Tình yêu luôn là một chủ đề hấp dẫn đối với tất cả mọi người. Từ lúc đặt chân đến với cuộc đời, con người đã biết yêu. Tình yêu gia đình, tình yêu nhân loại, và không thể thiếu tình yêu nam nữ. Là chủ đề nóng bỏng với tất cả chúng ta. Nhưng không ai có thể định nghĩ được tình yêu. Nếu ai đó có đủ khả năng làm điều đó thì họ chẳng biết gì về tình yêu. Vâng, thật khó để nói lên tình yêu là gì. Vậy nên tôi nghĩ mình như gã mù mò tìm tình yêu trong tất cả những thứ mà tôi không cho rằng đó là tình yêu.
Đa phần mọi người luôn nghĩ đến tình yêu và sử dụng danh xưng “người yêu của tôi.” Từ “của” này hàm ý một sự sở hữu. Nhưng tôi lại không nghĩ tình yêu là một sự chiếm hữu. Tôi yêu người ấy và tôi muốn người ấy chỉ là của tôi. Tôi nghĩ không ai là “của” ai. Chúng ta không thể van xin nguyện cầu tình yêu của một người dành cho mình. Tôi không yêu vì không nhận lại được sự đáp trả. Tôi chỉ yêu anh khi anh cũng phải yêu tôi. Chính vì sự lầm tưởng tai hại này mới xuất hiện những cơn ghen hoạn thư.
Tôi cũng không nghĩ tình yêu là cảm xúc. Đối với tôi, cảm xúc chỉ là cơn gió thoảng qua trong phút chốc. Mặt khác, nếu một người sở hữu quá nhiều cảm xúc, người đó sẽ rất khó kiểm soát tình cảm của mình. Người đó có thể hạnh phúc ngất ngưởng tận thiên đàng nhưng cũng có thể đau khổ đến đáy sâu địa ngục. Và bạn sẽ không thể lường trước được một người có quá nhiều cảm xúc sẽ tàn nhẫn hung hăng đến đâu nếu tình cảm của hắn ta không được đền đáp. Tại sao xã hội này lại có quá nhiều mối hận thù nảy sinh giữa những đôi tình nhân. Không phải vì quá yêu mà đâm ra hận thù. Không phải “yêu nhau lắm thì cắn nhau đau.” Đừng nghĩ đến tình yêu khi núi lửa sắp phun trào trong bạn. Bởi nham thạch phun ra sẽ thêu trụi luôn cả chính bạn và tình nhân bạn.
Tình yêu cũng không phải là sự bao dung tha thứ. Khi bạn tỏ ra cao thượng, bạn cho rằng mình đang tha thứ người đó. Tức bạn vẫn còn là người quan trọng, chính bạn đang tha thứ nghĩa là bạn vẫn quan trọng hơn tình nhân của bạn. Chỉ khi nào bạn không còn đặt bạn quan trọng hơn người đó nữa, lúc đó tình yêu mới xuất hiện. Mặt khác, chúng ta có thể tha thứ một đôi lần nhưng không thể bao dung cho tình nhân lần này đến lượt khác khi người đó sát hại tổn thương lên bạn, sự phẫn hận kia sẽ chồng chất và tích trữ lại thành một quả bom nổ chậm. Đừng bao giờ nói rằng vì tôi quá yêu anh nên tôi sẽ tha thứ cho anh tất cả mọi lỗi lầm.
Tình yêu còn phải là sự kính trọng lẫn nhau. Không thể mượn cớ lý do tôi quá yêu người ấy, yêu đến nỗi tôi chẳng còn thiết tha người ấy đối xử với tôi thế nào. Yêu mà chỉ biết yêu thôi, yêu bất chấp. Điều đó chẳng khác nào bạn cầm dao và cứa lấy từng miếng da miếng thịt của bạn mỗi ngày cho đến khi nó ăn sâu vào tâm can rồi giết chết bạn.
Vâng, đối với quan điểm riêng tôi, tôi chẳng biết tình yêu là gì nhưng tôi nghĩ tình yêu không thể nào là sự chiếm hữu, không chỉ là cơn điên cuồng cảm xúc, không phải là sự bao dung tha thứ, tình yêu không thể thiếu sự tôn kính quý trọng lẫn nhau… Tình yêu là một điều gì đó vừa tốt đẹp lại vừa rất khó khăn. Nhưng nếu một sự việc càng khó khăn thì ta càng có lý do để theo đuổi chúng. Không phải ai cũng có cơ hội biết đến tình yêu. Chúng ta không thể dùng trái tim non nớt của mình để nói về tình yêu như một trang giấy trắng tinh khôi. Phải học cách yêu. Đừng nói về tình yêu bằng thứ ngôn ngữ thoáng qua của nhịp đập tim xao xuyến. Rồi đến với nhau bằng sự dâng hiến trao tặng, đến mức mình có thể dùng cả thế giới mình để phụng hiến cho người mình yêu. Rồi tự đánh mất cuộc sống mình trong cuộc sống của một người khác. Đánh mất mình vì tình yêu đối với người khác. Rồi chán chường, vỡ mộng ê chề, mất niềm tin vào tình yêu và đánh mất luôn cả những người yêu khác đến sau đó. Cũng có nhiều người dùng giới hạn chật hẹp của xã hội để kìm hãm tình yêu. Biến tình yêu thành thứ yếu đuối phải khom mình trước thiên hạ. Làm thế nào khi họ đang cố gắng vồ xiết nhau giữa những thứ tầm thường rẻ tiền rồi gọi đó là tình yêu và đánh mất đi cơ hội được trông thấy nó bằng da bằng thịt.
Một điều nữa. Tôi không bao giờ muốn bàn đến tình yêu là niềm đam mê xác thịt. Hơn thế còn đập tan mọi lý tưởng thanh cao về tình yêu bằng cách phủ nhận tình yêu mà thiếu tình dục thì chỉ là đồ bỏ đi. Tình yêu có phải là cái hình hài khủng khiếp mà họ đang muốn nói đến đó hay không? Một sự công nhận hợp đạo lý cho cái dục vọng mãnh liệt bên trong tình yêu.
Tôi không có thói quen ghê tởm nhục dục, tôi cũng không có nhu cầu giữ mình trong sạch, tôi không dùng cái màng trinh để áp bức tình yêu. Tôi không muốn giam cầm tình yêu trong tiết hạnh của xã hội đặt ra nhưng không đồng nghĩa với việc lên giường với bất kỳ gã đàn ông nào xuất hiện trước mặt. Tiếng gọi tình yêu chắc chắn không cho phép ai bịt miệng mình và cũng không cho phép ai mượn nó để dung nạp những thỏa mãn dục vọng. Đừng nói với tôi rằng em hãy lên giường cùng anh để chứng minh tình yêu em dành cho anh. Tôi sẽ tát vỡ mồm gã nào dám nói với tôi câu đó, đừng che dấu sự đê hèn của mình dưới tấm mặt nạ rồi núp bóng dưới tình yêu ảo tưởng. Không cần phải hóa thân thành các tu sĩ để biến mình thành nhà khổ hạnh đấu tranh giữa tiết hạnh và dục vọng. Nhưng thứ tình yêu đích thực thì không bao giờ cần đến tình dục mới được là chính nó. Chỉ có thứ tình yêu chưa đủ mới cần đến tình dục để làm tròn vẹn khuôn mặt nó. Ít nhất thì đây chính là cảm tưởng của tôi.
Tôi nghĩ tình dục mang lại những khoái cảm thân xác giúp ta nhận biết và đi sâu vào thế giới. Đó là một món quà tuyệt vời mà tình yêu đã ban tặng cho người đang nắm giữ nó. Bản chất của nó không xấu, việc mọi người chấp nhận nó cũng không phải là xấu. Nhưng có những người đã lợi dụng để tha hóa đi bản chất và sự thiêng liêng vốn có của nó để thỏa mãn bản thân như một sự giải trí. Khi mọi người có khuynh hướng xem khoái lạc nhục thể là một tiêu chí để tình yêu hướng đến thì họ đã làm cho tình yêu trở nên dễ dãi và rẻ tiền.
Và sau cùng, nếu có ai đó chỉ trích rằng tôi chẳng hiểu biết gì về tình yêu. Tôi chấp nhận làm kẻ ngu đần đứng nhìn tình yêu với đôi mắt bơ phờ. Bởi lẽ, tôi không bao giờ cho phép sự ngu muội của mình làm vẩn đục tình yêu.
Cậu và cuộc sống chẳng thể tách rời, vậy nên cậu không thể ý thức rằng mình đang sống vì khi ý thức đó xuất hiện, cậu tách biệt với cuộc sống, và khi đó có cuộc sống và người đang sống. Nhưng thực tế cậu cũng đang không ý thức mình đang sống, không phải vì cậu đã hợp nhất với Cuộc sống, mà vì cậu ở trong sự điều kiện của môi trường quá sâu, sâu đến mức cậu để chúng vận hành thay cho tư duy của cậu, cậu sống như một cái máy lặp lại mọi thứ đã được lập trình, nhào nặn bởi truyền thống, văn hóa, giáo dục, niềm tin, ý thức hệ,… Cậu có thể thấy hạnh phúc vì hạnh phúc trong sự ngu dốt rất dễ để có được, một cuộc sống dư dật về vật chất, một mục tiêu nào đó cậu gán cho nó ý nghĩa để đạt được, một chút cảm nhận có vẻ sâu sắc về tình cảm, những trò giải trí, những lạc thú vụn vặt hàng ngày… đủ để làm cậu thỏa mãn và hạnh phúc trong sụ ngu dốt đó… Thực tế thì cậu không sống mà mọi thứ kia sống thay cậu, cậu giống như một cái máy và được cài sẵn một hệ điều hành, từ đó cậu sống dựa theo hệ điều hành ấy, hạnh phúc của cậu phụ thuộc vào những gì hệ điều hành này muốn, hành động của cậu được uốn nắn theo những gì có trong hệ điều hành. Số phận cậu đã được an bài, và mình biết cậu hạnh phúc với sự an bài ấy.
Còn người tư duy, kẻ đi tìm ý nghĩa của cuộc sống, kẻ đào sâu vào hiện tại, vào nội tâm anh ta, kẻ đang cố giành lại tâm trí của anh ta khỏi bất cứ hệ điều hành nào, khỏi bất cứ những kẻ tẩy não – kẻ lập trình nào để tìm cho ra ý nghĩa tuyệt đối của cuộc sống này ngoài những thứ ngu xuẩn, vụn vặt và điên cuồng ngoài kia. Anh ta truy tìm, tra vấn, dò xét, hoài nghi, thử nghiệm, bám chấp, buông bỏ, phủ nhận, khẳng định, mâu thuẫn, đau khổ, hạnh phúc… Anh ta phải như vậy thôi vì với anh ta, cuộc sống hiện tại anh ta chứng kiến không thuộc về anh ta, cuộc sống anh ta muốn hướng đến thì anh ta lại không có ý niệm gì về nó. Nó như một đường hầm tối đen sâu thẳm mà anh ta cứ tiến tới, dò dẫm mà không biết dẫn tới đâu, anh ta hoang mang, bối rối, trống rỗng và tuyệt vọng bởi cái không biết, bởi lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta được tự do vì không bám chấp vào bất cứ điều gì cả, ngay cả tâm trí của chính mình anh ta còn liên tục cảnh giác và hoài nghi vì không biết chúng có là sản phẩm của bất kỳ một loại hệ điều hành nào khác còn sót lại hay không.
Anh ấy khắc khoải bởi ý nghĩa cuộc sống mà anh ấy tìm kiếm, anh ấy sợ cả đời cũng không tìm được ánh sáng phía cuối đường hầm và có thể cứ phải sống trong khắc khoải, trống rỗng này đến suốt cuộc đời. Anh ấy cảm thấy rằng mình không thuộc về bất cứ nơi nào cả, cuộc sống mà anh ấy đã vứt bỏ và cuộc sống anh ấy đang hướng đến, anh ấy đang ở giữa, cái khoảng giữa ấy là một hố đen trống rỗng và cô đơn cùng cực, anh ấy đau khổ và cảm thấy như Tạo hóa đã an bài cho anh ấy phải sống chung với sự đau khổ khôn cùng này mãi mãi. Nhưng dù trong đau khổ anh ấy vẫn cố tiến tới (mặc dù anh ấy không biết mình có đang tiến tới hay không) cái cuộc sống anh ấy không biết, dù đôi khi anh ấy toan thỏa hiệp với cái cuộc sống hiện tại của những con người ngoài kia nhưng chỉ một thời gian ngắn, anh ấy thà chịu đau khổ gấp trăm ngàn lần hơn là phải thỏa hiệp sống cuộc đời như vậy – một cuộc đời của những thỏa mãn nhất thời, của sự nô lệ, của sự ngu muội, của sự hủy diệt…
Tớ muốn nói với những người như anh ấy rằng: Hỡi người anh em, cuộc sống vẫn ở đây, vẫn hiện diện như nó đang hiện diện từ ban đầu. Anh không phải là cá thể riêng biệt cảm nhận cuộc sống này để rồi cảm thấy đau khổ hay hạnh phúc. Anh là cuộc sống và cuộc sống là anh. Khoảnh khắc anh đi tìm một ý nghĩa khác cho cuộc sống thì anh đã xa rời khỏi cuộc sống rồi, và trong sự phân chia ấy luôn dẫn đến sự mâu thuẫn, ảo tưởng và đau khổ. Đúng, đó là số phận của anh, nhưng không phải tạo hóa an bài cho anh mà chính anh lựa chọn nó. Anh sẽ không bao giờ tìm thấy cái ý nghĩa nào về cuộc sống, hay một cuộc sống nào khác cả. Tất cả đã ở đây và đã luôn ở đây rồi và chúng không có ý nghĩa hay vô nghĩa gì cả, anh – con người – cây cối – con chó – mặt nước – ngọn gió – mặt trời – ngôi nhà – chiếc mũ – chiếc xe – mặt đất – hạt bụi – suy nghĩ – tưởng tượng – cảm xúc – đau khổ – hạnh phúc – chiến tranh – nghèo đói- sự tìm kiếm của anh… Tất cả, tất cả đang ở đây và luôn ở đây, đây là cuộc sống, là anh và là tất cả.
Anh còn định đi đâu nữa, còn tìm kiếm gì nữa, còn làm điều gì nữa? Ngày nào anh còn tìm kiếm, ngày nào còn “anh” , ngày nào mà anh còn gán bất cứ ý nghĩa nào cho cuộc sống thì ngày đó anh xa lìa cuộc sống, thì ngày đó anh còn đau khổ và trống rỗng bởi ảo tưởng đó. Ngày anh chấm dứt tìm kiếm, ngày anh để cuộc sống tuôn chảy qua anh như qua một chiếc lá rụng ngoài sân, ngày anh để mọi sợ hãi, đau khổ, trống rỗng hiện hữu như chúng là mà không phán xét, không kìm nén hay chạy theo chúng, anh chỉ NHÌN chúng và để chúng lướt qua như làn gió, ngày anh không còn là “anh” nữa mà anh là tôi và là tất cả và không là gì cả, và không có đau khổ hay hạnh phúc, anh hay tôi, cuộc sống của anh hay cuộc sống của tôi… chỉ có Cuộc Sống hiện hữu vĩnh hằng.
Và với cậu, cuộc sống của cậu có gì khác ngoài những thứ vun vặt này, những thỏa mãn nhất thời này và tất cả sẽ dẫn đến sự chán trường, đau khổ, và tất cả sẽ như một lâu đài cát bên bờ biển khi ngọn sóng của cái chết ập đến. Cậu biết điều đó phải không, cậu biết mọi thứ nông cạn của cuộc sống này nhưng cậu lại không đủ dũng cảm vứt bỏ nó vì cậu không biết một cuộc sống nào khác, cậu thỏa hiệp và để con người cậu tàn tạ, chết từ từ trong sự tầm thường ấy… Không, người anh em, cậu ở đây để sống cuộc sống của cậu – Cậu là hiện thân của Cuộc sống và có đủ quyền năng để sáng tạo một cuộc sống mà cậu muốn sống. Hãy giản dị và chân thật để Thấy sự ngu muội, dối trá, nông cạn, tầm thường, vô nghĩa lý, phức tạp không cần thiết của tâm trí và cuộc sống mà cậu đang sống, hãy Thấy sự nô lệ của mình, cái ngục tù mà hàng ngày cậu vẫn trang trí và tự hào về nó, khi cậu Thấy rõ cái ngục tù mà cậu đang ở trong, cậu đã được tự do rồi, không cần phải vượt ngục hay đập phá gì cả, và một cuộc sống mới sẽ mở ra cho cậu từ khoảnh khắc Thấy ấy…
Hãy đi trên con đường ấy mà không dựa dẫm vào bất cứ ai, bất cứ một người nào, một hệ thống kiến thức, tư tưởng nào cả, cậu phải một mình trên con đường này, đồng minh duy nhất của cậu là chính cậu. Hãy dũng cảm và bước đi, khi cậu đã bước trên con đường này, sẽ không có việc quay đầu lại nữa vì con bướm không bao giờ có thể trở lại trong cái kén của mình nữa dù cho nó có sợ bay như thế nào… Hoặc là cậu vẫn và sẽ sống với cuộc sống cậu đang sống và chết dần chết mòn trong đó, hoặc là cậu sống một cuộc sống khác – một cuộc sống mà cậu sinh ra và chết đi trong từng khoảnh khắc, một cuộc sống không có thời gian, không có sinh tử, một cuộc sống tuôn chảy vô hạn.
Có thể sẽ có những bất an, hoang mang và trống rỗng nhưng bạn của tôi, đừng cảm thấy đơn độc, dù chúng ta không đi cùng nhau nhưng chúng ta luôn đi chung đường.
*Bài viết này hoàn toàn dựa trên sự quan sát và đúc rút kinh nghiệm từ trải nghiệm cá nhân. Nếu còn gì sai sót, hy vọng được các bậc tiền bối chỉ giáo.
Xin được đi luôn vào vấn đề.
1. Tam tòng
Tam tòng tức là “ba theo”: Người phụ nữ chưa lấy chồng thì theo cha, có chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Có thể dễ dàng nhận thấy, cả ba đều là trạng thái thụ động, bị động của người nữ – theo, bất kể trạng thái hôn nhân của cô ta là gì. Theo những nghiên cứu của tôi về ngôn ngữ biểu tượng, người nữ vốn dĩ đại diện cho tính âm, nên biểu lộ của âm sẽ là âm. Tức là, trong trường hợp này, phụ nữ sẽ thể hiện sự nhu thuận, quy phục, phục tùng.
Người xưa viết ra đạo lý không chỉ đơn thuần hiểu theo nghĩa đen. Ẩn trong đó là sự cân bằng về mặt năng lượng, có tính đối xứng và hài hòa âm dương. Người thời nay, nhìn vào đạo lý đó và cho rằng nó là một thứ cổ hủ lạc hậu, thậm chí ngu đần. Nếu áp dụng đạo lý này, người phụ nữ sẽ bị đàn áp, bóc lột, không có tự do, chính kiến. Người phụ nữ sẽ trở nên yếu đuối và đau khổ.
“Bậc thượng sĩ nghe đạo thì gắng sức thực hành. Người bình thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ. Kẻ thấp kém nghe đạo thì cười lớn. Nếu không cười thì đạo không phải là đạo nữa. Cho nên lời xưa có nói: Đạo sáng thì như tối tăm, đạo tiến thì dường như thoái, đạo bằng phẳng thì dường như gập ghềnh. Đức cao thì như hang động, cao khiết thì dường như ô nhục, đức rộng thì dường như thiếu thốn, đức mạnh thì dường như yếu nhác, chất phác thì như trống rỗng. Hình vuông cực lớn thì không có góc, tài lớn thì chậm thành, âm lớn thì ít tiếng, vật lớn thì không có hình thể, đạo thì lẩn khuất không tên. Cho nên chỉ có đạo là khéo sinh và tác thành muôn vật.”
— Lão Tử, Đạo Đức Kinh (Vũ Thế Ngọc dịch)
Nhưng hãy nhìn cho thật kỹ. Chính xác thì sự đàn áp hay bóc lột chỉ tồn tại khi người phụ nữ còn bám giữ những thứ “trồi lên” hay “lòi ra” như quan điểm cá nhân, hay chính là biểu hiện của cái tôi, sự ích kỷ. Khi rơi vào đạo lý, họ sẽ gặp xung đột trong nội tâm nên sẽ dễ bị mệt mỏi và tổn thương.
Đạo tam tòng không dạy người đàn bà nghe lời một cách mù quáng, mà dạy họ sự nhu mì, nhún nhường trong thái độ cư xử với người khác và dạy họ hi sinh cái tôi để mang tới sự hài hòa chung trong mối quan hệ. Từ “theo” không nên hiểu 100% nghĩa đen là tuân theo, nghe theo, làm theo, đi theo, mà nên được cảm nhận theo tính thụ động mà nó thể hiện. Đó là sự nhún nhường, khiêm cung, hòa nhã, kiên nhẫn và bao dung.
Giả sử ngày nay, trong trường hợp phụ huynh áp đặt hôn nhân lên người con gái. Nếu người nữ đã thoải mái lựa chọn cha mẹ đặt đâu mình ngồi đấy rồi thì đó là quyết định của cô ta, chuyện này không có gì đáng bàn. Nhưng nếu cô ta không chọn, thì có thể nhẹ nhàng thể hiện ước vọng của mình với mẹ cha để hai bên cùng tìm cách giải quyết. Nếu vẫn không tìm đến được điểm chung thì sự quyết định cuối cùng vẫn thuộc về người phụ nữ.
Nhưng điều tối quan trọng đó là, sự nữ tính ở đây được thể hiện ở cách thức tiếp cận vấn đề và khả năng xử lý tình huống trong sự ôn hòa. Để làm được điều đó, người phụ nữ cần dịu dàng với cảm xúc, nguyện vọng của chính mình cũng như cha mẹ. Ngoài sự điềm đạm và ôn hòa ra, mọi biểu lộ khác của người nữ đều là bạo lực. Ví dụ như cố gắng đè nén điều trái tim mách bảo và nghe lời một cách mù quáng, hay khóc lóc bù lu bù loa để thao túng cảm xúc của gia đình, thậm chí giở mấy trò mèo như tự tử hay đoạn tuyệt với mẹ cha.
“Theo” không thể hiện sự nhu nhược, yếu đuối mà thể hiện sức mạnh hướng nội – sự ôn nhu, bình thản, hài lòng; đối ngược với sức mạnh hướng ngoại trong biểu tượng người đàn ông – ý chí, sự kiểm soát, sự quyết tâm và tính kỷ luật. Nội dung này cũng được hé lộ trong huyền học phương Tây ở hai lá bài Tarot: Lá số 8 Strength là hình ảnh người nữ thuần hóa con sư tử và lá số 7 Chariot là hình ảnh người nam điều khiển hai con ngựa đen-trắng.
Âm và dương luôn đi theo cặp, không thể tách rời và cân bằng tuyệt đối. Âm là mảnh đất cho dương tồn tại và phát triển. Đồng thời, dương là mảnh đất cho âm tồn tại và phát triển. Nên nói dương thịnh âm suy hay âm thịnh dương suy theo tôi đều là không hợp lý. Chính xác phải là âm dương cùng thoái hóa hoặc cùng phát triển.
Mỗi cực âm hay dương đều có hai mức độ, tạm gọi là chuẩn mực và thoái hóa. Ví dụ: Một tính âm chuẩn mực là sự khiêm nhường, luôn đi đôi với một tính dương chuẩn mực là sự tự tin. Tức là người nào có sự khiêm nhường thì ắt có một lượng sự tự tin tương ứng. Trong khi đó, một tính âm thoái hóa là tự ti, luôn song hành với một tính dương thoái hóa là tự phụ. Người nào tự ti ắt sẽ tự phụ và ngược lại.
Trong thời đại ngày nay, khi không còn tuân theo đạo lý, người nữ đang đánh mất dần tính âm chuẩn mực là sự khiêm cung, hòa nhã và sự hài lòng với cuộc sống. Từ đó, trên mảnh đất âm thoái hóa sẽ nở ra cái cây dương thoái hóa, tức là càng ngày càng xuất hiện những phụ nữ xốc nổi, hung hăng, cáu kỉnh, hà khắc, cứng nhắc, nổi loạn và thậm chí là bạo lực (cả trong tư tưởng, lời nói và hành động.) Khi tính nữ thoái hóa thì tính nam cũng theo đó đi xuống một cách tương ứng. Từ mảnh đất dương tồi tàn sẽ nở ra cái cây âm dặt dẹo, thể hiện trong việc xuất hiện càng nhiều hơn những người nam bạc nhược, tự ti, dựa dẫm, lười nhác và vô kỷ luật. Người đời đã có không ít những lời thơ châm chọc, mỉa mai về sự thoái hóa tính nam của người đàn ông, như:
“Chồng người đánh Bắc dẹp Đông
Chồng em ngồi bếp giương cung bắn mèo.”
Không thì:
“Chồng người đánh giặc sông Lô
Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần.”
Cuối cùng là:
“Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp cho *uồi ăn tro.”
Ngày nay, thật đáng buồn, người ta lại đánh đồng sự thoái hóa tính nữ của người đàn bà với sự cá tính. Để rồi cô ta chửi tục giữa chốn đông người thì được tung hô là cool ngầu. Cô ta gân cổ lên cãi chồng thì được ca ngợi là bản lĩnh. Và cô ta nháo nhác chuyện thiên hạ thì được tán dương là năng động.
Có một câu hỏi đặt ra, đó là tại sao người xưa không dạy người nam sự nhu mì và dạy người nữ sự cương cường? Theo ngu ý của tôi, tôi cho rằng cơ thể người nữ và người nam cũng đã thể hiện rõ tính âm dương rồi. Điều đó biểu hiện rõ nhất ở cơ quan sinh dục của họ và trong hình thức giao cấu – người nam đi vào người nữ; người nam xuất tinh, người nữ mang thai.
Người nữ học sự nhu mì, điềm đạm sẽ dễ hơn là học sự cứng rắn, oai phong. Vì cơ thể họ cùng sắc thái với năng lượng âm nên họ dễ dàng biểu lộ nó hơn. Ai giỏi việc gì thì nên để họ làm việc đó. Đây chính là nghệ thuật sử dụng nhân lực của người lãnh đạo. Người xưa đã rất trí tuệ khi dạy phụ nữ mềm mại và dạy đàn ông bản lĩnh. Khi tất cả tuân theo đạo lý, dân chúng dần trở về được với tính chất tự nhiên của mình, thế mạnh của mình. Đó là tiền đề để một đất nước cân bằng và hùng mạnh.
Trong mỗi con người đều tồn tại hai thái cực âm dương cân bằng. Người nữ càng điềm đạm bao nhiêu thì cô ta càng can trường bấy nhiêu. Người nam càng bản lĩnh bao nhiêu thì anh ta càng dịu dàng bấy nhiêu. Đến đây, tôi lại nhớ đến một câu nói của Carl Jung:
“But if you pay close attention, you will see that the most masculine man has a feminine soul, and the most feminine woman has a masculine soul.” — Carl Jung
Theo quan sát, tôi thấy rằng người nữ phù hợp với những công việc gắn liền với xúc cảm, trực giác, sự ngẫu hứng, đi vào tiểu tiết (cầm kỳ thi họa, nữ công gia chánh, v.v…) Còn người nam phù hợp với công việc có tính tư duy, tổ chức, kỷ luật, kiến thiết (tranh luận, làm luật, xây dựng, lãnh đạo, phát minh, v.v…) Tất nhiên, hai giới có thể làm được công việc của nhau, nhưng sẽ mất nhiều thời gian để thành tựu hơn so với giới kia khi xét cùng một công việc. Tôi cho rằng chuyện nấu nướng, dọn dẹp, chăm sóc nhà cửa thích hợp với phụ nữ hơn là với đàn ông. Vì người nữ dễ dàng nắm bắt những tiểu tiết, trong khi người nam dùng con mắt cho những thứ mang tính đại cục, tổng thể.
Thời xưa, việc cùng nhau áp dụng và tuân theo một đạo lý sẽ làm tăng cường độ thống nhất và kỷ luật của đám đông. Từ đó, tránh được tối đa sự xung đột, mâu thuẫn. Cá nhân tôi cho rằng việc áp dụng đạo lý đó là một sự sáng suốt và vĩ đại. Người ngày nay chẳng còn gì tuân theo nữa nên rất bát nháo, ô hợp và lạc lối. Nếu có được dạy tuân theo một cái gì thì đó sẽ là chính mình. Hàng loạt những lời răn nhan nhản khắp các sách vở, trên báo đài rằng: “Hãy là chính mình.” Trong khi thật mỉa mai là hàng ngàn năm nay chỉ có những bậc vĩ nhân xuất chúng mới thật sự chạm tới được “chính mình” để mà “là chính mình.”
Chưa kể, con người trong xã hội hiện nay bị chia rẽ rất nhỏ theo các tôn giáo, lãnh thổ, chủng tộc, địa vị xã hội… Rất khó để tìm được điểm chung giữa hai con người vậy làm sao có thể tìm được điểm thống nhất của một dân tộc?
Ngày nay, khi âm dương đảo lộn – cơ thể người nữ không rung động với tính nữ và cơ thể người nam không rung động với tính nam, thì tình trạng vô sinh càng ngày càng gia tăng. Người phụ nữ không mang đủ tính âm chuẩn mực (sự mềm mại, dung dưỡng, thư thái, bao dung) thì rất khó thụ thai và mang thai, vì đứa con là tính dương thuần khiết, khởi đầu của sự sống. Người nam không mang đủ tính dương chuẩn mực (sự quả quyết, dũng mãnh, kỷ luật và kiên định) thì sẽ thể hiện sự mềm yếu, bất định, dễ rơi vào sự yếu sinh lý. Sự thoái hóa âm dương sẽ gây nên hao tổn nguồn lực vào việc chữa chạy vô sinh hoặc tạo ra sự đổ vỡ trong hạnh phúc gia đình (vợ chồng mâu thuẫn, ngoại tình.)
Tóm lại, tam tòng chính là sự ưng thuận, mềm mại, nhún nhường, hi sinh; là tính âm mà người phụ nữ cần có. Khi người nữ thể hiện được tính chất đó, người nam sẽ tự động cân bằng lại bằng tính dương tương ứng là sự quyết đoán, mạnh mẽ, tự tin và trách nhiệm. Nên việc dạy đạo lý cho người phụ nữ, cũng chính là ngầm dạy đạo lý cho người đàn ông vậy.
2. Tứ đức
Chỉ khi nào có được tính âm chuẩn mực thì người phụ nữ mới có thể biểu lộ chúng ra ngoài đời sống. Điều đó được thể hiện trong “tứ đức.” Ở đây có một câu hỏi đặt ra, đó là tại sao không phải là tứ tòng và tam đức? Theo góc nhìn của tôi, thì số 3 đại diện cho ý tưởng, tinh thần, sự sáng tạo. Còn số 4 đại diện cho cấu trúc, sự biểu đạt, tính ổn định. Tức là phải có spirit trước rồi mới cần tới body.
Ở đây, tứ đức bao gồm: Công, dung, ngôn, hạnh. Theo wikipedia:
Công: Việc nữ công, gia chánh phải khéo léo.
Dung: Dáng người đàn bà phải hòa nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân.
Hạnh: Tính nết hiền thảo, trong nhà thì nết na, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ hàng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh cay nghiệt.
Cả 4 “đức” trên đều là biểu lộ của tính âm chuẩn mực của người phụ nữ: Sự kiên nhẫn, tỉ mỉ, khéo léo (trong công việc); khả năng chăm sóc, dung dưỡng (làm đẹp ngoại hình, mở rộng hơn là làm đẹp tổ ấm); nhu mì, dịu dàng, ngọt ngào, nhã nhặn, từ bi (trong ngôn từ); sự khiêm cung, ôn hòa, biết đúng vị trí của mình (trong các mối quan hệ.)
Tóm lại, khi có tính âm chuẩn mực bằng nào, người phụ nữ sẽ tự khắc biểu lộ ra được bốn “đức” bằng đó. Và khi thực hành bốn “đức”, tính nữ của họ sẽ càng được củng cố. Tôi cho rằng, người xưa dạy đạo lý rất chặt chẽ cả ở tầng ý tưởng và cách thức áp dụng. Người đàn bà sẽ trở về được tính nữ nhanh và mạnh nhất có thể.
Không phải cứ nghe theo đạo lý mà làm theo được, đấy là chưa nói những người không thèm nghe đạo lý. Tính âm là một sự trí tuệ mà con người đang dần đánh mất. Nó là nơi nảy mầm sự sống, sự sáng tạo. Con người ngày nay đang xa rời bản chất tự nhiên của mình, sống với tâm trí náo động và đánh mất mình ở trong tâm trí đó.
“Tam tòng tứ đức” có thể coi là một cách người xưa sử dụng để ngầm lưu giữ tính âm trong xã hội. Nếu để tính âm này thoái hóa, xã hội loài người cũng sẽ thoái hóa theo và sớm đi đến bờ diệt vong. Ngày nay, người ta rũ bỏ “tam tòng tứ đức” để rồi nai lưng ra dạy thiền và học thiền. Trong khi, thiền lại là thứ khó có thể diễn giải và tiếp cận trực tiếp được nên việc dạy và học càng khiến người ta trở nên hoang mang và mê muội.
Chính những đạo lý ngày xưa, khi ẩn mình đi trong hình ảnh, trong phép ẩn dụ mới là cách truyền đạt tốt nhất. Vậy mà con người, chỉ vì ôm giữ vẻ ngoài nên càng lúc càng xa rời điều cần thiết cốt lõi dành cho chính mình.
Bản thân tôi là một người nữ, đã trải qua một quãng thời gian dài sống với sự quá đà tính nam, dẫn đến sự thoái hóa trong cả hai mặt âm dương. Tôi đã là người rất hay nổi giận, kiểm soát người khác cũng như môi trường xung quanh. Cứng quá thì gãy – câu này đã quen thuộc. Rất nhiều mối quan hệ của tôi đã vỡ đổ khi sự bất mãn dâng lên quá nhiều vì tôi không chịu nhún nhường hay hạ thấp quan điểm/cái tôi xuống. Công việc của tôi cũng tan nát: Tôi sáng tác truyện theo một hình thức rập khuôn, có sự kiểm soát nội dung quá mạnh dẫn đến sản phẩm tạo thành khô cứng và thiếu sức sống. Sức khỏe của tôi cũng suy kiệt nhanh chóng vì nó chịu sự gò bó khi phải thực hiện các công việc theo trình tự hàng ngày.
Đã có rất nhiều trải nghiệm sai lầm chỉ ra sự thoái hóa tính âm dẫn đến sự hủy diệt một cách bạo lực như thế nào. Sau khi nhìn ra, tôi đã thay đổi, làm ngược lại mọi thứ. Bắt đầu bằng việc tự hạ thấp mình, tự hủy những quan điểm của mình để hướng đến sự hài hòa trong các mối quan hệ, bỏ qua sự tranh đua đúng sai, hơn thua. Tôi bắt đầu viết truyện theo cảm giác, trực giác, không sử dụng tư duy, suy luận quá nhiều nữa, những ý tưởng sáng tạo tuôn về dào dạt mà không mất quá nhiều sức lực. Tôi cũng linh động hơn trong các công việc thường ngày, chăm sóc và lắng nghe cơ thể nhiều hơn. Từ đó, sức khỏe được cải thiện và tôi tìm thấy niềm vui trong mọi việc. Nghe thì có vẻ dễ như ăn bánh nhưng thật ra việc đi ngược lại xu hướng cố hữu của mình là chuyện không hề dễ dàng gì. Giống như xe đang lao về phía trước với tốc độ cao, mình phải thò chân xuống đất để làm phanh trước khi xe rơi xuống vực vậy. Đau, rất đau, nhưng đáng.
Cuối cùng, để kết thúc bài viết, tôi xin trích mấy lời của Dalai Lama mà tôi cho rằng ngài ấy cũng đang truyền đạt ý tưởng về tính âm/tính nữ đến với mọi người:
Khỏe, không phải là nhấc lên mạnh, mà là để xuống nhẹ.
Kính, không phải là đối với trên, mà là xử với dưới.
Ðẹp, không phải là hút người vào, mà là giữ người ở lại.
Xấu, không phải tại gương mặt, mà tại cách sống.
Khéo, không phải tạo điều to, mà là làm điều nhỏ.
Hay, không phải là ngạc nhiên, mà là sự thú vị.
Buồn, không phải do bên ngoài, mà vì ẩn bên trong.
Bạn nhất định trả lời được câu hỏi ai là tôi vì tất cả loài người đang sống trên mặt đất trần gian này đều tự động cài đặt chức năng hiểu thấu được người khác. Nếu bạn bảo rằng bạn không thể nào hiểu nổi một người, bạn chắc chắn sẽ là tội đồ.
Tôi là đứa chẳng bao giờ có thể hiểu hết chính mình mà chỉ lo đi hiểu người khác. Tôi ảo tưởng mình sinh ra đã mang theo sứ mệnh đi giải cứu thế giới nên suốt ngày chỉ biết nghe nhìn thế giới bên ngoài. Chưa bao giờ đi sâu vào bên trong để học cách yêu lấy chính mình. Tôi cứ nghĩ mình là anh hùng nên thấy chuyện bất bình là muốn ra tay cứu giúp, bộ võ lợi hại nhất của tôi là võ miệng.
Tôi nghĩ mình đúng thật là thiên tài vì dưới chân tôi là đám tiện dân chẳng bao giờ có thể ngoi ngóp lên nổi. Tôi có mặt những lúc thế gian này cần, lên tiếng bênh vực kẻ yếu bằng những chân lý bất di bất dịch không ai có thể rung chuyển. Tôi luôn sẵn sàng phê bình, đánh giá và phán xét bởi tôi rất tự tin với vốn kiến thức của mình. Vâng, vốn kiến thức tôi đã học lỏm được trong mấy quyển sách. Nếu bạn muốn, tôi hoàn toàn có thể trích dẫn ra tất cả những gì tôi nói và tôi thậm chí có thể nói luôn cả tên người nói, ngày tháng năm và bối cảnh phát ngôn. Hôm nay ở đây có vụ này đang rộ lên, có diễn biến mới vụ kia vừa mới được cập nhật trên các trang báo, chắc chắn rằng tôi sẽ chẳng khác nào một con heo béo nục nịch không bao giờ bỏ lỡ cám ngon.
Tôi là những nhà tri thức vừa mới tốt nghiệp chuyên nghành này kia từ bên nước ngoài trở về Việt Nam để dùng con mắt đã được mở to rồi soi vào cái ao làng. Tôi có cả những luận án tiến sĩ thạc sĩ được cấp bởi những trường danh tiếng. Vâng, tôi là những thanh niên tri thức mới, lớp trẻ, là tương lai được tiếp cận văn minh hiện đại nên tôi hoàn toàn có thể biết được cái nào là phù hợp nhưng vì tôi sống quá văn minh hiện đại nên tôi thật chẳng còn thiết tha gì với cái ao làng quê mùa này nữa. Nó giờ chỉ đáng làm trò tiêu khiển chém gió của tôi trong những cuộc vui bạn bè.
Tôi biết Trang tử, tôi biết Lão Tử, biết Socrates, Plato, tôi thông suốt Thánh Kinh, tường tỏ đạo Phật… nên trong khi hút một điếu xì gà thì tôi sẽ dùng giọng điệu bao dung độ lượng cho những kẻ chẳng biết gì. Tôi còn là loại người thường nói những câu bất cần đời, chửi rủa, tự nhận mình là nghệ sĩ và chẳng cần đếm xỉa gì đến thế gian, chỉ vô tình ghé qua nên vào góp vui vài câu cho rôm rã. Tôi không nghĩ là mình vẽ màu vẽ sắc gì vào bức tranh đó vì dân nghệ sĩ thứ thiệt như tôi chỉ bận tâm đến nghệ thuật chân chính mà thôi.
Tôi còn là loại người hay nói đến Đạo Đức Kinh hoặc Nam Hoa Kinh và khiến người khác học máu bởi sự thông thái của mình. Tôi nói đến tranh của Van Gogh và nhạc của Mozart hoặc Beethoven, tôi chẳng bao giờ bận tâm đến thứ âm nhạc Việt Nam thị trường. Tôi vừa ngồi nghe vừa nhịp chân hai ba hai bốn, đánh các ngón tay nhẹ vào đùi chân và tỏ niềm thất vọng bởi Việt Nam chẳng bao giờ sinh ra được thứ nghệ thuật này.
Tôi sinh ra đã có máu anh hùng nên chắc chắn cần phải sống vĩ đại. Luôn tỏ ra khác người. Tôi không được lẫn trong đám đông, tôi phải sống tách biệt thành một cá thể riêng mà không biết rằng chen ra khỏi đám đông này thì cũng lẫn chân vào một đám đông nhốn nháo khác.
Tôi còn là loại người sống rất thực tế, có đạo đức, sống hòa nhập cộng đồng xã hội, có lý tưởng, nhân bản… Loại người như tôi là chuẩn mực xã hội nên chẳng còn một chuẩn mực nào khác có thể chuẩn hơn được nữa.
Tôi là tất cả những gì bạn nhìn thấy ở tôi qua con người của bạn. Hiểu được tôi rõ quá thì bạn có thấy chán ghét và khinh bỉ cái con người là tôi đây?
Tôi là loại người đê hèn nhất cái xã hội này nên tôi thách đố kẻ nào có thể đáng khinh hơn cả tôi đấy!
Đà Lạt một buổi sáng tinh khôi ngập tràn nắng. Tôi bước xuống giường đẩy cửa bước ra. Nhìn con “Trâu Già” đang nằm bơ vơ trước sân. Tôi muốn mang nó đi bệnh viện khám chữa bệnh. Xem nào, đánh sạch gỉ, tra dầu các ổ bi, bơm lốp, côn tay đã bị hỏng, có dấu hiệu chết lạnh dưới thời tiết băng giá của Đà Lạt, chẳng biết có bao nhiêu bệnh, chỉ cần gặp bác sĩ là có thể hồi phục sức khỏe.
Ôi anh bạn già đã một thời nam chinh bắc chiến, lúc tôi cô đơn hay cô độc cũng là người luôn bên cạnh. Bao lâu rồi tôi không ngồi trên lưng con chiến mã này, bao lâu tôi không bước chân ra khỏi Đà Lạt, bao lâu tôi không vi vu trên những con đường, đêm nằm nghe tiếng sóng, sáng ra hít hà thoang thoảng hương đồng gió nội bay. Bao lâu rồi tôi không được ngắm nhìn những ánh mắt tò mò , là cũng bấy nhiêu thời gian tôi không còn được nghe câu: “Chà, con gái mà chạy xe độ ngầu nha.”
Tối hôm qua có anh bạn nhắn tin hỏi tôi có phải là một cô gái “nữ tính.’’ Nói thật, sáng nay tôi chỉ muốn phi con “Trâu Già’’ này đến trước mặt anh ấy. Bóp côn rú thật mạnh, tiếng bô thét lớn sẽ thay lời tôi muốn nói “Anh có tin em cũng là một cô gái nữ tính.’’ Châm lên một điếu thuốc, hít một hơi thật sâu, nhoẻn miệng cười một cái, quay xe, phi nhanh về nhà. Tôi phải trông thật ngầu chẳng khác gì đang sống trong một bộ phim cao bồi ở Mỹ.
Vậy thế nào mới được gọi là một cô gái nữ tính?
Một cô gái nữ tính là người luôn cố gắng chăm sóc làn da, là người luôn trang điểm, tắm rửa cơ thể thơm tho rồi xịt vào người thật nhiều nước hoa, là cô gái luôn chăm sóc móng tay rồi vẽ hình hài hoa lá sặc sỡ, có mái tóc dài bồng bềnh óng mượt, luôn ăn uống lành mạnh có lợi cho sức khỏe và chăm tập thể thao. Họ sẽ luôn cư xử duyên dáng nhẹ nhàng, họ tử tế, thích lãng mạn, không nói tục hay nói chuyện thô bỉ, trong khi ăn thì không nên nhai ngấu nghiến, đi đứng nhẹ nhàng không phát ra tiếng động, sống cực kỳ ngăn nắp. Một cô gái nữ tính còn phải là một người ăn mặc có phong cách dịu dàng như thích mặc váy, mang giày cao gót, yêu màu hồng, mặc áo quần vừa vải không thiếu trên hở dưới. Hoặc một cô gái nữ tính là người hội tụ đủ bốn yếu tố công dung ngôn hạnh, vân vân… Tôi không chắc là anh bạn của tôi không nghĩ đến những chi tiết này khi hỏi.
Theo quan điểm của riêng tôi. Không có một ngôn từ chọn lọc nào có thể định nghĩa được “nữ tính.” Cái “nữ tính “ mà người ta thường quan niệm về phụ nữ cũng không phải là cái vốn có thuộc bản chất của người phụ nữ. “Nữ tính” chỉ là cụm từ do người đàn ông áp đặt cho phụ nữ thông qua văn hóa, giáo dục… Cái “nữ tính” của người cổ xưa khác “nữ tính” của hiện đại, người phương Đông khác người phương Tây, người miền Bắc khác người miền Nam. Và chắc chắn là “nữ tính” của tôi cũng hoàn toàn khác “nữ tính” mà anh ấy đang nghĩ đến.
Tôi có thể nhìn thấy một cô gái ngồi đọc sách bên ô cửa sổ có tia nắng vàng len lỏi qua tấm rèm che ở một góc trong quán cà phê là “nữ tính.” Nhưng đối với những người qua lại trong quán, họ chỉ xem cô gái đó là một đứa tự kỉ. Hoặc có người chửi cô ta bị khùng vì ngồi dưới nắng rất dễ bị rạm da. Hoặc tôi đang nhìn thấy một người phụ nữ yếu đuối là “nữ tính” nhưng người khác lại cho rằng đó là vô tích sự. Tôi nghĩ một người phụ nữ ngoan ngoãn là “nữ tính” nhưng bạn lại cho rằng đó là thụ động. Ở phương Đông nghĩ rằng người phụ nữ tam tòng tứ đức là “nữ tính” nhưng đối với người phương Tây thì đó là đặc trưng nói lên một người phụ nữ sống phụ thuộc yếu kém.
Chúng ta thường nhầm lẫn một vài đặc trưng xuất hiện trên cơ thể người phụ nữ là giá trị để đánh giá người đó có “nữ tính.” Chẳng hạn một bộ ngực đầy đặn nhìn sẽ “nữ tính” hơn phụ nữ ngực lép. Phụ nữ mông to tròn mặc quần trông sẽ bắt mắt hơn phụ nữ mông bé. Nhưng chúng ta quên mất rằng thậm chí xã hội hiện nay cũng dần xuất hiện một vài đấng nam nhi sở hữu tố chất “nữ tính.” Vậy nên việc quy chụp những vẻ bên ngoài của một vài người phụ nữ để đánh giá mức độ “nữ tính” là hoàn toàn sai lầm. “Nữ tính” không thể đánh giá qua yếu tố sinh học hay hình dáng bên ngoài.
“Nữ tính” cũng không thể đánh giá qua yếu tố tâm lý. Trong tình yêu, bao giờ người ta cũng nghĩ nam chủ động và phái nữ luôn bị động. Chuyện cọc đi tìm trâu thường không hợp lẽ với tư tưởng phương Đông. Vâng, một cô gái “nữ tính” là một cô gái biết thẹn thùng và ngượng ngạo trước người yêu. Hay trong chuyện tình dục, một cô gái có nhu cầu ham muốn lớn hơn chàng trai thường bị đánh giá. Nhưng thực chất đó chỉ là chuyện về bản năng tính dục và nó chẳng liên quan gì đến tính cách con người. Rõ ràng là người Việt Nam rất quan trọng chuyện trinh tiết nhưng còn các nước phương Tây thì họ chẳng đặt nặng vấn đề đó bao giờ.
Có nhiều người còn cho rằng người phụ nữ “nữ tính” thì không thể nắm trong tay “nữ quyền.” Vì những người phụ nữ thuộc vào dạng này thường rất mạnh mẽ, họ sở hữu một vài tính cách rất đỗi nam nhi. “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp người ta.” Là lời tuyên bố bất hủ của Bà Triệu. Mọi người nghĩ rằng một người phụ nữ ra trận đánh giặc không phải là “nữ tính.” Nhưng thực chất nó đâu phải là bản tính xuất phát từ khởi sinh của người phụ nữ. Nó còn bị chi phối bởi bối cảnh bên ngoài.
Trước khi cho đăng bài viết này, tôi cùng anh bạn kia đã có thêm một cuộc tranh luận về vấn đề này. Anh ấy minh họa cho tôi một ví dụ điển hình “nữ tính” thông qua dáng dấp người phụ nữ Nhật Bản. Người ta thường bảo rằng “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây và lấy vợ Nhật.’’ Chỉ chừng đó thôi cũng đủ làm sáng tỏ ánh hào quang mà người phụ nữ Nhật Bản tỏa ra trong miền đức hạnh của một người phụ nữ. Nhưng tại sao tôi lại được nghe những cô bạn gái người Nhật của tôi kể lể về nổi thống khổ của họ với những truyền thống, lễ nghi của đất nước họ? Ngoài việc lấy hình ảnh đó để minh họa, anh ấy còn đưa ra luận điểm mọi thứ trong tự nhiên đều là nhị nguyên âm dương. Cho nên nam thì nên dương, nữ nên âm. Đó là thuận theo tự nhiên. Không thuận theo tự nhiên là vô minh. Nhưng một lần nữa tôi lại thấy “Platon đội ơn Thượng đế, trước hết, đã sinh ra ông là người tự do và không phải là nô lệ, và hai là, một người đàn ông và không phải là đàn bà.” Một Kinh Thánh đã chỉ rõ: “Không phải người nam được sáng tạo ra cho người nữ, mà trái lại, người nữ được sáng tạo ra cho người nam.’’ Thánh John Chrysostom: “Trong tất cả các loài động vật, không có con vật nào nguy hại bằng đàn bà.” Và cả một Khổng Tử : “Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nán dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán” (Nghĩa là, Khổng Tử nói: “Duy chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó giáo dưỡng. Gần thì họ khinh nhờn, vô lễ, xa thì họ oán hận”) Cái nữ tính là cái không có sẵn khi người phụ nữ được sinh ra, mà là cái người phụ nữ sẽ trở thành. Vậy phụ nữ cần trở nên “nữ tính” thế nào để vẫn được tôn trọng và sống hạnh phúc?
Trong Chủ nghĩa hiện sinh và cảm xúc của con người. Jean Paul Sartre cho rằng con người tạo ra những giá trị thông qua sự lựa chọn chủ quan của mình: “Nói rằng chúng ta sáng tạo ra những giá trị có nghĩa là: Cuộc sống không có một ý nghĩa tiên nghiệm nào cả. Trước khi bạn đi vào cuộc sống, cuộc sống là hư vô, chính nhờ bạn đem lại cho nó một ý nghĩa, và giá trị không phải là cái gì khác cái mà bạn đã chọn”. Nói theo cách này nghĩa là “nữ tính” chỉ là một cái ý nghĩa và giá trị mà chúng ta đã lựa chọn. Và nếu như đó chỉ là một sự lựa chọn chủ quan, tôi có thể tự chọn theo cái tôi thích, bạn chọn theo cái bạn muốn. Tôi mong rằng tất cả phụ nữ hãy đủ thông minh tỉnh táo để chọn lựa cho mình những nét duyên dáng “nữ tính” mà không đánh mất đi giá trị của chính bản thân mình mà vẫn được tôn trọng.
Tóm lại, “nữ tính” của phụ nữ chỉ là cái mà người đàn ông áp đặt cho phụ nữ thông qua toàn bộ những điều kiện kinh tế xã hội, ý thức xã hội, hệ tư tưởng quy định trong tiến trình phát triển mà người phụ nữ sống. Nếu bạn muốn hỏi tôi thế nào là một người phụ nữ “nữ tính”, làm thế nào để trở thành một người phụ nữ “nữ tính.” Xin hãy nói cho tôi nghe về tính cách, tư tưởng, lối sống của người đàn ông bạn yêu. Tôi nghĩ tôi sẽ biết cách để khiến bạn “nữ tính” hơn.
Và sau cùng. Trong lúc ngồi viết ra những câu từ này. Tôi thực nghĩ mình sao quá đổi “nữ tính”. Nhưng liệu khi đọc xong bạn có nghĩ thế?
“Hiếu ơi, chuẩn bị tốt nghiệp rồi, sắp tới ông dự tính sẽ thi vô trường nào?”
Hồi cuối lớp 12, có một cô bạn cùng khối thường hỏi tôi như vậy vào mỗi lần gặp mặt, bằng một thái độ quan tâm đầy khả ái. Lúc đó, trong lòng tôi cảm thấy cực kỳ khó chịu, hàng ngàn hơi thở nối đuôi nhau cũng không thể thoả mãn được lồng ngực, tôi mỉm cười, không đáp, vội vã rời đi. Tôi của năm 18 tuổi là vậy, đã luôn luôn bế tắc, đã sống mà không có bất kỳ một mục tiêu nào cả.
Con đường phía trước thật tăm tối…
“Mà thôi! Không nghĩ nữa! Học đại học cũng được mà đi làm kiếm tiền cũng chẳng sao, hãy cứ sống là chính mình.” Tôi tự nhủ.
Sống là chính mình?
Quả thật, đó là giai đoạn tồi tệ nhất trong cuộc đời của tôi tính cho tới thời điểm khai sinh bài viết này. Gia đình thì ly tán vì cục nợ to tướng sau một vụ làm ăn thua lỗ, mối tình đầu thì tan vỡ trong tuyệt vọng, tôi phải chuyển đến ở nhờ nhà của một người bạn trong lớp và cố gắng đi học với sự thiếu thốn tài chính “không hề nhẹ.” Trong khi đó, tôi chẳng biết học, học nữa, học mãi,… tóm lại sẽ mang đến cho tôi điều gì?
Chán nản với nền giáo dục kém hiệu quả cũng như những khoá hướng nghiệp qua loa đại khái, kèm theo đó là sự xuống cấp của xã hội đang diễn ra ngay trong tầm mắt, não bộ của tôi bắt đầu hình thành một luồng tư tưởng chống đối mãnh liệt mà có lẽ rất nhiều người ngoài kia gói gọn nó trong một tập tin nén mang tên “Phản Động”. Đúng, tôi đã đến với Triết Học Đường Phố đời đầu một cách non trẻ và sặc mùi a dua như vậy đó.
Tuy nhiên, nếu ai đó nói rằng Triết Học Đường Phố là một trung tâm “Phản Động” thì chắc chắn người đó đã sai. Sau một khoảng thời gian tham gia diễn đàn để ủng hộ nhiệt tình cho phong trào Zombie lẫn bản nhạc ĐMCS của rapper Nguyễn Vũ Sơn (Dead Nah) và vô tình đọc các bài viết từ mọi người, tôi dần dần nhận ra được những bộ mặt khác đang tồn tại…
Từ một kẻ thù hiềm vô tội vạ, tôi đã trở thành một con người biết suy nghĩ hơn trong việc nhìn nhận mọi vấn đề. Triết Học Đường Phố, suy cho cùng cũng chỉ là một diễn đàn song nó lại đặc biệt hơn các diễn đàn khác ở chỗ: Tại đây, những con chữ được thả hồn, những hộp sọ được giải phóng, hầu hết ở dạng văn bản và tất cả đều TỰ DO.
“Cây bút nào mà không thẳng?”
Đôi khi sự thẳng thắn làm đau lòng người và đã có không ít nhân vật chỉ biết đọc chứ chẳng chịu hiểu. Họ cảm thấy bị tổn thương, từ đó, sự quy chụp hình thành để rồi hai chữ “Phản Động” lại tuôn ra.
“Mà thôi! Không nghĩ nữa! Phản động cũng được mà không phản động cũng chẳng sao, hãy cứ sống là chính mình.” Tôi tự nhủ.
Sống là chính mình?
Điều quý giá nhất tôi phát hiện từ Triết Học Đường Phố là tôi hoàn toàn có thể viết bài như bao người khác, không chỉ vậy, lượng tương tác ở đây cũng rất nhiều với những lời bình đầy tâm huyết và chân thật đến mức nhiều khi bạn sẽ cảm thấy như vừa bị chửi thẳng vào mặt, tuy nhiên cách họ chửi lại rất văn minh, luôn có lý lẽ thuyết phục, luôn có cái gì đó khiến cho bạn phải suy ngẫm. Họ không chửi đổng, không vùi dập. Họ giúp bạn nâng cấp hệ thống tư duy và ngược lại.
Tiến hoá là một quá trình không ngừng nghỉ
Tôi đã viết, viết vì một hoài bão lạ đời. Tôi muốn rằng vào một ngày đẹp trời trên đất Hoa Kỳ, mọi người, dĩ nhiên là không có bọn khủng bố chen chân vào, sẽ kéo nhau đến rạp chiếu phim để thưởng thức một tác phẩm điện ảnh nổi tiếng được sản xuất tại Việt Nam, lấy bối cảnh lịch sử Việt Nam hơn hai ngàn năm trước.
Bạn muốn biết phản ứng của họ sau khi rời rạp chứ?
“Wow, thật hoành tráng!” Một thiếu nữ tóc vàng thốt lên: “Gì cơ? Đây là phim Việt Nam á? Chúa ơi! Tôi cứ tưởng là phim Trung Quốc.”
“Kịch bản rất tốt…” Một anh chàng da đen nhận xét công tâm: “Nhưng tôi thường xem phim của Jackie Chan (Thành Long) nên cảm thấy tác phẩm này không được sáng tạo cho lắm, nhìn xem, con rồng chủ đạo đã xuất hiện quá nhiều trong nền điện ảnh Trung Quốc.”
“À!” Một anh chàng gốc Việt gượng cười: “Việt Nam và Trung Quốc nằm kề nhau nên trong lịch sử cũng có vài điểm giao thoa.”
Không, họ nhất định sẽ không nói như vậy.
“Wow, thật hoành tráng!” Thiếu nữ tóc vàng thét lên: “Đây là bộ phim cổ trang châu Á khác biệt nhất mà tôi từng xem.”
“Kịch bản rất tốt.” Anh chàng da đen phấn khích: “Tôi nghe nói có một con rồng trong phim và cứ nghĩ rằng nó sẽ trông giống với những con rồng Trung Hoa thường xuất hiện trên màn ảnh nhưng mà không, nó là một giống loài khác, thật mạnh mẽ, thật bá đạo!”
Anh chàng gốc Việt mỉm cười: “Đó là Giao Long trong truyền thuyết của người Việt Nam.”
“Giao Long?” Thiếu nữ tóc vàng xen vào: “Thế còn con rùa khổng lồ xuất hiện đầu phim?”
“Đó là Kim Quy Thần.” Anh chàng gốc Việt trả lời: “Một vị thần đã rất nhiều lần giúp đỡ người Việt vượt qua khó khăn.”
“Những chú chim mỏ dài thì sao?”
“Chim Lạc, đại diện cho nền văn hoá lúa nước của người Việt cổ.”
“Anh có vẻ như rất am hiểu trong lĩnh vực này?”
“Không, chỉ là… tôi có một nửa dòng máu Việt Nam.”
“Ồ! Chúng ta có thể làm quen không? Tôi thật sự rất muốn tìm hiểu một người đến từ Việt Nam. À, không…” Thiếu nữ e thẹn: “Là tìm hiểu về đất nước Việt Nam.”
“Rất hân hạnh thưa quý cô.”
“Ông nội mình có phải người Việt không nhỉ?” Anh chàng da đen chăm điếu thuốc: “Như vậy chắc sẽ dễ dàng tìm kiếm một cô gái.”
Chúng ta có quyền tự hào về nền lịch sử phong kiến nước nhà, tại sao không? Chúng ta có rất nhiều điểm khác biệt so với người phương Bắc, từ cách ăn mặc cho tới ngôn ngữ, tại sao lại cam chịu để cho người khác đánh đồng như thế? Đó là vì có một vài người lắm tiền nhiều của ngoài kia đang tự nhận mình giàu tâm huyết và dư thừa khả năng nhưng thực tế lại cực kỳ lười nhác cũng như yếu kém trong việc khai thác, phục dựng, quảng bá đề tài lịch sử trên đất quê hương. Đương nhiên là còn vô số những vấn đề khác mà tiêu biểu nhất là sự khan hiếm tri thức từ chính những đứa con của đức mẹ Âu Cơ, thật xấu hổ khi họ tự mình chối bỏ tổ tiên, chối bỏ quá khứ, tự mình công nhận lệ thuộc vào Trung Hoa. Đã có không ít người, hầu hết là những bạn trẻ đồng trang lứa, cho rằng hể cứ viết truyện cổ trang thì chắc chắn là đua đòi theo các nhà văn người Hán chứ làm gì có một nhà văn Việt Nam nào theo đuổi trường phái này? Thật sao?
Tôi cố gắng mỉm cười, một nụ cười hoang dại và đau đớn.
“Mà thôi! Không nghĩ nữa! Cổ trang Việt Nam cũng được mà cổ trang Việt lai Tàu cũng được, hãy cứ sống là chính mình.” Tôi tự nhủ.
Nên tôi chọn viết, cách mà rất nhiều nhân vật khác trên thế gian này theo đuổi. Một số người đã đạt đến những thành tựu to lớn nhưng cũng có một số người ngủ quên dưới ba tấc đất mà chẳng có ai ghi nhớ. Tôi không biết mai này mình sẽ thuộc trường hợp nào nhưng tôi cảm nhận được rằng mình đã gặt hái được thứ gì đó từ nơi đây, Triết Học Đường Phố.
Đó là khi tôi đăng tải chương 1 của Đại Việt Long Phụng Kê với dự tính sẽ vung viết dồn dập như một khẩu đại liên, càng nhiều tác phẩm càng tốt. Tôi muốn xây dựng nên một vũ trụ võ hiệp đan xen lịch sử của riêng tôi để rồi sau này tự tay đưa nó lên trên màn ảnh rộng. Như cách hãng truyện tranh Marvel đã làm với những đứa con tinh thần của mình.
Tội nhận được lời bình luận đầu tiên sau vài giờ và nối tiếp là rất, rất nhiều, sau vài ngày. Có người nhận xét theo quan điểm cá nhân của họ, có người góp ý một cách thẳng thắn hơn bao giờ hết, có người tán thưởng, có người chê bai. Họ khiến tôi phải tự mình đọc lại sản phẩm của mình như một bước kiểm duyệt, khiến tôi nhìn ra được những cái hay, những cái dở trong lối hành văn của chính mình. Họ góp phần kiến tạo nên tôi ở thời điểm hôm nay, từ tận đáy con tim, tôi xin chân thành gửi đi một lời cảm tạ, dẫu chẳng còn nhớ rõ họ là ai.
Phần tri ân sâu sắc nhất, tôi xin dành cho anh Huy Nguyễn, người đã sáng lập sân chơi này. Với việc xuất bản 3 chương truyện, tôi nhận được từ anh một khoảng tiền khích lệ bằng Bitcoin không hề nhỏ, ít ra là đối với một đứa học sinh như tôi.
Đó là lúc sự nhiệt huyết trong tôi đạt tới đỉnh điểm, thậm chí nó còn nóng bỏng hơn cả một tô mì cay cấp độ 7 trộn thêm 3 ký ớt. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào tương lai của ngòi bút, một tương lai rực rỡ.
Nhưng những ngày sau đó thật tồi tệ…
Càng sát với kỳ thi quốc gia, lịch học của tôi càng dày đặc dù tôi đã xác định rằng đại học sẽ không đào tạo tôi trở thành con người mà tôi mong muốn. Tôi thà đi tù với hai ngàn quyển sách như một sự đặc ân của pháp luật chứ không muốn bị giam trong bốn bức tường và những dãy bàn ghế. Tuy nhiên, giống với đại đa số các thí sinh khác, tôi vẫn chịu áp lực từ mọi phía. Tôi không biết phải giải thích thế nào cho gia đình hiểu nếu đạt kết quả kém cỏi trong kỳ thi, không biết phải nói chuyện thế nào trước mặt bạn bè nếu sau này chỉ là một thằng làm thuê làm mướn. Vì tính khí sĩ diện ấy, tôi cố gắng ngồi học thêm một chút, thời gian rảnh rỗi cũng bớt đi phân nửa.
Tôi bắt buộc phải lựa chọn giữa một trong hai: Viết hay chơi?
Tôi chọn chơi. Tôi cho rằng mình đã học gần hết thời gian và phải dành dụm một ít cho việc giải trí. Tôi đạp xe đi khắp Sài Gòn, đến những chỗ vui chơi giải trí, những quán cà phê yên tĩnh, những cửa hàng trò chơi điện tử đông đúc.
Tôi ngưng viết. Tôi biện minh rằng mình có lý do chính đáng và tự hứa hẹn với bản thân về một ngày trở lại, sau kỳ thi gian khổ. Tôi vẫn hay nghe về những tấm gương đã tạo nên kỳ tích trong khốn khó nhưng tôi không nghĩ mình sẽ làm được như vậy. Tôi đã chọn cách trở thành một kẻ tầm thường.
“Mà thôi! Không nghĩ nữa! Tầm thường cũng được mà không tầm thường cũng chẳng sao, hãy cứ sống là chính mình.” Tôi tự nhủ.
Rốt cuộc thì tôi cũng từ bỏ đại học sau một khoảng thời gian dạo chơi cho biết, mặc kệ những lời khiển trách trước mặt và sự khinh bỉ đằng sau. Đáng lý ra tôi nên làm như vậy từ vài tháng trước đó…
Cuộc sống luôn mang đến những cơ hội
Triết Học Đường Phố ngưng hoạt động. Tại sao? Từ khi nào? Tôi chẳng biết. Tôi chỉ biết rằng mình vừa đánh mất một thứ gì đó rất tuyệt vời đối với bản thân, thứ mà tôi hoàn toàn có thể nắm bắt.
Triết Học Đường Phố ngưng hoạt động. Điều đó đồng nghĩa với việc mối dây liên kết giữa tôi và những người bạn cùng tư tưởng trên diễn đàn hoàn toàn tan vỡ. Tôi tạo lại tài khoản Google và Facebook, cố gắng tìm kiếm những cái tên còn đọng lại trong tiềm thức của mình, nỗ lực bình luận vào một số video liên quan đến diễn đàn nhưng cuối cùng cũng chỉ tìm được những hình ảnh còn sót lại.
Hơn nửa năm trời không trực tuyến, tôi gần như quên hết tất cả.
“Mà thôi! Không nghĩ nữa! Có Triết Học Đường Phố cũng được mà không có cũng chẳng sao, hãy cứ sống là chính mình.”
Tôi lại suy nghĩ như vậy thêm một lần nữa, để rồi phần tiếp theo của câu chuyện thật sự rất tẻ nhạt. Hơn hai năm liền, tôi chỉ biết cắm đầu đi làm, từ quán cơm gà cho đến công ty bảo vệ, từ hiệu trà sữa cho đến cửa hàng tiện lợi. Đồng lương ít ỏi, tương lai mù mịt.
Hai tháng trước, tôi bắt đầu mệt mỏi, không phải sức khoẻ có vấn đề mà là tâm hồn đang xuống cấp. Tôi quyết định nghỉ việc, ở nhà, khép hờ mắt, suy nghĩ, đầu óc quay cuồng, điên đảo.
“Mà thôi! Đừng nghĩ nữa! Hãy cứ sống là chính mình.”
Sống là chính mình?
Tôi choàng tỉnh, tròng mắt phóng ra xa
Cả về vật chất lẫn tinh thần, tại sao cuộc sống của tôi lại trở nên túng quẫn như thế này? Cuối cùng, tôi cũng tìm được một câu trả lời thoả đáng. Tôi đã chọn cách buông thả khi khó khăn, chọn cách tầm thường khi vẫn còn có thể nỗ lực, chọn cách bỏ qua mọi chuyện thật dễ dàng và tự nghĩ rằng bản thân đang tiếp cận gần hơn với tư tưởng “Xuất Thế” của Lão tử. Tôi đã tin tưởng hoàn toàn vào tương lai của ngòi bút nhưng lại chẳng mảy may tìm cách thi hành nó, đã yêu Triết Học Đường Phố mà không hề sát cánh cùng cộng đồng trong những thời khắc quan trọng nhất. Liệu tôi có đang sống là chính mình hay không?
Không. Đôi khi con người ta vẫn hay lầm tưởng giữa những ham muốn tầm thường của thể xác và những giấc mộng trong tâm thức. Đừng để bốn chữ “Sống Là Chính Mình” trở thành lý do hoàn hảo cho việc đánh mất bản thân, buông bỏ lý tưởng.
Quá khứ đã qua, tôi thật sự chỉ sống cho một phần nào đó len lỏi bên trong cơ thể lười biếng này…
Tôi phải thay đổi, ngay lập tức, thời gian còn nhiều song nó lại không dành cho bất kỳ một sự phí phạm nào cả. Con người là một sinh vật kỳ diệu, chẳng có ai tầm thường, ngoại trừ những kẻ tự mình chọn lấy sự tầm thường.
Sóng, con sóng đầy thi vị,
Không tri thức nhưng chẳng sống qua loa.
Sóng cùng bờ như một đôi tri kỷ,
Nhịp từng nhịp cho cảm xúc thăng hoa.
Sống, đông đảo nên rộn ràng.
Trong cuộc sống lại có sóng chen ngang.
Sống, nghẹn ngào từng hơi thở.
Lênh đênh mặt sóng để thấy đời nhẹ nhàng…
Sống như con sóng nhịp nhàng.
Sóng, cho ta theo kịp nàng!
Rạng sáng hôm nay, ngày 23 tháng 5 năm 2018, tôi vẫn còn tỉnh táo nhờ những giọt cà phê nguyên chất từ Tây Nguyên và đang trong quá trình thiết kế lại các ý tưởng đã vô tình đánh mất cũng như tìm kiếm một diễn đàn văn học giàu tiềm năng để phát triển. Những bản nhạc Hip Hop từ thế giới ngầm vang vọng bên tai, tôi chán nản tắt đi một cửa sổ trình duyệt, thêm một diễn đàn nữa rơi ra khỏi sự kỳ vọng.
Cùng lúc ấy, chế độ tự động phát của Youtube dẫn tôi đến bài rap Nghiện Mà Ngại của Blacka, hai viên đạn xuyên thủng màng nhĩ:
“Đây đéo có phải Rap Việt mà tao được biết, càng đéo bao giờ xứng đáng là thứ được lan truyền.
Đây từng là chỗ của triết học đường phố chứ đéo dành cho thằng nghiện còn xin tiền.”
Tôi bắt đầu hoài niệm, lách cách, lách cách, những ngón tay gõ nhẹ trên bàn phím, khung tìm kiếm dần dần hiện lên.
(Bài viết này hiện đang được 14.8 nghìn Likes trên Medium)
Tôi vừa đọc xong cuốn We Are Never Meeting In Real Life (rất đáng đọc) của Samantha Irby. Trong đó tác giả nói về mối quan hệ tình cảm của mình:
“Tôi đang yêu, và nó thật tẻ nhạt.”
Đúng vậy, chị gái ạ.
Chúng ta quá thường xuyên nghĩ rằng tình yêu phải cuồng nhiệt
Người ta ca tụng chuyện “mê đắm quên mình” hay “phải lòng” một ai đó; họ cam chịu đẩy đưa như thể họ chẳng thể làm được gì, họ để cho mình buông xuôi theo cảm xúc và gán cho đó mỹ từ “đam mê”.
“Chuyện tình cảm cần sự vun đắp,” chúng ta tự nhủ chính mình. Nhưng chúng ta lại hiểu sai nghĩa của từ “vun đắp”.
“Tẻ nhạt” thì tốt hơn “say đắm”. Và mặc dù hầu hết những mối tình tuyệt vời đều có sự hòa trộn của cả hai yếu tố trên; song nếu buộc phải chọn, chúng ta nên chọn sự tẻ nhạt. Lúc nào cũng ấm áp sẽ dễ chịu hơn là lúc nóng lúc lạnh.
Nét đẹp của sự tẻ nhạt
Nhắc đến “tẻ nhạt”, tôi muốn nói về sự ổn định, nhất quán và tin cậy. Chúng ta có thể tin tưởng ở những điều ấy; dựa trên đó ta có thể xây dựng trên một nền tảng vững vàng, bền chắc.
Sự vĩ đại được xây dựng nhờ tính ổn định, nhất quán
Điều này đúng với chuyện tình cảm, cũng như đúng với bất kỳ điều gì. Quá trình giảm cân diễn ra cùng nhờ có rất nhiều quyết định nhỏ mỗi ngày, không phải cứ ăn vô độ rồi xổ ra như một bệnh lý thiếu lành mạnh. Hoặc xây dựng một công ty cũng cần hàng triệu những khoảnh khắc nhỏ, chứ không phải chỉ là kí hợp đồng hoặc mất đi một Đối Tác Lớn. Sẽ dễ dàng hơn nhiều để thiết kế ra một giải pháp xoay quanh những biến số ổn định nhất quán – bất kể những biến số đó là gì.
Khi một bạn tình (hay một mối tình) lúc lạnh lúc nóng, sớm nắng chiều mưa…, ta phải dành quá nhiều thời gian ứng phó với những cảm xúc của người ấy và không đủ thời gian để thực sự xây đắp mối quan hệ. Tôi chẳng thể làm được gì với một người bạn tình thất thường. Tôi biết được điều này bởi vì tôi từng có quan hệ với một – à, hai người như vậy – đơn giản là mọi chuyện chẳng đi đến đâu cả.
Sự vĩ đại được xây dựng nhờ sự tự chủ và biết gánh vác trách nhiệm
Người bạn tình không có trách nhiệm “mua vui” cho ta.
Nếu tiếp cận một mối quan hệ với sự chân tình, ta sẽ không phàn nàn về “sự tẻ nhạt” với người bạn tình. Ta hiểu rằng trong mối quan hệ giữa hai người, họ không cần phải mua vui, hay làm ta xao lãng. Cuộc sống của họ không phải là nguồn giải trí cho ta, họ cũng không đến với ta chỉ để khiến ta khoan khoái hay xao lãng. Ta tự có trách nhiệm với sự lành mạnh về cảm xúc của chính mình.
Sự vĩ đại được xây dựng nhờ sự lành mạnh của cảm xúc
Những người có cảm xúc lành mạnh sẽ không theo đuổi “sự lãng mạn” và có những màn thể hiện cảm xúc phóng đại. Họ hiểu rằng tình yêu chân thật, lành mạnh hiện hữu trong từng điều nhỏ nhặt thường nhật như nhớ lấy đồ về từ tiệm giặt ủi, một cái ôm, một lời động viên trước cuộc họp quan trọng. Họ cũng không yêu cầu hay hứng thú gì với mấy trò “khoe gấu” trên mạng xã hội.
Sự vĩ đại được xây dựng trong thường ngày, không phải trong vài khoảnh khắc hứng thú
Cũng như bất cứ thứ gì khác, những mối quan hệ tốt đẹp được xây dựng trong chính mỗi ngày. Đó không phải việc cố chịu đựng hàng ngày để đợi đến kì nghỉ hay chuyến đi chơi tiếp theo, giống như với một công việc tốt thì ta không phải cố chịu qua những ngày làm việc để được nghỉ cuối tuần vậy. Mối quan hệ tình cảm được xây dựng trong “khoảng trắng” của cuộc sống; nó diễn ra hàng ngày. Vì vậy, những gì chúng ta làm với khoảng thời gian ấy sẽ tạo nên hoặc phá vỡ mối quan hệ của chúng ta.
Từng khoảnh khắc ta được ở bên người mình yêu đều là vô giá. Sự sống còn của mối quan hệ tùy thuộc vào những khoảng khắc ấy. Và đa phần những khoảnh khắc thường ngày ấy đều tẻ nhạt.
Một đôi vợ chồng 80 tuổi nắm tay nhau trong công viên, họ đang chia sẻ “sự tẻ nhạt” cùng với nhau đấy. Để có được ngày hôm nay, mối quan hệ của họ đã được vun đắp qua từng ngày.
Nhắc đến “mê đắm”, tôi muốn nói về sự phấn khích, dư thừa, thái quá. Những vui thú lãng mạn: nhà hàng mới, quà tặng, những chuyến du lịch, những màn thể hiện phô trương, những hứa hẹn liên miên, những lời tỏ tình nên thơ. Nếu muốn có một tình yêu đẹp, bạn nên tránh xa những điều kể trên.
Tôi sẽ tiết kiệm cho bạn thời gian đọc bài viết ấy, bởi vì chẳng có “17” điều cần làm gì đâu. Ta chỉ cần làm duy nhất một điều, đó là “hãy có trách nhiệm với cuộc sống của chính mình và hiểu rằng người yêu của bạn không có trách nhiệm phải giúp bạn được giải trí.”
Tất nhiên, cùng với người yêu mình thử làm những điều mới mẻ hay tới một địa điểm mới mẻ cũng rất có lợi cho mối quan hệ – nhưng hãy giữ cảm xúc điềm tĩnh, và đừng bao giờ cuống lên để phải làm một điều gì đó!
Việc theo đuổi những điều lãng mạn và phấn khích tác động đến tình yêu cũng giống như cách phim khiêu dâm tác động đến tình dục vậy. Tôi có thể đánh giá cao một sự ngạc nhiên đầy xúc động như mọi cô gái khác, nhưng không có gì khiến tôi cảm thấy mất hứng hơn là những cử chỉ lãng mạn trống rỗng theo kiểu làm cho có. Nếu được lựa chọn, tôi thà chọn một anh chàng không bao giờ cư xử lãng mạn nhưng luôn ổn định về mặt cảm xúc.
Gửi gắm trái tim mình vào “đam mê” là một điều rất nguy hiểm, bởi vì cảm xúc ấy sẽ phai dần theo thời gian. Cần phải được bền bỉ theo đuổi và liên tục vun đắp, nếu không ta sẽ có nguy cơ vỡ mộng rằng chẳng có gì nữa ẩn dưới cảm xúc ấy. Một tình yêu dựa trên sự theo đuổi cuồng nhiệt sẽ khiến ta trở nên mệt mỏi và kiệt sức, đến một thời điểm ta sẽ nhìn nhau và ngán ngẩm vì không thể nghĩ ra việc gì khác để làm.
Trong một tình yêu đẹp, không có gì “phải làm” ngoài việc yêu thương nhau. Mỗi ngày. Và nó không phụ thuộc vào việc ta cảm thấy như thế nào, bởi vì một tình yêu đẹp và lành mạnh không bị chi phối bởi những cảm xúc của ta; nó là một lựa chọn. Mỗi ngày.
Một tình yêu đẹp có vẻ ngoài “tẻ nhạt”, và gây cảm giác “tẻ nhạt”
Tình yêu đích thực, lành mạnh sẽ trầm lặng, không ồn ào. Nó êm đềm, không cuồng nhiệt. Nó vững chắc và ổn định, không hề bay bổng và thất thường. Như Irby đã viết:
“Tình yêu đích thực không phải là một trò chơi mà bạn không nắm rõ luật, hay là một bài thi mà bạn không có tài liệu để ôn luyện. Nó không bao giờ khiến bạn phải tự hỏi…phải làm thế nào để đón nhận và giữ nó ở lại dưới mái ấm của hai người. Nó tẻ nhạt hết sức, bạn ạ. Tôi không phải loanh quanh với sự bứt rứt bất an, phải thấp thỏm vì những điều không đáng… Tình yêu này khiến tôi thấy an toàn, ổn định và đoán được điều gì sắp đến. Nó tẻ nhạt vô cùng. Và thật dễ dàng để nói đó là điều tuyệt vời nhất tôi từng cảm thấy.”
Tình yêu đẹp hiện hữu trong chính mỗi ngày – từng ngày.
Tác giả: Kris Gage
Người dịch: Hà Huy Dương
Review: Dương Tùng, Nguyễn Hoàng Huy
(Bài viết là một comment rất dài của username lamhoangau trên trang viethungpham.com – Không nhất thiết phải có cùng quan điểm với THĐP)
Darwin cũng như Stepen Hawking – đều là những người theo chủ nghĩa Duy Vật Phụ thuộc mô hình, theo đó mô hình là những thứ hoàn toàn chỉ có trong trí óc con người , và người ta dựa vào những quan sát trong thực tế để kiểm nghiệm lại mô hình đó. Và do đó, không có một mô hình nào gọi là duy nhất mà mang tính đầy đủ và không mâu thuẫn cả. Thuyết tiến hóa của Darwin có đúng nhưng chỉ trong một phạm vi, môi trường tiến hóa của những sinh vật đơn giản và ta có thể quan sát được quá trình tiến này bằng mắt thường, nhưng nếu xem nó như là một thuyết duy nhất, chính xác, để giải thích toàn bộ sự sống trên hành tinh này và đặc biệt là sự phức tạp đến mức kỳ diệu của con người thì đúng là ngây thơ và ấu trĩ.
Ta hãy xem Hawking kết hợp thuyết của Darwin sẽ đưa con người tiếp tục tiến hóa đến đâu? Tức là con người khi tiếp tục tiến hóa nữa thì sẽ thành con gì? (Hawking là người theo chủ nghĩa Darwinism, ông xem thuyết tiến hóa là cơ chế duy nhất giải thích sự sống trên quả đất này.) Trước tiên ta hãy điểm sơ lược qua về lý thuyết của Darwin:
Nếu tôi có ba con bò sữa, nhưng chỉ có đủ cỏ để nuôi hai con. Tôi sẽ làm gì? Đương nhiên tôi sẽ giết thịt một con, và đương nhiên là tôi sẽ giết con ít sữa nhất. Điều đó rất hợp lý. Vâng, đó là điều mà hàng nghìn năm nay con người đã làm.
Tiếp tục, giả sử tôi muốn một trong hai con bò đẻ con, tôi sẽ chọn con nào? Đương nhiên tôi sẽ chọn con nào có nhiều sữa nhất vì nó sẽ dễ nuôi con hơn và con nó có thể sau này cũng sẽ cho nhiều sữa, điều này rất hợp lý.
Tiếp tục, giả sử tôi có hai con chó săn, nhưng tôi phải bỏ một trong hai con, tôi sẽ giữ lại con nào? Dĩ nhiên là con nào giỏi săn mồi hơn sẽ được giữ lại.
Đấy chính là cách mà con người đã gây giống vật nuôi trong hơn mười nghìn năm qua. Những người nhân giống đã thực hiện một sự chọn lọc nhân tạo để bây giờ gà có thể đẻ trăm trứng một tuần, ngựa đã có thể chạy nhanh và mạnh mẽ hơn, cừu đã cho nhiều len hơn.
Darwin chỉ ra rằng không có hai con bò, hai con chó, hai con cừu nào là hoàn toàn giống nhau. Vậy là Darwin đã tự hỏi: Liệu trong thiên nhiên có cơ chế tương tự nào như vậy để thực hiện quá trình chọn lọc của mình?
Darwin vẫn chưa hình dung được sự chọn lọc đó xảy ra như thế nào. Trong cơ chế chọn lọc nhân tạo thì có thể thấy được chính con người thực hiện quá trình đó, nhưng trong tự nhiên thì Darwin vẫn đang mơ hồ về cơ chế này.
Cho đến khi ông đọc được một cuốn sách nhỏ của Thomas Malthus, một chuyên gia về dân số đã chỉ ra rằng: “Nếu không có những yếu tố hạn chế trong thiên nhiên thì một loài thực vật hoặc động vật duy nhất sẽ phát triển tràn ngập toàn bộ địa cầu. Nhưng vì có nhiều loài, nên chúng kìm giữ nhau trong trạng thái cân bằng sinh thái.” Ông tin rằng một số lớn sẽ phải chết trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Do đó số sống sót để trưởng thành và duy trì nòi giống sẽ là những ai tỏ ra trội hơn trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Và đây là cơ chế mà Darwin đang tìm kiếm trong thiên nhiên. Chính là lời giải thích về sự tiến hóa sẽ xảy ra như thế nào. Đó là sự chọn lọc tự nhiên trong sự đấu tranh sinh tồn để cuối cùng hệ sinh thái sẽ được cân bằng.
Một cặp cá thể cha mẹ không bao giờ cho ra hai đứa con giống hệt nhau, luôn có một chút khác biệt. Hơn nữa, có những loài động vật và thực vật sinh sản bằng cách này chồi hoặc phân bào đơn giản.
Về căn bản, mọi sự sống và sự sinh sản là quá trình phân chia tế bào. Khi một tế bào phân đôi, hai tế bào giống hệt được tạo ra với các yếu tố di truyền y hệt tế bào ban đầu. Như vậy, ta nói rằng, khi phân bào, một tế bào sao chép chính mình.
Đôi khi những lỗi cực nhỏ xảy ra trong quá trình phân bào, do đó tế bào thu được sau khi sao chép không hoàn toàn giống tế bào mẹ. Theo thuật ngữ hiện đại, đây là một sự đột biến. Những đột biến có thể dẫn tới những thay đổi thể hiện trong hành vi cá thể. Trong thực tế, nhiều căn bệnh có nguyên nhân từ sự đột biến. Nhưng đôi khi đột biến có thể đem lại co cá thể một tính trạng tốt hơn bình thường, cần thiết để tự vệ trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Ví dụ như một cái cổ dài hơn, và cái cổ này lại thích hợp để ăn lá cây ở trên cao khi mà lá cây ở dưới thấp đã không còn nhiều, đây là một lợi thế sống sót.
Một ví dụ về sự can thiệp của con người vào môi trường tự nhiên, quá trình đột biến và chọn lọc tự nhiên lập tức sẽ xảy ra và có thể quan sát được. Ví dụ người ta cố tiêu diệt sâu phá hoại bằng các loại thuốc trừ sâu. Ban đầu điều này cho kết quả tuyệt vời. Nhưng khi phun thuốc trừ sâu lên một cánh đồng, thực chất là ta đã gây ra một thảm họa môi trường đối với những con sâu bọ mà ta muốn diệt. Do những đột biến liên tục, một loại sâu bệnh mới có sức đề kháng với loại thuốc trừ sâu đó sẽ phát triển. Giờ thì những kẻ chiến thắng đó mặc sức hoành hành. Vậy là cuộc chiến chống sâu bệnh lại càng khó khăn hơn, mà lý do lại chính là sự cố gắng diệt trừ chúng của con người. Rõ ràng, những biến thể có sức đề kháng tốt nhất là những cá thể sống sót.
Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ, còn một chuyện khác đáng suy nghĩ hơn. Ta cũng đang cố gắng chống lại những con vi khuẩn ăn bám trên cơ thể ta. Ta dùng penicillin hay các loại thuốc kháng sinh, và penicillin cũng là một loại thảm họa môi trường đối với những con vi khuẩn ăn bám này, ta đang làm cho một số con vi khuẩn có khả năng đề kháng, và do đó tạo ra một nhóm vi khuẩn mới khó chống lại hơn trước. Ta phải sử dụng loại thuốc kháng sinh mạnh hơn, mạnh hơn nữa, cho đến khi….có lẽ chúng sẽ chui ra từ miệng ta.
Rõ ràng sự tác động của con người vào tự nhiên đã tạo ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan rất nghiêm trọng, những con vi khuẩn càng trở nên hiểm độc hơn. Thời xưa, có nhiều trẻ em chết vì nhiều loại bệnh tật. Đôi khỉ chỉ một số ít sống sót, nhưng đó là những đứa rất khỏe mạnh và miễn nhiễm. Còn ngày nay, theo một nghĩa nào đó, sự chọn lọc tự nhiên đã bị miễn nhiễm bởi y học hiện đại. Về lâu dài, cái đã giúp cá thể qua khỏi căn bệnh nặng có thể góp phần làm yếu đi sức đề kháng của cả loài người đối với một số căn bệnh nhất định. Tiềm năng đề kháng của con người càng ngày sẽ càng yếu đi, hay nói cách khác, loài người đang bị suy thoái đi về mặt thể chất, càng lúc càng trở nên yếu ớt trong khi dân số thì càng lúc càng tăng.
Trong khi y học đang đứng trước thế tiến thoái lưỡng nan như vậy, khoa học kỹ thuật lại phát triển như vũ bão kéo theo một loạt các hệ lụy về thiên tai, môi trường, đạo đức băng hoại… Việc đặt con người lên vị trí cao nhất có thể sẽ dẫn đến sự hủy diệt cả quả đất này.
Trong 200 năm qua dân số phát triển theo hàm mũ, cứ 40 năm dân số lại tăng gấp đôi, các số đo khác về khoa học công nghệ và mức tiêu thụ điện cũng tăng theo hàm mũ nhưng nhanh hơn. Nếu như mọi thứ cứ tiếp tục tăng nhanh như hiện nay thì chỉ khoảng 600 năm nữa chúng ta sẽ không còn đất để mà nằm, mọi người đều phải đứng san sát, chen lấn nhau như trong một cuộc biểu tình vậy, và mức tiêu thụ điện lúc đó sẽ làm cho trái đất trông như một quả cầu lửa đỏ rực.
Vậy chuyện gì sẽ xảy ra? Có thể chưa đến lúc đó loài người đã tự hủy diệt mình bởi những cuộc chiến tranh hạt nhân, hay thiên tai do sự mất cân bằng sinh thái, hoặc môi trường sống đã xuống cấp đến mức hàng loạt dịch bệnh xảy ra với cơ thể yếu ớt của con người đã không còn khả năng đề kháng sẽ giết chết toàn bộ nhân loại này. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra vì khi văn minh con người phát triển đến mức đó thì nó sẽ không ổn định và tự hủy diệt, cũng giống như trong vật lý có một câu phát biểu là “mọi vật đều có xu hướng trở về mức năng lượng thấp hơn” – Vật ở trên cao (thế năng cao) sẽ không ổn định và có xu hướng sẽ rơi xuống (thế năng thấp) để trở về mức năng lượng thấp hơn. Hay nói theo lý thuyết hỗn độn là mọi vật sẽ có xu hướng kém trật tự hơn.
Đứng trước tình hình này một nhà khoa học như Hawking sẽ nghĩ như thế nào? Và giải pháp của ông ta đề xuất sẽ như thế nào? Chúng ta hãy xem, khá là rùng rợn. (Những ý tưởng này trong quyển The universe in a Nutshell của ông.)
Thay vì dừng lại và suy nghĩ, thì Hawking tiếp tục chọn con đường phóng lao là phải theo lao, đã trên thế cưỡi hổ rồi là chơi tới cùng, ông chọn con đường tiếp tục tiến hóa cho con người theo thuyết của Darwin để thích nghi với môi trường sống.
Ông thấy bằng cách nào đó, loài người cần hoàn thiện các năng lực trí tuệ và thể chất nếu phải đối phó với một thế giới xung quanh ngày càng phức tạp, và phải đáp ứng với những thách thức mới như du hành vũ trụ để tìm kiếm hành tinh phù hợp cho con người sinh sống trong tương lai. Con người cũng cần tăng độ phức tạp của bản thân nếu muốn giữ cho hệ sinh học luôn đi trước các hệ điện tử.
Trước một thế giới ngày càng phức tạp như vậy mà quá trình tiến hóa sinh học của con người để thích nghi môi trường lại quá chậm chạp (hoặc là chẳng có tiến hóa nào cả), chuỗi ADN của con người trong 10.000 năm qua không thấy có sự thay đổi nào. Với tình hình như vậy thì trước khi con người kịp đột biến được gì thì đã bị diệt vong toàn bộ. Hawking đề nghị chúng ta phải can thiệp vào quá trình tiến hóa sinh học chậm chạp này bằng quá trình tiến hóa nhân tạo. Ông thấy trí tuệ, sự hiểu biết của con người là chìa khóa của sự tồn tại của họ, hiện nay con người vẫn còn hiểu biết quá ít, bằng cách nào đó nếu có thể tạo ra những con người có bộ não thông minh, siêu việt thì lúc đó con người có thể quay ngược, thiết kế lại bản thân mình để thích nghi được với môi trường sống. (Hiểu theo một cách nào đó ông muốn trở thành Chúa Trời.)
Về mặt sinh học, Hawking cho rằng giới hạn thông minh của loài người cho đến bây giờ vẫn được quyết định bởi kích thước của bộ não gói gọn bên trong một hộp sọ nhỏ bé có thể chui lọt lòng mẹ. Nhìn những đứa trẻ mới sinh ta thấy chúng phải khó khăn như thế nào để cái đầu nhỏ bé mới nhô ra được. Ông đề xuất phá bỏ giới hạn này trong 100 năm nữa bằng việc sinh sản những đứa trẻ bên ngoài cơ thể người, việc nuôi dưỡng những phôi thai bên ngoài cơ thể người sẽ cho phép con người có bộ não lớn hơn và thông minh hơn.
Tuy nhiên việc tăng kích thước não người bằng kỹ thuật di truyền cũng sẽ gặp vấn đề khó khăn là các chất hóa học truyền thông tin chịu trách nhiệm về hoạt động tinh thần lại chuyển động tương đối chậm. Nghĩa là, việc tăng hơn nữa độ phức tạp của bộ não sẽ bù lại bằng việc giảm tốc độ. Chúng ta hoặc sẽ nhanh trí, hoặc sẽ rất thông minh nhưng không thể cả hai.
Các mạch điện tử cũng gặp vấn đề y như bộ não người, tức là độ phức tạp tăng nhưng tốc độ cũng sẽ giảm, nhưng trong trường hợp này các tín hiệu là điện chuyển động với tốc độ ánh sáng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ các phân tử hóa học.
Một cách khác để tăng độ phức tạp cho bộ não mà vẫn duy trì được tốc độ là các mạch điện tử sẽ sao chép bộ não người. Tức bộ não người bây giờ sẽ là giao diện sinh học-điện tử, trong đó con người vừa thông minh, vừa sáng tạo mà vừa tính toán nhanh như một cái máy tính. Các nơtron được cấy ghép sẽ làm tăng trí nhớ và dung lượng thông tin trọn gói, bây giờ con người có thể nhớ nội dung cả một cuốn sách chỉ với một lần đọc qua hoặc sẽ nắm bắt được đầy đủ một ngôn ngữ chỉ sau vài phút học. Hay nói cách khác, bộ não bấy giờ sẽ là bộ não siêu việt.
Với bộ não siêu việt như vậy, con người lúc đó sẽ quay trở lại thiết kế lại chuỗi phân ADN của chính bản thân mình mà không cần đến quá trình tiến hóa sinh học chậm chạp. Các đột biến ADN làm cho con người có thể thích nghi hoặc sống thoải mái với môi trường đầy tia X, môi trường chất độc hoặc có thể sống trong bóng đêm mà không cần ánh sáng…
Một loài người mới sẽ được chính con người thiết kế lại và những vấn đề đạo đức mới sẽ được đặt ra. Một viễn cảnh khá rùng rợn cho nhân loại. (Nhưng Hawking xem đây sẽ là quá trình tất yếu và bình thường.) Cá nhân tôi không xem đây là tiến hóa mà là thoái hóa của loài người.
Cuối cùng, đối với tôi thuyết Darwin có đúng, nhưng chỉ trong những môi trường tiến hóa nhất định những sinh vật với bộ não đơn giản hơn nhiều so với con người, không thể áp dụng cho toàn bộ sự sống trên hành tinh này như là một lý thuyết tối hậu về sự sống được, đặc biệt là con người với sự phức tạp kỳ diệu như thế. Điều này cũng giống như cơ học Newton chỉ áp dụng được cho những quy luật thường ngày, những vật vĩ mô và chuyển động chậm hơn nhiều so với ánh sáng. Khi vật chuyển động với vận tốc gần ánh sáng phải dùng thuyết của Einstein, và đối với thế giới vi mô lại phải dùng thuyết lượng tử vậy. Và giả sử tiến hóa có xảy ra như những người Darwinism tin tưởng, thì cũng dễ thấy rằng quá trình tiến hóa này diễn ra có định hướng. Suốt dọc thời gian, các loài động vật đã tiến hóa về phía các hệ thồng thần kinh ngày càng phức tạp để cuối cùng hoàn thiện đến mức có thể nhận thức được bản thân và sự tồn tại của mình, hàng đêm nhìn lên bầu trời để tìm kiếm lại nguồn gốc của mình. Cá nhân tôi không nghĩ rằng chuyện đó chỉ là ngẫu nhiên.
Sẽ là ấu trĩ và vô đạo đức nếu như xem Thuyết tiến hóa như là lý thuyết tối hậu về sự sống, và ép buộc con người phải tiến hóa theo thuyết này, nếu không tiến hóa được thì cũng phải ép cho nó tiến hóa như những ý tưởng lệch lạc của Hawking bên trên. Nếu ta tìm hiểu thêm, Hawking còn vẽ ra một viễn cảnh trường sinh bất tử cho con người nữa kìa.
Bản thân tôi cũng rất nể phục trí thông minh của Stephen Hawking (nhưng đối với tôi ông đã có sự nhầm lẫn), nếu ai có xem qua các sách của ông đã xuất bản đều thấy rằng ông có một niềm tin sâu sắc vào sự không tồn tại một Đức Chúa Trời, chính điều này làm cho tôi cố tìm hiểu ông. Không như những nhà bác học tiền bối như Đề các, Newton… – những người không thấy có sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và khoa học, những khám phá khoa học mới đều làm sáng danh cho sự tồn tại một Thiên Chúa. Stephen Hawking không tin Thiên Chúa. Theo tôi, điều này là do một cú sốc tâm lý quá nặng ảnh hưởng đến ông thời còn trẻ, vào năm 21 tuổi, khi tuổi trẻ đang tràn trề sức sống, sắp sửa kết hôn, tương lai sáng lạng thì tại họa bỗng ập xuống đầu khi bác sỹ thông báo ông bị một chứng bệnh nan y và chỉ sống được khoảng 3 năm nữa.
Chúng ta hãy thử đặt mình vào vị trí ông ta để cảm nhận nó như thế nào? Bầu trời sụp đổ, mọi niềm tin đều sẽ mất hết, nếu Thiên Chúa tồn tại, sao lại giáng tai họa này xuống đầu ông? Điều này quá bất công, ông thật sự đã suy sụp toàn bộ, nhưng khi nhìn thấy một đứa trẻ trong bệnh viện đang chống chọi với căn bệnh ung thư máu, ông cảm thấy mình còn may mắn hơn rất nhiều, và nghị lực của ông đã chiến thắng bệnh tật, ông nghĩ rằng chẳng có Thiên Chúa nào giúp ông mà chỉ có ý chí của ông giúp vượt qua vực thẳm. Cá nhân tôi xem đây là lúc ông nhầm lẫn.
Nếu như Hawking có đọc Kinh Thánh hẳn ông sẽ hiểu trường hợp của mình cũng đã được chúa Jesus nhắc đến. Trong Kinh Thánh chúa Jesus đã nhiều lần làm phép lạ chữa khỏi nhiều bệnh, và mỗi khi chữa lành bệnh, Chúa không bao giờ khẳng định là mình chữa bệnh, những lần đó Chúa đều nói một câu rất rõ ràng “CHÍNH NIỀM TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU LẤY ANH.” (Đây chính là phép lạ mà chúa đã ban cho con người.) Đây cũng chính là phép lạ trong Y học, khi mà mọi thứ ở trần gian nãy đã bó tay thì chỉ có Niềm tin mãnh liệt chiến thắng bệnh tật, nghị lực vượt qua vực thẳm của chính bệnh bệnh nhân là cứu sống được bệnh nhân.
Stephen Hawking cũng giống như một người con hoang đàng bị thất lạc trong Kinh Thánh nhắc đến, người cha luôn ngày đêm mong chờ đứa con sẽ quay trở về, lúc đó sẽ là tin mừng, là niềm vui tràn ngập. Nếu ai là là những người tín hữu công giáo chân chính, hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông ấy mau tỉnh ngộ, nhận ra được Thiên Chúa là chân của sự sống, là người cha luôn dang rộng vòng tay chờ đợi đứa con quay về. Và cá nhân tôi cũng có một niềm tin sâu sắc rằng chẳng bao lâu nữa Stephen Hawking sẽ giác ngộ được.
Có một câu hỏi cũng là lý do mà những người vô thần không tin Thiên Chúa hay hỏi đó là: “Nếu Thiên Chúa là đấng toàn năng và bác ái tồn tại, thế thì tại sao thế gian này lại có quá nhiều điều ác, có quá nhiều sự bất hạnh và bất công xảy ra ở khắp nơi ?” và do đó họ khẳng định “Không có Thiên Chúa.”
Trước khi trả lời tôi xin hỏi lại một câu “Có bao giờ bạn xem một quyển tiểu thuyết, một bộ phim trong đó tác giả xây dựng nhiều lớp nhân vật, một xã hội trong tiểu thuyết cũng lắm bất công, lắm cái ác, lắm bất hạnh, lắm âm mưu và thủ đoạn đến mức người đọc cũng phải đồng cảm rung động và rớt nước mắt chưa? Tôi chắc hẳn chúng ta ai cũng đã ít nhất một lần như vậy. Nhưng khi kết thúc, xếp sách lại mọi thứ lại được phơi bày ra chỉ là hư cấu.
Có ai đã từng thấy trong tiểu thuyết, nhân vật lại trách ngược lại tác giả, tại sao để tôi bất hạnh thế này, lại để lắm bất công xảy ra cho tôi như vậy chưa? Đương nhiên là không, vì tất cả chỉ là hư cấu, tác giả muốn viết như thế nào thì viết, tùy ý theo định hướng và mục đích của tác giả hoặc đạo diễn.
Cuộc đời này cũng vậy, nếu chỉ gói gọn trong bốn chữ Sinh, Lão, Bệnh, Tử rồi kết thúc thì lắm bất công ở cuộc đời này rồi sẽ đi đâu? Làm sao chúng ta biết chắc rằng mình không phải chỉ là ý tưởng, ý niệm hay chỉ là những nhân vật hư cấu của ai đó?
Nên nhớ về mặt triết học thực chứng, không thể chứng minh cuộc đời này là thật hay là ảo (tức là xác suất cuộc đời này là thật và ảo là như nhau), cũng như không thể chứng minh được cuộc sống trong giấc mơ và cuộc sống trong đời thực cái nào thực hơn.
Có thể những câu khẳng định của những người vô thần bây giờ đã trở thành những câu nghi vấn, nhưng những câu nghi vấn này đối những nhà thần học từ lâu đã được giải quyết bằng sự thấu hiểu và giác ngộ, bằng sự soi sáng của Chúa Thánh Linh. Hãy tin tưởng vào cuộc sống đời sau vì kiếp này chỉ vài lần chớp mắt, khi quay lại thì đời mình đã xanh rêu, chỉ là ảo ảnh.
Hồi chiều tôi vô tình xem được một video. Một bé gái đang độ tuổi dậy thì, từ lớp 8 đến lớp 9. Cô bé đang đứng huơ tay chỉ trỏ vào mặt mẹ mình và chửi bới thậm tệ người mẹ. Người mẹ cũng chẳng thua kém. Nói thật, cảm giác xem hai mẹ con đánh nhau mà chẳng khác hai nữ kiếm khách đang giao chiến để dành lại chân lý về phía mình. Còn những người xem xong vào bình luận chẳng biết nói gì ngoài việc chỉ trích nền giáo dục, chỉ trích chính trị… Đọc những bình luận đó, tôi cảm thấy thực sự nực cười.
Gia đình là gốc rễ. Con người tựa như một cái thân cây. Cây càng muốn cao lớn vươn lên bầu trời bao nhiêu, càng phải bám chặt vào gốc rễ của nó bấy nhiêu. Cũng như một cái cây còi cọc siêu vẹo không thể cho ra một hạt giống tốt, một người nếu không thể tự làm chủ tâm hồn và chiến thắng được bản thân, liệu họ có đủ tỉnh táo khi dấn thân vào hôn nhân? Và con cái của họ, họ có phải là những người cha mẹ có quyền ao ước một đứa con?
Tôi 25 tuổi. Chưa lập gia đình và cũng chưa có ý định. Trong khi bạn bè ở quê đã tay bế tay bồng. Mỗi dịp về quê luôn được bà con hàng xóm ném vào vô số những câu hỏi đại loại như bao giờ lấy chồng, tuổi đó mà không lấy thì sau này ở giá suốt đời, vân vân… Nhưng liệu tôi có đủ khả năng để làm một người vợ, người mẹ?
Tôi luôn tự hỏi có những người lập gia đình và có con từ rất sớm. Trái trên cây đã thật sự chín mùi hay phải chăng chỉ là cuộc nổi loạn của con dã thú ẩn náu bên trong và đó là một thứ nhu cầu cần giải quyết. Hoặc đó là sự cô đơn của kẻ cô độc bước lang thang đang muốn tìm đại một nơi trú ngụ trong cơn giông bão. Hay đó chỉ là giải pháp duy nhất được nghĩ ra trong cơn bức bách để giải quyết sự bất hòa của họ với những người xung quanh, thậm chí là với cả bản thân họ.
Xây dựng một mối quan hệ vừa đủ, rồi kết hôn, rồi sinh ra những đứa con. Đó là quy luật của tự nhiên. Đa số mọi người đón nhận nó như một trách nhiệm phải hoàn thành cấp bách. Họ cố gắng tạo ra một ngôi nhà mà chẳng cần bận tâm nó được dựng lên từ nền móng nào. Cái nền móng đó có đủ vững chắc? Nếu những người cha người mẹ không tự xây dựng hoàn thiện chính mình, về cả thân thể lẫn tâm hồn, liệu họ có đủ khả năng để nuôi dưỡng một đứa con?
Việc nhân giống rộng ra, đó là một việc hoàn toàn đơn giản và dễ dàng. Tất cả vạn vật đang có trong mình sự sống, chúng tiến hành việc đó một cách rất ngẫu hứng. Nhưng tại sao con người lại được gọi là động vật bậc cao. Vì bên cạnh việc nhân giống “rộng ra”, con người còn có một khả năng khác là nhân giống “cao lên”. Hôn nhân từ lâu chính là mảnh đất màu mỡ mà con người chọn lựa cho việc nhân giống của chính mình.
Có bao giờ bạn tự đi sâu vào tâm hồn mình rồi tự hỏi tại sao mình cứ khăng khăng muốn mua chiếc vé đi đến hôn nhân? Hôn nhân là gì bạn đã thực sự hiểu hết hình dáng bên ngoài và tâm tư bên trong của nó? Bạn có thực sự khao khát nó hay chỉ đến với nó bằng cái ý chí muốn chung đôi, bằng cơn điên cuồng ngắn ngủi của tình yêu để rồi khi đủ tỉnh táo nhận ra cơn điên đã hết và giờ là lúc ta phải quay lại làm một người bình thường. Bạn có đến với hôn nhân bằng ý chí muốn tạo ra một tạo vật thiêng liêng, tạo vật đó nó phải tốt hơn đấng khai sinh ra nó. Hay bạn chưa bao giờ nghĩ đến, thậm chí chẳng còn quan tâm mình sẽ tạo ra cái người ngợm gì sau đó.
Bạn dùng sự nghèo nàn tâm hồn của mình để đến với hôn nhân và làm nhơ nhuốc hai từ thiêng liêng đó. Bạn bắt đầu đổ lỗi. Con người rất thích đổ lỗi. Họ phủ nhận hết tất cả trách nhiệm. Thật đáng thương cho cuộc đời khi phải luôn đứng ra hứng chịu những lời xỉ vả.
Có những người lên đường tiến đến hôn nhân một cách kiêu hãnh. Nhưng tại sao buổi sáng bạn ngẩng cao đầu bước đi mà đêm về thì cúi mặt. Tôi thấy nhiều người bước vào thánh đường, được tất cả mọi người chúc phúc ca tụng như một người vĩ đại vừa tìm ra được chân lý. Nhưng tại sao chỉ qua ngày mai là chân lý đó đã sớm vội biến thành sự dối trá ti tiện mà có gắn lên đó bao nhiêu châu báu ngọc ngà cũng không làm nó tỏa sáng lấp lánh. Rồi còn có cả những cuộc trao đổi giao dịch. Họ tưởng rằng mình đủ thông minh để đầu tư có lợi nhuận, pha này ăn lời kiếm lớn, vậy mà một đêm tỉnh giấc nhận ra mình thua sạch mất hết cả gốc lẫn lời. Còn có người cũng e dè, lựa chọn một cách khó khăn, ngắt về nhà một bông hoa đẹp rồi tự làm héo nó bằng sư ngu ngốc của chính mình. Tôi thật chẳng còn nhìn thấy gì ngoài các cuộc mua bán đầu tư đầy thận trọng, dò xét và kỹ lưỡng tính toán chi li. Nhưng rốt cuộc thì mua hay người bán, tất cả đều thua sạch.
Hôn nhân. Hai từ thiêng liêng được viết ra bởi những kẻ chưa hiểu gì về nó. Họ nghĩ về một con vịt xấu xí khi muốn miêu tả một con thiên nga. Và biến bài văn của mình trở nên ngớ ngẩn trước người khác. Thật đáng thương tội nghiệp. Thử hỏi có bao nhiêu đứa con gục đầu trong đêm tối khóc cho cha mẹ chúng? Họ có biết mình đã phạm một bất công quá lớn đối với những đứa con. Và với sự nghèo nàn tâm hồn của mình, họ giải quyết chúng bằng cách lập tức thêm vào đó vô vàn những bất công khác bằng hiểu biết nông cạn. Muốn giỏi thì phải học, bạn không đầu tư thời gian để rèn luyện học hỏi mà vẫn muốn giỏi bằng cách học vẹt sao?
Nhưng thực ra, tôi chẳng hiểu gì về hôn nhân để nói về nó. Tôi không muốn trở thành kẻ đần độn dám múa rìu qua mắt thợ. Tôi chưa có gia đình và chưa sống trong nó. Hãy bao dung và tha thứ cho tôi trước những lời lẽ ngu xuẩn trên kia. Nhưng trước một thực tế quá kinh hãi về hôn nhân và con cái. Tôi chỉ muốn hỏi: Bạn có biết thời điểm nào là thích hợp để cho hôn nhân mở mắt sáng suốt?
Và nếu một đứa con mắng chửi thậm tệ cha mẹ mình, nhất định là đứa con đó chẳng ra gì, chẳng có một cái tội nào đáng khinh bỉ bằng tội bất hiếu. Nhưng có bao giờ bạn tự hỏi điều gì đã khiến chúng trở thành như thế?
Tôi đã đọc rất nhiều các bài viết về tâm, sinh và triết lý.
Có thời gian, tôi hay tìm đọc mấy đoạn tản văn; đó là những bài theo kiểu đọc cũng được, không đọc cũng không sao, tất cả đều rất cảm động, đánh vào lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và làm tôi rơi nước mắt. Sau thời gian được truyền cảm hứng từ thể loại này, tôi cảm thấy mình luôn cố gắng chạy theo một thứ gọi là hạnh phúc nhưng không sao nắm bắt được! Cảm giác bất lực bủa vây, não tôi lập tức bật cơ chế phản vệ bằng cách ra lệnh đóng băng trái tim. Và tôi quay ngoắt 180 độ, trở nên cực kỳ lý trí. Thói quen đọc cũng từ đó mà thay đổi, tôi chuyển sang đọc các bài viết mang tính thẳng thắn đến bất ngờ, đa phần là những bài nêu bật quan điểm sống cá nhân và song song đó lên tiếng chỉ trích một đối tượng nhất định trong xã hội. Lúc này, tôi không còn bị cảm giác bất lực đè nặng, cũng không còn phải miệt mài đi tìm hạnh phúc, thay vào đó, hai tiếng “hạnh phúc” được xóa sạch trong từ điển của tôi luôn, tôi như một cái máy thực thụ. Dường như, tôi đã lần lượt chìm dần vào hai thái cực: quá thực dụng và quá mộng mơ.
Song, bằng một cách diệu kỳ, tự dưng tôi hiểu ra phương pháp để cân bằng. Tôi quyết định không đi tìm hạnh phúc nữa, nhưng cũng không quên hẳn nó đi, mà tôi tự tin xây dựng một chiến lược cụ thể để có thể song hành cùng nó.
Vậy nên, những gì tôi sắp viết ra đây không phải là một trải nghiệm kinh hoàng, u uất, chạm đến trái tim hay khiến đôi mắt bạn đọc ướt nhòa. Và nó lại càng không phải là bí quyết kiếm được 1000 đô la khi chỉ làm việc trong 3 giờ đồng hồ hay dạy cách làm giàu từ hai bàn tay trắng. Hôm nay, tôi sẽ viết về cách mà tôi đã làm để có thể sống tốt, làm việc tốt, và thoải mái yêu thương trong cuộc đời này.
Để sống hạnh phúc, trước hết tôi sẽ kể cho bạn về cái cách mà tôi đã sống không hạnh phúc. Đó là khoảng thời gian chuẩn bị thi Đại học, tôi đã do dự không biết nên học ngành nào, và thay vì thẳng thắn nhìn vào vấn đề, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của mình, tìm hiểu về các môn học, về đầu ra của ngành học, thì tôi lại quyết định trì hoãn việc… quyết định! Sau cùng, ba mẹ tôi chỉ ra một cái tên ngành vào phút chót, tôi nghe theo. Kết quả, công việc tôi hiện nay không liên quan gì nhiều đến những thứ được học khi xưa, đó là một sự chuyển đổi khó khăn, đôi khi tôn ân hận. Ngoài ra, cũng trong quá trình học Đại học, tôi có cảm tình với một anh chàng, nhưng trì hoãn không bày tỏ, tôi đã đau khổ vì yêu mà không dám nói, cho đến một ngày anh ấy có bạn gái, tôi khóc lóc mấy tuần liền. Rồi sau đó, tôi làm freelance, tôi cũng lại luôn trì hoãn, tôi xao nhãng vào mấy việc như: nghe nhạc, đọc sách, xem hình mấy con chó mèo trên mạng trong tâm trạng… hơi hơi lo lắng về công việc! Rồi đến khi deadline còn 6 tiếng nữa, tôi mới bắt tay vào làm và hoàn thành trong vội vã. Rõ ràng, tôi đã không hề hạnh phúc!
Ngồi ngẫm nghĩ, tôi tìm cách lật ngược lại lịch sử, đi ngược vào quá khứ bằng trí óc của mình; nói thì nghe ma mị, chứ đơn giản chỉ là kéo cái ghế, rồi ngồi xuống, lấy tay chống cằm, mắt chớp chớp tượng tưởng lại việc đã qua mà thôi. Nếu năm ấy tự tôi quyết định chọn ngành, và chính tôi lựa chọn sai ngành y như cái cách mà ba mẹ tôi đã làm thì sao? Nếu năm ấy tôi tỏ tình, và bị anh chàng kia từ chối, rồi anh ta cũng có bạn gái khác thì sao? Và nếu như tôi hoàn thành công việc sớm hơn dự định, thế là tôi lại cũng có một khoảng thời gian nghe nhạc, xem phim y như việc tôi nghe nhạc, xem phim trước khi làm thì sao? Thật kỳ lạ, trong trường hợp này tôi lại thấy hài lòng và hạnh phúc, hay ít ra là tôi không thấy day dứt, hối hận.
Vì cớ làm sao mà cùng một sự việc, cùng một kết quả, nhưng cách đưa ra quyết định khác nhau lại dẫn đến cảm xúc khác nhau nhiều như vậy? Là bởi, não của chúng ta vốn có trí tưởng rất phong phú, nó rất thích vẽ vời, nhất là về những thứ mà nó không biết. Hay nói cách khác, con người thường hối hận về những gì mà mình đã trì hoãn không làm, khi đó họ hay thốt lên: “Giá như!” Còn nếu làm rồi, bộ não sẽ không còn phải tưởng tượng nữa, kết quả cũng có luôn rồi, việc duy nhất cần thiết lúc này là chấp nhận kết quả xảy đến như một thực tế hiển nhiên mà thôi, điều này không khó khăn lắm. Như vậy, sự trì hoãn chính là thứ đã đẩy lùi hạnh phúc!
Kết luận trên có vẻ hơi thừa, vì hình như ai cũng đã được biết điều này, mẹ tôi cũng đã nhiều lần dạy tôi như thế. Ơ! Thế vậy tại sao, dù biết rõ trì hoãn là xấu, mà tôi và không ít những người trong số các bạn, chúng ta lại đã có thời gian mê mụi đắm chìm trong nó? Tôi phải làm cách nào để không bao giờ trì hoãn nữa?
Đầu tiên, hãy thử nghĩ xem trì hoãn có vui không? Rõ ràng tôi thấy nó không vui, nhưng hình như nó lại đỡ căng thẳng hơn là lao đầu vào làm một việc gì đó ngay lập tức. À! Để tôi ví dụ một tình huống của chính mình cho dễ hiểu. Có lần, khi xếp hàng đi lấy máu và nhìn thấy cô y tá cầm chiếc kim tiêm trên tay, tôi liền quyết định im lặng khi cô ấy gọi tên mình. Tôi đứng đó, rất lo lắng, không vui vẻ, nhưng tôi thà như thế, chứ không nghĩ bản thân sẽ chấp nhận nổi cái cảm giác đau đớn của mũi kim cắm vào mạch máu dưới tay; thôi thì trì hoãn được phút nào hay phút đó! May mắn thay, anh bạn đi cùng đã xung phong đổi số thứ tự với tôi, anh ấy lấy máu trước, chịu đau một lần, rồi vui vẻ thoải mái ngồi đọc sách suốt buổi, trong khi bên cạnh anh là tôi, đang xanh lè mặt mày và sống trong lo sợ nhiều tiếng đồng hồ sau đó. Rõ ràng, anh ấy hạnh phúc hơn tôi!
Sau nhiều lần gặp phải các trường hợp tương tự, tôi biết rằng thì ra trì hoãn có liên quan mật thiết với cảm xúc sợ hãi. Cảm giác lo lắng trước khi bắt đầu làm một cái gì đó đôi khi nó còn kinh khủng hơn những khó khăn bạn gặp phải trong quá trình làm. Khi đó, con người tìm đến sự trì hoãn để tạm hài lòng, tạm quên đi khó khăn sắp đến, nhưng cảm giác lo lắng thực ra vẫn còn, và ngày càng đè nặng. Bây giờ, hãy thử tưởng tượng những cái êm ái nhất thời như: lướt web, nghe nhạc, xem phim, ăn vặt, nằm lăn ra giường, hay đơn giản hơn là đứng yên để không làm gì cả như tôi phía trên,v.v… tất cả chúng là những cái cây cổ thụ cao to trong khu rừng “Cám dỗ”. Việc của tôi (và cả bạn nữa), là tìm ra lối đi và tiến nhanh vào con đường mang tên “Hành động”, hãy làm ngay khi có thể, đừng sa đà vào cây cối xung quanh. Con đường có thể xa, có thể dài, nhiều đá sỏi, nắng nôi, mưa bụi, nhưng đừng vì thế mà rẽ sang lối vào lại khu rừng; vì rừng cây tuy đẹp, nhưng thời gian trôi qua, đêm xuống sẽ trở thành nơi nguy hiểm. Kiên trì đi trên con đường “Hành động”, cuối con đường sẽ là trị trấn “Thành công”, một nơi vừa thanh bình, vừa giàu có. Đó chính là cái mà tôi và những người bạn đi đường xứng đáng đạt được!
À! Tiện thể khi nói về từ “xứng đáng”, tôi muốn kể rằng sau bao năm lăn lộn mưu sinh, trái tim lại bắt đầu biết rung động một lần nữa, tôi cảm mến anh bạn kia hơn mình một tuổi; và lần này, tôi đã không trì hoãn trong tình cảm. Sau khi có những hành động mà người đời hay gọi là tán tỉnh, kèm một ít quà tặng, vài lần đi chơi, chia sẻ quan điểm sống kha khá, tôi quyết định bày tỏ. Bạn đoán thử xem? Vâng, anh chàng từ chối, giây phút ấy tôi nghĩ mình sẽ phải rất đau buồn. Nhưng một phép màu đã đến, tôi không buồn gì cả, hoàn toàn không! Cảm giác này khác hẳn sự day dứt, nuối tiếc với anh chàng hồi thời Đại học; tôi biết mình đã can đảm hơn rất nhiều. Tôi cũng biết anh bạn của tôi, anh ấy lo sợ rằng yêu nhau thì sớm muộn cũng xảy ra xung đột, sẽ có đôi lần mệt mỏi, rồi thì không may nếu có chia tay sẽ đau khổ biết bao, anh ấy muốn tận hưởng cảm giác nhẹ nhàng như kiểu “trên tình bạn mà vẫn loạng choạng trước tình yêu.” Tôi cũng đã từng như thế, nhưng nay tôi biết những cái mập mờ do dự không xứng đáng để chiếm lấy thời gian của một người. Anh ấy vẫn còn đang trì hoãn, còn tôi thì không!
Nói như thế, không có nghĩa tôi luôn sống hấp tấp, thường vội vã ra quyết định, lao đầu theo công việc và bị guồng quay của xã hội chi phối. Ngược lại, tôi vốn là người theo chủ nghĩa sống chậm, nhưng điều đó không liên quan gì đến việc trì hoãn cả. Sống chậm, có nghĩa là tôi cho phép mình dành ra một khoảng thời gian trong ngày để uống một tách trà, đọc vài trang sách và ngắm mấy chùm hoa tím rịm nở rộ bên hiên, sau khi đã hoàn thành mọi công việc, xin lặp lại là “sau khi đã hoàn thành mọi công việc.” Sống chậm, có nghĩa là bạn đang tận hưởng khoảng thời gian tuyệt vời ở thị trấn “Thành công”, chứ không phải nằm ườn ra dưới một gốc cây nào đó trong khu rừng “Cám dỗ”. Đừng nhầm lẫn giữa một người sống chậm và một kẻ trì hoãn!
Nếu cuộc đời là một thành phố, và những hạt bụi chính là khó khăn ta phải trải qua, thì có lẽ thành phố nơi tôi đang sống không đến nỗi ô nhiễm hay ngập ngụa trong bụi bẩn, nó vẫn có một ít bụi, nhưng chúng không thể cản trở cuộc sống tốt đẹp của tôi. Từ những hạt bụi cuộc đời, tôi nhìn thấy, hít vào, dùng bộ não và trái tim để thanh lọc và cho ra đời từng con chữ. Có thể nói, tôi không phải là một người từng trải, chỉ là tôi biết cách để trải qua mọi thứ mà thôi!
Và cách tốt nhất mà tôi đã, đang và sẽ áp dụng để không phải hối hận, ăn năn, nhớ nhung, nuối tiếc; để dẹp bớt quá khứ và sống cho hiện tại, đó chính là không bao giờ trì hoãn. Đừng trì hoãn, công việc tốt sẽ đến nhanh hơn. Đừng trì hoãn, bạn sẽ sớm tìm ra người yêu phù hợp với mình hơn. Đừng trì hoãn, bạn sẽ hạnh phúc hơn!