18.3 C
Da Lat
Thứ Tư, 20 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 140

Ngôn Pháp

Các em nhỏ gọi viết thư pháp là viết chữ xấu. Quan điểm này không khó chấp nhận. Vì chữ viết phải ngay ngắn thẳng hàng và đồng đều mới được gọi là điều kiện cần trong tiêu chuẩn đánh giá chữ đẹp để bổ sung cho điều kiện đủ là “đẹp”.

Thế nhưng có người vừa nhìn vào một bức thư pháp đã cho là “đẹp” ngay, mặc dầu chữ viết xiên xẹo, lệch lạc, nguệch ngoạc, thiếu cân xứng. Cách thưởng thức này cũng được đa số người lớn chấp nhận dễ dàng vì nó đáp ứng được quan điểm mỹ học.

Riêng “giới thư pháp” thì lại chưa hài lòng với những cách nhìn nhận trên

Nếu chỉ để đáp ứng cái khiếu thẩm mỹ thì thư pháp chỉ còn lại là một nghệ thuật viết chữ đẹp; hoặc như có người nói: đó chỉ là thư họa. Họan là vẽ, nghĩa là vẽ chữ: vẽ chữ đẹp!

Người Trung hoa, Á rập nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp không lấy gì làm lạ. Với chữ tượng hình thì họ chỉ cần viết chữ đẹp – bay bướm, cách điệu và phối các nét thanh và các nét đậm vào trong một bố cục – thì họ cũng đã đạt đến nghệ thuật thư pháp rồi. Chữ của họ là chữ tượng hình nên tự nó có thể biểu đạt được ý nghĩa rồi nên ít cần đến nghệ thuật diễn ý. Ý đã hàm trong từ. Như một nhà thư pháp Trung hoa đã nói: “Khi ý ở đầu ngọn bút, khỏi cần phải đi đến tận cùng ý.” [Hassan Massoudy – Người đưa tin UNESCO 12.1990-tr.38].

Và từ “thư pháp” của Trung hoa có nghĩa là “cách viết chữ” [callégraphy] tức “the Art of Written Forms” theo định nghĩa của Phương tây!

Với định nghĩa như thế, nhà thư pháp Việt nam chưa hài long ! Chưa hài lòng vì Tiếng Việt thuộc loại từ ký âm chứ không thuộc loại từ biểu ý; nên cho dầu viết có đẹp mà chưa đạt ý thì họ chưa vừa lòng. Mà thư pháp thì không chịu dừng lại cho đối tượng thẩm mỹ.

Mỗi bức thư pháp là một thông điệp! Một tâm tình! Một bản thể!

Để đạt mong muốn đó, nhà thư pháp Việt nam hầu như phải tự đi tìm một con đường riêng – một trường phái – Có thể tên gọi thì còn chờ đợi… nhưng cách bức phá thì họ đã khai phá!

Trình bày cái hệ ngôn ngữ ký âm như tiếng Việt qua nghệ thuật thư pháp đòi hỏi người viết chữ phải vượt lên trên thư pháp (cách viết chữ) để đạt đến ngôn pháp (cách trình bày[viết] lời nói); vì điều họ viết ra gọi là ngôn (lời nói).

Họ viết, không phải chỉ cốt trình cái chữ mà là trình cái bụng họ ra tức “ngôn vi tâm thanh” = lời nói là tiếng của tâm (tiếng lòng). Vì vậy, cái diễn bày tư tưởng ở ngôn pháp Việt Nam là chủ đạo chứ không phải cốt để trình bày chữ viết (thư pháp).

Chỗ khác nhau giữa ngôn pháp và thư pháp là ở biểu ý chứ không phải biểu mỹ. Vì chữ của ta là “phát âm sao viết vậy”; nghĩa là “viết sao là nói vậy” – và họ viết tức là nói!

Họ mượn nghệ thuật viết để nói. Họ nói bằng nghệ thuật viết!

Có thể gọi đó là thuật nói chuyện của người viết chữ.

Viết là tìm cách biểu đạt ngôn ý [ý trong lời nói], là thể hiện cách nói. Nói thế nào cho người khác hiểu lòng mình, ấy gọi là ngôn chí [bày tỏ cái ý chí của mình] và trình bày ra chữ viết thông qua nghệ thuật gọi là NGÔN PHÁP: nghệ thuật viết ra lời nói. Nói qua cách viết! Vì chữ của ta là biểu âm: nói sao viết vậy!

Khi nói, chính cái giọng điệu mới diễn đạt hết cái ý của người nói. Khi giận dữ, lúc yêu thương, khi cầu khẩn, lúc sai khiến, gợi ý hay chìu lòng… đều với một âm sắc riêng để bày tỏ cái tâm tình ấy.

Khi hai cô gái Huế nói với nhau: “Mái tóc con Thùy da…ài…ì…ì…!”

Một nhà diễn thuyết trình bày: “Lên NON, non TĨNH! Xuống ĐOÀI, đoài YÊN!”

Chuyển thể từ cách viết này trong văn pháp qua ngôn pháp, nhà ngôn pháp sẽ diễn đạt từng con chữ mạnh, nhẹ, dứt khoát hay ngập ngừng hoặc lã lướt, uyển chuyển tùy vào từng âm tiết của lời nói hơn là trìng bày câu văn.

Cái âm tiết Tiếng Việt là thanh, cho nên chính cái âm sắc/âm lượng khi nói mới là sức diễn đạt, và cũng chính âm sắc mới xác định ngữ nghĩa biểu đạt của từ hơn là chính nghĩa của từ. Và cũng chính vì thế mà Việt nam có một thể loại diễn ý một cách độc đáo và đặc sắc mà hầu như ít có dân tộc nào có được: đó là NGÂM THƠ!

Cái “âm điệu trong ngâm thơ” tặng cho ngòi bút nhà ngôn pháp cái âm lượng để thành một trường phái ngôn pháp Việt nam độc đáo và độc lập.

Tùy vào tâm trạng, tùy vào khí thế mà mỗi câu chữ có thể thể hiện qua cách ngâm Tao đàn, Sa mạc (bồng mạc), Lãy Kiều, Lục Vân Tiên (Bạc Liêu), Vè hay Ngâm Huế hoặc Hò…(Bắc, trung, Nam).

Để diễn tả niềm vui hay phong kín, ta có thể dùng lối Nam xuân (Bắc) hoặc diễn bày nổi buồn, ai oán thì dùng lối Nam ai/Nam oán.

Con chữ sẽ mạnh, nhẹ… dứt khoát hay kéo dài… theo với làn điệu ngân nga của thể thơ mà nhà ngôn pháp mượn làn hơi của người ngâm mà thể hiện qua ngọn bút!

Vì thế, không chừng, nếu nhà ngôn pháp Việt Nam nhấn mạnh hoặc ẻo lã không đúng chỗ sẽ dẫn đến sự hiểu lầm trái ý mình. Trong trường hợp này, người thưởng lãm không hiểu sai ý người viết mà chính người viết trình bày sai ý mình.

Và một bức tranh ngôn pháp cũng đáp ứng ba yếu tố cơ bản này: Chủ điểm – Bố cục và Nghệ thuật.

Chủ điểm: “Từ” chủ đạo được đặc biệt cường điệu, gây ấn tượng mạnh mẽ, thu hút ngay sự chú ý nơi người xem. Nhờ cách gợi ý đó mà điều họ muốn nói đã được quan tâm. Điều họ muốn nói đã nói ra lời (ngôn). Khi ấy bức ngôn pháp thành ra để “nghe” hơn là để ngắm. Ngôn pháp Việt nam đích thực là một thiền pháp, mà nhà ngôn pháp như một thiền sư bạo động với thiền sinh ngay ở chiêu đầu để đánh bật dậy cái tiềm thức cảm thụ uyên nguyên ngủ vùi trong mỗi con người cho sực tĩnh, như Tôn Ngộ Không đánh thức ngựa dậy khi ngựa ngủ – và ở bố cục sẽ làm nhiệm vụ lùa ngựa về chuồng khi ngựa đi rong –

Bố cục: “Từ” được phối trí trong tiết tấu kỹ hà nên tạo được nét hài hòa và vị trí được thu xếp đúng chỗ đã đưa được cái hốn độn vào trật tự, làm cho người thưởng lãm không mất định hướng trước điệu vũ của các con chữ. Trong bố cục, nhà ngôn pháp không quên sức mạnh của “hư không” – cái không gian trống vắng trong bức tranh -. Chính cái khoảng trống – như khoảng lặng trong âm nhạc – đưa cái hư vô đối diện với con người, làm cho con người bổng dưng rơi vào im vắng tịnh mịch. Im lặng, một nghệ thuật chiêu dụ trong thuật nói chuyện, kích thích sự chú tâm, chuẩn bị cho người nghe một sự đón nhận nôn nóng; mà nhà ngôn pháp mượn lại trong cách ngưng tĩnh đó để “nói” với người xem. Như thế, viết một bức tranh ngôn pháp hay chiêm ngắm đã trở thành một hành động tham gia, một hình thức suy tưởng để lời nói và ý nhẹ nhàng bộc lộ.

Nghệ thuật: thủ pháp của nhà ngôn pháp là mượn lại cái tính phóng túng của thiên nhiên trong phong thái bộc lộ để gợi mở cái mỹ cảm sơ nguyên cũng cơ hồ huyền ảo trong mỗi con người. Như thế, qua ngọn bút, họ phục hoạt lại cái nghệ thuật đột phá của thiên nhiên qua cái khí phách Baroque mạnh bạo, cái lã lướt, cái hờ hững trong ngôn pháp làm cho sức dẫn dụ càng thêm lôi cuốn để dễ tái tạo trong tâm người xem cái mà họ đánh mất trong lúc đi tìm – cái ngạc nhiên ban sơ ấy – Không gì kích thích bằng cái nữa kín nữa hở, thật thật hư hư, làm cho đối phương bị dục phải hạ quyết tâm khai mở: đó là biện pháp hư cấu trong ngôn pháp! Khơi dậy được cái tình cảm ngạc nhiên là đánh thức cái động năng khám phá nơi con người, thì từ đó (ở đây là người xem tranh) họ mới liễu được cái ẩn dụ mà người viết chôn chặc tự đáy lòng.

Lấy nét bút hòa cùng cái vô thường của thiên nhiên để đạt ý là cả một công phu nghệ thuật. Nhà ngôn pháp chỉ mong làm được điều ấy để xẻ chia cùng nổi niềm với người thưởng lãm.

Với họ thì…

Miếng ngon chẳng hưởng riêng mình,
Chia nhau thưởng thức, cùng nhau đượm tình.

 

Vũ Ngọc Anh

Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 5)

 

Chính sách kinh tế tự do – Chương 2

Tổ chức kinh tế

Có thể phân biệt năm hệ thống tổ chức hợp tác giữa người với người trong xã hội đặt căn bản trên sự phân công lao động: hệ thống sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, mà đến một giai đoạn phát triển nào đó ta gọi là chủ nghĩa tư bản; hệ thống sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất nhưng tài sản thỉnh thoảng lại bị tịch thu để đem phân phối lại; hệ thống công đoàn (syndicalism); hệ thống sở hữu tập thể tư liệu sản xuất, được gọi là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản và cuối cùng là hệ thống can thiệp.

Lịch sử của quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất trùng hợp với lịch sử của sự phát triển của nhân loại từ tình trạng bán khai, ăn lông ở lỗ đến những tầm cao nhất của nền văn minh hiện đại. Những người phản đối sở hữu tư nhân đã phải mất rất nhiều tâm trí để chứng minh rằng trong thời nguyên thuỷ định chế sở hữu tư nhân chưa đạt tới hình thức hoàn thiện vì một phần đất canh tác vẫn thường xuyên được mang ra chia lại. Từ luận điểm cho rằng sở hữu tư nhân chỉ là “phạm trù mang tính lịch sử”, họ cố gắng rút ra kết luận rằng một lúc nào đó có thể không cần đến nó nữa.

Sai lầm về mặt logic trong lập luận này rõ ràng đến nỗi chẳng cần phải thảo luận thêm làm gì. Sự hợp tác mang tính xã hội trong thời thượng cổ có thể tồn tại được ngay cả khi chưa có hệ thống sở hữu tư nhân hoàn bị chẳng cho ta một tí chứng cớ nào chứng tỏ rằng ở những giai đoạn phát triển cao nhất xã hội cũng không cẩn sở hữu tư nhân. Nếu lịch sử có thể chứng minh được một điều gì đó liên quan tới vấn đề này thì đấy chính là chưa ở đâu và chưa bao giờ có một dân tộc có thể thoát khỏi cảnh cơ cực và thiếu thốn chẳng khác gì súc vật mà lại không cần đến sở hữu tư nhân.

Những người phản đối hệ thống quyền sở hữu tư nhân phương tiện thời kỳ đầu không tấn công định chế sở hữu tư nhân mà chỉ tấn công sự bất bình đẳng trong việc phân phối thu nhập mà thôi. Họ đề nghị loại bỏ sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản bằng cách định kỳ phân phối lại toàn bộ hàng hoá hoặc ít nhất là phân chia lại ruộng đất, tức là phân chia lại tác nhân sản xuất duy nhất vào lúc đó. Trong những nước lạc hậu về mặt công nghệ, nơi mà sản xuất nông nghiệp thô sơ vẫn còn giữ thế thượng phong, ý tưởng về việc phân chia một cách bình đẳng tài sản như thế vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày hôm nay.

Người ta thường gọi đấy là chủ nghĩa xã hội nông nghiệp, mặc dù gọi như thế là hoàn toàn không đúng vì nó chẳng có gì chung với chủ nghĩa xã hội hết. Cách mạng Bolshevik ở Nga, bắt đầu là cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng đã không xây dựng được chủ nghĩa xã hội trong sản xuất nông nghiệp – tức là sở hữu tập thể đối với ruộng đất – mà là xây dựng chủ nghĩa xã hội nông nghiệp. Trên những khu vực rộng lớn trong phần còn lại của Đông Âu việc chia những điền trang rộng lớn cho những chủ trại nhỏ, gọi là cải cách ruộng đất, là lý tưởng được nhiều đảng chính trị có nhiều người ủng hội.

Chẳng cần phải mất thì giờ thảo luận thêm về hệ thống này làm gì. Chắc chắn năng suất lao động sẽ giảm, điều này thì khó mà cãi được. Chỉ có những nơi vẫn còn canh tác bằng những phương pháp cổ sơ nhất thì người ta mới không nhận ra sự sụt giảm năng suất lao động sau khi chia ruộng mà thôi. Ai cũng biết rằng việc chia nhỏ trang trại sản xuất sữa được trang bị máy móc hiện đại là việc làm cực kỳ vô lý. Đưa nguyên tắc chia nhau vào công nghiệp và các công ty thương mại là chuyện hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.

Đường sắt, máy cán thép, nhà máy sản xuất máy công cụ là những thứ không thể nào đem chia được. Người ta chỉ có thể định kỳ phân chia lại tài sản nếu trước đó người ta đã đập tan nền kinh tế đặt căn bản trên sự phân công lao động và thị trường tự do và trở về với nền kinh tế trang trại tự cấp tự túc, đấy là các trang trại dù sống gần nhau cũng không buôn bán với nhau.

Tư tưởng của chủ nghĩa công đoàn (syndicalism) chính là nỗ lực nhằm đưa lý tưởng phân chia đồng đều tài sản vào thời công nghiệp lớn hiện đại. Chủ nghĩa công đoàn không tìm cách giao tài sản vào tay tư nhân hay xã hội mà giao cho các công nhân đang làm trong từng lĩnh vực hoặc từng ngành công nghiệp.

Vì tỷ lệ kết hợp giữa tác nhân vật chất và tác nhân con người trong mỗi lĩnh vực sản xuất là khác nhau cho nên không thể chia đều tài sản theo cách đó. Nếu đem chia thì ngay từ đầu người công nhân trong một số ngành nghề sẽ nhận được nhiều hơn công nhân ở những ngành khác. Người ta buộc phải nghĩ tới những khó khăn chắc chắn sẽ xuất hiện vì phải thường xuyên chuyển vốn và lao động từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác. Liệu có thể rút vốn từ ngành công nghiệp này để trang bị cho ngành khác hay không?

Liệu có thể đưa người công nhân từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác, sang nơi cần ít vốn đầu tư cho một chỗ làm hay không? Việc luân chuyển như thế là bất khả thi, cho nên cộng đồng thịnh vượng chung của chủ nghĩa công đoàn là sự lố bịch hoàn toàn và hình thức tổ chức xã hội như thế là bất khả thi. Nhưng nếu chúng ta cho rằng bên cạnh các cá nhân và bên trên họ còn có chính quyền trung ương có nhiệm vụ thực hiện những sự luân chuyển như thế thì đấy không còn là chủ nghĩa công đoàn nữa mà đã là chủ nghĩa xã hội rồi. Trên thực tế, chủ nghĩa công đoàn là một lý tưởng xã hội ngớ ngẩn đến mức chỉ có những kẻ đần độn chẳng hề suy nghĩ gì mới có thể đứng ra biện hộ cho nó.

Chủ nghĩa xã hội hay là chủ nghĩa cộng sản là tổ chức xã hội, trong đó tài sản – tức là quyền sử dụng tất cả các tư liệu sản xuất đều được trao vào tay xã hội – cũng có nghĩa là trao vào tay nhà nước, trao vào tay bộ máy cưỡng bức và đàn áp. Một xã hội được coi là xã hội chủ nghĩa không phải vì lợi tức xã hội được chia đều cho mọi người hay chia theo bất cứ nguyên tắc nào khác. Cũng không phải vì chủ nghĩa xã hội xuất hiện bằng cách chuyển quyền sở hữu tất cả các tư liệu sản xuất vào tay nhà nước, tức là vào tay bộ máy cưỡng bức và đàn áp hay các chủ sở hữu tiếp tục giữ các tài sản đó và việc xã hội hoá được thực hiện bằng cách tất cả những “người chủ” phải sử dụng những phương tiện nằm trong tay họ theo những quy định của nhà nước.

Nếu nhà nước quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bán cho ai, với giá bao nhiêu thì sở hữu tư nhân chỉ còn là tên gọi; trên thực tế, toàn bộ tài sản đã bị xã hội hoá vì động cơ chính của hoạt động kinh tế của các doanh nhân và các nhà tư sản đã không còn là tìm kiếm lợi nhuận nữa, mà là phải thực hiện những nhiệm vụ mà người ta giao cho và tuân theo những mệnh lệnh mà người ta ban hành.

Cuối cùng, cần phải nói về chủ nghĩa can thiệp. Theo ý kiến của nhiều người thì đây là biện pháp trung dung giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, là phương pháp tổ chức xã hội thứ ba: hệ thống sở hữu tư nhân được điều tiết, được kiểm soát và định hướng bằng những sắc lệnh của chính quyền (những hành động can thiệp).

Hệ thống phân chia lại tài sản theo định kỳ và hệ thống của chủ nghĩa công đoàn sẽ không được thảo luận ở đây. Hai hệ thống này thường không tạo ra tranh luận. Không có ai, đấy là nói những người được coi là nghiêm túc, đứng ra bảo vệ những hệ thống này. Chúng ta chỉ cần quan tâm đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa can thiệp và chủ nghĩa tư bản.

Sở hữu tư nhân và những người phê phán nó

Cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng hạnh phúc. Trái đất không phải là thiên đường. Mặc dù đấy không phải là lỗi của các định chế xã hội nhưng người ta lại có thói quen đổ trách nhiệm cho nó. Cơ sở của tất cả các nền văn minh, kể cả nền văn minh của chúng ta, là sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Vì vậy mà bất cứ người nào muốn chỉ trích nền văn minh hiện đại cũng đều bắt đầu bằng việc chỉ trích sở hữu tư nhân. Người phê phán có thể lên án tất cả những gì làm anh ta không vừa ý, đặc biệt là những cái xấu xa có nguồn gốc từ sự kiện là sở hữu tư nhân đã cản trở và trong một số lĩnh vực ngăn chặn, làm cho tiềm năng của xã hội không thể phát huy một cách trọn vẹn được.

Phương pháp mà những người phê phán hay dùng là nói rằng mọi thứ sẽ tuyệt vời đến mức nào nếu anh ta được làm theo cách của mình. Trong những giấc mơ của mình anh ta thường giết chết hết những ý tưởng đối lập với ý tưởng của anh ta, bằng cách đưa anh ta hay là một người nào đó có ý tưởng giống hệt như anh ta lên địa vị chủ nhân ông tuyệt đối của thế giới. Bất cứ người nào thuyết pháp về quyền lực của kẻ mạnh cũng tự coi mình là kẻ mạnh cả. Còn người nào ủng hộ chế độ nô lệ thì không bao giờ thử mường tượng mình cũng có thể rơi vào tình trạng nô lệ.

Người đòi hỏi hạn chế quyền tự do lương tâm thực ra chỉ hạn chế người khác chứ không hạn chế chính mình. Người ủng hộ chế độ chính trị đầu sỏ bao giờ cũng nghĩ rằng mình thuộc nhóm đầu sỏ, còn kẻ cảm thấy đê mê khi nghĩ đến chế độ chuyên chế hay độc tài thông thái thì trong những giấc mơ giữa ban ngày như thế, hắn sẽ chẳng cần khiêm tốn để không giao cho mình vai trò của kẻ chuyên chế hay nhà độc tài thông thái, hoặc chí ít thì cũng là kẻ chuyên chế đứng trên một kẻ chuyên chế khác, độc tài đứng trên một nhà độc tài khác.

Chính vì không có ai muốn thấy mình ở địa vị của kẻ yếu hơn, của kẻ bị áp bức, của kẻ bị khuất phục, của kẻ bị trị, bị tước hết quyền lợi; cho nên trong chủ nghĩa xã hội ai cũng chỉ muốn làm tồng giám đốc hoặc là thày dùi cho tổng giám đốc. Đấy là cuộc đời duy nhất đáng sống trong những giấc mơ và trong trí tưởng tượng về chủ nghĩa xã hội của họ.

Sách báo bài tư bản đã tạo ra khuôn mẫu cho trí tưởng tượng của những kẻ mộng mơ bằng cách lợi dụng quan niệm thường thấy về mâu thuẫn giữa lợi ích và năng suất. Trong suy nghĩ của họ, những chuyện xảy ra trong chủ nghĩa tư bản trái ngược với – đấy là theo ước muốn của những người phê phán – những điều sẽ được thực hiện trong chế độ xã hội chủ nghĩa lý tưởng. Tất cả những gì lệch khỏi hình ảnh lý tưởng này đều được coi là vô ích. Lợi ích lớn nhất của những cá nhân riêng biệt và năng suất lao động cao nhất của xã hội không phải lúc nào cũng trùng hợp với nhau. Và đấy được coi là khuyết tật nghiêm trọng nhất của hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Chỉ trong mấy năm gần đây người ta mới nhận thức được rằng trong phần lớn các trường hợp, xã hội xã hội chủ nghĩa cũng phải hành động chẳng khác gì các cá nhân riêng lẻ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng ngay cả trong những trường hợp mà mâu thuẫn như thế quả thật là có thì ta cũng không thể giả định rằng xã hội xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ làm đúng và xã hội tư bản bao giờ cũng đáng phê phán nếu nó làm một cái gì đó khác đi. Khái niệm năng suất là một khái niệm có tính chủ quan và không thể là xuất phát điểm cho việc phê phán mang tính khách quan được.

Như vậy là, chẳng nên mất thì giờ với suy tưởng của những kẻ mộng mơ-độc tài của chúng ta mà làm gì. Trong ảo mộng của hắn ta, mọi người đều nóng lòng, đều sẵn sàng thực hiện ngay lập tức và chính xác mệnh lệnh của hắn. Nhưng trong chủ nghĩa xã hội sự vật sẽ hiện ra như thế nào, đấy là nói trên thực tế chứ không phải trong tưởng tượng, lại là vấn đề hoàn toàn khác. Các tính toán thống kê đơn giản chứng minh rằng giả định cho rằng việc phân phối một cách đồng đều tổng sản phẩm hàng năm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cho tất cả các thành viên trong xã hội sẽ đảm bảo đủ sống cho mỗi người là giả định hoàn toàn sai.

Như vậy là, xã hội xã hội chủ nghĩa khó mà có thể gia tăng được mức sống của quảng đại quần chúng. Hi vọng có một cuộc sống thịnh vượng, thậm chí giàu có cho tất cả mọi người chỉ có thể trở thành hiện thực nếu năng suất lao động trong chế độ xã hội chủ nghĩa cao hơn năng suất lao động trong chủ nghĩa tư bản và hệ thống xã hội chủ nghĩa có thể tránh được những việc chi tiêu lãng phí, cũng có nghĩa là tránh được những chi phí vô ích.

Về điểm thứ hai, có người nghĩ đến việc bãi bỏ những chi phí liên quan đến việc tiêu thụ, cạnh tranh và quảng cáo sản phẩm. Rõ ràng là trong chủ nghĩa xã hội sẽ không còn những chi tiêu như thế nữa. Nhưng không được quên rằng bộ máy phân phối xã hội chủ nghĩa cũng sẽ có chi phí không phải là nhỏ, thậm chí còn lớn hơn là bộ máy trong chủ nghĩa tư bản nữa. Nhưng đấy không phải là vấn đề quyết định trong việc thảo luận của chúng ta về tầm quan trọng của những chi phí như thế. Những người xã hội chủ nghĩa giả định, thậm chi coi là đương nhiên rằng năng suất lao động trong chủ nghĩa xã hội ít nhất cũng bằng chủ nghĩa tư bản, và cố gắng chứng minh rằng năng suất lao động sẽ cao hơn.

Nhưng giả định đầu tiên không thể là chuyện dĩ nhiên như những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội vẫn nghĩ. Số lượng sản phẩm được sản xuất trong xã hội tư bản không phải là không phụ thuộc vào cách thức tổ chức quá trình sản xuất. Điều quan trọng là tại mỗi giai đoạn trong từng lĩnh vực sản xuất mỗi người tham gia đều đặc biệt quan tâm tới năng suất lao động của phần lao động cụ thể mà mình đóng góp. Mỗi người công nhân đều cố gắng hết sức vì tiền lương phụ thuộc vào kết quả lao động của anh ta, và mỗi doanh nhân đều cố gắng sản xuất với giá thành rẻ hơn, nghĩa là với chi phí về lao động và tư bản thấp hơn người cạnh tranh với anh ta.

Chỉ nhờ những động cơ như thế mà chủ nghĩa tư bản mới có thể sản xuất được số lượng tải sản mà nó đang nắm trong tay. Phê phán những chi phí quá cao của bộ máy tiêu thụ tư bản chủ nghĩa là quan điểm thiển cận. Những người phê phán chủ nghĩa tư bản là phung phí nguồn lực vì họ thấy trên những đường phố sầm uất có quá nhiều người bán đồ lót cạnh tranh với nhau và thậm chí người bán thuốc lá còn nhiều hơn nữa, là những người không nhận thức được rằng việc tổ chức buôn bán như thế chỉ là kết quả của cơ chế sản xuất bảo đảm cho năng suất lao động cao nhất mà thôi.

Sản xuất đã đạt được tất cả những tiến bộ như thế là vì bản chất của cơ chế này là liên tục tạo ra tiến bộ. Chỉ nhờ sự kiện là tất cả các doanh nhân đều phải liên tục cạnh tranh và liên tục bị đẩy ra khỏi thương trường một cách không thương tiếc nếu họ không sản xuất một cách có lợi nhất mà các phương pháp sản xuất mới thường xuyên được cải tiến và hoàn thiện. Nếu động cơ đó không còn thì tiến bộ trong sản xuất cũng không còn và người ta cũng không còn tiết kiệm chi phí nữa. Cho nên câu hỏi sẽ tiết kiệm được bao nhiêu nếu không còn quảng cáo là một câu hỏi hoàn toàn phi lý. Người ta nên hỏi sẽ sản xuất được bao nhiêu nếu không còn cạnh tranh nữa. Câu trả lời chắc chắn là đã rõ.

Tay làm hàm nhai, nghĩa là người ta chỉ có thể tiêu dùng những thứ mà mình làm ra. Đặc điểm căn bản của hệ thống tư bản chủ nghĩa là nó tạo cho mỗi người động lực thực hiện công việc của mình một cách hiệu quả nhất và như vậy cũng có nghĩa là có năng suất cao nhất. Trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mối liên hệ trực tiếp giữa lao động của cá nhân với những món hàng và dịch vụ mà anh ta có thể được hưởng rõ ràng là không tồn tại. Động cơ lao động sẽ không phải là khả năng hưởng thụ thành quả lao động của mình mà là mệnh lệnh của chính quyền và tinh thần trách nhiệm của chính mình. Lý  lẽ chứng tỏ rằng cách tổ chức lao động như thế là việc làm bất khả thi sẽ được trình bày trong chương sau.

Sự kiện thường xuyên bị người ta đem ra phê phán là trong hệ thống tư bản chủ nghĩa những người chủ sở hữu tư liệu sản xuất bao giờ cũng là những kẻ có đặc quyền đặc lợi. Họ có thể sống mà chẳng cần làm. Nếu xem xét chế độ xã hội từ quan điểm cá nhân chủ nghĩa thì ta phải công nhận rằng đây đúng là khuyết tật nghiêm trọng của chủ nghĩa tư bản.

Tại sao người này lại có địa vị thuận lợi hơn người kia? Nhưng nếu ta không xem xét các sự vật từ quan điểm của một cá nhân riêng biệt mà từ quan điểm của toàn bộ trật tự xã hội thì ta sẽ thấy rằng người nắm giữ tài sản sẽ chỉ giữ được địa vị của mình với điều kiện là anh ta phải cung cấp những dịch vụ cục kỳ cần thiết đối với xã hội. Nhà tư bản chỉ có thể giữ được địa vị của mình với điều kiện là anh ta phải đưa những tư liệu sản xuất đó vào trong những lĩnh vực quan trọng nhất đối với xã hội.

Nếu anh ta không làm được như thế – nếu anh ta đầu tư sai lầm – anh ta sẽ bị lỗ và nếu anh ta không kịp thời sửa chữa sai lầm thì chẳng bao lâu sau anh ta sẽ bị đẩy ra khỏi vị trí thuận lợi của mình. Anh ta sẽ không còn là nhà tư sản nữa, những người khác, tức là những người phù hợp hơn sẽ chiếm được vị trí của anh ta. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất bao giờ cũng nằm trong tay những người phù hợp nhất, và dù muốn dù không họ cũng phải thường xuyên lo lắng nhằm sử dụng các phương tiện đó sao cho chúng có thể mang lại hiệu quả cao nhất.

Tư hữu và chính phủ

Tất cả các nhà cầm quyền, tất cả các chính phủ, vua chúa và các chính quyền cộng hoà, đều có thái độ nghi ngờ sở hữu tư nhân. Tất cả các chính quyền đều có xu hướng không chịu công nhận bất kỳ giới hạn nào đối với hoạt động của mình và đều muốn khuyếch trương lĩnh vực cai trị của mình ra càng rộng càng tốt. Quản lý tất, không để cho bất cứ thứ gì có thể tự ý xảy ra mà không có sự can thiệp của chính quyền – đấy là mục tiêu mà tất cả những người có quyền đều bí mật hướng tới.

Nếu như không có sở hữu tư nhân ngáng đường! Sở hữu tư nhân tạo ra cho người ta lĩnh vực mà ở đó người ta có thể sống độc lập với nhà nước. Nó tạo ra giới hạn cho việc thực thi ý chí của chính quyền. Nó tạo điều kiện cho những lực lượng khác xuất hiện bên cạnh và hoạt động đối lập với chính quyền. Như vậy là, sở hữu tư nhân trở thành nền tảng của tất cả những hoạt động độc lập với sự can thiệp mang tính bạo lực từ phía nhà nước. Đấy là mảnh đất ươm mầm hạt giống của tự do và là nơi cung cấp dưỡng chất cho sự độc lập của các cá nhân cũng như sự phát triển, cả về vật chất lẫn tinh thần, của xã hội nói chung.

Người ta thậm chí còn gọi sở hữu tư nhân là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của cá nhân là theo nghĩa như thế. Nhưng câu nói đó chỉ có thể được chấp nhận với những sự dè dặt nhất định vì sự đối lập giữa cá nhân và tập thể, giữa các tư tưởng và mục đích mang tính cá nhân và mang tính tập thể, đã trở thành những quan điểm lỗi thời rổng tuếch.

Như vậy nghĩa là chẳng bao giờ có lực lượng chính trị nào chịu tự nguyện từ bỏ thói quen cản trở sự phát triển và hoạt động của định chế sở hữu tư nhân đối với các tư liệu sản xuất. Các chính phủ chịu đựng sở hữu tư nhân khi họ buộc phải làm như thế, nhưng họ không tự nguyện công nhận tính tất yếu của nó. Ngay cả các chính khách theo đường lối tự do sau khi giành được quyền lực, dù ít dù nhiều, cũng thường tìm cách đẩy những nguyên tắc tự do xuống hàng thứ yếu.

Xu hướng áp đặt những hạn chế mang tính áp bức đối với sở hữu tư nhân, lạm dụng quyền lực chính trị, không chịu tôn trọng hay công nhận bất kỳ lĩnh vực tự do nào – bên ngoài sự chi phối của nhà nước – đã bén rễ rất sâu vào trong tâm trí của những người nắm quyền kiểm soát bộ máy cưỡng bức và đàn áp, không bao giờ họ có thể tự nguyện chống lại được cám dỗ như thế. Chính phủ tự do là chính phủ contradictio in adjecto [mang trong mình nó mâu thuẫn nội tại – tiếng Latinh, ND]. Do áp lực của dư luận của toàn dân mà các chính phủ phải chấp nhận chủ nghĩa tự do, chính phủ tự nguyện trở thành chính phủ tư do là hi vọng viển vông.

Điều gì buộc những người cai trị phải công nhận quyền sở hữu của các thần dân của họ? Không khó hiểu nếu đấy là một xã hội gồm toàn những điền chủ giàu có như nhau. Trong chế độ xã hội như thế, bất kỳ nỗ lực nào nhằm hạn chế quyền sở hữu đều sẽ gặp phải sự phản đối tức thời của tất cả các thần dân và chính phủ sẽ bị đổ. Nhưng tình hình sẽ khác hẳn nếu đấy không phải là xã hội thuần nông mà có cả sản xuất công nghiệp nữa, đặc biệt là nếu có các doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp bỏ nhiều vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp, khai khoáng và thương mại.

Trong xã hội như thế, những người nắm quyền trong chính phủ có thể dễ dàng thực hiện những hành động nhằm chống lại sở hữu tư nhân. Trên thực tế, tấn công vào sở hữu tư nhân bao giờ cũng mang lại cho chính phủ nhiều thuận lợi hơn cả – rất dễ dàng kích động quần chúng đứng lên chống lại những người có nhiều đất đai và tư bản. Vì vậy mà liên kết với “nhân dân” nhằm chống lại giai cấp có của đã và vẫn là tư tưởng của tất cả các vua chúa, của tất cả những nhà độc tài và bạo chúa từ xưa đến nay.

Đế chế thứ hai của Louis Napoleon không chỉ là chế độ được xây dựng trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Caesar. Nhà nước độc tài của dòng họ Hohenzollerns ở Phổ cũng nắm lấy tư tưởng về việc giành sự ủng hộ của giai cấp công nhân trong cuộc chiến chống lại giai cấp tư sản tự do bằng chính sách của chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa can thiệp do Lassalle đưa vào nền chính trị Đức trong cuộc đấu tranh hiến pháp ở Phổ. Đấy chính là nguyên tắc căn bản của “chế độ quân chủ xã hội”, một chế độ được Schmoller và trường phái của ông ta hết sức tán dương.

Tuy nhiên, bất chấp tất cả những sự ngược đãi như thế, định chế sở hữu tư nhân vẫn tiếp tục tồn tại. Cả sự tức giận của chính phủ, cả những chiến dịch đầy thù hận của những nhà văn và những nhà đạo đức học, của nhà thờ và các tôn giáo lẫn sự oán hờn của quần chúng – có nguồn gốc từ sự ghen tức mang tính bản năng – đều không thể tiêu diệt được nó. Mọi cố gắng nhằm thay nó bằng phương pháp tổ chức sản xuất và phân phối khác đều nhanh chóng chứng tỏ rằng đấy là việc làm phi lý và bất khả thi. Người ta buộc phải công nhận rằng định chế sở hữu tư nhân là định chế tối cần thiết và dù muốn dù không, người ta phải quay về với nó.

Tuy nhiên, cho đến nay người ta vẫn không chịu hiểu rằng lý do của việc quay trở lại với định chế sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất là: về nguyên tắc đấy là nền tảng của hệ thống kinh tế nhằm phục vụ các nhu cầu và mục đích của con người. Người ta vẫn không thể giải thoát khỏi hệ tư tưởng đã bám vào đầu óc họ, mà cụ thể là tin rằng sở hữu tư nhân là cái ác mà ta phải chấp nhận cho đến khi nhân loại đủ trưởng thành về mặt đạo đức. Mặc dù chính phủ – trái ngược với những dự định và xu hướng của mọi trung tâm quyền lực – chấp nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân, nhưng họ vẫn tiếp tục bám chặt vào (không chỉ bằng biểu hiện bên ngoài mà cả trong suy nghĩ) hệ tư tưởng thù địch với quyền tư hữu. Thực ra, họ cho rằng về nguyên tắc phản đối sở hữu tư nhân là đúng và chỉ vì yếu đuồi hoặc phải tính đến quyền lợi của những nhóm có nhiều ảnh hưởng mà họ phải đi chệch khỏi nguyên tắc này mà thôi.

Chủ nghĩa xã hội là bất khả thi

Người ta thường nghĩ rằng chủ nghĩa xã hội là bất khả thi vì dân chúng chưa có những phẩm chất mà chủ nghĩa xã hội yêu cầu. Người ta sợ rằng trong chủ nghĩa xã hội phần đông sẽ không nhiệt tình thực hiện trách nhiệm và công việc như họ đã từng thể hiện trong những công việc hàng ngày trong chế độ dựa trên quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong xã hội tư bản mỗi người đều biết rằng làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, thu nhập tỷ lệ thuận với thành quả lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người đều nghĩ rằng hiệu suất lao động của anh ta chẳng có giá trị bao nhiêu vì đằng nào thì anh ta cũng được chia một phần nhất định rồi, còn sự lười nhác của bất kỳ người nào cũng chẳng làm cho tổng tài sản giảm đáng kể được. Đáng sợ là đấy sẽ là nhận thức chung của tất cả mọi người và năng suất lao động của chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ giảm đi trông thấy.

Sự phản đối chống lại chủ nghĩa xã hội như vậy là hoàn toàn có lý, nhưng nó không đi vào thực chất của vấn đề. Nếu trong chế độ xã hội chủ nghĩa ta có thể xác định được thành quả lao động của mỗi người với độ chính xác như việc hạch toán kinh tế trong hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm thì tính khả thi của chủ nghĩa xã hội sẽ không phụ thuộc vào lòng tốt của bất cứ người nào. Ít nhất xã hội cũng có thể, trên cơ sở đóng góp của mỗi người, xác định được phần sẽ chia cho người đó. Chủ nghĩa xã hội bất khả thi chính vì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được hạch toán kinh tế như thế.

Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, tính toán lợi nhuận sẽ cho người ta biết rằng xí nghiệp mà người đó đang vận hành có nên hoạt động nữa hay không, và nó có hoạt động hữu hiệu nhất hay không, nghĩa là có hoạt động với chi phí sản xuất thấp nhất hay không. Nếu không có lãi thì nghĩa là nguyên vật liệu, bán thành phẩm và lao động cần dùng ở đó có thể được các xí nghiệp khác sử dụng cho những mục đích cấp bách hơn và cần thiết hơn, đấy là nói theo quan điểm của người tiêu dùng, hoặc sử dụng cho những mục đích đó nhưng tiết kiệm hơn (nghĩa là với chi phí thấp hơn về lao động và tư bản). Thí dụ như việc dệt vải thủ công đã không có lãi nữa. Điều đó chứng tỏ rằng vốn và lao động được sử dụng trong ngành công nghiệp dệt tạo ra nhiều sản phẩm hơn và cũng có nghĩa là sẽ không kinh tế nếu cứ bám lấy ngành sản xuất với cùng đồng vốn và lao động nhưng lại tạo ra ít sản phẩm hơn.

Người ta có thể tính toán trước xem một nhà máy sắp được xây dựng có mang lại lợi nhuận hay không và mang lại bằng cách nào. Thí dụ nếu người ta có ý định xây dựng một tuyến đường sắt thì người ta có thể đánh giá số lượng hàng hoá và hành khách cần vận chuyển, giá vé, để tính toán xem có nên đầu tư vốn và lao động vào tuyến đường đó hay không. Nếu kết quả tính toán cho thấy tuyến đường được dự kiến không mang lại lợi nhuận có nghĩa là vốn và lao động nên được đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết hơn cho xã hội. Thế giới chưa giàu có tới mức có thể cho phép người ta chi tiêu những khoản như thế. Nhưng tính toán giá thành và lợi nhuận có giá trị quyết định không chỉ khi giải quyết vấn đề khởi sự một công việc mới mà nó còn kiểm soát mỗi bước đi của doanh nhân trong quá trình điều hành công việc làm ăn của mình.

Hạch toán kinh tế tư bản chủ nghĩa – chỉ có nó mới có thể làm cho việc sản xuất trở thành hữu lý – là tính toán bằng tiền. Chỉ vì rằng giá của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ trên thị trường đều có thể quy thành tiền cho nên các loại hàng hoá và dịch vụ này – dù chúng có khác biệt nhau đến đâu – cũng có thể đưa vào những tính toán đòi hỏi những đơn vị đo lường đồng nhất. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nơi tất cả các tư liệu sản xuất đều là sở hữu toàn dân, nơi, vì vậy mà không có thị trường, không có sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra, cho nên không thể quy được giá trị hàng hoá và dịch vụ cao cấp thành tiền. Như vậy nghĩa là xã hội đó không có phương tiện quản lý hữu lý các xí nghiệp tức là không thể hạch toán kinh tế. Hạch toán kinh tế sẽ không thể thực hiện được nếu tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ không thể quy về một mẫu số chung.

Xin xem xét một trường hợp đơn giản nhất. Đường sắt nối A với B có thể được xây dựng theo những tuyến khác nhau. Giả sử giữa A và B có một ngọn núi. Có thể xây dựng tuyến đường trèo lên núi, đi vòng quanh núi hoặc theo đường hầm xuyên qua lòng núi. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa tính xem đoạn đường nào có lợi nhất là việc cực kỳ đơn giản. Người ta sẽ xác định giá thành xây dựng của mỗi đoạn đường và sự chênh lệch về chi phí trong quá trình khai thác trên mỗi cung đường. Từ những tính toán như thế sẽ dễ dàng xác định cung đường nào có lợi nhất. Nhưng chủ nghĩa xã hội lại không thể tính toán được. Vì nó không đưa tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau mà ta cần phải hạch toán vào một đơn vị đo lường thống nhất.

Chủ nghĩa xã hội sẽ trở thành bất lực trước những vấn đề quản lý kinh tế diễn ra thường xuyên, hàng ngày, vì nó không thể hạch toán được. Hiện nay chúng ta có được sự thịnh vượng đủ sức nuôi được nhiều người hơn thời tiền tư bản chính là vì phương pháp tư bản chủ nghĩa bao gồm một loạt quá trình sản xuất gắn bó với nhau và để có thể hoạt động được thì lại cần phải hạch toán bằng tiền. Chủ nghĩa xã hội không thể làm được như thế. Những người cầm bút theo đường lối xã hội chủ nghĩa chỉ mất công toi khi tìm cách chứng minh rằng có thể quản lý được sản xuất mà không cần hạch toán về chi phí và giá thành. Tất cả những cố gắng của họ trong lĩnh vực này đều sẽ thất bại..

Như vậy là những người cầm quyền trong chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ phải đối mặt với một vấn đề mà họ sẽ không thể nào giải quyết được. Không thể nào xác định được trong vô vàn phương án hành động phương án nào sẽ hữu lý nhất. Sự hỗn loạn trong lĩnh vực kinh tế chắc chắn sẽ dẫn đến hiện tượng nghèo khổ một cách toàn diện và không thể đảo ngược được và sẽ thoái hoá trở lại tình trạng bán khai mà tổ tiên ta từng sống.

Lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nếu được thưc thi đến cùng, sẽ dẫn đến một trật tự xã hội trong đó tất cả các tư liệu sản xuất sẽ nằm trong tay toàn thể nhân dân. Quá trình sản xuất sẽ nằm hoàn toàn trong tay chính phủ, trong tay trung tâm quyền lực của xã hội. Chính phủ sẽ một mình quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối hàng hoá như thế nào. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tương lai như thế được dựng lên bằng con đường dân chủ hay bằng những con đường khác cũng chẳng tạo ra sự khác biệt nào. Ngay cả nhà nước xã hội dân chủ cũng phải thiết lập một bộ máy quan liêu được tổ chức một cách chặt chẽ, trong đó mỗi người, trừ những quan chức cao cấp nhất, đều là một nhân viên của bộ máy, có trách nhiệm thực thi vô điều kiện các chỉ thị của chính quyền trung ương, dù rằng anh ta, với vai trò của một cử tri, có thể tham gia vào việc soạn thảo ra các chỉ thị như thế.

Xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa kiểu như thế khác hẳn với những xí nghiệp quốc doanh mà chúng ta thấy ở châu Âu, đặc biệt là ở Đức và Nga, trong mấy chục năm gần đây [Ý nói nước Nga trong giai đoạn kinh tế mới (NEP) – chú thích của bản tiếng Nga – ND]. Tất cả các xí nghiệp này đều phát triển bên cạnh những xí nghiệp với sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Các xí nghiệp này giao dịch với những xí nghiệp do các nhà tư sản nắm và quản lý và họ nhận được từ những xí nghiệp như thế những động lực khác nhau nhằm củng cố cho hoạt động của mình. Thí dụ như đường sắt quốc doanh được những nhà sản xuất đầu máy, sản xuất toa xe, sản xuất thiết bị truyền tín hiệu và những máy móc, cung cấp những thiết bị từng được sử dụng trên những tuyến đường nằm trong tay tư nhân. Như vậy là, xí nghiệp quốc doanh được khuyến khích cải tiến để theo kịp về mặt công nghệ và phương pháp quản lý kinh doanh đang diễn ra xung quanh.

Mọi người đều biết rằng các xí nghiệp quốc doanh và xí nghiệp địa phương nói chung đều thất bại: chúng vừa đắt vừa thiếu hiệu năng, phải lấy thuế ra để trợ cấp thì chúng mới tiếp tục hoạt động được. Dĩ nhiên là trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước nắm vị thế độc quyền – thí dụ như phương tiện giao thông công cộng, chiếu sáng, nhà máy điện – thì sự thiếu hiệu quả không phải bao giờ cũng được thể hiện dưới dạng thiệt hại về tài chính có thể nhìn thấy được. Trong một số hoàn cảnh người ta còn có thể che dấu bằng cách để cho doanh nghiệp độc quyền nâng giá sản phẩm và dịch vụ của nó lên cao đến mức có thể làm cho doanh nghiệp có lời mặc dù việc quản lý nó có phi kinh tế đến mức nào. Phương pháp sản xuất xã hội chủ nghĩa có năng suất lao động thấp, nhưng được biểu hiện theo một cách khác và khó nhận ra hơn. Nhưng bản chất vấn đề thì vẫn thế.

Không có một thí nghiệm về quản lý xí nghiệp theo lối xã hội chủ nghĩa nào có thể cung cấp cho chúng ta bất cứ cơ sở nào để nói rằng điều gì sẽ xảy ra nếu lý tưởng xã hội chủ nghĩa về sở hữu tập thể tất cả các tư liệu sản xuất trở thành biện thực. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai, nơi không còn chỗ cho các doanh nghiệp tư nhân tự do hoạt động bên cạnh các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và do nhà nước quản lí, cơ quan lập kế hoạch ở trung ương sẽ không còn tiêu chuẩn đánh giá toàn bộ nền kinh tế do thị trường và giá cả thị trường cung cấp nữa.

Trên thị trường, nơi tất cả hàng hoá và dịch vụ được mang ra trao đổi, có thể xác định được tỷ lệ đổi chác (được tính bằng tiền) cho tất cả những thứ được đem ra bán và mua. Như vậy là, trong chế độ xã hội đặt nền tảng trên sở hữu tư nhân người ta có thể sử dụng hạch toán bằng tiền để kiểm tra kết quả của tất cả các hoạt động kinh tế. Có thể dùng các phương pháp kế toán và tính giá thành để xác định năng suất lao động của tất cả các giao dịch kinh tế. Cần phải chỉ ra rằng doanh nghiệp nhà nước không thể sử dụng phương pháp tính toán giá thành như các doanh nghiệp tư nhân vẫn làm.

Tuy nhiên, tính toán bằng tiền vẫn có thể cung cấp cho xí nghiệp của nhà nước hay xí nghiệp tập thể một số cơ sở để kết luận rằng doanh nghiệp đã thành công hay thất bại. Nhưng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa toàn triệt, điều đó sẽ không thể xảy ra được vì không còn sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất thì sẽ không còn trao đổi hàng hoá tư bản trên thị trường, và như vậy là không còn giá trị tính bằng tiền và không còn tính toán bằng tiền nữa. Vì vậy mà ban lãnh đạo chế độ xã hội chủ nghĩa toàn triệt sẽ không còn phương tiện để quy tất cả những món hàng khác nhau mà họ có ý định sản xuất về một mẫu số chung được nữa.

Tính toán chi phí bằng hiện vật và so sánh với tiết kiệm bằng hiện vật cũng không giúp ích được gì. Không thể tính toán được nếu không đưa được số giờ lao động có chất lượng khác nhau, không đưa được sắt, than đá, vật liệu xây dựng, máy móc và tất cả những thứ cần thiết khác cho hoạt động và quản lý doanh nghiệp về cùng một đơn vị đo lường. Chỉ có thể tính toán được khi ta có thể đưa được tất cả các hàng hoá đang xem xét về cùng đơn vị tiền tệ mà thôi. Dĩ nhiên là tính toán bằng tiền cũng có những khuyết tật và hạn chế, nhưng ta không có gì thay thế cho nó cả. Khi hệ thống tiền tệ còn vững chắc thì tính toán bằng tiền là đủ đáp ứng được những mục đích thực tiễn của cuộc sống rồi. Nếu chúng ta bỏ cách đánh giá bằng tiền thì ta sẽ không thể thực hiện được bất kỳ tính toán kinh tế nào.

Đấy là lý lẽ quyết định mà khoa kinh tế học đưa ra nhằm phản bác lại chủ nghĩa xã hội. Xã hội này sẽ phải từ bỏ việc phân hữu trí thức của lao động, được thể hiện trong sự hợp tác của tất cả các doanh nhân, địa chủ, và người lao động – tức là người sản xuất và người tiêu thụ – trong việc hình thành giá cả thị trường. Nhưng không có nó thì tính hữu lý, tức là việc tính toán kinh tế sẽ trở thành bất khả thi.

 

Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

Vấn đề lớn nhất của Hy Lạp là văn hóa bài xích chủ nghĩa tư bản

Hiện nay chỉ trích văn hóa bị coi là không thích hợp về mặt chính trị, nhưng cho dù sử dụng đồng Euro hay đồng drachmas (đồng tiền của Hy Lạp – ND), ở trong hay ngoài của Liên minh châu Âu, Hy Lạp thực sự cần sắp xếp lại sự rối loạn chức năng về mặt văn hóa của họ. Tôi không nói về phong tục, truyền thống, kiến ​​trúc, âm nhạc, và chắc chắn là tôi không nói về thức ăn của nước này. Tôi đang nói về não trạng bài tư bản chủ nghĩa. Những cuộc đàm phán, giao dịch, phản giao dịch, trưng cầu dân ý, biểu tình và tất cả mọi thứ, hầu như, đều có rất ít ý nghĩa nếu người Hy Lạp không bỏ tư tưởng dựa vào nhà nước và tái phát hiện chủ nghĩa tư bản đặc thù của Hy Lạp.

Ví dụ tốt nhất là Argentina. Cuộc khủng hoảng nợ nần và chủ quyền được cho là có thể đưa quốc gia trở lại định hướng thị trường, đấy là khi chủ nghĩa xã hội ô dù của nhà nước, nghiện ngập nợ nần đã mất hết uy tín. Đó là một lý thuyết rất hay. Nhưng Argentina, mười ba năm sau khi vỡ nợ vào năm 2002, và sau nhiều năm lạm phát tăng cao, thiếu ngoại tệ, và tình trạng bất ổn kinh tế, vẫn bám chặt vào những người theo chủ nghĩa xã hội thích chi tiêu, thích can thiệp và cực kỳ ngu dốt, tiếp tục đưa nền kinh tế dâm đầu xuống đất. Lý do là văn hóa nền tảng chưa thay đổi. Khi nền văn hóa sai lầm, thì trên trở thành dưới, đen trở thành trắng, thất bại của chủ nghĩa xã hội lại thành thất bại của chủ nghĩa tư bản.

Trong tác phẩm Não trạng bài tư bản chủ nghĩa (The Anti-Capitalistic Mentality), Ludwig von Mises mô tả nền văn hóa bài tư bản chủ nghĩa như sau:

Ví dụ John Doe (nhà triết học và tâm lý học người Mỹ, 1859-1952, ND) cho rằng tất cả những ngành công nghiệp mới, tức là những ngành cung cấp cho ông ta những tiện nghi mà tổ tiên ông ta không hề biết là do một cái được gọi là tiến bộ tạo ra. Tích lũy tư bản, máu làm ăn và công nghệ không có đóng góp gì cho sự hình thành một cách tự phát của sự thịnh vượng đó. Chính người công nhân làm việc trên dây chuyền sản xuất là người làm gia tăng năng suất lao động…

Các tác giả của những lời giải thích phương pháp sản xuất tư bản chủ nghĩa như thế được các trường đại học coi là những nhà triết học vĩ đại nhất và những ân nhân của nhân loại và giáo lý của họ được hàng triệu người tôn kính, mà trong nhà của những người đó, bên cạnh các tiện nghi hiện đại khác còn có cả radio và TV nữa.

Nguy cơ lớn nhất đối với Hy Lạp không phải là chính sách thắt lưng buộc bụng hay vỡ nợ hoặc đồng euro hay đồng drachma. Và chắc chắn là không phải bị doạ đưa ra khỏi thị trường tín dụng – mà đó là nền văn hóa của Hy Lạp, một nền văn hoá chống lại thị trường tự do, thị trường không bị trói buộc và một nền văn hoá chỉ muốn dựa nhà nước.

Lấy ví dụ một nước Mỹ Latin khác: Venezuela. Sau khi bị lạm phát làm cho tê liệt suốt những năm 1980 và những năm 1990, năm 1998 cử tri đã bỏ phiếu Hugo Chavez, một người theo đường lối kế hoạch hoá tập trung, sẵn sàng chấp nhận lạm phát. Trong các cuộc bầu cử năm 2000, 2006 và 2012 họ lại bỏ phiếu cho ông ta, và năm 2013 thì bỏ cho người kế nhiệm ông ta là Nicolás Maduro, thậm chí ngay cả khi đất nước đang ở trong một vòng xoáy siêu lạm phát chết người và đang dẫn nền kinh tế đến sụp đổ hoàn toàn. Vấn đề của Venezuela cuối cùng không phải là quản lý tài chính kém cỏi mà là nền văn hóa bài tư bản chủ nghĩa.

Hy Lạp thì cũng thế. Sau khi đã được giảm nợ và tái cơ cấu các khoản nợ trong vòng năm mươi năm tiếp theo với lãi suất ưu đãi – và sau khi thực sự đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2014 bằng cách cắt giảm thuế và cắt quy mô chính phủ sơ cứng và cồng kềnh – nền văn hoá độc hại của Hy Lạp lại giành được thế thượng phong và bầu lên một nhóm người theo đường lối xã hội chủ nghĩa cứng đầu, để lôi đất nước xuống bùn một lần nữa. Ở phía bên kia của bàn đàm phán cũng là những người theo đường lối kế hoạch hoá tập trung của EU, IMF và ECB cũng không thể nào giúp đỡ được nước này. Nhưng, Hy Lạp ngồi kẹt giữa hai bên tham gia đàm phán đều theo kế hoạch tập trung vì người dân của họ chỉ thích đòi hưởng thụ chứ không đòi tự do.

Hầu hết các nước gặp rắc rồi – Nhưng một số thoát ra nhanh hơn một số khác

Bất kỳ quốc gia có chủ quyền nào cũng có thể chi tiêu quá mức và gặp rắc rối về tài chính, và hầu hết đều đã gặp. Cách đây không lâu, vào năm 1976, nước Anh đã buộc phải cầu xin IMF và hy sinh chủ quyền tài chính của mình cho tổ chức đó. Nửa sau của thập niên 1970, tình hình tài chính của Anh cực kỳ lộn xộn. Năm 1971 Mỹ cũng không trả được nợ và lâm vào khủng hoảng kinh tế trong suốt những năm 1970. Nhưng cả hai nước đã thoát  ra được. Cũng như Chile, Uruguay, và Philippines sau những cuộc khủng hoảng ngân sách và tài chính trong những năm 1970 và 1980.

Nhưng một số không thoát ra được và tôi tin rằng điều đó sẽ xảy ra khi nền văn hóa dân tộc là hoặc đã trở thành chủ yếu là bài tư bản chủ nghĩa và người ta phụ thuộc vào nhà nước từ khi lọt lòng đến lúc chết. Ngoài Argentina và Venezuela, chúng ta còn thấy tình trạng bất ổn kinh tế và tài chính kéo dài sau những cuộc khủng hoảng đầy đau đớn của Zimbabwe, Ghana, Bolivia, Nigeria, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và bây giờ là các nước Nam Âu. Những quốc gia này dường như không học được gì từ những sai lầm của họ, vì dường như họ không muốn hoặc không thể xác định vị trí của bài học vì sự tù mù về trí tuệ trong môi trường văn hóa của họ.

Nhưng trên thực tế bài học khá rõ ràng. Cuộc khủng hoảng kinh tế có thể làm cho một dân tộc về cơ bản là ủng hộ chủ nghĩa tư bản (hay chủ yếu là ủng hộ chủ nghĩa tư bản) bị lạc đường hành động một cách kiên quyết và khéo léo. Nhưng sẽ không thể phục hồi nếu nền văn hóa lâm vào tình trạng bài tư bản chủ nghĩa theo kiểu trẻ con, dựa vào nhà nước và bài xích tinh thần kinh doanh năng động và tự chủ. Vì cuộc khủng hoảng có thể không làm cho quốc gia phục hồi mà còn làm cho dân tộc chìm sâu vào suy thoái hơn nữa. Chỉ có sự thay đổi về mặt văn hóa, mà đấy là kết quả của quá trình truyền bá những ý tưởng đúng đắn mới có thể làm cho Hy Lạp (và các nước khác) trở thành mảnh đất màu mỡ đủ sức chấp nhận những giải pháp thực tế. Nhu cầu truyền bá những tin tức tốt của chủ nghĩa tự do và thị trường rõ ràng là cấp bách hơn bao giờ hết.


 

Russell Lamberti là đồng sáng lập Viện Mises ở Nam Phi và là Chiến lược gia chính ở công ty tư vấn về phân tích đầu tư ETM. Ông là đồng tác giả cuốn Khi đồng tiền phá huỷ các quốc gia  (When Money Destroys Nations.)

 

Tác giả: Russell Lamberti
Dịch giả: Phạm Nguyên Trường

[THĐP Review] Bước vào thế giới của nhau [Humans of Hà Nội] – Điểm 10 cho sự toàn vẹn

0

Bước vào thế giới của nhau (Through the Windows of Life) là cuốn sách Việt Nam đầu tiên khiến tôi khóc hoài không dừng được suốt từ lúc chạm tay vào bìa sách cho đến khi buông nó xuống mặt bàn sau khi đã đọc xong trọn vẹn không sót đi một chữ và không lỡ mất một hình nào. Cuốn sách là sản phẩm của Humans of Hà Nội – fanpage được truyền cảm hứng từ Humans of New York, nơi những câu chuyện của biết bao con người được lắng nghe và chia sẻ. Tôi sẽ dành tặng cuốn sách điểm 10 trọn vẹn bởi tất cả những gì tuyệt vời nhất nó đã làm được, từ việc cho bạn đọc thấy được nỗ lực của toàn bộ thành viên nhóm Humans of Hà Nội trong việc lan tỏa những điều ý nghĩa, dễ thương cho cuộc sống này, cho đến những bài học tâm hồn sâu sắc được truyền tải qua từng câu chuyện giản đơn mà thấm đẫm sự chân thành. Tôi nhìn thấy sức mạnh, trí tuệ và lòng nhân ái ngập tràn nơi này. Thực lòng mà nói, điểm 10 vẫn là một sự giới hạn cho một kẻ đánh giá, khi xúc cảm mà cuốn sách gây nên cho họ đã vượt qua mọi rào cản của sự cân đong đo đếm. Hãy thư giãn thưa các bạn, tôi sẽ lần lượt chỉ ra những lí do dẫn tới việc “Bước vào thế giới của nhau” đạt được điểm 10 trọn vẹn ấy!

Điểm 10 đầu tiên tôi dành cho những tháng ngày nỗ lực của những người bạn trẻ đã dấn thân vào cuộc sống để kết nối với mọi người, cho mọi cố gắng của họ trong việc chạm tới được những góc khuất trong tâm hồn người khác – Đây không hề là một chuyện đơn giản chút nào! Tôi biết rằng mỗi chúng ta đều có ít nhiều những tâm tư, những điều ấp ủ cũng như chôn giấu trong lòng, chúng trở thành một phần của mỗi người và làm cho chúng ta khác biệt. Tuy nhiên, tìm ra được một người đủ tin cậy, đủ rộng mở để sẻ chia về những phần sâu thẳm của cõi hồn mình thì không phải ai cũng làm được, và việc trở nên là một kẻ khiến người khác sẵn sàng trải lòng họ cùng với nụ cười hay những giọt nước mắt lại càng là điều hiếm có. Chuyện vui vẻ, hạnh phúc thì không nói làm gì, nhưng những lời tâm sự nghe như dao cứa vào lòng giữa một đêm đen như mực cũng đã được ánh sáng của sự chân thành soi tỏ thì tôi thấy nó quá đỗi kì diệu và tuyệt vời. Cuốn sách không chỉ đơn giản là một thứ để chúng ta lật lật, đọc đọc, cười cười, rồi khóc khóc, bản thân nó là cả một câu chuyện lớn, và tôi nhìn thấy Câu chuyện về sự chữa lành ở đây!

Những thành viên của HOHN (Humans of Hà Nội) đã đạt được một thành công lớn trong việc chiến thắng chính bản thân mình để rồi đủ sức mạnh đi kết nối với những sinh mệnh khác trong đời. Có thể bạn là một người tự biết cách chơi với chính mình, tự hạnh phúc được không cần phụ thuộc vào bất kì ai, tự hàn gắn những vết thương lòng cho bản thân, nhưng bạn đã bao giờ thử vào thế “bị động” và để một kẻ qua đường với một chiếc máy ảnh và đôi lời tâm sự, hàn thuyên chữa lành cho tâm hồn mình chưa? Nó giống như là bạn đang mang trên vai một gánh nặng kinh khủng, bạn có thể bỏ nó xuống bất cứ lúc nào, nhưng bạn vẫn đi tiếp vì thẳm sâu trong tâm khảm bạn biết rằng sẽ có một thiên thần tới bên và trợ giúp.

Tôi không nói là thiên thần sẽ mang giùm bạn mớ gạch đá đó, ý tôi là thiên thần sẽ cho bạn sức mạnh để những nhọc nhằn và phiền muộn đó chuyển hóa thành những nhành hoa hay những chiếc lông vũ xinh đẹp, và bạn thì vươn mình lên như một người khổng lồ đầy trí tuệ và lòng cảm thông. HOHN là những kẻ chủ động, họ lướt qua cuộc đời bạn và bạn được làm người bị động, đôi bên làm nên một cặp âm-dương hoàn thiện. Bạn bị động giống như lúc bạn thả mình vào giấc ngủ và sáng sớm hôm sau thức dậy, bạn thấy như được tái sinh với tinh thần cũng như thể chất dạt dào năng lượng. Bạn bị động giống như một anh chàng từ Sài Gòn ra Hà Nội và để người yêu của ảnh cầm lái đi qua mọi ngõ ngách khu Phố Cổ. Cuối cùng, anh ta thấy tâm hồn mình trở nên mềm mại diệu kì và anh đã học được cách chở che người khác trong khi được họ che chở.

Điểm 10 thứ hai tôi dành cho sự phong phú của cuốn sách từ hình ảnh cho đến nội dung. Bước vào thế giới của nhau gồm có 3 chương: Yêu, Sống và Ước mơ, và dù nội dung chính là gì thì cuốn sách cũng lột tả được rất nhiều những câu chuyện khác nhau với những cung bậc cảm xúc và những góc nhìn không hề trùng lặp. Nếu có một người hướng dẫn trong đời, thì tốt hơn cả là họ hãy biết cách giúp bạn nhìn cuộc đời theo nhiều khía cạnh nhất có thể và rồi từ đó bạn tự cân nhắc để đưa ra những quyết định cuối cùng cho bản thân mình. Người thầy là thật sự là người khơi dậy được “con mắt sáng” của học trò. Và riêng trong chuyện này, tôi xin nhận HOHN làm thầy!

Chỉ tạm xét trong chương đầu tiên của cuốn sách thôi, nói về Yêu, tôi thấy được rất nhiều dạng biểu lộ của tình yêu: Vợ chồng yêu nhau, cha mẹ yêu con, chàng trai yêu cô gái dù biết nàng là đồng tính nữ, bọn con nít yêu nhau, người già yêu nhau, yêu kỉ niệm, yêu thú nuôi, yêu nghề và yêu người dù người đó không còn hít thở làn không khí của cõi trần này nữa. Và rồi khi nhận ra tất cả chỉ là biểu lộ của một trạng thái tâm hồn nào đó thì đột nhiên chúng ta trở nên bao dung hơn với mọi người, và khiêm nhường hơn để quan sát, nhìn nhận những dạng biểu lộ khác nữa. Chính sự phong phú mà cuốn sách mang lại đã dạy cho chúng ta bài học về sự cảm thông cũng như về trí tuệ để thấu tỏ sự việc và con người.

Mỗi câu chuyện, mỗi cá thể sống trên đời này đều là một biểu lộ của sự sống, sẽ thật bất công và tàn nhẫn nếu chúng ta đem nhau ra phán xét, so sánh rồi phủ nhận sự tồn tại của nhau. “Kìa, cái váy của chị đẹp quá!” Ồ, hẳn là sẽ có một cái váy xấu xí (thậm chí xấu xa) ở đâu đó! “Mày nhìn thằng B con nhà bà C nó chăm chỉ học giỏi thế kia cơ mà, còn mày thì như thế nào, có đáng xách dép cho nó không!” Chao ôi, hẳn là chẳng có chút tình thương nào khi người mẹ nhìn vào sự chây lười và kém cỏi của đứa con dựa theo định nghĩa của bà về sự giỏi giang.

Làm ơn, hỡi những bạn đang đọc những dòng này, hãy nghe tôi nói dù chỉ một lần này thôi, chúng ta đã khổ quá nhiều và cũng đi làm khổ nhau quá nhiều rồi, chỉ vì sự hạn hẹp trong tầm nhìn cá nhân đi đôi với sự hẹp hòi của lòng nhân ái. Đã đến lúc chúng ta rộng mở chính mình và nhìn ra mọi điều xinh đẹp của cuộc sống rồi. Dù là chiến tranh hay giết người cướp của, dù là đánh ghen hay lao đầu xuống sông tự vẫn, hãy nhìn đi hỡi những người có một bộ óc và một trái tim không chỉ đơn thuần là vật lí. Nếu các bạn không nhận ra được bất kì một vẻ đẹp nào trong những thứ tưởng chừng như tiêu cực và thối nát ấy, thì bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy được một cuộc đời toàn vẹn đâu, cũng như không thể nắm bắt và thấu hiểu chính bản thân mình. Vì khi thế giới bên trong bất toàn thì bức tranh bên ngoài cũng chẳng thể lành lặn. Và ngược lại, khi nhìn cuộc sống đầy những khiếm khuyết thì ắt hẳn ta cũng chẳng bao giờ dám tung hô và ôm hôn toàn bộ tâm hồn mình. Vậy đấy! Hãy làm giàu chính mình lên các bạn, chính sự phong phú và giàu có mới là tiền đề giúp con người hạnh phúc. Một kẻ thiếu thốn từ vật chất cho đến tình cảm hay trí tuệ, đều là những con người khốn khổ, suốt ngày chỉ đảo điên đi tìm kiếm, và khi không được thì tranh giành, cướp giật của nhau bằng mọi thủ đoạn tàn nhẫn. Thế giới này nhiễu loạn đủ rồi, nó cần nhiều hơn những kẻ mang trong mình sự trù phú và niềm hạnh phúc của sự tận hưởng!

Điểm 10 tiếp theo tôi hân hạnh được dành cho hình thức của cuốn sách. Kết cấu sinh động, chặt chẽ, trực quan. Mọi hình ảnh đều mang chất lượng rất tốt với góc chụp tinh tế, khơi gợi nhưng cảm xúc sâu xa trong lòng người đọc. Chữ đen nền trắng, và chữ trắng nền đen, cùng với sợi dây đánh dấu màu ghi (kết hợp giữa đen và trắng). Tôi không biết những người trình bày cuốn sách này có cố ý không khi sử dụng màu sắc như vậy. Nó nhắc tôi về sự phân cực trải đều trong mọi ngõ ngách của cuộc sống như những dòng chữ trắng nổi lên trên nền đen, và rồi khi đi tới đâu ta cũng không quên về sự hợp nhất và hài hòa tựa như sợi dây đánh dấu trang màu ghi ấy!

Ngoài việc nhắc tôi về bài học quan trọng dường như bậc nhất trong đời này thông qua hình thức trình bày của cuốn sách, thì nó còn giữ cho tôi ý tưởng về sự kết nối khi Bước vào thế giới của nhau được viết song ngữ Việt – Anh. Điều này thể hiện một sự mở rộng, vươn mình ra với thế giới, nó như một tiếng gầm của Thần Cây cất lên vang vọng khắp núi rừng kêu gọi những tinh thần thiên nhiên khác thức giấc và sẻ chia một ngày mới xinh đẹp nữa bên nhau, trước khi cưa máy và trực thăng đến dẹp đi những gốc đại thụ và những người bạn động vật quý hiếm cuối cùng. Chúng ta sẽ không bao giờ chết, nếu chúng ta còn kết nối!

Về mặt hình thức chỉ có duy nhất một điều tôi chưa hoàn toàn hài lòng, đó là những khung ảnh và khung chữ viết đều đặt trong hình chữ nhật góc cạnh. Điều này mang cho tôi cảm giác nào đó về sự chia cắt, cứng nhắc và khoảng cách, thậm chí là hơi xung đột và cực đoan – điều mà đáng ra không nên xuất hiện trong cuốn sách mang tựa đề Bước vào thế giới của nhau. Tuy nhiên, nếu chủ đích của những người biên tập là gợi lên những nguyên nhân đã thúc đẩy con người tìm đến với nhau thì tôi sẵn lòng cho tác phẩm này hàng trăm con 10 nữa!

Và điểm 10 cuối cùng tôi dành cho sự ủng hộ nhiệt tình của mọi người trong việc lan truyền những câu chuyện ý nghĩa của HOHN cũng như việc chung tay góp sức về tài chính cũng như tinh thần để cuốn sách tuyệt vời này có một ngày sinh nhật. Đây là một hành động chất chứa rất nhiều tình yêu thương khiến tôi càng thêm vững tin rằng: Nơi nào có tình yêu, nơi đó có sự sống!

Cuốn sách trông có vẻ giản dị này lại mang một sức mạnh phi thường trong việc chuyển hóa (một phần hoặc toàn bộ) tâm thức của con người, dù họ có ý thức được hay không. Đọc nó đi các bạn thân mến, để yêu Hà Nội, yêu nhau và yêu chính mình!

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

Bức thư tình của cô gái trẻ gửi người yêu

Ngày… tháng … năm …

Gửi người yêu dấu,

Anh à, hôm nay em bị sốt, đau đầu, cả người cứ run lên và em chỉ muốn khóc. Ước gì có anh ở bên, vì giọng nói của anh cho em cảm giác thật yên bình.

Lúc chiều, em đã hơi hoang mang khi cảm thấy “xao động” trước một người con trai. Có một cái gì đó gần gũi khác hơn so với bình thường anh ạ. Em vẫn đang quan sát xem cảm xúc đó có nguyên nhân từ đâu. Liệu nó có phải là từ sự cô đơn không, có phải em đang cảm thấy cô đơn để dễ dàng ngã lòng trước một người khác giới không? Hay là nó là một điều gì đó được kích hoạt? Em không biết nữa…em chưa biết…

Em không sợ yêu một người khác nữa anh ạ, em chỉ sợ phải lòng họ trong khi mình đang cảm thấy cô đơn mà thôi, như vậy tội nghiệp họ quá. Vì bây giờ em đang không có anh ở bên, nên bất kì cảm xúc bất thường nào với những người con trai khác em đều rất cẩn trọng. Em muốn tình yêu đến phải thật sự là tình yêu, chứ không phải là dạng thiếu thốn tình cảm cần một chốn dựa dẫm, dễ yếu lòng chỉ vì một chút tư tưởng hay tâm trạng được đồng cảm. Em không cần phải lặp lại dạng trải nghiệm đó nữa, em đã nếm trải nó quá đủ rồi!

Anh biết không, mỗi lúc bối rối khi cảm thấy mơ hồ về chuyện tình của chúng mình, em luôn quay vào bên trong và tự hỏi mình một câu rằng: “Em có đang yêu anh không?”. Chỉ cần trả lời được câu đó là lòng em lại an bình trở lại. Và lần nào câu trả lời cũng là “Có”. Em muốn viết cho anh thật nhiều những bài thơ tình, chúng thường ngân nga và dạt dào trong lòng em như giọng hát của những thiên thần giữa một không gian ngập tràn ánh sáng và hương thơm ngọt ngào.

Em nhớ anh nhiều lắm nhưng không hề sầu não hay bi lụy. Đôi lúc em nhìn ngắm cô gái bé nhỏ trong em nhớ anh da diết, cồn cào và cô ấy muốn khóc một ít. Cô ấy cũng dễ thương phải không anh? Nhưng em không nhớ anh theo cùng một cách như vậy. Em nhớ anh vì em yêu anh chứ không vì mong muốn anh ở bên mình. Lần đầu tiên em quan sát được cô gái yếu đuối trong em và đã hoàn toàn lắng nghe cô ấy. Cô gái không hề sai, cô ấy chỉ là một phần con người em và em sẽ yêu anh bằng tất cả những gì mình có, dù là yếu đuối hay ủy mị.

Hôm nay, em vào trang cá nhân của anh và nhìn lại những bức ảnh. Em thấy rõ sự thay đổi trên gương mặt anh qua ngày tháng, trong thần thái của anh có sự từng trải, còn ánh mắt anh thì chất chứa những suy tư. Em thương anh nhiều lắm, và cũng tự hào về anh nữa khi mỗi ngày em lại thấy anh trưởng thành và mạnh mẽ hơn dù bản thân đã phải trải qua biết bao khó nhọc và đau đớn. Chúng ta như những đứa trẻ non dại gặp nhau, cùng nhau đi qua những thử thách và cùng nhau vươn mình thật đẹp anh nhỉ. Em luôn cảm ơn anh vì mọi điều anh mang đến cho em, nó giúp em trưởng thành và hoàn thiện hơn rất nhiều. Từng ngày, từng ngày trôi qua là từng ngày thay đổi. Để rồi một lúc nào đó nhìn lại, em không còn là cô bé ngốc ngày nào nữa…Nhưng mãi là cô bé ngốc trong lòng anh!

Có hôm đi trên đường, vừa nghĩ đến anh và đưa mắt nhìn theo những gì thu hút sự chú ý của mình thì em nhìn thấy ngay chữ SKY (Bí danh của người con trai trong lá thư). Lúc đó em hạnh phúc lắm vì cảm giác như khi em gọi tên anh và anh đáp lại rằng “Ừ, anh nè, anh đang ở ngay đây với em nè!”. Em muốn gọi tên anh mãi thôi! Sẽ không bao giờ, không bao giờ em thôi ngạc nhiên vì những gì mình có được ngày hôm nay, em có cuộc đời của chính mình, em có tình yêu và em có anh, đó là những điều thật tuyệt vời!

Bỗng nhiên em thích có trải nghiệm yêu nhiều hơn 1 người cùng 1 lúc, tức là yêu ai đó nữa cùng lúc vẫn yêu anh. Em nghĩ nó sẽ rất thú vị, cảm giác như 2 chiều kích lồng vào nhau, như là không gian 2 chiều trở thành 3 chiều và rồi cứ tăng lên số chiều kích khi em yêu thêm 1 người nữa. Anh nghĩ sao về ý tưởng đó? Anh có muốn trải nghiệm đó cho chính mình không? Yêu thêm 1 người nữa khi vẫn đang yêu em? Và hai chúng ta sẽ cùng chia sẻ với nhau về trải nghiệm đó?

Em thấy mình thật may mắn vì có anh trong đời, được yêu anh, và được anh yêu thương. Nếu như tình yêu vươn đến tận chân trời thì khi em chạy đến đường chân trời đó, nó lại ở xa hơn nơi em đứng 1 đoạn nữa, và em sẽ chẳng bao giờ biết được giới hạn của tình yêu em dành cho anh. Nó cứ như mở ra đến vô cùng vậy! Nhưng điều hạnh phúc nhất đó là em có thể chia sẻ tất cả mọi điều với anh, không một chút lo lắng hay sợ hãi rằng anh sẽ phán xét em, rằng chúng ta sẽ bất đồng quan điểm rồi cãi vã nhau và rằng anh sẽ không yêu em nữa. Em biết mình sẽ luôn được anh yêu thương và lắng nghe dù những tâm tư “khác thường” của em khi nói ra có thể làm náo loạn tâm trí của nhiều người khác nếu như họ làm người yêu em.

Thôi cũng đã muộn rồi, anh ngủ đi, em sẽ hát ru cho anh và hôn thật nhẹ lên vầng trán của anh nhé, người yêu bé nhỏ! Em sẽ bảo vệ anh, sẽ cùng anh đi tới mọi nẻo đường dù là chông gai hay khó nhọc. Em yêu anh rất nhiều…Chúa ban phước lành cho anh!

[THĐP Review] Peter Pan, James Matthew Barrie – Mỗi chúng ta đều cần có Mẹ

2
  • “Thuyền trưởng, hay bọn mình bắt cóc mẹ của bọn trẻ con để đem về làm mẹ của chúng mình?”
  • “Tuyệt vời! Hook kêu lên.”

Có lẽ đây là chi tiết dễ thương, hài hước mà xúc động nhất trong truyện Peter Pan dành cho một kẻ tự nhận mình có tính cách “quái dị” và nhiều lúc cũng cần mẹ kinh lên được như tôi đây. Đọc xong cuốn truyện, tôi chẳng quá bận tâm đến cuộc phiêu lưu kỳ ảo của “cậu bé không bao giờ lớn lên” Peter ấy, tôi cũng không lấy làm ấn tượng lắm với chuyện đám cướp biển lừa được lũ trẻ lạc và rồi chúng lại bị bọn trẻ ranh bịp bợm trở lại, vì một bức tranh lớn khác đã hiện lên choáng ngợp tâm trí tôi, đó là: Ở đây toàn một lũ không có mẹ, và chúng đang đánh nhau!

Mẹ, theo định nghĩa ban đầu của tôi, là bất kỳ ai, bất kỳ điều gì mang lại cho chúng ta cảm giác được chăm sóc, thương yêu và dưỡng nuôi, mẹ cho chúng ta cảm giác như đang ở nhà – thoải mái, yên bình và an toàn tuyệt đối. Nếu những gì tôi nghĩ là đúng thì quả nhiên, tất cả nhân vật trong truyện đều là những kẻ thiếu thốn tình yêu thương trầm trọng!

Nhìn kỹ lại mới thấy, Peter đã cướp Wendy từ chính tay mẹ của cô bé để mang về làm mẹ mình (Dù rằng Wendy tình nguyện ra đi nhưng quyết định của nàng ta đã bị Peter thao túng), rồi những tên cướp biển lang thang tội nghiệp lại cướp Wendy từ tay Peter để mang về làm mẹ mình (lần này không phải thao túng, vụ cướp vẫn thành công nhờ mưu hèn kế bẩn!). Các bạn có thấy không, người ta thiếu thốn tình cảm đến mức trở nên đê tiện và phải giở món cướp giật thủ đoạn, ngay đến cả người mẹ đáng kính họ cũng đem ra tranh giành nhau. Ôi chao, đáng thương thay cho những đứa con khốn khổ! À mà không! Phải là đáng thương thay cho người mẹ mới đúng! Chao ôi!

Tôi dám cá rằng già nửa số người trên hành tình này dù có mẹ đi chăng nữa nhưng vẫn luôn sống trong sự thiếu thốn tình cảm, cần người sẻ chia và chăm sóc! Tôi không có ý đổ lỗi cho những bà mẹ không biết quan tâm con cái mình (nếu như thế thật thì cũng đáng bị đổ lỗi lắm), điều tôi muốn nói ở đây là:

“Bên trong mỗi chúng ta luôn có một đứa trẻ, chúng cần được yêu thương và dưỡng nuôi.”

Các bạn có nhận ra những lúc mình cáu kỉnh, giận dỗi khi không được làm điều mình thích, những lúc mình tham lam quá mức, đòi hỏi quá mức sự chiều chuộng, quan tâm từ người khác, những lúc mình cần được khen ngợi khi làm tốt điều gì đó rồi nhanh chóng cảm thấy tủi thân ghê gớm khi chẳng ai ngó ngàng gì đến mình cả? Đó chính là phản ứng của đứa trẻ bên trong bạn đó. Nó luôn kiếm tìm sự chú ý, sự yêu thương, sự chấp nhận từ người khác, nó huênh hoang, tự mãn, thích thể hiện, thích phiêu lưu, tự do, sáng tạo, lãnh đạo và đặc biệt, nó rất dễ bị tổn thương. Có nhiều những vết thương lòng sâu sắc và chất chồng đến mức người ta luôn khao khát tìm được một mái ấm, một người yêu, người tri kỷ, để lắng nghe, để vỗ về, để dỗ dành mỗi khi họ khóc.

Nói tới đây tôi lại nhớ đến mấy câu hát trong bài Try của Pink: “Why do we fall in love so easy? Even when it’s not right.” Vì sao ư? Vì chúng ta khổ quá rồi, có ai ngỏ lời yêu (hay chỉ mới bật đèn xanh thôi) là chúng ta đã xiêu vẹo ngay lập tức! Nhưng bi kịch thật sự đó là hai kẻ đều thiếu thốn tình cảm lại cùng lúc đòi hỏi tình yêu từ kẻ kia, và họ vẫn có cảm giác rằng mình đang cho đi tình yêu khi ở trong mối quan hệ quá đỗi nghèo nàn đó.

Nghe thật muốn phì cười vì nó chẳng khác gì hai kẻ đang cùng chết khát giữa sa mạc khô cằn, mừng rỡ gặp nhau và cùng mong kẻ khốn cùng kia tưới cho mình một ít nước. Vâng, họ sẽ được tưới nước mát thôi, nước mát trong ảo ảnh! Và rồi khi cơn khát càng ngày càng dâng cao, còn ảo ảnh thì càng lúc càng mờ nhạt, đó là lúc họ nhận ra lưỡi hái của thần chết đã kề sát cái cổ họng héo quắt của họ. Thiếu thốn lại càng thiếu thốn, cộng thêm niềm tin vào tình yêu bị sụp đổ, thêm một chút căm phẫn đớn đau, kẻ đó sẽ chết nhanh hơn bao giờ hết!

Nếu tôi được làm mẹ của lũ trẻ lang thang rồi được cướp về để làm mẹ của những tên cướp biển cũng lang thang nốt ấy, thì có lẽ tôi sẽ không làm những công việc như “bà mẹ trẻ Wendy” vẫn làm trong truyện, đó là: Hàng ngày kể chuyện Lọ Lem cho những đứa con, nhắc chúng đi ngủ rồi dém chăn cho từng đứa vào buổi tối, và khâu khâu vá vá đủ các thứ từ tất rách cho đến đầu gối quần bị thủng. Tôi, chính tôi sẽ làm một cuộc cách mạng trong sự nghiệp làm mẹ này, bằng cách dạy cho tất cả những đứa con bé bỏng cách yêu thương chính bản thân mình, cách tự đối mặt với nỗi cô đơn và những nỗi đau để biết cách an ủi, chữa lành cho chính mình.

Tóm lại tôi sẽ dạy chúng cách tự làm mẹ của chính chúng nó! Để không đứa nào phải tranh cướp tôi hay bất kỳ bà mẹ nào khác nữa, chẳng có đứa nào phải giết nhau bằng được chỉ vì nhìn thấy vẻ hợm hĩnh đáng ghét của đứa kia nữa! Chúng nó sẽ tự biết yêu thương bản thân và biết yêu thương nhau, dù cướp biển và lũ trẻ lạc đã từng là kẻ thù không đội trời chung. Sau đó ắt hẳn câu chuyện sẽ có những khung cảnh thật ngọt ngào, ấm cúng:

Thuyền trưởng Hook một tay giơ móc sắt làm móc treo mũ và quần áo cho cả nhà, tay còn lại đánh đàn tưng bừng rộn rã, trong khi Peter dạy tất cả các thủy thủ cách nhấc mình lên khỏi mặt đất để diễn cảnh “Những người Hà Lan bay” và rồi cuối cùng, Smee sẽ hát ru cho cả lũ chìm vào giấc ngủ ngon lành sau một ngày chơi bời mệt nghỉ. Thế là tôi được rảnh nợ cho đến hết đời và tha hồ có thời gian đi nghỉ mát dưỡng già ở Wonderland (không phải Neverland đâu nhé)! Hô hô hô.

Đùa chút thôi! Vậy là một người mẹ không chỉ đơn giản đẻ ra những đứa con, mà một người mẹ thật sự cần đẻ ra những người mẹ – những người kiên nhẫn, biết lắng nghe, trí tuệ sắc sảo cùng trái tim đầy nhân từ. Thế giới này cần nhiều mẹ hơn bao giờ hết, vì các bạn cứ nhìn mà xem, ngay đến mẹ Trái Đất to lớn như thế, bao dung như thế cũng chẳng đủ cho những đứa con tham lam và ngu dốt, suốt ngày chỉ thải ra ngùn ngụt những khói và tòng tọc những nước đen ngòm cho người mẹ khốn khổ xử lý, rồi khi rảnh rỗi, chan chán, cũng như lúc hóa điên lên vì lòng tham, chúng lại quay ra đâm chém anh em đồng loại và ăn thịt các anh em khác loại.

Các bạn ạ, Peter và tất cả các nhân vật khác trong truyện đều cần mẹ, chỉ trừ mẹ của Wendy, vì không ai đề cập đến rằng bà Darling có cần một người mẹ không, khi bà ấy còn đang mải mê làm một người mẹ. Nếu như ai cũng cần mẹ theo đúng nghĩa là một dòng nước mát lành, là đại dương xanh bao la và là Mặt Trăng êm dịu thì sẽ còn ai hỏi đến mẹ nữa không khi đã có bà rồi? Liệu còn bà mẹ nào khác nữa ở ngoài kia nữa không, người mà chẳng bao giờ xuất hiện bằng xương bằng thịt trước mắt ta nhưng luôn ở trong tâm hồn ta, một nơi thật gần gũi mà đôi lúc ta lại cảm thấy xa lơ xa lắc.

Ý tôi muốn nói là Người mẹ tinh thần của mỗi người. Có thể đó là Phật, là Chúa, là mẹ Quán Âm hay mẹ Mary, đối với những tín đồ sùng bái tâm linh, tôn giáo; hay có thể đó chỉ là một giọng nói khẽ khàng trong tâm khảm chúng ta, gợi lên một hình bóng thân thuộc luôn yêu thương và giúp ta bình an trước mọi giông tố cuộc đời, người mà xuất hiện trong từng lời nguyện cầu của chúng ta và ru ta đi vào giấc ngủ thanh bình, để rồi sáng hôm sau thức giấc, mọi nguyện ước đã đều được thành tựu theo cách ngọt ngào nhất.

Một đứa trẻ thiếu đi người mẹ Trái Đất sẽ vướng phải không ít khó khăn trong cuộc đời, chúng sẽ gặp ít nhiều vấn đề nào đó về sức khỏe, tâm lý hoặc sinh lý. Nhưng một đứa trẻ hoàn toàn quên mất người mẹ tinh thần của mình, chúng sẽ không bao giờ tìm về được NGÔI NHÀ thật sự của chúng. Trong lòng đứa trẻ đó sẽ luôn phảng phất cảm giác lang thang, lạc lối dù nhà cửa đề huề, gia đình đầy đủ, thường xuyên ám ảnh cảm giác bất an dù cả đời đã sống lương thiện, và đôi lúc nghĩ mình bị hoang tưởng khi trỗi lên cảm giác mất đi nguồn cội dù ngày nào cũng ba lần vái lạy bàn thờ tổ tiên.

Tôi dám khẳng định rằng, ngoài một người mẹ bằng xương bằng thịt (có thể dưới hình hài một người mẹ, người yêu, người bạn, người thầy, người tri kỷ, v.v…), chúng ta còn rất cần một người Mẹ tinh thần, một người hướng dẫn cho tâm hồn. Các bạn có bao giờ tự hỏi rằng: Điều gì đã thôi thúc Peter đi tìm một người mẹ? Ai đã nhắc cho cậu bé ý tưởng đó nếu như không phải là người mẹ tinh thần của cậu? Và ai là người “xúi bẩy” Hook đi cướp “mẹ Wendy” về cho riêng mình? Những bà mẹ sẽ mãi là những bà mẹ, luôn thấu hiểu đứa con bé bỏng tội nghiệp của mình và giúp nó đi tới để đạt được điều mà nó cần, điều tốt nhất cho nó. Chẳng phải Peter và Hook đều cần Mẹ đó sao?

Nhắc đến Mẹ không thể không nhắc đến cha, vì bản chất cuốn truyện này đã sặc mùi nhị nguyên. Ấy thế mà tôi lại chẳng thấy hình ảnh người cha ở đâu cả, cho dù Peter có giả vờ làm cha đi chăng nữa, cậu ta chẳng hiểu cái cóc khô gì cả! Quên cha đi, tôi chỉ đang thấy hàng núi phân cực và những sự chia rẽ trải đều khắp truyện.

Điển hình dễ nhìn thấy nhất là cuộc chiến giữa Peter và Hook, giữa những đứa trẻ và những tên cướp biển, giữa sự ngây thơ trong sáng và sự xảo trá đen tối. Nhưng ôi chao, bản thân sự phân cực này đã đầy đau đớn hơn rất nhiều lần cuộc chiến tranh mà hai phe gây nên với nhau rồi. Bi kịch nhất là khi cả nhân loại đều đứng về phe Peter cùng đồng bọn và hả hê, mãn nguyện khi nhìn thấy Hook cùng những người đồng nghiệp bị giết chết không còn một mống nào, dù là bị kiếm đâm hay rơi vào mồm cá sấu.

Những người Mẹ hẳn phải xót xa lắm khi nhìn những đứa con chém giết nhau như vậy. Tôi không muốn đứng về phía “tốt đẹp” để mà phải nhìn cái “xấu xa” bị đâm chém. Tôi không muốn thấy ai bị tàn sát cả vì mọi biểu hiện của sự sống đều đáng được trân trọng, dù là trong ý niệm của cả thế giới, những thứ gọi là “xấu xa” đó là những điều đáng bị nguyền rủa. Tôi thấy điều duy nhất đáng bị nguyền rủa chính là bản thân những lời nguyền đó (Mà cũng chẳng cần, chính sự nguyền rủa đã tự mang năng lượng của sự nguyền rủa rồi, nó đã tự uống thuốc độc trước khi bỏ chính mình vào bát nước của kẻ khác rồi). Câu truyện trở nên quá tàn nhẫn khi được nhúng vào một sự chia rẽ và phân cực tột độ.

Bây giờ các bạn hãy tạm quên cậu chàng Peter với những chiếc răng sữa dễ thương đi, hãy nhìn thuyền trưởng Hook mà xem, ông ta là biểu hiện đẹp đẽ và sinh động nhất của sự lật lọng, mưu mô, của sự ảo tưởng về vẻ quý phái lịch thiệp, của sự ghen tuông đố kỵ và đôi lúc của sự ngây thơ, ngốc nghếch như một cậu trẻ nít. Như thế có gì là sai khi một người sống thật lòng với chính họ nhất? Hook đâu có cố gắng giả tạo, cố gắng sống khác đi với bản chất của mình để làm vừa lòng ai, trong khi cái việc ấy lại là việc yêu thích của phần lớn số fan Peter Pan, nếu như không nói là của hầu hết những người sống trên cõi đời này (cả người đang sống và những người đã từng sống nhé).

Tôi muốn cả hai bên đều được tung hô, Peter và Hook, vì mọi biểu lộ chân thành của họ đều đáng được trao cho những cái hôn, dù nó là dễ thương hay cáu kỉnh, là thẳng thắn hay xảo trá, là cần mẹ hay không cần mẹ. Còn những ai không chân thành, những ai dối lòng chính mình và ngăn trở dòng sự sống biểu hiện, những kẻ đó sẽ chẳng bao giờ được sự sống ủng hộ. Vậy nên dối trá với chính bản thân mình là điều nguy hại nhất mà tôi từng biết. Nhưng… nếu họ dối trá một cách chân thành thì sao nhỉ? Mẹ kiếp, những cái hôn đấy, bảo họ lấy hết rồi biến đi! (Não của tôi cần được nghỉ ngơi, làm ơn!)

Vậy nên hỡi những bạn trẻ, với những nội dung liên quan đến mẹ tôi vừa nêu trên, nếu các bạn đã đọc truyện rồi và xem cả phim nữa thì hẳn các bạn cũng thấy được khả năng nổi bật nhất của Disney trong vụ chuyển thể này đó là “tầm thường hóa” tác phẩm lừng danh xứ Anh Quốc và “dung tục hóa” Peter Pan nổi tiếng xứ Neverland khi để cho Wendy và Peter yêu nhau như một cặp gà bông lãng xẹt.

Tình Mẹ, nó ở một đẳng cấp hoàn toàn khác với tình yêu trẻ ranh này. Bây giờ bọn học sinh cấp một cũng yêu nhau được như vậy! Nó chẳng có gì là vĩ đại trong tình yêu đó cả, tôi chỉ nhìn thấy biểu hiện của một dạng tâm sinh lý bất ổn do sử dụng quá nhiều sản phẩm biến đổi gen, hay một cái gì đó bất thường tương tự.

Peter trong sáng như một đứa bé mới chào đời. Chẳng có đứa trẻ mới chào đời nào lại mặt đỏ tưng bừng khi được một kẻ khác giới hôn cả, vì nó còn chẳng thèm quan tâm xem giới tính của chính mình là cái cóc khô gì. Thứ duy nhất nó quan tâm trên đời đó là mẹ, là mẹ chứ không phải “gấu chó” và mấy vụ hôn hít ngu xuẩn.

Nếu như câu chuyện thành công trong việc nhắc khéo người đọc về tầm quan trọng kinh khủng của những người mẹ thì nó còn chứa cả một bể đầy những hình ảnh ẩn dụ, mà nếu viết chúng ra và giải nghĩa tất cả thì ta có thể xuất bản một cuốn sách dày cộp dài khoảng 600 trang với tựa đề Peter Pan và ngôn ngữ biểu tượng. Cuốn sách sẽ lần lượt diễn ra như sau: Chương 1. Peter – Đứa trẻ bên trong mỗi người. Chương 2. Wonderland – Những chiều kích khác trong vũ trụ. Chương 3. Tinker Bell – Mọi thứ không như vẻ bề ngoài, đôi lúc trái ngược một cách quái đản,… Và cứ như thế cho đến chương 60. Cái hôn – Tình yêu hoặc là cái cúc treo ở sợi dây chuyền trên cổ.

Phải nói là truyện có quá nhiều ngôn ngữ biểu tượng mang nội dung sâu sắc, nếu nó chỉ được viết để cho bọn con nít đọc chơi thì thật quá hoài công, để cho chúng nó xem “sản phẩm lỗi” của Disney là được lắm rồi, vì cuốn sách này thừa sức làm thầy cho hàng triệu người lớn trên quả đất này!

“Peter Pan” được viết nên bằng một văn phong đậm chất hài hước, phản ánh một nội tâm phong phú và trí tưởng tượng không biên giới của tác giả. Hài hước đủ các cấp độ từ mỉa mai, châm biếm cho đến quái đản, hại não. Tôi có cảm giác tác phẩm là sự kết tinh toàn bộ chất hài từ những cuốn truyện thiếu nhi đặc sắc nhất như: “Nhóc Niclolas” “Pippi tất dài” và “Lão Kẹo Gôm”. Nếu không học được chút gì về cách làm Mẹ hay về những bài học khác trong nội dung của cuốn sách, người lớn có thể học được cách pha trò hay rèn luyện cái óc khôi hài của mình đến trình độ làm đứa con bật dậy ngồi cười rơi cả răng ngay sau khi vừa ru nó vào giấc ngủ.

Chẳng phải trong cuộc đời, hài hước là điều mà chúng ta cần chỉ ngay sau mẹ thôi đó sao! Vì một khi mẹ không thể làm chúng ta an bình và đi qua khó khăn được (thật ra là chúng ta quá ngu dốt khi không hiểu được lời mẹ) thì chúng ta cần tìm thấy chút hài hước trong mọi tình huống ngặt nghèo của cuộc sống. Ví như khi nghe tên sếp quát tháo điên cuồng vào mặt, ta lại nhớ đến tiếng loa phát thanh của thôn những lúc bị chập điện, rồi ta lại khẽ mỉm cười trong lòng và dâng trào cảm giác an bình khi nhớ về quê hương yêu dấu. Thế đó, hoặc là mẹ, hoặc là khiếu hài hước sẽ cứu rỗi cuộc đời bạn. Sẽ thật may mắn nếu như bạn có một bà mẹ hài hước, cả thế giới sẽ muốn làm anh em của bạn!

Tóm lại, “Peter Pan” là một tác phẩm đáng để các bạn nghiền ngẫm cũng như tận hưởng. Nếu chủ đích của tác giả viết cuốn truyện này là để cho người ta thấy rõ được bức tranh về nhị nguyên, về sự chia rẽ và tranh đấu, về mẹ, thì tôi sẵn sàng cho nó điểm 10 đẹp nhất. Nhưng với tư cách là một độc giả hướng đến sự hợp nhất và hài hòa, thì tôi thấy “Peter Pan” chưa vượt qua được mức điểm liệt. Tôi có thể cho nó 9 điểm về tính bạo lực, chia rẽ và tranh đấu, 1 điểm còn lại cho lòng nhân từ. Nhưng vì cuốn truyện đã gợi mở cho tôi những ý tưởng về mẹ và “mãn não” (thỏa mãn bộ não) tôi bằng những pha gây cười số một, tôi sẽ cho nó điểm 8.0/10.

Xin tặng các bạn một bài thơ nhé, coi như lời cảm ơn các bạn đã quan tâm đến bài review này. Bài thơ có tựa đề “Lời của Mẹ”:

Này con ơi nghe lời mẹ dặn
Đảo điên trời đất mấy mùa trăng
Dòng đời vội vã bao mưa nắng
Bình an con giữ lặng trong lòng.

Chuyện người ta đâu cần nghe ngóng
Mắc vào lòng bao mớ bòng bong
Đường con thẳng tiến đi muôn dặm
Giũ cho sạch rác chớ lòng vòng.

Con ơi hay giữ đủ thong dong
Khi đời đen, đỏ, tím với hồng
Người đâu phiền hà con mấy chốc
Gồng lên một cổ với bao tròng.

Mẹ luôn ở đây con thấy không?
Là tiếng ca nhỏ khẽ trong lòng
Mang nặng còng lưng con mỏi mệt
Trong vòng tay Mẹ hé cầu vồng.

Con ơi hãy cứ lặng yên thôi
Bên Mẹ con đã có Nhà rồi
Kệ ngoài kia bão hay mưa quất
Ngủ ngoan con chẳng vướng sự đời.

Dõi theo con qua hẻm cong, ngõ tối
Ngày thư thả, chiều ngả chơi vơi
Mẹ ở đây dẫn đường chỉ lối
Khi con lạc mất ánh mặt trời.

Và điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn rằng:

“Trong mỗi chúng ta đều có Peter và Hook. Hãy làm Mẹ của cả hai đứa này!”

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

Giải thích về khủng hoảng nợ công của Mỹ

 

 

Giới thiệu: Nợ công của Mỹ hiện tại là $17 ngàn tỷ USD ($17 trillion, con số này hiện tại đang ở mức $182 ngàn tỷ, 6/7/2015). Đó là một con số nằm ngoài sức tưởng tượng. Đa số người sẽ không bao giờ kiếm tới $1 triệu USD trong một năm.

Làm sao để chúng ta hiểu được tầm quan trọng của mức nợ này? Giờ vầy, cứ tưởng tượng bạn đang nợ công ty tín dụng (ngân hàng) $200,000. Ngoài số tiền đó bạn phải trả họ $4,000 tiền lãi suất mỗi năm. Bạn có thu nhập $150,000/năm nhưng bạn tiêu thụ nhiều hơn có số đó rất nhiều. Làm sao bạn có thể trả hết số nợ $200,000 đó được? Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn vỡ nợ? Đó là tình trạng hiện tại của nước Mỹ ngày hôm nay. Vấn đề rất rõ ràng. Và chúng ta có Michael Tanner, một thành viên cao cấp của Viện Cato để đề xuất một giải pháp.

Mức nợ công của Mỹ

Nếu bạn là công dân Mỹ dưới 30 tuổi, bạn có một vấn đề tầm cỡ tsunami đang hướng tới, và có thể là bạn còn chưa biết điều đó nữa. Cơn sóng ác quỷ đó chính là nợ công của chính phủ Liên Bang Mỹ.

Các quốc gia, cũng như con người, mắc nợ khi họ tiêu nhiều hơn họ kiếm được. Bạn và tôi mua đồ với số tiền chúng ta kiếm được. Chính phủ thì mua đồ với số tiền họ lấy được từ thuế. Khi chính phủ tiêu thụ cao hơn doanh thu (thuế), chính phủ “rơi vào cái hố” – mắc nợ. Hiện tại cái hố đó sâu $17 ngàn tỷ USD – $17,000,000,000,000.

Đó là một con số không thể tưởng tượng được. Một ngàn tỷ đô là bao nhiêu? Huống hồ chi là $17 hoặc $20 ngàn tỷ?

Có vài ví dụ như: ”Nếu bạn xếp tờ $1, nó sẽ cao tới 107,826 km (67,000 miles).” Mặc dù đó là mức rất ấn tượng, nhưng nó không giúp được gì trong việc giải thích vấn đề. Nên chúng ta sẽ đơn giản hóa vấn đề.

Các nhà đầu tư và nợ công

Hiện tại, đa số nhà đầu tư tin rằng Mỹ là một cuộc đánh cược an toàn. Nói cách khác, họ tin rằng họ sẽ lấy lại số tiền họ đã cho chính phủ Mỹ vay cộng với tiền lãi. Nhưng điều này không thể tiếp diễn đến vô tận được.

Tới một lúc nào đó các nhà đầu tư sẽ nói: ”Anh có quá nhiều nợ, anh là một rủi ro xấu. Tôi sẽ không cho anh vay nữa.” Lúc đó thì sao?

Chúng ta không cần phải đoán. Chúng ta có thể nhìn Châu Âu, nhất là Hy Lạp. Các nhà đầu tư đã vui vẻ cho Hy Lạp vay mượn tiền cho đến năm 2010, khi họ chợt nhận ra rằng Hy Lạp không thể nào trả lại số tiền họ đã vay được nữa.

Lập tức qua đêm, Hy Lạp trở thành một rủi ro tín dụng xấu và nền kinh tế họ đi vào cơn lốc suy thoái. Doanh nghiệp phá sản, hàng ngàn người bị sa thải. Chính phủ không thể nào chi trả ngân sách. Nước Đức và các nền kinh tế Châu Âu khác phải bước vào để cứu vớt Hy Lạp. Nhưng Hy Lạp đã đã bị ảnh hưởng tồi tệ. Điều tương tự cũng đã xảy ra ở Bồ Đào Nha (Portugal) và Tây Ban Nha (Spain).

Đúng, nước Mỹ rất lớn, lớn hơn Hy Lạp rất nhiều và có một nền kinh đế đa dạng hơn. Điều đó rất đúng. Nhưng nguyên tắc vẫn không thay đổi. Chúng ta có thể vay nhiều tiền hơn Hy Lạp, nhưng sớm muộn gì các nhà đầu tư sẽ nói “không cho vay nữa.” và nếu họ làm như vậy, nền kinh tế của chúng ta sẽ đi vào cơn lốc suy thoái như nền kinh tế Hy Lạp.

Lãi suất hiện tại và tương lai

Đây là một điểm nữa. Vào thời điểm tôi đang thực hiện chương trình này, lãi suất chúng ta phải trả cho nợ công là rất thấp, tầm 2%. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi lãi suất tăng từ 2% tới điểm trung bình lịch sử là 5% — điều đó sẽ và phải xảy ra.

Nước Mỹ sẽ lấy tiền từ đâu để trả số lãi cao hơn hiện tại cho số nợ lớn lao đó? Chúng ta vay thêm tiền? Điều đó chỉ làm chúng ta mắc nợ thêm. Tăng thuế? Điều đó sẽ giảm sự tăng trưởng của kinh tế.

Còn câu hỏi của các nhà đầu tư đang cho chúng ta vay tiền. Nhà đầu tư (ngoài nước Mỹ) lớn nhất hiện tại là Trung Quốc, họ không phải là một đồng minh đáng tin cậy của chúng ta. Số tiền họ cho chúng ta vay càng nhiều, sự ảnh hưởng của họ đến chúng ta cũng vậy. Có thể họ sẽ không dùng tới quyền lực này, nhưng liệu chúng ta có muốn đưa cho họ sự lựa chọn đó không?

Nợ và đạo đức thế hệ

Và hãy suy nghĩ về điểm cuối cùng này: hành động này có đạo đức hay không, khi chúng ta thế chấp các thế hệ tương lai với khoản nợ khổng lồ này, một thứ không liên quan gì đến họ?

Bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu bạn biết rằng bạn sẽ để lại cho con cái bạn một khoản nợ bạn đã vay trong đời bạn? Bạn đã có một thời gian tuyệt vời sinh sống trong một ngôi nhà lớn, lái một chiếc xe xịn, nhưng bạn chưa bao giờ phải trả tiền cho những thứ đó. Bạn để lại cho con cái bạn trả món nợ đó. Điều đó có đạo đức (thất đức) hay không?

Đó là tại sao những người nên quan tâm đến vấn đề nợ quốc gia này là những người trẻ. Họ là những người sẽ phải trả món nợ này. Những người cao niên và trung niên, những người đã vay số tiền này, có thể sẽ không cần phải trả. Nhưng những người trẻ tuổi trong độ tuổi 30 hoặc trẻ hơn không thể hoặc ít nhất không nên không trả được.

Lối thoát

Có một lối thoát nào tốt cho vấn đề này không? Thưa các bạn, có!

Nếu nền kinh tế phát triển vượt bậc, chính phủ sẽ có thêm doanh thu (thuế). Và họ có thể dùng số doanh thu đó để trả dần số nợ.

Cách thứ hai là giảm chi tiêu ngân sách. Nếu chúng ta tiêu nhiều hơn chúng ta thu, một điều chúng ta đang làm, chúng ta sẽ càng ngày càng nợ sâu hơn.

Theo lẽ thường, điều nên làm là chúng ta đem doanh thu và chi phí ngân sách cân bằng với nhau. Nếu bạn kết hợp cả hai lại – sự phát triển kinh tế và cắt giảm chi phí ngân sách – chúng ta có một cơ hội thật sự để quản lý vấn đề tài chính của quốc gia.

Nợ có phải là vấn đề?

Vậy nợ có phải là một vấn đề lớn lao hay không? Nếu bạn lo lắng cho ngày mai thôi, thì chắc là không. Nhưng nếu bạn lo lắng cho tương lai và nhất là nếu bạn có rất nhiều tương lai ở phía trước, thì nợ là một vấn đề rất lớn – lớn như một cơn tsunami.

Tôi là Michael Tanner của Viện Cato cho Prager University.

Lưu ý:

  1. Trung Quốc là nhà đầu tư ngoài nước Mỹ lớn nhất (7.2%), chứ không phải là người nắm giữ số trái phiếu (nợ) lớn nhất. Nhưng với số nợ này họ có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới chính sách ngoại giao, kinh tế và quân sự của Mỹ và đồng minh.
  2. Việc các quỹ đầu tư hưu trí của chính phủ Mỹ sở hữu nợ công của chính phủ Mỹ (30%) bị giới đầu tư cho rằng là một nghịch lý. Vì bạn không thế nào vừa làm người vay và người cho vay cùng một lúc được.
  3. Nếu các bạn muốn đọc thêm về việc ai là chủ nợ của Mỹ thì xin vào đây.
  4. Hiện tại lãi suất Ngân Hàng Trung Ương Mỹ (Federal Reserve) là gần 0%, điều này không thể tồn tại mãi. Nếu họ không tự tăng lãi suất thì thị trường sẽ tăng theo quy luật cung cầu.
  5. Hiện tại Dollar Mỹ là tiền tệ thống trị trong các giao dịch thương mại. Nhưng nếu Mỹ tiếp tục gia tăng các khoản nợ thì uy tín của họ sẽ giảm, như quy luật thị trường.
  6. Nếu các bạn muốn coi số nợ trực tiếp của Mỹ thì xin vào US Debt Clock. Hiện tại nó đang là $18,294,416,200…và tăng từng giây.

 

Tác giả: Michael Tanner, America’s debt crisis explained, Prager University
Dịch giả: Ku Búa

Môn văn có cần cho tất cả chúng ta không?

Ở bảo tàng Orsay nổi tiếng có bức tranh mang tên Origine du monde – “Nguồn gốc của Sự sống”, (Ngày nay, Orsay là một trong những viện bảo tàng quan trọng nhất của Paris, sở hữu các tác phẩm nổi tiếng của nghệ thuật phương Tây thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 (1)). Những tác phẩm được lưu giữ ở đây đã được thẩm định, sàng lọc gắt gao, qua thời gian và qua con mắt thẩm mỹ của hàng triệu, triệu người trên toàn thế giới. Tác phẩm đã được lưu giữ ở đây thì không cần phải bàn cãi gì về giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ… vì đó thực sự là những kiệt tác của nhân loại.

Xin nhắc lại rằng đây là bức tranh mang tên “Origine du monde” được lưu giữ ở bảo tàng Orsay của Pháp. Nhắc lại như vậy để một lần nữa xin được đề cao giá trị nghệ thuật của bức tranh này. Tiếc rằng đa số người Việt Nam chúng ta đều nhìn thấy đây không phải là… bức tranh đầy tính nghệ thuật mà đây là… bức ảnh khiêu dâm chụp… cửa mình của người phụ nữ. Tương tự như vậy khi mà được nghe những bản nhạc của Mozart, của Bach… – những kiệt tác nghệ thuật của nhân loại nhưng đa số chúng ta đều không cảm nhận được cái hay, cái đẹp gì ở đây. Những tác phẩm nghệ thuật có giá trị mà chúng ta không thể cảm nhận được, tiếc quá.

“Quá phi lý khi giới trẻ không biết Picasso là ai”- đây là tâm sự của họa sĩ Lý Trực Sơn trên báo Vietnamnet mới đây (2). Nhưng như đã nói ở trên đến người lớn chúng ta, kể cả những người có trình độ tri thức cao, hoặc người được sinh sống và học tập ngay tại những đất nước như Pháp, Mỹ… đều không cảm thụ được gì từ những bức tranh của Picasso thì trẻ em chúng ta sao mà cảm thụ được. Đến ngay như ông quan phụ trách Văn hóa như ông Thứ trưởng Bộ VHTT & DL Trương Minh Tuấn, người vừa có bài trả lời phỏng vấn trên báo chí và là người vừa ký quyết định khai tử trang Haivl thì đây chắc chắn là… ảnh khiêu dâm! (Bức tranh này mà được post trên Haivl thì Haivl đã bị đình bản từ lâu vì… truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Hic…)

Haivl mang đến những nụ cười vui nhộn, hài hước biết bao; một sự khởi nghiệp đáng khen ngợi nhưng chỉ vì những cái đầu ngu xuẩn như ông Thứ trưởng xôi thịt này mà Haivl bị đóng cửa (Sắp tới ông thú trưởng xôi thịt này chắc sẽ là Bộ trưởng Bộ VHTHDL. Wa…). Vào net bữa nay thiếu Haivl làm thấy thiếu thiếu cái gì đó. Hơn 4triệu “like” và rất nhiều người truy cập hàng ngày (trong số này có rất nhiều người hiểu biết) không hề được xem xét (3). Một cái tát rất mạnh vào cộng đồng mạng, vào những người hiểu biết. Than ôi, đúng là “không thể thắng được bọn ngu dốt vì chúng quá đông” (Einstein). Thật buồn và đau xót.

Chúng ta có thể hiểu một bài toán khó, một bài văn, bài thơ nhưng để hiểu một tác phẩm điêu khắc, hội họa, âm nhạc giao hưởng thì thật khó, thậm chí là không thể. Vậy để làm thế nào để cảm thụ nghệ thuật được qua những tác phẩm âm nhạc, hội họa, điêu khắc… đây? Một câu hỏi khó nhưng có thể sẽ có lời giải khi chúng ta liên tưởng đến nước Pháp hoặc các nước tiên tiến khác. Ông bạn tôi, người đã có cơ hội học tập nhiều năm tại Pháp chụp lại bức tranh này khi đi tham quan bảo tàng Orsay, tâm sự rằng ngay từ nhỏ trẻ em của Pháp đã có sự cảm thụ về nghệ thuật một cách tuyệt vời.

Còn theo họa sĩ Lý Trực Sơn, người có tới 9 năm ở nước ngoài thì sở dĩ bọn trẻ Pháp cũng như các nước văn minh khác, chúng có thể dễ dàng cảm thụ được những tác phẩm hội họa, âm nhạc, điêu khắc… là bởi chúng có được cơ hội tắm mình trong không gian nghệ thuật ngay từ nhỏ. Trong mỗi góc phố, mỗi hàng cây, mỗi con đường… ở các nước Pháp cũng như các nước tiên tiến khác ta đều có thể bắt gặp những hình ảnh điêu khắc, hội họa, âm nhạc. Không cần những bài học khô cứng về văn hóa, nghệ thuật thay vào đó là những hình ảnh, hiện vật nghệ thuật sống động. Khi được tắm mình trong không gian nghệ thuật như thế ngay từ nhỏ thì trẻ em cũng có thể cảm thụ được nghệ thuật là điều dễ hiểu.

Gần đây Bộ trưởng Y tế có đề xuất rằng nên đưa môn Văn vào là một trong những môn thi của trường Y. Theo bà Bộ trưởng thì môn văn giúp cho bác sĩ ăn nói mạch lạc, soạn văn bản đúng đắn. Tuy nhiên sâu xa hơn nữa ở đây là môn văn sẽ giúp người bác sĩ có những cảm thụ tốt về văn học, nghệ thuật, làm cho bác sĩ có thể nhận ra những cái hay, cái đẹp; cái xấu cái tốt của muôn mặt đời sống xã hội giúp bác sĩ sống tốt hơn chứ không phải là học văn tốt sẽ giúp bác sĩ nói dối sáng tạo như một ý kiến của một bạn đọc trên Vietnamnet (4).

Mà thực tế các trường đại học hàng đầu Thế giới đều yêu cầu ứng viên viết bài luận trong hồ sơ xin học. Lẽ nào những trường này toàn tuyển được những người nói dối sáng tạo? Một bác sĩ biết rung động trước cái đẹp, biết thổn thức đau khổ trước nỗi đau của đồng loại thì chắc không thể là một bác sĩ tồi được.

Văn học là nhân học; và Văn học, nghệ thuật cần cho tất cả các ngành học; cần cho tất cả mọi người chứ không riêng gì bác sĩ. Văn học, nghệ thuật làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, nhân bản hơn bởi “Nếu con người chỉ biết có giá trị vật chất thì chẳng khác gì một con vật” (lời một triết gia); còn nhà báo Thomas Friedman có viết trong Thế Giới Phẳng có đoạn đại ý như thế này:

Những người có cảm thụ về văn hóa nghệ thuật tốt thì thường có cuộc sống hạnh phúc hơn, thành công hơn” và “Muốn sáng tạo ra những sản phẩm cao cấp, đáp ứng được những nhu cầu khắt khe nhất của người dùng thì cần phải có sự thấu cảm sâu sắc về nghệ thuật, cuộc sống.” Điều này có nghĩa là không phải đơn thuần mà ta có thể sáng chế, phát minh ra những sản phẩm chẳng hạn như Iphone, Ipad…, để sáng tạo được ra chúng thì cần phải có tư duy thiên tài nhưng cũng cần phải có sự thấu cảm sâu sắc.

Hoc văn và nghệ thuật tốt để rồi có những cảm thụ tốt về văn học; nghệ thuật sẽ góp phần làm cho bác sĩ nói riêng và cho mỗi người chúng ta nói chung sẽ “người” hơn; “mỗi bài văn hay, mỗi tác phẩm nghệ thuật đặc sắc như là những tiếng chuông rung lên nhè nhẹ; hay như những nấc thang nhỏ, góp phần làm cho bác sĩ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung tránh xa con thú, tiến dần loài người” (nói theo cách nói của Goorki). Và như đã nói ở trên “Những người có cảm thụ về văn hóa nghệ thuật tốt thì thường có cuộc sống hạnh phúc hơn, thành công hơn”. Bởi vậy môn Văn và những môn Văn hóa nghệ thuật cần cho tất cả mọi người chứ không riêng chỉ cho bác sĩ.

 

Pham AQ

[THĐP Review] HER – Tình yêu, tình dục và con đường khai sáng

6
Featured Image: Poster phim “Her”

 

“Bạn là ai?” “Bạn có thể trở thành người như thế nào?” “Bạn đang đi đâu?” “Điều gì đang diễn ra ở ngoài kia?” và “Cái gì có thể xảy ra?” Một loạt những câu hỏi đầy khắc khoải đã xuất hiện rất sớm trong bộ phim “Her”, thuộc thể loại khoa học viễn tưởng lãng mạn của đạo diễn Spike Jonze, đã gây cảm giác tò mò cho không ít người xem và gieo rắc vào đầu họ những suy tư về chính mình và cuộc đời.

Nếu như bạn cũng đang trăn trở những điều tương tự thì thật đáng mừng cho bạn, vì bộ phim sẽ cùng lúc mang theo những lời giải đáp. Và giả như được số phận ủng hộ, bạn còn có thể tìm ra cách tháo nút hoành tráng cho những câu hỏi khác nữa đã từng dày vò đầu óc bạn hoặc vẫn đang sôi sục từng ngày trong hình hài con người Trái Đất bé nhỏ của bạn.

Đó là: “Tình yêu là gì?” “Linh hồn bạn đang tiến hóa ra sao?” “Tình dục là gì?” và “Tại sao người ta nghiện sex?”, v.v…. Đặc biệt hơn nữa, nếu bạn đạt đến điểm cực đại của sự may mắn vì mấy hành tinh đột nhiên sắp xếp thật đẹp trên bầu trời trong phút bạn sinh ra và vào lúc bạn xem phim “Her” này, thì rất có thể bạn sẽ nhận được thêm một phần thưởng đính kèm vô cùng giá trị, đó là “một con mắt sáng” để nhìn thấu hàng loạt những bộ phim khác nữa, trong số đó có thước phim cuộc đời đầy kịch tính mà cũng không kém phần vui nhộn mà bạn đang vào vai nhân vật chính một cách nhiệt tình!

“Her” kể về những biến cố quan trọng trong đời đã thức tỉnh người đàn ông tên là Theodore, với sự diễn xuất tinh tế của nam tài tử Joaquin Phoenix. Bộ phim lấy bối cảnh ở tương lai khi công nghệ đã cực kỳ phát triển, các sản phẩm “thông minh” len lỏi vào từng ngóc ngách của cuộc sống. Trong đó, một sản phẩm đặc biệt là Hệ điều hành có ý thức OS1 lần đầu tiên xuất hiện, đã bước chân vào đời Theodore đúng như cách một cô gái bước chân vào cuộc đời người yêu của mình và khiến anh ta chẳng muốn tiếp tục công việc viết thư thuê nữa, mà chàng trai đó sẽ dành cả đời chỉ để viết những lời có cánh ngập tràn hương hoa hồng dành cho cô nàng.

Chậc, không đâu, tôi đùa đấy, anh ta sẽ không bỏ việc đâu, tình yêu đó sẽ khiến anh chàng trở nên là người viết thư xuất sắc nhất thế giới! OS1 chính là cô ấy (Her), Samantha, dưới sự góp giọng của nữ diễn viên tài năng Scarlett Johansson, người được đông đảo khán giả biết đến qua những bộ phim đình đám như The Avengers, Captain America, Iron Man 2 và Lucy.

Trong phim, Samantha hàng ngày tương tác với Theodore, cô ấy giúp anh lên ý tưởng, sắp xếp công việc và trò chuyện với anh như một người bạn khi anh cô đơn. Hai người họ dần dần cởi mở và tâm sự với nhau những nỗi niềm riêng tư nhất của mình. Anh chia sẻ về chuyện tình đổ vỡ giữa anh và vợ cũ, cô tâm sự với anh về cảm giác mình có được khi học hỏi về thế giới con người cùng những xúc cảm phức tạp của bản thân.

Bộ phim có bốn đỉnh điểm quan trọng đó là: Khi hai người làm tình với nhau lần đầu tiên, khi Theodore chấp nhận ý tưởng làm tình với Samantha cùng thân thể được mượn từ một cô gái khác tình nguyện giúp đỡ, khi anh chấp nhận hoàn toàn rằng mình đang yêu Samantha dù cho mọi người có nói anh là kẻ bệnh hoạn khi yêu cái thứ chỉ là một cỗ máy, và cuối cùng là khi Samantha ra đi.

Về nội dung, bộ phim truyền tải rất nhiều thông điệp với các độ sâu khác nhau khiến người xem dù nhận thức ở cấp độ nào cũng được thỏa mãn cái biết của mình, đều được giải trí dù ít hay nhiều. Tôi dám cá là sẽ chẳng có ai phải kêu than rằng: “Mẹ kiếp! Tao đã lãng phí hai tiếng đồng hồ cho một mớ bầy nhầy trừu tượng!” hoặc là “Tao vẫn éo hiểu tại sao phim này được đánh giá 8.0!” Với góc nhìn cá nhân, tôi thấy bộ phim có nội dung đào sâu về sự tiến hóa của linh hồn thông qua các trải nghiệm ở từng cấp độ, về tình yêu với chính bản thân mình, về bản chất và sức mạnh thật sự của tình yêu, về tính hai mặt của tiến bộ khoa học công nghệ, và đặc biệt nhất là về tình dục – thứ đã ám ảnh, ám quẻ, “ma ám” nhân loại không biết bao nhiêu đời nay.

Kẻ nào nhìn ra được bản chất của tình dục, kẻ đó hát ca trên thiên đường. Còn kẻ nào để tình dục thắt cổ, kẻ đó làm nô lệ dưới địa ngục. Hàng loạt những sự kiện (trong đó có tình dục) đã giúp thức tỉnh Theodore, từ một người đàn ông khốn khổ nằm trong đống tro tàn của sự cô đơn, dằn vặt, lạc lối chợt vươn lên mạnh mẽ, đầy sức sống và rực rỡ như một con phượng hoàng lửa. Việc nam tài tử Joaquin Phoenix vào vai này hẳn phải là một phép ẩn dụ hoặc là một dấu hiệu cho những kẻ kiếm tìm! Nếu được chọn từ khóa cho Theodore, tôi sẽ chọn từ “Phượng Hoàng” (Phoenix)! Bộ phim xoay quanh cuộc chuyển mình (transformation) rực rỡ của nhân vật nam chính.

Tình yêu giữa Theodore và Samantha có thể khiến người ta liên tưởng đến chuyện tình của chàng người máy Andrew và Cô chủ nhỏ trong bộ phim Người máy biết yêu (Bicentenial Man) do Robin Williams thủ vai nam chính. Điểm khác biệt dễ nhìn thấy nhất là Andrew có thân thể vật lý còn Samantha thì không. Tuy nhiên, chi tiết này càng nhấn mạnh về sự quan trọng trong mối liên hệ giữa thể xác và tinh thần của mỗi con người.

Một linh hồn sẽ luôn khao khát trải nghiệm cuộc sống ở mọi cấp độ để đạt tới sự hài hòa và viên mãn. Họ yêu thương bằng cả thể xác và tinh thần, bởi vì yêu mà họ cảm thấy mình tồn tại, thấy cuộc đời có ý nghĩa. Và cuối cùng, sau khi hoàn thành mọi trải nghiệm ở nơi này, họ chuyển sang một nơi khác và lại bắt đầu những cuộc hành trình mới. Samantha ra đi, Andrew chết. Trong sự ra đi đã có sự tìm đến, trong cái chết đã có hạt mầm tái sinh. Bộ phim “Her” làm đậm lên trong tôi cảm giác về sự tuần hoàn luân chuyển của sự sống, và câu nói nổi tiếng của Albert Einstein lại một lần nữa văng vẳng trong tâm trí:

“Energy cannot be created or destroyed, it can only be changed from one to another.”

Xuyên suốt bộ phim, chúng ta chỉ nhìn thấy (bằng mắt) Theodore và mọi điều diễn ra trong cuộc sống thường ngày của anh, còn không thấy Samantha, cô ấy chỉ là một giọng nói. Cuộc thức tỉnh của Theodore bắt đầu từ khi anh trò chuyện với giọng nói đó. “Samantha” theo tiếng Ả Rập có nghĩa là Người lắng nghe (The Listener), theo tiếng Phạn có nghĩa là An bình (Tranquility) và Tập trung (Concentration) (có liên quan đến việc thiền định trong Phật Giáo).

Liệu đây có phải là một phép ẩn dụ về việc lắng lòng để nghe thấy tiếng nói của tâm hồn chăng? Tĩnh lặng có phải là cách mà con người kết nối với linh hồn mình, để nó dẫn dắt và khai sáng chúng ta chăng? Hãy nhìn xem, tại sao một người không thể tự chơi đùa với chính mình và luôn cảm thấy an vui, hạnh phúc? Tại sao chúng ta lại cần một người nào đó khác làm chúng ta hài lòng?

Mối quan hệ giữa Theodore và Samantha không chỉ cho chúng ta thấy sự kỳ diệu của tình yêu đôi lứa khiến mỗi người tìm ra được từng phần con người mình trong quá trình tương tác với người kia để rồi chấp nhận từng phần đó và hợp nhất, mà nó còn chỉ ra sức mạnh của tình yêu dành cho chính bản thân mình, tình yêu của linh hồn dành cho cái tôi bé nhỏ hay cáu gắt, và sự quy phục của cái tôi ấy trước linh hồn vĩ đại, để ánh sáng lớn lao dẫn dắt nó tới mọi điều vui tươi, yêu thương và hạnh phúc trong đời. Liệu chúng ta có nên đi tìm ra nàng Samantha của riêng mình không? Hay mỗi người hãy tự trở thành một Samantha? Hay một Shaman?!

Các bạn biết không, tất cả những câu hỏi của tôi đều đã được giải đáp sau khi xem xong bộ phim này. Có lẽ sức mạnh của sự chuyển đổi trong bộ phim cũng ảnh hưởng phần nào đến người xem, dù họ có ý thức được hay không. Những câu hỏi như những lớp kén dày của con sâu nhỏ đã dần được bóc tách và cuối cùng bươm bướm xòe cánh bay lên thật xinh đẹp. Chúng bao gồm:

  1. Tình dục là gì? Nó có đơn thuần là hoạt động giới tính? Trong tình yêu có nhất thiết phải có tình dục?
  2. Tại sao người ta làm tình?
  3. Nếu thủ dâm mang lại cực khoái được thì tại sao người ta vẫn muốn làm tình với nhau?
  4. Tại sao người ta nghiện sex, nghiện xem phim sex, nghiện thủ dâm?
  5. Chúng ta thật sự là ai? Ở Trái Đất này để làm gì? Có đơn thuần là ăn, ngủ, kiếm một công việc, lập gia đình rồi sinh con đẻ cái và ngồi nhìn chúng lặp lại chính cái vòng quay nhàm chán như cha mẹ chúng không?
  6. Chúng ta có thể yêu cùng lúc nhiều hơn một người không, nếu như không nói là có thể yêu tất cả không? Tình yêu không chỉ giới hạn ở trong mối quan hệ 1-1 phải không? (Và nếu câu trả lời là “Có” và “Ừ” thì nhân loại đúng là đang trong thảm họa thật rồi, vì chẳng có mấy ai thật sự có khả năng yêu được ba anh chàng kỹ sư trong khi đang mải miết làm tình với người thợ sửa ống nước. Tâm trí náo loạn của họ luôn cho rằng quả tim của chính mình quá bé nhỏ, còn cái háng thì lại rộng miên man!)

Và câu hỏi cuối cùng đó là:

  1. Tại sao tình yêu với chính mình là tình yêu quan trọng nhất?

Hỡi những người bạn đang đọc bài viết này, các bạn có bao giờ trăn trở những điều tương tự như vậy không? Tôi đã từng nghĩ mình là một kẻ khác người khi luôn bị ám ảnh bởi việc tìm ra câu trả lời cho những thắc mắc mà nếu như chúng được nói lên giữa phố thì chắc chắn cả đám đông sẽ ném vào tôi những cái nhìn kinh tởm và kèm theo vài cái dép có gắn thêm đinh nhọn.

Đôi lúc tôi thấy những câu hỏi của mình co quắp, run rẩy như một người đàn ông cô đơn lạc lõng, chờ đợi ngày Trăng Rằm để giải phóng con sói vẫn đang sôi sục bên trong hình hài đó, và rồi khi Mặt Trời lên, mọi thứ đều được làm sáng tỏ. Tôi sẽ chia sẻ với các bạn lời giải cho một câu hỏi nhé, với tư cách cá nhân thôi, câu số 4. Nếu bạn chưa từng làm tình, chưa từng xem sex, hay chưa từng thủ dâm thì nơi này không dành cho bạn đâu! Vì một kẻ chưa từng biết vị mặn thì sẽ không bao giờ hiểu được câu chuyện “cá gỗ”!

Và câu trả lời cho câu hỏi số 4 đó là:

Nghiện sex, nghiện xem phim sex, nghiện thủ dâm, bởi vì người đó cô đơn và thiếu thốn tình yêu!

Cảm giác kích thích, khoái lạc đạt được có thể tạm át đi nỗi đau và sự cô đơn đang dày xéo tâm can (nhưng vài bữa sau sẽ quay trở lại). Trong trường hợp của Theodore tội nghiệp, anh đã tâm sự với Samantha rằng: “I want somebody just fuck me.” Anh ta không điên, mà anh ta đang chất chứa muộn phiền và đau khổ. Chi tiết này làm tôi nhớ đến vở hài kịch Đại gia đình khi cô em vợ đứng ra nhận lỗi với anh rể – bố của cô gái trẻ chửa hoang. Cô em vợ khẩn khoản, nài nỉ, điên cuồng, gào thét vào mặt người đàn ông rằng “Em là dì mà không dạy dỗ được cháu gái! Anh hãy giết em đi! Giết em đi!” rồi cào cấu thân thể, mần xéo quần áo của ông này đến nỗi kéo tụt cả quần dài của ổng xuống.

Cô ta không hề có thái độ nhận lỗi, cô ta đang giải tỏa sự đau khổ tích lũy bao năm khi mãi không có nổi một mụn con vì người chồng “bất lực”, vì mọi người dòm ngó, phán xét, vì thấy tủi thân, bất hạnh. Sự ham muốn tình dục chỉ là biểu hiện vật lý của nỗi khao khát có ai đó đến bên và thấu hiểu nội tâm mình, chia sẻ những đớn đau trong lòng người đó mà thôi. Vì sự thấu hiểu tâm hồn nhau mang đến cảm giác phúc lạc như chuyện làm tình, nên người ta dễ dàng lầm tưởng rằng làm tình có thể giúp giải phóng cảm xúc và bớt đi khổ cực…

Ảo tưởng! Cả thế giới này đang ảo tưởng về tình dục! Các bạn nhìn xem ngoài kia nhan nhản những bài báo nói về lợi ích của làm tình vào buổi sáng, sự rao giảng về các tư thế để đạt cực khoái, quảng cáo xuất hiện giữa bữa ăn tối với nội dung về thuốc bổ thận tráng dương để tăng cường “hạnh phúc gia đình”, các khóa thiền khỏa thân cùng với “tình yêu dạt dào” dành cho thầy hướng dẫn và những thiền sinh khác.

Cái quái quỷ gì đang diễn ra vậy? Sao nhân loại bây giờ lại thành ra như một quả chuối chín nẫu được bọc bởi một cái bao cao su rách vậy? Tất cả đều đang hóa điên vì tình dục. Không hiểu được bản chất gốc rễ nên con người bị tình dục xỏ mũi theo cả những cách thô thiển nhất cho đến tinh vi nhất!

Chúng ta không cần làm tình, không cần xem sex, không cần thủ dâm, chúng ta cần được lắng nghe, đồng cảm và chia sẻ!

Với một kẻ hạnh phúc, sex sẽ đến tự nhiên như một bài thơ đầy những tia sáng lấp lánh! Bạn vui vẻ nên trải nghiệm sẽ tự nó thành tựu, chứ bạn không PHẢI trải nghiệm để đạt được sự vui vẻ! Bạn đủ đầy nên luôn tận hưởng, còn chuyện kiếm tìm chỉ dành cho những kẻ thiếu thốn!

Nội dung phim đã có quá nhiều điều để nói rồi, tôi xin được chuyển sang hình thức của “Nàng”. Chết tiệt, “Nàng” lại quá đẹp để mà viết lời khen ngợi! Tên phim ấn tượng; cảnh quay, góc quay giản dị mà giàu xúc cảm; âm nhạc đưa người nghe vào trạng thái mênh mang và sâu lắng, lời thoại súc tích, chất lượng và dàn diễn viên xuất sắc. Đặc biệt là nữ diễn viên vào vai giọng nói Samantha, cô ta quá tài năng khi chỉ diễn xuất bằng giọng nói mà có thể khiến người khác cảm nhận được tâm trạng, ý định của nhân vật chính, thậm chí hình dung được khuôn mặt, hình dáng, hành động và cử chỉ của cô ấy.

Chẳng biết là tôi có đang quá lời hay không, có đang thiên vị bộ phim này không, nhưng quả thực tôi chẳng biết phải chê nó ở điểm nào cả. Mọi chi tiết đều ăn khớp với nhau và phù hợp với nội dung phim, cảm giác có một dòng chảy xuyên suốt, có một điệu vũ hài hòa giữa hình thức và nội dung vậy.

Nếu bạn là sếp và bắt tôi phải tìm ra bằng được một điều gì đó liên quan đến bộ phim để mà chê thì bạn có thể nhận được câu trả lời là: “Chê một cái gì đó ư thưa sếp? Có lẽ do đường truyền internet nhà em kém quá nên phim cứ bị giật liên tục!” hoặc là: “Bộ phim khốn nạn ấy làm em khóc nhiều hơn ba lần, mà em lại ghét nhất là để mọi người trông thấy mình khóc!” và khi hai câu “chê” trên vẫn không được chấp nhận thì tôi chỉ có thể vênh mặt lên, và anh dũng nói rằng: “Hãy sa thải tao đi, đồ khốn!

Còn quá nhiều điều để nói về bộ phim tuyệt vời này, trên đây chỉ là những gì bản thân tôi thấy ấn tượng và tâm đắc nhất. Nếu bộ phim được đánh giá trên IMDb là 8.0/10 thì cá nhân tôi sẽ chấm điểm “Her” là 9.0/10. Còn 1 điểm, hãy để Chúa phán xét!

Tôi xin dành lời cảm ơn đặc biệt tới người bạn đã giới thiệu cho tôi bộ phim này cùng với sự chia sẻ của anh về ý nghĩa cái tên Samantha, cũng như việc anh truyền cảm hứng cho tôi để hoàn thiện bài viết của mình!

Cảm ơn mọi người đã lắng nghe! Chúc một ngày vui vẻ!

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

Cuộc sống xa nhà đã dạy tôi điều gì?

Featured Image: Maja Wronska

 

Có thể bạn là một trong những người xa gia đình từ bé, có thể bạn là người đến lúc này vẫn sống cùng bố mẹ. Đó là câu chuyện của bạn. Còn đây là câu chuyện của tôi.

Bạn sẽ làm gì khi biết tin mình sẽ phải đi học xa khi bạn chỉ vừa tốt nghiệp trung học cơ sở? Bạn sẽ làm gì khi biết rằng mình phải xa cha mẹ ngay ngày mai? Tôi đã khóc, “hận đời”, cố gắng xin xỏ bố mẹ một cách vô ích để rồi thất vọng vì chẳng đi đến đâu. Nhưng đổi lại ngay bây giờ tôi vô cùng cảm ơn cha mẹ vì đã cho tôi cơ hội để trưởng thành.

Sống xa nhà đồng nghĩa với việc bạn sẽ một mình khi ốm đau tưởng mình sẽ “thăng” trong nay mai, mặc dù có bạn bè bên cạnh đó nhưng họ còn lo chưa xong cho họ nói chi đến mình. Sống xa nhà đồng nghĩa với việc mọi việc mình làm là trách nhiệm của mình, tất cả mọi thứ đều có giá, chẳng có gì là miễn phi như khi bên cạnh bố mẹ. Bạn sẽ cảm thấy cả thế giới như sụp đổ trước mắt mình, cố gắng cười trước mặt bạn bè để giữ gìn lòng tự trọng trong khi phải khóc hằng đêm vì cô đơn.

Chưa kể bạn còn là một FA lâu năm thì còn cô đơn hơn nhiều nữa. “Có ai làm ơn quan tâm tôi được không thế?” Sẽ là câu hỏi mà bạn vô cùng muốn hét lên cho mọi người đều biết. Rồi thì những lúc quá mệt mỏi chỉ biết làm đại khái mọi việc cho xong. Có những lúc gọi điện về nhà muốn khóc lắm nhưng phải ráng nhịn để ba mẹ không lo lắng vì mình. May mắn là thời cấp 3 của tôi trải qua trong một môi trường khá khép kín của trường nội trú nên cũng khá dễ dàng thích nghi hơn so với những trường hợp khác. Hằng tuần cũng được về nhà một lần. Nhưng đau khổ nhất là mình phá phách để rồi bị cấm túc không được về nhà cuối tuần chỉ biết ôm gối khóc thầm còn bề ngoài thì tỏ ra cứng cỏi.

May mắn thay thời cấp 3 trong trường nội trú còn có người lo ăn lo mặc cho tôi. Nhưng thời đại học của tôi thì lại khác, bạn sẽ cảm thấy điều gì khi biết tin mình nhận được học bổng đi du học? Hẳn ai cũng sung sướng lắm, kiếm được học bổng đâu có dễ đúng không? Nhưng đó là mặt tốt mà ai cũng nhận biết được ngay đúng không nào, thế bạn có nghĩ đến việc một mình giữa chốn đông người mà không ai hiểu mình nói gì chưa?

Một mình lang thang trên phố mà chẳng thấy lấy một người châu Á, một mình đi mua đồ mà chẳng biết thứ mình cần mua gọi là cái gì. Nhiều lúc sợ lắm mà chỉ biết ráng đi thật nhanh, ráng kìm không khóc để về đến ký túc xá. Những sáng ngủ dậy xung quanh toàn người nước ngoài nói những ngôn ngữ mình chẳng hiểu gì cả. Khi stress bạn chẳng biết làm gì ngoài ngồi khóc một mình. Toàn những thứ mà ai nghe mà chưa trải qua cũng thấy sợ đúng không?

Ừ thì đó là một vài mặt “xui xẻo” mà bạn sẽ gặp khi sống xa nhà. Nhưng… sống xa nhà nghĩa là sự tự do đến với mình một cách nhanh chóng nhất, sống xa nhà là cơ hội để làm quen với nhưng người bạn mới, những điều mới mẻ mà bạn chỉ biết qua sách báo truyện tranh, những khung cảnh mà bạn chỉ có thể thấy trên TV hoặc Internet. Đặc biệt nếu bạn đi du học có khi bạn lại có thêm một thứ tiếng khác ngoài tiếng mẹ đẻ. Và chắc chắn bạn sẽ tìm được những sở thích riêng biệt mà có thể bạn ghét cay ghét đắng thời học sinh.

Có thể bạn sẽ yêu thích một thứ gì đó và từ đó tìm được lý lẽ sống của đời mình. Tất cả đều có thể xảy ra, ví dụ như tôi – một thằng từng ghét cay ghét đắng K-POP và bây giờ trở thành một fan trung thành của cả mấy nhóm nhạc thần tượng. Cuộc sống tràn đầy bất ngờ, nếu bạn muốn khám phá thì hay thử sức làm nhưng việc mà bạn nghĩ rằng thật khùng khi làm thế. Bạn đang đọc bài viết này đồng nghĩa với việc thời gian của bạn vẫn còn, tôi khuyên bạn điều này: cuộc sống này luôn có hơn một mặt của một vấn đề, hay thử nghiệm và bạn sẽ khám phá được rằng thật may mắn vì mình đã thử. Phải có những lần sai thì mới có được sự thành công.

P/s: tôi đã học được điều này trong một bộ phim tôi không nhớ tên: cuộc sống của bạn không chỉ thuộc về mỗi mình bạn mà còn thuộc về những người yêu thương bạn, vì vậy hãy cố gắng sống tốt vì họ. Vì thế nên suy nghĩ cẩn thận trước khi lựa chọn. Nhưng cũng tùy trường hợp mà ta nên “điên” một chút thì mới “làm nên cơm cháo” được.

 

Trần Bình