28 C
Nha Trang
Thứ ba, 5 Tháng mười một, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 141

20 câu nói của người đàn bà thép Margaret Thatcher

Featured Image: Wikipedia Commons

 

Giới thiệu: Khi nói về sự ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo thế giới trong việc chống lại chủ nghĩa tập trung tập thể (chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội), không có một lãnh đạo nào có thể qua mặt được Ronald W. Reagan (Tổng Thống Mỹ 1981-1989) và bà Margaret Thatcher (Thủ Tướng Anh 1979-1990). Cặp đôi này là là hai nhà lãnh đạo mạnh miệng phản đối chủ nghĩa tập trung tập thể nhất. Sự mạnh miệng cũng như chính sách kinh tế tự do và chính sách quốc phòng chủ động của bà đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Bang Soviet và có thể nói là gián tiếp áp lực đảng Cộng Sản Việt Nam và các nước Cộng Sản khác phải thay đổi chính sách.


 

Xin mời các bạn đọc 20 câu nói của Margaret Thatcher, một biểu tượng của Anh Quốc. Tôi xin bắt đầu với câu nói nổi tiếng nhất của bà. Thật đáng tiếc là trong thời buổi hiện tại, gần như không có một nhà lãnh đạo tầm cỡ nào có đủ can đảm như bà.

1. Vấn đề với chủ nghĩa xã hội là đến một lúc nào đó nó sẽ tiêu hết tiền của người khác.

2. Tranh luận về khoảng cách giàu nghèo: “Khi họ nói về khoảng cách giàu và nghèo, ý của họ là họ muốn khoảng cách đó được thu nhỏ, nghĩa là họ thà muốn mọi người trở nên nghèo hơn. Đó không phải là cách tạo sự thịnh vượng và cơ hội.”

3. Nếu mục đích của bạn là làm người khác thích bạn, bạn phải chuẩn bị thỏa thuận với nguyên tắc của mình và sẽ không đạt được gì cả (trong chính trị).

4. Trước tiên bạn thắng cuộc tranh luận, sau đó bạn thắng cuộc bầu cử.

5. Đừng đi theo đám đông, hãy để đám đông đi theo bạn.

6. Trong chính trị, nếu bạn muốn ai nói một điều gì đó, hãy nhờ một người đàn ông. Còn nếu bạn muốn thực hiện một điều gì đó, hãy nhờ một người phụ nữ.

7. Bất cứ một người phụ nữ nào thấu hiểu những vấn đề nội trợ sẽ có đủ sự hiểu biết về những vấn đề trong việc điều hành một quốc gia.

8. Một trong những vấn đề lớn nhất trong thời đại chúng ta là chúng ta bị quản lý bởi một nhóm người quan tâm tới cảm xúc hơn là lý tưởng và ý tưởng.

9. Bạn phải đánh một trận đánh hơn một lần nếu muốn thắng nó.

10. Thất bại? Tôi không hiểu ý nghĩa có chứ đó.

11. Tôi rất thích lý luận. Tôi rất thích tranh luận. Tôi không yêu cầu mọi người phải ngồi yên và đồng ý với tôi – đó không phải là công việc của họ.

12. Châu Âu được tạo ra bởi lịch sử. Nước Mỹ được tạo ra bởi triết lý.

13. Đối với tôi, thỏa thuận có nghĩa là rời bỏ những lý tưởng, nguyên tắc, giá trị và chính sách của mình.

14. Những người tin vào chủ nghĩa xã hội rất hạnh phúc cho đến khi họ tiêu hết tiền của người khác.

15. Có rất nhiều điểm khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản của Mỹ và Châu Âu. Người Mỹ coi trọng sự giới hạn của chính phủ, quy định tối thiểu, thuế thấp và sự tự do tối đa trong thị trường lao động. Sự thành công của họ đã được chứng minh bằng khả năng tạo công ăn việc làm, một điều mà họ làm tốt hơn Châu Âu.

16. Không có khái niệm nào gọi là xã hội: chỉ có khái niệm đàn ông, đàn bà và gia đình.

17. Tinh thần ghen ăn tức ở chỉ có thể hủy diệt, chứ không thể nào xây dựng.

18. Khi con người được quyền chọn lựa, họ sẽ chọn tự do.

19. Những quốc gia nào đã nhắm đến sự công bằng, như những quốc gia cộng sản, đều không có tự do hoặc công lý hay sự công bằng. Họ có những sự bất công bằng nhất, những quyền lợi của các nhà lãnh đạo xứ đó luôn cao hơn của người dân. Những quốc gia đã nhắm đến tự do, công lý và sự độc lập của người dân vẫn có tự do và công lý, và họ có nhiều sự công bằng và tôn trọng lẫn nhau hơn những người dân ở các quốc gia khác. Hãy đi cùng với tôi. Bạn sẽ có tự do và công lý và ít sự khác biệt hơn giữa con người với con người hơn là ở Liên Bang Soviet.

20. Những người theo chủ nghĩa xã hội phải luôn tốn thời gian để tìm tiêu đề khác cho chủ nghĩa của họ, vì những giá trị đó luôn bị chứng minh ngược lại và trở thành lỗi thời.

 

Ku Búa

Lảm nhảm về Hộ Chiếu, Thị Thực và Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam

Giới thiệu: Bài viết này nói về những sự vô lý, dị hợm và văn hóa đầu tiên tiền đâu ở các Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam (TLSQ) trên thế giới. Tôi chỉ viết ngắn gọn để khỏi gây nhàm chán vì nếu viết đầy đủ thì sẽ thành một cuốn sách.


 

Lảm nhảm về TLSQ Việt Nam

  1. TLSQ Việt Nam cũng như các cơ quan hành chính khác trong bộ hành chính của đảng cộng sản Việt Nam. Tác phong làm việc chậm chạp rườm rà, nhân viên làm việc với văn hóa vô giáo dục – nói thẳng ra là mất dạy. Cũng như các cơ quan khác, nó có quy luật đầu tiên tiền đâu. Chuyện lạm thu phí là chuyện bình thường như văn hóa.
  2. Xin các đồng hương, những người con xa xứ thông cảm. Để vô làm ở những chỗ có máy lạnh như vậy thì ngoài việc xét ba đời thì phải chạy chọt. Đã tốn mấy trăm triệu mà lương thì chỉ vài trăm USD thì họ phải tìm cách lấy lại vốn để nuôi gia đình. Đổ lỗi cho ai đây?
  3. TLSQ Việt Nam là một trong những nơi mà người Việt xa quê ghét nhất. Nhiều TLSQ không công khai số điện thoại vì sợ mấy cô chú cực đoan gọi tới chửi.
  4. TSLQ và Đại Sứ Quán Việt Nam ở những nước có đông người Việt tỵ nạn như Úc, Mỹ, Đức, Pháp, năm nào vào ngày 30/4 cũng là nơi để tụ họp biểu tình chống cộng. Năm nào mấy anh chị nhân viên cũng nghe kiều bào ta vẫy cờ vang và hô “đả đảo cộng sản”.
  5. Nhân viên hầu hết là người bắc, dân nam làm gì có cửa vô? Cái này có nên nói không ta, lỡ nói rồi, kệ.

Hộ Chiếu Việt Nam và Hộ Khẩu

Ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, trừ ba cường quốc cộng sản – đó là Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Hàn – Hộ Chiếu là loại giấy tờ tùy thân có nhiều quyền hành chính nhất. Nó chứng minh bạn là một công dân của một đất nước được công nhận trên toàn cầu. Nó là một thứ phải có nếu muốn qua cửa xuất nhập cảnh. Bạn có thể dùng nó để làm giấy tờ mua nhà, làm bằng lái xe hoặc các hồ sơ hành chính khác. Nhưng ở ba cường quốc cộng sản thì Hộ Chiếu thật sự không có cơ sở hay quyền hành chính gì nếu không có Sổ Hộ Khẩu.

Rất nhiều người, nhất là những người nước ngoài gốc Việt (gọi là Việt Kiều), thường nhầm lẫn và cứ tưởng có Hộ Chiếu Việt Nam là có thể mua nhà, mua xe hay làm giấy tờ ở Việt Nam. Đó là một sai lầm trầm trọng ở xứ thiên đường này. Ở Việt Nam muốn được công nhân là một công dân thì phải có Hộ Khẩu. Mà muốn có Hộ Khẩu thì phải có nhà để làm Hộ Khẩu. Từ Hộ Khẩu Công An làm Chứng Minh Nhân Dân (CMND). Lúc đó bạn mới là công dân Việt Nam, mấy anh chị Công An gọi là Thường Trú.

Sự dị hợm của quy luật này có một không hai trên thế giới. Đã có Hộ Chiếu, nghĩa là mình là công dân của một nước, trong trường hợp này là Việt Nam, thì tại sao phải cần Hộ Khẩu để làm giấy tờ? Cái logic này nằm ngoài sự hiểu biết của tôi, tôi hiểu tại sao tôi chết liền. Ở Việt Nam là vậy đó.

Làm thế nào để có được Hộ Chiếu Việt Nam?

  1. Nếu ở Việt Nam, bạn phải tới Phòng Xuất Nhập Cảnh (thuộc Bộ Công An) Tỉnh hoặc Thành Phố thuộc nơi thường trú (đăng ký Hộ Khẩu) để xin làm Hộ Chiếu. Nếu bạn có Hộ Khẩu Vũng Tàu nhưng đang sinh sống ở Sài Gòn, bạn phải chạy về Vũng Tàu, cầm cái Hộ Khẩu lên phòng Xuất Nhập Cảnh để xin. Nếu muốn làm ở Sài Gòn phải có Sổ KT3 (tạm trú dài hạn).
  2. Nếu bạn sinh ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam với cha hoặc mẹ có quốc tịch Việt Nam, dựa theo luật bạn đã tự động trở thành một công dân Việt Nam. Cha mẹ bạn đến Đại Sứ Quán hoặc TLSQ Việt Nam ở nước ở tại để xin làm Hộ Chiếu Việt Nam.
  3. Nếu bạn sinh ở ngoài Việt Nam nhưng cha mẹ không làm Hộ Chiếu cho bạn khi sinh thì bạn vẫn có thể làm nếu chứng minh được nguồn gốc Việt Nam của mình. Nghĩa là có gì đó chứng minh mẹ hay cha bạn là công dân Việt Nam.
  4. Nếu bạn sinh ra ở Việt Nam trước năm 1975 (Việt Nam Cộng Hòa), đi việt biên với hai bàn tay trắng, không có giấy tờ tùy thân, thì hơi khó làm. Cái này nằm ngoài tầm hiểu biết của mình.

Giá trị của Hộ Chiếu Việt Nam

Cầm trên tay Hộ Chiếu màu xanh bạn có thể đi du lịch các nước Đông Nam Á mà không cần xin thị thực. Nhưng nếu muốn đi những nước còn lại trên thế giới thì phải tới TLSQ xin thị thực trước. Dựa theo thống kê của công ty Henley & Partners Holding, Hộ Chiếu Việt Nam được miễn thị thực vào 45 quốc gia, thua cả Lào (46 nước) và Campuchia (47 nước). Với hạng 81 trên 93 (trên tổng cộng 213 quốc gia và lãnh thổ), Hộ Chiếu Việt Nam được xếp áp chót bảng về giá trị. Dù giá trị áp chót nhưng phí để làm Hộ Chiếu Việt Nam nằm trong top.

10 trong vô số câu chuyện về Hộ Chiếu và Thị Thực Việt Nam:

  1. Hồi mình đang ở Sydney du học, Hộ Chiếu của mình sắp hết hạn nên mình tới TLSQ Việt Nam ở Sydney để làm cái mới. Theo quy định thì chỉ trả $80, hai tuần sau tới nhận. Nhưng chị nhân viên nói nhỏ: “Em đưa $200 thì mai có liền.” Mình từ chối thế là nét mặt tươi cười trở thành nhăn nhó.
  2. Tôi biết một chú kia ở Úc làm kinh doanh nên đi về Việt Nam thường xuyên. Vì thị thực kinh doanh (business visa) hơi phiền phức nên tới TLSQ Việt Nam ở Sydney xin cái Hộ Chiếu Việt Nam. Tốn $500 (không đùa), Hộ Chiếu Việt Nam giá trị nhất thế giới đấy nhá. Ông ta khi về Việt Nam muốn mua một căn nhà thì người ta không chịu, bắt ông ta phải đưa Hộ Khẩu, không có thì không làm gì được. Cái này vô lý, đã có Hộ Chiếu Việt Nam, nghĩa là mình là công dân Việt Nam thì cần cái Hộ Khẩu để làm gì?.
  3. Một anh bạn người Mỹ gốc Việt (sinh ra ở Mỹ, cha mẹ việt biên, nên không có Hộ Chiếu Việt Nam) đi tới TLSQ Việt Nam ở San Francisco với người bạn Mỹ để xin thị thực du lịch vào Việt Nam. Nhân viên TLSQ đó nói với anh ta “phải mất 2 tuần em nhá, nếu em muốn nhanh thì em trả phí làm gấp, vài tiếng sau sẽ có liền”. Anh ấy tốn $45. Nhưng chưa xong, đó là anh ta, còn anh bạn người Mỹ của anh ta thì tốn $90 với lý do “bạn em phải tốn nhiều hơn vì bạn em là người nước ngoài”. Một cách làm tiền ngu không thể tả.
  4. Một chị Việt Nam cùng chồng người Bỉ tới TLSQ Việt Nam ở Bỉ làm giấy khai sinh và Hộ Chiếu cho con thì bị nhân viên hành tới lui 4 tháng trời mới có. Trong khi theo quy định thì chỉ mất 5 ngày làm việc. Đã vậy còn lạm thu gấp 2-3 lần phí quy định. Việc này đã được lên báo và làm rùm beng trên Facebook.
  5. Cầm cái Hộ Chiếu màu xanh Việt Nam đi đâu cũng bị thiên hạ soi mói. Một năm mình bay trên dưới 10 lần nên thấy tận mắt cách đối xử của nhân viên cửa khẩu với những ai cầm Hộ Chiếu Việt Nam. Vừa rồi mình đi Mã Lai chơi. Mấy người Tây chỉ mất 30 giây, họ quẹt cái Hộ Chiếu là cho qua. Những người khác như Nhật, Hàn thì lâu hơn chút, nhưng quá lắm 1-2 phút. Còn tới phiên ai cầm Hộ Chiếu Việt Nam thì mất tới 5 phút. Người ta hỏi mấy câu như: “Vé khứ hồi đâu?” “Ở khách sạn ở đâu?” “Đi với ai?”. Tôi hổ thẹn lắm.
  6. Anh bạn Tây của mình đang dạy tiếng Anh ở Sài Gòn, cứ 3 tháng là chạy sang Campuchia để làm mới lại thị thức. Còn không thì tới mấy công ty dịch vụ du lịch tốn $50 USD. Muốn ở dài hạn ở xứ này phải tốn cái phí quỷ này. Đây là cách chính phủ Việt Nam thu hút chất xám quốc tế?
  7. Cái Hộ Chiếu Việt Nam mình hình như kém chất lượng hay sao đó. Cái Hộ Chiếu nước người ta quẹt máy 1 lần là xong. Còn cái của mình phải quẹt 4-5 lần. Không phải mình tôi đâu, tôi hỏi mấy người khác họ cũng nói y chang.
  8. Một trong những điều làm du lịch Việt Nam kém cạnh tranh với các nước trong khu vực là thủ tục xin thị thực quá rườm rà. Nếu bạn là công dân xứ khác ngoài những nước được miễn thì phải nộp đơn, đưa Hộ Chiếu cho công ty du lịch hoặc tới TLSQ Việt Nam, chờ vài ngày hoặc hơn 1 tuần thì mới lấy lại được. Đã vậy còn tốn $45 phí thị thực. Cái nước này nó xinh đẹp tới độ phải tính tiền người ta từ vòng xin thị thực sao? Một suy nghĩ nông cạn và ngu dốt.
  9. Các bạn nữ Việt Nam nào xinh xinh với thân hình bốc lửa một chút, đi du lịch sang Singapore hay Mã Lai với vé khứ hồi cách xa ngày đi hơi lâu thì sẽ được nhân viên cửa khẩu mời vào phòng riêng phỏng vấn. Tại dạo này nhiều chị em Việt Nam qua bên đó làm ”nghề” quá. Lạm dụng thị thực du lịch hành nghề rồi chạy về nước nên mấy chị em trong sạch bị ảnh hưởng.
  10. Mình lấy chồng Nhật, khi đủ thời hạn nhập quốc tịch Nhật thì phải từ bỏ quốc tịch Việt Nam, nghĩa là bỏ Hộ Chiếu. Phải mất hơn 1 năm trời mới làm xong.

Cái Hộ Chiếu Việt Nam có giá lắm nên mấy bạn có đi nước ngoài thì làm ơn đừng đánh mất nhé. Mất thì khổ lắm.

 

Ku Búa

10 lý do vì sao 80% du khách nước ngoài một đi không bao giờ trở lại Việt Nam

Featured Image: All Free Photo

 

Lời giới thiệu

Bài viết này được dựa trên những lời phê bình của các du khách trong và ngoài nước về trải nghiệm của họ khi đi du lịch ở Việt Nam. Hiện tại 80 đến 90% du khách quốc tế nói sẽ không trở lại Việt Nam sau khi đến đây du lịch. Trên các diễn đàn du lịch luôn tràn ngập những phàn nàn, cái nhìn thiếu thiện cảm và sự không hài lòng về ngành du lịch Việt Nam. Đây là điều không bất ngờ vì báo chí đã lên án quá nhiều lần. Nhưng bài viết này sẽ nói lên những thứ báo chí thường không nhắc đến, hoặc khi dịch sang tiếng Việt các nhà báo cố tình xóa đi vì nó quá nhạy cảm.

Việt Nam được tạo hóa ban tặng cho những danh lam thắng cảnh hiếm nơi nào có thể sánh được. Nhưng trong ngành du lịch yếu tố đó chỉ chiếm một phần trong sự hài lòng của du khách. Yếu tố quan trọng nhất là dịch vụ và thái độ của những người làm trong ngành. Ngành du lịch Việt Nam đến nay vẫn chưa hiểu được tầm quan trọng của phục vụ. Chúng ta, những doanh nghiệp lớn và các nhà kinh doanh nhỏ lẻ chưa làm tốt để xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam và để cho các nước khác lấy đi những gì đáng lẽ là của mình. Muốn thay đổi phải can đảm nhìn vào sự thật, dù sự thật mất lòng.

Sau đây là 10 lý do vì sao du lịch Việt Nam bị chê và vì sao 80% du khách một đi không trở lại.

 

1. Phí xin thị thực (visa) khi đến Việt Nam

Việt Nam là một trong những nước yêu cầu các cá nhân mang quốc tịch ngoài Việt Nam (trừ các công dân khối Đông Nam Á) phải xin thị thực nếu muốn nhập cảnh vào Việt Nam. Chi phí cho mỗi lần xin là $28 đến $50 (500,000 VND đến 1 triệu VND) tùy vào loại thị thực và phải chờ 3 ngày đến 1 tuần.

So sánh với Thái Lan thì đây là một điều làm du khách rất khó chịu. Nếu một công dân Úc, Mỹ, Châu Âu đến Thái Lan du lịch thì không cần phải làm như vậy, họ sẽ được cấp thị thực khi nhập cảnh, với điều kiện là đi không quá 60 ngày. Du lịch Việt Nam đã kém vị thế cạnh tranh từ lúc du khách đặt vé.

Hãy tưởng tưởng bạn là một thanh niên Mỹ hay Châu Âu đang chuẩn bị 1 chuyến khám phá Châu Á. Bạn Google, đọc sách, rồi quyết định sẽ đến Việt Nam. Bạn phải tới Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam, đưa hộ chiếu cho nhân viên, chờ vài ngày rồi tới nhận sau khi trả phí. Đây là 1 điều vô cùng khó chịu. Nếu bạn đi Thái Lan, Singapore, Mã Lai thì chỉ cần mua vé máy bay. Tới cửa khẩu xuất nhập cảnh bạn sẽ được cấp giấy thông hành/thị thực/phép lưu trú mà không phải tốn 1 xu nào. Nếu bạn là một khách du lịch thì bạn có chọn Việt Nam không? Đây là một cách thu tiền nhỏ mọn và nông cạn.

 

2. Giá cả và chi phí du lịch ở Việt Nam cao hơn các nước lân cận

Giá phòng khách sạn 3-5 sao ở Việt Nam mắc hơn các nước lân cận hơn 20-30%. Nếu bạn không tin thì có thể lên Agoda xem xét.

Giá tour đi du lịch Thái Lan từ Sài Gòn 4 ngày rẻ hơn giá tour đi Hà Nội (Miền Bắc) tính luốn giá vé máy bay. (4-5 triệu). Nếu bạn là một du khách thì chẳng có lý do gì để chọn đi du lịch xa trong nước khi giá cả ngang hoặc hơn đi ngoài nước. Chỉ là giá mắc hơn chứ chưa nói đến chất lượng dịch vụ.

 

3. Sự thiếu vắng của giá cả, phân biệt đối xử và nói thách

Đa số các cửa hàng ở Việt Nam đều không để giá, đây là một điều làm cho du khách vô cùng khó chịu vì họ cảm thấy có gì đó thiếu trung thực. Giá cả sẽ lên xuống tùy vào cảm tính của người bán, đây là một điều rất khó chấp nhận nhất là đối với các du khách đến từ các nền kinh tế công nghiệp.

Người bán hàng sẽ ra 1 giá với dân địa phương và giá khác với người ngoài. Đây là một sự phân biệt rõ rệt. Du khách quốc tế thường bị chặt chém với giá cả gấp 2-10 lần giá bình thường. Chẳng khác gì lừa dối.

Không chỉ các cửa hàng nhỏ lẻ mà các nhà hàng, khách sạn, công ty du lịch cũng có chính sách khó hiểu này. Ví dụ, một tour đi xuyên Việt Nam của một công ty lớn kia có 3 giá như sau: Việt Nam 21,890,000 VND, Việt Kiều 21,890,000 và Nước Ngoài 22,490,000. Phụ thu phòng đơn: Việt Nam 3,400,000, Việt Kiều 3,400,000 và Nước Ngoài 4,500,000. Đây là một điều vô cùng vô lý và làm cho du khách rất khó hiểu và búc xúc. Tôi thật sự không hiểu, cũng là con người, cũng nhiêu đó túi tiền thì tại sao lại có điều lệ vô lý như vậy?

4. Tác phong và thái độ phục vụ kém chuyên nghiệp

Kém chuyên nghiệp là một từ quá nhẹ, phải dùng từ “hỗn,” “vô cảm,” “bất lịch sự” và nếu cực đoan hơn thì “mất dạy.” Các nhân viên hiếm khi nào cười với khách và khi cười, nụ cười không tự nhiên và không gây thiện cảm. Nhân viên thường tỏ vẻ khó chịu khi khách yêu cầu một điều gì đó, một điều không thể chấp nhận được từ những người làm trong ngành du lịch và phục vụ. Từ “cảm ơn” và “xin lỗi” gần như không có hoặc hiếm khi nào nghe ở Việt Nam.

Đa số các khách sạn thường không có thông tin gì về địa phương để du khách khám phá. Nếu có thì thường là đại lý bán tour du lịch với giá cao hơn giá bên ngoài vài lần.

Ngoại ngữ kém. Du khách không yêu cầu nhân viên phải có trình độ cao, chỉ cần để chỉ dẫn những thứ căn bản khi du khách cần. Điều này quan trọng hơn ở các khách sạn 3-5 sao, nơi du khách phải trả hơn 1-2 triệu VND cho 1 ngày ở. Nếu làm du lịch mà không biết phục vụ những thứ căn bản nhất cho du khách thì không có lý do gì để họ trở lại. Thái độ và chất lượng phục vụ ở miền Bắc tệ hơn miền Nam rất nhiều. Trình độ và chất lượng không được tiêu chuẩn hóa, kể cả ở các khách sạn 3-5 sao.

 

5. Toilet, vệ sinh và ý thức cộng đồng

Người Việt Nam rất thích xả rác, đi đâu cũng thấy rác. Nếu bạn đến từ một nơi văn minh thì điều này làm bạn rất khó chịu. Xả rác là một điều đại đa số người Việt Nam coi như hiển nhiên nhưng là một điều rất khó chấp nhận trong một xã hội văn minh.

– Phun nước miếng, rất khó chấp nhận.

– Đại đa số người Việt không xếp hàng, không tôn trọng lẫn nhau.

Các quán ăn nhà hàng thường không coi trọng cái toilet và vệ sinh. Toilet là nơi quan trọng nhất trong quán ăn vì nếu bạn vô 1 cái toilet dơ thì bạn sẽ mất hứng với thức ăn. Các toilet ở các bến xe thường rất dơ và hôi. Còn các toilet dọc đường khi đi xe giường nằm thì xuống cấp quá trầm trọng. Toilet là một biểu tưởng của sự văn mình và trình độ nhân văn của một đất nước, chúng ta phải nên chú trọng nhiều hơn. Các toilet ở trường học và những nơi công cộng cũng quá tệ.

Có quá nhiều người chửi hoặc nói tục. Những từ như “đụ má, đụ mẹ, địt mẹ, mẹ, má, lồn, cặc, vãi lồn, vãi” được dùng quá nhiều. Cứ 2-3 là một từ chửi. Đừng nghĩ du khách không biết bạn nói gì. Khi bạn dùng một từ nào đó quá nhiều lần, thì người ta sẽ thắc mắc, và khi hỏi ra sẽ biết. Nên các bạn, nhất là các bạn trẻ nên bớt chửi lại.

 

6. Xâm phạm đời tư cá nhân, khác biệt về văn hóa

Người Việt khi gặp nhau hoặc mới gặp vài lần sẽ hỏi những câu như: bạn tên gì, nhà bao nhiêu người, làm nghề gì, lương bao nhiêu, vợ con chưa, ở đây bao lâu, sẽ đi đâu nữa, v.v.

Đối với người phương Tây, những thứ như: tiền lương, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp và gia đình và những thứ cá nhân. Họ chỉ nói về những thứ đó với những người thân. Khi làm vậy, chúng ta nghĩ là bình thường, nhưng với họ thì không. Nên tôn trọng đời tư cá nhân.

 

7. Sự thiếu hiểu biết về văn hóa và lịch sử địa phương

Đa số các bạn trẻ không hề biết hoặc biết quá ít về lịch sử và văn hóa của chính đất nước họ. Đa số các bạn trẻ khi đi chơi sẽ nói nhảm (nói nhảm thiệt), không có đề tài cụ thể. Điều này làm du khách rất thất vọng.

 

8. Thu phí vặt ở các địa điểm tham quan

Điều làm tôi và các du khách cực kỳ khó chịu là phải trả tiền phí cho mỗi điểm tham quan, dù chỗ đó có chút xíu. Đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm có chút xíu mà cũng phải mua vé vô, vô rồi không hiểu nó có cái gì để đáng bán vé nữa.

 

9. Hệ thống vận chuyển công cộng kém

Ở những nước khác, có thể nói là ngang hàng với Việt Nam, tuy hơn một chút, nếu bạn muốn đi từ một thành phố này tới một thành phố kia thì chỉ cần hỏi vài người, Google vài phút là ra. Nhưng ở Việt Nam thì phức tạp hơn một chút. Hệ thống vận chuyển thì vô vùng rối bời. Bạn phải có xe máy hoặc đi taxi chứ đứng đó mà mò đường chờ xe buýt thì cả ngày cũng chưa tới.

Vấn đề vận chuyển công cộng là một vấn đề nhà quản lý đô thị Việt Nam chưa thực sự quan tâm. Nếu so với các thành phố như Bangkok, Kuala Lumpur thì Sài Gòn với Hà Nội của Việt Nam y chang như một cái chợ.

 

10. Người Việt xấu xí

Tiếng Việt bây giờ nổi tiếng gần ngang hàng với tiếng Anh rồi. Ở Nhật thì chuyện du học sinh, công nhân Việt Nam ăn sắp vặt đã thành một tệ nạn. Ở Singapore và Mã Lai thì rất nhiều người lạm dụng thị thực du lịch để sang đó bán dâm. Ở chỗ buffe thì có bảng ghi “lấy vừa đủ ăn” mà không có ghi tiếng khác. Dạo này ở Campuchia có vài nơi ghi “cấm đái bậy.”

Người Việt đi đâu cũng mang tiếng xấu nên mấy bạn quốc tế không có thiện cảm là phải. Hình ảnh của Việt Nam cũng vì thế mà giảm theo. Biết nói gì đây.

 

14 trong vô số câu chuyện muốn quên về du lịch Việt Nam

Nói tới những câu chuyện xấu khi đi du lịch Việt Nam thì có thể viết thành 1 cuốn sách. Nhưng ở đây tôi chỉ viết 14 câu chuyện nghe rất quen.

  1. Một đoàn thể thao miền nam đi thi đấu ở Thanh Hóa. Thi đấu xong cả nhóm đi Sầm Sơn chơi. Một anh kia với vài người bạn thấy người ta bán dừa nên qua mua. Anh tahỏi giá thì người bán nói 20,000 VND. Anh ta kêu mua 4 trái. Người bán trả lời “hai trăm ngàn.” Ủa 4 trái là 80,000 mà sao 200,000 được? Người bán trả lời với vẻ mặt giang hồ “thì anh mua trái kia là hai mươi nghìn, còn 3 trái kia thì sáu mươi nghìn một trái.” Anh kia và 3 người bạn kia liền móc tiền trả vì biết đã đụng phải giang hồ Sầm Sơn.
  2. Anh kia người Vũng Tàu ra Hà Nội chơi với người yêu. Khi chọn taxi vô Phố Cổ thì đi Taxi Mai Linh để tránh bị chém. Trên xe có cái bảng giá ghi rõ ràng ‘Chuyến Nội Bài – Hà Nội dưới 33km 220,000 VND/tuyến’. Nhưng khi tới khách sạn thì tài xế bắt tính theo km, tổng cộng phải trả 330,000 VND. Cái này thì hình như là luật ngầm, lệnh vua (Mai Linh) không bằng lệ làng.
  3. 1 cặp vợ chồng kia đi du lịch Hà Nội. Sáng bắt taxi từ Phố Cổ đi Lăng Bác. Cô vợ ra hỏi taxi bao nhiêu, taxi nói 50,000 VND. Tới nơi thì đồng hồ tính tiền chỉ 20,000 VND.
  4. Ở Nội Thành Huế, một chị bán hàng rong chửi một chị kia khi chị ấy không chịu mua hàng “mẹ, Việt Kiều thế mà keo kiệt.”
  5. Mình lên Đà Lạt chơi, tối ngồi uống sữa đậu nành, có 10,000 VND/ly thôi. Nhưng khi một anh Tây kia uống xong kêu tính tiền thì chị bán hàng nói “pho ti thao sèn” (fourty thousands/40,000 VND).
  6. Mình có thằng bạn làm ở một khách sạn nhỏ ở Vũng Tàu. Vào dịp 30/4 năm ngoái khách sạn nó còn phòng nhưng ông bà chủ bắt nói với khách là hết phòng, đúng ngày 30/4 sẽ lên giá. Thằng đó vì không hiểu nên mới ý kiến với ông chủ là không sợ mất khách hả, ổng trả lời “sợ gì mày ơi, người ta cần tao chứ tao đâu cần người ta.”
  7. Kỳ trước mình với tụi bạn đi Nha Trang chơi. Đang ăn thì cô bạn trong nhóm bị đau bao tử, thế là mình chạy đi mua vài viên thuốc. Mình tới tiệm thuốc tây kêu: “chú ơi, bạn con bị đau bao tử, chú bán con 2 viên,” ông chủ tiệm trả lời “ba chục em nhé.” Một viên thực tế có vài ngàn thôi mà lúc đó gấp quá nên mình trả luôn không nói gì.
  8. Mấy cái em lễ tân khách sạn hình như hay thích phân biệt đối xử với khách nội và ngoại hay sao á. Nó thấy người Việt vô là mặt tỉnh bơ, còn thấy khách Tây với trai đẹp là cái mặt sáng lên tươm tướp tới chào hỏi.
  9. Tháng vừa rồi mình đi Hà Nội, thuê xe máy chạy vòng vòng. Đi gửi xe gần Hồ Gươm để tham quan, thấy cái bảng ghi 5,000. Nhưng khi ra tính tiền thằng giữ xe hét 20,000 VND. Tởn tới già.
  10. Một anh người Mỹ mua một tour du lịch Hạ Long, ngủ qua đêm trên thuyền. Đã đặt phòng đơn trước và trả tiền, nhưng lúc nhận phòng thì mới biết phải ngủ với 1 người lạ khác, và người này cũng đã đặt phòng đơn. Mấy chuyện này quá nhiều trên các diễn đàn du lịch.
  11. Mình với gia đình lái xe đi Nha Trang, dự định qua đêm ở biển Tuy Phong. Đã gọi điện đặt 2 phòng là 800,000 VND. Nhưng tới lúc nhận phòng người ta tự nhiên tăng lên 1.4 triệu. Bực bội.
  12. 1 đoàn khách Nhật đi Vũng Tàu du lịch. Tới quán kia ở đường Hoàng Hoa Thắm bị chém 16.6 triệu cho một buổi ăn. Chắc phải ngon hơn ở khách sạn 5 sao.
  13. Một anh và 2 người bạn kia đi du lịch Vũng Tàu. Vào ngày thứ 2 đi ăn bánh canh ở cái quan vỉa hè, trả 300,000 VND cho 3 tổ nhỏ xíu. Một kỷ niệm thật đẹp với Vũng Tàu.
  14. Bà dì mình năm rồi đi Vịnh Hạ Long, bả về bả nói một câu mình không biết nói gì luôn “đi Hạ Long rồi về Sài Gòn tao mới biết tao còn sống, đi làm gì mày ơi.”

 

Có quá nhiều điều để nói nhưng báo chí đã viết quá nhiều nên bài viết này sẽ tạm ngưng ở đây.

 

Ku Búa

Nấm thức thần psilocybin hoạt động như thế nào? (Phần cuối)

Pháp luật và lịch sử

Magic Mushrooms và luật pháp

Tàng trữ, thảo luận, canh tác và buôn bán nấm psilocybe phụ thuộc trực tiếp vào nơi bạn sống. Tại Mỹ, nấm psilocybe được xếp vào nhóm ma túy “Schedule I” dưới sự quản lý của “the Controlled Substances Act” hay còn được gọi là “the Psychotropic Substances Act” – Điều này có nghĩa là pháp luật tại Mỹ coi nấm psilocybe thuộc chất ma túy dễ bị lạm dụng và không có khả năng trị liệu y học, pháp luật cũng coi nấm thuộc loại ma túy nguy hiểm ngay cả khi bác sĩ kê đơn thì điều này cũng không được chấp nhận.

Từ khi con người biết tới chất Psilocybin là hợp chất hóa học chính yếu gây ra hiệu ứng trên người sử dụng nấm thì nấm đã bị cấm tại Mỹ. Tuy nhiên, bào tử nấm không chứa chất psilocybin, do đó việc sở hữu bào tử nấm gây ra khá nhiều tranh cãi trong luật pháp liên bang Mỹ.

P/S: Cho tới thời điểm này cây cần sa vẫn bị xếp vào nhóm ma túy “Schedule I”!

Nhiều growers sống tại Mỹ đã mua bào tử nấm từ những nước khác, thế nhưng tổ chức Drug Enforcement Administration (DEA) đã thắt chặt luật pháp trên sự sở hữu dụng cụ và bào tử phục vụ cho việc trồng nấm tại nhà. Tuy nhiên bào tử nấm lúc đó vẫn còn chưa bị cấm ở rất nhiều nước trên thế giới, thế nhưng nhiều nước châu âu đã thắt chặt luật cấm từ năm 2000s. Ví dụ, trước năm 2005 thì việc buôn bán nấm psilocybe là hoàn toàn hợp pháp tại Anh Quốc (nhưng sở hữu bào tử vẫn chưa bị cấm). Tại Hà lan, đã cấm bán nấm khô vào năm 2001 và cấm bán nấm tươi vào năm 2008. Ở những nước khác, luật pháp vẫn cho phép sở hữu nấm psilocybe nhưng cấm buôn bán.

Một vài nước, như Mexico, cho phép sử dụng nấm psilocybe trong những sinh hoạt tôn giáo.

Tóm tắt lịch sử của nấm psilocybe

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tin rằng nấm psilocybe đã được con người sử dụng từ 9000 năm trước công nguyên dựa theo những hình ảnh được điêu khắc trên đá được tìm thấy. Tượng điêu khắc và những bằng chứng khác có hình ảnh của nấm psilocybe đã được tìm thấy tại nền văn mình đã mất Myan và Aztech ở Central America.

Người Aztecs đã sử dụng một hợp chất gọi là teonanácatl có nghĩa là “mũi tên của chúa trời”, mà người ta cho rằng đây là một tên gọi khác của nấm psilocybe. Cùng với Peyote Cactus, Morning glory seeds và những cây thực vât làm thay đối nhận thức khác, nấm psilocybe đã được sử dụng để giúp con người đi vào trạng thái hôn mê, thay đổi nhận thức và liên lạc trực tiếp với chúa trời. Khi những người truyền giáo của Thiên Chúa Giáo Tây Ba Nha tới châu Mỹ vào thể kỷ thứ 16, một vài người đã viết về những cây thực vật giúp con người thay đổi nhận thức.

Nấm psilocybe đã được người phương tây (châu âu) biết tới từ những năm 1950s. Một nhà nghiên cứu nấm có tên là R. Gordon Wasson đã đi du lịch khắp nước Mexico để nghiên cứu về nấm vào năm 1955. Ông đã tham dự và làm chứng về những nghi lễ tôn giáo sử dụng nấm psilocybe. Ông đã được hướng dẫn bởi thầy phù thủy (shaman) của người Mazatec – người bản xứ sống ở vùng Oaxaca thuộc nam Mexico.

Wasson đã viết nhiều bài thuật lại cuộc tìm kiếm của ông và những bài viết này đã được xuất bản trên tạp chí Life vào năm 1957 với tựa đề “Tìm kiếm nấm Psilocybe“. Một trong những đồng nghiệp của Wasson có tên là Roger Heim đã nhờ tới sự giúp đỡ của Albert Hofmann (cha đẻ của LSD) để có thể chiết xuất thành công hợp chất psilocybin và psilocin từ nấm mà Wasson đã mang về từ Mexico.

Một trong những người nổi tiếng nhất ủng hộ LSD đã đọc tạp chí Life và đã kêu gọi mọi người sử dụng nấm psilocybe để tìm kiếm thế giới tâm linh. Từ đó nấm psilocybe đã được sử dụng rộng rãi trong phong trào Hippie những năm 1960s. Trong những năm 1970s, luật pháp đã cấm con người sử dụng nấm psilocybe (trừ khi điều này phục vụ tìm kiếm khoa học). Cho tới nay nấm psilocybe tính ra mới được quốc tế hóa khoảng 40 năm!


Dịch: Việt Growers Psychedelics Plants (17/03/2015)
Source: How Stuff Works

 

Nấm thức thần psilocybin hoạt động như thế nào? (Phần 3)

Liều lượng và canh tác

Liều lượng sử dụng

Liều lượng và cường độ của nấm psilocybe không chỉ phụ thuộc vào chủng loại (giống), mà còn phụ thuộc vào nơi canh tác và kỹ thuật canh tác. Ví dụ: có nhiều giống nấm thuộc họ P. Cubensis; giống Thai P. cubensis cho hiệu ứng rất mạnh trong khi giống Gulf Coast cho hiệu ứng high êm dịu. Chất psylocybin có trong nấm thức thần cũng bị giảm đáng kể khi phơi khô nấm, do đó cần phải ăn nhiều hơn để thu được cùng một hiệu ứng so với nấm còn tươi.

Nấm thức thần được bán tại Mỹ có giá khoảng $20 một liều (3,5grams). Hiệu ứng của nấm luôn luôn thay đổi đối với từng người sử dụng và từng chủng loại (giống).

Thông thường, những người mới dùng nấm psilocybe lần đầu tiên được khuyên dùng 1g nấm khô, sau đó đợi 1 giờ sau để quan sát hiệu ứng trên cơ thể và quyết định có nên dùng thêm hay không. Phương pháp ăn là nhai nát nấm tươi (hoặc khô), nấm khô khá khó ăn, ngược lại nấm tươi thì dễ ăn hơn, một số loài nấm khi ăn có vị the thé hoặc đắng khó chịu, nếu ăn cùng với hoa quả (ví dụ như quả dâu) thì sẽ dễ ăn hơn. Để ăn nấm psilocybe người ta cũng thường cho nấm vào bánh Pizza hay bất cứ món ăn gì có thể chế với nấm – Tuy nhiên đối với những món ăn phải nấu quá lâu với nấm sẽ làm giảm đáng kể hiệu ứng của nấm psilocybe khi ăn.

Nếu bạn không thích ăn nấm thì có thể tán nhỏ nấm rồi hãm với nước sôi rồi vắt hết nước để uống như trà. Ngoài ra rượu cũng rất thường được sử dụng cùng với nấm, ví dụ như chúng ta có thể cho nấm vào ngâm với rượu rum hoặc tequila sau đó lấy chất lỏng thu được để uống trực tiếp hoặc mix với các loại nước khác. Những người đã sử dụng nấm theo phương pháp hãm như trà nói rằng họ cảm thấy hiệu ứng diễn ra nhanh hơn là đối với cách ăn trực tiếp. Ngoài ra, nấm khô còn có thể được tán nhỏ rồi cho vào viên nhọng để uống như thuốc (mushroom pills) – sử dụng theo cách này người dùng có thể tránh được mùi vị khó chịu của nấm.

Nhiều người dùng thường mua nấm từ các growers, một số thường đi săn nấm ngoài tự nhiên (chú ý khi săn nấm ngoài tự nhiên phải đảm bảo 2 điều để chắc chắn đó là nấm psilocybe: 1 là quan sát sự ô xy hóa của psilocybine khi cấu nấm (sẽ có màu xanh nước biển) và 2 là phải làm spore print). Tuy nhiên rất nhiều người dùng nấm yêu thích canh tác nấm tại nhà, canh tác nấm tại nhà rất dễ và không tốn kém về diện tích cũng như đồ nghề.

Canh tác nấm psilocybe

Để canh tác nấm psilocybe, trước tiên mời bạn đọc bài này:

Rất nhiều người mới canh tác nấm bắt đầu với giống P. Cubensis bởi vì đây là giống được biết tới nhiều nhất trên thế giới và chúng cũng dễ canh tác nhất. Có rất nhiều phương pháp để canh tác nấm, nhưng cách đơn giản nhất là bắt đầu với bào tử (phôi) của nấm. Một bào tử nấm sẽ phát triển thành một quả nấm (nấm không phải là cây) nhưng một quả nấm có thể cho ra hàng trăm hoặc hàng ngàn bào tử.

Spore Prints thường được sử dụng để xác định chính xác loại nấm mọc hoang dã trong tự nhiên, cũng có thể được sử dụng để canh tác nấm. Bào từ khô trên bản in cần phải được nhúng vào nước cất trước khi sử dụng. Vô trùng là điều tối quan trọng khi canh tác nấm bởi vì vi khuẩn hoặc mốc có thể phát triển cùng với mycelium và làm hỏng hoàn toàn vụ mùa. Rất nhiều growers mua bào tử trong ống tiêm (được làm từ bào tử và nước cất) từ những website bán trên internet hoặc họ có thể tự làm lấy tại nhà. Một ống tiêm bào tử (spore syringe) có giá từ $10 tới $20 tùy vào giống nấm.

Phương pháp canh tác được nhiều growers áp dụng nhất thế giới là phương pháp PF TEK do tác giả Robert ‘ Billy’ McPherson phát minh vào năm 1995 sử dụng lọ thủy tinh, hộp nhựa to, nồi áp suất, bột gạo nâu và vermiculite để canh tác nấm tại nhà. Bột gạo nâu được trộn cùng với vermiculite và nước để tạo ra chất nền xốp và thoáng khí. Chất nền này sau đó được cho vào lọ thủy tinh, sau đó đậy nắp lại và cho vào nồi áp suất để tiệt trùng trong khoảng 1h. Sau khi tiệt trùng growers cần để lọ thủy tinh qua một đêm để nhiệt độ giảm xuống nhiệt độ thường.

Sau đó growers bơm bào tử từ xi lanh qua một lỗ nhỏ trên nắp hộp để cấy phôi vào chất nền đã được tiệt trùng. Sau đó lọ thủy tinh này được để trong bóng tối ở nhiệt độ 28 độ C trong vòng 3 tuần để bào tử có thể phát triển thành Mycelium và để Mycelium có thể chiếm hữu hết chất nền. Một khi Mycelium đã chiếm hữu hết chất nền, growers chỉ cần cho cục chất nền (còn gọi là Cake hay bánh trong tiếng việt) vào hộp nhựa to được rải đá chân trâu (perlit) ở phía dưới đáy.

Tiếp theo growers cần giữ ẩm khoảng 95%, ánh sáng ban ngày hoặc ánh sáng đèn tuýp 12h mỗi ngày và thường xuyên quạt CO2 ứ đọng trong hộp để khí mới có thể đi vào (nấm sử dụng O2 và giải phóng CO2). Nhiệt độ thích hợp nhất để nấm phát triển là 23 độ C. Nếu không có vấn đề gì nấm sẽ mọc sau 1 hoặc 2 tuần, growers cần thu hoạch nấm vào thời điểm mũ nấm bắt đầu mở ra (mũ nấm mở ra để giải phóng bào tử, ở thời điểm này nấm đã dừng phát triển về trọng lượng). Một chiếc bánh như thế này có thể cho ra hàng trăm quả nấm. Growers cũng thường phơi khô nấm (để nấm ở nơi khô, thoáng) sau đó bảo quản trong lọ thủy tinh kín ở nơi tránh ánh sáng hoặc để trong lọ thủy tinh kín rồi giữ trong tủ lạnh. Bằng cách này nấm có thời gian sử dụng lên tới hàng tháng.

Để tìm hiểu kỹ hơn về phương pháp PF TEK bạn có thể tham khảo trang này.

Ở phần kế tiếp của bài này chúng ta sẽ tìm hiểu về pháp luật và lịch sử của nấm psilocybe.

 

Việt Growers Psychedelics Plants
16/03/2015

Nấm thức thần psilocybin hoạt động như thế nào? (Phần 2)

Các loài nấm thức thần

Mũ bonê của tự do hay còn gọi là P. Semilanceata là một loài nấm thức thần được nhiều người biết tới và có thể tìm thấy tại nhiều nơi trên trái đất.

Săn nấm trong tự nhiên chứa đựng nhiều hiểm họa. Có hàng ngàn loài nấm, phần lớn trong số này có những tính chất rất giống nhau. Một số loài nấm độc không chỉ tạo ra những vấn đề về dạ dày mà còn có thể làm suy sụp cơ thể hoặc chết người. Cuộc đi săn các loài nấm có thể ăn được không dành cho người mới bắt đầu mà cần phải được người có nhiều kinh nghiệm trong việc xác định chủng loại nấm thực hiện. Ngay cả đổi với những người đã có kinh nghiệm vài chục năm săn nấm cũng có thể nhầm lẫn.

Một phần quan trọng của quá trình xác định chủng loại nấm là tạo ra một dấu in phôi nấm (spore print) – Điều này có thể thực hiện bằng cách ấn đều mũ nấm xuống phía dưới trên một miếng giấy (giấy có sự tương phản trắng-đen thường được sử dụng), theo cách làm này phôi nấm được giải phóng. Chúng ta sẽ nói cụ thể về phương pháp in phôi nấm phía dưới bài này.

P/S: Videos săn các loài nấm Psilocybe ở một số vùng trên thế giới (tiếng Anh):

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 1 of 4:

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 2 of 4:

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 3 of 4:

The Hunt for Wild Magic Mushrooms 4 of 4:

How to identify magic mushrooms psilocybin cubensi:

https://www.youtube.com/watch?v=kQc6auPbNWg


Có hàng chục loài nấm Psilocybe. Phần lớn trong số này có dáng nhỏ – Kích thước trung bình là 7cm chiều dài thân và 2,5cm chiều dài của mũ nấm. Khi nấm còn tươi, chúng thường có thân màu xám sáng, hơi vàng hoặc nâu nâu, & mũ nấm màu nâu hoặc nâu-trắng + lá tia (ở mũ nấm). Trong bài này chúng ta chỉ tìm hiểu một vài loài nấm được biết đến nhiều nhất.

Psilocybe cubensis

Psilocybe cubensis là loài nấm có kích thước lớn nhất trong các loài nấm thức thần. Đây cũng là loài được biết tới nhiều nhất. Thường được gọi là Large Psilocybe, Golden Cap hoặc Mexican Mushroom, có rất nhiều biến thể khác nhau. Mũ nấm thường hơi đỏ nâu, với thân màu trắng hoặc vàng nhạt. Khi làm dập hoặc bẻ ngang, thịt nấm (dính) thường chuyển qua màu xanh xanh. Một vài người tin rằng đây là một trong những dấu hiệu chìa khóa để săn nấm ngoài tự nhiên, nhưng một vài loài nấm độc cũng chuyển sang màu xanh(!). Psilocybe cubensis thường được tìm thấy tại những nơi ẩm ướt, chúng mọc trên những bãi phân của động vật ăn cỏ như Ngựa, Trâu, Bò…

Psilocybe Semilanceata

Hay còn gọi là mũ bonê của tự do là một loài nấm psilocybe được nhiều người biết đến. Thông thường, P. semilanceata có thể được tìm thấy tại những đám cỏ ẩm ướt và có sự xuất hiện của trâu bò hoặc cừu nhưng không giống như P. cubensis, loài nấm này không mọc trực tiếp trên những bãi phân. Semilanceata Psilocybe có kích thước nhỏ, có màu vàng sáng hoặc nâu, có chóp (đỉnh mũ nấm) rất nhọn. Một loài nấm psilocybe khác có tên là Psilocybe pelliculosa (có ít hợp chất thức thần hơn) thường hay bị nhầm lẫn với nấm P. semilanceata.

Psilocybe Baeocystis

Psilocybe baeocystis khi còn tươi có mũ nấm màu nâu sẫm và thân nấm màu nâu nhạt hoặc vàng nhạt. Chúng thường được tìm thấy tại những đám cỏ (cánh đồng) và mọc trên những thân gỗ mục, tảng than bùn hoặc lớp rơm lót. Chúng có những tên gọi khác là potent Psilocybe, blue bell và bottle cap.

Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về liều lượng và các phương pháp sử dụng nấm thức thần.


Source: Việt Growers Psychedelics Plants (02/03/2015)
Edit: Triết Học Đường Phố

 

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 3)

 

Nền tảng của chính sách tự do – Chương 1

5. Bất bình đẳng về tài sản và thu nhập

Bất bình đẳng về tài sản và thu nhập là vấn đề bị phê phán nặng nề nhất. Trong xã hội có người giàu và người nghèo, có người rất giàu và cũng có người rất nghèo. Cách giải quyết cũng không có gì khó: chia đều tất cả tài sản.

Đề xuất này bị phản đối trước hết vì người ta cho rằng nó sẽ chẳng giúp cải tạo được tình hình vì số người có của phải lớn hơn rất nhiều lần số người giàu có hiện nay cho nên việc phân chia như thế sẽ chẳng làm tăng được mức sống của mỗi người thêm được bao nhiêu. Điều này dĩ nhiên là đúng nhưng không đủ. Những người đòi sự bình đẳng trong việc phân chia thu nhập đã bỏ qua một chi tiết quan trọng nhất: tổng số tài sản có thể đem phân phối, tức là thu nhập hàng năm của lao động xã hội, không phụ thuộc vào cách phân phối chúng.

Số sản phẩm đang có trong xã hội không phải là hiện tượng tự nhiên hay xã hội độc lập với các điều kiện xã hội mà chính là kết quả của những định chế xã hội của chúng ta. Chỉ vì bất bình đẳng có thể tồn tại trong chế độ xã hội của chúng ta, chỉ vì nó thúc đẩy mọi người mang hết sức mình ra sản xuất và sản xuất với giá thành thấp nhất cho nên loài người mới có trong tay số tài sản được sản xuất ra và được tiêu thụ hàng năm như hiện nay. Nếu động cơ lao động đó bị phá huỷ thì năng suất lao động sẽ giảm đáng kể, phần đem phân phối cho mỗi cá nhân sẽ ít hơn rất nhiều so với phần mà một người nghèo nhất cũng nhận được hiện nay.

Tuy nhiên, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập còn có một chức năng nữa, cũng quan trọng như chức năng vừa nói bên trên: sự xa xỉ của người giàu.

Người ta đã nói và viết rất nhiều điều ngu xuẩn về sự xa xỉ. Người ta phản đối việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ vì cho rằng thật là bất công khi một số người sống quá thừa mứa trong khi những người khác lại sống trong cảnh bần hàn. Luận cứ này có vẻ như cũng có giá trị nào đó. Nhưng đấy chỉ là vẻ ngoài mà thôi. Nếu có thể chứng minh được rằng việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ chính là thực hiện một chức năng hữu ích trong hệ thống hợp tác xã hội thì luận cứ này sẽ bị coi là vô giá trị. Đấy chính là điều chúng ta sẽ làm trong phần dưới đây.

Dĩ nhiên là chúng ta không biện hộ cho việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ bằng luận cứ mà đôi khi có người nói là hàng xa xỉ giúp luân chuyển tiền trong dân chúng. Nếu người giàu không hưởng những món xa xỉ thì người nghèo không có tiền, người ta nói như thế. Thật là nhảm nhí. Vì rằng nếu không có người tiêu thụ hàng xa xỉ thì vốn và lao động dùng cho việc sản xuất hàng xa xỉ sẽ được dùng cho việc sản xuất các hoàng hoá khác, thí dụ như những món hàng mà nhiều người tiêu thụ, những món hàng cần thiết chứ không phải là những món hàng “vô dụng”.

Để có thể tạo ra được một quan niệm đúng đắn về giá trị xã hội của việc tiêu thụ các món hàng xa xỉ trước hết ta phải hiểu rằng khái niệm về xa xỉ là khái niệm tương đối. Xa xỉ là có cách sống tương phản rõ rệt với phần lớn dân chúng cùng thời. Như vậy là, quan niệm về xa xỉ là quan niệm có tính cách lịch sử. Nhiều thứ ta coi là thiết yếu hiện nay có thời đã từng được coi là xa xỉ.

Trong thời Trung cổ, khi phu nhân dòng dõi quý tộc người Byzantine của ngài tổng trấn vùng Venise dùng món mà ngày nay chúng ta gọi là thìa thìa dĩa bằng vàng để gắp thức ăn chứ không dùng tay để bốc thì người Venise coi đấy là món hàng xa xỉ, nhạo báng cả thánh thần và họ nghĩ rằng nếu trời có mắt thì nhất định người đàn bà này phải mắc một căn bệnh khủng khiếp mới xứng: chắc chắn là họ cho rằng tiêu xài phung phí trái tự nhiên như thế thì nhất định sẽ bị Trời phạt.

Cách đây vài ba thế hệ buồng tắm trong nhà được coi là xa xỉ, ngày nay gia đình công nhân Anh nào cũng có buồng tắm như thế cả. Ba mươi lăm năm trước chưa ai có ô tô, hai mươi năm trước sở hữu ô tô được coi là sống xa hoa, còn hiện nay ở Mĩ ngay cả công nhân cũng có xe Ford riêng. Đấy là xu hướng của lịch sử kinh tế. Món hàng xa xỉ hôm nay sẽ trở thành đồ dùng cần thiết vào ngày mai. Mọi sự cải tiến trước tiên đều là những món hàng xa xỉ của một ít người giàu có, nhưng sau đó một thời gian sẽ trở thành đồ dùng thiết yếu, được mọi người coi là đương nhiên phải như thế.

Việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ giúp cho nền công nghiệp phát triển và tạo ra những sản phẩm mới. Đấy là một trong những tác nhân làm cho nền kinh tế của chúng ta trở thành năng động. Nhờ có nó mà chúng ta mới có những cách tân, và nhờ những cách tân như thế mà đời sống của tất cả các thành phần dân cư trong xã hội mới được cải thiện từng bước một.

Nhưng phần lớn người ta đều không có cảm tình với một người vô công rỗi nghề giàu có, chỉ biết ăn chơi chứ chẳng chịu làm bất cứ chuyện gì. Nhưng ngay cả một người như thế cũng thực hiện chức năng trong đời sống của cơ thể xã hội. Anh ta tạo ra, thí dụ cách sống xa hoa, lối sống như thế sẽ làm cho quần chúng nhận thức được những nhu cầu mới và khuyến khích nền công nghiệp hoàn thành các nhu cầu đó.

Có thời chỉ có người giàu mới đi ra nước ngoài. Schiller chưa bao giờ được nhìn thấy những dãy núi ở Thuỵ Sĩ mà ông từng ca ngợi trong tác phẩm Wilhelm Tell, mặc dù chúng nằm ngay trên biên giới quê hương Swab của ông. Goethe chưa bao giờ thấy Paris, Vienna cũng như London. Hôm nay hàng trăm ngàn người đang đi du lịch, chẳng mấy nữa sẽ có hàng triệu người cũng sẽ đi như thế.

6. Sở hữu tư nhân và đức hạnh

Trong khi tìm cách chỉ ra chức năng xã hội và sự cần thiết của sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và kèm theo nó là hiện tượng bất đình đẳng trong phân phối thu nhập và tài sản, chúng tôi đồng thời cũng đưa ra bằng chứng biện hộ về mặt đạo đức cho sở hữu tư nhân và chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là chế độ xã hội dựa trên nền tảng sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất.

Đức hạnh là sự tôn trọng những đòi hỏi tất yếu cho sự tồn tại của xã hội mà bất kỳ thành viên nào của xã hội cũng cần phải thực hiện. Một người sống cách ly với thế giới thì không cần tuân theo bất kỳ quy tắc đạo đức nào. Anh ta không cần phải đắn đo khi làm những việc mà anh ta cho rằng có lợi cho mình vì không cần phải suy nghĩ xem việc đó có làm hại người khác hay không. Nhưng, là một thành viên trong xã hội, khi làm bất kỳ việc gì người ta cũng phải xem xét không chỉ lợi ích trực tiếp của mình mà còn phải góp phần củng cố xã hội mà mình đang sống nữa.

Cá nhân chỉ có thể sống được nhờ sự hợp tác xã hội, nếu tổ chức đời sống và sản xuất xã hội bị sụp đổ thì từng cá nhân sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng. Trong khi yêu cầu các cá nhân quan tâm đến lợi ích của xã hội trong mọi hành động của mình và không được làm những hành động có lợi cho anh ta nhưng lại gây thiệt hại nghiêm trọng đối với đời sống xã hội thì không có nghĩa là xã hội yêu cầu anh ta phải hy sinh quyền lợi của mình cho quyền lợi của người khác. Vì sự hy sinh mà xã hội đòi hỏi chỉ là tạm thời: hy sinh lợi ích trực tiếp và tương đối nhỏ để đổi lấy lợi ích lớn hơn nhiều.

Sự tồn tại của xã hội, sự tồn tại hiệp hội những con người hợp tác với nhau và cùng nhau chia sẻ một lối sống chung, đáp ứng quyền lợi của tất cả mọi người. Người nào hy sinh lợi ích tức thời nhằm tránh cho xã hội khỏi tình trạng hiểm nghèo là người hy sinh lợi ích nhỏ vì lợi ích to lớn hơn nhiều.

Ý nghĩa của sự tôn trọng quyền lợi của xã hội như thế lại thường bị hiểu sai. Người ta tin rằng giá trị đạo đức nằm ở hành động hy sinh, ở việc từ bỏ sự thoả mãn ngay lập tức. Người ta không chịu công nhận rằng giá trị đạo đức không phải là sự hy sinh, mà là mục đích của sự hy sinh; người ta cố tình gán giá trị đạo đức cho bản thân hành động hy sinh, cho bản thân sự từ chối. Nhưng hành động hy sinh phải là để phục vụ cho mục đích đức hạnh thì mới được coi là đức hạnh. Có sự khác nhau một trời một vực giữ một người liều mình và hy sinh tài sản của mình vì những mục tiêu cao quý và một người hy sinh tất cả những thứ đó mà chẳng mang lại lợi ích gì cho xã hội.

Tất cả những hành động nhằm giữ gìn trật tự xã hội đều là đức hạnh, còn những gì có hại cho nó đều là phi đạo đức hết. Do đó, khi ta rút ra kết luận rằng một định chế nào đó là có lợi cho xã hội thì không thể nói rằng nó là phi đạo đức được. Có thể có những ý kiến khác nhau về việc một định chế cụ thể nào đó là có ích hay có hại đối với xã hội. Nhưng khi đã coi định chế đó là có lợi thì người ta không còn có thể nói rằng nó phải bị coi là phi đạo đức vì một lý do không thể giải thích nào đó được nữa.

7. Nhà nước và chính phủ

Tuân thủ luật đạo đức là lợi ích tối cao của mọi cá nhân vì duy trì sự hợp tác xã hội mang lại lợi ích cho tất cả mọi người; đồng thời nó cũng buộc mọi người phải hy sinh, mặc dù chỉ là những hy sinh tạm thời để đổi lấy những lợi ích lớn hơn. Phải có một số hiểu biết sâu sắc mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự vật thì mới nhận thức được chuyện đó, đồng thời phải có ý chí nhất định thì mới thực hiện được những hành động phù hợp với nhận thức như thế.

Những người không có nhận thức hoặc nhận thức được nhưng không có ý chí thực hiện thì không có khả năng tuân thủ luật đạo đức một cách tự nguyện. Không khác gì việc tuân thủ các quy định về vệ sinh mà các cá nhân phải theo vì sức khoẻ của chính mình. Một người nào đó có thể sống phóng túng, thí dụ như hút chích ma tuý vì không biết hậu quả của nó hoặc cho rằng hậu quả không là gì so với việc từ bỏ thú vui nhất thời, hoặc là không có đủ ý chí để điều kiển hành vi cho phù hợp với nhận thức của mình.

Có người cho rằng xã hội cần phải sử dụng những biện pháp cưỡng bức để buộc những cá nhân nói trên vào đường ngay lối thẳng và trừng phạt bất kỳ kẻ nào có những hành động bất cẩn có hại cho sức khoẻ và cuộc sống của hắn ta. Họ nói rằng phải dùng biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn những kẻ nghiện rượu và nghiện ma túy khỏi những thói hư tật xấu của mình và buộc họ phải tự bảo vệ sức khoẻ.

Nhưng những biện pháp cưỡng bách có đáp ứng được mục tiêu đề ra hay không? Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này sau. Bây giờ chúng ta sẽ quan tâm đến một vấn đề khác, mà cụ thể là có cần buộc những kẻ có hành vi gây nguy hại cho sự tồn tại của xã hội phải chấm dứt những hành động như thế hay không. Người nghiện rượu và nghiện ma tuý chỉ gây hại cho chính mình; còn người vi phạm những qui tắc đạo đức điều chỉnh đời sống của con người trong xã hội gây hại không chỉ cho mình mà còn cho tất cả mọi người.

Cuộc sống trong xã hội sẽ trở thành bất khả thi nếu những người muốn cho trật tự xã hội tiếp tục tồn tại và có hành động phù hợp với ước muốn đó không được dùng sức mạnh và những biện pháp cưỡng bức nhằm chống lại những kẻ sẵn sàng phá hoại trật tự xã hội. Một ít kẻ phản xã hội, tức là những người không muốn hoặc không thể thực hiện những hành động hy sinh tạm thời mà xã hội đòi hỏi, có thể làm cho đời sống xã hội trở thành không chịu đựng nổi. Không sử dụng những biện pháp cưỡng chế và sức mạnh nhằm chống lại kẻ thù của xã hội thì không thể sống được.

Chúng ta gọi bộ máy ép buộc và cưỡng chế, tức là bộ máy buộc người dân tuân thủ những quy định của đời sống xã hội, là nhà nước; gọi những quy định mà nhà nước phải tuân thủ là luật pháp; gọi những tổ chức chịu trách nhiệm quản lý bộ máy cưỡng chế đó là chính phủ.

Có những môn phái tin rằng người ta hoàn toàn có thể từ bỏ bất kỳ hình thức cưỡng bức nào và có thể xây dựng xã hội trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện tuân thủ các chuẩn mực đạo đức. Những người vô chính phủ cho rằng nhà nước, luật pháp và chính phủ đều chỉ là những định chế vô tích sự trong hệ thống xã hội, đấy là nói hệ thống phục vụ cho quyền lợi của tất cả mọi người chứ không phải chỉ phục vụ cho quyền lợi của một ít kẻ đặc quyền đặc lợi. Chỉ có chế độ xã hội dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới cần sử dụng bạo lực và cưỡng bức để tự vệ mà thôi. Nếu sở hữu tư nhân bị bãi bỏ thì mọi người, không trừ một ai, đều sẽ tự động tuân thủ những quy định mà sự hợp tác xã hội đòi hỏi.

Như đã chỉ ra bên trên, học thuyết đó sai lầm ngay khi nó nói về tính chất của quyền sở hữu tư nhân các tư liệu sản xuất. Nhưng nếu không có chuyện đó thì lý thuyết này cũng hoàn toàn không thể đứng vững được. Người theo phái vô chính phủ hoàn toàn đúng khi không phủ nhận rằng mỗi hình thức hợp tác giữa người với người trong xã hội trên cơ sở phân công lao động đều đòi hỏi tuân thủ một số quy tắc ứng xử không phải lúc nào cũng được các cá nhân hoan nghênh vì những quy tắc đó buộc người ta phải hy sinh, dù chỉ là trong một thời gian ngắn, nhưng vẫn làm cho người ta đau khổ, ít nhất là ngay tại thời điểm đó.

Nhưng người theo phái vô chính phủ đã lầm khi cho rằng mọi người, không có ngoại lệ, đều sẽ tự nguyện tuân thủ các quy tắc như thế. Có những người bị bệnh đường ruột, họ biết rõ rằng nếu ăn một món nào đó thì chỉ một thời gian ngắn sau đó họ sẽ bị đau bụng, thậm chí đau đến mức không chịu được, nhưng họ vẫn không thể không hưởng thụ cái món khoái khẩu đó. Những mối quan hệ qua lại trong đời sống xã hội khó theo dõi hơn là tác động của thức ăn lên cơ thể con người và hậu quả cũng không diễn ra nhanh như thế, mà trên hết là không phải lúc nào kẻ bất lương cũng cảm nhận được.

Có thể bỏ qua tất cả những điều đã trình bày mà giả định rằng mỗi người trong xã hội vô chính phủ đều có khả năng nhìn xa trông rộng và ý chí mạnh mẽ hơn kẻ bị bệnh đường ruột tham ăn mà không sợ bị coi là ngớ ngẩn hay không? Trong xã hội vô chính phủ liệu có thể loại bỏ hoàn toàn khả năng là một người vô tình ném que diêm đang cháy và gây ra hoả hoạn hoặc trong khi tức giận, ghen tuông hay thù hận mà xúc phạm người khác được hay không? Chủ nghĩa vô chính phủ hiểu sai bản chất của con người. Nó chỉ có thể trở thành hiện thực trong thế giới của thánh thần mà thôi.

Chủ nghĩa tự do không phải là chủ nghĩa vô chính phủ và cũng chẳng có gì chung với chủ nghĩa vô chính phủ. Người theo trường phái tự do hiểu rõ rằng không có những biện pháp cưỡng bách thì sự tồn tại của chính xã hội sẽ bị đe doạ và muốn bảo đảm được sự hợp tác hoà bình giữa người với người thì đằng sau các quy tắc ứng xử cần phải tuân thủ còn cần phải có sự đe doạ bằng vũ lực, nếu không bất cứ thành viên nào cũng có thể là mối đe doạ đối với toàn bộ lâu đài xã hội. Cần phải có khả năng buộc những kẻ không tôn trọng cuộc sống, sức khoẻ, quyền tự do cá nhân hay tài sản cá nhân của người khác tuân thủ những quy tắc của đời sống trong xã hội. Đấy chính là chức năng mà học thuyết tự do gán cho nhà nước: bảo vệ tài sản, tự do và hoà bình.

Một người xã hội chủ nghĩa Đức tên là Ferdinand Lassalle đã cố tình biến quan niệm về nhà nước trong cái khung chật hẹp như thế thành trò nhảm nhí bằng cách gọi nhà nước được xây dựng trên những nguyên tắc tự do là “nhà nước – tuần đêm”. Nhưng thật không hiểu nổi vì sao nhà nước – tuần đêm lại kỳ quặc hoặc tồi tệ hơn là nhà nước quan tâm đến cả việc muối dưa cải, sản xuất nút quần hoặc xuất bản báo?

Muốn hiểu được cái ấn tượng mà Lassalle tìm cách tạo ra bằng nhận xét dí dỏm như thế, ta phải biết rằng người Đức cùng thời với ông vẫn chưa quên được nhà nước của những ông vua độc tài, với rất nhiều chức năng quản lý và điều tiết khác nhau, và họ vẫn còn bị triết học của Hegel chi phối rất mạnh, ông này lại là người đưa nhà nước lên vị trí của thánh thần. Nếu coi nhà nước, theo quan niệm của Hegel, như là “một thực thể tự ý thức về mặt đạo đức”, là “Vũ trụ trong nó và cho chính nó”, là “lý tính của ý chí” thì dĩ nhiên là người ta phải coi mọi cố gắng nhằm giới hạn chức năng của nhà nước vào việc phục vụ như là người gác cổng ban đêm là báng bổ rồi.

Chỉ có như thế ta mới hiểu được làm sao mà người ta lại có thể đi xa đến mức chỉ trích chủ nghĩa tự do là có thái độ căm ghét hay thù địch đối với nhà nước. Nếu tôi nghĩ rằng trao cho nhà nước việc quản lý ngành đường sắt, khách sạn hay hầm mỏ là không thích hợp thì tôi cũng không phải là “kẻ thù của nhà nước”, cũng như không thể coi tôi là kẻ thù của axit sulphuric chỉ vì tôi nghĩ rằng dù nó có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau thì cũng không thể dùng nó để uống hay rửa tay được.

Sẽ là sai khi nói rằng chủ nghĩa tự do muốn hạn chế lĩnh vực hoạt động của nhà nước hoặc về nguyên tắc học thuyết này căm thù mọi hoạt động của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực kinh tế. Cách giải thích như thế hoàn toàn không nói lên bản chất của vấn đề.

Quan điểm của chủ nghĩa tự do về chức năng của nhà nước là kết quả tất yếu của những luận cứ nhằm bảo vệ quyền tư hữu của chủ nghĩa này. Khi người ta đã ủng hộ quyền sở hửu tư nhân tư liệu sản xuất thì dĩ nhiên là người ta không thể ủng hộ quyền sở hữu công cộng tư liệu sản xuất, tức là ủng hộ việc giao chúng vào tay nhà nước chứ không để nằm trong tay sở hữu chủ tư nhân. Như vậy là, ủng hộ quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất cũng có nghĩa là giới hạn một cách triệt để các chức năng của chính phủ rồi.

Những người xã hội chủ nghĩa đôi khi cũng có thói quen phê phán chủ nghĩa tự do là không nhất quán. Họ khẳng định rằng sẽ là phi lý nếu quy định vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế chỉ là bảo vệ quyền sở hữu. Thật khó hiểu tại sao trong khi nhà nước không được hoàn toàn trung lập thì sự can thiệp của nó lại bị giới hạn trong việc bảo vệ quyền của các chủ sở hữu mà thôi?

Lời phê phán bên trên chỉ có thể được coi là hợp lý nếu sự chống đối của chủ nghĩa tự do đối với tất cả các hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, không kể việc bảo vệ quyền sở hữu, có xuất xứ từ việc căm thù về nguyên tắc mọi hành động của nhà nước. Nhưng vấn đề hoàn toàn không phải như thế. Chủ nghĩa tự do phản đối việc mở rộng lĩnh vực hoạt động của nhà nước chính vì trên thực tế nó sẽ tiêu diệt quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Mà những người theo trường phái tự do lại coi sở hữu tư nhân là nguyên tắc phù hợp nhất cho việc tổ chức đời sống của con người trong xã hội.

8. Chế độ dân chủ

Như vậy là, chủ nghĩa tự do hoàn toàn không có ý định phủ nhận sự cần thiết của bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật và chính phủ. Liên kết nó, dù dưới bất kỳ hình thức nào, với tư tưởng của chủ nghĩa vô chính phủ là sai lầm nghiêm trọng. Đối với người theo trường phái tự do, nhà nước là định chế tuyệt đối cần thiết vì người ta giao cho nó những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng: bảo vệ không chỉ sở hữu tư nhân mà còn bảo vệ hoà bình vì nếu không có hoà bình thì không thể gặt hái được toàn bộ lợi ích mà sở hữu tư nhân mang đến cho người ta.

Chỉ cần những lý lẽ như thế cũng đủ để xác định những chức năng mà nhà nước phải thực hiện nhằm đáp ứng lý tưởng của chủ nghĩa tự do. Nhà nước phải không chỉ đủ sức bảo vệ sở hữu tư nhân mà còn phải được xây dựng như thế nào đó để tiến trình phát triển hoà bình và uyển chuyển của xã hội không bao giờ bị những cuộc nội chiến, cách mạng và bạo loạn làm cho gián đoạn.

Nhiều người vẫn còn bị ý tưởng, có từ thời tiền tự do, cho rằng làm quan là cao quý và đáng trọng. Cho đến mãi thời gian gần đây, và cả hiện nay, các quan chức ở Đức vẫn được người ta trọng vọng, thái độ trọng vọng như thể làm quan là địa vị cao quý hơn cả. Sự tôn trọng của xã hội đối một chức quan hạng bét hay anh trung uý quèn còn cao hơn gấp nhiều lần sự tôn trọng giành cho một doanh nhân hay một luật sư lão làng. Các nhà văn, các nhà bác học và các nghệ sĩ đã nổi tiếng và được vinh danh ở nước ngoài nhưng ở trong nước lại chỉ nhận được sự tôn trọng tương xứng với địa vị khiêm tốn mà họ giữ trong bộ máy quan liêu của nhà nước mà thôi.

Đánh giá quá cao công việc trong các văn phòng của bộ máy quản lý như thế thật là một việc làm thiếu căn cứ. Đấy là một loại quái thai, dấu vết của những ngày xa xưa, khi mà người dân thường còn phải sợ hoàng thân và hiệp sĩ của ông ta vì lúc nào cũng có thể bị bọn họ cướp bóc. Trên thực tế, dùng thời giờ để ghi hồ sơ trong các công sở cũng chẳng có gì hay ho hơn, vinh dự hơn hay danh giá hơn, thí dụ như, làm trong phòng thiết kế của một nhà máy chế tạo nào đó. Nhân viên thuế vụ cũng có địa vị chẳng khác gì những người trực tiếp làm ra tài sản mà một phần của nó đã bị thu dưới dạng thuế khoá để trả cho chi phí của bộ máy của nhà nước.

Quan niệm về địa vị đặt biệt và phẩm giá của các quan chức nhà nước là cơ sở của lý thuyết giả-dân chủ về nhà nước. Lý thuyết này nói rằng để cho người khác cai trị là đáng xấu hổ. Lý tưởng của nó là một thể chế, trong đó mọi người dân đều quản lý, đều chỉ huy. Dĩ nhiên là chuyện này chưa bao giờ, hiện không thể và sẽ chẳng bao giờ xảy ra hết, ngay cả trong một quốc gia bé tí. Có thời người ta đã nghĩ là lý tưởng đó đã được thực hiện ở các thành bang Hy Lạp thời Cổ đại và trong các bang nhỏ ở vùng núi của Thuỵ Sĩ. Nhưng hoàn toàn không phải như thế.

Ở Hy Lạp, chỉ có một phần dân cư, tức là các công dân tự do, là có đóng góp phần nào vào việc cai trị; dân ngụ cư và nô lệ không có đóng góp gì. Ở các bang của Thuỵ Sĩ những vấn đề hoàn toàn mang tính địa phương đã và vẫn được giải quyết theo lối dân chủ trực tiếp, đấy là nguyên tắc đã được đưa vào hiến pháp. Còn tất cả các vấn đề vượt ra ngoài biên giới khu vực đều thuộc quyền tài phán của Liên bang, mà chính phủ Liên bang của nước này thì khác xa với lý tưởng về dân chủ trực tiếp.

Chẳng có gì phải xấu hổ khi để cho người khác cai trị mình. Chính phủ và bộ máy quản lý, cảnh sát và các cơ quan khác cũng cần các nhà chuyên môn: các quan chức chuyên nghiệp và các chính khách chuyên nghiệp. Nguyên tắc phân công lao động cũng được áp dụng cho cả các chức năng của chính phủ. Không ai có thể vừa làm kỹ sư vừa làm cảnh sát cùng một lúc được. Nếu tôi không phải là công an thì phẩm giá của tôi, sự thịnh vượng của tôi, tự do của tôi cũng chẳng hề giảm đi chút nào.

Nếu một ít người chịu trách nhiệm bảo vệ những người khác thì đấy cũng không hề phi dân chủ hơn là một số người sản xuất giày cho những người khác vậy. Nếu các định chế của nhà nước là dân chủ thì chẳng có tí lý do gì để phản đối các chính khách và các quan chức dân sự chuyên nghiệp hết. Nhưng chế độ dân chủ là thể chế hoàn toàn khác với quan niệm của những kẻ mơ mộng hão huyền chuyên tán nhảm về dân chủ trực tiếp.

Chính phủ là một nhóm người – số người cai trị bao giờ cũng ít hơn số người bị trị, chẳng khác gì số thợ giày so với số người mua giày vậy – phụ thuộc vào sự chấp thuận của những người mà họ quản lý, nghĩa là sự chấp nhận bộ máy quản lý hiện hữu. Họ có thể coi chính phủ là một cái ác không thể tránh được, nhưng họ phải nghĩ rằng không nên thay đổi tình trạng hiện thời. Nhưng nếu đa số những kẻ bị trị tin rằng cần phải và có thể thay đổi hình thức cai trị và thay chế độ cũ và các quan chức cũ bằng một chế độ mới và các quan chức mới thì ngày tàn của chế độ cũ đã điểm.

Đa số sẽ có đủ lực lượng để thực hiện ước vọng của họ bằng vũ lực, ngay cả trong trường hợp phải chống lại ý chí của chế độ cũ. Về lâu dài, nếu dư luận không ủng hộ, nghĩa là nếu những người bị trị không tin rằng chính phủ của họ thuộc loại tốt, thì không chính phủ nào có thể đứng vững được. Sức mạnh mà chính phủ dùng để đàn áp tinh thần phản đối chỉ có hiệu quả khi đa số chưa tập hợp thành phe đối lập đoàn kết nhất trí mà thôi.

Như vậy nghĩa là trong bất kỳ thể chế nào cũng có những phương tiện để buộc chính phủ phải phụ thuộc vào ý chí của những người bị trị: đấy là nội chiến, cách mạng và bạo loạn. Nhưng đấy chính là những phương tiện mà chủ nghĩa tự do muốn tránh. Sự cải thiện về mặt kinh tế không thể kéo dài nếu những cuộc đấu đá nội bộ liên tục làm cho công việc bị gián đoạn. Tình hình chính trị rối loạn, tương tự như tình hình thời những cuộc chiến tranh hoa hồng ở nước Anh, trong vòng vài năm sẽ đẩy nước này vào hoàn cảnh nghèo đói, khốn quẫn nhất. Nếu người ta không tìm được biện pháp ngăn ngừa nội chiến thì kinh tế không thể nào phát triển được như ngày nay.

Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, tương tự như cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, phải trả giá bằng rất nhiều nhân mạng và của cải. Nền kinh tế hiện nay của chúng ta không thể chịu đựng nổi những cơn chấn động tương tự như thế. Dân chúng trong các thành phố thủ đô hiện đại sẽ phải chịu nhiều đau khổ vì những cuộc nổi dậy, bạo loạn sẽ làm gián đoạn việc nhập khẩu lương thực, thực phẩm, than đá và cắt đứt đường dây diện, đường dẫn khí đốt, dẫn nước, chỉ nội nỗi sợ trước những rối loạn như thế đã đủ làm tê liệt đời sống của đô thị rồi.

Đấy là lĩnh vực mà chế độ dân chủ có thể thi hành chức năng xã hội của mình. Chế độ dân chủ là thể chế có thể buộc chính phủ phải đáp ứng các ước nguyện của những người bị trị mà không cần tới những cuộc đấu tranh đầy bạo lực. Trong nhà nước dân chủ, nếu chính phủ không thực hiện chính sách được lòng đa số thì người ta có thể đưa những người làm vừa lòng đa số lên cầm quyền mà không cần gây ra nội chiến. Bằng những cuộc bầu cử và những giàn xếp trong quốc hội, việc thay đổi chính phủ được thực hiện một cách êm ả, không có va chạm, không có bạo lực và không còn cảnh đầu rơi máu chảy nữa.

9. Phê phán của thuyết vũ lực

Các chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ trong thế kỷ XVIII khẳng định rằng chỉ có các cố đạo và các thượng thư mới là những kẻ vô luân, ngu ngốc và độc ác mà thôi. Còn nhân dân đều là những người tốt, trong sạch, cao quý và ngoài ra, còn có tài năng trí tuệ thiên bẩm cần thiết để bao giờ cũng biết và làm những việc đúng đắn. Đây dĩ nhiên là chuyện hoàn toàn nhảm nhí, chẳng khác gì những viên cận thần vẫn gán cho các ông hoàng của họ đủ thứ đức tính tốt đẹp và cao thượng. Nhân dân là tập hợp của tất cả các công dân riêng lẻ, và nếu có một số công dân không thông minh, không cao quý thì toàn thể nhân dân cũng không thể là một tập hợp thông minh và cao quý được.

Vì toàn thể nhân loại đã bước chân vào thời đại dân chủ với những hi vọng bị thổi phồng lên như thế cho nên ta sẽ không ngạc nhiên trước tâm trạng thất vọng diễn ra ngay sau đó. Người ta đã phát hiện ngay ra rằng các chế độ dân chủ cũng phạm nhiều sai lầm chẳng khác gì chế độ quân chủ hay quý tộc. So sánh phẩm chất giữa những người mà nền dân chủ đưa lên vị trí đứng đầu chính phủ và những người mà vua chúa hay hoàng đế đưa lên vị trí này nhằm thực thi quyền lực tuyệt đối của họ cho thấy những người cầm quyền mới cũng chẳng hơn gì. Người Pháp thường nói về “sức mạnh huỷ diệt của cái khôi hài”.

Thực tế là chẳng bao lâu sau, ở đâu các chính khách của chế độ dân chủ đại diện cũng đã biến nó trở thành trò cười trong mắt người dân. Những người đại diện cho chế độ cũ dù sao cũng còn có những phẩm chất quý phái nhất định, ít nhất là vẻ ngoài. Còn hành vi của những người cầm quyền mới thì lại đáng khinh. Không gì có thể làm hại nền dân chủ cho bằng thái độ kiêu ngạo rỗng tuếch và giả dối trắng trợn của những người lãnh đạo đảng dân chủ-xã hội, những kẻ đã nắm được quyền lực sau khi chế độ quân chủ sụp đổ.

Như vậy là, nơi nào mà chế độ dân chủ giành được thắng lợi thì tại nơi đó lập tức xuất hiện học thuyết bài dân chủ và đây sẽ là phong trào chống đối chủ chốt. Người ta nói rằng để cho đa số cầm quyền là việc làm vô nghĩa. Những người tài giỏi nhất phải nắm quyền, ngay cả khi họ chỉ là thiểu số. Điều này có vẻ như là đương nhiên cho nên số người ủng hộ các phong trào bài dân chủ đủ mọi màu sắc càng ngày càng gia tăng. Những người mà chế độ dân chủ đưa lên đỉnh tháp quyền lực càng tỏ ra đáng khinh bao nhiêu thì kẻ thù của dân chủ càng đông thêm bấy nhiêu.

Tuy nhiên, học thuyết phản dân chủ lại có những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng. “Một người tài giỏi nhất” hay “những người tài giỏi nhất” nghĩa là thế nào? Nước cộng hoà Ba Lan đưa một nghệ sĩ piano bậc thầy lên nắm chính phủ vì họ coi ông là người Ba Lan tài giỏi nhất lúc đó. Nhưng phẩm chất của người đứng đầu nhà nước phải khác rất xa với phẩm chất của một nhạc sĩ.

Những người phản đối chế độ dân chủ, khi sử dụng từ “tài giỏi nhất” chỉ muốn nói rằng một người hay một số người phù hợp nhất đối với công việc của chính phủ, cho dù họ có ít, thậm chí chẳng có kiến thức gì về nhạc hết. Nhưng điều đó lại dẫn ta đến vấn đề chính trị: Ai là người phù hợp nhất? Disraeli hay Gladstone là người phù hợp nhất? Đảng bảo thủ cho là Disraeli hợp hơn, còn đảng tự do thì lại bảo là Gladston hợp hơn. Nếu không phải đa số thì ai sẽ giải quyết vấn đề này?

Như thế là chúng ta đã tiếp cận với vấn đề quyết định của tất cả các học thuyết phản dân chủ, dù các học thuyết này có do hậu duệ của những nhà quý tộc hay những người bảo hoàng xưa cũ, những người ủng hộ phong trào công đoàn, những người Bolshevik hay xã hội chủ nghĩa đưa ra thì cũng thế mà thôi, mà cụ thể là học thuyết về bạo lực.

Những người chống lại nền dân chủ ủng hộ việc thiểu số cướp chính quyền bằng vũ lực và cai trị đa số. Họ cho rằng vũ lực đủ sức cướp được chính quyền chính là đạo lý [Súng đẻ ra chính quyền – ND]. Họ cho rằng người tài giỏi nhất là người biết cai trị và chỉ huy, người thể hiện được khả năng áp đặt sự cai trị của mình lên số đông, dù có thể trái với ước muốn của họ. Ở đây học thuyết của tổ chức l’action Française đã trùng hợp với học thuyết của những người ủng hộ phong trào công đoàn, học thuyết của Ludendorff và Hitler, học thuyết của Lenin và Trotzky.

Người ta có thể đưa ra nhiều luận điểm ủng hộ cũng như chống báng lại các học thuyết này, tất cả phụ thuộc vào niềm tin mang tính triết lý hoặc tôn giáo của người nói, mà nói đến đức tin thì đồng thuận là việc thiên nan vạn nan. Chúng ta sẽ không đưa ra và cũng không thảo luận những lý lẽ ấy ở đây vì chúng sẽ chẳng thuyết phục được ai. Lý lẽ quyết định duy nhất là luận cứ của những người ủng hộ chế độ dân chủ.

Nếu mỗi nhóm người tin rằng họ có đủ sức áp đặt quyền lực cho những người còn lại đều được quyền thử vận may thì chúng ta phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận những cuộc nội chiến kế tiếp nhau không bao giờ dứt. Nhưng tình hình như thế không phù hợp với trình độ phân công lao động mà ta đã đạt được hiện nay. Xã hội hiện đại, đặt nền tảng trên sự phân công lao động, chỉ có thể tồn tại được trong một nền hoà bình bền vững. Nếu chúng ta phải chuẩn bị để đón nhận khả năng xảy ra những cuộc nội chiến và xung đột nội bộ kéo dài thì chúng ta phải trở lại với giai đoạn phân công lao động giản đơn, trong đó từng tỉnh, nếu không nói là từng làng, phải trở về với chính sách tự cấp tự túc, nghĩa là có khả năng tự kiếm sống và đứng vững được trong một thời gian mà không cần nhập khẩu bất cứ thứ gì từ bên ngoài.

Đồng nghĩa với sự thụt lùi ghê gớm về năng suất lao động và trái đất chỉ có thể nuôi sống được một phần dân cư hiện nay mà thôi. Lý tưởng của phe bài dân chủ sẽ dẫn tới trật tự kinh tế như thời Trung Cổ và thời Cổ Đại. Mỗi thành phố, mỗi làng mạc, trên thực tế là mỗi người đều được vũ trang và sẵn sàng tự vệ, mỗi tỉnh đều là những khu vực càng độc lập với thế giới trong việc tự cấp mọi thứ hàng hoá mà họ cần thì càng tốt.

Người theo phái dân chủ cũng cho rằng cầm quyền phải là người giỏi nhất. Nhưng họ tin rằng khả năng cầm quyền của một người hay một nhóm người nên được thể hiện bằng cách thuyết phục dân chúng rằng họ có đủ năng lực giữ vị trí đó, để đồng bào của họ tự nguyện trao quyền giải quyết công việc xã hội cho họ chứ không phải là sử dụng vũ lực buộc người khác chấp nhận đòi hỏi của họ. Người nào không giành được vị trí lãnh đạo vì đuối lý hoặc không tạo được niềm tin thì không có lý do phàn nàn về việc dân chúng đã chọn người khác chứ không chọn anh ta.

Dĩ nhiên là không được và không cần phủ nhận rằng có những hoàn cảnh mà sức cám dỗ lôi kéo người ta xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do là rất lớn. Nếu những người có đầu óc sáng suốt nhìn thấy rằng dân tộc của họ hay tất cả các dân tộc trên thế giới đang bước trên con đường dẫn tới tàn phá và nếu họ nhận ra rằng thuyết phục đồng bào chú ý đến lời khuyên của họ là việc lảm bất khả thi thì họ có thể ngả sang tư tưởng cho rằng sử dụng bất kỳ biện pháp khả thi nào khác nhằm cứu mọi người khỏi thảm hoạ đều là những việc làm đúng đắn và hợp lý cả.

Lúc đó tư tưởng về nền chuyên chế của giới tinh hoa, của chính phủ thiểu số nắm quyền bằng vũ lực và cai trị nhằm bảo vệ quyền lợi cho tất cả mọi người có thể xuất hiện và sẽ tìm được những người ủng hộ. Nhưng bạo lực không phải là phương tiện để giải quyết các khó khăn như thế. Chế độ chuyên chế của thiểu số không thể đứng vững được nếu nó không thuyết phục được đa số tin rằng đấy là việc làm cần thiết hoặc ít nhất là tin rằng việc nắm quyền của họ là có lợi. Nhưng lúc đó thiểu số sẽ có thể giữ chính quyền mà không cần vũ lực nữa.

Lịch sử cung cấp cho ta nhiều thí dụ ấn tượng chứng tỏ rằng, về lâu dài, ngay cả những chính sách đàn áp dã man nhất cũng không đủ sức làm cho chính phủ như thế giữ được quyền lực. Chỉ cần đưa ra một thí dụ gần đây nhất và được nhiều người biết nhất: những người Bolshevik cướp được chính quyền ở Nga chỉ là một nhóm thiểu số rất nhỏ và cương lĩnh của họ cũng chẳng được mấy người ủng hộ. Giai cấp nông dân, tức là thành phần chủ yếu của dân Nga, không chấp nhận chính sách hợp tác hoá nông nghiệp của những người Bolshevik. Dân chúng chỉ muốn chia ruộng cho “bần, cố nông”, đấy là theo cách gọi của những người Bolshevik. Chính sách nông nghiệp đó, chứ không phải chính sách của các lãnh tụ marxist, được đem ra áp dụng. Đ

ể có thể tiếp tục nắm quyền, Lenin và Trotzky không những đã chấp nhận chính sách cải cách nông nghiệp mà còn biến nó thành một phần của cương lĩnh của chính mình và dùng nó làm lá chắn nhằm chống lại những cuộc tấn công, cả ở trong nước lẫn từ nước ngoài. Những người Bolshevik đã giành được niềm tin của đa số nhân dân Nga bằng cách như thế đấy. Từ khi áp dụng chính sách phân chia ruộng đất, chính quyền Bolshevik nhận được đồng thuận và ủng hộ chứ không còn đi ngược lại ý chí của đa số dân chúng nữa.

Họ chỉ còn hai sự lựa chọn: từ bỏ cương lĩnh hay từ bỏ chính quyền. Họ đã chọn cái thứ nhất và tiếp tục cầm quyền. Không thể có khả năng thứ ba, tức là thực hiện cương lĩnh bằng vũ lực, trái với nguyện vọng của nhân dân. Tương tự như tất cả những nhóm thiểu số có quyết tâm và được tổ chức tốt khác, những người Bolshevik có thể cướp được chính quyền bằng vũ lực và giữ được chính quyền trong một thời gian ngắn. Nhưng về lâu dài khả năng nắm quyền của họ cũng chẳng hơn gì bất kỳ nhóm thiểu số nào khác.

Mọi cố gắng của Bạch Vệ nhằm trục xuất những người Bolshevik đều thất bại vì không được đa số dân chúng ủng hộ. Nhưng ngay cả nếu thành công thì họ cũng phải tôn trọng ước muốn của đa số dân chúng. Sau khi việc chia ruộng đã được thực hiện thì Bạch Vệ cũng không thể nào thay đổi được nữa, trả lại ruộng bị tịch thu cho địa chủ là việc làm bất khả thi.

Chỉ những nhóm tìm được sự đồng thuận của những người bị trị thì mới có thể thiết lập được chế độ có tuổi thọ lâu dài mà thôi. Kẻ, muốn thấy thế giới được cai trị theo những tư tưởng của hắn, sẽ buộc phải tìm cách chi phối tư tưởng của con người. Về dài hạn, bắt dân chúng tuân phục chế độ mà họ không chấp nhận là việc làm bất khả thi. Kẻ cố tình làm điều đó bằng vũ lực cuối cùng nhất định sẽ bị thất bại và những cuộc đấu tranh do hắn kích động sẽ gây ra nhiều tai hoạ hơn là một chính phủ tồi tệ nhất nhưng được nhân dân ủng hộ có thể làm. Làm trái ý người ta thì làm sao người ta hạnh phúc cho được?

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

Câu hỏi gây khó chịu nhất lịch sử nhân loại

Trong chuyến hành trình tìm kiếm cuộc sống mơ ước, bạn có thể phải trải qua rất nhiều công việc khác nhau. Điều này hoàn toàn bình thường. Trước khi tìm được vị hoàng tử của mình, bạn sẽ phải hôn nhiều con ếch khác nhau (thậm chí là rất nhiều).

Công việc cũng không phải là một ngoại lệ

Để vượt qua quá trình này, một trong những thử thách lớn nhất bạn phải đối mặt chính là hoàn thành Bản sơ yếu lý lịch (CV).

Nếu như bạn chưa có CV, hãy bắt đầu nghĩ đến điều đó. Ngay bây giờ.

Nếu như đã từng một lần viết CV? Bạn sẽ nhận thấy rằng việc sử dụng CV cũ để ứng tuyển công việc mới chưa bao giờ là lựa chọn sáng suốt. Tại sao? Ngoài những phần cơ bản như thông tin cá nhân, trình độ học vấn, kỹ năng nghệ nghiệp hầu như không có nhiều sự thay đổi, một CV hoàn thiện đòi hỏi một phần cực kỳ quan trọng khác.

Nó là một phần bắt buộc nếu như bạn ứng tuyển qua các trang mạng nghề nghiệp như Vietnamwork hay LinkedIn. Nó càng đặc biệt có ý nghĩa hơn nếu như bạn đang có ý định chuyển sang làm việc tại một ngành nghề khác.

Bạn đã đoán ra đó là phần nào rồi chứ?

Nếu chưa, hãy tham khảo những câu hỏi sau đây. Chúng sẽ giúp bạn.

  • “Bạn muốn trở thành ai trong cuộc sống này?”
  • “Mục tiêu trong năm năm tới của bạn là gì?”
  • “Bạn sẽ là ai sau mười năm nữa?”

Đây là những câu hỏi mà bạn phải trả lời để hoàn thành phần “mục tiêu nghề nghiệp”, phần mà nhà tuyển dụng sẽ dùng để đánh giá mức độ phù hợp của bạn cho vị trí ứng tuyển. Bạn đã từng gặp khó khăn khi viết phần này?

Và nếu như vượt qua được thử thách này, câu chuyện vẫn chưa dừng tại đó. Bạn sẽ tiếp tục phải đối mặt với những câu hỏi tương tự, ít nhất một lần nữa, trong các vòng phỏng vấn trực tiếp sau đó. Điều này minh chứng cho mức độ quan trọng của mục tiêu trong bất kỳ lựa chọn nào. Không chỉ có công việc.

Nếu như đã từng đọc một cuốn sách về lĩnh vực phát triển bản thân, hẳn bạn cũng nhận thấy rằng những câu hỏi này không quá xa lạ. Hoặc nếu như bạn đã từng tham dự bất kỳ một khóa học về kỹ năng nào trước đây, xác định mục tiêu luôn là một trong những đề tài đầu tiên được nhắc đến.

Vì phải trả lời những câu hỏi về xác định mục tiêu rất nhiều lần trong rất nhiều trường hợp khác nhau, tôi đã dần hình thành nên suy nghĩ:

“Xác định mục tiêu hẳn phải là điều kiện tối quan trọng để hoàn thành bất kỳ điều gì. Kể cả cuộc sống mơ ước.” – Khuyết danh

Tôi hân hoan trước những gì vừa phát hiện. Càng xuy xét, tôi càng thấy điều này có lý. Gật gù trước nguyên tắc sống mới, tôi xem đây như kim chỉ nam cho tất cả mọi hành động, công việc của mình. Không những thế, trong tâm trạng háo hức, tôi còn mong muốn được chia sẻ thông điệp này đến với nhiều người hơn nữa.

“Mục tiêu của bạn là gì? Phải luôn có mục tiêu trước khi bắt đầu bất kỳ một công việc nào.”

Tuy nhiên, tôi đã lầm.

Đây không phải là những câu hỏi kì diệu như tôi đã nghĩ. Thực chất, tôi đã phát hiện ra một bí mật kinh hoàng ẩn chứa bấy lâu nay:

“Đây là những câu hỏi gây khó chịu nhất trong lịch sử nhân loại!”

Tôi ước gì bạn có thể ngồi cạnh tôi trên những chiếc ghế sofa mang phong cách Retro của quán cafe Coffee House vào một đêm giữa tháng 04/2013 để chứng kiến mội buổi sinh hoạt đáng nhớ của Câu Lạc Bộ Diễn Thuyết Sài Gòn. Như bao buổi sinh hoạt khác, mỗi thành viên sẽ có thời gian bảy phút để trình bày suy nghĩ của mình về một chủ đề đã được lựa chọn trước đó.

Đêm hôm ấy là một đêm đặc biệt với rất nhiều cảm xúc. Một chia sẻ của Tuấn, một sinh viên năm tư điển trai với cặp kiếng cận, về những trăn trở của tuổi trẻ, đã để lại trong lòng tất cả các thành viên một bài học sâu sắc về mục tiêu cuộc sống.

Một bài học khiến cả căn phòng chìm đắm trong thinh lặng.

Đây là giai đoạn khó khăn nhất của em từ trước đến nay. Hiện tại em thật sự không biết mình muốn gì. Em đang học năm tư đại học FPT chuyên ngành lập trình code. Mãi đến gần đây, em mới phát hiện ra mình không hề hứng thú với ngành đã lựa chọn.

Em không thể chịu đựng được việc phải ngồi yên một chỗ bên máy tính từ tám giờ sáng đến sáu giờ chiều. Em thấy mệt mỏi khi công việc thường xuyên đòi hỏi nhân viên làm tăng ca đến tận khuya. Vậy mà chỉ sau đó một vài năm, em có thể dễ dàng mất việc vì công ty có thể thuê những bạn sinh viên mới ra trường với chi phí rẻ hơn rất nhiều…”

“Bây giờ, em phải làm sao?”

Quá tâm đắc với những giá trị vừa tìm được trong việc xác định mục tiêu, bằng một giọng hờ hững, tôi phản ứng ngay với câu hỏi của em mà chưa kịp suy nghĩ một cách thấu đáo:

– “Vậy em muốn sau năm năm nữa, mình sẽ trở thành người như thế nào? Mục tiêu mười năm kế tiếp của em là gì?”

Giá như tôi có thể rút lại những lời vừa nói.

Chỉ hai giây tiếp theo, khuôn mặt của Tuấn biến sắc từ hồng nhạt sang đỏ thẫm. Đôi môi em mím chặt trong khi mắt long lên vì giận dữ. Tuấn đứng lặng một mình giữa sân khấu. Dường như phải rất rất kìm nén, em mới có thể ngăn mình khỏi việc nhảy chồm lên người vừa đưa ra những câu hỏi thiếu tế nhị ấy.

Tuy vậy, đó không phải là những gì khiến sự kiện tối hôm ấy trở nên đặc biệt đáng nhớ.

Tuấn vẫn kiểm soát được bản thân. Trong khi đó, tôi bắt đầu thủ thế và cố gắng dịch ghế ngồi ra xa hơn để đề phòng trường hợp xấu nhất. Tuấn bình tĩnh đáp lại câu hỏi của tôi với đôi tay nắm chặt. Có lẽ, đây cũng không phải là lần đầu tiên bạn trải qua tình huống tượng tự.

– “Đây là lời khuyên mà em đã được nghe rất nhiều lần trước đây. Câu hỏi này rất hay với những ai đã có mục tiêu và mong muốn thành công trong cuộc sống.” – Tuấn ngừng lại, đôi mắt đằng sau cặp kính bỗng đượm buồn. – “Tuy nhiên, vấn đề của em bây giờ là em còn không biết mình muốn gì nữa… Và câu hỏi này thật sự làm em cảm thấy rất khó chịu….”

Câu nói của bạn mất hút trong thinh lặng.

Đã bao giờ bạn là nạn nhân của những lời khuyên tương tự?

Hay, đã bao giờ chính bạn là người đưa ra những lời khuyên như thế?

Xác định chính xác mục tiêu trong cuộc sống chưa bao giờ là một nhiệm vụ dễ dàng đối với hầu hết mọi người. Bạn có thể nhận thấy rằng có rất nhiều người, dù đã dành cả đời tìm kiếm, nhưng cũng không thể biết chính xác mình muốn gì. Hoặc, có những người chỉ phát hiện ra điều đó vào những khoảnh khắc cuối cùng, khi đối diện với cái chết, khi mọi thứ dường như quá muộn…

Vì vậy, thay vì mang ý nghĩa định hướng hiệu quả, trong rất nhiều trường hợp, những câu hỏi như: “Bạn muốn trở thành ai trong mười năm nữa?” Tạo cho người nhận một tâm lý cực kỳ căng thẳng.

Xác định mục tiêu không phải là điều kiện tiên quyết như tôi đã lầm tưởng. Nó càng không phải là câu hỏi đầu tiên cần được đặt ra khi xác định cuộc sống mơ ước.

Câu hỏi cần đặt ra hoàn toàn khác.

Không khí im lặng đến mức đáng sợ.

Tiếng kêu rè rè của máy điều hòa lúc này cũng trở nên quá ồn ào. Hầu hết các thành viên đều cúi đầu xuống và tránh nhìn vào ánh mắt nhau. Căn phòng chìm trong căng thẳng. Không ai nói với ai thêm một lời nào.

Tuấn vẫn đứng lặng lẽ một mình trên sân khấu. Buổi sinh hoạt có lẽ đã trở thành một thảm họa nếu như tôi không nhớ đến một sự kiện xảy ra trước đó, một cuộc trò chuyện đã giúp tôi biết mình nên làm gì để giúp đỡ Tuấn.

Buổi sinh hoạt đêm hôm ấy diễn ra tại một quán café nằm trên con đường nhỏ Nguyễn Thị Huỳnh, thuộc quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Tôi chưa từng đến địa điểm này trước đây và chỉ biết đến thông qua sự giới thiệu của người bạn gái. Vì vậy, trước khi xuất phát, tôi phải tra cứu Google Map để có thể biết được đường đi chính xác.

Tuy nhiên, sự cẩn thận ấy cũng không giúp ích được nhiều. Khu vực này rất phức tạp với những con hẻm chằng chịt đan xen nhau. Loay hoay hơn ba mươi phút, tôi hoàn toàn mất phương hướng. Cuối cùng, vì đã trễ giờ hẹn, tôi quyết định từ bỏ niềm kiêu hãnh vào khả năng tìm đường để lấy điện thoại gọi ngay cho người bạn gái:

– “Quán cafe đó nằm ở đâu vậy? Anh đã tìm này giờ rồi mà vẫn không thấy?”

– “Khoan đã, anh đang ở đâu vậy?”

– “…thì anh đang đứng ngay trước sân khấu kịch Phú Nhuận…”

– “Anh chỉ cần chạy lên khoảng 20m, nhìn bên tay phải là sẽ thấy một con đường nhỏ, quẹo vào đó là anh sẽ đến quán café.”

Cứ ngỡ rằng sau một thời gian dài lạc lối, hẳn tôi đã phải đứng ở một nơi nào đó cách rất xa đích đến. Thế mà, tôi chỉ cách quán café đó chưa đầy ba phút chạy xe. Song, điều làm tôi ngạc nhiên hơn chính là sự hướng dẫn hết sức đơn giản và hiệu quả của người bạn gái. Trong khi tôi chỉ chăm chăm tập trung vào một thông tin duy nhất: vị trí quán café cần đến, thì người bạn gái của tôi, ngay trong câu hỏi đầu tiên, đã giải quyết được toàn bộ vấn đề:

“Anh đang ở đâu vậy?”

Thông thường, trên mỗi chuyến hành trình, hầu hết mọi người đều dành sự quan tâm để biết được vị trí chính xác nơi mình muốn đến. Vì lý do đó, mà cũng không ít người đã phải lạc lối trong những mê cung kéo dài dường như bất tận.

Để đến được nơi mình muốn, điều quan trọng nhất không phải là: “Bạn muốn đi đâu?” Điều quan trọng nhất bạn cần biết chính là: “Bạn đang ở đâu?”

Chỉ khi nào xác định rõ điều này, bạn mới có thể định hướng được vị trí và lựa chọn con đường phù hợp. Hơn thế nữa, biết được chính xác nơi mình đang đứng cũng là điều vô cùng hữu ích nếu như bạn rơi vào tình huống khủng hoảng và cần sự hỗ trợ từ người khác. (Bạn sẽ đồng cảm điều này nếu như đã từng đi lạc).

Tương tự như vậy, trước khi trả lời câu hỏi “Tôi muốn trở thành ai?” Câu hỏi bạn cần đặt ra chính là “Tôi là ai?” Nếu như không biết mình là ai, bạn không có cách nào có thể trở thành một người khác.

Sự hướng dẫn đơn giản, hiệu quả của người bạn gái cùng bài chia sẻ đầy cảm xúc của Tuấn luôn là bài học mà tôi nhớ mãi trong suốt chuyến hành trình. Hiểu rõ được bản thân, hiểu rõ được vị trí mình đang đứng sẽ giúp bạn tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức trong việc xác định chính xác ước mơ tương lai.

Không trả lời được câu hỏi mình là ai là một trong những nguyên nhân chính tạo nên rất nhiều bất hạnh trong quá trình tìm kiếm ước mơ. Đây cũng là nguyên nhân khiến rất nhiều bạn trẻ hiện nay phải mò mẫm các mục tiêu sống bằng phương pháp thử sai đầy may rủi.

Mặc dù có thể gia tăng sự trải nghiệm, nhưng cách thức này lại tiêu tốn rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc. Tuy vậy, nó vẫn không đảm bảo bạn sẽ tìm được câu trả lời mong muốn. Nguy hiểm hơn, trên chặng đường thử sai ấy, việc gục ngã quá nhiều lần có thể khiến bạn trở nên tuyệt vọng và vơ vội bất kỳ một lựa chọn nào làm mục tiêu cuộc đời. Kết quả khi ấy chắc chắn không hề tốt đẹp.

Vì vậy, trước khi hướng đến mục tiêu cuối cùng, hãy bắt đầu bằng việc xác định vị trí nơi bạn đang đứng, nơi mà những giá trị, tính cách mà bạn đã được hình thành dựa trên tất cả những trải nghiệm trong quá khứ. Nếu như đang trong giai đoạn hoang mang, lạc lối không biết mục tiêu cuộc sống là gì, đây chính là thời điểm để bạn dừng lại và đặt câu hỏi: “Mình là ai?”

Nếu như một quyển sách có thể chứa đựng hàng nghìn thông điệp giá trị, một bộ phim hay cũng có khả năng tương tự như thế. Cộng thêm rất nhiều yếu tố giải trí hấp dẫn.

Trong những bước đầu tiên của hành trình, sự động viên, đồng cảm sẽ là liều thuốc cần thiết để bạn luôn duy trì những cảm xúc tích cực. Thử thách đầu tiên dành cho bạn chính là trong tuần này, hãy dành ra ba giờ đồng hồ để theo dõi bộ phim nổi tiếng của Ấn Độ về chủ đề theo đuổi ước mơ với tựa đề “Ba chàng ngốc” (Three Idiots).

Nếu như bạn đã từng xem qua bộ phim, tôi vẫn tin rằng những giá trị sâu sắc chứa đựng trong tác phẩm vẫn xứng đáng để bạn dành thời gian xem thêm một lần nữa. Bộ phim này sẽ làm thay đổi cuộc sống bạn.

Tôi biết điều này.

Vì nó đã hoàn toàn thay đổi cuộc sống của tôi.

Nếu như trong tuần này, bạn vẫn không thể nào sắp xếp được ba giờ đồng hồ để tìm kiếm câu trả lời về ý nghĩa cuộc sống ước mơ trong bộ phim trên, rất có khả năng, bạn sẽ phải tiếp tục đối mặt với việc lạc lối trong những con hẻm chằng chịt của mục tiêu trong suốt quãng đời còn lại.

Bạn có thể dễ dàng tìm thấy bộ phim này trên trang web Youtube với phụ đề tiếng Việt. Hãy xem và cảm nhận. Bắt đầu từ hôm nay, bạn đặt bước chân đầu tiên trong hành trình hiểu về chính mình.

Điều quan trọng nhất không phải bạn muốn đi đâu.

Điều quan trọng nhất là hãy biết bạn đang ở đâu.

 

 

Đặng Quốc Bảo

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 2)

 

 

Chương 1 – Nền tảng của chính sách tự do

1. Sở hữu

Xã hội loài người là hợp quần của những cá nhân để phối hợp hành động. Khác với hành động riêng lẻ của các cá nhân, hành động phối hợp dựa trên nguyên tắc phân công lao động có ưu điểm là năng suất lao động cao hơn rất nhiều. Nếu một số người cùng làm việc và hợp tác, dựa trên nguyên tắc phân công lao động (những điều kiện khác vẫn giữ nguyên) thì họ sẽ sản xuất không chỉ được số lượng vật phẩm bằng với số lượng khi từng người làm việc riêng lẻ, mà cao hơn rất nhiều.

Đấy là cơ sở của toàn bộ nền văn minh nhân loại. Phân công lao động làm cho con người khác với loài vật. Phân công lao động làm cho những con người yếu đuối, yếu hơn nhiều loài vật về mặt thể chất, trở thành chủ nhân ông của trái đất và là người sáng tạo những kỳ tích của công nghệ. Nếu không có phân công lao động thì chúng ta cũng chẳng khác gì tổ tiên sống cách đây một ngàn, thậm chí cả chục ngàn năm trước.

Tự bản thân lao động không làm cho chúng ta giàu có lên được. Phải làm việc với những vật tư và nguồn lực của trái đất mà Tự Nhiên đã giao vào tay chúng ta thì sức lao động của con người mới tạo được thành quả. Đất đai với tất cả mọi nguồn tài nguyên và sức mạnh chứa trong nó và sức lao động của con người là hai nhân tố của quá trình sản xuất, sự kết hợp có chủ đích của hai nhân tố này tạo ra tất cả những sản phẩm hàng hoá có thể đáp ứng những nhu cầu vật chất ngoại tại của chúng ta.

Muốn sản xuất, con người cần có cả sức lao động lẫn điều kiện vật chất, bao gồm không chỉ các nguyên vật liệu và nguồn lực của Tự Nhiên – đa số có thể tìm thấy trên bề mặt hay trong lòng đất – mà còn phải sử dụng các sản phẩm trung gian, đã được chế biến bằng sức lao động trong quá khứ và từ những nguyên vật liệu ban đầu nói trên.

Trong kinh tế học người ta chia ra thành ba tác nhân tương ứng là: lao động, đất đai và tư bản. Đất đai được hiểu là tất cả những gì Tự Nhiên để cho chúng ta toàn quyền sử dụng dưới dạng vật chất và nguồn sức mạnh ở ngay bề mặt, bên dưới và bên trên bề mặt trái đất, trong nước, cũng như trong không khí; hàng hoá tư bản được hiểu là tất cả những hàng hoá trung gian được bàn tay con người làm ra từ đất để phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo, như máy móc, thiết bị, bán thành phẩm đủ mọi loại ..v.v..

Bây giờ chúng ta muốn xem xét hai hệ thống hợp tác khi có sự phân công lao động: một đằng dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và một đằng dựa trên sở hữu công cộng tư liệu sản xuất. Hệ thống dựa trên sở hữu công cộng tư liệu sản xuất được gọi là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản, còn hệ thống kia được gọi là chủ nghĩa tự do hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản (từ khi nó tạo ra trong thế kỷ XIX sự phân công lao động bao trùm khắp hoàn cầu).

Những người theo trường phái tự do khẳng định rằng trong xã hội dựa trên sự phân công lao động thì sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất là hệ thống hợp tác giữa người với người hiệu quả nhất. Họ cho rằng chủ nghĩa xã hội, tức là hệ thống thu gom vào trong lòng nó toàn bộ các tư liệu sản xuất, là hệ thống không hiệu quả và việc áp dụng nguyên lý xã hội chủ nghĩa lên các phượng tiện sản xuất, mặc dù không phải là việc bất khả thi, sẽ dẫn tới suy giảm năng suất lao động, cho nên không những không thể làm ra nhiều của cải hơn mà ngược lại, chắc chắn sẽ làm cho của cải ít đi.

Vì vậy mà cương lĩnh của chủ nghĩa tự do, nếu thu gọn bằng một từ, sẽ là: sở hữu, nghĩa là sở hữu tư nhân các tư liệu sản xuất [đối các hàng hoá tiêu dùng, thì sở hữu tư nhân là điều đương nhiên, ngay cả những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa cũng không tranh cãi về vấn đề này]. Tất cả những đòi hỏi khác của chủ nghĩa tự do đều có xuất xứ từ đòi hỏi căn bản này.

Người ta có thể đặt bên cạnh từ “sở hữu” trong cương lĩnh của chủ nghĩa tự do hai từ “tự do” và “hoà bình”. Đấy không phải là vì cương lĩnh cũ của chủ nghĩa tự do vẫn đặt nó ở vị trí đó. Chúng tôi đã nói rằng cương lĩnh hiện nay của chủ nghĩa tự do đã vươn cao hơn chủ nghĩa tự do cũ, nó được soạn thảo trên những nhận thức thấu đáo hơn và sâu sắc hơn những mối quan hệ qua lại và thành quả của khoa học trong hàng chục năm qua.

Tự do và hoà bình được đưa lên mặt tiền của cương lĩnh của chủ nghĩa tự do không phải vì nhiều người theo phái tự do “cũ” coi nó là tương đương với chính nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa tự do chứ không phải là hậu quả tất yếu của nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa tự do – tức là nguyên tắc sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất; mà chỉ vì tự do và hoà bình đã bị những đối thủ của chủ nghĩa tự do tấn công một cách quyết liệt nhất và những người theo phái tự do không muốn từ bỏ những nguyên tắc này để chứng tỏ rằng họ không công nhận những lời cáo buộc của đối thủ.

2. Tự do

Ý tưởng tự do đã ăn sâu bén rễ trong tất cả chúng ta đến nỗi suốt một thời gian dài không ai dám nghi ngờ. Người ta đã quen nói tới tự do với lòng sùng kính vô bờ bến, chỉ có Lenin mới dám gọi đó là “thành kiến tư sản” mà thôi. Đấy chính là thành quả của chủ nghĩa tự do, mặc dù sự kiện này hiện đã bị nhiều người quên. Chính từ chủ nghĩa tự do cũng có xuất xứ từ từ tự do, còn khởi kỳ thuỷ đảng chống lại những người tự do [cả hai tên gọi đều xuất hiện trong cuộc đấu tranh lập hiến trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIX ở Tây Ban Nha ] lại được gọi là nô lệ (“servile”).

Trước khi chủ nghĩa tự do xuất hiện, ngay cả những nhà triết học sáng láng nhất; những ông tổ của các tôn giáo và giới tăng lữ, những người mang trong tâm tưởng những ý định tốt đẹp nhất, và các chính khách thực sự yêu thương người dân nước mình, đều coi tình cảnh nô lệ của một phần nhân loại là chính đáng, hữu ích và rất có lợi.

Người ta cho rằng một số người và một số dân tộc được phú cho quyền tự do, còn những người khác thì phải chịu cảnh nô lệ. Không chỉ các ông chủ nghĩ như thế mà phần lớn nô lệ cũng nghĩ như thế. Họ chấp nhận địa vị nô lệ không chỉ vì họ buộc phải khuất phục sức mạnh vượt trội của các ông chủ mà họ còn cho rằng thế là tốt: nô lệ không phải lo miếng ăn hàng ngày vì chủ có trách nhiệm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất của anh ta.

Khi chủ nghĩa tự do xuất hiện, trong thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, với mục đích loại bỏ chế độ nô lệ và tình cảnh lệ thuộc của người nông dân châu Âu cũng như tình cảnh nô lệ của người da đen trong các nước thuộc địa ở hải ngoại, thì nhiều người theo chủ nghĩa nhân đạo chính hiệu đã đứng lên chống lại nó.

Những người lao động nô lệ đã quen với sự phụ thuộc và không cảm thấy đấy là xấu xa. Họ không sẵn sàng đón nhận tự do và chẳng biết làm gì với nó. Sẽ là tai hoạ đối với họ nếu chủ không còn quan tâm đến họ nữa. Họ sẽ không thể quản lý được công việc của mình sao cho lúc nào cũng kiếm được nhiều hơn nhu cầu tối thiểu và chẳng bao lâu sau họ sẽ rơi vào cảnh nghèo túng, bần hàn. Giải phóng sẽ chẳng mang lại cho họ lợi lộc gì mà chỉ làm cho hoàn cảnh kinh tế của họ xấu đi mà thôi.

Thật đáng ngạc nhiên khi nghe thấy nhiều người nô lệ được hỏi nói như thế. Nhằm chống lại những quan điểm như thế, nhiều người theo trường phái tự do tin rằng cần phải trình bày những vụ hành hạ nô lệ, thậm chí nhiều khi phải nói quá lên, như là những việc thường ngày. Nhưng những vụ quá lạm như thế hoàn toàn không phải là quy luật. Dĩ nhiên là có những vụ lạm dụng riêng lẻ, và những vụ như thế được coi là một lý do nữa cho việc bãi bỏ hệ thống này. Nhưng nói chung, nô lệ thường được chủ đối xử một cách nhân đạo và ôn hoà.

Khi người ta bảo những người đề nghị bãi bỏ tình cảnh nô lệ trên cơ sở những quan điểm về lòng nhân đạo nói chung rằng giữ hệ thống này là nhằm bảo đảm lợi ích cho cả những người nô lệ và nông nô nữa thì họ không biết phải trả lời thế nào. Vì để chống lại những người ủng hộ chế độ nô lệ thì chỉ có một lý lẽ đủ sức bác bỏ và trên thực tế đã bác bỏ tất cả những lý lẽ khác: lao động tự do có năng suất cao hơn hẳn lao động nô lệ.

Người nô lệ không cần cố gắng hết sức. Anh ta chỉ cần làm và hăng hái vừa đủ để không bị trừng phạt vì không hoàn thành nhiệm vụ tổi thiểu được giao mà thôi. Còn người lao động tự do thì biết rằng càng làm nhiều anh ta càng được trả nhiều. Anh ta sẽ làm hết sức mình để có được nhiều thu nhập hơn.

Chỉ cần so sánh những yêu cầu được đề ra với người công nhân lái máy cày hiện nay với những đòi hỏi tương đối thấp cả về trí tuệ, sức lực và sự cố gắng mà trước đây chỉ hai thế hệ người ta cho là đã đủ đối với một người nông nô ở nước Nga thì sẽ thấy. Chỉ có lao động tự do mới có thể thực hiện được những đòi hỏi đặt ra với người công nhân công nghiệp hiện đại.

Chỉ có những tên ba hoa chích choè vô công rồi nghề mới có thể cãi nhau suốt ngày về việc liệu có phải tất cả mọi người đều có quyền tự do và đã sẵn sàng nhận nó hay không mà thôi. Họ có thể tiếp tục nói rằng Tự Nhiên đã buộc một số sắc tộc và dân tộc phải sống cuộc đời nô lệ và một số sắc tộc thượng đẳng có trách nhiệm giữ phần còn lại của nhân loại trong cảnh nô lệ. Người theo phái tự do không bao giờ tranh luận với những người như thế vì họ đòi tự do cho tất cả mọi người, không có bất kỳ phân biệt nào, luận cứ của họ khác hẳn với những người kia.

Chúng tôi, những người theo phái tự do, không khẳng định rằng Chúa Trời hay Tự Nhiên có ý bảo mọi người đều được tự do vì chúng tôi không được biết ý Chúa hay ý của Tự Nhiên, và về nguyên tắc chúng tôi tránh, không lôi kéo Chúa và Tự Nhiên vào những cuộc tranh luận về những vấn đề trần thế.

Chúng tôi chỉ khẳng định rằng hệ thống đặt căn bản trên quyền tự do cho tất cả mọi người lao động là hệ thống có năng suất lao động cao nhất và vì vậy mà đáp ứng được quyền lợi của tất cả mọi người. Chúng tôi tấn công vào chế độ nô lệ không phải vì rằng nó chỉ có lợi cho các “ông chủ” mà vì chúng tôi tin rằng nói cho cùng nó có ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của tất cả mọi người, trong đó có các “ông chủ”.

Nếu loài người cứ bám mãi vào thói quen là giữ toàn bộ hay chỉ một phần sức lao động trong tình cảnh nô lệ thì sự phát triển vượt bậc về kinh tế trong một trăm năm mươi năm qua đã không thể nào xảy ra được. Nếu cứ giữ như thế, chúng ta sẽ không có đường sắt, không có ô tô, không có máy bay, không có tầu thuỷ, không có đèn điện và máy điện, không có ngành công nghiệp hoá chất, chúng ta sẽ vẫn cứ sống như người Hi-Lạp hay La-Mã cổ đại, với tất cả tài năng của họ, nhưng không có các thứ vừa kể.

Chỉ cần nhắc đến chuyện đó là mọi người, cả các ông chủ nô cũ lẫn người nông nô, đều có thể hài lòng với sự phát triển của xã hội sau ngày bãi bỏ chế độ nô lệ rồi. Người công nhân châu Âu hiện nay còn sống trong những điều kiện thuận lợi và dễ chịu hơn là các ông vua Ai-Cập cho dù những ông vua này nắm trong tay hàng ngàn nô lệ, trong khi đó người công nhân chỉ dựa vào sức khoẻ và tài khéo của hai bàn tay lao động của mình. Nếu một viên quan thái thú thời xa xưa được thấy hoàn cảnh của một người thường dân hiện nay thì chắc chắn ông ta sẽ tuyên bố rằng so với một người trung bình hiện nay thì ông ta chỉ là một kẻ ăn mày.

Đấy chính là thành quả của lao động tự do. Lao động tự do có thể làm ra nhiều của cải cho tất cả mọi người, nhiều hơn là lao động nô lệ đã từng tạo ra cho các ông chủ.

3. Hoà bình

Có những con người cao thượng, họ căm thù chiến tranh vì nó mang đến chết chóc và đau khổ. Nhưng dù có hâm mộ chủ nghĩa nhân đạo của họ đến mức nào, phải công nhận rằng tất cả luận cứ phản chiến của họ đều dựa trên cơ sở của lòng bác ái, những luận cứ như thế có thể sẽ mất rất nhiều, thậm chí toàn bộ sức mạnh khi chúng ta xem xét những lời tuyên bố của những kẻ ủng hộ chiến tranh.

Những kẻ như thế không phủ nhận chiến tranh sẽ mang đến đau khổ. Nhưng họ tin rằng chiến tranh và chỉ có chiến tranh mới giúp nhân loại đạt được tiến bộ. Chiến tranh là cha đẻ của mọi thứ trên đời, một nhà triết học Hi Lạp đã nói như thế, và hàng ngàn người đã nhắc lại câu nói đó của ông ta. Trong thời bình con người sẽ bị thoái hoá. Chỉ có chiến tranh mới đánh thức được tài năng và sức mạnh đang ngủ yên trong mỗi con người và gieo vào lòng họ những ý tưởng vĩ đại. Không có chiến tranh, nhân loại sẽ rơi vào tình trạng lười nhác và đình trệ.

Thật khó, thậm chí không thể bác bỏ được cách lập luận như thế của những người ủng hộ chiến tranh nếu chỉ nói rằng chiến tranh đòi hỏi phải hy sinh. Vì những người ủng hộ chiến tranh nghĩ rằng hi sinh không phải là vô ích và đấy là cái giá phải trả. Nếu chiến tranh đúng là cha đẻ của mọi thứ trên đời thì những hi sinh mà nó đòi hỏi lại là đòi hỏi tất yếu, nó thúc đẩy sự thịnh vượng của mọi người và sự tiến bộ của nhân loại. Người ta có thể xót thương những nạn nhân, thậm chí có thể tìm mọi cách làm giảm nhẹ số người bị thiệt hại, nhưng ước muốn trừ bỏ chiến tranh và nền hoà bình vĩnh viễn thì không thể nào biện hộ được.

Lập luận của những người theo trường phái tự do nhằm chống lại những luận cứ ủng hộ chiến tranh khác hẳn với lập luận của những người theo chủ nghĩa nhân đạo. Nó xuất phát từ giả thuyết cho rằng không phải chiến tranh mà hoà bình mới là cha đẻ của mọi thứ trên đời. Điều duy nhất giúp cho nhân loại tiến bộ và làm cho con người khác với con vật là sự hợp tác mang tính xã hội. Chỉ có lao động mới tạo ra của cải: nó tạo ra của cải và bằng cách đó, tạo ra cơ sở vật chất cho sự đơm hoa kết trái trong tâm hồn con người.

Chiến tranh chỉ gây ra tàn phá, chiến tranh không thể tạo dựng được bất cứ thứ gì. Trong tâm tưởng của chúng ta, chiến tranh, giết chóc, huỷ diệt và tàn phá cũng giống như loài quỷ sứ trong rừng hoang, còn sức lao động sáng tạo là bản chất mà chỉ con người mới có. Khác với những người theo trường phái nhân đạo chủ nghĩa, đấy là những người căm thù chiến tranh dù mặc dù họ nghĩ rằng nó cũng có ích; người theo trường phái tự do căm thù chiến tranh là vì nó chỉ gây ra những hậu quả có hại.

Người yêu hoà bình theo trường phái nhân đạo chủ nghĩa cầu xin đức vua toàn trí toàn năng: “Xin đừng gây chiến, ngay cả khi ngài nghĩ rằng chiến thắng sẽ làm cho ngài thịnh vượng thêm. Xin hãy tỏ ra cao thượng và hào hiệp và hãy từ bỏ sức cám dỗ của niềm vinh quang chiến thắng ngay cả nếu ngài có phải chịu thiệt thòi và mất mát.”

Người theo trường phái tự do có suy nghĩ khác. Người theo trường phái tự do tin rằng dù có chiến thắng thì chiến tranh vẫn là xấu xa ngay cả đối với người chiến thắng, hoà bình bao giờ cũng hơn chiến tranh. Người theo trường phái tự do không yêu cầu kẻ mạnh phải hy sinh mà muốn kẻ mạnh nhận thức được đâu là quyền lợi thực sự của anh ta, muốn anh ta hiểu rằng hoà bình mang lại lợi ích cho cả kẻ mạnh lẫn kẻ yếu.

Khi một dân tộc yêu chuộng hoà bình bị kẻ thù hiếu chiến tấn công thì họ phải chiến đấu và tìm mọi cách chống lại cuộc xâm lăng. Sự nghiệp anh hùng của những người chiến đấu cho nền tự do và cuộc sống của họ hoàn toàn xứng đáng được ca tụng, chúng ta có quyền tán dương trí kiên cường và lòng dũng cảm của những người chiến sĩ đó. Ở đây lòng can đảm, tinh thần dũng cảm và coi thường cái chết đáng được ngợi ca. Vì chúng phục vụ cho những mục tiêu tốt đẹp. Nhưng người ta đã lầm lẫn khi coi đức hạnh của người chiến binh là đức hạnh tối thượng và là những phẩm chất tốt trong chính họ và dành cho họ, thậm chí không cần để ý đến mục đích mà chúng hướng tới.

Những người có quan niệm như thế, nếu đấy là một người nhất quán thì anh ta phải công nhận sự liều lĩnh, táo tợn và coi thường chết chóc của kẻ cướp cũng là những đức tính cao thượng. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ nhìn vào hành vi thì ta không thể nói rằng đấy là hành vi tốt hay xấu. Ta chỉ có thể nói rằng đấy là hành vi tốt hay xấu sau khi biết được kết quả hay hậu quả mà nó gây ra. Ngay cả Leonidads cũng không xứng đáng với những vinh quanh mà chúng ta dành cho ông nếu như ông không ngã xuống như một người chiến sĩ bảo vệ tổ quốc mà lại ngã xuống như thủ lĩnh của một đội quân xâm lược nhằm cướp bóc tự do và của cải của một dân tộc yêu chuộng hoà bình.

Tác hại của chiến tranh đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại sẽ càng trở nên rõ ràng hơn sau khi người ta hiểu được lợi ích của việc phân công lao động. Phân công lao động biến một con người sống tự cấp tự túc thành một con vật chính trị, thành một người lệ thuộc vào những người đồng bào của mình, thành một con vật xã hội mà Aristotle đã nói tới. Những hành động thù địch giữa hai con vật hay hai con người bán khai không thể tạo ra bất kỳ thay đổi nào trong cơ sở kinh tế của cuộc đời chúng. Vấn đề sẽ khác hẳn khi cuộc tranh cãi phải giải quyết bằng vũ lực xuất hiện giữa các thành viên của một cộng đồng đã có sự phân công lao động.

Trong xã hội đó mỗi cá nhân đều có một chức năng riêng; không ai còn có thể sống tự cấp tự túc được nữa, vì tất cả mọi người đều cần sự giúp đỡ và ủng hộ của người khác. Những ông chủ đất sống tự cấp tự túc, tức là những người có thể làm ra trong trang trại của họ tất cả những thứ mà họ và gia đình họ cần, có thể tuyên chiến với nhau. Nhưng khi một làng đã chia thành các phe nhóm, ông thợ rèn vào phe bên này còn ông thợ giày vào phe bên kia, thì một bên sẽ khổ vì không có giày, còn bên kia sẽ khổ vì thiếu công cụ và vũ khí. Nội chiến triệt tiêu sự phân công lao động, nó buộc mỗi nhóm phải tự lập, tự hài lòng với thành quả lao động của những người bên phía mình.

Nếu xung đột có khả năng xảy ra thì phân công lao động sẽ không bao giờ được phép phát triển đến mức sẽ làm cho người ta lâm vào tình cảnh thiếu thốn nếu xảy ra chiến tranh. Việc phân công lao động chuyên sâu chỉ có thể xảy ra trong xã hội nơi người ta tin rằng hoà bình sẽ kéo dài. Phân công lao động chỉ có thể phát triển khi an ninh được bảo đảm. Không có điều kiện tiên quyết như thế, quá trình phân công lao động không thể vượt qua biên giới một ngôi làng hay thậm chí không vượt ra khỏi một gia đình.

Phân công lao động giữa thành thị và nông thôn – người nông dân trong các khu ngoại vi cung cấp lương thực, gia súc, sữa, bơ cho thành phố để đổi lấy những món hàng do dân thành thị làm ra – đã giả định rằng nền hoà bình sẽ được bảo đảm, ít nhất là trong khu vực đó. Nếu phân công lao động bao trùm lên cả nước thì nội chiến phải bị loại bỏ, còn khi phân công lao động đã bao trùm lên toàn thế giới thì cần phải bảo đảm giữ được một nền hoà bình dài lâu giữa các dân tộc.

Hiện nay mọi người đều nghĩ rằng việc các thành phố thủ đô hiện đại như London hay Berlin chuẩn bị chiến tranh với dân chúng sống trong khu vực ngoại ô là việc làm vô nghĩa. Nhưng trong suốt nhiều thế kỉ, các thành phố châu Âu đã từng suy nghĩ như thế và đã có dự phòng về mặt kinh tế nếu điều đó xảy ra. Đã có những thành phố mà phương tiện phòng thủ được xây dựng ngay từ đầu sao cho nó có thể đứng vững được một thời gian, người ta còn trồng cấy và nuôi gia súc ngay trong thành phố nữa.

Đầu thế kỷ XIX, cũng như trước đây, phần lớn những vùng có người ở trên thế giới vẫn còn bị chia ra thành những khu vực kinh tế ít nhiều đều mang tính tự cấp tự túc. Ngay cả trong những khu vực phát triển nhất của châu Âu, phần lớn nhu cầu vẫn được đáp ứng bằng sản phẩm của chính khu vực đó. Buôn bán – chỉ diễn ra trong khu vực hạn hẹp ngay trong những vùng lân cận – có vai trò tương đối hạn chế và nói chung chỉ bao gồm những loại hàng hoá mà do điều kiện khí hậu từng khu vực không thể sản xuất được.

Tuy nhiên, hấu hết các khu vực trên thế giới, sản phẩm do làng xã tự cung cấp có thế đáp ứng hầu như tất cả mọi nhu cầu của dân chúng. Đối với người nông dân, những xáo trộn trong hoạt động buôn bán do chiến tranh gây ra nói chung không tạo ra bất kỳ ảnh hưởng tiêu cực nào. Thậm chí những người dân sống trong các nước phát triển hơn ở châu Âu trong thời gian chiến tranh cũng không phải chịu đựng quá nhiều thiếu thốn.

Ngay cả nếu Hệ thống Lục địa mà Napoleon I áp đặt cho châu Âu nhằm ngăn chặn hàng hoá Anh quốc hoặc hàng hoá từ các châu lục khác phải đi qua Anh quốc rồi mới thâm nhập vào lục địa có được áp dụng một cách khắc khe hơn là nó đã diễn ra trên thực tế thì nó cũng chẳng gây ra cho dân chúng châu Âu một sự thiếu thốn đáng kể nào. Chắc chắn là họ sẽ không có cà phê và đường, bông và sản phẩm vải bông, đồ gia vị và nhiều loại đồ gỗ quý hiếm; nhưng tất cả những loại hàng hoá này đều chỉ có vai trò thứ yếu trong đời sống gia đình của đa phần dân chúng mà thôi.

Sự phát triển của hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp chính là sản phẩm của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản thế kỷ XIX. Chỉ có chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản mới có thể làm cho việc chuyên môn hoá sản xuất rộng khắp và đi kèm với nó là việc cải tiến trong lĩnh vực công nghệ trở thành hiện thực. Hiện nay dân chúng các nước trên cả năm châu cùng hợp tác để làm ra những sản phẩm mà một gia đình người công nhân Anh đang dùng hoặc đang muốn dùng.

Chè cho bữa ăn sáng được đưa đến từ Nhật hay Ceylon, cà phê từ Brazil hay đảo Java, đường từ Tây Ấn, thịt từ Australia hay Argetina, bông từ Mĩ hay Ai-Cập, vải da từ Ấn Độ hay Nga..v.v.. Đổi lại, hàng hoá Anh quốc được đưa đến tất cả các vùng trên thế giới, đến cả những làng xã và nông trại xa xôi và khó đến nhất.

Sự phát triển như thế chỉ có thể xảy ra và tưởng tượng được vì cùng với chiến thắng của những nguyên lý tự do, người ta đã không còn coi ý tưởng cho rằng một lúc nào đó một cuộc chiến tranh cực kỳ lớn sẽ xảy ra là ý tưởng nghiêm túc nữa. Trong thời vàng son của chủ nghĩa tự do, chiến tranh giữa các sắc dân da trắng được coi là câu chuyện của thời quá khứ.

Nhưng các sự kiện đã diễn ra theo cách khác. Các tư tưởng và cương lĩnh của chủ nghĩa tự do đã bị chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa quân phiệt thế chỗ. Trong khi Kant và Von Humboldt, Bentham và Cobden ngợi ca nền hoà bình vĩnh cửu thì những người đại diện cho thời đại sau họ lại tán dương không mệt mỏi chiến tranh, cả nội chiến lẫn trên trường quốc tế. Và họ đã nhanh chóng thu được thành công. Kết quả là cuộc Chiến tranh thế giới (Chiến tranh thế giới thứ I – ND), một cuộc chiến tranh đã mang đến cho thời đại của chúng ta bài học về sự xung khắc giữa chiến tranh và phân công lao động.

4. Bình đẳng

Sự khác biệt giữa chủ nghĩa tự do trước đây và chủ nghĩa tự do hiện đại thể hiện rõ nhất và dễ thấy nhất trong cách họ xử lý vấn đề bình đẳng. Những người theo phái tự do thế kỷ XVIII, được hướng đạo bởi những tư tưởng của luật tự nhiên và thời đại Khai sáng, đòi quyền bình đẳng về chính trị và dân sự cho tất cả mọi người vì họ cho rằng mọi người đều giống nhau. Chúa sinh ra mọi người như nhau, phú cho họ những khả năng và tài năng như nhau, phả vào tất cả mọi người cùng một hơi thở của Chúa.

Tất cả những khác biệt giữa người với người đều là nhân tạo, là sản phẩm của xã hội, của con người – nghĩa là do những định chế nhất thời mà ra. Cái còn lại vĩnh viễn trong con người – tức là tâm hồn anh ta – chắc chắn là giống nhau cho cả người giàu lẫn người nghèo, quý tộc và thường dân, da trắng và da màu.

Tuy nhiên, không có khẳng định nào lại thiếu căn cứ hơn là lời khẳng định về sự bình đẳng giữa người với người như thế. Mỗi người mỗi khác, không ai giống ai. Ngay cả anh em ruột cũng khác nhau rất xa về sức khoẻ cũng như trí thông minh. Tự nhiên không bao giờ lặp lại sản phẩm của chính nó; nó không sản xuất hàng loạt và không có sản phẩm đã được tiêu chuẩn hoá. Mỗi người khi rời khỏi xưởng chế tạo của nó đều mang theo dấu ấn riêng, duy nhất và không bao giờ lặp lại. Mỗi người mỗi khác, và đòi hỏi về sự bình đẳng trước pháp luật hoàn toàn không thể dựa vào khẳng định rằng những người giống nhau phải được đối xử y như nhau.

Có hai lý do giải thích vì sao mọi người đều phải được bình đẳng trước pháp luật. Lý do thứ nhất đã được nhắc tới khi chúng ta phân tích những luận chứng nhằm chống lại chế độ nô lệ. Sức lao động sẽ có năng suất cao nhất khi và chỉ khi người công nhân được tự do vì chỉ có người lao động tự do, tức là người được hưởng thành quả lao động của anh ta dưới dạng tiền lương, mới cố gắng hết sức mà thôi. Giữ gìn hoà bình trong xã hội là luận cứ thứ hai.

Như đã chỉ ra bên trên, cần phải tránh mọi xáo trộn đối với sự phát triển một cách hoà bình quá trình phân công lao động. Nhưng giữ hoà bình trong một xã hội trong đó quyền lợi và trách nhiệm được phân chia theo giai cấp là nhiệm vụ hầu như bất khả thi. Người nào không cho một bộ phận dân chúng được hưởng các quyền như các bộ phận khác thì phải luôn luôn sẵn sàng đối phó với cuộc tấn công của những người bị tước quyền nhằm chống lại những kẻ được hưởng đặc quyền đặc lợi. Đặc quyền đặc lợi giai cấp phải bị bãi bỏ, lúc đó xung đột vì lý do giai cấp sẽ chấm dứt.

Như vậy nghĩa là tìm kiếm sai lầm trong cách đặt vấn đề bình đẳng của chủ nghĩa tự do, cho rằng nó chỉ tạo ra sự bình đẳng trước pháp luật chứ không phải bình đẳng thật sự là việc làm vô lí. Có sử dụng toàn bộ sức mạnh của loài người cũng không thể làm cho người ta trở thành giống nhau được. Con người đã và sẽ mãi mãi khác nhau. Chính những quan điểm tỉnh táo hữu ích vừa được trình bày là luận cứ ủng hộ cho việc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Chủ nghĩa tự do không bao giờ đặt ra mục tiêu cao hơn, cũng chẳng bao giờ đòi hỏi cao hơn. Biến một người da đen thành da trắng là việc làm bất khả thi. Nhưng cho người da đen được hưởng những quyền như người da trắng và bằng cách đó tạo điều kiện cho anh ta có thu nhập như người da trắng nếu anh ta cũng có năng suất lao động như người kia.

Nhưng những người xã hội chủ nghĩa lại nói rằng làm cho mọi người bình đẳng trước pháp luật là chưa đủ. Muốn làm cho họ trở thành những người bình đẳng thật sự thì phải cho họ phân phối thu nhập giống nhau. Bãi bỏ đặc quyền đặc lợi được hưởng theo kiểu cha truyền con nối và theo chức tước là chưa đủ. Cần phải hoàn thành sự nghiệp, cần phải loại bỏ một trong những đặc quyền đặc lợi quan trọng nhất và lớn nhất, mà cụ thể là đặc quyền đặc lợi do sở hữu tư nhân mang lại cho người ta. Chỉ có như thế thì cương lĩnh tự do mới được thực hiện trọn vẹn, và nếu nhất quán thì chủ nghĩa tự do cuối cùng sẽ dẫn tới chủ nghĩa xã hội, dẫn tới việc bãi bỏ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất.

Đặc quyền đặc lợi là sự dàn xếp mang tính định nhằm chế tạo điều kiện thuận lợi cho một số cá nhân hay một nhóm người nhất định, gây thiệt hại cho những người khác. Đặc quyền đặc lợi tồn tại, mặc dù nó làm cho một số người phải chịu thiệt hại – có thể là đa số – trong khi ngòai những người được hưởng thì nó chẳng mang lại lợi ích cho ai. Trong chế độ phong kiến thời Trung Cổ, một số vương hầu công tước được quyền tài phán theo kiểu cha truyền con nối. Họ là những quan toà vì được kế thừa, không cần biết họ có khả năng và phẩm chất phù hợp với quan toà hay không. Trong mắt họ, địa vị này đơn giản chỉ là một nguồn thu nhập béo bở. Ở đây quyền tài phán là đặc quyền đặc lợi của giai cấp quý tộc.

Nhưng nếu trong nhà nước hiện đại các quan toà bao giờ cũng được tuyển chọn trong số những người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm thì đấy không phải là đặc quyền đặc lợi của các luật sư. Các luật sư được ưu tiên không phải vì lợi ích của họ mà vì lợi ích của toàn xã hội, vì mọi người đều nghĩ rằng kiến thức về luật học là điều kiện tiên quyết đối với một quan toà. Khi xem xét một định chế có phải là đặc quyền đặc lợi đối với một nhóm người, một giai cấp, một cá nhân hay không, ta không được dựa vào những khoản ưu tiên ưu đãi mà nó mang lại cho nhóm đó mà phải dựa vào lợi ích mà nó mang lại cho toàn xã hội.

Chỉ có một người thuyền trưởng trên con tàu giữa biển khơi, những người khác đều là thuyền viên và bị ông ta chỉ huy, thuyền trưởng chắc chắn là có lợi thế rồi. Nhưng đây không phải là đặc quyền đặc lợi của vị thuyền trưởng vì nếu ông ta biết cách lái tàu đi giữa nhửng tảng đá ngầm trong cơn giông bão thì không chỉ ông ta được lợi mà cả thuỷ thủ đoàn cùng được lợi nữa.

Để có thể quyết định xem một định chế có phải là đặc quyền đặc lợi cho một cá nhân hay một giai cấp hay không, ta không được hỏi nó có mang lại lợi ích cho cá nhân hay giai cấp cụ thể đó hay không mà phải hỏi nó có mang lại lợi ích cho toàn xã hội hay không. Khi ta rút ra kết luận rằng chỉ có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới làm cho xã hội loài người phát triển một cách thịnh vượng thì rõ ràng đấy cũng là nói rằng sở hữu tư nhân không phải là đặc quyền đặc lợi của người chủ sở hữu mà là một định chế xã hội vì phúc lợi và lợi ích của tất cả mọi người, ngay cả khi nó đồng thời mang lại lợi ích và sự thoả mãn đặc biệt cho một số người.

Chủ nghĩa tự do ủng hộ định chế sở hữu tư nhân không phải vì quyền lợi của những người có sở hữu. Những người theo trường phái tự do muốn bảo vệ quyền sở hữu tư nhân hoàn toàn không phải là vì việc bãi bỏ nó sẽ xâm phạm quyền sở hữu của ai đó. Nếu họ nghĩ rằng việc xoá bỏ định chế sở hữu tư nhân sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người thì chắc chắn họ sẽ ủng hộ việc xoá bỏ nó, dù rằng chính sách như thế có thể gây tổn thất cho các chủ sở hữu đến như thế nào.

Nhưng duy trì định chế này là lợi ích của tất cả các giai tầng trong xã hội. Ngay cả một người nghèo, một kẻ chẳng có tí tài sản nào, cũng có đời sống khấm khá hơn rất nhiều so với đời sống trong xã hội không có khả năng sản xuất được một phần những gì được sản xuất vào ngày hôm nay.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

Một ngày đi lạc ở Kuala Lumpur

Featured Image: Peter Nguyen

 

Giới thiệu: Tôi có một ngày đi lạc ở Kuala Lumpur. Dù chỉ là một ngày nhưng tôi sẽ không bao giờ quên nó. Lần đầu tiên tôi bước chân ra khỏi biên giới Việt Nam, cũng là lần đầu tiên tôi bị lạc ở một đất nước xa lạ. Tôi đã được va chạm với những tình huống mà cả đời tôi tôi vẫn chưa nghĩ đến:

  • Tôi bị lạc ở trạm xe lửa.
  • Khóc vì không nói được tiếng Anh cho người ta hiểu tình huống của mình.
  • Lo lắng vì không biết tôi phải làm gì.
  • Lo sợ vì không biết làm sao để gặp lại bạn trai.
  • Không những vậy, tôi đã gặp được người tốt người xấu.
  • Bị dê xồm.
  • Bị phục vụ tồi bởi một lễ tân khách sạn bất lịch sự.
  • Bị lạc lõng vì mù công nghệ và thiếu kỹ năng giải quyết tình huống và kỹ năng sống.

Sau khi nghĩ lại, tôi thấy mình thật tệ và kém cỏi. Nhưng cũng vì ngày đi lạc này mà tôi đã trưởng thành hơn.


 

Ấn tượng ban đầu ở cửa khẩu Kuala Lumpur

Trong dịp nghỉ lễ 30-4 tôi với bạn trai quyết định đi du lịch sang thủ đô của Mã Lai, Kuala Lumpur 3 ngày. Tôi chưa bao giờ bước chân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, còn bạn trai tôi thì khác, anh ta đã đi rất nhiều lần.

2 đứa chúng tôi bay sang Kuala Lumpur lúc 9 giờ sáng, tới nơi thì đã 12 giờ trưa. Lúc làm thủ tục ở quầy xuất nhập cảnh ở Kuala Lumpur, tôi đã hiểu và thấy được một sự khác biệt đối với những người cầm cái hộ chiếu màu xanh Việt Nam. Những người khác thì nhân viên cửa khẩu chỉ quẹt hộ chiếu và hỏi thăm vài câu rồi cho qua, tầm 1 phút. Còn những ai cầm hộ chiếu Việt Nam thì lâu hơn, 3-5 phút, không biết vì lý do gì. Riêng tôi vì đây là lần đầu tiên tôi bước ra khỏi biên giới nên đã bị hỏi lâu hơn. Những câu hỏi như:

  • Vé khứ hồi của bạn đâu?
  • Bạn đi với ai?
  • Khách sạn ở đâu?
  • và vài câu khác

Tôi không biết mấy bạn sao chứ theo tôi có một điều gì đó hơi bất công với những ai cầm hộ chiếu màu xanh Việt Nam.

Ngày thứ 1 và thứ 2

2 đứa chúng tôi dành 2 ngày đầu tiên khám phá thủ đô của Mã Lai. Chúng tôi mua một tour du lịch riêng của khách sạn để chở chúng tôi đến những địa điểm du lịch quan trọng ở thành phố. Thành phố Kuala Lumpur thật hiện đại.

Điều làm tôi chú ý nhất là Mã Lai là một nước đa sắc tộc. Nói đúng hơn là có 3 sắc tộc chính, người Mã Lai (đạo Hồi Giáo), người Ấn (Ấn Độ Giáo) và người Hoa. Như người ta nói thì không sai. Ở đây người Mã Lai làm chính trị, người Hoa làm kinh tế còn người Ấn thì làm công. Bạn có thể thấy sự khác biệt này ở khắp nơi trên thành phố. Khách sạn chúng tôi ở nằm gần tòa nhà đôi Petronas nên 2 đứa chúng tôi đã thấy được vẽ đẹp của nó trong ban ngày và đêm.

Ngày thứ 3, ngày bị thất lạc

Sau 2 ngày khám phá thì theo kế hoạch chúng tôi sẽ đi taxi ra phi trường để về Việt Nam. Nhưng chúng tôi lại đổi ý và muốn đi xe lửa điện để khám phá vì thời gian chờ chuyến bay hơi lâu trong khi chúng tôi phải trả phòng trước 12 giờ trưa. Và chuyện bi hài bắt đầu từ đây.

Sau khi ăn trưa, chúng tôi tới trạm xe điện KLCC, trạm gần nhất từ khách sạn. Sau một hồi tự mò cách mua vé chúng tôi đi thang máy xuống để đi. Khi chúng tôi đi xuống bạn trai tôi liền bước lên xe lửa. Bất chợt cửa xe lửa tự động đóng và tôi đã bước lên không kịp. Bạn trai tôi liền ra tín hiệu, tôi không hiểu rõ anh ấy muốn nói gì nên đã bước lên chuyến xe kế tiếp. Chuyện thất lạc hơn 6 tiếng đồng hồ bắt đầu từ đây.

Thất lạc

Tôi bước lên chuyến xe lửa kế tiếp với suy nghĩ rằng sẽ gặp anh ta. Nhưng không, tôi chẳng thấy anh ta ở đâu. Tôi cứ nghĩ anh ta sẽ dừng ở trạm cuối cùng, thế là tôi xuống ở trạm cuối cùng và chờ. 1 chuyến, 2 chuyến, rồi 3 chuyến, nhưng vẫn không thấy anh ta. Rồi 1 tiếng, 2 tiếng, rồi lại 3 tiếng những vẫn không thấy. Lúc này thì tôi bắt đầu lo sợ. Tôi liền bắt xe đi về trạm KLCC nơi chúng tôi bắt đầu. Tôi đứng đó chờ nhưng vẫn không thấy anh ta. Một lần nữa tôi đi đến trạm cuối cùng và chờ.

Điện thoại tôi không có kết nối mạng quốc tế. Wifi thì bắt không được, vì tôi không biết cách. Tiếng Anh thì nói 10 chữ người ta hiểu được 1. Tôi ngồi đó lo sợ và khóc. Dù đã hơn 20 tuổi đời, tôi chưa bao giờ cảm thấy lo sợ như bây giờ. Tôi tiếp tục mở wifi để nhắn tin cho bạn trai nhưng tin nhắn chuyển đi không được.

Tôi bắt đầu khóc, khóc sướt mướt cả tiếng đồng hồ. Mọi người trên trạm xe lửa quay quanh tôi và hỏi thăm. Có một ông bác muốn cho tôi 100 RM, tôi liên tục từ chối. Tôi cố gắng giải thích tình hình cho họ hiểu, rằng tôi bị lạc và phải đến sân bay. Nhưng không một ai giúp đỡ. Tôi tự hứa với mình là sẽ chờ cho tới 4 giờ chiều, nếu vẫn không gặp bạn trai thì tôi sẽ tự đi ra sân bay, vì chắc chắn anh ta sẽ có mặt ở đó.

Khi tôi muốn đi ra ngoài để đón taxi ra sân bay thì cửa tự động không chịu vé của tôi vì tôi đã ra sai trạm. Mấy nhân viên hỏi tôi có 50 cent không, tôi nói tôi chỉ có tiền đô. Quýnh quá tôi chợt nhớ trong bóp mình còn vài RM. Lúc đó tôi mới ra khỏi cửa trạm xe điện. Nhưng vẫn chưa xong, tôi không có tiền RM để đi taxi. Tôi hỏi xung quanh thì không một ai giúp. Một hồi sau mới có 1 bác chở tôi đến chỗ đổi tiền. Đổi tiền xong tôi kêu anh ta chở tôi ra sân bay. Tôi cứ nghĩ tới đây thì mọi chuyện sẽ ổn, nhưng không.

Tôi đi máy bay của Air Asia, phải đi tới Sân Bay Quốc Tế Số 2 (KLIA2), chứ không phải là số 1. Tôi không biết điều này. Khi tôi tới sân bay KLIA1 thì tôi không thấy chuyến bay của mình đâu. Đi tìm bạn trai cũng không thấy. Kết nối wifi vẫn không được. Tôi đến quầy của Vietnam Airlines để tìm người giúp. Anh nhân viên người Mã Lai tìm tên tôi, gọi tới tổng đài của Vietnam Airlines nhưng vẫn không thấy tên tôi.

Tới lúc này thì tôi quá lo sợ. Tôi xin anh ta hãy cho tôi kết nối wifi. Không hiểu lý do vì sao tôi chỉ kết nối được và nhận được tất cả tin nhắn của bạn trai tôi gửi cho tôi, sau đó thì wifi tắt. Tôi lại xin mật mã riêng của quầy để cho tôi truy cập Gmail. Tôi không hiểu vì sao Gmail của tôi lại không truy cập được.

Khi tôi đọc được những tin nhắn của bạn trai thì tôi mới biết bạn trai tôi trách tôi rất nhiều:

  • Hỏi tôi sao khờ và ngu vậy.
  • ”Sao không chờ ở trạm đầu tiên mà đi lòng vòng?”
  • ”Anh đi tìm em mấy tiếng đồng hồ, đi khắp trạm trên tuyến mà không thấy?”
  • ”Sao em khờ quá vậy? Em không biết mượn điện thoại ai đó để nhá máy anh hả? Hay ít nhất cũng mượn điện thoại ai đó vô facebook để nhắn tin anh.”

Khi tôi đưa vé điện tử cho anh nhân viên coi, anh ta mới nói tôi rằng chuyến bay của Air Asia làm thủ tục ở KLIA2 chứ không phải ở đây. Tôi phải đi xe lửa tới sân bay đó, nó nằm kế bên. Đây là một điều quá dễ dàng, nhưng đối với một cô gái chưa bao giờ va chạm với thế giới bên ngoài, chưa bao giờ phải mua vé xe lửa, chưa bao giờ bước ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thì đây là một cực hình. Thấy tôi lo lắng và khóc thì anh nhân viên mới nhờ một bác dẫn tôi đi tới KLIA2, lên tầng 3, tầng khởi hành để gặp bạn trai.

Sau khi bị thất lạc 6 tiếng đồng hồ thì mọi sự lo sợ của tôi đều tan biến, vì tôi đã thấy bạn trai của tôi ngồi chờ ở cổng khởi hành. Tôi ôm anh ta và khóc. Anh ta trách móc tôi liên tục, tôi vẫn chưa hết lo sợ và hoang mang. Chưa hết, cái ông dẫn tôi qua bên KLIA2 đòi thêm 100 RM, bạn trai tôi cứ nghĩ đó là phí xe lửa nên đưa. Sau này thì tôi nói là ông đó không có mua vé gì hết, tới giờ tôi vẫn nghĩ ông ta tham lam, có thể là tôi sai.

Vẫn chưa kết thúc

Khi gặp được bạn trai thì anh ta trách và la tôi rất nhiều. Anh ta đâu có hiểu được cảm giác của tôi. Anh ta nói rằng chuyến bay về Sài Gòn của tôi đã cất cánh, vé của tôi đã bị hủy. Anh ta phải bay tới Sydney đi làm trong 4 tiếng nữa. Anh ta lấy điện thoại và coi vé nhưng tất cả các chuyến bay trong ngày và ngày mai đã hết, những vé còn lại đều quá cao đối với tôi. Chỉ còn một cách là đặt vé vào thứ 2 cho tôi về Sài Gòn và tôi phải ngủ lại Kuala Lumpur. Mọi chuyện tưởng chừng như đã xong, nhưng chưa.

Dê xồm

Khi tôi đi taxi từ phi trường về khách sạn cũ, tôi không may khi phải gặp một ông taxi dê xòm. Đã già mà còn dê. Đi một hồi ông ta cứ tiếp tục nhìn vào kính hậu và nói những câu như:

  • ”Em đẹp quá (you are so beautiful).”
  • ”Em từ đâu? (where are you from?).
  • ”Em có bạn trai chưa? (You have a boyfriend?).”
  • ”Tối nay ngủ ở đâu? (Where do you sleep tonight?).”
  • ”Cho anh làm bạn nhé? (Let me be your friend).”

Ông ta lấy cái thẻ địa chỉ khách sạn, giả vờ như không biết địa chỉ ở đâu. Ông ta hỏi tôi, tôi chỉ vào địa chỉ đó. Ông ta liền nắm tay tôi. Hoảng hồn tôi giật tay ra và chỉ thẳng vô mặt ông ta. Khi tới khách sạn tôi liền đi vào mà quên chụp biển số xe lại. Tôi cứ tưởng mọi thứ đã xong, nhưng vẫn chưa.

Lễ tân vô lễ

Nhân viên lễ tân nói anh ta không thấy tên của tôi trong hệ thống. Tôi đưa cho anh ta cái biên lai điện tử trong email mà bạn trai tôi đã đặt phòng qua Agoda cách đây 3 tiếng. Agoda đã xác nhận và gửi biên lai xác nhận số và tên tôi. Nhưng nhân viên đó không chịu. Nếu như vậy thôi thì đâu có gì. Sau 1-2 lần kêu anh ta coi lại, vì quá vô lý, tôi có biên lai xác nhận tôi đã đặt phòng thì tại sao khách sạn lại không có?

Anh ta nạt nộ tôi, không chịu kiểm tra hoặc gọi điện cho Agoda để hỏi về tình hình, hoặc ít ra cũng gọi cho quản lý khách sạn để giải quyết. Đó là những điều căn bản của một lễ tân, huống gì đây là một lễ tân của một khách sạn 3 sao. Giá phòng là hơn $120 (2 triệu VND) một đêm. Tôi quá thất vọng với tác phong và thái độ phục vụ. Anh ta liên tục lớn tiếng:

  • “No booking under your name” (Không có tên bạn trong danh sách đặt phòng).

Tôi muốn phát điên, tôi nói qua nói lại là tôi có biên lai xác nhận, sao anh ta có thể nói như vậy. Quá bực tức tôi liền đi ra ngoài tìm wifi để nhắn tin cho bạn trai. Nhưng vô dụng. Sau vài tiếng lang thang ngoài đường tôi vô lại khách sạn đó để kêu lễ tân coi lại trong hệ thống.

Vừa thấy tôi anh ta lại lớn tiếng: “No booking under your name” (Không có tên bạn trong danh sách đặt phòng). Tới lúc này tôi đã chịu hết nổi. Tôi phải đi thuê phòng ở một khách sạn gần đó. Cũng hên là tôi còn đủ tiền mặt. Một ngày khủng khiếp nhất cuộc đời tôi.

Bình yên

Tôi lo sợ ngủ không được. Tôi ngủ gật và chờ tới sáng, khi chuyến bay của bạn trai tôi đã đáp xuống Sydney. Lúc đó anh ta mới đọc được tin nhắn của tôi. Anh ta liền đặt một phòng cùng khách sạn tôi đang ở 1 ngày nữa, coi như gia hạn và trả bằng thẻ vì tôi không đủ tiền mặt. Tôi lấy biên lai trong email đưa cho lễ tân. Lễ tân chấp nhận không một vấn đề gì. Chỉ cho tới lúc này tôi mới hết lo sợ. Lúc này tôi mới ăn sáng được. Một ngày khủng khiếp đối với tôi, tôi sẽ không bao giờ quên được.

Đôi lời nhận xét

Có nhiều người khi đọc trải nghiệm này của tôi sẽ cười và nói tôi ngu ngốc. Ừ thì tôi ngu ngốc, tôi như một đứa nhà quê mới lên thành phố. Tôi chưa bao giờ đi ra khỏi biên giới Việt Nam và va chạm với một nền văn hóa khác. Chưa bao giờ gặp phải những tình huống tôi đã kể. Qua kinh nghiệm này tôi cảm thấy mình tệ thật. Kỹ năng của mình quá tệ. Một người già đầu như tôi vẫn yếu đuối như một đứa trẻ. Đây là bài học đáng nhớ trong đời của tôi, có thể là bài học đáng nhớ nhất.

Tôi không ngờ chuyến xuất ngoại đầu tiên của tôi đã để lại dấu vết này. Khi nghĩ tới tôi vẫn sợ, nhưng cảm ơn trời đã cho tôi gặp được vài người tốt. Nếu không thì tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với tôi. Đây sẽ không phải là lần cuối cùng tôi bước chân ra khỏi biên giới Việt Nam đâu. Tôi khờ nhưng vì trải nghiệm này, tôi sẽ mạnh mẽ hơn. Sẽ không có chuyện này xảy ra nữa.

Lời kết

Cuộc sống có nhiều thứ chúng ta cần phải trải nghiệm, dù nó không đẹp cho lắm. Nhưng chúng ta phải trải qua để trưởng thành. Riêng tôi thì tôi đã trưởng thành từ trải nghiệm nhỏ nhưng khủng khiếp này. Tôi khuyên các bạn hãy làm điều tương tự. Hãy đi ra khỏi biên giới, hãy trải nghiệm, hãy khám phá. Vì những trải nghiệm đó, dù không đẹp hoặc tốt, là những điều cần thiết để giúp chúng ta mạnh mẽ hơn.

 

Ku Búa,

dựa theo câu chuyện thật của một người bạn.