Lấy bụng ta suy ra bụng người để thành một khẳng định

Họ nói nhiều, rao giảng nhiều; nhưng lỡ có ai đó thắc mắc…đặt lại vấn đề với họ thì họ như đĩa phải vôi và rằng họ cho kẻ ấy là ngã mạn, là kêu ngạo…dám phản biện lại họ…phản bác chân lý của họ.

Có người của tôn giáo này thì cho rằng “ngôn ngữ” thì hồ đồ…mơ hố không có thực chất. Thế nhưng họ lại đầy ngôn ngữ đến tận cùng chữ nghĩa và trượt ra khỏi miền lý luận. Đến cùng đường thì họ kết luận: “không thể nghĩ bàn!” Không thể nghĩ bàn (tức là cùng đường của tranh luận) là họ đóng lại tranh luận, không cho ai bàn đến nữa. Là họ thủ đắc chân lý ngay tại đó…tại chỗ “không thể nghĩ bàn”. Chân lý tại vô ngôn! Và chân lý tại mầu nhiệm! Nhưng nói…viết…giảng thuyết…thì vô cùng vô vàn và vô tận!

“Bất tri, tri, bệnh.” — Lão Tử

Tạm dịch: Không biết mà làm ra vẻ biết là bệnh.

Đó là cái “ bệnh dư chữ” của người thừa chữ… Bệnh này bị Đức Khổng Tử bắt việt vị: “Biết thì nói là biết. Không biết thì nói là không biết. Ấy mới thật là biết.” (Luận Ngữ). Và Tổ Tiên ta rút thẻ đỏ đuổi ra khỏi sân, treo giò: “Biết thì thưa thì thốt. Không biết thì dựa cột mà nghe.” Loại trừ bọn xấu chơi gian. Cho ra ngồi ghế khán giả xem người ta “fair play.” Chơi đúng luật là chơi đẹp đấy!

Trò chơi chữ cũng lắm công phu, nhưng chơi cho thanh, cho lịch mới là chơi: chơi cho đài cát, chơi cho đời biết tay! Chơi như nghệ sĩ trên sân cỏ: hết sức mình, bằng cả tài nghệ với tất cả hăng say chiến thắng nhưng chấp hành luật chơi một cách sòng phẳng – nghĩa là công bằng – nghĩa là chơi đẹp đấy! Fair play!

Tu từ pháp là luật chơi, nhưng dụng nó để leo qua ngụy biện là chơi xấu, chơi gian, chơi bẩn. Người nghe đủ tĩnh sát để bắt liệt vị lối chơi hèn này. Lối chơi lén này sĩ phu Trung Hoa gọi bọn đó là: “Chó.”

“Khuyển nho!” Tôn Ngộ Không sợ nhất bọn này; nên trên trời, dưới đất chẳng sợ ma nào mà chỉ sợ có mỗi “chó!”

Chó Nho là thứ sủa càn, cắn bậy. Nó sủa ra đằng mồm bằng Tống Nho. Nó cắn bậy ra: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.

Socrates nhất quyết không để mình lẫn lộn vào bọn cyniques (khuyển nho) này tuy cùng dùng cái “nghệ thuật ăn nói”, nhưng Socrates đi con đường logique (biện luận=luận lý) còn lũ kia đi lối sophisme (ngụy biện.)

Trong Dialogues (Đối Thoại) của Plato, Socrates lên án gắt gao bọn khuyển vắt chày ra nước này mà đại diện là Protagoras và Gorgias. Khoa tu từ học là mẹ đẻ của nghệ thuật hùng biện mà phái ngụy biện “học hỏi để biết cách làm cho người khác tin vào cái gì mà ta muốn cho họ tin, ngõ hầu bảo đảm sự thắng lợi, và nếu có thể, cho sự thống ngự của chúng ta.”[André Cresson–Socrates–tr.69–Nguyễn Hữu Dung và Nguyên Sa dịch – Ngôn Ngữ xb.1966]

Tóm lại, ngụy biện là ai? Họ là người vận dụng tu từ pháp để đẩy ngôn ngữ trượt trên sàn chơi chữ nghĩa của họ. Họ đẩy từ ngữ đến đường cùng và hiếp nó ngay tại đó để đẻ ra đứa con của thú cưỡng danh (forcer/violer le mot).

Họ giao lửa cho con nít chơi cái trò chơi “tự do,” qua mặt luôn cả cái trí tuệ “quan phòng” (*), rồi hiếp luôn cả quan phòng và tự do để đẻ non ra đứa con tật nguyền “mầu nhiệm” trong cái rừng rú rậm rạp rối ren và giấu vào đêm đen thủi đen thui mà chẳng ai thấy “nó” ra là cái gì; rồi hô hoán lên rằng đó là “tội hồng ân.” Một lối cưỡng danh thô bạo: “Tội” biến thành “phúc!”

“VÔ” bị đuổi đến “vô không nghĩa là không” và rượt vòng vòng đến “vô không nghĩa là không phải là không có” lọt vào cái rọ “Không Luận” rồi họ đẩy luôn đến “Không Không Luận” làm ta chóng mặt.

Để bảo đảm sự thắng lợi, họ dùng chiến thuật hù dọa: “kêu ngạo!” “vô minh!”

-Kẻ nào kháng biện là trịnh thượng, là kêu ngạo!
-Đứa nào ấm ớ hội tề là ngu độn, là vô minh!

Để chứng tỏ “mình khiêm nhường”/ “giác ngộ” thì đành ngậm bồ hòn: xin chấp nhận dẫu cho khó thương, dầu chẳng biết gì! Cho nên “ai muốn lừa dối họ, sẽ luôn luôn tìm thấy những kẻ sẵn lòng làm kẻ chịu bịp” (Machiavelli)

Có người thì bảo họ ngạo mạn, nhưng cũng có người thì bảo họ sợ ma!

Họ là ai? Kant viết:

“Khai minh là việc con người đi ra khỏi sự không trưởng thành do chính mình tự chuốc lấy.” Không trưởng thành là sự bất lực không biết dùng đầu óc của mình mà không có sự hướng dẫn của người khác. Vì thế, ông bảo khẩu hiệu của sự Khai minh là: “Sapere aude!” (Latin: “Hãy dám biết!”) hãy có gan dùng đầu óc của mình. Con người rất thích ở yên trong tình trạng không trưởng thành, vì mọi việc đã có người khác chỉ dẫn, sắp đặt, lo liệu. Thoát khỏi “xiềng xích êm ái” ấy, con người thấy bơ vơ, lúng túng, vì không quen suy nghĩ và vận động tự do..” (Bùi Văn Nam Sơn)

Họ không tự cởi trói cái dây lòi tói mà họ đã tự buộc họ vào cây cột chân lý của họ. Cái “xiềng xích êm ái ấy” chính là cái “hầm tối bình yên” của họ. Họ đang sống trong kỷ văn minh hái lượm của mình.

“Tự mình đóng cửa thì hạn chế tầm nhìn, chỉ có hại cho mình thôi. Niềm tin được củng cố thực sự khi được so sánh và thử thách với các tư tưởng khác.” [Bùi Văn Nam Sơn]

Họ là những con ngựa bị che tầm nhìn hai bên…chỉ còn có mỗi con đường phía trước để mà đi thôi.

“Bối cảnh thế giới bây giờ đã khác hẳn, tất cả phải ngồi lại nói chuyện, bằng lý luận, lập luận trong một sự tỉnh táo, tương nhượng nhau để tìm một sự đồng thuận nào đó để làm việc, để sống và để hy vọng. “Bàn luận với nhau để mà sống,” đó là khẩu hiệu hiện nay của triết học. Sống, để cho người khác sống, và cùng nuôi một chân trời hy vọng, đó là điểm gặp nhau của xã hội loài người.” [Bùi Văn Nam Sơn]

Thảo luận là một hình thức Đối Thoại (dialogue) để luận bàn về một vấn đề hay một chủ đề giữa hai người hay giữa nhiều người cùng quan tâm. Mục đích của một cuộc thảo luận là cùng nhau suy xét kỹ càng một vấn đề để tìm ra cái hay, cái dở hay cái phải cái trái của vấn đề ấy để cùng tiến đến một ý kiến gần sự thật nhất.

Trong một cuộc thảo luận, mỗi bên đều cố gắng đưa ra những chứng cứ thuyết phục cho lập trường của mình để biện bác lý lẽ của bên kia. Như thế, một cuộc thảo luận không tránh khỏi sự tranh luận tức mỗi người phải cố gắng biện luận và chứng minh các chứng cứ của mình để bảo vệ lập trường của mình hòng bác bõ lập trường hay chứng lý của bên kia.

Nhờ những chứng cứ rõ ràng và lập luận chặc chẽ mà người này có thể chứng minh được cho người kia cái phải, cái đúng của mình và cái sai, cái trái của bên kia. Và qua những cuộc bàn cãi như vậy đôi bên có thể rút ra thêm sự hiểu biết mà bên kia cung cấp dù cho vấn đề ngã về bên này hay bên kia.

Tuy nhiên, trong mỗi cuộc tranh luận không tránh khỏi những quá khích mà học giả Trần Trọng Kim nêu ra:

“Số nhiều người mình khi đã cầm bút viết, thì chỉ dùng những giọng khích bác, những lời thô thiển, có khi lại buông lời quá đáng, làm mất cả cái hòa khí trong khi biện luận.”(7)

Và trong một cuộc thảo luận, cũng ý kiến của Trần Trọng Kim:

“Miễn là khi hai bên đối địch chỉ dùng công lý mà tranh luận, chớ không lấy tư ý mà công kích nhau, thì còn có gì ích lợi cho sự học vấn bằng nữa.” [sách dẫn trên -tr.344-]

Socrates là triết gia đầu tiên dùng phương pháp đối thoại để cùng người đối diện thảo luận một vấn đề mà người ấy quan tâm. Socrates gợi ý và người kia bày tỏ ý kiến của mình rồi hai bên cùng xét đến ý kiến của nhau và mỗi bên đưa ra những bằng chứng và lập luận của riêng mình. Với phương pháp này, mục đích của Socrates không nhằm tới việc hơn thua mà chỉ là kích hoạt suy nghĩ của người đối thoại để người đối thoại kia có dịp suy gẫm vấn đề đã được nêu ra.

Như vậy, “thảo luận là một cuốn sách sống” mà ta có thể mở ra để đi tìm thêm hiểu biết, mở tầm nhìn rộng rãi hơn…cho tâm hồn thêm khoáng đạt.

Và triết học là những chuyến viễn du lênh đênh nghìn trùng…vượt phong ba bão táp để tìm đến mép rìa sự thật…còn hơn là ngụp lặn trong biển cả mênh mông vô bờ vô định vô lối vô duyên.

“Đến với triết học là để tìm sự nghi vấn, để làm lay chuyển những định kiến và kiểm chứng lại niềm tin sẵn có. Nó làm ta mất ngủ hơn là an tâm. Tất cả phải được đặt lên bàn bằng sự nghị luận, phải tỉnh táo và lắng nghe người khác nói, đó là tinh thần của triết học và khoa học” (5) [Bùi Văn Nam Sơn]

Và với văn học cũng thế:

“Văn học đích thực _ đó là thứ văn học có khả năng làm đảo lộn trật tự , có thể là trật tự xã hội , trật tự chính trị hay trật tự trong mỗi cá nhân . Nó không làm cho ai đó ngủ quên với cách nghĩ đơn giản, buộc người ta phải nhìn vào cái người ta không quen nhìn . Đó là một trong những tiêu chí cho thấy sách nào là văn học , sách nào không. Nói một cách khác , có những cuốn sách làm ta vui một chút, buồn một chút …..nhưng cũng có những cuốn sách giống như con sâu chui vào trong quả (là người đọc) và khuấy đảo những gì trong đó rồi biến ta thành một người khác.” — Nhà văn kiêm đạo diễn Pháp Philippe Claudel – Tuổi Trẻ – tr.13 – ngày 6.11.09]

Cuộc sống là một trường biện chứng vận động chứ không phải một giấc ngủ bình yên!

 

Vũ Ngọc Anh

Edit: THĐP


Chú thích :
(1) Thanhnienonline: “Định mệnh của vũ trụ được viết trên những ngôi sao”– 05/10/2011 — Nobel Vật lý 2011 cho nghiên cứu đột phá về tốc độ giãn nở vũ trụ
(2) Lão tử, Đạo Đức Kinh – Chương 55
(3) http://www.viet.rfi.fr/khoa-hoc/20111228-mot-so-thanh-tuu-lon-cua-y-hoc-the-gioi-trong-nam-2011
(4) http://www.voanews.com/vietnamese/news/faster-than-light-article-1st-upd-9-23-11-130446048.html
(5) Bùi Văn Nam Sơn: Đọc lại Bàn về tự do của John Stuart Mill (Nguyễn Văn Trọng dịch, NXB Tri Thức, 2006)
(6) André Maurois,  Thư Ngỏ Tuổi Đôi Mươi – Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê – tr.41-42 –
(7) 13 năm tranh luận văn học – Văn Học xb.tp.HCM.1995 – Tập II, bài Mời Phan Khôi tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói chuyện-tr.343-]

 

 

“Bạn nghĩ tiền bạc là nguồn gốc của tội lỗi?”

Featured Image: Bìa sách “Atlas Shrugged”

 

Một trong những bài văn, thực chất là một bài diễn văn của một nhân vật tên Francisco trong tác phẩm tiểu thuyết Atlas Shrugged, nổi tiếng nhất của Ayn Rand là một bài tôn vinh và bảo vệ tiền bạc và chủ nghĩa tư bản cũng như sự cao thượng của thị trường tự do. Các chính trị gia vì lợi ích cá nhân thường đánh vào lòng ghen tỵ của con người để đánh dìm sự thành đạt của những cá nhân thành đạt để thỏa mãn lòng ghen tỵ của đám đông. Trong bài văn này, Ayn Rand đã đứng lên bảo vệ sự thành công của mỗi cá nhân.

Tiền bạc và chủ nghĩa tư bản là hai thứ tất yếu và là dụng cụ để đưa con người lên một nền văn minh mới. Một xã hội văn minh là một xã hội biết bảo vệ, tôn trọng và tôn vinh thành công của mỗi cá nhân. Tiền bạc là biểu tượng cho sự văn minh đó và là đỉnh cao của nhân loại và sự sống. Nếu đọc giả muốn đọc bản gốc của bài diễn văn nổi tiếng này thì xin vào đây, tên của bài diễn văn này là “Francisco’s money speech” hoặc “So you think money is the root of evil?”.


 

Trong tiểu thuyết Atlas Shrugged xuất bản năm 1957 với đề tài là “vai trò của trí tuệ trong sự tồn tại của con người”, Ayn Rand đã đưa ra những khái niệm mới mẻ về giá trị của tiền bạc. Rằng ham mê tiền bạc không phải là nguồn gốc của mọi tội lỗi. “Sự ham mê tiền bạc tức là nhận thức được rằng tiền được làm ra nhờ năng lực của con người và là phương tiện để đổi lấy những gì xứng đáng nhất…“Tiền bạc chính là thước đo giá trị trí tuệ, đạo đức, năng lực và nhận thức của mỗi con người và của cả xã hội, là nguồn gốc của mọi điều tốt đẹp khi người ta nhận thức đúng đắn về giá trị của nó.

Tiền bạc có phải là nguồn gốc của mọi tội lỗi không? Nếu không thì nguồn gốc của đồng tiền là gì? Đó là một công cụ trao đổi, là biểu hiện vật chất của nguyên tắc giao dịch thương mại của con người. Trong đó, người ta trả giá cho giá trị họ nhận được. Đó không phải là công cụ của những người ăn mày đi xin ăn bằng những giọt nước mắt, cũng không phải là vũ khí của kẻ cướp dùng vũ lực để chiếm đạt của cải mà chỉ có những người biết lao động mới có khả năng làm ra đồng tiền. Bạn nhận những đồng tiền trả công cho nỗ lực của mình vì biết rằng bạn có thể dùng nó để đổi lấy sản phẩm do nỗ lực của người khác làm ra.

Đồng tiền tồn tại trong cái chân lý rằng mọi người có quyền sở hữu lao động và trí tuệ của anh ta. Nó không cho phép một sức mạnh nào có thể đại diện cho sức lao động của bạn, trừ khi đó là sự tự nguyện của một người bán sức lao động của anh ta để nhận tiền công. Đồng tiền chỉ cho phép những giao dịch đảm bảo lợi ích của hai bên trên cơ sở tự nguyện.

Đồng tiền đòi hỏi bạn phải nhận ra rằng con người làm việc để nhận được lợi ích chứ không phải chịu thiệt hại, để có lợi nhuận chứ không phải mất mát; rằng đồng tiền không phải là trâu ngựa để mang trên vai những nỗi khổ cực của bạn; rằng bạn phải đem lại cho nó giá trị chứ không phải thương tổn: rằng sự ràng buộc giữa người với người là sự trao đổi hàng hoá chứ không phải những khổ đau. Khi đó, khả năng lao động của một người sẽ là những gì mà anh ta được hưởng. Đó là những quy tắc sống mà công cụ biểu hiện của nó là đồng tiền.

Nhưng tiền chỉ là công cụ

Nó có thể đưa bạn đi bất cứ nơi nào bạn muốn nhưng không lái xe thay bạn. Nó giúp bạn thoả mãn những nhu cầu của mình, nhưng không đem lại cho bạn những nhu cầu đó. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc cho con người khi họ không hề biết hạnh phúc là gì, không thể đem lại những quy tắc về giá trị có giá trị, và cũng không đem lại mục đích khi anh ta không biết mình muốn gì.

Đồng tiền không thể mua trí thông minh cho kẻ ngốc, mang lại sự thán phục cho kẻ hèn yếu, sự kính trọng cho kẻ bất tài. Những người muốn mua trí tuệ của những người tài giỏi hơn mình bằng tiền chứ không phải bằng lý trí thì cuối cùng sẽ trở thành nạn nhân của sự kém cỏi của chính anh ta.

Bản án một người đưa ra cho nguồn sống của mình thì cũng là lời tuyên án cho cuộc sống anh ta. Nếu cái nguồn sống ấy bị vấy bẩn thì anh ta đã tự làm hại cuộc sống của chính mình. Nếu bạn kiếm tiền bằng những việc làm không chính đáng, bằng việc thoả mãn những thói hư tật xấu hay sự dốt nát của người khác, bằng việc tiếp tay cho kẻ xấu, bằng việc hạ thấp nhân phẩm, bằng việc làm những điều bạn coi thường với hy vọng nhận được nhiều hơn khả năng của mình, thì đồng tiền bạn kiếm được chẳng đem lại chút vinh quang nào.

Những thứ bạn mua bằng đồng tiền đó không phải là phần thưởng mà là nỗi ô nhục, không phải là chiến lợi phẩm mà là sự hổ thẹn. Khi đó bạn sẽ thấy rằng đồng tiền quả là tội lỗi bởi nó không giữ lại cho bạn lòng tự trọng, không cho phép bạn thích thú với những hành vi xấu xa của chính mình.

Bạn cho rằng lòng ham mê tiền bạc là nguồn gốc của mọi tội lỗi ư? Ham mê một thứ đồng nghĩa với am hiểu về nó và hiểu bản chất của nó. Ham mê tiền bạc tức là nhận thức được rằng nó được làm ra nhờ năng lực của con người và là phương tiện trao đổi lấy những sản phẩm xứng đáng nhất. Chỉ có những người bán rẻ tâm hồn mình mới là kẻ lớn giọng nói rằng họ căm ghét đồng tiền vì anh ta có lý do để nói như thế. Những người yêu tiền bạc sẵn sàng làm việc để có tiền và tin chắc rằng họ xứng đáng với những đồng tiền đó. Đồng tiền đòi hỏi rất cao về phẩm giá nếu con người muốn kiếm tiền và giữ được nó.

Những người không có lòng can đảm, tự hào hay tự trọng; những người không cảm nhận được mặt tốt đẹp trong quyền lợi của anh ta đối với đồng tiền; những người không sẵn lòng bảo vệ đồng tiền mình làm ra như chính mạng sống của mình; những người cảm thấy có lỗi bởi sự giàu có của mình; tất cả họ sẽ chẳng sung túc được bao lâu. Họ sẽ là con mồi thơm cho những kẻ săn tiền, những kẻ đã rình rập từ lâu và chực xuất hiện khi đánh hơi thấy mùi của những kẻ xin được tha tội vì anh ta đang sở hữu một gia sản.

Đồng tiền là thước đo đạo đức của một xã hội. Khi thương mại được thực hiện không qua thoả thuận mà nhờ sự cưỡng ép, khi để được sản xuất bạn phải xin phép một kẻ không hề lao động, khi tiền chảy vào túi những người buôn bán những ân huệ thay cho hàng hoá, khi người ta trở nên giàu có nhờ vào quyền lực hay tiền hối lộ hơn là lao động, khi luật pháp lại đi bảo vệ những kẻ như thế chứ không phải là bạn, khi dối trá được tôn vinh còn thành thật bị trừng phạt; bạn sẽ thấy rằng xã hội đó đã đến hồi lụn bại.

Đồng tiền cao quý đến nỗi nó không thể chung sống cùng súng đạn hay bạo lực. Nó không cho phép một xã hội tồn tại dựa vào một nửa là của cải kiếm được còn nửa kia là sự cướp bóc. Khi trong xã hội xuất hiện những kẻ phá hoại, chúng sẽ bắt đầu từ đồng tiền bởi đồng tiền là công cụ bảo vệ cho con người và cơ sở tồn tại của đạo đức.

Nếu bạn vẫn chưa khám phá ra đồng tiền là nguồn gốc của mọi điều tốt đẹp thì bạn sẽ phải đi đến chỗ tự huỷ hoại, Khi đồng tiền không còn là phương tiện giao dịch giữa người sẽ trở thành công cụ của chính mình. Xương máu, đòn roi, súng đạn hay đồng tiền – anh chỉ được chọn một và hãy nhanh lên bởi chẳng còn nhiều thời gian cho anh.

 

Biên soạn: Ku Búa
Bản gốc: Capitalism Magazine

Một lý do văn hóa giải thích vì sao người Tây Phương và Đông Á có khái niệm tranh luận khác nhau

Featured Image: Yang Liu

 

Bài viết này giải thích vì sao khi tranh luận, người Tây Phương luôn có một bên đúng và một bên sai, còn khi người Đông Á tranh luận thì họ đa phần sẽ chọn sự ôn hòa hơn là bảo vệ lập trường của mình.


 

Vào mùa xuân năm 23 tuổi, tôi đã sống 13 tháng ở Đông Á, dạy tiếng Anh và đi du lịch khắp Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Là một chàng trai tóc vàng cao hơn 1.8m (6’3”), tôi nhìn rất khác so với những người dân địa phương.

Nhưng có điều khác biệt ít ai có thể nhận ra là một người Tây Phương, tôi suy nghĩ rất khác so với những người bạn Đông Á của tôi. Từ quan niệm về hợp đồng, chấp nhận, bổ nhiệm – có sự khác biệt về văn hóa rất lớn.

Dựa theo những triết gia văn hóa, người Tây Phương và Đông Á có cái nhìn đối lập nhau về quan niệm sự thật và cách nó hoạt động. Điều này đã xảy ra hơn ngàn năm rồi, và đến hôm nay nó vẫn tồn tại trong tâm lý con người.

Nó bắt đầu từ cái nôi của hai nền văn minh: Hy Lạp Cổ Đại và Trung Quốc Cổ Đại. Nó bắt đầu với hai quan niệm (hoặc quy luật) khác nhau:

  • Người Hy Lạp Cổ Đại dựa theo quy luật “luật/nguyên tắc phi trung lập,” nghĩa là nếu 2 người đang tranh luận, thì một người trong 2 người đó phải được công nhận là đúng, và người kia thì bị cho là sai.
  • Người Trung Quốc Cổ Đại thì ngược lại. Họ dựa theo “học thuyết trung lập/ôn hòa”. Học thuyết này cho rằng nếu 2 người đang tranh luận thì có thể 2 người đó đều đúng, hoặc cả 2 đều sai, toàn phần hoặc bán phần. Sự thật, việc đúng hoặc sai có thể không thuộc về ai mà nằm ở giữa cả 2 phe tranh luận.

Hai tư tưởng và lý thuyết này rất khác biệt và có nguồn gốc khác nhau.

Học thuyết trung lập (ôn hòa) bắt nguồn từ hệ tư tưởng và triết lý của Khổng Tử Phu (Khổng Tử Học, Khổng Giáo), cách 2500 năm trước đây. ”Học thuyết này được cho rằng là đỉnh cao của triết lý Khổng Giáo.” Dựa theo nhà nghiên cứu Li-Jun Ji, Albert Lee và Tieyuan Guo trong cuốn “The Oxford Handbook of Chinese Psychology”.

“Dựa theo cuốn sách đó, người Trung Quốc được khuyến khích tranh luận từ cả 2 phía cạnh trong một cuộc tranh luận (nghĩa là nên xem cả 2 phe điều đúng hoặc sai) hoặc phân vai trò công bằng trong một cuộc tranh luận (không ai hoàn toàn đúng, không ai hoàn toàn sai).” Họ đã viết. “Điều này cho thấy một sự khác biệt với quy luật phi trung lập của các nhà triết gia Tây Phương. Họ khuyến khích con người khi tranh luận phải có lập trường và tranh luận đúng sai. Khác với học thuyết Trung Hoa, triết học Tây Phương cho rằng việc giữ ôn hòa hoặc trung lập trong một cuộc tranh luận chẳng có ý nghĩa hoặc thành quả gì.”

Tiếng Latin cho “quy luật trung lập” là: principium tertii exclusi. Aristotle đã viết về điều này trong cuốn “Ethics” 2300 năm trước đây.

“Không thể có một sự trung lập giữa 2 điều đối lập,” ông ta viết, ”nhưng một trong 2 bên phải phản biện – đồng ý hoặc không đồng ý – với bên còn lại.”

Trong một cuộc thử nghiệm xã hội học năm 1999, nhà tâm lý học Kaiping Peng và Richard E. Nisbett đã đưa sinh viên Trung Quốc và Mỹ vài tình huống tranh cãi để xem họ giải quyết các vấn đề đó ra sao.

Kết quả từ cuộc thử nghiểm xã hội đó chứng minh sự khác biệt về triết lý:

  • 72% trong số sinh viên Trung Quốc đã cho những giải pháp thỏa hiệp.
  • 74% trong số sinh viên Mỹ thì cho rằng một bên đã sai.

Như Khổng Giáo đã gợi ý, sinh viên Trung Quốc sẽ đưa những giải pháp biện chứng, hoặc tìm sự đúng và sai trong cả 2 bên. Cũng như sự khác biệt về triết lý của Aristotle và Khổng Giáo, người Tây Phương và Đông Á có 2 phương pháp và quan niệm khác biệt để giải quyết những vấn đề.

Nhưng 2 cách khác nhau đó không phải ngẫu nhiên mà xuất phát từ văn hóa. Trong cuốn “The Geography of Thought (2004)” Nisbett diễn tả quá trình tiến triển như sau.

Địa lý của Trung Quốc bao gồm đa phần là đất nông nghiệp, độ cao thấp, ít núi đồi, nên việc tập trung hóa sự kiểm soát được thực hiện rất dễ dàng. Những người làm nông nghiệp cần phải làm việc với nhau trong sự ôn hòa. Điều này rất cần thiết vì họ sẽ làm việc lâu dài, nhiều lúc sát bên nhau và lâu dài. Điều này khiến con người Trung Quốc phải biết ý tứ trong việc ăn nói để giữ ôn hòa. Vì khi đã mất ôn hòa thì rất khó giải quyết và sẽ ảnh hưởng đến mọi người xung quanh.

Vì ai cũng muốn giữ ôn hòa, không ai muốn làm mất lòng nhau nên người Trung Quốc thường tìm đến hệ thống kiểm soát tập trung (chính quyền) để giải quyết xung đột. Vì sống với hệ thống quyền lực tập trung và ngại giải quyết vấn đề trực tiếp với nhau nên người Trung Quốc phải sống trong một xã hội đầy những cản trở tâm lý vô hình.

Còn Hy Lạp Cổ Đại thì ngược lại. Địa Lý Hy Lạp (và đa phần Châu Âu) thì có rất nhiều núi đồi chia rẻ các vùng miền, làm cho các vùng miền cô lập, vì vậy nên mỗi bộ tộc có sự riêng tư cao hơn. Địa lý của họ cho phép họ làm nghề săn bắn, bắt cá, thương mai mà ít khi nào phải dụng chạm với các bộ tộc (nền văn hóa) khác. Vì vậy nên họ không cần hoặc ít cần phải giữ ôn hòa với nhau để làm việc.

Địa lý của Châu Âu cho phép và khuyến khích những người làm nông nghiệp sáng tạo và khám phá xa hơn phận địa của họ. Rất nhiều trong số người đó trở thành thương gia hơn là nông dân. Người Hy Lạp Cổ Đại vì đó được làm việc theo ý của họ và có mức độ tự quyết cao hơn người Trung Quốc. Họ không cần phải giữ ôn hòa với nhau mà bất chấp đúng sai. Vì vậy nên họ đã cho ra đời ý tưởng bây giờ chúng ta gọi là “dân chủ.” Hy Lạp Cổ Đại tuy là một vùng đất nhỏ nhưng đã cho ra đời rất nhiều bộ tộc với các nền văn hóa khác nhau như Spartan, Athens, Thebes, Thesaly, và các nền văn hóa này ít khi nào phải nhường bộ nhau trong các vụ tranh chấp địa lý hoặc chính trị.

Còn người Trung Quốc thì ngược lại, họ làm gì cũng phải giáp mặt nhau và không thể nào phát triển nếu không có sự ôn hòa. Đó là lý do tái sao người Tây Phương khi tranh luận thì luôn có sự đối lập và có sự đúng sai, ít khi nào kết thúc bằng lý luận trung lập.

Còn người Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam) thì ngược lại. Vì bị ảnh hưởng bởi triết lý Khổng Giáo họ luôn phải giữ ôn hòa cho nhau, vì đó là đỉnh cao của xã hội họ. Nên khi tranh luận, họ ít khi nào dám giáp mặt và tranh luận đúng sai. Vì họ muốn giữ suộn hòa hơn là tranh luận. Thích lập lờ trong lập trường của mình hơn và bảo vệ nó.

Đó là sự khác biệt giữa triết lý tranh luận Tây Phương và Đông Á.

 

Tác Giả: Drake Baer
Dịch Giả: Gấu TNKT

8 cách sáng tạo người Đông Berlin đã dùng để chạy qua Bức Tường Berlin

 

Vào năm 1961, chính quyền cộng sản Đông Đức đã dựng lên Bức Tường Berlin và cấm tuyệt mọi di chuyển qua bên Tây Berlin một cách bất ngờ. Bức Tường Berlin đã trở thành một biểu tượng của cuộc Chiến Tranh Lạnh. Mặc dù nó được dựng lên để giữ người Đông Đức lại nhưng họ đã tìm đủ mọi cách để chạy qua bên Tây Berlin. Sau đây là 8 phương pháp sáng tạo nhất.

Trên dây kéo căng (dây thừng)

Horst Klein, một nhà biểu diễn xiếc (nhào lộn) Đông Đức đã mạo hiểm trốn chạy sang bên kia thành phố Berlin bằng cách này trong đầu năm 1963. Nhờ vào tài năng nhào lộn của anh, Klein đã biến sợi dây kéo căng thành một con đường để bỏ chạy. Anh ta đã di chuyển từng nhịp tay trong khi cơ thể lơ lửng 18m (60 feet) trên đầu của các bính sĩ Đông Đức. Khi cánh tay anh quá mỏi, anh tung người đáp xuống đất và thoát sang bên kia tầm vài cm. Cơ thể dù đã bị thương nhưng anh ta vẫn cảm thấy mình được phù hộ vì đã qua được bên Tây Berlin.

Trượt dây thừng

Vào ngày 31 tháng 3 1983, Michael Becker và người bạn Holger Bethke đã đưa ý tưởng dùng dây kéo căng của Horst Klein lên một cấp bậc nữa bằng cách dùng quy luật vật lý và trọng lực để đưa họ qua bên kia thành phố. Cả hai người leo lên mái nhà của một tòa nhà 5 tầng bên Đông Berlin và bắn một mũi tên cột với dây thừng qua một tòa nhà thấp hơn bên Tây Berlin. Một người trợ lý đã cầm mũi tên và xiết chặt nó lại với một ống khói. Sau đó Becker và Bethke đã trượt qua bên Tây Berlin bằng cái ròng rọc.

Lái xe không có kính che trước

Khi người điều khiển máy tiện người Áo Heinz Meixner chạy xe đến Cửa Khẩu Charlie vào ngày 5 tháng 5 1963, có một điều gì đó bất thường về chiếc xe mui trần Austin Healey Sprite màu đỏ của anh. Nó không có kính che trước. Nếu quan sát kỹ hơn nữa thì sẽ thấy mẹ anh ta đang núp cốp xe. Khi lính bảo vệ Đông Đức kêu Meixner tắp qua bên đường để kiểm tra, Meixner đã nhấn ga và chạy thẳng qua cửa khẩu. Chiếc xe nhỏ của anh ta đã chui qua dưới cột bảo vệ chắn ngang cao 0.91m (3 feet) thành công và qua được bên Tây Berlin.

Dùng hộ chiếu từ HEF

Trong một bài báo của tờ Los Angeles Times năm 1986 đã diễn tả lại một cách vài người Đông Berlin đã dùng để qua bên Tây Berlin, chứng minh cho sự lạc hậu của con người sống dưới chế độ cộng sản. Theo tác giả Gordon E. Rowley, một số người đã đến cửa khẩu và đưa cho các binh sĩ kiểm tra thẻ thành viên câu lạc bộ Munich’s Playboy Club (CLB Playboy Munich) và các binh sĩ đã cho qua. Nguyên nhân là cái thẻ đó nhìn giống hộ chiếu công vụ của Đông Đức nên các binh sĩ gác cửa khẩu không phân biệt được.

Bằng xe lửa

Trong tháng 12 năm 1961, một người lái xe lửa 27 tuổi tên Harry Deterling đã điều khiển cái anh gọi là “chuyến xe cuối cùng đến tự do” qua khỏi biên giới. Thay vì phải giảm tốc độ khi đến gần bức tường, Deterling đã nhấn ga tăng tốc độ và chạy xuyên qua bức tường. Xe lửa đã ngừng ở trạm Spandau, cho phép Deterling và 7 thành viên trong gia đình anh và 16 người khác trên xe sang Tây Berlin. Nhưng kỹ sư xe và 6 hành khách khác đã chọn trở về Đông Berlin.

Bằng Khinh Khí Cầu

Sự chạy trốn của Hans Strelczyk và Gunter Wetzel vào năm 1979 nghe giống như một câu truyện tranh. Strelczyk, một thợ cơ khí, và Wetzel, một thợ nề, đã dùng kiến thức cơ khí của mình để xây dựng một động cơ cho Khinh Khí Cầu từ các động cơ cũ. Vợ của họ sau đó lắp ráp một Khinh Khí Cầu bằng những miếng vải và những tấm trải giường. Vào ngày 16/9/1979 họ và 4 đứa con đã bay với độ cao hơn 2,400m (8000 feet) để trôi qua bờ bến tự do.

Bằng đường hầm tự đào

Vào tháng 5 1962, tầm 12 người đã bỏ trốn từ Đông Berlin bằng Der Seniorentunnel, có thể dịch là Đường Hầm Cho Người Cao Tuổi. Dẫn dắt bởi một người đàn ông 81 tuổi, một nhóm người cao tuổi đã mất 16 ngày đêm để đào một tường hầm dài 48.7m (160 feet) và cao 1.82m (6 feet) từ một chuồng gà bên Đông Đức sang bên kia biên giới. Dựa theo lời kể của một thành viên tham gia, đường hầm đã được đào cao bởi vì các người đàn ông cao tuổi đó muốn “bước đến tự do với vợ, một cách thoải mái và bất khuất”.

Trong bộ quân phục

Điện ảnh thường miêu tả các binh sĩ cửa khẩu Đông Đúc là những người vô hồn với tinh thần thép để giữ mọi người dân ở lại. Nhưng rất nhiều trong số binh sĩ đó cũng muốn chạy khỏi Đông Đức. Một trong những lợi ích của công việc bảo vệ biên giới là một binh sĩ có thể hạy qua bên Tây Đức bất cứ lúc nào để đến với tự do. Và rất nhiều trong số họ đã làm điều đó. Hơn 1,300 người đã liều mạng trong 2 năm đầu kể từ khi Bức Tường Berlin được dựng lên.

Nhưng vụ chạy thoát nổi tiếng nhất thuộc về một binh sĩ 19 tuổi tên Conrad Schumann vào ngày 15 tháng 8, 1961, chỉ 3 ngày sau khi bức tường được dựng lên. Lúc đó bức tường chỉ là một đóng hàng rào kẽm gai. Schumann đã nhảy qua hàng rào đó trong bộ quân phục và tay cầm chặt cây súng. Một bức ảnh của Schumann nhảy rào đã trở thành một bức ảnh biểu tưởng thời Chiến Tranh Lạnh. Schumann cuối cùng cũng đã ổn định cuộc sống ở bang Bavaria và trở thành một thợ điều khiển máy. Anh ta đã tự tử vào năm 1998.

 

 

Tác giả: Ethan Trex
Dịch Giả: Ku Búa