16.7 C
Da Lat
Thứ Năm, 21 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 135

Những nhầm lẫn trong mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái

Trong tất cả các tình cảm giữa người với người, không có tình cảm nào giàu tính bao dung, vi tha và vô vị lợi như tình yêu cha mẹ dành con cái. Ngay cả tình yêu trai gái, là đề tài muôn thuở của văn chương, cũng không thể nào sánh được với tình yêu vô vị lợi này của các bậc làm cha làm mẹ.

“Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

Thế nhưng, không phải đứa con nào cũng có phước đón nhận được tình cảm thiêng liêng và quý báu này của các bậc sinh thành. Có những đứa con ước gì chúng không được sinh ra, vì chúng đã không may được làm con của những bậc cha mẹ xấu xí. Có những đứa con lại thèm thuồng và ao ước được một lần đón nhận tình yêu của cha mẹ, vì họ chưa một lần biết đến mặt cha mẹ của mình từ lúc sinh ra. Còn phần lớn chúng ta sinh ra, ai cũng có cha mẹ, có sự chăm sóc yêu thương của họ. Chúng ta là những người may mắn, những đứa con có phúc.

Và hôm nay, tôi muốn viết cho những đứa con may mắn vì có cha mẹ. Bạn sẽ không tìm được ở đây một bản tình ca hùng tráng đầy lòng vi tha, bao dung của các bậc sinh thành, bởi tôi xin nhường lại người khác viết những lời ngợi ca, lòng biết ơn của con cái đối với cha mẹ. Còn trong bài này, tôi mạn phép viết về những điều chưa hẳn đẹp đẽ trong biển trời bao la cha mẹ dành cho con cái. Không phải để oán trách các bậc sinh thành hay kết án họ, mà để chúng ta cùng nhau hiểu hơn về họ, thông cảm cho họ và hơn hết là để chúng ta, những bậc cha mẹ tương lai không đi lại về xe đổ của cha mẹ mình.

Con cái là sở hữu của cha mẹ?

Một cái gì đó là sở hữu của một cái gì đó, thì thứ bị sở hữu không còn cái quyền đưa ra các quyết định. Quyết định thật sự thuộc về đối tượng được sở hữu.

Tôi sở hữu một chiếc xe máy, một mảnh đất, một con chó… nên tôi có quyền trên mọi thứ đó. Đối với những thứ vô tri, vô giác, quyền của tôi là hoàn toàn hợp lý. Vậy còn đối với con cái của tôi thì sao? Chúng có thật sự là một sở hữu của vợ chồng tôi?

Có lẽ trong những thứ liên hệ với cuộc sống của chúng ta, chẳng có gì phản ánh rõ ràng  thành quả của mình hơn ngoài con cái. Chúng được sinh ra bởi tôi, chúng đón nhận những đặc tính di truyền mà tôi có, chúng mang trong mình sự sống của tôi, và hơn nữa là chính vợ chồng tôi nuôi dưỡng nó nên chúng đương nhiên phải là sở hữu của cha mẹ chúng. Đối với phần lớn gia đình Việt Nam, quan niệm “con cái là sở hữu” của cha mẹ vẫn là một điều được chấp nhận.

Nhưng sự thật, con cái có phải là sở hữu của cha mẹ?

Không, chắc chắn con cái không phải là một cái gì đó để cha mẹ sở hữu như họ sở hữu một tài khoản ngân hàng, một ngôi nhà, hay một con chó. Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ không phải là giữa nô lệ và ông chủ, giữa kẻ làm thuê và người đi thuê, mà là mối quan hệ đặt trên giá trị sự thăng hoa của sự sống.

Tôi truyền cho con tôi sự sống, và nó là sự tiếp nối của một sự sống sẽ vụt tắt khi thần chết gõ cửa. Bạn sẽ không thể tìm được mối dây liên hệ nào như trên trong các vật sở hữu mà bạn có. Khi sở hữu là chúng ta đã tách rời mối dây liên hệ sự sống này ra khỏi bản thân, và biến thứ sở hữu thành một điều gì đó ngoại lai.

Sự thăng hoa, hay sự tiếp nối sự sống từ cha mẹ đến con cái là một sự liên kết vô hình nhưng có sự ràng buộc về trách nhiệm, nghĩa vụ và cả ý chí tự do. Nhưng dù sự không rõ ràng trong mối liên kết giữa cha mẹ và con cái, đây vẫn luôn là mối quan hệ được đặt trên tình yêu thương chứ không phải trên sự chiếm đoạt.

Con cái không phải là bản sao của cha mẹ và xã hội.

Cha mẹ nào cũng muốn điều tốt đẹp cho con cái mình, nhưng không phải ai cũng biết điều con cái họ cần là gì. Vì thế, cha mẹ thường áp đặt suy nghĩ, ý muốn, và các dự định của mình cho các con. Các ý muốn của cha mẹ, sự áp đặt của họ lên những đứa trẻ, thường được ngụy trang bởi thứ gọi là “tình yêu”. Ranh giới giữa tình yêu vô vị lợi và vị lợi mong manh chẳng khác nào sự mập mờ của một buổi hoàng hôn, không thể phân biệt khoảnh khắc nào là điểm kết thúc của ngày và sự bắt đầu của đêm. Các bậc cha mẹ đã vô tình biến con cái mình thành một bản sao của chính họ.

Một bản sao dù hoàn chỉnh và đẹp tới đâu thì vẫn là một bản sao, và không bao giờ có thể là bản gốc. Hay nói đơn giản, khi biến con cái thành một bản sao, cha mẹ đã vô tình lấy đi sự sống đích thực mà con cái họ cần vươn tới.

Nếu cha mẹ không có quyền áp đặt suy nghĩ, ý muốn của mình lên con cái, thì họ nên làm thế nào để dạy dỗ con cái đây? Lẽ nào ôm con bỏ chợ, hay là để cho lòng tốt hiếm hoi của xã hội dạy dỗ con cái mình?

Cha mẹ không nên biến con cái mình thành bản sao, không đồng nghĩa là họ không có trách nhiệm phải dạy dỗ con cái họ. Sự hình thành nhân cách của một đứa trẻ cần đến tình yêu của cha mẹ, và hơn nữa trách nhiệm của cha mẹ là dạy dỗ con cái. Có lẽ câu hỏi lớn nhất của các bậc làm cha làm mẹ là: Nên giáo dục con cái thế nào để chúng là chúng, mà không phải là bản sao của cha mẹ chúng?

Bởi một thực tế là có quá nhiều người đủ tuổi để sinh con đẻ cái, nhưng lại chưa đủ nhận thức, kiến thức để trở thành các bậc cha mẹ. Và vì thế, việc nhầm lẫn giữa ý muốn riêng tư của mình và tình yêu dành cho con cái, hay tệ hơn là phó mặc cho xã hội, chính quyền giáo dục là chuyện đang xảy ra hàng ngày và vô tình biến chúng nếu không là bản sao của mình, thì cũng là bản sao của một ý thức hệ nào đó.

Con cái không phải bao giờ lớn.

Tình yêu các bậc cha mẹ dành cho con cái đi mãi cũng năm tháng, dù thời gian có cộng vào hay trừ đi mọi thứ ở họ như sức khoẻ, nhan sắc, tiền bạc. Chính điều này tạo sự khác biệt giữa các mối quan hệ khác trong xã hội. Nhưng có phải tất cả tình yêu các bậc cha mẹ dành cho con cái đều hữu ích?

Tôi không nói tốt và xấu, vì tình yêu phát xuất từ trái tim chân thành đều tốt đẹp, đặc biệt là tình ruột thịt. Nhưng có những sắc thái làm cản trở sự trưởng thành nơi người được nhận. Có những bậc cha mẹ yêu con họ tới mức hầu như làm mọi thứ thay con của mình, cho dù chúng đã lớn như những con sư tử trưởng thành. Nhưng con người không phải là sư tử để có thể tự lập khi đủ lớn. Nên những đứa trẻ suốt ngày được sự bao bọc của phu huynh chúng sẽ đánh mất đi khả năng tự chăm sóc bản thân, tự bảo vệ mình, và tự phát triển trong cuộc sống.

Cách giáo dục và yêu thương quá đà này của một số các bậc làm cha làm mẹ khiến xã hội có một bộ phận không nhỏ thanh niên sống như những đứa trẻ. Họ trở nên lười biếng, lệ thuộc, hay ca vãn, thiếu sức đề kháng trước nghịch cảnh. Trong môi trường gia đình như thế, những đứa con chưa bao giờ lớn sẽ đánh mất luôn khả năng tự phân, tự quyết là những điều cần thiết để trở thành một người trưởng thành và độc lập trong cuộc sống.

Những gì tôi vừa trình bày có thể không phán ảnh đúng toàn bộ mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái trong xã hội Việt Nam, nhưng tôi dám chắc số lượng người có quan điểm trên khi làm cha làm mẹ là không nhỏ. Với mong muốn là đập tan những suy nghĩ sai lầm trong các mối quan hệ giữa người với người, để tạo dựng một xã hội tốt đẹp hơn nên tôi hy vọng các bạn sẽ cùng nhau chia sẻ những suy tư, những tri thức cần thiết để chúng ta cùng nhau học hỏi và phát triển bản thân.
Tác giả: Joseptuat

*Featured Image: hansbenn

 

[THĐP Review] Rừng Na-uy, Haruki Murakami – Những bài học đến từ bệnh tật và cái chết

0

tumblr_inline_nuze9zT0k21s09z1b_1280

Rừng Na-uy ư? Mình sẽ viết gì đây? Tình yêu ư? Hay lại tình dục? Đã có quá nhiều người nói về những điều đó ở trong cuốn sách này rồi. Sao giờ?”

Tôi đã bối rối như vậy khi đặt bút viết và cũng không phủ nhận rằng những nội dung của cuốn sách đã làm bản thân choáng ngợp ngay từ lần đầu tiên thưởng thức. Nhưng sau khi đã viết ra mọi thứ đánh động chính mình ở lớp bề mặt, tôi bắt đầu nhìn ra được những giá trị hoàn toàn khác. Chúng lẩn khuất ở những góc tối đến từ bệnh tật và cái chết.

Ung thư rồi chết, trầm cảm rồi tự vẫn là những câu chuyện xuyên suốt Rừng Na-uy. Chúng cứ gối chồng lên nhau hết lớp này đến lớp khác trong một sự âm thầm ám ảnh vì những yếu tố thu hút hơn – tình yêu, tình dục – đã lấn át đi phần đáng kể. Đặc biệt, tác giả đã dắt người đọc đi qua những tình huống bệnh và chết ấy rất đỗi nhẹ nhàng như thể chuyện hàng ngày hít thở không khí vậy.

Người ta nói rằng:

“Không có một tinh thần bạc nhược trong một thể xác tráng kiện, hay một tinh thần minh mẫn trong một thể xác bệnh hoạn.”

Còn bản thân tôi lại thấy con người ta sẽ đều cần đi qua những trạng thái thiếu cân bằng giữa tinh thần và thể chất (tức là tráng kiện và bạc nhược trộn lẫn nháo nhào) để có thể học được một điều gì đó đáng giá đằng sau đó. Nếu không thể đi qua thử thách này, thì đến một ngày không xa, họ cũng sẽ tiến về nơi 100% bệnh hoạn rồi chết – theo đúng nghĩa đen vậy.

Những tổn thương vật lý chính là hồi chuông cảnh báo người ấy cần quay trở về lắng nghe tiếng nói của chính bản thân mình và buông đi những tư tưởng hay thói quen sống tiêu cực. Những biểu hiện của bệnh tật là thứ nhắc nhở chúng ta về điều gì đó bất ổn sâu thẳm bên trong tâm hồn mình và cần được điều chỉnh lại.

Cơ thể là thứ vô cùng trung thực và thông minh, trong khi càng về sau, con người lại càng xa rời với trí tuệ thể xác. Họ đánh mất bản năng, đánh mất niềm tin vào sức mạnh vật chất của mình và để cho những viên thuốc, những mũi tiêm, những lần xạ trị làm mọi thứ càng trở nên tồi tệ. Tôi không nói rằng y học là điều gì đó không đáng tin cậy. Nhưng trong trường hợp một người không thấu hiểu được trạng thái tinh thần và thể chất của bản thân thì những hỗ trợ y khoa sẽ dễ trở thành nhát rìu cuối cùng vào thân cây sắp đổ.

Việc lắng nghe tiếng nói của cơ thể giúp người ta có thể đi đến tận cùng được nguyên nhân của bệnh tật và đau đớn. Tất cả chúng đều có một hạt mầm trước đó, nhưng họ chỉ loay hoay với việc gạt bỏ đi những triệu chứng khó chịu bên ngoài. Rừng Na-uy đã hướng người đọc đi tìm nguyên nhân của vấn đề khi đẩy những kết cục của các nhân vật đến điểm tận cùng.

Chúng ta biết tại sao Naoko lâm bệnh nhưng sự phục hồi của nàng lại vẫn là điều không thể dự báo được. Không phải cứ nhận ra nguyên nhân của vấn đề là mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Mọi chuyện chưa dừng lại ở đó vì những bài học vẫn còn tiếp diễn. Quá trình tương tác với nhau giữa thể xác và tinh thần lại được đặt vào một thử thách mới đó là việc quyết định hỗ trợ lẫn nhau hay đổ lỗi cho phần còn lại. Tức là sẽ có hai loại độc thoại sau ở bên trong một người: “Cứ từ từ rồi mày sẽ khá lên thôi dạ dày ạ, tao biết mày căng thẳng vì chuyện gì rồi” hoặc là “Dạ dày đang đau vậy đấy, làm sao mà tao vui vẻ cho nổi”. Đó là một ranh giới rất mong mạnh giữa việc sử dụng phần mạnh khỏe hơn để xoa dịu phần đau ốm và việc để cho bệnh tật kéo dài thêm bằng việc dựa dẫm hay đổ lỗi.

Sức mạnh và sự yếu đuối tồn tại cùng một lúc, trong cùng một thực thể và khiến cho sự lựa chọn của mỗi người trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Không thể đơn giản nói một câu rằng: “Hãy đứng về phía sức mạnh và mọi thứ sẽ ổn cả”, mà là phải sống trong câu nói đó từng phút giây. Tức là, bản thân phải tự sản sinh ra sự tỉnh táo, kiên trì và nhiệt huyết, dù cho bệnh tật có đang khiến người ấy trở nên mệt mỏi, nóng vội và yếu đuối.

Quá trình quan sát chính mình khi bị bệnh thật sự rất thú vị đối với những ai muốn phát triển và học hỏi. Và chỉ với thái độ đó thì người ấy mới có thể quan sát được. Nếu không thì tất cả những gì họ biết là lịch hẹn gặp bác sĩ, số liều thuốc phải uống sau mỗi bữa ăn và những hình dung mơ hồ về chữ nghĩa khắc trên bia mộ của mình. Hoặc là người đó sẽ tinh chiết ra được sự kiên nhẫn, niềm tin và sự mạnh khỏe khi rơi vào mớ hỗn độn của sự nghi ngờ, hoang mang và lệch lạc hoặc là họ đánh mất dần đi những tinh túy của chính mình khi ngày ngày ở trong vòng xoáy đó.

Rừng Na-uy đã diễn tả được hầu hết những trạng thái của con người trong quá trình vươn lên này. Có kẻ vật vã lâu dài rồi cũng tự kết liễu đời mình, nhưng cũng có kẻ tưởng rằng mãi mắc kẹt thì lại vươn lên vào một phút giây huy hoàng nào đó. Cuốn sách đã trải ra trước mắt người đọc cả một con đường, cả một cuộc chiến dù khi đọc lên người ta chẳng thấy nó có gì đáng chú ý, nhưng thật sự nó lại đang sục sôi hơn lúc nào hết chỉ chực vỡ òa. Rừng Na-uy như một ngày trước bão nhưng lại đang mang cả cơn bão trong mình!

Chưa dừng lại ở những bài học cá nhân của những người trải qua đớn đau và bệnh tật, thần Bệnh còn mang đến những bài học liên đới dành cho những người xung quanh chúng ta. Đó là sự đồng cảm, yêu thương và chia sẻ. Nhìn vào cuốn tiểu thuyết này, chúng ta không thể không nhìn thấy tình yêu của các nhân vật dành cho nhau, sự kiên trì bền bỉ của họ khi đi qua những quãng đường gian khổ nhất của cuộc đời. Họ nâng đỡ nhau dù chẳng biết rằng ngày mai sẽ nhìn thấy điều gì: Sự tái sinh của người kia hay một màn tự vẫn đường đột. Đó là cách con người trưởng thành và kết nối với nhau. Chỉ trong chông gai thử thách, chúng ta mới nhận ra đâu thật sự là người thương yêu mình.

Câu chuyện của Wantanabe, Naoko, Kizuki, Reiko khiến tôi chợt nhớ đến một loạt những tiểu thuyết như Nhật ký, Đoạn đường để nhớ của Nicholas Sparks và Khi lỗi thuộc về những vì sao của John Green. Ở đó, người đọc cũng được chứng kiến sức mạnh của tình yêu và sự kiên trì trong những hoàn cảnh ốm đau ngặt nghèo. Chẳng bệnh nào giống bệnh nào nhưng sự đồng cảm, sẻ chia và đồng hành cùng nhau thì vẫn luôn làm nên những câu chuyện có sức lay động mãnh liệt.

Thần Bệnh mang đến cho ta tình yêu, sức mạnh và sự thông thái thông qua quá trình biến đổi và thanh lọc. Còn Thần Chết cũng mang cho ta bằng đấy món quà nhưng bằng một con đường quyết liệt khác: Buông bỏ.

Người chết, những cái quan tài, những đám ma xuất hiện chỉ là những dấu hiệu nhắc nhở về một sự kết thúc hoàn toàn và đi theo đó là sự tái sinh mới mẻ. Một cánh cửa đã đóng lại và hãy sẵn sàng để đón nhận những cánh cửa khác mở ra. Một vài nhân vật trong Rừng Na-uy đã chết theo đúng nghĩa đen để thấy rằng bản thân họ không thể buông bỏ được những nỗi đau đớn trong quá khứ, những hình bóng cũ đã mục rữa theo thời gian. Họ không thể làm được hành động buông bỏ đó trong tâm hồn nên sự chết chóc đeo bám họ đến tận nơi thể xác. Những con người đó mãi đi cùng với cánh cửa đã khép chặt.

Chúng ta đều cần những cái chết trong tâm hồn, những sự sụp đổ của tượng đài niềm tin hay kỳ vọng. Nếu một người không thể nhận ra được sự sụp đổ đó thì sớm muộn trạng thái ấy sẽ kéo tới thế giới vật lý của họ. Những vỡ nát bên trong là để mỗi người nhận ra rằng chúng không còn phù hợp, không thể cứu vãn được nữa và cần buông đi hoàn toàn để gây dựng nên một hệ thống mới vững chãi hơn. Kizuki đã chết nhưng Naoko vẫn còn quanh quẩn nơi những ký ức xưa cũ, đến mức không thể hiện diện trong thực tại mới có Wantanabe đang thương yêu hết mực. Rồi đến khi Naoko chết thì Wantanabe lại rơi vào một bài học tương tự… Nhưng cậu ấy đã vượt qua được. Đó là những gì khiến cho Rừng Na-uy trở nên đáng giá!

(Nếu lần sau các bạn có nhìn thấy một đám tang thì đừng vội đi ghi số đề, hãy quan sát bên trong mình, hẳn là vừa có điều gì đó kết thúc!)

Bệnh tật và chết chóc có thể trở thành những thứ đáng sợ và ám ảnh chúng ta. Nhưng chúng là một phần của sự sống, mà sự sống luôn trù phú. Vậy nên nếu mỗi người dám đón nhận những món quà mà những trải nghiệm đau đớn mang lại thì kẻ đó sẽ sớm trở nên giàu có và rộng mở về tâm hồn. Bạn đang bị bệnh ư? Đừng vội bỏ cuộc, con đường thành công đang ở ngay trước mặt kia rồi!

Cuốn tiểu thuyết Rừng Na-uy này là một sản phẩm xuất sắc, nơi rất nhiều khía cạnh khác nhau được lồng ghép. Nó không chỉ để cho người ta nghiền ngẫm nhiều ngày về những giá trị của tình yêu, tình dục, bệnh tật, cái chết mà chính là nơi họ nhìn thấy được sự đan xen chồng lớp của thực tại sống. Những gì tôi vừa đề cập qua chỉ là một lớp của tác phẩm này, chỉ là một góc của bức tranh mà thôi.

Âm hưởng chung của cuốn sách là một sự trầm buồn, lúc tỏ lúc mờ, cảm giác như không gian và thời gian đều đang bị kéo giãn ra theo đúng như dòng hồi tưởng của tác giả. Rừng Na-uy mê hoặc người đọc bởi sự âm thầm mà đầy sục sôi của sức mạnh và nghị lực sống. Vì đến cuối cùng tất cả mọi chuyện, chúng ta đều cần quay về với ý chí của chính mình ở thẳm sâu bên trong. Đó là thứ giúp chúng ta định hướng và tồn tại trong cuộc đời. Khi hai ông Thần kia gõ cửa thì hãy sẵn sàng vì những lão già tinh quái đó sẽ bắt đầu lung lay gốc rễ của chúng ta để kiểm tra mức độ bám trụ của mỗi người.

Rừng Na-uy đã vẽ nên bức tranh tường tận về cuộc đời của vô số con người khi chỉ kể chuyện của một vài cá nhân. Tác giả đã khiến người đọc nhìn thấy mình trong mọi nhân vật. Nếu như mất 10 giờ để đọc xong cuốn sách thì 10 giờ đó chúng ta được đi qua hàng loạt những góc phần của chính mình như một thước phim sống động.

Tuy nhiên, chính vì sự quá cuốn hút khiến độc giả dễ dàng chìm đắm mà cuốn sách có thể kéo người ta đến với điểm cực của sức mạnh hoặc dẫn họ tới tận đáy của sự tuyệt vọng. Lần đầu tiên, mọi góc tối của bản thân đều được phơi bày hết thảy chỉ thông qua việc đọc một cuốn sách. Lúc đó, tôi cảm thấy như thể mình đã rơi vào giữa một vùng hiểm họa. Để rồi sau này, tôi nhận ra đây chính là điểm nút của cuộc khai sáng.

9/10 là điểm mà tôi dành cho tác phẩm này. Rừng Na-uy không phải là một thứ để giải trí chơi bời, nó là một thử thách đáng gờm.

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

Chúng ta có thật sự cần “sự công nhận xã hội” (social approval)?

Tôi là một sinh viên ngành khoa học máy tính, vì vậy sẽ có một số khái niệm liên quan đến máy tính được đưa ra để hỗ trợ cho nội dung của bài viết. Song, bạn không cần hiểu biết về máy tính để hiểu được những gì tôi sắp viết, và mục đích chính vẫn là suy nghĩ về thứ tôi cho là “sự công nhận xã hội”.

Trước hết, “công nhận xã hội” là gì? Đây là một danh từ tôi bắt gặp trong bài viết của Eric S. Raymond, How to become a hacker. Một chút lạc đề, nhưng cần thiết: Định nghĩa về hacker. Rất khó để nói, nhưng với tôi, họ là những người có đam mê tột độ với máy tính, am hiểu mọi thứ về nó. Trong bài viết, tác giả có viết một đoạn tạm dịch sang tiếng Việt như sau:

“Nếu bạn không phải là kiểu người như vậy (như tôi đã nói ở trên, đam mê máy tính), thì bạn cũng phải biến mình thành như vậy. Nếu không, năng lượng hack (hacking energy) của bạn sẽ bị thui chột bởi tình dục, tiền bạc và sự công nhận xã hội (social approval).”

Điều này có liên quan gì? Hacker ở đây, không chỉ là những người nhiệt huyết, mà còn làm công việc chẳng mấy ai làm nổi, trong khi không lấy một đồng thù lao, cũng không cần thiên hạ biết đến.

Nếu bạn thử sống như vậy, làm những điều mình yêu thích đến mức quên đi mọi thứ xung quanh, đạt đến tầm nhận thức sâu nhất, liệu hình ảnh của bạn trong xã hội này, thế giới này có còn quan trọng?

Và tôi thấy được 2 mặt trong nhiều cái 2 mặt khác của xã hội này.

Mặt thứ nhất (cũng có thể là mặt thứ hai, vì 2 mặt đều như nhau) có thể thấy được khi đặt mình vào một con nguời bình thường trong xã hội này. Con người, theo tôi, trong bản chất có nhiều tính chất khác nhau thứ sẽ chiếm ưu thế hơn so với tính chất khác khi được đặt trong môi trường thuận lợi cho sự chiếm ưu thế ấy. Chẳng hạn, làm việc cùng những người nhiệt huyết, bạn thấy khí thế của mình tràn trề; làm việc cùng những người lười nhác, bạn thấy chán nản. Kết quả là bạn sẽ rút lui để tìm môi trường khác nhằm phát huy tính chất mình cần, hoặc bạn sẽ cố chịu đựng cho đến khi bị nuốt chửng bởi môi trường ấy. Nếu không, bạn phải quay lại lựa chọn đầu tiên. Và môi trường tôi đang nói đến ở đây là xã hội hiện tại.

Con người sinh ra và bị kẹp chặt trong vòng luẩn quẩn: Chào đời, tập đi, tập nói, đến trường, trải qua vài cấp học, vào đại học, tốt nghiệp, đi làm, lấy vợ, tái sản xuất, già rồi chết. Và tôi nghĩ rằng, có phải đôi khi, chính những cá nhân nhận thấy cái vòng ấy đã bứt ra, tìm cho mình một chỗ đứng riêng, để được “xã hội công nhận”. Từ đó, có người được cả xã hội biết đến, có người sống cả đời chẳng được ai hay.

Nhưng chính điều này phát sinh mặt thứ 2 của nó: Con người càng ngày càng cho rằng được xã hội biết đến là một điều vô cùng quan trọng mà quên mất rằng con người ấy có xứng đáng được như vậy và điều ấy có ý nghĩa gì không hay là vô nghĩa.

Tôi xin được nói về vế thứ nhất trước. Sống trong xã hội Việt Nam, tôi chỉ nhìn thấy xiềng xích của nó. Tôi không dám nói đến nước ngoài, vì đến giờ những gì tôi biết về họ chỉ qua internet. Tôi thấy buồn, vì đến giờ, tôi vấn thấy vẻ ấu trĩ trong cách suy nghĩ của chúng ta. Không phải là nền giáo dục nói riêng, mà cả một hệ thống tư tưởng nói chung định hình khao khát này.

Thử lấy ví dụ về ô tô. Bạn cũng biết, đất nước Việt Nam nhỏ hẹp, nên đường xá cũng rất keo kiệt. Đó là lý do mà chính quyền đánh thuế mạnh vào ô tô và moto phân khối lớn. Người có tiền để gánh được thuế, thì mua. Người này thấy người kia mua được, cũng cố chết làm việc để mua được cái moto cho bằng người. Cái cố chết ấy, không phải từ khao khát được công nhận, thì từ đâu? Có người sẽ phản biện rằng họ có tiền thì họ mua. Điều ấy hoàn toàn đúng, và tôi chưa hề phủ định. Song ở đây, tôi đang bàn về những quy luật chung nhất.

Hay như cách chọn nghiệp của các bạn trẻ. Theo tôi thấy, đa số người chọn theo ý ba mẹ hoặc chọn bừa, hoặc chọn ngành đang hot, dễ kiếm tiền. Ba mẹ muốn con cái vào trường top, tốt nghiệp mang danh hiệu này nọ, cũng chỉ là để oai với thiên hạ. Nếu không phải, thì sao nhiều bậc phụ huynh lại phát khùng khi biết đứa con mình bỏ học thi lại. Vì thương con? Đúng! Cha mẹ nào mà không thương con, nhưng tư tưởng cốt lõi vẫn là để con mình được thiên hạ biết đến. Hay như người ngoại đạo hay ca tụng Bill Gates, vì ông ấy là một super-nerd, tỷ phú, nhà từ thiện, nhà cách mạng công nghệ. Nhưng không biết rằng ông ấy chỉ là một thành phần trong cuộc cách mạng ấy, cũng không biết rằng ý tưởng về Windows là được đánh cắp từ Steve Jobs.

Bạn có biết rằng nếu không bị quốc hội Mỹ lôi ra tòa, giờ này bạn cũng chẳng có iphone, android, mac os x mà xài? Tiền của ông ấy cũng là từ thiên hạ mà ra, ông ấy đã lấy đủ, thì trả lại cũng chẳng có gì lạ. Còn Ken Thompson, Dennis Ritchie, Linus Torvalds, Richard Stallman, những người đã tạo nền tảng cho sự tự do trên thế giới số của chúng ta lại không được biết tới. So sánh công lao của những người trên, tôi lại tự hỏi ý nghĩa của sự công nhận ấy là gì? Bạn hãy mở rộng đôi tai, đôi mắt, lắng nghe, quan sát, rồi bạn nhận ra rằng những ví dụ tôi nêu trên, lúc ấy, chỉ là cái nhìn thật nhỏ bé của một kẻ non nớt.

Vậy “sự công nhận từ xã hội” thật sự ý nghĩa hay là vô nghĩa? Bạn chắc hẳn nhớ cảm giác bồi hồi khó tả khi được tuyên dương trước một toàn thể, được cha mẹ khen ngợi về thành tích học tập, được họ hàng ca tụng là lễ độ, được xã hội tung hô là có nhiều đóng góp. À, hay như lúc bạn cũng có ô tô như nhà người ta, hoặc đỗ vào đại học có tiếng. Lúc như vậy, có lẽ ta chỉ nghĩ cả đất trời nằm gọn trong tay mình rồi. Tôi nhìn thấy một chiếc Posche. Nó thật đẹp đẽ, sang trọng, đẳng cấp. Nhưng 30 năm nữa, nó chỉ là đồ bỏ. Tôi nhìn thấy chiếc Hypermotard mà hoa cả mắt. Nhưng đến khi con người tìm ra nguồn năng lượng thay thế cho xăng dầu thì siêu xe sẽ cho hết vào bảo tàng, bãi tái chế. Cái oai của ta lúc này, dưới con mắt của chính ta, 30 năm sau, chỉ là sự ngu dốt của một giống mọi tầm thường.

Khi tôi ngước lên bầu trời vào ban đêm, ngắm những vì sao lấp lánh và biết rằng, đó chỉ là bóng ma của chúng, là ánh sáng của nhiều triệu năm trước, tùy theo khoảng cách. Rồi tôi tự hỏi mình rằng tại sao những điều kỳ diệu như vậy lại có thể xảy ra? Tôi mở máy tính lên và thấy một biển kiến thức mà phải mất 10 năm miệt mài nghiên cứu mới lĩnh hội hết được. Rồi tôi quay lại, thấy những khao khát của con người, của chúng ta. Tiền bạc, danh vọng, quyền lực,… thật nhỏ bé so với sự vô tận của vũ trụ này.

Cuối cùng, chẳng phải vì khao khát nhỏ bé ấy mới mang đến cho con người sự hỗn loạn sao? Phong kiến, quả đầu, tư bản, cộng sản. Tôi tự hỏi những mô hình ấy có ý nghĩa gì không? Hay chúng chỉ như một khung xương giúp con người tồn tại để đi đến cái tận cùng của vũ trụ này? Ồ, quá nhiều câu hỏi, và tôi xin được dừng lại tại đây.

Tác giả:  hieunguyen271

*Featured Image: sik-life

 

Bức thư tình cô gái trẻ gửi người yêu

0

Ngày… Tháng… Năm…

Gửi người yêu dấu,

Cuối cùng thì miền Bắc cũng trở lạnh thật rồi anh ạ. Nhưng em lại lấy làm vui mừng vì nó làm nổi bật lên sự ấm áp trong trái tim mình lúc này. Có thể, em biết lý do là gì sau một hồi ngồi phân tích và suy luận như mọi khi em vẫn làm, nhưng là đối với những điều đau đớn. Vậy mà hôm nay em chẳng quá quan tâm đến những cuộc truy tìm ấy nữa. Ở đây đang có một ly cacao nóng, một cuốn sách ngấu nghiến đọc từ hôm qua và một trái tim ngập tràn hạnh phúc. Tại sao không tận hưởng chúng chứ? Nói đến đây em chợt nhận ra rằng mình cần học cách tận hưởng cả những tan nát bên trong cõi lòng, một cuốn sách mãi chẳng bao giờ yêu mến và một gáo nước lạnh dội vào mặt khi mình chẳng hề mong đợi điều đó.

Đã có quá nhiều những đau khổ và sụp đổ diễn ra với em những ngày vừa qua, như thể những tia sét giáng xuống và làm vỡ vụn tất cả lâu đài và thành lũy mà em đã gây dựng trong suốt tháng ngày sống (ít nhất là những phần mà em có thể ý thức được). Mọi thứ em học được trước đó trở nên vô dụng đối với cơn đau này, cứ như thể những điều nhiễu sự ấy đã được biến đổi để có thể tồn tại trong một môi trường khắc nghiệt hơn vậy. Thế là, em buộc phải vứt bỏ đi tất cả những phương thuốc mình đã có, những công cụ mình đã dùng để tiến tới một lối đi hoàn toàn mới. Em, hoặc là chết thảm, hoặc là vươn lên mạnh mẽ hơn cả lũ virus gan lì ấy.

Cảm ơn anh đã ở bên khi em gần như đã suy sụp hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần. Em đã đánh rơi rất nhiều điều quan trọng từ ước mơ của bản thân cho tới niềm tin vào chính mình. Thậm chí, đến cảm giác yêu anh em cũng đã không thể nhận ra nổi. Chuyện đó lại càng khiến em đau đớn hơn nữa. Em đã trở thành kẻ yếu đuối nhất mà mình từ là. Bây giờ nghĩ lại, em thấy nó không tồi tệ như mình tưởng. Ít ra, em còn may mắn sống sót và ngồi đây ngoảnh mặt lại nhìn.

Em đã rất hạnh phúc khi anh nói rằng muốn cùng em đi qua mọi khoảnh khắc thăng trầm trong cuộc đời, muốn nhìn thấy em không chỉ những lúc vui tươi khỏe mạnh, mà còn là những khi đau đớn và lạc lối. Anh muốn thấy toàn bộ con người em. Em nghĩ đó chính là cách khiến người ta có thể trưởng thành trong tình yêu và mở rộng trái tim mình. Nếu có ai đó nói rằng ở bên và dõi theo nhau những bước đường đời như vậy là đơn giản thì em có thể khẳng định rằng họ chưa bao giờ biết yêu là gì. Vì thật sự họ chỉ mới mon men đến ly cacao nóng ấm ấy mà thôi, còn sự tồn tại của gáo nước lạnh đâu đó ngoài kia đang bận tính toán lịch trình để tạt vào mặt người ấy thì vẫn là một điều bí ẩn.

Có những khi, chúng ta bất đồng về quan điểm sống. Dường như không thể chịu đựng được sự mâu thuẫn ấy, em đã muốn kết thúc mọi thứ bằng việc trốn chạy. Em đã tưởng rằng tình yêu muốn bền lâu thì cần có chung một góc nhìn, chung một lối đi, nhưng một lần nữa anh lại giúp em nhận ra rằng tình yêu thật sự to lớn hơn thế rất nhiều. Nó là sự chân thành chia sẻ và dũng cảm lắng nghe cũng như chấp nhận nhau dù hai thế giới hoàn toàn đối lập. Chúng ta tìm đến được sự hài hòa và đồng điệu khi ở trong một mớ xung đột và mâu thuẫn.

Em đã không thể liên lạc được với anh những ngày qua dù đã làm đủ mọi cách có thể. Cho tới khi em bỏ cuộc thì mọi thứ bắt đầu sáng tỏ. Em đã dính mắc quá nhiều trong mối quan hệ này. Nó khiến em đánh mất chính bản thân mình, trở thành một kẻ yếu đuối, dựa dẫm rồi chuyển sang ích kỷ, hèn mọn khi bắt đầu gia tăng ý muốn kiểm soát anh.

Chuyện này nghe có vẻ rắc rối nhưng quả thực em sẽ không nên chia tay anh để có được sự tự do và càng không nên giữ chặt anh bên mình để có được niềm hạnh phúc. Đó không phải là cách người ta dùng để trưởng thành trong tình yêu, dù rằng chắc chắn họ phải thử chúng ít nhất một lần. Giống như chuyện một ông bác học nổi tiếng nào đó mãi không tìm được ra câu trả lời cuối cùng trước khi chết thì ông ta vẫn có thể tự hào với khám phá vĩ đại của mình được mang tên “1000 vật liệu không thể làm dây tóc bóng đèn”.

Không cần biết là ai đang muốn sở hữu ai, em chỉ thấy ở đó là một sự thiếu thốn tự do. Không cần biết là chúng ta đang mâu thuẫn chuyện gì, em chỉ thấy cả hai đang cần một sự đồng điệu. Chúng ta yêu nhau chỉ là để học cách yêu chính bản thân mình mà thôi. Trò chơi phân cực ấy đang dần phơi bày trên nhiều phương diện rồi và em chẳng thể nào thoái lui khỏi việc học nó cho đến tận cùng.

Trước kia, em đã sai lầm khi mãi chỉ biết đứng ở một phía và làm nó rối tinh lên thay vì tự mình dịch chuyển sang bên kia cán cân và nhìn mọi thứ trở lại với sự hài hòa. Em chỉ như con rối bé nhỏ vẫn quanh quẩn ở một góc hẹp nào đó của một bức tranh vĩ đại nhiều tầng lớp, cho đến một ngày nó chợt đứng tách mình ra và trông thấy được phần nào kiệt tác ấy. Nó sẽ gào tướng lên rằng: “A đây rồi! Đây là tách cacao nóng còn đây là gáo nước lạnh!” Kiệt tác này cũng không đến nỗi tệ lắm anh nhỉ.

Anh biết không, vào những phút kiệt quệ em đã bị lung lay mục đích sống của bản thân. Mọi thứ trở nên đầy hoài nghi, mờ nhạt và lạnh lẽo. Chúng đã khiến em trở nên đui mù và tàn độc. Em đã không còn nhận ra mình ở nơi đây nữa và chẳng biết mình rồi sẽ trôi về đâu trong cõi mịt mùng này. Đó là một cảm giác đầy tang tóc ở trong tâm hồn, chết dần chết mòn. Và nó đáng sợ hơn cả việc sống trong địa ngục vì ít ra ở đó vẫn còn gọi là sống.

Cảm ơn anh vì đã ở bên vào những giờ phút bản thân em đã gần như kiệt quệ. Cảm ơn anh vì đã rời xa em đúng lúc để em có thể nhận ra rằng mình có đủ sức mạnh quay trở lại với cuộc đời. Em chưa bao giờ dám tưởng tượng rằng yêu một ai đó lại là một hành trình đẹp đẽ và sinh động đến vậy. Em muốn được tiếp tục sống, được lan tỏa niềm hạnh phúc mà mình có đến với thế giới này.

Dù anh có đang ở nơi đâu, em cũng mong anh luôn được bình an và ngập tràn sức sống. Chúa ban phước lành cho anh. Em yêu anh!

Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: KIMDAEJEUNG

Làm sao để học đại học tốt hơn?

Có thể tại THĐP không có nhiều bạn học lớp 12 trở xuống, nhưng mình vẫn muốn viết ra những suy nghĩ của bản thân.

Chúng ta nói về giáo dục Việt Nam thối nát, cũ kỹ, lạc hậu, v.v… Nhưng khi bạn muốn thay đổi nó, chắc chắn bạn không làm được. Và cũng chắc chắn Bộ giáo dục không bao giờ muốn cải cách nó. Họa chăng chừng nào toàn bộ hệ thống nhà nước thay đổi thì lúc đó giáo dục mới được cải cách. Dù nó lạc hậu thì nó cũng là cố định, dù 1 năm hay 10 năm, thì nó vẫn sẽ tác động rất nhiều. Các học sinh, thậm chí là sinh viên, thay vì ngồi đợi cái gì đó cố định được thay đổi, tại sao không thay đổi bản thân chính mình?

Mình thấy rất nhiều bạn học sinh kêu ca rằng bài tập quá nhiều, quá nhiều kiến thức, áp lực, quá nhiều kỳ thi, giáo viên quá dở, v.v…

Điều này có vẻ hơi cá nhân. Nhưng xin phép đánh giá thời gian theo kinh nghiệm mình đi học: Dậy từ 6h – Học đến 11h30 – Ngủ trưa nếu muốn – Sau đó tiếp tục từ 13h30 đến 17h. Tập thể dục tắm rửa ăn uống đến 19h. Tất nhiên, sẽ có những khi bạn nghỉ buổi chiều, ngày lễ, bạn phụ giúp gia đình hoặc chơi bời gì đó.

Nhìn chung, từ 19h đi, những người hay kêu ca thường không phải phụ giúp gia đình gì. Mà có phụ thì cứ cho là bạn làm đến 21h, rồi đi ngủ lúc 24h. Tức là, chúng ta còn 3h để học bài!

*Cắt mạch một chút: Cách mình học theo kiểu trên khi còn đi học ở năm 12. Còn lớp dưới thì học ít hơn nữa:

– Đến lớp đầy đủ (tất nhiên) – những trò quậy phá cấp cao như đánh nhau, hút chích thì mình không tham gia – Trong lớp khi cần thiết thì tập trung. Không thì nói chuyện, ăn vặt, v.v… Thời gian nghỉ trưa thường để chơi game. Hôm nào về sớm thì lại cùng chúng bạn đi bida, ra quán net.
– Ca chiều đi học. Về thể thao một chút. Sau đó bán hàng cho má. Thường 10h mới ngồi vào bàn học. Và 10h30 có mặt trên giường ngủ. Các bạn ạ, 30 phút đó không phải để mình làm bài tập hay là học bài cũ. Mình dùng để đọc trước bài ngày mai. Thường bài tập trong sách mình làm ngay khi đang học ở lớp. Thuộc bài luôn khi học xong (sẽ nói thêm về sau).
– Suốt 12 năm học, thật ra từ lớp 9, khi nhận thức được những cái mình học ra sao, để làm gì, mình chỉ học như vậy và mình dễ dàng được học sinh giỏi 12 năm liền (mình chỉ muốn chỉ ra là cách mình làm nó hiệu quả chứ không phải khoe nhé) và khá dư giả thời gian để chơi này chơi nọ. Cũng chẳng có gì là áp lực hay gánh nặng. Sau đó ôn tại nhà một thời gian, mình đậu vào ĐH CNTT với số điểm 21.5 – không cao, nhưng với những gì mình bỏ ra thì nó cao rồi đó.

Vậy, mình tự hỏi những các bạn đang gặp vấn đề gì tại ghế nhà trường? Ở đây, mình muốn nói đến những bạn hay kêu ca, đổ lỗi này giáo dục thế này thế nọ, thầy cô như này như kia nhé.

Đầu tiên mình xin phân tích tâm trạng của một người học hành nhẹ nhàng nhé.

  • Bạn đến trường mà không xem nó là gánh nặng, cảm giác đi học rất vui. Hơn cả đi chơi giải trí này nọ. Bạn bè, đùa giỡn, ôi bao nhiêu kỷ niệm.
  • Thầy cô: Bạn có để ý, mấy đứa học giỏi thầy cô thích lắm, lúc nào cũng vui vẻ nói chuyện thân thiết. Nếu cả lớp chả có ai yếu kém thì sao? Một mối quan hệ đẹp đẽ, cuối tuần đến nhà thầy cô chủ nhiệm nấu nướng, chơi bời – lại bao nhiêu là niềm vui kỷ niệm.
  • Thi cử: Một khi mọi thứ đã nắm bắt, kể cả môn mình không thích đi chăng nữa, thì việc kiểm tra như ăn kẹo ấy, 5đ. Dễ dàng.
  • Tốt nghiệp: Không phải suy nghĩ gì cả. Đậu chắc.
  • Đại học: Nếu bạn chọn một trường tầm trung như mình. Thì cũng không phải quá đau đầu này nọ đâu. Tự tin và vui vẻ.

Vậy điều gì làm một phần các bạn không được như trên?

Mình hiểu, cách dạy có vấn đề, sách vở có vấn đề… Nhưng như vậy là ta vứt bỏ? Nguyên nhân chính của việc khi lên lớp trên bạn chán môn học nào đó không phải là do bạn không thích nó đâu. Về cơ bản, bạn không thích không có nghĩa bạn không hiểu được nó. Mình nghĩ lý do ở chỗ bạn không hiểu nó, không hiểu vì chúng ta bị mất gốc từ những lớp thấp hơn (ở đây đừng lôi lý do này nọ ra nhé.) Mình chỉ muốn bạn tự hỏi khi nhận ra điều đó, ta có tìm hiểu lại?

Bạn có cố gắng để tìm lại gốc chưa? Hay chỉ là than vãn, đổ lỗi và.. rồi thôi. Phần lớn chúng ta ghét môn học là do ta mất gốc và không chịu tìm lại, không bỏ thời gian cho nó. Rồi từ từ ghét luôn giáo viên. Và bạn tự hiểu mọi chuyện sau đó sẽ như thế nào.

  • Trường hợp bạn không giỏi văn (mình cũng từng dở văn lắm): Không phải không cảm nhận được abc xyz này kia. Đúng, văn học áp đặt ghê gớm, bắt chúng ta hiểu như này, nghĩ như kia. Và nếu chúng ta không học như con vẹt thì không làm nổi. Vấn đề là do chúng ta không có vốn từ đấy các bạn ạ. Suy nghĩ ta có nhưng không thể hiện ra được vì không có từ trong não. Một khi có vốn từ, bạn chém gió cũng có điểm – 5đ. Hay lắm nhé. Bạn không giỏi về nó mà cứ đặt mục tiêu là 10đ.
  • Hãy đọc sách. Mình tin là trong muôn ngàn loại sách bạn sẽ thích một loại gì đó. Hãy đọc. Từ vựng sẽ có. Và nhớ là 5đ thôi nhé. Bạn sẽ thấy nó dễ dàng hơn rất nhiều.
  • Các môn tính toán: Có những thứ rất khó. Đồng ý. Mình chẳng học nó luôn. Mình chỉ học những cái tư duy thông thường hiểu được, chứ nắm hết mệt lắm. 5đ. Nhẹ nhàng thôi nhé bạn. Thật lòng mà nói, những thứ dễ quá mà bạn cũng không hiểu thì nên xem lại chính mình.
  • Hãy tập trung. Không phải chỉ vì môn học, mình tập trung là thể hiện mình tôn trọng giáo viên. Tức là rèn cho bản thân tính tôn trọng người khác. Người khác nhận ra họ được tôn trọng, họ cũng sẽ tận tình hơn, nhiệt tình hơn. Nếu tập trung, bạn sẽ nắm bắt được. Bạn nên làm bài tập ở lớp luôn hoặc nhẩm lại lý thuyết luôn, về nhà không cần bận tâm nữa. Nếu không, bạn sẽ vụt mất một bài, tức là bài hôm sau bạn cũng sẽ không hiểu dù bạn đã tập trung. Dần dần, bạn sẽ không hiểu nó rồi ghét nó. Vì vậy hãy tập trung khi đang học nhé.
  • Tìm cách vượt qua kiểu bợm bợm: Thay vì ra tiệm chơi game, hãy tìm bài văn mẫu cho cái đề. Thay vì vẽ lại bản đồ Việt Nam, hãy dùng kính đồ nó, v.v….
  • Giáo viên dở: Thật sự mà nói, ít nhất họ sẽ dạy được những thứ trong sách. Hãy dẹp bỏ thái độ ghét bỏ, thờ ơ với họ. Bạn có bao giờ giơ tay đứng lên nói với họ rằng “thầy cô nên dạy như này, như kia” chưa hay chỉ suy nghĩ: “Ôi, nói ra ông bả ghét mình chết!” Mình vẫn nhớ đã từng chỉ trích một ông thầy dạy dở. Về sau, ổng lại thích mình lắm và còn tự thay đổi cách dạy nữa. Ai cũng có thiếu sót cả, hãy góp ý để đôi bên cùng hoàn thiện. Gặp trường hợp này thì nên góp ý và tự đọc lại bài nữa. Nắm cơ bản và đạt 5đ. Mọi thứ không quá khó đâu. Cũng có những giáo viên ích kỷ, xấu tính, không chịu tiếp thu ý kiến học sinh thậm chí là thù ghét học sinh. Cách tốt nhất là im lặng tôn trọng họ, tập trung nắm bắt cơ bản. 5đ.
  • Đừng ngủ nhiều: Khoảng 7h là đủ. Hãy tập tỉnh táo. Lên lớp gật gù, bạn sẽ mất tập trung và sẽ thành thói quen. Cái này tùy bạn thôi. Mình thích thức để chơi hơn.
  • Hãy học trường “làng” nếu bạn ở quê. Và đừng cố vào trường điểm làm gì : Bạn sẽ dễ thở hơn, vui vẻ hơn. Không quá nhiều bài tập để làm. Không cần đặt nặng quá nhiều. Cấp 3 với mình là những kỷ niệm, Và những đứa bạn thân.

Mình đang chia sẻ cách để đối phó phải không? Hoàn toàn không nhé. Nếu áp dụng cách học 5đ trên. Mình tin các bạn sẽ làm được một cách nhẹ nhàng, thoải mái.

Nhưng đầu tiên mình mong các bạn hiểu rằng bằng khen, điểm số khi đi học chẳng là cái gì cả. Đừng quan trọng nó. Và bạn nghĩ học kiểu này sao đậu đại học nổi? Trừ một số ngành như công an, v.v… Các bạn cần học giỏi và cũng chưa chắc giỏi là được. (Nhà nước thì mình không ham rồi). Bạn thấy một trung cấp nghề và đại học ai hơn ai?

Mình hiện là sinh viên năm 2. Trong 2 năm đại học đó, mình học lập trình C. Một bạn trung cấp CNTT cũng học lập trình C. Mình hơn cái gì? Mác Lê-nin, toán đại cương?

Mình muốn các bạn hiểu, đại học chẳng qua là danh nghĩa. Người ta bị suy nghĩ về danh nghĩa ăn sâu quá rồi. Nó chẳng hơn gì đâu. Hết cấp 3, người giỏi hơn sẽ là người tự cố gắng hơn, tự rèn luyện kỹ năng hơn. Bạn hãy yên tâm rằng không có công ty nào đánh giá bạn qua tấm bằng, chỉ bên anh nước quan trọng thế thôi. Hãy rèn luyện ngoại ngữ, kỹ năng chuyên môn. Rất nhiều công ty nước ngoài sẵn sàng thử sức bạn và chào đón bạn mà chẳng cần biết bạn có bằng hay không.

Vấn đề lớn nhất là: Gia đình. Khi bạn làm như vậy, bạn sẽ gặp phải rất nhiều ý kiến phản đối. Hãy dũng cảm bày tỏ ý kiến với cha mẹ. Nếu họ không lắng nghe bạn vì nghĩ bạn chưa trưởng thành, còn nông nổi, hãy dũng cảm chứng minh, hãy nói ra để mọi thứ nhẹ nhàng hơn. Khi bạn đã có ước mơ, việc chấp nhận học thuộc những thứ bạn không thích để qua môn để đến với ước mơ có là gì đâu?

Nếu bạn xác định được ước mơ sớm hơn hãy nói ra suy nghĩ của mình với bố mẹ. Hoặc hành động để thực hiện nó. Từ bỏ việc học tại trường lớp đi. Còn nếu chưa, hãy xem cấp 3 là một thứ gì đó nhẹ nhàng. Đừng cố nhồi sọ và để bị nhồi sọ. Hãy cố gắng và quyết tâm. Thay vì than vãn, chán nản thì hãy quên những khó khăn tầm thường đó. Dù đây là những lý thuyết xàm xí, cũ rích. Nhưng vượt qua nó là bạn đến với ước mơ của mình. VẬY TẠI SAO KHÔNG LÀM?

Tác giả: Light03

*Featured Image: EvgeniT

Paul Auster và trò tung hứng với con chữ

“Quý vị là ai? Và nếu quý vị nghĩ quý vị biết thì tại sao quý vị lại vẫn cứ nói dối thế?”

“Người ta không những mất hết ý thức về mục đích, người ta còn mất cả ngôn ngữ để nói về nó.”

Paul Auster là một nhà văn gốc Do Thái, sinh sống ở Mỹ, văn phong của ông độc đáo, lạ lùng, khó hiểu và đôi lúc kỳ quặc nhưng hoàn toàn không giống với phong cách của nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami. Các tác phẩm của Paul Auster đa phần đều thấm đẫm tự sự nặng nề, đôi khi làm người đọc hoang mang vì không thể hiểu được ý định của tác giả (như trong cuốn Trần trụi với văn chương) hay mệt mỏi vì diễn biến tâm lý phức tạp, quái dị và trì trệ của nhân vật trong Moon Palace.

Dường như Phân tâm học là nền tảng chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm của Paul Auster, đó là một nhánh rẽ của Phân tâm học cho rằng con người tiếp cận thế giới thông qua từ ngữ. Con người chiêm nghiệm thế giới bằng các giác quan của mình, cảm nhận, suy nghĩ và tương tác với nhau bằng từ ngữ. Do vậy, chỉ cần đọc bất kỳ một cuốn sách nào của ông, ta sẽ bắt gặp ông chơi trò tung hứng với con chữ ở một vài đoạn nhằm mục đích làm nổi bật ý định của mình.

Trong mê cung của ngôn ngữ, một từ không chỉ đơn giản được sáng tạo ra một cách độc lập mà thường sẽ có sự vay mượn giữa các dân tộc với nhau bởi chiến tranh hoặc giao thương. Bằng cách so sánh từ vay mượn với từ gốc, con người có thể hiểu sâu sắc hơn về một định nghĩa, hay về bản chất của tình cảm con người. Có một ví dụ như sau: “Động từ suy đoán “Speculate” có nguồn gốc từ chữ “Speculatus” trong tiếng Latinh, có nghĩa là tấm gương.” (Paul Auster, Trần trụi với văn chương)

Khi ta suy đoán về ai đó, thực ra ta chỉ đang nói về chính mình, cách dân tộc Việt Nam hay nói “suy bụng ta ra bụng người”, trong phân tâm học gọi là phóng chiếu (projection). Giải thích cho quan điểm này, trong Trần trụi với văn chương, Paul Auster nói rằng:

“Không ai có thể vượt qua rào cản để thâm nhập vào người khác, bởi một lẽ giản đơn rằng, chẳng ai có thể tới được chính bản thân mình.”

Ông cho rằng từ ngữ tồn tại có chức năng như một cây cầu nối liền những yếu tố đối lập, tương phản trong thế giới. Có một ví dụ rất dễ hiểu như sau, “breath” và “death”, hoặc những chữ cái trong từ “live” có thể sắp xếp thành “evil”, những điều đối lập tồn tại cùng nhau. Ta cũng thường hay phân tích những từ như “believe” trong đó đã ẩn chứa sẵn “lie”, từ “friend” cuối cùng là chữ “end”, “lover” tiềm tàng một sự kết thúc “Over”.

Tôi có thể đưa ra hàng tá ví dụ khác như, “Listen” đảo ngược lại ta có từ “Silent”, điều này quá hiển nhiên để hiểu, lắng nghe đòi hỏi sự im lặng. Hoặc một vài từ mà tôi tự nghĩ ra, “Leave a note” để lại điều dặn dò gì đấy. “Leave” nghĩa là “ra đi”, nhưng trong ngữ cảnh này lại có nghĩa là “để lại”, ta cũng có thể dễ dàng đoán được rằng chỉ có người đã “ra đi” mới “để lại” một điều gì đó cho người ở lại. Không có sự “ra đi” thì việc ta nói một vật (hoặc kỷ niệm) nào đó được “để lại” là rất vô lý, cả hai chỉ có thể xuất hiện đồng thời.

“Miss a chance” bỏ lỡ một cơ hội, “miss” có nghĩa là “bỏ lỡ” hoặc là “nhớ”, trong câu trên có nghĩa là “bỏ lỡ”. Người ta chỉ cảm thấy “nhớ” một điều gì đó khôn nguôi khi chính mình đã ngu ngốc “bỏ lỡ” nó. Giải thích theo cách đơn giản hơn, chúng ta thường suy nghĩ mãi về một điều mình không kịp hoàn thành. Một kiểu giải thích khác dân dã hơn như “con cá bị vuột mất là con cá to”, ta sẽ nhớ mãi về nó thôi.

Không chỉ có Paul Auster hay những nhà phân tâm mới chơi trò lắp ghép với ngôn ngữ, chính tâm trí của chúng ta cũng đang làm điều đó nhưng với một cách tinh tế hơn, những giấc mơ. Tôi nhớ có lần mình để vuột mất cơ hội về chuyện tình cảm, để tự an ủi mình tôi vẫn tự nhủ rằng chuyện đã qua sẽ mở đường cho cái mới đến. Không lâu sau đó tôi có một giấc mơ về ngọn Núi Tuyết, tôi chỉ thấy độc một hình ảnh của ngọn Núi Tuyết mà thôi, rồi tôi chợt hiểu ra rằng thực ra tôi đang cảm thấy “nuối tiếc” được đọc trại đi của từ “núi tuyết”.

Quay lại với tác giả Paul Auster, ông xem trọng ngôn ngữ một cách nghiêm túc đến mức đau buồn vì con người đã biến ngôn ngữ trở thành thoái hoá, giả tạo và “bị cắt đứt khỏi Thượng Đế”. Con người đi đến mức nói những lời giả dối và xuyên tạc chính điều mà họ muốn nói. Ông lấy ví dụ về cái ô, một cái ô sẽ được gọi là gì nếu nó không có vải che? Nó chỉ còn trơ mỗi khung xương sắt và không thể sử dụng với chức năng như là một cái ô bình thường nữa. Ta sẽ gọi nó là cái gì đây? Mọi người vẫn sẽ gọi nó là cái ô, nhưng với Paul Auster ông cho rằng cách diễn đạt như vậy là sai với thực tại, là bước đầu dẫn con người đi đến mất hết ý thức về mục đích sử dụng ngôn ngữ.

“Đừng bao giờ nói dối, vì ngay cả sự thật vẫn còn chưa đủ.”

Ông nói điều này với ngụ ý rằng ngay cả với tâm hồn trong sạch cũng có thể nói sai sự thật, không phải là nói dối mà là nói sai. Người này có thể có một ý định tốt nhưng khi từ ngữ tuôn ra ngoài bỗng trở nên méo mó vì anh ta không ý thức đầy đủ về từ mà mình lựa chọn để truyền đạt.

Chẳng hạn như từ “cố gắng”, ta có thể thấy mọi người sử dụng từ “cố gắng” khắp mọi nơi để muốn nói rằng tôi sẽ làm tốt hơn thế nữa. Nhưng họ không hiểu rằng từ “cố gắng” thực sự rất không tự nhiên, đó là một từ để chỉ bạn phải gắng sức bơi ngược dòng để đến đích. Điều đó làm bạn kiệt sức và tất nhiên là không thể kéo dài. Khi bạn dùng từ “cố gắng” điều đó có nghĩa rằng bạn đang dự định làm điều gì đó trái với tự nhiên hoặc với chính bản thân mình.

Một ví dụ như sau, một người sẽ không thể nói rằng mình đang rất cố gắng thở, rất vô lý. Bạn chỉ có thể nói rằng mình đang cố gắng nhịn thở thôi. Bạn không nên nói rằng tôi cố gắng sống, đúng ra là tôi phải sống hoặc tôi đang sống mà thôi. Nếu bạn đang cố gắng thở tức là bạn đang hấp hối, nếu bạn đang “cố gắng” sống tức là bạn đang không muốn sống nữa rồi.

Tương tự, một người tuyên bố rằng “tôi sẽ cố gắng hoàn thành công việc”, điều đó có nghĩa là anh ta đã chán ngán lắm rồi. Đáng lẽ, anh ta chỉ cần đơn giản nói rằng “tôi sẽ hoàn thành công việc”, anh ta tin rằng anh ta làm được. Nhưng rất nhiều người không còn nhìn ra được đặc điểm này nữa, vì họ nói lời của của người khác, họ được dạy phải nói như thế này nghe mới hay, phải nói như thế nọ nghe mới sang. Họ không có khả năng sử dụng ngôn ngữ của chính mình như một cách thể hiện sự độc đáo của bản thân, thay vào đó họ sử dụng trang sức và hình xăm.

Tôi muốn kết thúc bài viết này bằng cách quay về với Paul Auster. Với ông, đỉnh cao của việc sử dụng ngôn từ là càng ít lời càng hay. Trong Người trong bóng tối ông có viết rằng:

“Đã biết nghề thì không cần phải nói nhiều.”

Rằng phim ảnh cũng đặc sắc ngang với sách vở, chỉ khác nhau ở cách truyền đạt, hay thậm chí còn diễn đạt chính xác, đi thẳng vào tim người hơn cả sách qua những cảnh quay, hình ảnh, cảm nhận không lời. Không có lời nói thì ý định có thể không thể hiểu được nhưng không thể hiểu sai.

Tác giả: Quyên Quyên

Phân tích khả năng lấy vợ còn trinh của người đàn ông Việt Nam

Đàn ông chúng tôi ngồi với nhau uống bia thường chỉ có 3 chủ đề để nói chuyện:

₋ Công việc
₋ Tình dục
₋ Cuộc sống & đam mê.

Trong những năm gần đây, trên mạng xuất hiện những bài báo như: “Là đàn ông, tôi phải lấy vợ còn trinh trắng” “Chồng bảo thà bị cắm sừng còn hơn là lấy vợ mất trinh” “Là trai tân tôi phải lấy vợ còn trinh” “Tôi sẽ không cưới một cô vợ mất trinh” “Một số đàn ông Việt bị ám ảnh bởi trinh tiết”… Các bạn nghĩ sao về hiện tượng này?

Cá nhân tôi thì tôi thuộc dạng người thích phân tích mọi chuyện theo quan điểm cá nhân của mình. Có thể, nó sẽ đúng hoặc sai, thậm chí nó sẽ làm các bạn khó chịu và bực mình. Nếu các bạn cho rằng mình đúng thì cứ giữ lấy quan điểm của bản thân.

Tôi luôn thắc mắc hỏi: “Tại sao phải lấy vợ còn trinh?” Mà không phải là lấy “chồng còn trinh”? Tôi nghĩ có thể phần lớn trong quan điểm tư tưởng vợ là một thứ gì đó phải tinh khiết, trong trắng, còn đàn ông là người sỡ hữu nó. Tôi xin phân tích 3 yếu tố để lấy vợ trinh.

1. Yếu tố dân số

Vì sao tôi phân tích như vậy? Điều này dựa trên thông tin những báo về dân số nói về tỷ lệ nam và nữ có sự chênh lệnh, có khả năng xảy ra trường hợp “ế vợ”. “Đến năm 2050 có 4,3 triệu đàn ông Việt Nam có khả năng ế vợ” “Tỷ lệ giới tính khi sinh tăng lên 114 trẻ trai/100 trẻ gái”… Điều này có nghĩa rằng trong tương lai, có khả năng giới đàn ông sẽ phải F.A không phải vì không muốn lấy vợ mất trinh mà không có vợ để lấy. Lúc đó, khả năng người phụ nữ sẽ quay lại chọn lựa các anh để lấy làm chồng. Họ sẽ bắt đầu lựa những người đàn ông tốt nhất, có những yếu tố như: Tài chính, nhan sắc, sự nghiệp, tính cách,… Và dĩ nhiên những người đàn ông đặt vấn đế trinh tiết trên hàng đầu sẽ bị loại ra đầu tiên, do chắc gì những người phụ nữ này còn trinh.

Người phụ nữ sẽ có giá hơn đàn ông vì họ ít về số lượng và cũng có khả năng một người phụ nữ cặp đến 3 -4 người đàn ông. Nếu họ không thích người đàn ông nào, họ hoàn toàn có quyền từ bỏ và không sợ ế. Còn đàn ông thì phải nỗ lực để cạnh tranh với những người đàn ông khác để có được vợ. Điều này là quy luật cung cầu của thị trường, nguồn cầu tăng, nguồn cung không đáp ứng đủ, hàng hóa sẽ tăng giá. Quy luật này hoàn toàn có khả năng xảy ra ở Việt Nam. Lúc đó tiêu chuẩn lấy chồng của người phụ nữ rất cao, vì người phụ nữ có nhiều sự chọn lựa hơn.

Vậy điều gì xảy ra? Nếu lúc này các anh vẫn muốn lấy vợ còn trinh thì có những giải pháp cho các anh nữa đó là sang nước khác lấy vợ hoặc trở thành kẻ “ấu dâm”. Nếu đàn ông đủ bản lĩnh và tài giỏi, họ hoàn toàn có thể sang nước khác lấy vợ, nhưng về vấn đề còn trinh thì không biết. Còn vấn đề “ấu dâm” thì chắc chắn sẽ có trinh tiết. Trừ khi các anh bị ám ảnh trinh tiết, các anh chỉ có thể trở thành những tên tội phạm tình dục thích quan hệ tình dục trẻ con hoặc nữ chưa vị thành niên. Tệ hơn, các anh kiếm một bé gái nuôi lớn lên rồi lấy nó làm vợ thì khả năng bé gái đó còn trinh tiết.

Nếu như các anh chấp nhận làm như vậy thì hẳn các anh là những kẻ cổ hủ bệnh hoạn bị ám ảnh nặng nề về trinh tiết. Các anh mang một tư tưởng bệnh hoạn, điên khùng, có thể nói là các anh bị bệnh về tâm trí. Lấy một người vợ ngoài mục đích “duy trì nòi giống” thì chúng ta có rất nhiều những giá trị khác như: Hạnh phúc, được quan tâm chăm sóc, xây dựng gia đình, nền tảng bền vững cho sự nghiệp… Vậy tại sao chúng ta lại quá chăm chú vào yếu tố trinh tiết để bỏ lỡ những giá trị khác. Rồi cuối cùng, chúng ta cảm thấy bất hạnh và đau khổ khi biết vợ không còn trinh.

2. Yếu tố quan niệm

Chúng ta thường có một quan niệm là phụ nữ trinh tiết đi cùng nghĩa với một người phụ nữ tiết hạnh. Tiết hạnh ở đây gồm 2 phần: Tính cách và Thân xác. Tiết hạnh về tính cách thì chúng ta sẽ không bàn nữa vì nó rất quan trọng nên tôi chỉ bàn về tiết hạnh ở thân xác thôi.

Đàn ông thường chỉ muốn lấy vợ còn trinh vì một trong những quan điểm là “vợ còn trinh trắng sẽ là người vợ tốt”. Điều gì xảy ra nếu phụ nữ trinh tiết về thể xác không phải là một người tiết hạnh về tính cách, và người phụ nữ không có trinh tiết thân xác là người phụ nữ tiết hạnh về tính cách? Chúng ta không thể chắc chắn 100% rằng người phụ nữ trinh tiết về thể xác sẽ và đang là người phụ nữ đức hạnh về tính cách. Vậy nếu trong trường hợp phụ nữ còn trinh về thể xác nhưng vì lý do “màng trinh để lấy chồng” nên quyết định cho người đàn ông khác quan hệ cửa sau hoặc có những mơn trớn khác. Liệu chúng ta cho rằng phụ nữ đó có trinh tiết không cho dù vẫn còn màng trinh?

Vậy từ đâu xuất phát quan niệm “trinh tiết”? Quan niệm về “trinh tiết” là quan niệm của ông bà ta ngày xưa về người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhưng nguồn gốc nó xuất phát từ Trung Quốc. Đạo Khổng ngày xưa đã từng quan niệm về giá trị rẻ rúng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, mặc dù thời phong kiến đã không còn, nhưng quan niệm phong kiến về phụ nữ vẫn còn.

Chúng ta thường chê cười và chống đối những hủ tục, tục lệ phong kiến vậy mà chúng ta vẫn còn giữ quan niệm về “trinh tiết” thì liệu chúng ta có thật sự là một người có văn minh không? Chúng ta luôn có một niềm tự hào dân tộc “Chúng ta là người Việt Nam” vậy mà chúng ta còn lưu giữ những thứ qua niệm sai lầm trong khi quan niệm này lại có nguồn gốc từ Trung Quốc, một đất nước đã từng nhiều lần xâm lược và gây chiến tranh cho chúng ta. Quan niệm ấy đã gây đau khổ biết bao nhiêu cuộc đời phụ nữ, tan vỡ bao nhiêu gia đình. Như vậy có đáng không?

Tuy vậy, không phải tất cả quan niệm của Khổng Tử là sai lầm. Có những quan niệm rất đúng và hợp mọi thời đại. Nhưng không phải tất cả điều đúng. Chúng ta cũng không thể nào quy toàn bộ lỗi và trách nhiệm vào một mình Khổng Tử. Trách nhiệm chính là ở chúng ta. Chúng ta đã quá mù quáng tin vào quan niệm của người thầy Không Tử mà không bao giờ tự kiểm chứng và tự hỏi lý do “tại sao” và đặt những trường hợp ngược lại. Bản thân chúng ta cũng chỉ biết rằng Khổng Tử là người thầy vĩ đại. Nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ biết cuộc sống thật sự của Khổng Tử, tất cả những gì chúng ta biết chỉ qua lời kể và những mẫu chuyện chưa được xác thực.

Cho dù, Khổng Tử còn sống thì ông ta chẳng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, có hỉ nộ ái ố ham sân si. Lời nói và quan niệm của một người chưa chắc đã đúng và phù hợp. Đôi khi, nó được thể hiện trong một trường hợp người đó bộc phát nói ra chứ không phải là đúng hoàn toàn. Vậy mà chúng ta chấp vào lời nói đó và tự mình tạo ra đau khổ cho cả một thế hệ. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã không còn hợp thời đại nữa.

Vì chân lý thật sự sẽ tạo ra hạnh phúc và phát triển, còn giá trị ảo nào dù là lời hay ý đẹp nhưng không phù hợp, chắc chắn sẽ tạo ra đau khổ và lạc hậu. Chúng ta luôn tự kiêu rằng chúng ta đang sống trong xã hội văn minh, phát triển, tự do. Nhưng chúng ta không biết rằng khi nào chúng ta còn giữ quan niệm “phải lấy vợ trinh” thì giá trị văn hóa của chúng ta còn trở nên hèn kém, lạc hậu.

3. Yếu tố Nhân – Quả

Bây giờ chúng ta sẽ bàn đến nhân quả gì sẽ xảy ra nếu chúng ta quá chấp vào quan niệm “lấy vợ trinh”.

Điều gì xảy ra? Nếu trong gia đình của anh đang sống, cha của các anh là người đàn ông bạo lực, bị ám ảnh “trinh tiết” giống như anh. Nhưng thay vì tha thứ cho mẹ của anh, suốt ngày, cha anh đánh đập bà ấy của anh vì vấn đề “trinh tiết” Gia đình các anh có cuộc sống như địa ngục. Anh không bao giờ thấy mẹ anh được hạnh phúc cả. Dù các anh thương mẹ, liệu quan điểm “trinh tiết” có khiến cho anh sẵn sàng thông cảm cho mẹ không? Hay anh đồng tình với cha của anh, để trở thành kẻ bất hiếu vì vấn đề “trinh tiết” của mẹ mình.

Điều gì xảy ra? Nếu một ngày nọ, con gái hay em gái của các anh bị mất trinh do những người đàn ông đểu giả hay những kẻ giả tạo giống các anh chỉ thích chơi bời nhưng muốn lấy vợ trinh, và họ bị những người đàn ông và xã hội ruồng bỏ do không còn trinh tiết. Vậy các anh sẽ nghĩ ra sao. Các anh luôn tự nói là “lỗi do những người phụ nữ không biết giữ mình” vậy nếu con gái của các anh bị người ta làm vậy, các anh có thể trách ngược lại do các anh mất dạy không đủ khả năng dạy con gái giữ mình, dù anh hết sức dạy dỗ nó. Quan niệm lấy người phụ nữ còn trinh sẽ trở nên sai lầm cho dù bản thân các anh còn trinh hay mất trinh.

4. Lời kết

Dù phân tích ngược hay xuôi, lý lẽ đúng đến đâu. Vấn đề “trinh tiết” vẫn đang bàn cãi. Nhưng nguyên nhân thật sự nó xuất phát từ cái tâm xấu: Sự ích kỷ của đàn ông. Sự ích kỷ sẽ dẫn đến sự tụt hậu, chậm phát triển, bạo lực và đau khổ. Như vậy có đáng để chúng ta đánh đổi không? Cá nhân tôi nghĩ, chúng ta nên loại bỏ tư tưởng “trinh tiết” để có thể mở tự do cho những tư tưởng và giá trị thật sự về tình yêu và gia đình.

Điều tôi muốn nói không phải là bảo các bạn phải quan hệ lung tung, nhưng tôi muốn nói rằng nếu các bạn lấy vợ được đó là một sự may mắn và là một món quà. Nếu các bạn lấy được vợ còn trinh mà yêu các bạn, gia đình hạnh phúc thì các bạn là đàn ông tốt số nhất. Các bạn hãy yêu thương người phụ nữ của mình đừng có chấp nhặt chuyện ‘trinh tiết” vì bản thân khi làm phụ nữ cũng đã phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với đàn ông. Nếu các bạn vẫn chấp vào “trinh tiết” thì anh không phải là một thằng đàn ông. Vì đàn ông họ rất vị tha. Nhưng không có nghĩa các anh là “thằng đàn bà” mà các anh sẽ trở thành thứ còn tệ hơn thế nữa, vì đàn bà thường tha thứ việc đàn ông mất trinh.

Tác giả: tangkimlong1990

*Featured Image: jill111

[Exclusive] Thí nghiệm Công Viên Chuột đã chứng minh tất cả những gì bạn biết về nghiện ma túy đều sai

tumblr_inline_nv60jevO831s09z1b_1280

Chúng ta đã học về điều này ở lớp học Giáo Dục Ngăn Ngừa Lạm Dụng Thuốc (D.A.R.E). Về những con chuột thí nghiệm trong lồng, chúng tự ăn và nghiện morphine cho tới chết. Đây có vẻ là một lập luận quan trọng trong cuộc chiến chống lại thuốc phiện. Giáo sư Avram Goldstein, tác giả của nghiên cứu đó cho biết: “Một con chuột nghiện heroin không nổi loạn chống lại xã hội, không phải là một nạn nhân của hoàn cảnh kinh tế xã hội, không phải là sản phẩm của một gia đình bất thường, và không phải là một tên tội phạm. Hành vi của con chuột này đơn giản là bị kiểm soát bởi tác dụng của heroin (thực ra là morphine, khi heroin được chuyển hóa trong cơ thể) lên não của nó.” Vì vậy, nguyên nhân là do thuốc và sự gây nghiện của nó. Suy ra, chúng ta phải diệt trừ ma túy!

Nhưng còn có một mô hình khác của nhà nghiên cứu Bruce Alexander từ trường Đại học Simon Fraser năm 1978 gọi là Công Viên Chuột. Trích từ trang Wikipedia:

Học thuyết của Alexander cho rằng thuốc phiện không gây nghiện, và hiện tượng nghiện thuốc có chứa nha phiến thường được quan sát thấy ở những con chuột thí nghiệm thì không có liên quan gì đến tính chất gây nghiện của thuốc mà là do điều kiện sống của chúng.

Năm 2001, ông nói với Thượng viện Canada rằng trong các thí nghiệm trước, những con chuột trong phòng thí nghiệm đã bị cô lập trong lồng kim loại chật hẹp, buộc vào một bộ máy tự tiêm, điều này chỉ cho thấy rằng những con chuột này “trầm cảm trầm trọng, như những người mắc chức trầm cảm nặng, sẽ làm giảm sự đi tình trạng đó của chúng bằng thuốc nếu chúng có thể.”

Để kiểm tra giả thuyết của mình, ông đã dựng lên Công Viên Chuột, với diện tích 8.8 mét vuông, lớn hơn 200 lần so với lồng thí nghiệm tiêu chuẩn. Có 16-20 con chuột đực và cái, thực phẩm dồi dào, bóng và bánh xe để chơi, đủ không gian dể giao phối và nuôi con. Kết quả của cuộc thí nghiệm đã ủng hộ giả thuyết của ông. Những con chuột bị buộc tiêm morphine hydrochloride trong 57 ngày được đưa đến Công Viên Chuột và phải lựa chọn giữa nược sạch và nước tẩm morphine. Đa phần chúng chọn nước sạch. Ông Alexander đã viết: “Chúng tôi đã thử tất cả và thấy rằng việc nghiện thuốc ở chuột không xảy ra ở môi trường hợp lý bình thường.” Những nhóm chuột bị kiểm soát và cô lập trong lồng nhỏ tiêu thụ morphine nhiều hơn ở thí nghiệm này và những thí nghiệm tiếp theo.

Và do đó những con chuột được sinh ra trong điều kiện khắc nghiệt trong lồng nhỏ rõ ràng là có nhiều khả năng tự uống thuốc hơn. Tom Stafford của đài BBC viết:

Cái ý tưởng đơn giản rằng chỉ cần một lần dùng thuốc phiện thì người dùng sẽ khó dứt ra được đem lại kết quả thảm họa. Khi chuột của ông Alexander được cung cấp những thứ hay ho để làm hơn là ngồi trong một cái lồng trống, chúng từ chối morphine, bởi vì chúng thích cảm giác hưng phấn khi chơi đùa với bạn bè và khám phá môi trường xung quanh hơn là cảm giác phê thuốc.

Một thí nghiệm khác đã hỗ trợ thêm cho học thuyết của của ông về điều kiện sống, đội của ông đã buộc những con chuột được nuôi lớn trong những chiếc lồng bình thường tiêu thụ morphine 57 ngày liên tiếp. Nếu bất kỳ điều gì có thể tạo nên việc tái cấu trúc hóa học của não bộ thì chính là điều này. Nhưng một khi những con chuột này đã được chuyển đến Công viên Chuột, chúng chọn nước thay vì morphine, mặc dù chúng có biểu hiện một số triệu chứng cai nghiện nhẹ.

Bạn có thể đọc thêm về nghiên cứu này trong bài thông cáo khoa học gốcTruyện tranhcủa Stuart McMillen cũng là một bản tóm tắt khá hay.

Nếu thí nghiệm Công Viên Chuột là đáng tin thì nghiện ma túy chính là tình huống phát sinh từ điều kiện sống khó khăn, từ việc bị biến thành một con chuột bị nhốt trong lồng theo nghĩa đen. Nếu bạn là một con chuột trong công viên, bạn sẽ thà đi chơi với bạn bè của mình và khám phá thế giới xung quanh.

Có lẽ đã đến lúc cuộc chiến chống lại thuốc phiện ma túy trở thành cuộc chiến chống lại đói nghèo (không chỉ đơn thuần là nghèo về vật chất mà còn nghèo về các mối quan hệ với gia đình, cộng đồng và quốc gia. Như nhiều bình luận đã chỉ ra, nhiều người giàu rất có khả năng nghèo ở các khía cạnh khác.)

Thuốc men không phải là vấn đề. Vấn đề chính là môi trường xã hội chúng ta đang sống trong đó.

Bấm CC để hiện Vietsub

 

Tác giả: Garry Tan
Dịch: Băng Tâm
Review: Nguyễn Hoàng Huy

*Featured Image: Stuart McMillen 

Ý thức, tiềm thức và cách nó hoạt động trong thực tại đa tầng (Multi-layer reality)

Có vô số hiện thực cùng tồn tại giống như hiện thực của chúng ta, nhưng chồng lẫn lên nhau, cùng đồng thời có mặt, hoàn toàn tách biệt nhưng cũng có thể tương tác lẫn nhau. Kích thước, phạm vi ảnh hưởng, thời gian xuất hiện, tuổi thọ có thể khác nhau.

Vì mỗi thực tại được tạo ra bằng một dạng năng lượng riêng, nên chúng ta không thể nhìn thấy hay tương tác được với nó. Giống như cách mà sóng wifi đi xuyên qua người chúng ta, chúng ta và sóng wifi cùng xuất hiện ở một chỗ, chồng lấn lên nhau nhưng là hai hiện thực khác nhau.

Chúng ta được tạo ra bởi nhiều hạt, ở hiện thực khác, có thể có những thực thể sống khác được tạo ra ở dạng sóng.

Khi một hiện thực này có sự biến đổi, nó có thể gây ra sự ảnh hưởng ở hiện thực khác thông qua sự tương tác về năng lượng. Nếu một sự kiện xảy ra quá mạnh, nó có thể gây ra vết hằn ở các hiện thực khác. Mỗi hiện thực được xây dựng nên bởi một dạng năng lượng riêng, nhưng tất cả đều được tiến hóa từ một năng lượng gốc, hay gọi là năng lượng nguyên thủy. Giống như cách tế bào gốc hoạt động. Từ tế bào gốc, nó phát triển, biến đổi để biến thành từng dạng tế bào chức năng hoàn toàn khác nhau. Càng đi ngược về sơ khai, năng lượng càng gần với năng lượng nguyên thủy.

Ý thức, tiềm thức và cách nó hoạt động trong multi-layer

Ý thức, gắn kết với tiềm thức qua những “xúc tu” của nó. Gắn nhiều hay ít là do luyện tập hoặc do may mắn/tai nạn. Những kinh nghiệm, kiến thức, trải nghiệm, thông tin, cảm xúc v…v… được thu nhận trong quá trình học tập, quan sát hay được sản sinh ra trong quá trình suy nghĩ, tư duy, sẽ được chuyển đổi thành dạng năng lượng nén, và đưa vào tiềm thức. Năng lượng nén này hoàn toàn vô danh, tức là chỉ thuần túy thông tin.

Tiềm thức như một cái kho, chúng sẽ gói những viên nén đó để dùng khi thích hợp. Tiềm thức chịu ảnh hưởng từ ý thức nhưng cũng kiểm soát ý thức. Tiềm thức cũng tìm cách gắn kết với các hiện thực khác dựa trên những xúc tu riêng của nó. Việc này hoàn toàn tự động, chúng ta không kiểm soát được. Những vị tu hành, những bậc giác ngộ, những người thực hành sự cầu nguyện liên tục và thành tâm, có thể là những người có khả năng kiểm soát được những xúc tu này.

Tiềm thức lúc này hoạt động như một firmware trong máy tính, đóng vai trò giao tiếp giữa software-hiện thực khác với hardware – não bộ của chúng ta.

Hãy thử lý giải một số hiện tượng dựa trên lý thuyết này.

Vì sao uống thuốc an thần có thể tác động lên tâm trí chúng ta, khiến chúng ta vui tươi hơn?

Như các bạn đã biết, thuốc, bản chất nó là các chất hóa học, khi đưa vào cơ thể, sẽ gây ra các phản ứng sinh học, hóa học trong cơ thể. Các phản ứng này gây ra sự biến đổi năng lượng, hay nói cách khác, là ta gửi thông tin về thuốc, và cơ thể chúng ta sau khi uống thuốc, tới tiềm thức bằng cách chuyển đổi năng lượng.

Giải thích như thế nào về luân hồi?

Mỗi khi tiềm thức mất kết nối với ý thức ở hiện thực chính, lúc này ý thức và tiềm thức không khác biệt gì mấy, chúng có xu hướng nhập lại làm một, và đi tìm các hiện thực quen thuộc để kết nối lại. Tiềm thức cũng có thể được sinh ra, lớn lên và chết đi. Khi chết đi, chúng trở về dạng năng lượng sơ khai ban đầu.

Vì bên trong tiềm thức lưu giữ quá nhiều thông tin về hiện thực ta đang biết, nên chúng có xu hướng quay trở lại, tạo nên thứ gọi là luân hồi.

Một số vị giác ngộ, vì họ gạt bỏ được những thông tin không có lợi ở hiện thực này bằng cách sống thanh tịnh, và liên tục tiếp thu những thông tin ở tần số phù hợp với hiện thực khác, tạm xem là “cao hơn” hiện thực của ta, nên khi rời bỏ hiện thực này, tiềm thức của họ có nhiều cơ hội tiếp xúc và gắn kết với hiện thực kia hơn.

Với đại đa số người bình thường, những viên nén thông tin của hiện thực này được chất đầy trong tiềm thức vì họ không có nhiều cơ hội để dọn dẹp, nên trong khi lang thang để lựa chọn các hiện thực, tiềm thức sẽ lựa chọn hiện thực dễ tiếp cận nhất, là quay trở lại đây. Đôi khi vì một số tai nạn, tiềm thức không gói và nén các thông tin lại, dẫn đến tình trạng gợi nhớ được đời sống trước của người đó.

Giải thích về việc một số người được thay tim, nội tạng, có thể nhìn thấy hoặc có những thói quen của người hiến tặng nội tạng.

Các vị tu tập yoga tin rằng trong cơ thể con người tồn tại các luân xa, nơi tập trung các nguồn năng lượng. Mỗi một bộ phận trong cơ thể chúng ta cũng có thể tự tạo ra một hiện thực riêng của nó. Ví dụ như ta tạo ra hiện thực giấc mơ, giấc mơ là một hiện thực riêng.

Khi nạn nhân bị giết chết, sự ám ảnh quá mạnh đã tạo nên nguồn năng lượng rất lớn, gây ra vết hằn quá sâu nơi hiện thực khác. Ngay cả khi nạn nhân ở hiện thực này đã chết, mẩu năng lượng ở hiện thực khác đi kèm với quả tim vẫn còn lưu giữ vết hằn đó. Khi đưa vào cơ thể người nhận, tiềm thức cũng thu thập và liên kết với các hiện thực đó, đọc chúng và bằng một cách nào đó, giải nén các thông tin đó để phơi bày trong ý thức của người mang bộ phận hiến tặng.

(Còn tiếp)

Tác giả: Đặng Sang

Cách bạn nên nhìn mọi thứ xung quanh

Chào, chúng ta bay thẳng vào vấn đề.

Cơ bản cuộc sống không giống cuộc đời nên 2 cái khái niệm đó ai cũng có thể biết.
Nhưng quay ngược lại để hỏi: “Bạn muốn đời mình sẽ thế nào?” “Bạn muốn sống ra sao?” thì đám bạn cùng tuổi tôi bây giờ ngơ ngơ trả lời: “Tao không biết, cứ sống thôi!”

Đó, cái đáng nói là đó. Tụi nó và tôi được rập khuôn từ bé. Nhỏ phải đi học, lớn phải đi làm, tới tuổi thì cưới, cưới xong thì đẻ, đẻ xong nuôi, nuôi xong chết.

Đó là cuộc sống được lập trình đâu đó ở nơi thiên-đường-nào-đó. Ấy thế cho nên tụi nhỏ dần dần bị lu mờ đi. Tự tử vì điểm kém, tự tử vì quỹ lớp mất 500k,… Có vô vàn lý do nhảm nhí để tụi nhỏ tự tử trong dòng chảy cuộc đời này. Chẳng biết có đáng không?

Chúng ta, những con người, được sinh ra giống nhau, cấu tạo gần như giống nhau. Nhưng, chúng ta khác nhau rất nhiều, và ngay cả sinh đôi cũng khác nhau rất rất nhiều. Chúng ta khác nhau cả về vẻ ngoài, suy nghĩ và hành động. Vậy tại sao chúng ta phải sống một kiểu như nhau? Vì thế, bạn nên tôn trọng sự khác biệt của chính mình và những người xung quanh bạn. Khi tôn trọng được rồi, chúng ta hãy cũng nhau phát triển sự khác biệt đó.

Một nguyên liệu, có thể chế biến được nhiều món, miễn sao bạn ăn thấy ngon và bổ. Cùng một cuộc sống, bạn hãy sống theo cách của bạn mà bạn thấy đúng đắn và không hối tiếc.

Tôi xin trích dẫn một status của anh Đặng Sang:

Thông tin bên ngoài đi vào bạn qua 5 ngõ giác quan, vì bạn phán xét chúng, cơ thể bạn bắt buộc phải thu hẹp phạm vi thu nhận để tránh bị quá tải, dẫn tới việc thông tin đi vào bị chậm, và bạn thường chỉ nhận một góc nhỏ của nó.

Giống như trong đêm tối, bạn lo sợ, nhìn cọng dây hoá ra con rắn. Bạn phán xét và để trí óc quyết định ảo ảnh đó, không phải chính thông tin từ tai, mắt, mũi lưỡi hay còn gọi là bản chất thực sự của thông tin đó.

Trẻ em còn bé, chúng còn hồn nhiên, chưa có thói quen phán xét, nên phạm vi thông tin tràn vào chúng rất lớn, dẫn tới việc chúng khó tập trung, dễ xao nhãng, nhưng đây cũng là lý do chúng học rất nhanh so với người lớn.

Nếu bạn bắt đầu tập luyện nhìn nhận vấn đề với tâm rộng mở, không phán xét, bạn sẽ thấy bất ngờ với lượng thông tin ồ ạt tràn vài tâm trí bạn, nhưng không hề mệt nhọc.

Nó là cái thấy huyền diệu.

Nhìn nó không liên quan vậy thôi những theo tôi đó là cách bạn nên nhìn nhận mọi thứ xung quanh mình. Đừng để tâm hồn bạn là ao tù nước đọng, hãy cho nó là dòng suối nhỏ, rồi tới dòng sông, rồi tới biển cả. Mở lòng và bao dung, đừng phán xét, đừng vị kỷ. Nó sẽ giúp bạn nhẹ lòng và thoải mái hơn.

Xét cho cùng, cả cuộc đời này chỉ là những cuộc chơi, mà ta chơi hằng ngày nên gọi nó là cuộc sống. Cuộc chơi nào cũng có luật, chơi hay, chơi dở phụ thuộc vào bạn. Quan trọng, hãy fair-play.

Bạn có quyền tự do làm điều bạn muốn và bạn sẽ nhận đủ trách nhiệm cũng như hệ quả cân xứng cho sự tự do đó. Hãy cứ nghĩ đơn giản đi, nó cũng là con người, mình cũng là con người. Nó không cần không có nghĩa là mình cũng không cần. Các bạn và tôi đã tiến hóa lâu rồi, không còn là khỉ nữa đâu, nên đừng bắt chước nhau nhé.

Tận hưởng đi. Ai cũng có một câu chuyện để viết, và hãy viết theo cách của bạn, không ai tính tiền như anh Viettel đâu nên cứ thoải mái đi.

P.s: Gửi lời cảm ơn đến anh Nah, anh Huy, anh Sang, không nhờ các anh thì em vẫn còn đang đắm chìm và hối hả trong cái khuôn kia để cho tâm mình mãi chật hẹp trong cái suy nghĩ tiểu nông.

Tôi đã cố gắng tóm gọn ý, viết đại ý nhất mình muốn viết và dành cho những người cùng tần số. Hy vọng các bạn hiểu được những điều dài dòng ẩn sau những câu đại khái ấy.

Tóm tắt điều bạn hiểu cho tôi biết trong comment được không?

Tác giả:  ZJRO_INC

*Featured Image: Curriculum_Photografia